Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 1

Phần 6

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang

 

163. Thư trả lời cư sĩ La Trí Thanh (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư đầy đủ, khoản tiền phóng sanh [ông đã gởi] sẽ dùng vào các món chi phí lặt vặt [cho lễ] phóng sanh, miễn sao chính mình không [đem khoản tiền ấy] dùng vào việc khác thì sẽ không trở ngại gì; cũng không ngại nói rõ với mọi người khi họ tụ tập [tham dự lễ phóng sanh] thì mình lẫn người đều không phải lo nghĩ gì! Quang một mực chẳng chủ trương phóng sanh vào những ngày khánh đản Phật, Bồ Tát và trong những ngày tốt như mồng Một, ngày Rằm. Chuyện này đã thành lệ nhất định không thay đổi được, do có [nhiều] người phóng sanh [trong những ngày ấy] mà những kẻ đánh bắt loài vật sẽ đặc biệt săn bắt nhiều hơn; cũng lắm khi vì [có người] phóng sanh mà họ mới đi bắt! Thói đời phần nhiều háo danh, [người ta ưa] phóng sanh trong những hôm ấy để được tiếng! Lòng người phần nhiều lại hay quen thói làm gì cũng chấp chặt theo lệ: Nếu chẳng phóng sanh trong những bữa ấy sẽ không chịu mua [loài vật] để phóng sanh [trong các hôm khác]. Tuy Quang thường nói với người khác như thế, rốt cuộc cũng chỉ trở thành nói uổng công!

Thêm nữa, cũng chớ nên phóng sanh loạn xạ. Đem thả xuống sông lớn thì không sao; chứ đem thả trong ao, phàm là cá dữ mà cũng thả lẫn vào đó, tức là thả giặc vào chỗ nhân dân tụ tập, lũ cá đều trở thành thức ăn cho nó! Muốn mỗi một việc đều đúng như pháp thì quả thật khó thể làm được. Do vậy, hãy nên cực lực đề xướng “kiêng giết, ăn chay” để làm cách giải quyết từ căn bản; chứ phóng sanh [chỉ là] chuyện thực hiện [hành vi cứu vớt] phần nào nhằm mong sao ai nấy đều cùng thấu hiểu ý nghĩa phóng sanh mà thôi! Nếu tận sức phóng sanh mà chưa thể lập cách phù hợp thì cũng chỉ là công vẫn chưa bù được tội.

Hành động phóng sanh về mặt Sự tuy vì loài vật, nhưng về mặt Ý thì thật sự vì con người. Nếu con người ngưng giết chóc, cố nhiên chẳng cần dùng đến hành động ấy. Nhưng con người tâm ăn thịt càng thịnh, nếu không lập ra hành động ấy; lâu ngày chầy tháng, hành vi dã man ở Phi Châu[1] sẽ lưu hành khắp cõi đời! Há chẳng nên không lập sẵn cách để những kẻ ham giết chóc, ưa ăn thịt kia sẽ cùng sanh lòng răn dè tự phản tỉnh ư? Người phóng sanh chỉ nên mang ý niệm chẳng nỡ sát sanh, chứ đừng so đo con vật [sẽ được thả] ấy có ăn những sanh vật khác hay không! Loài cá phần nhiều ăn cá nhỏ hơn và những loài trùng nhỏ sống trong nước (tiểu thủy trùng). Nếu biện luận như thế thì thả một con cá to ắt hằng ngày nó sẽ giết vô số cá nhỏ và thủy trùng, tức là “thả một, giết nhiều”, vậy là “công ít, tội nhiều!”  Nhưng trút[2], rắn, rái cá, xét đến cùng chẳng có mấy; đã chẳng thể mua hết các sanh vật để thả thì có lẽ cũng nên làm từ từ để khỏi bị kẻ rỗi hơi bàn ra tán vào!

Phóng sanh thì hãy nên lấy việc “chí thành niệm Phật, trì chú cho những con vật ấy” làm gốc. Bất quá, tất cả nghi thức cũng chẳng qua nhằm biểu thị pháp tướng mà thôi! Nếu như có ai khác [hiện diện trong khi phóng sanh], cố nhiên nên dựa theo nghi thức mà làm. Nếu không, chỉ dốc hết lòng Thành niệm Phật là được rồi! Hơn nữa, đối với những con vật sắp được thả, nếu nhằm ngày Hè hãy nên thả cho mau. Nếu câu nệ lề lối, cứ chiếu theo nghi thức để thực hiện, chắc sẽ phải tốn thời gian, bất lợi cho mạng sống [của con vật]. Cư sĩ phóng sanh hãy nên theo cách thức đơn giản. Nếu tâm chân thành, không giả dối, tiếm việt, thì chiếu theo nghi thức để phóng sanh cũng không phải là hoàn toàn không được! Nếu lầm lạc bắt chước theo nghi thức của Tăng sĩ, sẽ trở thành Ngã Mạn! Pháp cố nhiên viên dung, nhưng phải khéo dụng tâm. Tại gia cư sĩ có thể làm lễ phóng Mông Sơn thì cố nhiên [thực hiện] nghi thức Phóng Sanh cũng không trở ngại gì! Nhưng cần phải trọn chẳng mang tâm tiếm việt, ôm ý niệm độ sanh sâu xa thì mới được!

 

Xét ra, trong năm Dân Quốc 22 (1933), tức năm Quý Dậu, chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn khánh thành vườn phóng sanh vừa mới được xây dựng, Đại Sư soạn bài văn bia, cho khắc vào đá đặt trước Bạch Vân Đường, đã nêu tỏ lý phóng sanh không còn sót. Nay chùa Trường Khánh là sơn môn bậc nhất ở Di Sơn, Phước Châu, xây thêm tường vây quanh ao phóng sanh. Xây cất xong xuôi, Đại Sư đã tám mươi tuổi, sức yếu, mắt lòa, chẳng dám phiền Đại Sư viết lách, chỉ kính cẩn sao chép bút tích chân thật từ sáu bài chỉ bày ý nghĩa trọng yếu của việc phóng sanh do Đại Sư đã gởi đến dạy dỗ trước kia, khắc vào đá, đặt bên trái ao. Nguyện những người theo đuổi việc phóng sanh trong hiện tại và vị lai đều cùng cố gắng! (Ngày lành tiết Trọng Xuân năm Canh Thìn - Trung Hoa Dân quốc 29 (1940), đệ tử quy y La Trí Thanh kính cẩn viết).

 

164. Thư trả lời cư sĩ La Trí Thanh (thư thứ hai)

 

Người ăn chay đừng nên ăn trứng gà do nó có mầm sống. Dẫu không có mầm sống, cũng chớ nên ăn vì nó có chất độc. Có người bảo “ở nơi không có gà trống thì trứng sẽ không có mầm sống”, ở nơi đây rất ít [có loại trứng ấy]. Xưa kia, có một người thích ăn trứng gà, lâu ngày chất độc tích lại trong bụng, sanh ra rất nhiều trứng gà và gà con. Các thầy lang chẳng hiểu căn bệnh ấy. Trương Trọng Cảnh[3] bảo nấu tỏi ăn, liền ói ra rất nhiều gà con cùng những con gà đã có lông hoặc không lông. [Ông Trương] bảo bệnh nhân suốt đời đừng ăn [trứng gà] nữa, hễ ăn sẽ không có cách gì trị được. Đủ biết trứng gà gây họa lớn thay!

 

Xét ra, những đệ tử nhà Phật ăn chay ở Phước Châu thường sợ thiếu chất bổ, viện cớ “trứng gà không có cồ, chẳng có mầm sống thì đều có thể ăn được”, quen nết tạo thành phong tục, khiến cho người chẳng hiểu chuyện bị lầm lẫn, gần như phá giới. Vì thế, đệ tử đặc biệt khẩn cầu đại sư khai thị bài này. Hãy nên ấn hành, đăng tải rộng rãi để cảnh tỉnh người khác. Đệ tử La Trí Thanh kính cẩn ghi chú.

 

165. Thư trả lời cư sĩ La Trí Thanh (thư thứ ba)

 

      Thư nhận được đầy đủ. Ông bệnh ngặt đã lành, khôn ngăn mừng rỡ, an ủi. Linh Nham Sơn Tự chuyên tu Tịnh nghiệp, công khóa [hằng ngày] giống hệt như khi đả thất bình thường; thật là chỗ đạo tràng tu hành sốt sắng bậc nhất ở Giang Nam. Hiện thời vận đời nguy hiểm, bất luận là ai đều lấy chí thành niệm Phật, niệm Quán Âm làm chủ yếu để mong tiêu trừ ác nghiệp trước mắt, được vãng sanh Tây Phương khi lâm chung thì có thể nói là “do họa mà được phước” vậy. Nếu không, từ nay về sau, càng khó làm người, bởi cách giết người, hại người không kiểu lạ lùng nào chẳng có, không trốn tránh nơi đâu được! Chỉ có chuyện sanh về Tây Phương là phương kế an thân lập mạng ngàn vạn phần ổn thỏa, thích đáng. Xin hãy nói với khắp hết thảy mọi người thì lợi ích sẽ vừa sâu vừa xa.

Đứa con quý vừa được sanh ra nên đặt tên là Tông Thành. Tông là chủ. Thành là chân thật chẳng dối, tức là “làm sáng tỏ Minh Đức” vậy. Lấy lòng Thành làm chủ thì sẽ có thể sáng tỏ được Minh Đức. Ấy chính là ý nghĩa “Tánh lẫn Tu cùng tỏ, Thể và Dụng đều trọn vẹn, rõ ràng”. Đặt tên như vậy để nó nhìn vào cái tên, nghĩ đến ý nghĩa, sẽ mong chính mình thật sự có [những phẩm đức ấy] ngõ hầu có thể rạng danh gia đình, tự lợi, lợi tha. Pháp danh nên đặt là Khế Giác. Giác chính là Phật Tánh. Chúng sanh do mê nên chẳng khế hợp với Phật Tánh. Khế hợp với Giác thì mê tiêu, giác lộ. Nếu hai cái tên ấy chẳng phạm húy tổ phụ đời trước thì có thể sử dụng suốt đời, chẳng cần phải đặt quan danh[4], tự, hiệu v.v… Thọ Xương Kinh Thiền Sư[5] là người đất Mân, lúc đẻ ra, khó sanh, ông nội bèn ở ngoài cửa sổ niệm kinh Kim Cang, chỉ niệm hai chữ “Kim Cang” đã an nhiên sanh ra. Ông nội vui mừng, nhân đấy đặt tên là Huệ Kinh, đến tuổi đội mũ (nhược quan) cũng không đặt tên khác. Về sau xuất gia cũng chẳng đặt tên khác. Ngài chính là một vị cao tăng thời Vạn Lịch nhà Minh.

Do vậy biết nữ nhân khi sanh nở hãy nên chí thành niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, không một ai chẳng an nhiên sanh nở. Phải niệm ra tiếng, chớ nên niệm thầm! Những người săn sóc bên cạnh cũng niệm ra tiếng, chớ nên nói “lúc sanh nở lõa lồ chẳng sạch, nếu niệm sợ mắc tội lỗi!” Cần biết rằng: Lúc ấy là lúc liên quan đến tánh mạng, do không làm sao khác được; chứ không phải như lúc bình thường có thể cung kính mà lại ngạo mạn, coi thường, chẳng cung kính, khiết tịnh! Mấy năm trước, Quang trọn chẳng nói đến chuyện này. Về sau lắm phen nghe nói có người do sanh khó mà bị mất mạng và kẻ ngu hễ trong nhà có người sanh nở thì người thường ngày niệm Phật chẳng dám ở trong nhà, phải đợi hơn cả tháng mới dám quay về, cho rằng “hễ bị huyết tanh xông nhằm, những công lao trước kia sẽ mất sạch!” Lời lẽ nhảm nhí bậy bạ ấy thật là đáng thương xót. Vì thế, mấy năm gần đây tôi thường nói với người khác. Những người hành theo đó, không một ai chẳng ứng nghiệm, đủ biết Bồ Tát thật là đại từ bi.

 

166. Thư trả lời cư sĩ La Trí Thanh (thư thứ tư)

 

      Người thông minh trong cõi đời thường muốn làm kẻ được ngàn đời tôn sùng, rốt cuộc đến nỗi học thuyết lệch lạc, tà vạy, tạo dựng những thuyết kỳ dị, khiến cho người đời sau bị lầm lạc, gây chướng ngại cho thánh đạo. Thuở đương thời được mọi người đều suy tôn, [tới khi] độc khí của học thuyết ấy phát tác mạnh mẽ mới biết loại học thuyết ấy quả thật đã ngầm vun quén cội rễ họa hại gần một ngàn năm trước! Trình - Châu xiển dương Nho tông, chuyên chú trọng chánh tâm thành ý, phàm “nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi” đều cho là không có. Lại nói “hễ có làm gì để làm lành thì không phải là thiện thật sự!” Bọn họ muốn [làm ra vẻ] khác hẳn với Phật; vì thế, những nhà Nho đời sau một mực đề cao thuyết ấy! Đã không có nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi, thì thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, mọi người đều trong mê, trong mộng, đến nỗi phong hóa cõi đời ngày một đi xuống, chánh nhân ngày một hiếm hoi. Đến khi gió Âu vừa thổi tới thì hết thảy những chuyện “xô đổ lễ giáo, vượt lý, phạm phận” đều được miệt mài đề xướng, muốn cho khắp cả cõi đời đều cùng thực hành. Nếu Trình - Châu chẳng bài xích nhân quả luân hồi, những nhà Nho đời sau đều truyền bá, vâng giữ [nhân quả, luân hồi], dẫu gió Âu dữ dội đến đâu đi nữa, ai chịu theo những tà thuyết ấy? Do vậy, nói rằng: “Cội rễ họa hại của các thảm kịch hiện thời quả thật bắt nguồn từ việc Trình - Châu đả phá, bài xích nhân quả luân hồi!”

Nay muốn cho gia đình, xã hội bảo tồn được đạo đức xưa kia thì phải lấy đề xướng nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi làm nhiệm vụ cấp bách. Biết nhân quả, luân hồi, tin nhân quả, luân hồi, dẫu là kẻ tầm thường cũng có thể thành ý chánh tâm. Chẳng tin nhân quả, luân hồi, dẫu là kẻ thiên tư thượng đẳng như Trình - Châu vẫn chẳng thể hoàn toàn thành ý chánh tâm! Vì sao nói thế? Bọn họ nhờ Phật học để làm sáng tỏ tâm pháp của thánh nhân, nhưng lại ngược ngạo báng Phật; tâm ý ấy còn có thể là chánh, là thành được nữa chăng? Hay là tà, là ngụy vậy? Bọn họ muốn khác biệt với Phật nên đều mạt sát những sự lý nhân quả báo ứng của thánh nhân, biến thuyết “cách vật trí tri” của thánh nhân thành chuyện phù phiếm, không thiết thực! Chẳng phải họ hoàn toàn không biết “đoạn trừ vật phiền não sẽ đạt đến chân tri sẵn có”, chỉ vì chẳng muốn mang hơi hướng giống với nhà Phật nên lập ra thuyết ấy, nghịch kinh trái thánh cũng lớn lắm! Tâm ấy, ý ấy đều là vì muốn cho thiên hạ hậu thế suy tôn chính mình, vọng tưởng được gọi là “người trực tiếp kế thừa mối đạo”. Nếu chưa thấy được mối họa của gió Âu, ai dám nói những thuyết của bọn họ có những tội khiên như thế?

Quang muốn các ông ai nấy đều đề xướng “nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi” nhằm làm căn cứ để vãn hồi thế đạo nhân tâm; do vậy bèn suy xét từ cội nguồn, nói ra nguyên do của nỗi họa hại trong thời gần đây. Quang nói lời này chẳng phải phô phang ý kiến ức đoán của chính mình, xằng bậy bàn luận cổ nhân, mà quả thật là do tâm bình khí hòa chuẩn theo lý, chuẩn theo tình mà bàn luận. Sợ lỡ ra các ông chẳng biết dốc sức [nơi đâu] nên mới khích lệ, khơi gợi vậy!

 

167. Thư trả lời cư sĩ La Trí Thanh (thư thứ năm)

 

      So với những người khác, thầy thuốc hoằng dương Tịnh nghiệp dễ dàng hơn. Nếu sẵn chí lợi người sẽ liền có thể tu hành ngay, đâu cần phải lánh đời ẩn dật dài lâu mới có thể tu hành được? Quang muốn ẩn dật lâu dài là vì tinh thần chẳng đủ nên mới bàn đến chuyện ấy, chứ không phải chỉ cầu lợi cho chính mình, chẳng muốn làm lợi cho người khác! Vợ và con gái cùng tu, quả thật là khuôn mẫu tốt đẹp “học đạo tại gia” vậy! Nếu phong thái này [được lưu truyền] trong một làng, một ấp, ắt sẽ có người thuận theo, phụ họa, nối tiếp nhau thực hiện. Trong cõi đời hiện thời, chớ nên manh nha ý tưởng xuất gia, vì tại gia thuận tiện hơn, xuất gia đâm ra lại bị vướng mắc, trở ngại, chẳng được tự tại!

 

168. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ nhất)

 

      Nhận được thư, khôn ngăn thở dài sườn sượt. Học thuyết lầm người [dữ dội] hơn nước lũ, mãnh thú! Các tiên sinh bên Lý Học đọc kinh Phật qua loa, lấy những nghĩa quan trọng [trong kinh Phật] để hoằng dương đạo Nho. Họ biết Phật pháp cao sâu, sợ tất cả những kẻ thông minh đời sau đều theo Phật pháp hết nên đặc biệt bịa chuyện vô căn cứ để ngăn trở, bảo: “Phật nói nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi chính là căn cứ để mê hoặc kẻ ngu. Nhà Nho chúng ta chỉ cần trọn nghĩa, trọn phận, thành ý, chánh tâm là được rồi! Nếu có làm gì để làm lành thì chính là tư dục, chính là cầu lợi, chính là ác, chẳng khác gì cái tâm lén lút trộm cắp của phường tiểu nhân”. Những lời lẽ ấy tợ hồ đúng nhưng [thật ra] là sai! Khổng Tử bảy mươi tuổi vẫn muốn trời cho sống thêm mấy năm nữa, muốn học Dịch để mong tránh khỏi lỗi lớn; bởi lẽ kinh Dịch dạy rõ đạo “tăng trưởng tốt lành, tiêu tan xui xẻo”, khiến cho con người hướng lành tránh dữ, hòng biết đường cư xử trong chỗ “không có điều tốt lành nào để hướng đến, không có điều xui xẻo nào trốn tránh được”. Ấy gọi là “làm sáng tỏ Minh Đức để đạt tới chỗ tận thiện”. Đấy là chuyện thuộc về thân phận thánh nhân, dẫu là bậc đại hiền vẫn còn chưa làm được. Do vậy, Tăng Tử sắp mất mới nói: “Dè dặt kinh sợ như vào vực sâu, bước trên băng mỏng, từ nay trở đi, ta biết tránh khỏi!” Chưa đến khi sắp mất, vẫn phải từ sáng đến tối gắng sức, chỉ sợ có điều chi thiếu sót!

Những gì bọn Lý Học đã nói chính là đem bản lãnh sâu thẳm của thánh nhân buộc hết thảy mọi người đều cùng [thực hiện] như thế, nhưng họ lại hoàn toàn vứt bỏ, chê bai không dùng đến pháp khiến cho người ta gắng sức mong mỏi đạt được những điều ấy ([pháp vừa nói ấy] chính là sự lý nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi). Vậy thì những lời lẽ ấy chỉ tạo lợi ích cho một hai người, nhưng gây họa hại “dẫu hết sạch trúc cũng không ghi chép được!” Do vậy, những người đọc sách đời sau trọn chẳng chú trọng học đạo của thánh hiền, chỉ học văn tự để giúp [tăng thêm] mưu mẹo, mánh lới. Từ đấy, những chuyện nghịch trời, hại lý, tổn người, lợi mình, giết dân, hại vật, trộm ngọc, cắp hương đều cốt sao đắc ý, cứ buông lung, chẳng kiêng nể chi! Xưa kia còn chưa đến mức quá đáng, gần đây do gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, những chuyện phế kinh điển, phế luân thường, bỏ mặc lòng hiếu, không hổ thẹn, phạm thượng, làm loạn, họa nước, ương dân đều được những kẻ có thế lực lớn cực lực đề xướng. Xét đến gốc họa, quả thật do Lý Học đả phá bài xích nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi v.v... ngấm ngầm gây nên. Do một ngàn trăm năm qua con người chẳng chú trọng chuyện này (tức nhân quả v.v…), dẫu có một số ít biết cũng chỉ khăng khắng [vâng giữ] trong tâm, trọn chẳng dám công khai đề xướng chuyện này. Vì thế, đến khi gió Âu vừa thổi qua, liền như gió đùa cỏ rạp. Nếu như mọi người đều cùng hết sức sốt sắng nơi những chuyện nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi v.v… tuy gió Âu dữ dội vẫn giống như thổi vào người sắt, trọn chẳng thể lọt vào được!

      Tiết Tĩnh Lan cũng là người thông minh, có túc căn, đã vướng vào nghiệp duyên trộm ngọc v.v… mà còn đắc ý, cho là thú phong lưu tao nhã; vừa nghe những lời nhân quả, báo ứng v.v… liền ôm lòng hối hận, tiếc nuối khôn cùng! Do vậy, biết rằng những tội lỗi ấy phân nửa do chính mình, phân nửa là do bọn Lý Học đả phá pháp “dè dặt, kinh sợ, tự phản tỉnh, suy xét” gây ra. May là ông ta vẫn còn biết tốt - xấu, sanh lòng hổ thẹn lớn lao, kiền thành trì niệm Phật hiệu, hồi hướng cho những người đã từng bị ông ta làm ô nhục, hòng tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn: Người còn sống sẽ nghiêm ngặt giữ đức hạnh làm vợ, người đã mất sẽ siêu sanh Tịnh Độ thì dâm nghiệp của mình lẫn người đều tiêu diệt, vun trồng Tịnh nghiệp sâu xa cho mình lẫn người.

Sáng sớm hôm nay, khi [ông Tiết] lên công khóa, ngồi niệm Phật, phảng phất thấy một người con gái lõa thể đứng trước mặt, tuổi chỉ mười ba, mười bốn, một lúc lâu sau mới biến mất, tâm trộm ngờ vực. Tảng sáng, cơm sáng được đưa đến cửa quan phòng [của Quang] có phong thư kèm theo, liền xé ra đọc, mới rõ nguyên do. Tôi nghĩ chắc là [cô gái ấy] vì chuyện đó mà chết, đặc biệt đến cầu [ông Tiết] siêu độ. Do vậy, chẳng ngại dài dòng nói tới tận gốc. Ông ta đã phát tâm quy y, nay đặt pháp danh cho ông ta là Đức Hinh. Đức là Minh Đức, tức cội nguồn tâm địa. Hinh chính là nén giận, ngăn dục, đánh đổ ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, ngõ hầu chân tâm sẵn có chẳng bị nhơ bẩn bởi những vọng niệm tham - sân - si v.v… xấu ác, thường được công đức Giới - Định - Huệ trừ khử cho sạch hết những vọng niệm. Công phu “làm sáng tỏ” đã đạt thì Minh Đức bèn phô bày trọn vẹn lớn lao, rạng ngời. Vẫn cần phải nỗ lực tu trì, đừng nên thoạt đầu siêng năng, cuối cùng lại lười nhác, thì sẽ do nhân duyên ác này mà phẫn phát đại chí, tự lợi, lợi người, sẽ thấy sống thì dự vào bậc hiền thánh, mất lên cõi nước Như Lai. Thành Phật hay đọa địa ngục đều do một niệm này!

      Chuyện đạo viện sợ các ông chưa biết rõ nguyên do; bọn họ dạy người khác làm chuyện tốt và tụng kinh, niệm Phật thì cũng được. Còn như bảo Tam Giáo một nhà (Tam giáo một nhà, há lẽ nào không có tôn - ty, già - trẻ!) và đạo được bọn họ rốt ráo coi trọng đều là luyện đan, vận khí! Thật ra, họ mượn những chuyện tụng kinh niệm Phật để chiêu dụ lòng người. Pháp được họ chú trọng chính là đạo luyện đan vận khí. Đạo ấy lại hết sức bí mật, dẫu cha - con, vợ - chồng đều chẳng được nói ra. Lại còn nói: “Lục Tổ truyền pháp lộn xộn, đem pháp truyền cho người tại gia. Vì thế, hòa thượng đều không có chân pháp. Chân pháp đã về tay bọn ta”.

Danh mục ngoại đạo trong thế gian tuy có trăm ngàn vạn thứ, nhưng xét đến “chân đạo” được bọn họ coi trọng đều là đạo luyện đan vận khí! Luyện đan, vận khí cũng có chỗ tốt, nhưng cũng có chỗ xấu. Vận khí đúng cách thì thân thể nhẹ nhàng, mạnh mẽ, tăng thêm tuổi thọ; nói đến chuyện thành tiên thì may ra còn có thể, chứ nói liễu sanh tử thành Phật thì đúng là nói càn! Vận khí không đúng cách sẽ sanh ra ghẻ chốc, mụn nhọt, mù mắt, điếc tai, cũng thường thấy xảy ra. Hơn nữa, đạo luyện đan vận khí bất quá là nâng cao Thận thủy, giáng Tâm hỏa, nhưng bọn họ đặc biệt dùng những lời lẽ thần bí như là “Khảm - Ly giao cấu, anh nhi - xá nữ giao cấu”[6]. Do có những danh từ ấy, người chánh đáng cũng mượn những thứ đó để biểu thị pháp ấy, kẻ cuồng vọng khó khỏi vẽ rắn thêm chân. Khi truyền đạo bèn đóng chặt mật thất, phía ngoài cắt người tuần tra, một thầy một trò ngầm bảo ban nhau. Nếu như tâm [thầy] ôm tà niệm thì khi truyền đạo cho nữ nhân, bèn giảng “Khảm - Ly giao cấu, anh nhi - xá nữ giao cấu” chính là thực hành giao cấu! Thoạt đầu, [nữ nhân học đạo] chưa chắc đã là dâm nữ, nhưng do bọn chúng bày vẽ đủ cách để gợi dục, lại thêm tưởng lầm hành dâm với thầy là được truyền đạo! Đáng thương biết bao nữ nhân vô tri mắc phải nỗi ô nhục ấy, mà vẫn tưởng là [được truyền] đạo! Đúng là tội ác lớn đến cùng cực!

Năm Dân Quốc 11 (1922), kế mẫu của Hộ Quân Sứ[7] Hà Phong Lâm ở Thượng Hải tới núi xin quy y, Quang dạy quy y với bậc cao nhân, bà ta không chịu. Quang nói bà ta lập một nữ đạo viện, bên ngoài tuy mang danh là Tam Giáo một nhà, nhưng thật ra là chú trọng thiêu luyện[8]. Đã thế còn cầu cơ, [những điều ấy] đều chẳng hợp với tông chỉ Phật pháp. Bà ta nói: “Chẳng dùng đến công phu ấy mà cũng chẳng cầu cơ. Trước khi ra đi, con đã nói với người ta là lên núi xin quy y. Nếu [quy y] chẳng được, sẽ bị người ta chê cười. Phàm những gì thầy nói, con đều xin hành theo!” Tôi bèn đặt pháp danh cho bà ta. Trong thế gian, chỗ nào mà chẳng có người tốt, chỗ nào mà chẳng có kẻ xấu! Bất quá, những kẻ lập pháp thuở đầu ấy đã sớm lập được một pháp có thể làm chuyện tồi tệ dễ dàng, đến nỗi những kẻ xấu dựa vào đấy để tạo nghiệp, đáng đau, đáng thương quá!

      Chuyện cầu cơ đều do linh quỷ nương theo tri thức của người phò cơ để nói, mà phần nhiều cũng do chính người hầu cơ tự đẩy cơ để viết ra [những bài cơ bút]. Không phải là hoàn toàn không có chân tiên, nhưng trong trăm ngàn lần mới ngẫu nhiên có một lần [chân tiên] giáng đàn; còn như nói là Phật, Bồ Tát [giáng đàn] thì toàn là giả mạo! Nhưng kẻ cầu cơ phần nhiều khuyên người làm lành, dẫu chẳng chân thật, nhưng do họ đã khoác cái danh làm lành nên so với những kẻ công khai làm ác còn tốt hơn một chút! Lại còn có thể chứng minh có những chuyện quỷ thần, họa - phước v.v… khiến cho người ta kiêng sợ. Vì vậy, chúng ta cũng chẳng tiện cố ý công kích, hiềm rằng họ nói ra những điều chẳng cần biết là có hợp với Phật pháp hay không (người hơi biết Phật pháp cầu cơ thì cơ bút liền nói những điều thiển cận gần giống với Phật pháp, kẻ chẳng biết Phật pháp cầu cơ thì cơ bút toàn là nói nhăng nói càn). Rốt cuộc phần nhiều “tưởng mắt cá là minh châu”, hoại loạn Phật pháp, gây hại thật lớn (người thật sự biết Phật pháp quyết chẳng phụ họa chuyện cầu cơ. Phật chế ra Tam Quy tức là đã răn nhắc phân minh tường tận, huống hồ những nghĩa lý sâu xa hơn ư?)

Vì thế, phàm là đệ tử Phật chân thật chớ nên tùy tiện tán đồng. Những điều vừa nói trên đây là để nói với hai người bọn ông, chớ nói ra công khai, sợ kẻ vô tri cho là tôi bịa chuyện để hủy báng người khác thì chẳng những vô ích mà còn có hại! Phật pháp không bí truyền, Phật dạy con người vạn hạnh đều tu, chẳng bỏ sót một mảy thiện nào, nhưng lại răn cấm luyện đan vận khí vì tông chỉ của nó trái nghịch Phật pháp. Phật dạy người ta trước hết phải thấy thấu suốt cái thân này, bọn họ lại dạy con người giữ gìn thân này, coi thân là thật có! Bọn họ vẫn cứ rêu rao đã thật sự lãnh hội được chánh pháp nhà Phật; do vậy biết bọn họ đều là lầm lạc, cuồng vọng!

 

169. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ hai)

 

      Thư của Trí Thượng chắc đã giao tới nơi rồi! Lệnh tổ mẫu[9] túc nhân sâu dầy, nên vừa được khuyên liền hành ngay. Xét đến cảnh tượng lúc cụ lâm chung, thật đáng an ủi cho bọn ông. Nếu lời lẽ “đảnh đầu lạnh đi sau cùng” chẳng phải là bịa đặt, chắc chắn cụ được vãng sanh. Nhưng phận làm con cháu, hãy nên thường mang lòng dẫn dắt cho thần thức [người đã khuất] được an vui. Đừng nói “cha mẹ đã vãng sanh, bọn ta cần gì phải cầu siêu nữa!” Nên biết rằng hễ cha mẹ đã khuất rồi, các quyến thuộc đều phải nên chí thành niệm Phật để cầu [cha mẹ] chưa vãng sanh liền được vãng sanh, đã vãng sanh sẽ tăng cao phẩm vị. Điều này chẳng những hữu ích cho cha mẹ, mà quả thật còn hữu ích cho chính mình. Do chuyện [báo hiếu cho] cha mẹ ấy mà làm cho các quyến thuộc gieo đại thiện căn xuất thế, so với những kẻ chỉ biết tu trì cho chính mình thì công đức càng thù thắng hơn, bởi lẽ tâm hiếu thuận cha mẹ phù hợp với chánh nhân Tịnh nghiệp do đức Phật đã lập. Mong ông hãy nói rõ với mẹ, cô, vợ, con, anh em trai, chị em gái của ông ý nghĩa này thì cái chết của bà nội ông chính là hiện thân tiếp dẫn các quyến thuộc của ông vậy!

      Người đời nay phần nhiều chuộng hư danh, chẳng trọng thật hành, thường cáo phó, bày vẽ cho hết sức đẹp đẽ, mong được người khác nhìn vào [xuýt xoa khen ngợi] coi đó là vinh dự, chứ chẳng chịu sốt sắng niệm Phật để cho cha mẹ thật sự được hưởng lợi ích “liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh” chân thật và quyến thuộc trong hiện tại ai nấy cũng đều gieo nhân vãng sanh khi lâm chung. Há chẳng phải là ham danh ghét thật đó ư? Xin ông hãy sửa đổi uốn nắn thói tệ trong đời gần đây thì may mắn lắm thay!

 

170. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ ba)

 

      Mạo Thiện Phủ đã có nhân duyên ấy, hãy nên khuyên ông ta sốt sắng niệm Phật cầu sanh Tây Phương, để mong được vĩnh viễn lìa khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Nếu vẫn chẳng chịu phát tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì sẽ hèn kém hơn mọi người, Phật cũng chẳng thể cứu được! Dẫu đời này chẳng bị đọa vào địa ngục ngay, nhưng một hai ba bốn đời sau bị đọa địa ngục vẫn là chuyện quyết định chẳng thể trốn tránh được. Con người chỉ vì chưa thấy nỗi khổ này, lại chẳng tin lời Phật và những điều sách vở đã ghi chép xưa nay nên không thuận theo lời chỉ dẫn. Ông ta may mắn đích thân được thấy, thật sự biết “quả thật có chuyện ấy!” Nếu không có pháp để thoát khổ thì chẳng biết làm sao, nhưng nay đã có pháp Tịnh Độ mà vẫn chẳng chịu tu thì là cô phụ ân đức Phật, trời quá lắm!

 

171. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ tư)

 

      Mạo Thiện Phủ bảy mươi mốt tuổi phát tâm quy y, cũng có thể nói là đã có thiện căn từ đời trước. Nếu đời trước ít vun bồi, thọ chưa đầy bảy mươi mốt tuổi đã qua đời, há chẳng trở thành sống uổng chết phí ư? Cả một đời sống uổng chết phí mà vẫn không có cơ duyên gặp gỡ pháp môn Tịnh Độ thì sẽ đời đời sống uổng chết phí! Nghĩ tới điều này, khôn ngăn mừng cho Thiện Phủ và sợ cho hết thảy mọi người! Mong hãy chuyển giao tất cả khai thị cho ông ta. Lại hãy nên tận lực khuyên [ông ta] sốt sắng niệm Phật để có thể vượt ngang ra khỏi thế giới Sa Bà, siêu sang thế giới Cực Lạc!

 

172. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ năm)

 

      Gần đây do giảo chánh, đối chiếu sách Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ hoàn toàn chẳng được rảnh rỗi; vì thế, dứt tuyệt hết thảy những chuyện giao tiếp với người khác. Hiện thời, bản in [sách Thống Kỷ] chữ to theo khổ chữ Tam Hiệu Tự đã được sắp chữ xong. Loại này sẽ được in trước hai vạn bộ, mỗi bộ gồm bốn cuốn, ba trăm năm mươi mấy trang. Lại cần phải sắp chữ cho ấn bản theo khổ chữ Tứ Hiệu Tự in bằng giấy báo để thanh niên học sinh cùng mua đọc được. Sách này trừ phi không đọc, chứ hễ ai đọc đến đều được lợi ích. Minh Châm có thể ăn chay niệm Phật, hãy nên dạy cô ta trọn hết chức phận người mẹ; chức phận người mẹ là như thế nào? Chính là khéo dạy dỗ con cái, đừng để cho con quen thói kiêu căng. Những đứa con cái không ra gì trong cõi đời đều là do mẹ chúng chẳng trọn hết chức phận làm mẹ mà ra! Nếu mẹ hiền thì:

1) Một là con được thừa hưởng tánh khí ấy;

2) Hai là con sẽ nhìn theo cách cư xử của mẹ.

Đấy chính là dùng thân để lập giáo vậy. Kế đó, dạy cho con biết đạo làm người như hiếu - đễ - trung - tín - lễ - nghĩa - liêm - sỉ. Lại cần phải thiết thực dạy con nhân quả, báo ứng. [Con] đến tuổi đi học, trước hết đem Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn dạy con đọc thuộc; suốt cả đời mỗi ngày phải đọc dăm ba lượt. Lại giảng cho nó những nghĩa chánh yếu thì sẽ như vàng lỏng đổ vào cái khuôn đẹp đẽ, quyết không thể chẳng trở thành món đồ đẹp đẽ! Sự dạy dỗ của mẹ chính là căn bản để bình trị, nhưng người đời đều chẳng chú ý. Cho nên mới có hiện tượng chiến tranh ngày nay, đến nỗi vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Quang chẳng cần phải thuyết pháp cho đứa bé, [chỉ cần] nói với vợ chồng ông cách dạy dỗ trẻ nhỏ thì trẻ nhỏ sẽ tự có thể bắt chước theo khuôn phép, ắt sẽ trở thành chánh khí.

Minh Châm pháp danh là Trí Phạm, nghĩa là dùng thân nêu gương mẫu cho con cái và làm khuôn mẫu cho nữ giới. Nếu khuôn chẳng ra khuôn, mẫu chẳng ra mẫu sẽ có hại chẳng thể nào kể xiết! Nếu có thể đoái tưởng ý nghĩa của cái tên Minh Châm và Trí Phạm thì may mắn chi hơn? Thọ Đức pháp danh là Tông Đức, Thọ Nghĩa pháp danh là Tông Nghĩa. Tông là chủ. Đã gieo trồng (thọ) lại còn chú trọng, giống như trồng cây đã vun quén rồi lại còn phải vun đắp sâu chắc, chẳng bị lay động thì căn cơ vững vàng, sẽ tự được thân cội ngay ngắn, cành lá xum xuê, quả hạt sai trĩu. Đợi đến khi sách Thống Kỷ được in ra sẽ gởi cho ông mấy gói, hoặc gởi sang chỗ ông Thôi Tông Tịnh, xin hãy chia ra đọc. Lại đem những gì tôi đã nói với Minh Châm để bảo cùng hết thảy nữ giới thì cũng là một đại sự nhân duyên để cứu nước cứu dân mà chẳng tỏ lộ dấu vết vậy!

 

173. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ sáu)

 

      Chuyện trong gia đình chỉ có thể dùng tình cha - mẹ, anh - em mà phân giải, chớ nên lý luận “ta đúng, người khác sai!” Anh em bất hòa quá nửa là do cha mẹ yêu thương thiên vị gây nên. Do được yêu thương thiên vị nên chuyện gì cũng đều chiếm tiện nghi. Nếu người anh em bị thiệt thòi chịu nghĩ lùi một bước: “Ví như ta trót sanh trong nhà nghèo, cơm áo, chỗ ở đều không có, còn tranh giành với ai nữa ư? Hơn nữa, tiền bạc do cha mẹ lưu lại, để cho con cái của cha mẹ được hưởng, so với chuyện bị quân binh, thổ phỉ cướp mất sẽ tốt hơn nhiều lắm! Nếu quân binh, thổ phỉ đến cướp, có cách nào để ngăn chặn được hay chăng?”

Lệnh tổ phụ[10] tuy đã đi học, nhưng vẫn hoàn toàn chưa được nghe đến với chuyện “tận tụy thực hiện đạo của thánh hiền”. Cụ vẫn coi [chuyện thua sút anh em] là điều nhục nhã, muốn báo thù nhưng chưa được, trông mong ông sẽ báo thù thay cho cụ. Nếu chỉ hơi nghĩ lại chuyện hiếu hữu với anh em thì sẽ thấy mười mấy năm kiện tụng đáng nhục, chứ chẳng thấy em mình được hưởng nhiều [của cải] hơn là điều đáng hổ thẹn! Đối với lý này, ông cũng chưa hiểu rõ. Nếu vẫn tiếc nuối vì chí hướng báo thù [của chính mình] còn bạc nhược thì cũng đáng than thở lắm đấy! Cần phải biết rằng: Cha - con, anh - em ông bất hòa quả thật là vì ông nội ông chẳng biết hòa thuận với anh em mà cảm thành quả báo ấy! Ông đã sùng phụng Phật pháp, hãy nên nhìn từ luân lý căn bản, hãy niệm Phật cho ba vị anh em của ông nội ông để tiêu trừ cái nghiệp anh em kình chống nhau của họ, để họ cùng được dự vào Liên Trì Hải Hội, cùng chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đấy thật sự là ông đã báo đáp tổ phụ lớn nhất. Còn đối với cha ông, chỉ nên sám hối cho cụ, mong cụ tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng thiện căn, sẽ có sự xoay chuyển ngấm ngầm. Dẫu không xoay chuyển được thì cũng đã tận hết lòng ta rồi!

Đạo yêu thương con chẳng phải là ở chỗ nuông chiều con cháu. Nuông chiều đâu phải là yêu thương [con cháu], mà là làm hại chúng đấy! Tuy do mẹ ông nuông chiều Như Phương, nhưng cũng là vì ông trọn chẳng giảng giải [cho Như Phương hiểu] điều gì nên làm, điều gì không nên làm. Vì thế, cô ta một mực cậy thế ương ngạnh, hung tợn, chẳng chịu bị bó buộc. Mai sau đi lấy chồng, làm sao trọn hết đạo làm vợ cho được? Ông đã muốn cho cô ta gieo thiện căn hòng tiêu thói ác, nay tôi đặt pháp danh cho cô ta là Huệ Hiền. Huệ Hiền tức là như trong cõi tục khen ngợi “nữ nhân hiền hậu, có trí huệ” vậy. Hiền thì hiếu hữu, cung kính, tận tụy. Huệ thì siêng năng, tiết kiệm[11], mềm mỏng, hòa thuận. Có đủ những đức ấy, người sẽ kính, thần sẽ che chở. Lúc sống có thanh danh, khi mất sẽ sanh trong đường lành, cũng rất phù hợp với ý nghĩa cái tên Như Phương của cô ta. Lại còn làm cho con trai, con gái, con dâu v.v… sau này nối tiếp khuôn mẫu tốt đẹp, trở thành bậc mẫu nghi chốn khuê các, khiến cho dấu thơm ấy được truyền mãi tới đời hậu duệ.

Cô ta tuy ương ngạnh, hung tợn, nhưng nói chung vẫn muốn được người ta khen ngợi. Đã có cái tâm muốn được người khác khen ngợi thì chẳng ngại gì nhằm lúc cô ta [cư xử] không đúng pháp sẽ chỉ điểm vạch trần đôi chút. Nếu cô ta có túc căn, chắc sẽ có dịp chuyển biến. Lại còn phải cầu khẩn Quán Thế Âm Bồ Tát, như [phẩm Phổ Môn] đã dạy: “Nếu có chúng sanh nhiều tham - sân - si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát liền lìa được tham - sân - si”. Lại nữa, hễ có ai mắc bệnh nặng đều nên khuyên họ niệm Phật, kiêng giết, ăn chay. Điều này có quan hệ rất lớn với y đạo, nếu chịu làm lợi cho người khác thì so ra [chính mình] càng dễ được lợi ích hơn người khác.

 

174. Thư trả lời cư sĩ Lý Úy Nông (thư thứ bảy)

 

      Đọc thư biết Trí Phạm sanh con trong tháng Năm, bị bệnh nặng; về sau do niệm thánh hiệu Quán Âm mà được lành. Lại còn sanh nở dễ dàng, đứa con tướng mạo đoan chánh. Thật có thể nói Bồ Tát là “bậc cha mẹ đại từ bi”. Một người Hồi Hồi ở Hồ Nam (người theo đạo Hồi Hồi quy y chỉ có một gia đình này mà thôi) tên là Mã Thuấn Khanh và vợ cùng con cái năm sáu người đã quy y trước đây. Giữa Thu năm ngoái gởi thư đến, nói bà vợ sanh hai đứa con đầu còn khỏe, chứ về sau mỗi lần sanh con đều bị băng huyết đáng sợ lắm. Nay không lâu nữa sẽ sanh, hỏi có biện pháp nào không? Quang dạy vợ chồng họ cùng niệm thánh hiệu Quán Âm. Thư gởi đến, ngày hôm sau bà ta liền sanh, trọn chẳng bị những chuyện khó sanh, băng huyết! Về sau, [ông ta] gởi thư đến cảm tạ, nói rõ nguyên do.

Cần biết rằng: Muốn cho con cái hiền thiện, nếu không tích lũy công đức, lợi người, lợi vật, sẽ chẳng thể được! Đừng nói “tôi không có tiền của, chẳng thể tích đức lợi người!” Cần biết rằng: Giữ tấm lòng tốt, nói lời lành, làm chuyện tốt, gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, gặp anh nói nhường, gặp em nói kính. Phàm gặp hết thảy mọi người đều khuyên họ trọn hết bổn phận của chính mình; lại còn nói với họ thiện - ác, nhân quả, sanh tử, luân hồi, khiến cho lòng họ kiêng sợ, nhất định sửa lỗi hướng lành hòng trở thành người lương thiện. Lại còn nói với họ về lợi ích của Phật pháp, khiến cho họ tín phụng tu trì. Phàm gặp ai bệnh nặng đều bảo họ niệm Phật và niệm Quán Âm. Phàm gặp phụ nữ, đều dạy họ niệm sẵn, để chẳng đến nỗi vì sanh nở mà phải chịu khổ hay mất mạng. Dạy hết thảy những người ấy đừng tạo sát nghiệp, giữ lòng từ thiện, lợi người lợi vật chính là lợi mình, hại người hại vật còn quá hơn hại mình. Những điều như thế há cần phải có tiền tài mới làm được ư? Nếu gia đình dư dả thì cũng nên đem tiền tài làm công đức.

Thêm nữa, ông nên bảo Trí Phạm: Con cái hiền thiện quá nửa là do mẹ un đúc, nuôi nấng, dạy dỗ. Người mẹ vừa nói ấy chính là khuôn mẫu cho con cái. Nếu chỉ biết nuông chiều [con cháu], mặc kệ cho nó quen thói, dẫu đứa có thiên tư tốt đẹp cũng đều học theo thói xấu, huống là những đứa vốn chẳng tốt ư? Đấy là trách nhiệm của nữ nhân, so với nam giới càng đặc biệt  sâu nặng hơn! Ông may mắn có ba trai một gái, sẽ vì tổ tông rạng danh gia đình do khéo dạy dỗ con cái, vì con cái tích lũy công đức để cầu Phật - trời che chở, nghĩ nhớ. Nay đặt pháp danh cho đứa con thứ ba của ông là Tông Đạo. Đạo là cội nguồn của lẽ trời, tình người, là chuẩn mực của hết thảy mọi pháp. Nếu có thể lấy việc đề cao đạo làm điều chánh yếu thì nhỏ là nhất cử nhất động, lớn là “sáng tỏ Minh Đức, đạt đến chí thiện” đều có thể do đây mà đạt được!

Con tuy còn bé nhưng đặt tên như vậy để mong cho nó lớn lên sẽ nhìn vào cái tên, nghĩ đến ý nghĩa, ắt sẽ mong Danh phù hợp với Thật mới thôi. Đời đã loạn đến cùng cực rồi! Chẳng dốc sức nơi giáo dục trong gia đình sẽ khác nào dựng lầu gác trên hư không, nhất định chẳng thể đạt được hiệu quả. Muốn cho con cái của chính mình tốt đẹp thì phải sốt sắng dạy dỗ con trai, con gái đang độ tuổi thơ ngây, dạy cho chúng nó biết có “đạo làm người” của thánh nhân và “thiện - ác, nhân - quả quyết định chẳng sai”, mở tung những ngăn chặn [khiến cho đường đời của chúng] trở thành con đường bằng phẳng. Mong ông hãy đem những ý này nói với Trí Phạm, lại cũng nên nói với hết thảy mọi người. Đấy gọi là “nhất ngôn hưng bang” (một lời khiến cho đất nước hưng thịnh) vậy!

 

175. Thư trả lời cư sĩ Mạo Thiện Phủ

 

      Cổ nhân nói: “Bất vi lương tướng, tất vi lương y” (Chẳng làm lương tướng, ắt làm lương y) vì thầy thuốc cứu được người. Cần biết rằng: Phật là Đại Y Vương, trị được các bệnh nơi thân tâm con người và bệnh sanh tử. Ông đã bảy mươi mốt tuổi, tiếc rằng thuở trước chẳng biết đến duyên do của Phật pháp, nay may mắn biết được, cũng chớ nên xót xa vì được nghe trễ tràng. Chỉ nên tích cực sanh lòng tin phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chớ nên cầu phước báo trời - người. Cần biết rằng: Đức Phật mở ra pháp môn Niệm Phật chỉ mong cho hết thảy chúng sanh có thể sanh về Tịnh Độ ngay trong đời này. Nếu con người thuận theo lời Phật để tu ắt sẽ có thể cậy vào Phật từ lực, vãng sanh Tây Phương; so ra còn dễ dàng hơn sanh vào những chỗ đại phú, đại quý. Vì sao vậy? Do tuân theo lời Phật dạy, Phật ắt rủ lòng Từ gia bị.

Nay đặt pháp danh cho ông là Chí Tích, nghĩa là tự mình đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành, nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Lại còn dùng những điều này để dạy quyến thuộc trong nhà và làng nước, bầu bạn cùng hết thảy những ai quen biết, để họ đều biết đến pháp môn Niệm Phật do đức Phật đã nói khiến cho họ liền có thể hoàn toàn thoát khỏi trọn vẹn căn bệnh sanh tử lớn lao ngay trong đời này, như kinh Thi có câu: “Hiếu tử bất quỹ, vĩnh tích nhĩ loại” (Hiếu tử chẳng nghèo khó, vĩnh viễn ban cho ngươi). Ông có thể dùng pháp này để tự hành, dạy người, chính là hiếu tử của Di Đà Như Lai; do chính mình đã tu trì, người khác đều tin nhận, tức là đã ban phát tạo lợi ích rộng khắp cho muôn loài. Mong hãy nhìn vào cái tên, nghĩ đến ý nghĩa, sẽ đích thân đạt được lợi ích thật sự. Những điều khác hãy đọc kỹ Gia Ngôn Lục, Văn Sao sẽ tự biết, cho nên không cần phải nói nhiều. Nếu không có [những sách ấy], xin hãy dựa theo giá để thỉnh từ Hoằng Hóa Xã chùa Báo Quốc.

 

176. Thư trả lời cư sĩ Đông Hải

 

      Pháp môn Tịnh Độ dùng tín nguyện sâu, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, chớ nên phát nguyện cho đời sau và đời đời kiếp kiếp. Có nguyện ấy sẽ chẳng thể quyết định vãng sanh được! Trong hết thảy pháp môn cũng có người liễu sanh tử ngay trong đời này, nhưng chẳng qua là một hai người trong ngàn vạn người! Do vậy, cần phải phát nguyện đời đời kiếp kiếp. Ông nói “tới tận đời vị lai đới nghiệp vãng sanh”, lời lẽ ấy rất sai tông chỉ Tịnh Độ. Ngay trong đời này liền cầu Phật [rủ lòng] Từ tiếp dẫn đới nghiệp vãng sanh; sao lại nói “tới tận đời vị lai?” Hành đạo Bồ Tát thì nên lấy “tới tận đời vị lai” làm hạn, chứ nay tu Tịnh Độ sao lại lấy tận đời vị lai để vãng sanh?

Ông tuy đọc Văn Sao, vẫn chưa biết nguyên do của pháp môn Tịnh Độ. Nay tôi gởi cho một cuốn Tịnh Độ Ngũ Kinh, một bộ Văn Sao, một bộ Tịnh Độ Thập Yếu, một bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, một cuốn Sức Chung Tân Lương. Đọc những sách này, những điều ẩn tàng trong pháp môn Tịnh Độ sẽ đều được nêu rõ hết ra. Nay đặt pháp danh cho ông là Khế Hải, nghĩa là dùng nhân tâm (cái tâm trong lúc tu nhân) niệm Phật của chính mình để trên là khế hợp với biển giác do Như Lai đã chứng. Lại còn phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Hãy nên khuyên cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ con và xóm giềng, làng nước, thân thích, bằng hữu cùng tu pháp này, cùng cầu vãng sanh.

Đối với Tam Quy Ngũ Giới, hãy đọc những điều đã nói trong Văn Sao để tự thệ thọ giới trước Phật, nhưng mỗi mỗi đều cần phải chân thật thì mới được. Đời có những kẻ hiếu danh, chuyện gì cũng muốn giả mạo cái danh, chuyện gì cũng chẳng tu thật hạnh, chẳng biết Danh là khách của Thật, Thật đã đầy đủ thì tự nhiên có Danh, cần gì phải cố ý chèo kéo, mong cầu? Chèo kéo, mong cầu cái danh một thời chắc sẽ sướng tai khoái mắt người ta, nhưng về sau ắt sẽ bị người người thóa mạ. Chuyện gì cũng lấy lòng Thành để làm, chắc chắn sẽ có kết quả tốt. Kẻ dùng thói hư giả để làm, chỉ là tự mình dối mình đó thôi! Người thế gian còn chẳng nên lừa dối, huống là [lừa dối] Phật, Bồ Tát ư?

Pháp môn Tịnh Độ chẳng thể dùng đạo lý của kinh Kim Cang và đạo lý của Thiền Tông để bàn luận; nếu luận định mỗi pháp riêng biệt thì hữu ích, chứ nếu luận định lẫn lộn sẽ bị tổn hại. Chắc là vì ông đã từng xem bản chú giải [kinh Kim Cang của] năm mươi ba vị thiện tri thức[12] nên mới có kiến giải ấy, cho nên tôi phải nói toạc ra. Pháp môn Tịnh Độ không gì lớn lao ở ngoài được! Đẳng Giác Bồ Tát muốn thành Phật Quả vẫn phải dùng mười đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương, huống là hết thảy Bồ Tát và những người học đạo kém cỏi hơn ư? Quang già rồi, mùa Đông năm ngoái ban đêm giảo chánh sách dưới ánh đèn điện, mắt bị tổn thương, liền cự tuyệt hết thảy. Phàm ai gởi thư đến đều nói “từ nay đừng gởi thư đến nữa, gởi đến quyết không trả lời vì mục lực chẳng thể thù tiếp được!” Những điều cốt yếu của Tịnh Độ thì do Ngũ Kinh, Thập Yếu, Thánh Hiền Lục mà sẽ có thể biết đầy đủ. Chớ nên thuận theo những kẻ ham cao chuộng xa hiện thời cầu minh tâm kiến tánh và thành Phật ngay trong thân này, ắt sẽ có thể đích thân chứng đắc như lời đức Phật đã dạy. Đối với Gia Ngôn Lục, Một Lá Thư Trả Lời Khắp hãy nên hết sức chú ý vì trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều có thể dùng pháp ấy để tạo lợi ích cho hết thảy mọi người. Những điều khác chẳng phải nói nhiều nữa!

 

177. Thư trả lời cư sĩ Trần Phi Thanh (thư thứ nhất)

     

      Trước đây do cư sĩ Trương Bá Ngạn nhắc đến các hạ sẵn chí thiết tha lợi người, muốn mở đạo tràng ở Tân Giang, cậy Quang soạn lời sớ và thương lượng, châm chước biện pháp và [chọn lựa] Trụ Trì v.v… Biết các hạ vốn thừa nguyện tái lai, làm đại đạo sư cho khắp mọi nhân sĩ vùng Tân Giang để họ biết đạo xuất thế, sống làm người ba nghiệp thanh tịnh, mất dự vào hội hiền thánh cõi Cực Lạc. Nhưng do Quang hèn kém, chẳng dám đem một chữ nào quấy nhiễu ông! Ngày hôm qua, thầy Hóa Vũ đến nói đạo tràng Cực Lạc[13] xây dựng đã hoàn tất, khôn ngăn hoan hỷ tột cùng. Các hạ lại gởi thư chỉ dạy, Quang khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Các hạ muốn bái cao tăng làm thầy, hãy nên chọn một vị đạo đức cao siêu; sao lại lầm lẫn chọn Quang là một ông Tăng hèn kém chỉ biết cơm cháo, ngỡ là cao tăng, muốn thờ làm thầy vậy?

Ông lại nói đã đọc Văn Sao Sơ Biên, năm ngoái Tân Giang Lưu Thông Xứ (phòng phát hành kinh sách ở Tân Giang) đã thỉnh hơn một trăm bộ Văn Sao mới in, nào biết các hạ chưa thấy, nay gởi cho ông một gói, xin hãy tra xét thâu nhận. Thêm nữa, hai cuốn Tam Đại Sĩ Thực Lục, trong ấy phần nhiều là những lời thuộc về Thiền cơ, chớ nên hiểu lầm. Tịch Tà Tập[14], Kiến Văn Lục[15] được in chung thành một tập, [gởi cho ông] hai cuốn. Chớ nên để người thiếu hàm dưỡng đọc Tịch Tà Tập, do hiện tại người nước ngoài thế lực lừng lẫy, sợ [người đọc] y theo sách đó tranh luận [với bọn giáo sĩ hay tín đồ Tây Dương] chắc sẽ đến nỗi mang họa! Kiến Văn Lục thì nên tìm cách lưu thông để người ta biết nhân quả, chẳng dám làm chuyện phải thẹn với lòng. Giản Ma Biện Dị Lục và Tam Thập Nhị Tổ Truyện, mỗi thứ hai bộ. Những sách ấy do Thanh Thế Tông (Ung Chánh) biên soạn, từ lẫn lý đều viên diệu, như tẩu bàn châu[16], như báu Ma Ni, khiến cho người ta khôn ngăn khâm phục, ngưỡng mộ. Quang đặc biệt giảo chánh, cho khắc in, lưu hành. Nhân duyên đã trình bày cặn kẽ trong lời tựa, nhưng người đời nay cố nhiên nên chuyên tu Tịnh nghiệp thì mới được lợi ích liễu sanh thoát tử thật sự. Nếu chẳng tự lượng, lầm lạc muốn học đòi bậc đại nhân thời cổ tự lực liễu thoát, sợ rằng hễ một phen sai lầm sẽ thành vĩnh viễn sai lầm.

Bộ Văn Sao của Quang tuy thô kém, vụng về, nhưng ý đều tuân theo những lời khuôn phép của Phật, của Tổ, trọn chẳng phải là những ý kiến bịa đặt. Nếu chẳng chê bỏ là hèn vụng, cố nhiên không gì là chẳng có ích. Tam Đại Sĩ Thực Lục, Tịch Tà Tập, Biện Dị Lục, Tam Thập Nhị Tổ Truyện xin hãy tự giữ một phần, một phần đưa cho pháp sư Đàm Hư. Đối với chuyện quy y, xin hãy châm chước lại. Nếu không, chắc sẽ đến nỗi sau khi quy y, nhận ra tôi chỉ biết ăn cơm húp cháo, ắt hối không kịp. Vì thế, Quang vẫn dùng đạo bạn bè để đối xử với các hạ, chẳng dám bàn đến chuyện làm thầy - trò!

 

178. Thư trả lời cư sĩ Trần Phi Thanh (thư thứ hai)

 

      Thư nhận được đầy đủ, chỉ nên thường niệm Phật, không gặp Quang có thiếu sót gì đâu! Xin hãy quyết định cùng với quyến thuộc trong nhà đều cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tây Phương. Đấy chính là nhân duyên khó được trong ngàn đời vạn kiếp. Hơn hai trăm đồng ông muốn biếu Quang đã bảo đem làm công đức tại Tuyên Giảng Đường và tại địa phương ấy. Mùa Thu năm sau, Quang chắc chắn quy ẩn, không có chỗ nhất định, sẽ tùy ý ở Nam - Bắc - Tây - Đông, trọn không [ở nơi nào] nhất định để khỏi bị thư từ làm phiền!

 

179. Thư trả lời cư sĩ Trần Phi Thanh (thư thứ ba)

 

      Thư nhận được đầy đủ. Đã muốn thờ ông Tăng chỉ biết cơm cháo làm thầy, tuy có bậc cao minh vẫn chẳng chịu chuyển sang cầu [quy y với] vị ấy, đấy chính là do đời trước có nhân duyên với nhau mà ra! Cố nhiên, đối với Quang, chẳng có chuyện có thể hay không thể. Thoạt đầu Quang không đồng ý là vì sợ sau này cư sĩ mang lòng hối hận. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Hải. Ông tên là Hãn, Hãn chính là tên khác của biển. Một niệm của chúng sanh và một niệm của Phật không hai, do mê chưa ngộ nên toàn bộ trí huệ đức tướng biến thành phiền não nghiệp khổ. Tâm vốn là một, do mê - ngộ sai khác nên khổ - vui khác biệt! Do vậy, biết một niệm tâm tánh vốn là biển trí huệ công đức. Do phiền não chướng lấp, không có trí huệ chiếu tỏ thì toàn thể biến thành biển phiền não nghiệp khổ. Nay dùng trí huệ giác chiếu thì biển phiền não nghiệp khổ liền biến thành biển trí huệ công đức. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Vô Ngại Trí đều được hiện tiền”. Do vậy biết trước tiên hết, chỉ có trí huệ là trọng yếu. Có trí huệ thì toàn vọng tức là chân, không trí huệ thì toàn chân thành vọng! Ý nghĩa của Huệ Hải là như vậy đó, như thế đó!

Hơn nữa, nơi địa vị phàm phu mà muốn đạt “Chân cùng, Hoặc tận” (thấu đạt tận cùng chân tánh, trừ sạch phiền não) cũng chẳng dễ dàng đâu! Nhưng đức Như Lai muốn cho hết thảy chúng sanh cùng được liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này nên đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức ít, đạt hiệu quả nhanh chóng, lấy vạn đức hồng danh của Như Lai để huân tập vô minh nghiệp thức của chính mình. Lâu ngày chầy tháng tập quen thành tánh, sẽ ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Đấy gọi là “dùng Quả địa giác làm Nhân địa tâm; vì thế được nhân trùm biển quả, quả thấu nguồn nhân”. Pháp môn mầu nhiệm không chi hơn được điều này (lúc niệm Phật, nhiếp tai lắng nghe thì chẳng đến nỗi hết sức tán loạn. Nhất tâm khẩn thiết thì sẽ ít bị hôn trầm).

Nói đến việc trì giới, trước hết phải giữ được hai câu giới luật khái lược của Phật. Giới ấy như thế nào? Chính là “đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành”. Hai câu ấy bao trùm hết thảy giới pháp, trọn chẳng sót chút nào! Đấy chính là câu trích từ Giới kinh của Như Lai; trong Âm Chất Văn, Văn Xương Đế Quân dẫn câu này; đừng bảo “câu này vốn phát xuất từ Âm Chất Văn!” Hai câu này nếu nhìn hời hợt dường như chẳng đặc biệt, lạ lùng gì, nhưng nếu kiểm điểm nơi khởi tâm động niệm, giữ được hoàn toàn không phạm thì người ấy đã thâm nhập cảnh giới thánh hiền rồi!

Công khóa hằng ngày nên chiếu theo công phu của chính mình mà định. Trong Văn Sao, qua lá thư gởi cho ông Trần Tích Châu, tôi đã kể ra ba thứ, chia thành “hết sức bận rộn, bận rộn một nửa (tức nửa bận nửa rảnh), không bận rộn” để tự quyết định. Đối với việc trì chú, tụng kinh, hãy nên chuyên chú trọng thành kính. Hãy chiếu theo pháp tắc như Quang đã nói để xem kinh (trong Văn Sao có đoạn văn ấy) thì sẽ tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ. Nếu vừa xem vừa phân biệt, sẽ không có công đức lớn lao gì! Đã quy y Phật pháp, hãy nên kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay; ngay cả đối với gia quyến cũng nên bảo họ ăn chay, vì ăn thịt sẽ kết sát nghiệp, tương lai phải đem thân đền mạng, nỡ để cho quyến thuộc yêu mến mắc phải khổ quả ấy hay sao? (ngay như luận trên phương diện dinh dưỡng, ăn chay có ích, ăn thịt có điều tổn hại). Đối với người bên cạnh, người trong cõi đời, còn nên kính khuyên như thế, huống là vợ con của chính mình ư? Lại cần phải dạy họ cùng nhau bỏ công sức niệm Phật một tiếng đồng hồ vào buổi tối để mong tiêu nghiệp chướng, tăng phước thọ.

Thế đạo hiện thời chính là thế đạo hoạn nạn. Ở trong hoạn nạn chỉ vì nghiệp trói buộc. Nếu có thể niệm Phật sẽ ngấm ngầm chuyển họa thành phước, gặp dữ hóa lành. Đấy là kế sách thật sự thương yêu quyến thuộc hay nhất (khi tịnh tọa chỉ nên niệm thầm Phật hiệu, chớ nên dùng những công phu luyện đan vận khí. Đấy chẳng phải là Phật pháp, mà là cách bảo dưỡng thân thể). Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm! Xét đến cội nguồn của tình thế loạn lạc, chỉ là vì trong gia đình không khéo dạy dỗ đã ươm thành. Phàm con em nhà phú quý phần nhiều không ra gì, nói chung vì quen thói kiêu căng, không được dạy dỗ mà ra! Tôi thường nói: “Dạy con là cái gốc để bình trị, nhưng dạy con gái càng khẩn yếu hơn, vì con gái thuở bé thường ở bên mẹ. Thuở bé được khéo dạy, đến khi xuất giá nhất định sẽ là vợ hiền. Vợ hiền sẽ có thể giúp chồng thành tựu đức hạnh, về sau sẽ thành hiền mẫu. Con người từ thuở bé được hiền mẫu un đúc, nhất định sẽ ‘nghèo cùng thì riêng thân mình thiện, hiển đạt sẽ làm cho thiên hạ cùng thiện’. Công đức lớn nhất trong thế gian không gì bằng khéo dạy dỗ con cái; tội nghiệp lớn nhất trong thế gian không chi bằng chẳng dạy dỗ con cái! Bởi lẽ, con cái hiền lương sẽ có ích cho nước nhà, xã hội; chẳng hiền lương sẽ có hại cho nước nhà, xã hội!”

Ngày nay, thế đạo nhân tâm đã suy hãm đến cùng cực, gần như hết thuốc chữa! May là có lý sự nhân quả báo ứng ba đời do đức Như Lai đã nói vẫn có thể dùng làm căn cứ để vãn hồi. Tôi thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Hãy nên trong là với quyến thuộc, ngoài là với những người quen biết và hết thảy mọi người đều ra rả dùng nhân quả báo ứng để khuyên lơn. Nếu người trong thế gian luôn dè dặt kinh sợ nơi khởi tâm động niệm thì lợi ích lớn lắm! Chuyển công đức ấy để cầu vãng sanh thì phẩm vị ắt cao. Chùa Cực Lạc giảng kinh cũng cần nên xen vào một phần sự lý nhân quả để người vùng Đông Bắc cùng được hưởng lợi ích thật sự!

 

180. Thư trả lời cư sĩ Trần Phi Thanh (thư thứ tư)

 

      Nhận được thư, biết ông tâm nguyện rộng lớn, công phu thuần mật, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Chỉ xin ông nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải mong cầu gặp Quang. Gặp hay không gặp, mặc cho nhân duyên! Nếu đọc kỹ Văn Sao, hành theo đó, chính là thấu hiểu lòng Quang, há chẳng thân thiết như gặp mặt Quang hay sao? Con người hằng ngày khổ sở trong phiền não, vẫn chẳng biết là phiền não. Nếu biết là phiền não thì phiền não sẽ tiêu diệt. Ví như tưởng lầm gã trộm cắp là người nhà thì tất cả của cải trong nhà đều bị hắn trộm mất. Nếu biết là giặc, hắn liền trốn đi. Vàng chẳng luyện chẳng ròng, đao chẳng mài chẳng bén; chẳng từng trải phiền não thì gặp cảnh phiền não tâm thần sẽ tán loạn. Biết nó chẳng có thế lực gì, chuyện nhọc tâm mệt trí nẩy sanh đều do ta tự chuốc lấy.

Kinh dạy: “Nếu biết Ngã Không, ai bị hủy báng?” Nay phỏng theo đó nói: “Nếu biết là vô ngã, phiền não nào sanh?” Thí dụ của ông rất có đạo lý. Cổ nhân nói: “Vạn cảnh bổn nhàn, duy tâm tự náo. Tâm nhược bất sanh, cảnh tự như như” (muôn cảnh vốn nhàn, chỉ có tâm tự rộn. Nếu tâm không sanh, cảnh tự như như). Công khóa vốn đã quen thực hiện, cũng không cần phải sửa đổi, chỉ cần luôn lấy hồi hướng vãng sanh làm chủ.

Niệm Phật nên niệm sáu chữ, hoặc trước hết phải niệm sáu chữ, đến lúc sắp xong niệm bốn chữ. Từ đầu đến cuối niệm bốn chữ, hơi không hợp lẽ, bởi hai chữ Nam Mô có nghĩa là Quy Y, Cung Kính, Đảnh Lễ, Cứu Độ Con v.v… Người ta thường mong lẹ, mong nhiều, nên phần nhiều có kẻ niệm bốn chữ. Thường nghe nói có người chủ trương lợi ích do “chuyên tu”, chỉ dạy người khác niệm bốn chữ, phát nguyện, lễ Phật đều bảo là không cần, tức hoàn toàn là một gã ở ngoài cửa: Chỉ biết chính mình thực hiện công phu, chẳng biết cầu sức từ bi của Phật!

Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông, họ chỉ xét trên mặt Hạnh, nhưng trên mặt Hạnh lại gạt bỏ lễ bái, Hạnh ấy khó thể mười phần khẩn thiết; lâu ngày sẽ thành hờ hững, hời hợt! Xin hãy y theo Văn Sao, đừng y theo lời họ nói. Bọn họ chỉ dựa vào ý kiến của chính mình, chứ không y theo tông chỉ Tịnh Độ. Tâm chúng sanh cần phải dùng đủ mọi pháp lành để điều trị, ví như ăn cơm cần phải kèm theo thức ăn. Chỉ định kỳ đả thất để có thể chuyên trì một câu Phật hiệu. Hết thảy kinh chú đều chẳng cần phải trì tụng, nhưng cũng chớ nên hoàn toàn phế trừ lễ bái và phát nguyện. Trừ khi đả thất ra, vẫn cứ chiếu theo thường lệ trì tụng, đều chẳng trở ngại gì. Người tu hành sợ nhất là thuận theo cái tâm [ức đoán của chính mình] tự lập [ra một đường lối riêng]. Thường nghe nói có những kẻ thiên tư, bẩm tánh vốn tốt đẹp, nhưng kiến thức lệch lạc! Chuyên niệm một đức Phật còn được, nhưng phế bỏ lễ bái, phát nguyện v.v… là lầm lẫn lớn lắm!

Ông không cần bế quan, chỉ tự tu ở nhà là được rồi. Hiện thời, quân lính, giặc cướp nhâu nhâu, ông thường ở trong nhà, những kẻ nhỏ mọn, không ra gì chẳng đến nỗi sanh lòng khác lạ. Nếu ông thường không ở nhà, bọn chúng sẽ thừa dịp sơ hở trộm cắp và cướp đoạt, đáng lo vô cùng! Sư Đàm Hư đặc biệt giữ ông lại, chẳng tính đến điều này, cũng là không hiểu sự việc cho lắm. Ngàn vạn phần chớ nên lìa rời khỏi nhà, ở tại nhà suất lãnh thê thiếp, con cái, dâu, cháu v.v… cùng tu; công đức ấy lại càng thù thắng nhiều hơn.

 Quang trải đời sáu mươi tám năm, tuy sở học Phật pháp chưa thể trội hơn người khác, nhưng lo liệu sự việc so ra có phần suy xét kỹ càng hơn người khác đôi chút. Ông đã tin Quang, chớ nên thuận theo cái tâm tưởng là đúng![17] Chỉ nên tu tại gia, ngàn vạn phần chớ nên bế quan trong chùa Cực Lạc. Ngay cả đả thất cũng chớ nên đả thất trong chùa Cực Lạc, do lúc này chẳng thể luận theo lúc thời thế thanh bình được! Nếu nhằm thời thế thanh bình, tuy không lo xảy ra chuyện ngoài ý muốn, cũng khó dẫn dắt quyến thuộc cùng gieo thiện căn. Đợi tới tháng Nhuận, Quang sang Thượng Hải sẽ gởi cho ông mấy gói Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải do ông Hoàng Trí Hải biên soạn. Hằng ngày, khi rảnh rỗi, hãy nên bảo ban quyến thuộc thì mọi người đều cùng sanh lòng tin tu Tịnh nghiệp để mong cùng sanh về Tây Phương. Tướng lành khi lâm chung không cần phải mong mỏi sẵn. Chỉ cần lúc thường ngày niệm sao cho tương ứng với Phật thì lâm chung tự nhiên được theo Phật vãng sanh mà thôi!

 

181. Thư trả lời cư sĩ Tế Thanh

     

      Hôm nay cư sĩ Trần Hạc Niên tới đây, cầm theo thư ông và “Phê bình về Bát Thức trong Phật Học”, khôn ngăn khiến người ta phải thở dài. Ông học Phật nhiều năm, do lời Cẩm Hán mà ngờ vực kinh Phật và cổ đức nhiều đời “có lẽ có những chỗ không được thỏa đáng!” Tức là trở thành “tin đạo nhưng không chuyên dốc!” Ông ta cực lực đả phá ba tên gọi của tám thức[18], cho là sai lầm, chỉ nghĩ [các thức ấy do] động lực mà biến đổi, tự cho rằng mình có thể sửa đúng những chỗ sai ngoa trong kinh Phật từ trước đến nay! Cái tâm hiếu danh có thể nói là đến mức cùng cực! Lại còn chẳng biết xấu hổ, không thẹn thùng, cũng có thể nói đến mức cùng cực không chi hơn được nữa! Ông ta gọi tuốt Chân Như Phật Tánh là “hậu thiên vật”, chẳng hiểu tâm tánh, chỉ biết vật chất, đáng thương thay! Ông tuổi gần bảy mươi, chuyên tinh niệm Phật sợ còn không kịp, rảnh rang đâu để hỏi đến chuyện này! Há lẽ nào lời nói của phàm phu đời sau lại đâm ra hay hơn lời Như Lai nói mà đợi hắn ta đính chánh đó ư?

Nói đến chuyện thọ Tam Quy Ngũ Giới, hãy nên theo cách đối trước đức Phật tự thọ như đã được nói trong lá thư gởi cho bà Từ [trong bộ Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên]. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Thanh, nghĩa là dùng trí huệ để thanh tịnh cái nghiệp của mình lẫn người khiến cho lúc sống thì làm bậc thánh hiền, mất lên cõi Cực Lạc. Đối với việc giáo hóa người khác, hãy tùy phận tùy sức mà khơi gợi dẫn dắt. Hãy nên kể với họ chuyện người thuở xưa đời nay niệm Phật có công hiệu, ngõ hầu họ sẽ dễ nhận lãnh. Nếu chẳng chú ý điều này thì đúng là trò cười cho bọn họ.

Hơn nữa, tuổi ông đã già lụn rồi, tháng ngày chẳng còn mấy, hãy nên nói với gia quyến về lợi ích niệm Phật và lợi ích do trợ niệm khi lâm chung, nỗi tổn hại do bị phá hoại [chánh niệm]. Hãy chiếu theo những điều đã được nói trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục để bảo với bọn họ sao cho họ biết sẵn, ngõ hầu chẳng đến nỗi khi ông lâm chung [họ sẽ] thể hiện lòng hiếu kiểu “đã té xuống giếng còn bị quăng đá”. Lại nên viết ra một chương trình, thỉnh hai ba người cùng chí hướng chứng minh, để khi ông sắp chết đừng bị [quyến thuộc] phá hoại chánh niệm, hòng thành tựu chánh niệm. Mất rồi, đừng sát sanh để khỏi tạo thêm nghiệp lụy cho ta. Nếu chẳng làm như thế, thiên địa quỷ thần ắt sẽ giám sát. Dùng những điều ấy để uốn nắn tri kiến thế tục, ngõ hầu chánh niệm rỡ ràng, theo Phật vãng sanh.

Những lời phê bình bậy bạ về Bát Thức do ông gởi tới, tôi đã thay ông đốt đi rồi, vì thế không cần gởi tới nữa. Bởi lẽ, dẫu ta chẳng bị loại sách ấy xoay chuyển thì tâm cũng phân vân, chắc đến nỗi nẩy sanh phiền não! Viết ra điều này, mong ông hãy sáng suốt soi xét. Người bạn ông đọc Gia Ngôn Lục bèn nghi Tịnh Độ, đấy là do ác nghiệp đời trước mà ra. Nay tôi dùng một ví dụ: Như con giòi trong nhà xí, [cảm thấy] vui sướng không chi bằng. Nếu nói với nó ngoài hầm xí còn có lầu đài nhà cửa hết sức thanh tịnh, rộng rãi, nó có tin được hay không? Dẫu có kẻ nhiều chuyện, chẳng ngại thò tay bắt nó ra khỏi nhà xí, dùng nước trong, nước thơm lần lượt gột rửa nó, cũng chỉ thành ra khiến cho nó mau chết mà thôi! Đối với ông ta, hoàn toàn chẳng được lợi ích gì nơi [Gia Ngôn Lục] cũng giống như vậy đấy! Các ông là một bọn phàm phu, ngay đối với chính mình mà còn hoàn toàn không biết (chỉ bậc đại triệt đại ngộ mới có thể nói là “biết được chính mình” mà thôi) mà vẫn nói lời chư Phật, lời chư Tổ hoằng truyền, lời đề xướng, dẫn dắt của các vị đại thiện tri thức đều chẳng chân thật, là ngụ ngôn để gạt người. Thật đáng gọi là “tâm thô, mật lớn”, chẳng sợ sau này bị đọa vào địa ngục Kéo Lưỡi sao? “Toàn chân thành vọng” là ước theo tâm chúng sanh mà nói. Ví như nước do gió động mà thành sóng, toàn thể nước biến thành sóng. Gió lặng thì toàn thể sóng biến thành nước! “Toàn chân thành vọng”, hễ trái ngược với vọng thì “toàn vọng tức là chân”. Ông thông minh, nhưng thật ra là ngu si!

 

182. Thư trả lời cư sĩ Ngọc Trưởng

 

      Niệm Phật nên niệm nhỏ tiếng hoặc niệm thầm, chớ nên một mực dốc sức lớn tiếng niệm. Nếu không, ắt sẽ bị bệnh. Hãy nên lắng lòng tịnh niệm, đừng ham niệm gấp! Muốn hỏa tắt, mắt sáng thì đấy chính là pháp mầu nhiệm để hỏa tắt, mắt sáng! Ông quy y Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo, muốn cầu thọ cho cha mẹ, hãy nên chí thành niệm Phật, hoặc niệm kinh Phật, há nên cầu Táo Vương (ông Táo), tụng Táo Vương Kinh? Vua bếp là thần, còn kém Ngọc Hoàng rất xa. Ngọc Hoàng còn kém La Hán rất xa, La Hán kém Phật rất xa. Ông đúng là một gã hồ đồ, chẳng niệm Phật hiệu để cầu thọ cho cha mẹ, lại niệm Táo Vương Kinh, thí tặng Táo Vương Kinh! Táo Vương Kinh là kinh do kẻ phàm tục ngụy tạo. Đệ tử Phật niệm thứ kinh ngụy tạo ấy chính là tà kiến, nhưng do ông thành tâm nên cũng chẳng thể nói là không có công đức, nhưng vẫn chỉ giống như một giọt sương. Công đức niệm Phật giống như sông to, biển cả. Ông không biết niệm Phật cũng đáng thương xót thay! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, từ nay vĩnh viễn không muốn ông gởi thư đến nữa. Gởi đến quyết chẳng trả lời, mong hãy sáng suốt suy xét. Một Bức Thư Trả Lời Khắp hãy xem xét kỹ, hành theo đó thì công đức lớn lắm!

 

183. Thư trả lời cư sĩ Phó Huệ Giang

 

      Nhận được thư, thấy hình chụp của Ngọc sư (sư Ngọc Trụ), khôn ngăn nghĩ tới thuở xưa và hiện thời mà thương cảm! Quang già rồi, mục lực chẳng đủ. Bài tụng đã soạn ý nghĩa không châu đáo, nét chữ không ra lề lối gì, chỉ biểu lộ lòng Thành của tôi mà thôi. Từ nay không có chuyện gì quan trọng, đừng gởi thư tới. Người học Phật làm thầy thuốc, hễ gặp người bệnh nặng đều nên lấy chuyện tiêu trừ túc nghiệp làm chánh, dạy người bệnh ăn chay, niệm Phật và niệm Quán Âm. Nếu [do nghiệp nhân] đáng được lành bệnh, chắc chắn sẽ chóng lành. Nếu tuổi thọ hết, chắc chắn được chết tốt lành, chẳng đến nỗi mong sống không được, cầu chết không xong. Những điều khác đã nói tường tận trong Một Bức Thư Trả Lời Khắp.

 

184. Thư trả lời cư sĩ Dương Thận Dư

 

      Thư nhận được đầy đủ, cảnh tượng khi cha ông lâm chung vẫn còn tốt. Hãy nên thường niệm Phật cho cụ, cầu cho cụ chưa được vãng sanh liền được vãng sanh, đã vãng sanh liền cao thăng phẩm sen. Còn như ông nhiều năm [cho đó là chuyện] hoang đường, chẳng sanh lòng tín niệm là do túc nghiệp của ông [gây ra]; mà cũng là do lúc ông còn bé, cha mẹ chẳng thật sự bỏ công giáo huấn ông về luân lý, nhân quả, [cho nên ông] “thường thường bậc trung” cũng không ra “thường thường bậc trung”, mà giỏi giang cũng không thành giỏi giang. Vì vậy, con người vui mừng vì có cha anh hiền đức. Nay ông may mắn biết sai, sửa lỗi, cũng là do thiện căn từ đời trước. Hãy nên chú trọng trọn hết bổn phận làm cha mẹ đối với con cái thì con cháu nối tiếp nhau đều là người hiền, không bị chìm đắm trong đường hiểm như thế nữa.

Ông nói đến chuyện “hễ lễ bái bèn có các thứ rung động và trong chốn tối tăm có đốm sáng xẹt ra”, đấy đều là vì ông căng thẳng tinh thần quá mức mà nên nỗi. Từ nay hễ lễ tụng chỉ chí thành khẩn thiết là được rồi, bất tất phải căng thẳng tinh thần. Tâm hãy nên tưởng hướng xuống phía dưới, hoặc tưởng ngồi trên tòa sen. Chỉ tưởng nơi hoa sen đang ngồi, trọn chẳng cần so đo thân mình có ở trên hoa sen hay không. Lâu ngày những tập khí hư phù ấy sẽ tiêu diệt không còn nữa! Có hiện tượng ấy phần nhiều là vì [cái tâm] bộp chộp, lao chao mà ra, còn chưa dụng công mà đã muốn mau được thành tựu! Kẻ chẳng biết tốt - xấu tưởng [những hiện tượng rung động, đốm sáng xẹt ra] là công phu [đắc lực], sẽ bị ma dựa phát cuồng. Nhưng đối với cảnh giới tốt cũng chẳng sanh lòng vui mừng, đối với cảnh giới xấu cũng không sanh lòng kinh sợ. Hễ kinh sợ thì tà ma bèn thừa dịp, hễ vui mừng ắt trước hết sẽ bị mất chánh niệm. Ông vẫn là loại tiểu tử khinh cuồng, [cho nên] ngày nay có tướng ấy. Nhắm mắt cũng là cái gốc gây ra bệnh! Từ nay chẳng những không nhìn chi khác mà cũng đừng nhắm mắt. Bình thường niệm Phật quyết chớ nên niệm quá gấp gáp. Hễ gấp sẽ bị tổn khí. Hễ tổn khí chắc sẽ có chấn động. Cũng đừng niệm quá rề rà, quá rề rà chẳng tiếp hơi được, cũng dẫn đến tổn khí.

Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện, phẩm Phổ Môn, kinh Kim Cang đều nên thọ trì. Hoặc mỗi ngày trì mỗi thứ một biến, hoặc hằng ngày chỉ trì một loại, luân phiên trì tụng. Học chú Lăng Nghiêm hay không đều tùy ý. Cần nên biết: Bất luận tụng kinh hay trì chú đều phải lấy cung kính chí thành làm gốc, đều phải hồi hướng Tây Phương cho khắp bốn ân ba cõi pháp giới chúng sanh thì lợi ích lớn lắm. Như kẻ vô tri trong thế gian chuyện gì cũng vì mình thì lợi ích sẽ thuận theo tâm lực mà hèn kém. Ví như một ngọn đèn đem thắp cho trăm ngàn ngọn đèn khác, ánh sáng của ngọn đèn ấy trọn chẳng bị tổn giảm. Nếu chẳng thắp cho ngọn đèn khác, ánh sáng của nó cũng chẳng tăng mạnh hơn và sáng lâu hơn được! Khi hồi hướng hãy nên biết đến ý này. Chẳng những vì cha mẹ, ân nhân của chính mình mà [hồi hướng] như thế, ngay cả đối với oán gia cũng [hồi hướng] như thế thì mới có thể trên khế hợp với tâm Phật, dưới kết các duyên, giải các oán thù.

Mẹ ông có ăn chay được hay không? Đừng nghĩ đem huyết nhục phụng dưỡng mẹ là tận hiếu. Cắt đùi người khác để thể hiện lòng hiếu, đấy là đại nghịch, huống là giết hại ư? Chính mình cũng nên kiêng giết, ăn chay. Nếu nói “ở trong giới buôn bán, mọi chuyện chẳng tiện” thì đấy là vì miệng bụng chưa quên được [cảm giác thỏa thích khi ăn thịt]. Nếu chẳng mong mỏi vị ngon thì rau xanh, dưa muối một hai thứ, chẳng lẽ người ta không bằng lòng  xếp dọn cho ông ư?

Nói đến chuyện vọng ngữ thì chẳng được coi hệt như nhau. Nếu chuyện không quan trọng khẩn yếu thì vẫn chưa phạm lỗi lớn; chứ nếu là chuyện quan trọng khiến người khác bị hỏng việc thì quyết chẳng thể [nói dối]. Chuyện nặng đã không nên làm, cớ sao đối với chuyện nhẹ lại đặc biệt làm? Do vậy biết rằng: Gọi là “vọng” vì hoàn toàn xuất phát từ vọng tâm.

Ông muốn quy y, nay đặt pháp danh cho ông là Tông Thận. “Thận” tức là giữ gìn, nuôi dưỡng tấm lòng phản tỉnh, quán sát, khắc chế ý niệm. Xưa kia do mất niệm nên thành cuồng, nay há chẳng thể khắc chế ý niệm để thành thánh ư? Tâm thể của thánh hay cuồng vốn tương đồng, nhưng tâm tướng, tâm dụng của thánh và cuồng khác biệt vời vợi như trời với đất. Cho nên nói: “Thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh”. Mạnh Tử nói: “Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu - Thuấn; dĩ Nghiêu - Thuấn chi sở dĩ vi Nghiêu - Thuấn, hiếu đễ nhi dĩ” (Ai cũng có thể là Nghiêu Thuấn. Sở dĩ Nghiêu - Thuấn có thể trở thành Nghiêu - Thuấn chỉ vì hiếu đễ mà thôi!) Phật dạy: “Nhất thiết chúng sanh giai đương tác Phật” (hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật). Ví như một trang giấy trắng, vẽ hình Như Lai thì chính là Như Lai, vẽ hình kẻ ăn mày thì là ăn mày! Hãy nên thận trọng từ lúc ban đầu sẽ chẳng đến nỗi trên là cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới chẳng phụ bạc tánh linh của chính mình.

Cõi đời gần đây nguy hiểm muôn phần, hãy nên khuyên người nhà niệm Phật và niệm Quán Âm để làm kế dự phòng. Đối với mẹ ông, hãy nên cực lực khuyên cụ chuyên tu Tịnh nghiệp, cầu sanh Tây Phương. Quang già rồi, tinh thần chẳng đủ, chớ nên thường gởi thư đến. Thường đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục thì chẳng cần phải viết thư xin khai thị. Nhưng đấy là ước theo chuyện tu Tịnh Độ mà nói; nếu không giết chết cái tâm vọng tưởng, cứ muốn làm một vị đại thông gia, mong ở trước mặt người khác tuyên nói, phô diễn trí thức của chính mình thì chuyên theo một vị pháp sư chắc vẫn chưa thể mãn ý, huống là mấy cuốn sách ấy ư? Trộm sợ rằng ông không thể làm một vị đại thông gia được, mà sự tu trì của ngu phu ngu phụ cũng bỏ luôn thì kết quả chẳng thể nào tưởng tượng nổi đâu! Xin hãy rất cẩn thận!

 

185. Thư trả lời hai vị cư sĩ Liễu Phàm và Dã Công

 

      Thư và truyện sư Ngọc Trụ đều nhận được cả. Truyện ấy văn từ tường thuật sự việc quá rườm rà, nhưng cũng không trở ngại gì. Chỉ có Thiên Lãng và ma vương ngoại đạo sáng lập ra thuyết Lục Bộ Thiền[19], [hai ông] đưa kẻ ấy vào trong truyện thì chắc là kẻ hiểu biết sẽ tưởng thuyết “Lục Bộ Thiền” là cao diệu. Gã ấy còn chưa biết đến hơi hướng nhà Thiền! Nếu biết, sao đã tham thấu triệt [bộ sách] thứ nhất rồi lại cần phải [tham thấu bộ sách] thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm cho tới bộ thứ sáu[20] ư?

Đoạn văn ngầm [so sánh sư Ngọc Trụ] với ngài Trí Giả và đoạn văn so sánh rõ ràng [ngài Ngọc Trụ chẳng kém] ngài Vĩnh Minh chính là đem phàm lạm thánh, tội ấy chẳng nhỏ! Quang sợ kẻ vô tri ai nấy đều bắt chước theo thì Phật pháp sẽ do đấy mà bị diệt, chẳng thể không nói rõ với các ông. Quang suốt một đời chẳng khen xằng người khác, mà cũng hết sức ghét kẻ khác khen ngợi tôi bừa bãi! Các ông do khen ngợi thầy Ngọc Trụ mà nói như vậy chính là bày trò cho kẻ học Phật làm chuyện dối trá, chẳng thể không cẩn thận ư? Báo ân thầy Ngọc Trụ kiểu ấy, nếu thầy Ngọc Trụ biết được, chắc sẽ đau đớn khóc lóc!

Quang đã bảy mươi chín tuổi rồi, hai mươi bữa nữa sẽ tròn tám mươi, hoặc là chết trong năm nay, hoặc phải chịu tội mấy năm nữa! Quang chết rồi chỉ mong các ông sốt sắng dùng pháp môn Tịnh Độ để tự lợi, lợi tha. Nếu lo viết tiểu sử tán dương, soạn văn phúng điếu cho Quang đưa tặng khắp xa - gần thì chính là oán gia của Quang. Quang một đời chẳng nhận tiếng khen rỗng tuếch của người khác, bởi chết rồi sẽ chẳng biết đến tiếng khen xuông nữa; [làm như thế] chính là [mang lòng] lừa dối. Quang chỉ mong từ phụ A Di Đà chịu rủ lòng thương xót, ngoài ra chẳng muốn nghe chuyện gì khác!

 

186. Thư trả lời cư sĩ Hùng Hách

 

      Hằng ngày niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn người đời trước đã khuất được vãng sanh là đủ rồi, cần gì phải đặt pháp danh? [Về chuyện thọ] Ngũ Giới, hãy nên dựa theo cách đã nói trong bức thư gởi cho bà Từ Phước Hiền nơi cuốn một bộ Văn Sao: Ở trước đức Phật lễ bái, tự thệ thọ giới. Theo Luật, [cư sĩ chỉ được phép] đắp loại y năm miếng thẳng, gọi là Mạn Y[21], không có những sọc ngang một dài một ngắn. Người đời nay phần nhiều chẳng đúng pháp, hoặc đắp y năm điều một dài một ngắn, hoặc đắp y bảy điều hai dài một ngắn, đều là trái luật. Ngay cả với Mạn Y đúng pháp, người tại gia cũng chỉ nên đắp khi lễ bái, trì tụng, kính lễ Tam Bảo, chớ nên thường đắp. Y năm điều của người xuất gia trước kia khá ngắn hẹp, giống như một cái khăn bông lớn thường chẳng rời thân, vì thế gọi là Vụ Y (y mặc để làm lụng). Nay thì y năm điều và y bảy điều to rộng như nhau, khi làm việc cũng chẳng thể đắp. Đấy chính là sự khác biệt giữa chế định xưa và nay vậy.

Hiện thời, bất luận là ai đều nên chuyên tu Tịnh nghiệp, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Gần đây do chiến sự dữ dội, càng nên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cho nhiều. Nay tôi gởi kèm thêm một tờ Khuyến Niệm Quán Âm Văn, mong hãy nói với hết thảy mọi người. Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ, lại còn hằng ngày niệm Phật, niệm Quán Âm và chú Đại Bi để cầu chúc cho quốc dân, cầu siêu cho những người đã khuất nên không rảnh rỗi để nói nhiều.

 

187. Thư trả lời cư sĩ Tông Nguyện

 

      Qua các thứ cảnh tượng lúc lâm chung của lệnh thê[22] đã được ghi chép đủ thấy pháp trợ niệm lợi ích lớn lao. Đã biết lợi ích của pháp trợ niệm, sao trong lúc thường ngày chẳng khuyên khắp hết thảy mọi người niệm Phật cầu sanh Tây Phương? Nếu lời ông nói chẳng phải là thêu dệt thì [bà nhà] quyết định vãng sanh. Đối với phẩm vị, do bà ta trọn không có chánh tín, lâm chung chưa từng phát đại Bồ Đề tâm nên sẽ sanh vào Hạ Phẩm. Chớ nói “theo như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã dạy thì người thuộc Hạ Phẩm đều là chúng sanh tạo nghiệp!” Bọn họ vốn là người ác niệm Phật, tức là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, khuyên nhiều lần chẳng tin, thân - miệng - ý đều báng Tam Bảo, đến khi lâm chung sợ chết, nghe nói đến lợi ích của sự vãng sanh Tây Phương mới sanh lòng tin, quyết định sanh trong Hạ Phẩm. Nhưng sanh trong Hạ Phẩm so với sanh lên trời làm thiên đế, thiên vương vẫn còn cao siêu hơn vô lượng vô biên lần. Nghiệp đã siêu phàm nhập thánh, đâu còn thiếu sót chi?

Người đời nay ưa phô trương hư vọng, chuyện này chớ nên làm giả. Hễ bày trò giả dối thì người mất bị tổn hại, mà chính mình cũng mắc tội đem phàm lạm thánh. Hãy bảo lại lời này với các xã hữu, khuyên họ chú trọng tu hành thật sự để là chân Phật tử. Nếu không, sẽ trở thành quyến thuộc ma. Bệnh lao phần nhiều là do thường ăn nằm quá độ mà ra, đến nỗi phải chết sớm. Nhưng lúc chết, nẩy sanh lòng tin và nhờ sức trợ niệm, ấy chính là biến nghiệp nhân duyên thành thiện nhân duyên. Nay gởi Thọ Khang Bảo Giám, Sức Chung Tân Lương, Liễu Phàm Tứ Huấn, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục mỗi thứ một bộ và sớ cầu con, ba điều trọng yếu để cầu con, xin hãy đọc kỹ ngõ hầu con cái sau này chẳng đến nỗi bị chết thảm như thế!

 

188. Thư trả lời cư sĩ La Khanh Đoan (thư thứ nhất)

 

      Bản chú giải kinh Kim Cang của ngài Tông Lặc[23] khá ổn thỏa. Thạch Thiên Cơ[24] tự phụ bản [chú giải của ông ta] rất hay, nhưng thật ra những chỗ trái nghịch kinh nghĩa chẳng thể nêu trọn từng điều được! Ở Nam Kinh, có bản Tâm Kinh được chú giải bởi năm vị thiện tri thức, hãy nên khuyên hết thảy mọi người xem bản ấy. Người ta thỉnh bản chú giải kinh Kim Cang [về đọc] là vì muốn hiểu nghĩa. Đối với Nghĩa lý kinh Kim Cang, nếu chẳng chí thành thọ trì, đọc tụng, dẫu hiểu được ý nghĩa kinh văn thì vẫn như mây mù che lấp mặt trời, chẳng thấy được chân tướng. Hiềm rằng người đời chỉ biết coi trọng chuyện hiểu nghĩa, chẳng biết lợi ích thật sự là do cung kính, chuyên tinh thọ trì!

Mười bảy người cùng nguyện quy y ấy, nay đặt pháp danh cho mỗi người, viết thẳng vào đơn ghi danh. Ông hãy nên bảo họ: Đã phát tâm quy y thì hãy nên nương theo Phật pháp để tu trì. Phàm những pháp luyện đan, vận khí v.v… của ngoại đạo đều nên bỏ hết đi. Nếu vẫn tu tập theo pháp của bọn ngoại đạo ấy sẽ trở thành tội nhân trong Phật giáo, ví như người dân trong nước nương nhờ bọn giặc cướp vậy! Luyện đan, vận khí chẳng phải là không có điểm tốt, đấy là pháp để dưỡng thân. Bọn họ cho rằng đấy là Phật pháp chân truyền, ngược ngạo bảo Phật pháp chẳng bằng pháp của họ. Do vậy, kẻ vô tri tưởng luyện đan, vận khí của ngoại đạo chính là Phật pháp! Cái tội gây lầm lạc cho người khác nặng hơn ưu điểm dưỡng thân trăm ngàn vạn lần! Vì thế, chẳng thể không nói toạc ra để bọn họ khỏi vì hảo tâm mà chuốc lấy quả báo báng pháp, hoại pháp.

Nhân dân hiện thời đang ở trong cảnh nước sâu lửa bỏng, hãy nên niệm Phật, niệm Quán Âm để làm phương cách đề phòng sẵn. Lệnh nghiêm[25] là người thật hiếm thấy trong đời Mạt, đủ nêu gương cho đời. Tôi sẽ sửa chữa bài ghi chép đại lược của Quách Trí Úc để cho lời văn được sáng sủa, gãy gọn hơn. Nhưng gần đây khá bận bịu, chẳng rảnh rỗi lo đến, đợi sau này có lúc rảnh rang sẽ chấp bút. Phận làm con nêu tỏ đức hạnh của cha mẹ thì cần phải chú trọng nơi tận tụy thực hành. Nếu chính mình có thể lập đức, thể hiện lòng nhân thì người khác sẽ tự tôn kính cha mẹ mình là bậc đức hạnh tốt đẹp. Nếu không, người ta sẽ nói: “Người có đức hạnh tốt ắt sẽ có con cháu đáng trọng. Con đã chẳng được như vậy, chắc là [cha mẹ] có điều ác ẩn giấu nên mới thành ra như thế!” Do vậy nói: “Làm rạng danh cha mẹ chỉ do chính mình tận tụy thực hành, chứ không phải do văn tự, lời lẽ”. Nhưng nếu không có văn tự, lời lẽ thì không thể nào làm cho người khác nức lòng. Vì thế, Quang cũng đồng ý viết bài kỷ niệm cho cha ông. Hãy nên đem điều này dạy khắp những kẻ làm con thì lợi ích sẽ lớn lao lắm!

      Mông Sơn thì chiếu theo kinh văn mà đọc, cũng chẳng có gì rất bí mật cả! Đối với việc kết ấn, ngay ở tùng lâm cũng là phô diễn, chứ thật ra chưa dựa theo thật nghĩa mà kết ấn[26], vì thế chẳng cần phải kết ấn!

 

189. Thư trả lời cư sĩ La Khanh Đoan (thư thứ hai)

 

      Chuyện thọ giới nên lấy chí thành sám hối làm chánh. Tự thọ trước đức Phật, Quang thay mặt [Tam Bảo] chứng minh, nhưng quan trọng là ở chỗ phản tỉnh, quán sát nơi khởi tâm động niệm. Phản tỉnh, quán sát được như thế thì sẽ tự có thể “chẳng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành”. Nếu chẳng phản tỉnh, quán sát ở nơi ấy thì tuy có thọ giới vẫn là kẻ thường phạm giới! Trong khoảng tháng Tám, các loại sách sẽ được dần dần gởi tới. Hiện thời thế đạo nhân tâm đã suy hãm đến cùng cực, nếu chẳng tích cực đề xướng nhân quả báo ứng và giáo dục trong gia đình, chắc chắn chẳng có lợi ích thật sự! Giáo dục trong gia đình càng phải chú trọng nhân quả báo ứng. Đấy chính là phương tiện lớn lao để thánh hiền, Phật, Bồ Tát bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh.

Tu trì trong hiện thời chỉ có Tịnh nghiệp thật là bậc nhất. Chớ nên nghe Thiền uyên áo, mầu nhiệm, Giáo uyên thâm, Mật lạ lùng, đặc biệt, mà bị lay chuyển rồi do vậy liền thấy khác, nghĩ lạ, bỏ mất đạo phổ độ chúng sanh của đức Như Lai đến nỗi chính mình vẫn làm kẻ luân hồi trong sanh tử nơi thế giới Sa Bà này; đáng buồn, đáng đau lắm! Ắt nên chuyên tu tịnh hạnh, giải quyết cho xong ngay trong đời này, ngõ hầu chẳng uổng đời này và dịp gặp gỡ này. Chuyện đả thất hãy nên dựa theo chương trình của Thiền Môn Nhật Tụng, bỏ bớt những đoạn kinh văn rườm rà, chuyên chú nơi niệm Phật thì sẽ được lợi ích lớn.

Bát Quan Trai [Giới] lấy “không ăn quá Ngọ” làm Thể. Người đời nay thể chất yếu đuối, lắm bệnh, mà còn đả thất niệm Phật, đấy chính là tinh tấn hành đạo. Lắng lòng tọa Thiền chẳng thể nào sánh bằng được, có lẽ không nên chấp trước! Nếu không, sợ rằng sẽ bị bệnh. Hơn nữa, phương Nam khi đả thất ăn điểm tâm với phân lượng quá nhiều, chẳng những tâm không thể quy nhất, mà thức ăn cũng chẳng dễ tiêu! Hãy nên kiêng ăn nhiều, hai lượt cháo hoặc hai lượt cơm là được rồi. Nói đến chuyện “hôm trước [ngày mở thất] liền trì Bát Quan Trai” cũng không phải là lời bàn luận đích xác. Đã trì vào ngày hôm trước [bữa khai thất] thì trong suốt một thất không nên trì hay sao? Cần biết rằng: Một pháp Niệm Phật sự lý rất sâu, chúng ta lượng theo sức mà làm, chớ nên ép buộc người khác gây khó khăn khiến cho người ta chẳng khởi lên ý tưởng mạnh mẽ; như vậy là được rồi. Chuyện trong thiên hạ lý có nhất định nhưng pháp tùy cơ, chi tiết có thể sửa đổi, nhưng đường lối tổng quát chẳng đổi thì mới mong có thành tựu. Giữ khăng khăng quy củ đã thành lập hay lầm lạc lập ra chương trình mới đều khó thể thâu được hiệu quả. Mong hãy khéo cân nhắc ngõ hầu đích thân đạt được Tam Muội vậy!

 

190. Thư trả lời cư sĩ Huệ Thanh

 

      Ông đã đến tuổi cổ hy (bảy mươi), lại còn phải dạy học kiếm ăn, nhưng cuồng tâm vẫn chẳng dứt! Muốn nghiên cứu Lăng Nghiêm, Thiền Tông, muốn được vang danh “có Thiền, có Tịnh”. Thật có thể gọi ông là kẻ “chưa đến suối vàng chưa chết lòng” (Thế tục nói: “Chẳng đến Hoàng hà chẳng cam lòng”, đấy chính là đã khéo léo dùng Hoàng Hà thay cho hoàng tuyền (suối vàng). Nếu đến suối vàng, dẫu chẳng chịu nguội lạnh tấm lòng thì cũng đành nguội lạnh cõi lòng mà thôi). Những kẻ biết tà thấy lầm hiện thời nhan nhãn khắp thế giới. Ai có tinh thần để biện luận với bọn họ? Đã biết lời phê phán Bát Thức là sai, sao vẫn gởi cho người khác?

Tri thức hiện thời mỗi người đề cao một pháp, ông hãy nên đọc kỹ các sách Tịnh Độ, lấy cổ nhân làm thầy để khỏi đến nỗi bị mê muội. Nếu thân cận những tri thức theo kiểu trẻ trung, hiện đại[27] hiện thời, chắc sẽ có kẻ mê mà chẳng biết mình đang mê! Đối với sách Yếu Giải mà ông còn chưa mãn ý, bảo [ngài Ngẫu Ích] học vấn chẳng bằng ngài Liên Trì, nhưng lũ ta há dám suy đoán xằng bậy sở chứng của cổ nhân ư? Nếu bàn đến chỗ mấu chốt, trọng yếu về mặt nghĩa lý của sách Yếu Giải thì quả thật là ngàn đời chưa hề có. Tàng Kinh Viện có sách Tịnh Độ Thập Yếu, Bảo Vương Luận cũng nằm trong bộ sách ấy, sao lại bảo là tìm [Bảo Vương Luận] không ra?

Bản chú giải Khai Mông[28] có cũng được, không cũng được. Cái học của ngài Thông Trí có chỗ thông mà cũng có chỗ chưa thông. Những bản chú giải cổ của kinh Lăng Nghiêm nhiều vô số, cần gì phải đọc bản Khai Mông ấy? Khai Mông cũng sao lục văn của người xưa, nhưng sư [Thông Trí] sắp xếp không theo thứ tự. Ông thử đọc lá thư gởi cho hòa thượng Tịch Sơn chùa Vạn Thọ trong Văn Sao sẽ hiểu ý. Muốn thấy được đại ý kinh Lăng Nghiêm thì cần phải tìm tòi, phân tích từng câu kinh văn, chú thích tường tận thì mới [thấy rõ ràng] như nhìn vào đường chỉ tay trong lòng bàn tay.

Ông tuổi đã gần bảy mươi mà vẫn chưa hiểu rõ pháp môn Tịnh Độ, cứ si tâm vọng tưởng muốn nghiên cứu Lăng Nghiêm, lại muốn biết mùi vị của Thiền Tông. Đừng nói chưa biết mùi vị nhà Thiền; dẫu biết rồi cũng chẳng thể gọi là “có Thiền”! Sao ông không đọc bài Tịnh Độ Quyết Nghi Luận và Tông Giáo Bất Nghi Hỗn Lạm Luận của Quang vậy? Ông muốn được “có Thiền” thì ông phải nằm mộng! Nếu không, chẳng thể “có Thiền” được! Tâm phải đặt nơi “cầu không thể được”; nếu đích thân thấy được điều này thì may mắn lớn. Nếu không, hãy nhất tâm niệm Phật, niệm đến mức cùng cực sẽ tự biết ngay. Dẫu chẳng biết, nhưng được vãng sanh Tây Phương thì lo gì không biết?

Ông muốn người khác chỉ cho ông [chân tâm] nhất định ở chỗ nào thì chính là kẻ si “dán trụ gảy đàn Sắt”[29] vậy. Ông hoàn toàn chẳng có khí phận Thiền môn, lầm lạc bảo những lời cổ nhân nói như “đem cái tâm [của ông lại đây], ta sẽ an cho ông”[30] là mờ mịt, chẳng sợ mắc tội báng pháp ư? Đấy chính là cổ nhân vận dụng tâm tham cứu đến cùng cực, cho nên từ ngay một lời liền đích thân thấy được bản lai như người uống nước, lạnh - nóng tự biết. Ông dùng cái tâm dò đoán suy lường để lãnh hội nơi văn tự bề ngoài, nên mới cho là mờ mịt, không thân thiết, phân minh! “Thuần tưởng tức phi”[31] nghĩa là bay lên, sao lại lầm lạc bảo là “tâm ở trên đảnh”[32]? Đúng là tri kiến ngoại đạo nói nhăng nói càn! Kinh được dẫn trong Cảm Ứng Vựng Biên chưa từng giảo chánh, đối chiếu, nhưng ý nghĩa chánh yếu là “thiên thần giám sát chẳng hề xa lìa”, cũng chẳng cần phải chấp chết cứng từng câu từng chữ.

“Tâm như nước lặng, gương sáng” là ước theo bản thể để nói. “Gương sáng chẳng phải đài” chính là thánh tình và phàm tình đều tận, Năng - Sở lưỡng vong (chủ thể và đối tượng được nhận biết đều mất). Ông chỉ sợ người khác chấp trước, nhưng [chính ông lại] lầm lạc khác nào vạn dặm. Sách Kim Cang Bàng Chú là do ngoại đạo nói ra, ông coi đó là Phật pháp, đáng than tột cùng! Cái được cầu chính là tâm, nhưng cần phải hiểu được cái tâm ấy thì mới tốt. Nếu không, chẳng những cái được cầu chính là tâm mà ngay cả cái bị buông bỏ cũng chưa hề chẳng phải là tâm! Ngay như làm chuyện giết - trộm - dâm, có bao giờ chẳng phải là tâm? Có thể nói ông [là hạng người] biết nhiều, hiểu nhiều, nhưng đối với chuyện này lại chẳng biết quy hướng về đâu để được thọ dụng! Ông hãy nên chết lòng sốt sắng niệm Phật, đừng làm [ra vẻ] một vị đại thông gia giỏi phân biệt pháp nghĩa kiểu đó, sẽ chẳng uổng đời này, chẳng phí dịp gặp gỡ này. Nếu không, sanh tử xảy đến, vẫn theo nghiệp thọ báo y như cũ! Mong gặp được pháp môn Tịnh Độ lần nữa, e rằng chẳng được may mắn như thế đâu!

 

191. Thư trả lời cư sĩ Hồ Trạch Phạm (thư thứ nhất)

 

      Xem thư gởi đến, có thể nói là “phát đại Bồ Đề tâm để mong mình lẫn người đều được lợi”, nhưng thư viết “tâm lợi mình nhạt nhẽo, tâm lợi người thiết tha” cũng là ngữ bệnh! Chẳng thể tự lợi thì trọn chẳng thể làm lợi lớn lao cho người khác được! Hai điều ấy hãy nên chẳng phân biệt thân - sơ mới đúng. [Tự lợi và] lợi tha chính là một nguyện mà thôi, đối với tự lợi ắt phải dốc hết tâm lực, há nên đối với phương diện tự lợi lại nói là nhạt nhẽo, lầm lạc học theo thân phận của đại Bồ Tát!

Cuốn Di Đà Kinh Bạch Thoại Giải của ông Hoàng Hàm Chi (lúc ấy ông ta đang giữ chức Đài Đạo[33] vùng Ninh Thiệu, vẫn chưa quy y) trích dẫn những kinh văn từ những sách vở khác, nhưng trước đấy không dẫn nguyên văn mà dùng ngay Bạch Thoại để diễn giải [ý nghĩa những đoạn kinh văn ấy], quả thật là một thiếu sót lớn! Khi ấy, Quang chẳng nghĩ làm như vậy là đúng lắm, nhưng chưa thể khuyên ông ta không nên làm như vậy. Năm Dân Quốc 18 (1929), ông ta lại soạn cuốn Phật Học Đại Ý (khoảng hai trăm trang), Triêu Mộ Khóa Tụng Bạch Thoại (hơn hai trăm trang) cũng giống như vậy. Quang bảo ông ta trước hết dẫn nguyên văn kinh điển, phía dưới lại dùng Bạch Thoại để chú thích thì phần kinh văn [vừa dẫn] có thể dùng làm căn cứ [chứng tỏ những câu ấy xuất phát từ kinh luận của Phật, của Tổ], phần Bạch Thoại chỉ là giải nghĩa sẽ có lợi ích. Thật ra, chỉ dùng lối văn rõ ràng để diễn tả thì mới là hợp căn cơ, nhưng chẳng nên chuyên bắt chước theo quy cách trong nhà trường vào thời gần đây[34]. Thoạt đầu ông ta rất vội vã, muốn đem in ngay. Do vậy, vĩnh viễn không nhắc tới nữa. Quang cũng vĩnh viễn không hỏi tới nữa vì sợ ông ta thấy tốn công sẽ đình chỉ.

Các hạ đã thờ pháp sư Hoằng Nhất làm thầy, lại được Hồ Ký Trần giảo duyệt, lại cậy ông Phạm Cổ Nông giảo duyệt, cần gì phải gởi cho Quang nữa? Quang đã bảy mươi hai tuổi, tinh lực lẫn mục lực đều không đủ. Tất cả những bưu kiện từ bên ngoài gởi đến đều để nguyên đem gởi trả lại vì tự thấy mình chẳng rảnh rỗi, đâu thể nhọc nhằn vì người khác được? Sách ấy tôi chưa từng đọc qua! Nghe nói mùa Đông năm ngoái ông Cổ Nông trở về nhà; đã từ nhiệm chức vụ ở Phật Học Thư Cục, nhưng đối với những sách vở có quan hệ khẩn yếu vẫn lo liệu đôi chút tại nhà.

Ngàn vạn phần xin đừng gởi [bản thảo] tới, Quang thật chẳng có tinh thần để thù tiếp chuyện bên ngoài. Huống chi còn có chuyện chưa giải quyết xong, muốn cầu người khác lo giùm mà chẳng thể được, quả thật là lo nghĩ đến cùng cực. Hiện nay chiến sự khốc liệt như thế, nhân dân cả nước đều khó yên tâm. Hằng ngày chỉ trì chú Đại Bi, niệm danh hiệu Quán Âm để cầu Tam Bảo gia bị khiến cho chiến tranh chấm dứt mà thôi (ở đây nói về cuộc chiến ở Thượng Hải vào năm Dân Quốc 21 - 1932. Người biên tập chú thích)

 

192. Thư trả lời cư sĩ Hồ Trạch Phạm (thư thứ hai)

 

      Chiến sự đã dứt là do trăm ngàn vạn thiện sĩ Tăng - tục Trung Quốc tha thiết cầu nguyện mà cảm nên. Quang bất quá chỉ là một trong số trăm ngàn vạn người mà thôi! Nếu nói là do lòng Thành của tôi cảm vời thì sẽ thành “trộm danh, đoạt sự tốt lành”, không có công lao gì mà mạo nhận! Há Quang chịu nhận sự khen ngợi ấy ư? Sách Lễ Ký chép: “Làm người ắt phải theo lẽ thường”, cư sĩ bảo “[Quang] là cổ Phật tái lai không còn ngờ gì nữa” tức là coi Phật như phàm phu, coi phàm phu là Phật, so với lỗi quy công cho Quang càng lớn hơn vô lượng lần! Ông và tôi có duyên, hãy nên đối đãi với nhau bằng tình ý chân thật. Nếu nói như vậy (tức là nói đại sư Ấn Quang là cổ Phật tái lai – ghi chú của người dịch) thì đôi bên đều phạm tội lỗi!

Kinh Di Đà là pháp môn căn bản của pháp môn Tịnh Độ. Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện tuy rộng lớn sâu mầu nhưng xét đến cùng chẳng phải là nguồn pháp căn bản của pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, hãy nên cùng tụng hai kinh, trọn chớ nên chỉ tụng phẩm Hạnh Nguyện, chẳng tụng kinh Di Đà. Chỉ tụng kinh Di Đà, không tụng phẩm Hạnh Nguyện thì được; chứ chỉ tụng Hạnh Nguyện, không tụng kinh Di Đà thì không được! Dùng kinh Di Đà làm khóa tụng sáng tối hoặc tụng nhiều hơn cũng được, quyết chớ nên trọn chẳng tụng kinh Di Đà để chuyên tụng phẩm Hạnh Nguyện, vì [làm như vậy] là trở thành tu trì mà quên gốc vậy.

Hai kinh ấy cố nhiên không có cao - thấp, nhưng đối với hành nhân Tịnh Độ lại có thân - sơ; do vậy, chẳng thể luận định các kinh Đại Thừa giống hệt như nhau được. Những lợi ích của mười đại nguyện vương như đã nói [trong phẩm Hạnh Nguyện] vốn là nêu ra những điều thù thắng, ông cho rằng những lợi ích đạt được bởi kinh Di Đà chẳng được như thế hay sao? Nếu nói như vậy, về mặt khuyên dạy cũng có thể chấp nhận được, nhưng nơi phương diện Thể, Đạo, Minh Tông (nêu rõ tông chỉ) sẽ chẳng tránh khỏi [khuyết điểm] chỉ hiểu theo mặt chữ. “Chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (chúng sanh sanh về cõi đó đều là Bất Thoái Chuyển); bậc A Bệ Bạt Trí cố nhiên có thể tùy loại hóa thân. Cư sĩ luận định kinh A Di Đà như thế, Quang chưa hề thấy nghe bao giờ! Thứ nghị luận thừa thãi ấy sao bằng không mở miệng thốt ra sẽ hữu ích hơn hay sao?

 

193. Thư trả lời cư sĩ Hồ Trạch Phạm (thư thứ ba)

 

      Nhận được thư đầy đủ. Đã muốn lợi người hãy nên y theo kinh văn. Sao lại gọi Vô Lượng Thọ Kinh là Đại A Di Đà Kinh? Trong Đại Tạng vốn có bản kinh A Di Đà[35] được dịch vào đời Ngô, lại có bản Đại A Di Đà Kinh do Vương Long Thư giảo chánh vào đời Tống. Nếu gọi [kinh Vô Lượng Thọ] là Đại A Di Đà Kinh sẽ khiến cho người ta chẳng biết rốt cuộc là kinh nào! Muôn phần chớ nên thay đổi tên gọi. Hễ thay đổi thì lâu ngày sẽ mê mất nguồn gốc.

Trong lời tựa của cư sĩ, có chỗ hơi không được viên mãn, tôi mạo muội sửa đổi. Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ do ngài [Tịnh Ảnh] Huệ Viễn[36] soạn vào đời Tùy, cư sĩ cho là do ngài [Lô Sơn] Huệ Viễn đời Tấn soạn. Tiểu thuyết thường có chuyện đặt tên theo từng hồi, bọn chúng ta giải thích kinh đã thành nề nếp, sao lại ngược ngạo bắt chước tiểu thuyết chia thành từng hồi? Trộm nghĩ dùng văn Bạch Thoại để giải thích thì trước hết phải dẫn [nguyên bản] kinh văn, rồi mới dùng văn Bạch Thoại để chú thích giản lược. Phàm những chữ thừa thãi không quan trọng đều nhất loạt chẳng dùng. Nếu chỗ nào đã rõ ràng thì đừng [giải thích] lan man nữa. Thường thấy có những người viết văn Bạch Thoại, [chánh kinh] chẳng có mấy chữ mà biến thành [câu văn Bạch Thoại] mười mấy chữ, đâm ra phí công! Nếu hoàn toàn viết hết kinh văn thành văn Bạch Thoại thì vàn muôn phần không nên! Vì sao vậy? Vì về lâu dài [người đọc] sẽ chẳng biết được những điều cốt yếu, lại còn làm mất cội nguồn!

Quang già rồi, mục lực chẳng đủ. Trong mùa Đông năm Dân Quốc 22 (1933) đã cho đăng tải trên các bán nguyệt san Tân Thân (xét ra, chính là các tờ Tân Văn Báo và Thân Báo) lời cự tuyệt hết thảy thư từ hoặc nhờ cậy viết lách. Chẳng thể soạn lời tựa [cho cuốn sách của ông] được vì không có tinh lực lẫn mục lực, chứ không phải là chẳng muốn ra sức để [hoằng truyền] kinh. Ngay như với thư từ nhận được hoặc gởi đi, Quang vẫn phải dùng cả kính lúp và kính lão để miễn cưỡng đọc, viết. Nếu chỉ dùng một loại sẽ chẳng thể thấy được. Hãy nên thương Quang già cả, nghiệp chướng sâu nặng, đừng trách móc thì may mắn lắm thay! Dùng văn Bạch Thoại để diễn giải [kinh văn] mà dùng chữ “dịch” thì chưa khỏi phạm lỗi tiếm dụng [từ ngữ] “dịch kinh”, chẳng thể không cẩn thận! Phàm ăn nói phải dựa theo sự thực, ông suy tôn Quang nào khác kẻ thường dân xưng là hoàng đế, muốn chẳng gây hệ lụy khiến cho tôi mắc phải tội khiên “đem phàm lạm thánh”, há có được ư? Hãy hết sức tránh nhé!

 

194. Thư trả lời cư sĩ Nhạc Minh Thọ

 

      Thư nhận được đầy đủ. Thư [ông gởi vào] hai năm trước đây do không khẩn yếu nên tôi chẳng trả lời. Nay bốn vị Thủy, Đặng, Bùi, Dương đều đến Lan Châu lo việc đề xướng niệm Phật, thật là may mắn cho đất Cam (Cam Túc). Phật pháp đã bặt tiếng vang ở đất Cam từ lâu; mấy năm gần đây, dần dần được phục hưng. Dương Hán Công cực lực đề xướng, tiếc rằng đại viện của Lạc Thiện Thư Cục ở Lũng Hữu bị lính đóng, ông ta phải ở trong tiểu viện thật bất tiện. Lại có ông Quách Hán Nho, Kha Huệ Mẫn đều tu trì khá chân thật. Năm trước, đúng vào hôm Cục Đạn Dược phát nổ, người làm trong phân xưởng chế đạn của một đệ tử [Quang], tức ông Lý Tiên Đào, đều qua Minh Thủy Lâu xem diễn tuồng, chỉ để lại một người là con của ông Phó Kinh Lý ở lại xưởng. Nơi phân xưởng của Mã Côn Sơn, cả xưởng ra về hết, không còn một ai. Cục Đạn Dược phát nổ, mấy dãy phố đều bị sụp đổ, tan nát sạch, nhưng căn nhà nơi người con của vị Kinh Lý ở lại [hôm ấy] vốn thuộc xưởng của ông Tiên Đào chẳng bị tổn hại gì. Một gian thờ Phật trong xưởng của ông Côn Sơn cũng chẳng bị tổn hại gì, kiếng đều chưa bị nứt vỡ. Tiên Đào tuy có tín tâm, nhưng chưa cực lực tu trì. Côn Sơn do được Tiên Đào khuyên lơn, mới bắt đầu quy y, chưa đầy một năm. Chuyện này quả thật đã phát khởi tín tâm cho người dân địa phương.

Hà Hồng Cát ở Cam Cốc cũng khá gắng công đề xướng, ba năm trước đây nạn dịch tả chẳng lan đến vùng ấy. Trước khi tròn sáu mươi tuổi, Trịnh Triết Hầu là oan gia của Phật pháp; năm tròn sáu mươi tuổi đọc Văn Sao của Quang liền sanh tín tâm, ăn chay, niệm Phật, nay cực lực đề xướng tại Bình Lương. Các ông Đặng Hiểu Thần, Lý Văn Trạm v.v… ở Tần An mỗi người đều đề xướng. Đời đã loạn đến cùng cực, dân không lẽ sống, những người có chánh tri chánh kiến từ đời trước đều biết sự lý nhân quả ba đời, luân hồi trong lục đạo do đức Phật đã dạy chân thật chẳng sai, đều muốn thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên cõi sen chín phẩm kia. Vì thế, vừa nghe được giáo pháp của Phật bèn sôi nổi thuận theo. Nay lại được bốn vị Thủy, Đặng, Bùi, Dương đề xướng, sẽ thấy Phật pháp hưng thịnh lớn lao, lòng người hướng thiện, lễ nghĩa, nhân nhượng hưng thịnh, can qua chấm dứt, tịnh xã lập ra, vận nước tốt đẹp là điều có thể dự đoán được!

Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ, chẳng thể khai thị tường tận được. Nay gởi cho mỗi người các ông hai gói kinh sách. Gói thứ nhất vốn là Tịnh Độ Ngũ Kinh (một cuốn), đấy chính là căn bản của pháp môn Tịnh Độ, hãy nên thường thọ trì; Tịnh Độ Thập Yếu (một bộ năm cuốn) đây chính là trước thuật thiết yếu của pháp môn Tịnh Độ, Ấn Quang Văn Sao (một bộ bốn cuốn hoặc in thành hai cuốn). Đây là sách nông cạn, gần gũi nhất, khế hợp thời cơ nhất. Đọc kỹ sách này thì những ý chánh của pháp môn Tịnh Độ sẽ đều hiểu rõ. Gói thứ hai gồm Gia Ngôn Lục (một cuốn), đây là những nghĩa trọng yếu được trích lục từ Văn Sao, được chia thành môn loại, khi xem đỡ tốn tâm lực nhất; Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (ba cuốn) thuật sự tích của những người niệm Phật xưa nay. Liễu Phàm Tứ Huấn (một cuốn), sách này văn lẫn lý đều tinh vi châu đáo, hết thảy mọi người đều nên đọc thuộc. Phật Học Cứu Kiếp Biên (hai cuốn), sách này sưu tập những chuyện nhân quả thiển cận trong kinh Phật để mong lòng người hướng thiện. Lịch Sử Thống Kỷ (hai cuốn) thâu thập những sự tích nhân quả báo ứng từ hai mươi bốn bộ sử để người đọc lấy chuyện xưa làm gương. Bộ sách này có công dụng như hai bộ sách: Trong phần đầu có mục lục, lại có biểu đồ phân loại. Như với phần Hiếu thì những gương hiếu tử trong cả bộ sách đều được liệt kê theo số quyển, số trang. Những gương không hiếu đễ, không cung kính v.v… tổng cộng gồm hai mươi bốn loại. Nếu như muốn tìm theo loại nào thì có thể tra [trong bản phân loại ấy], dựa theo số quyển, số trang mà tìm thấy ngay. Gói ấy còn hơi thiếu, nên tôi bỏ thêm các loại truyền đơn vào đấy. Các vị Thủy, Đặng, Bùi, Dương và ông mỗi người hai gói, tổng cộng là mười gói. Ngoài ra còn có năm loại sách Quán Âm Linh Cảm Lục, Gia Ngôn Lục, Kỹ Lộ Chỉ Quy, Vật Do Như Thử, Giai Đại Hoan Hỷ mỗi người đều hai gói (nếu những loại này không có, sẽ bảo [Hoằng Hóa Xã] gởi Sơ Cơ Tiên Đạo) để giúp cho việc đề xướng. Tổng cộng là hai mươi gói, mong hãy kiểm nhận.

Đợi đến khi đã nhận được sách đầy đủ và thùng mõ cũng đã nhận được, xin hãy viết thiếp cho biết các gói sách đều nhận được đầy đủ (đây chính là cách ngăn ngừa [bưu điện làm ăn] tắc trách), không cần phải nói nhiều vì tôi mục lực chẳng đủ, đọc khá mất sức. Nếu mõ không gởi cẩn thận, không bỏ trong một cái rương gỗ sẽ không được. Nếu chẳng bị lạc mất trên đường thì nhận được cũng chỉ đem đốt vì ông nhờ tôi mua giùm bốn cái. Sau này hãy nên giảm bớt [chuyện nhờ cậy mua sắm] những thứ ấy. So với kinh sách, đem gởi những thứ ấy qua bưu điện lắm thủ tục hơn nhiều. Xin hãy đem thư này đưa cho bốn vị ấy xem. Người học Phật phải lấy chú trọng thực hành làm gốc, không cần phải gởi đến những lời lẽ sáo rỗng!

 

195. Thư trả lời cư sĩ Châu Tử Tú

 

      Nhận được thư khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Ông nói đến biện pháp của hội phóng sanh đủ thấy từ tâm, nghị lực; hãy nên dựa vào đó để khuyên khắp hết thảy mọi người kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật thì mới là đại phóng sanh và chính mình lẫn những người cùng hàng đều được thả vào biển pháp Liên Trì, ngõ hầu vĩnh viễn thoát khỏi nỗi khổ sanh tử, thường hưởng niềm vui chân thường thì mới là phóng sanh có kết quả lớn lao. Hôm mồng Bảy, tôi đã gởi thư cho [Châu] Bá Tù và gởi bốn gói Văn Sao, chắc đã nhận được rồi!

Nói tới công phu, đạo đức của tiên sinh Tấn Tô, khôn ngăn khiến cho người khác phải mất hồn! Tuy nhiên, ông ta chú trọng pháp luyện đan, xem lời ông ta tự thuật nói “đã được bí truyền của tiên sinh X…. Vị tiên sinh X… đã kế thừa pháp mạch chân chánh từ nguồn pháp do Lục Tổ truyền cho người thế tục”; lời lẽ ấy chính là lời nói phổ biến của hết thảy ngoại đạo! Nếu ông Tấn thật sự được lợi ích chân thật nơi Phật pháp, quyết chẳng thốt ra lời lẽ “bịt tai trộm linh” ấy! Các hạ cho rằng để dẫn dụ kẻ sơ cơ, ngoài cách “luyện đan, tánh - mạng song tu” ra, chẳng thể nào khiến cho kẻ sơ cơ nhập đạo được ư? Sự tu trì của ông ta phần nhiều lấy Phật pháp làm chủ, nhưng những điều ông ta đề xướng phần nhiều trái nghịch Phật pháp, mà còn đáng gọi là bậc quân tử đức dầy “tâm và miệng như một, lời nói đi đôi với việc làm” ư?

Để trả lời câu kết luận của Ngũ Đình Phương, các hạ đã lấy công phu minh tâm làm chứng thì quả thật [tuy] đã mượn lời lẽ nhà Thiền để làm bùa hộ thân, nhưng vẫn chưa hiểu Thiền Tông, thật sự chẳng biết “đại triệt đại ngộ là ngộ nhưng chưa chứng”. Đừng nói “hễ ngộ thì hư không nát vụn, người lẫn pháp đều mất, thánh, Phật, tiên, phàm, Tấn Tô đều quy vào chốn quê hương chẳng có gì”; ngay như đã chứng được lý “hư không nát vụn, người lẫn pháp đều mất” cho đến “thánh, Phật, tiên, phàm, Tấn Tô hiện bày trọn vẹn sát sao” vẫn chớ nên lẫn lộn! Huống chi, dẫu ngộ thì vẫn là phàm phu sanh tử, [phải là] chứng thì mới có thể thoát lìa luân hồi. Người đời nay có ai ngộ được, huống là chứng ư? Đấy là lý do vì sao đức Như Lai mở rộng pháp môn Tịnh Độ để khiến cho khắp hết thảy chúng sanh đều cùng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này.

Xưa kia, Quang trúng phải chất độc của bọn Hàn - Âu - Trình - Châu, hủy báng Phật pháp. Tấn Tô mượn Phật pháp để mở rộng môn đình luyện đan, lại sợ lỡ ra chẳng được lợi ích thật sự nên vẫn ngấm ngầm y theo Phật pháp tu trì để tự ngăn ngừa những mất mát lỡ có thể xảy ra. So về hình tích thì Tấn Tô hơn Quang rất nhiều, nhưng Quang đã biết Phật pháp quyết chẳng thể “ngấm ngầm vâng hành, ngoài mặt thốt lời bài xích”. Tấn Tô bảo là “đã đắc pháp do Lục Tổ bí mật truyền cho hàng bạch y”; lời lẽ ấy đúng là quét sạch các vị đại tổ sư sau thời Lục Tổ! Cái tâm ấy cố nhiên chẳng thẳng thắn, chất phác, không dối trá như Quang được. Tuy nhiên, mỗi người có điều ưa thích riêng, há Quang có thể ép người khác thuận theo mình được ư? Chỉ vì có duyên nên mới chẳng ngại gì bình luận đại lược một phen. Nếu ông nghĩ là không đúng, xin ông cứ tuyên dương rộng rãi đạo của ông ta cho được truyền khắp thiên hạ thì tôi cũng rất mong mỏi ưa thích nghe vậy.

 

196. Thư trả lời cư sĩ Châu Chí Thành (thư thứ nhất)

 

      Phàm là người tu hành hãy nên tu trong nhà của chính mình, chẳng cần nhất định phải đến tu trong [Cư Sĩ] Lâm. Nếu [ai nấy] đều đến tu trong Cư Sĩ Lâm thì sao có căn nhà đủ lớn để chứa? Người đông thì chi phí trong Cư Sĩ Lâm cũng phải nhiều, mọi người phải bươn chải nhọc nhằn, những chuyện trong nhà có khi chẳng lo tới nơi tới chốn. Tất cả Cư Sĩ Lâm, Tịnh Nghiệp Xã chẳng qua [được lập ra] nhằm làm một cơ sở để đề xướng mà thôi. Mỗi tháng cử hành một hoặc hai lần. Nếu đông người lễ Phật khó thể chứa hết, hãy nên chia ra ngày lễ tụng [riêng biệt] cho nam nữ. Lễ Phật xong, giảng diễn kinh Phật một hai tiếng đồng hồ rồi bảo họ về nhà ngõ hầu chẳng đến nỗi bị người ngoài mang lòng đố kỵ, bịa chuyện đồn đãi.

Đối với pháp môn để tu trì, cố nhiên không có cao - thấp! Thiền, Luật, Mật, Tịnh đều là đại pháp để liễu sanh thoát tử, nhưng luận trên thân phận của chúng sanh đời Mạt thì chẳng tu pháp môn Tịnh Độ quyết khó thể liễu thoát ngay trong đời này do các pháp môn khác đều cậy vào tự lực; pháp môn Tịnh Độ cậy thêm Phật lực. Phật lực, tự lực khác biệt vời vợi một trời một vực! Không biết nghĩa này, lầm lạc bắt chước cách tu của người có khả năng to lớn, thật khó thể đạt được lợi ích thật sự. Vì thế, thiền sư Bách Trượng của Thiền Tông nói: “Tu hành bằng cách niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”. [Trong Bách Trượng Thanh Quy], cầu đảo cho vị Tăng bị bệnh, đưa vị Tăng đã mất đi thiêu đều chú trọng vãng sanh. Do đây biết Tây Phương Cực Lạc thế giới là chỗ quy túc của hết thảy thượng thánh hạ phàm tu tập Phật đạo vậy.

Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm, các vị Pháp Thân đại sĩ khắp tột cùng Hoa Tạng thế giới hải đem công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả, huống chi chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn ư? Công phu Thiền Tông dẫu đạt đến địa vị đại triệt đại ngộ nhưng hễ Phiền Hoặc chưa đoạn thì vẫn chẳng thể liễu thoát ngay trong đời này. Ngũ Tổ Giới lại làm thân [Tô] Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại làm Lỗ Công là những tấm gương đời trước (Ngũ Tổ là tên chùa. Giới là Sư Giới, tên người. Sư Giới từng làm Trụ Trì chùa Ngũ Tổ, nên gọi là Ngũ Tổ Giới, thuộc pháp hệ Vân Môn của pháp tổ Đại Giác Liên quốc sư[37]. Sư kiến địa cao siêu, môn đình cao ngất, người học phần nhiều kiêng sợ chẳng dám thân cận. Chết rồi lại sanh làm Tô Đông Pha, có bằng chứng rất rõ ràng. Thảo Đường là tên chùa, Thanh là tên người. Tăng Lỗ Công tên Công Lượng, chính là hậu thân của Thảo Đường Thanh[38]; làm Thừa Tướng vào lúc năm mươi bảy tuổi, được phong tước Lỗ Quốc Công, cũng có bằng chứng rõ rệt). Nhìn vào đây có thể biết sự khó khăn do cậy vào tự lực liễu sanh tử!

Thiền Tông thường nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. “Minh tâm kiến tánh” là đại triệt đại ngộ. Nói “kiến tánh thành Phật” là đích thân thấy được đức Phật thiên chân nơi tự tánh thì gọi là “thành Phật”. Đấy chính là “lý tức Phật” và “danh tự tức Phật”, chứ không phải là Cứu Cánh Phật phước huệ viên mãn! Vị ấy tuy ngộ đến chỗ cùng cực, đích thân thấy được Phật Tánh, nhưng vẫn là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân. Nếu có thể rộng tu Lục Độ, trong hết thảy cảnh duyên đều đối trị tập khí phiền não cho thanh tịnh không còn thừa sót sẽ có thể liễu sanh thoát tử, vượt ra ngoài tam giới, chẳng ở trong lục đạo nữa. Thời đức Phật còn tại thế, hạng người như vậy rất nhiều, trong thời Đường - Tống vẫn còn có, nay thì đại triệt đại ngộ còn chưa dễ được, huống là bậc hết sạch phiền não ư?

Thuyết “hiện thân thành Phật” hoặc còn gọi là “tức sanh thành Phật” (thành Phật ngay trong đời này) của Mật Tông giống như thuyết “kiến tánh thành Phật” của Thiền Tông, đều ứng theo công phu rất sâu mà nói. Chớ nên tưởng lầm là thật sự có thể thành Phật ngay trong thân này! Cần biết rằng thành Phật ngay trong thân này, chỉ có mình đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà thôi! Ngoài ra, dẫu là cổ Phật thị hiện, cũng không có chuyện “hiện thân thành Phật” (thành Phật ngay trong thân hiện tại)! Kẻ vô tri thường hiểu lầm, mất mát lớn lắm! Cận sự nam nữ tại gia lấy chất phác niệm Phật làm gốc. Cư sĩ tin Phật đã lâu năm, chắc là tu trì đã nắm vững, đừng coi pháp môn Tịnh Độ là thừa thãi, và xin hãy dạy cho hết thảy những nam nữ tin Phật nơi quý địa nỗ lực tu trì, nhất tâm niệm Phật, đấy là hợp thời cơ nhất!

 

197. Thư trả lời cư sĩ Châu Chí Thành (thư thứ hai)

 

      Năm ngoái cư sĩ từ xa nghe hư danh, từ ngàn dặm đến đây. Quang là ông Tăng vô tri vô thức chỉ biết cơm cháo, đạo đức lẫn tu trì chẳng có mảy may nào, chỉ biết niệm Phật mấy câu, sao có thể làm thầy người khác được? Do ông mang ý kiền thành, chẳng thể không nói đại lược nhằm tỏ rõ, nêu ra những điểm chánh yếu trong đại pháp rốt ráo. Hôm qua nhận được thư, biết cả nhà ông niệm Phật, cần nên biết rằng “mười phương cõi Phật phải đạt đến địa vị Niệm Phật ấy mới có thể vãng sanh”. Phàm phu sát đất chướng sâu huệ cạn, thiện căn kém mỏng, thọ mạng ngắn ngủi, muốn cậy vào tự lực để thoát khỏi tam giới theo chiều dọc, giống như một hạt cát bỏ vào trong nước bèn chìm. Nếu đem tảng đá to nặng mấy vạn cân bỏ lên một cái thuyền; đá tuy lớn nặng, nhưng nhờ có thuyền chở nên chẳng bị chìm! Đủ thấy sự khó - dễ giữa tự lực và Phật lực. Pháp môn Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực. Muốn liễu sanh tử thì phải niệm Phật, vượt ngang khỏi tam giới tiếp dẫn vãng sanh. Chương [Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật] Viên Thông dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập Tam Ma Địa, ấy là bậc nhất”. Cư sĩ túc căn sâu dầy, chắc hiểu rõ lý này. Quang già rồi, mục lực quáng lòa, khó viết được chữ bé. Từ nay về sau đừng gởi thư đến nữa. Vẫn mong ông tự cầu tinh tấn (Mồng Sáu tháng Năm năm Dân Quốc 25 - 1936)

 

198. Thư trả lời cư sĩ Tưởng Đức Trạch

 

      Nay may mắn vì bị bệnh bèn lễ Phật mà được lành, từ ngoại đạo trở lại Phật đạo, nếu chẳng phải là đời trước đã có thiện căn, làm sao được như thế? Hãy nên sanh lòng cảm kích lớn lao, sanh lòng hổ thẹn lớn lao. Tâm hổ thẹn phát sanh, tâm tà vạy sẽ diệt. Hổ thẹn là bước đầu để nhập đạo. Đã muốn học Phật, hãy nên cực lực giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành để làm người hiền, người lành trong thế gian ngõ hầu lập được nền tảng. Ấy là vì Phật pháp dùng Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện để dạy hết thảy tứ chúng. Nếu chẳng giữ vẹn luân thường v.v… thì khí phận Tam Quy, Ngũ Giới cũng chẳng có, sẽ trở thành tội nhân trong cả Nho giáo lẫn Thích giáo. Dẫu có tu trì, nhưng do tâm bất thiện, lợi ích đâm ra nhỏ tí ti!

Nay đặt pháp danh cho ông là Đức Trạch, nghĩa là dùng tâm đại Bồ Đề tự lợi, lợi người để tu trì Tịnh nghiệp, tự hành, dạy người, sao cho hết thảy mọi người quen biết đều cùng được gội Phật ân. Vì thế, đặt tên là Đức Trạch. Mẹ ông tuổi đã cao, hãy nên khuyên cụ sanh lòng tin phát nguyện, thường niệm Phật hiệu, cầu sanh Tây Phương. Cụ không đọc được kinh sách thì hãy nên kể cho cụ nghe cảnh tượng Tịnh Độ, phương pháp tu trì, ngõ hầu cụ được lìa sanh tử ngay trong đời này. Đấy là “đại hiếu, tôn kính cha mẹ”. Đối với thê thiếp, hãy nên kính trọng như khách, chớ nên quên thân theo đuổi dục lạc! Hãy nên đem ý này nói với cô ta. Đôi bên cùng chú trọng giữ gìn thân thể để con cháu đông đầy, sẽ chẳng đến nỗi bệnh tật, chết yểu, chẳng lo không thể “tề mi giai lão” (hạnh phúc đến già). Con cái hãy nên khéo dạy từ bé. Nếu không, sau này chúng có thể đi vào ngõ rẽ, ấy chính là tự diệt dòng họ của chính mình đấy!

Nay gởi cho ông những sách Tịnh Độ Thập Yếu, Phật Học Cứu Kiếp Biên, Sơ Cơ Tiên Đạo (trong sách ấy có bài thuốc trị bệnh cùi), Chánh Tín Lục, Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Thọ Khang Bảo Giám v.v… Phàm những pháp tu trì, giữ thân đều đã đầy đủ chẳng thiếu, nhưng phải nghiêm túc tu trì mới được. Đối với những pháp luyện đan vận khí của ngoại đạo đã học trước kia đều nên bỏ sạch đi! Cần biết rằng đấy là những pháp để giữ thân, chứ không phải là pháp để liễu sanh tử. Dùng tấm lòng trong sạch, ít ham muốn để giữ gìn cái thân sẽ có ích không bị tổn hại. Dùng luyện đan vận khí để giữ thân nếu sử dụng thích đáng sẽ tăng thêm tuổi thọ, thân thể khỏe mạnh; nhưng nếu dùng sai cách thì mắt lòa, tai điếc, sanh mụn nhọt, ghẻ chốc. Gần đây, những người trong Đồng Thiện Xã[39] phần nhiều có những kẻ thân tê liệt, tâm si ngốc, xin đừng vì lợi ích nhỏ nhoi mà vẫn chẳng chịu bỏ [pháp luyện đan vận khí] đi!

Quang già rồi, mục lực, tinh thần, công phu đều không đủ, chớ nên thường gởi thư tới. Do đã có những sách Văn Sao, Thập Yếu, Cứu Kiếp v.v… cố nhiên không cần phải gởi thư hỏi han nữa! Nếu muốn làm bậc đại thông gia thì gởi thư hỏi sẽ chẳng thể đạt được. Thật hết sức khó trở thành bậc đại thông gia. Dẫu có đạt được thì cũng chẳng vì thông suốt lớn lao mà có thể giải quyết xong chuyện sanh tử trong đời này đâu nhé!

 

199. Thư trả lời cư sĩ Trang Bính Hỏa

 

      Trang Bính Hỏa, pháp danh là Huệ Cự, nghĩa là dùng lửa đuốc trí huệ của Phật pháp để phá trừ hết thảy ngu si tăm tối của ta lẫn người, để mọi người cùng được thoát khỏi hang quỷ hắc ám, cùng  đạt đến chánh đại quang minh trong vô thượng Phật đạo, như dùng một cây đuốc để thắp trăm ngàn cây đuốc, đuốc này thắp cho đuốc kia, truyền mãi chẳng cùng tận. Người già sáu mươi tuổi đề xướng tốt nhất.

Cần biết rằng pháp liễu sanh thoát tử chỉ có Phật pháp là được như vậy, nhưng hết thảy các pháp môn đều phải đoạn sạch phiền não Hoặc nghiệp thì mới có thể liễu thoát. Nếu còn mảy may Phiền Hoặc chưa tận thì vẫn ở trong sanh tử y như cũ, do chỉ cậy vào tự lực nên đạt được lợi ích hết sức khó khăn. Chỉ có một pháp Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực, chỉ cần có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, không một ai chẳng vãng sanh Tây Phương. Đã vãng sanh Tây Phương sẽ tự đạt được “không còn sanh tử”. Pháp môn này là pháp môn dễ tu mà dễ thành công nhất trong Phật pháp.

Ông đã sáu mươi tuổi rồi, may mắn gặp được pháp này, hãy rất nên phát tâm đại Bồ Đề (tức là tâm tự lợi, lợi người), lấy thân mình làm gương, khiến cho hết thảy những người đồng đạo đều cùng bỏ ngoại đạo học Phật đạo thì công đức lớn lắm. Phật pháp là pháp công khai, không có chuyện bí truyền. Mặc cho người khác phát tâm, bằng lòng tu cũng được, tu giữa chừng bỏ dở cũng để mặc cho người ấy, trọn chẳng buộc người khác phải thề thốt độc địa này nọ! Muốn biết đại lược, xin hãy đọc trước các sách Gia Ngôn Lục, Văn Sao của Quang v.v… sẽ tự biết, ở đây không viết cặn kẽ.

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên

Quyển 1 hết

 

 

 



[1] Tức tục lệ ăn thịt người của những bộ lạc cổ sơ ở châu Phi.

[2] Xuyên Sơn (gọi đủ là Xuyên Sơn Giáp) thường được biết dưới tên Trút (Pangolin) hay Tê Tê, là một loại thú ăn kiến, thân dài, đuôi dài, mũi nhọn dài, toàn thân phủ đầy những tấm vảy cứng trông như bộ giáp, thường thấy ở Á Châu. Theo Wikipedia, cái tên Pangolin xuất phát từ chữ Pengguling (vật cuộn tròn) trong tiếng Mã Lai. Trút thường hoạt động kiếm ăn vào ban đêm, ngày cuộn tròn lại ngủ. Khi gặp nguy hiểm, chúng cũng cuộn tròn mình lại, dựng những tấm vảy cứng sắc lên để tự vệ. Trút có bốn chân ngắn nhưng rất sắc và mạnh, có thể đào tung những ụ mối, tổ kiến kiên cố để kiếm mồi, nên người Hoa mới gọi nó là Xuyên Sơn (xuyên qua núi). Trút thường có lưỡi dài giúp chúng có thể quét lưỡi vào những ngõ ngách trong tổ kiến, ổ mối để ăn những con mối non, kiến non. Người Hoa thường tin thịt Trút rất bổ dưỡng và nhiều dược tính. Họ tin vảy Trút có tác dụng chữa sưng phồng, luân lưu huyết khí và giúp phụ nữ mới sanh có nhiều sữa nên Trút bị săn bắt tàn nhẫn, gần như bị diệt chủng ở Trung Hoa.

[3] Trương Trọng Cảnh tên thật là Cơ, tự là Trọng Cảnh, là một y sư nổi tiếng thời Đông Hán, không rõ sanh và mất vào năm nào. Căn cứ theo những dữ kiện được ghi chép về cuộc đời ông, người ta chỉ có thể phỏng đoán ông sanh vào năm 150 và mất vào khoảng năm 219. Ông đỗ Hiếu Liêm, làm Thái Thú quận Trường Sa. Do vậy, thường được gọi là Trương Trường Sa. Trong thời gian ấy, chánh quyền Đông Hán suy yếu, giặc giã nổi lên, tật dịch lưu hành, gia đình Trương Trọng Cảnh cũng bị bệnh dịch chết gần hết. Do vậy, ông phát phẫn quyết chí nghiên cứu y dược. Bộ Thương Hàn Tạp Bệnh Luận của ông được coi là một bộ sách y học đầu tiên được biên soạn đầy đủ theo phương pháp khoa học và hệ thống nhất của Trung Hoa (gồm bệnh án, triệu chứng, nguyên nhân, cách điều trị và lý luận điều trị). Bộ sách này được rất nhiều y sư đời sau ra sức chú giải. Tác phẩm Kim Quỹ Yếu Lược của ông cũng được đánh giá rất cao nhưng không nổi tiếng bằng.

[4] Quan danh: tên đặt khi làm lễ Nhược Quan (20 tuổi).

[5] Huệ Kinh (1548-1618) là một vị cao tăng thuộc tông Tào Động, sống vào đời Minh, người ở Phủ Châu, Sùng Nhân (nay là huyện Sùng Nhân, tỉnh Giang Tây), tự là Vô Minh, Đã có chí xuất gia từ nhỏ, đến Lẫm Sơn xin tu pháp với ngài Uẩn Không Thường Trung ba năm, sau khi có chỗ tỉnh ngộ, bèn ẩn tu tại Nga Phong ba năm. Một bữa, khi cố sức dời tảng đá, đá trơ trơ không lay động, đang trong lúc tận lực xô đẩy, Sư hoát nhiên khai ngộ, trình sở ngộ lên ngài Thường Trung, được ấn khả. Đến năm 27 tuổi Sư mới thọ Cụ Túc Giới, từ đấy suốt hai mươi bốn năm không rời Nga Phong. Về sau, Sư đến yết kiến Tổ Liên Trì, cũng như đến lễ tháp tổ Bồ Đề Đạt Ma ở Thiếu Lâm, lên kinh sư lễ ngài Đạt Quan, qua Ngũ Đài tham yết ngài Thụy Phong, rồi trở về chùa Bảo Phương ở quê nhà để khai giảng tòa, hoằng dương tông Tào Động. Môn nhân nối pháp có Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Kính, Kiến Như Nguyên Mật, Vĩnh Giác Nguyên Hiền v.v… Khi Sư mất, chính ngài Hám Sơn Đức Thanh đã soạn bài minh để khắc trên mộ.

[6] Đối với bọn Đạo Sĩ theo phái Nội Đan, Xá Nữ là thuật ngữ chỉ Tâm Hỏa, Anh Nhi là Thận Thủy; còn đối với bọn theo trường phái Ngoại Đan (luyện kim đan để uống cho mau thành Tiên) thì Xá Nữ là Châu Sa, còn Anh Nhi là Thủy Ngân. Họ nói một cách huyền bí “Anh Nhi Xá Nữ giao cấu” chứ thật ra chỉ là phản ứng hóa học giữa châu sa và thủy ngân (theo Ngoại Đan); hoặc vận khí để Tâm Hỏa được điều tiết bởi Thận Thủy, không để hỏa vượng bốc lên khi họ luyện khí công. Quẻ Khảm thuộc Thủy, quẻ Ly thuộc Hỏa (theo Dịch Học) nên bọn chúng cũng vận dụng những danh từ này để nói cho có vẻ thật huyền bí, cao siêu!

[7] Hộ Quân Sứ là chức vụ chỉ huy quân sự cao cấp nhất của một khu vực được chánh quyền quân phiệt Bắc Dương đặt ra dưới thời Đoàn Kỳ Thụy chiếm lãnh Bắc Kinh, cai quản miền Bắc Trung Hoa. Hà Phong Lâm là Hộ Quân Sứ Thượng Hải thời ấy.

[8] Tức là luyện ngoại đan lẫn nội đan. Ngoại đan là nấu những dược liệu với kim loại quý để làm kim đan ngõ hầu uống vào mau được thành tiên. Do phải đun nấu nên gọi là “thiêu”, còn vận khí, tĩnh tọa để vận hành những vòng khí Châu Thiên trong cơ thể cũng gọi là “luyện đan”, nhưng là “luyện nội đan”.

[9] Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng bà nội của người khác.

[10] Tiếng gọi tỏ vẻ tôn trọng ông nội của người khác.

[11] Nguyên văn ghi là “khuyến kiệm” (勸儉) nhưng theo mạch văn, Tổ đang nói về những đức tánh thường có của một nữ nhân hiền thục, chắc chắn chữ Khuyến (: khuyên nhủ) ở đây là chữ Cần (: siêng năng) bị in sai.

[12] Đây là bộ Kim Cang Kinh Chú Giải (thường được gọi là Kim Cang Kinh Ngũ Thập Tam Gia Chú), bốn quyển do ngài Hồng Liên soạn theo lệnh của Minh Thái Tổ. Bộ sách này thâu thập tất cả những chú giải trọng yếu trích từ trước tác của năm mươi ba vị thiện tri thức trong các đời.

[13] Đây là chùa Cực Lạc ở Harbin do pháp sư Đàm Hư và các cư sĩ vùng Liêu Đông xây dựng.

[14] Tịch Tà Tập là một tác phẩm của tổ Ngẫu Ích viết khi còn là tại gia cư sĩ, với bút hiệu là Chung Chấn Chi, nhằm phản bác những luận điểm công kích Phật giáo của các giáo sĩ Lợi Mã Đậu (Matteo Ricci), Ngải Nho Lược (Giulio Aleni) v.v… Các giáo sĩ này khi truyền đạo Thiên Chúa vào Trung Hoa, đã viết rất nhiều bài đả kích Tam Giáo của Trung Hoa, đặc biệt nhắm vào Phật giáo. Những phê phán của các giáo sĩ ấy thể hiện cái nhìn đầy thiên kiến, kiêu ngạo của người da trắng đối với những sắc dân da màu vốn bị họ coi là man rợ, chưa khai hóa! Họ chỉ dựa theo hình thức, thành kiến, bề ngoài để phê phán chứ không chịu tìm đọc kinh sách của các tôn giáo bị họ đả kích. Để phản bác, tổ Ngẫu Ích đã vận dụng rất nhiều tư tưởng triết học của Tam Giáo để giải thích khái niệm Trời theo cách hiểu của người Á Đông và chỉ ra những chỗ lập luận khiên cưỡng của giáo sĩ Tây Phương về những luận điểm độc thần, Thiên Chúa sáng tạo muôn vật v.v… Hiện tác phẩm này được đưa vào Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập.

[15] Kiến Văn Lục là một tác phẩm ngắn cũng của tổ Ngẫu Ích ghi chép những chuyện thiện ác nhân quả báo ứng do chính Tổ từng thấy. Chẳng hạn chuyện một Sinh Viên làm phán quan cõi âm, vào âm phủ xét án, thấy hồ sơ tội trạng ghi vợ giết gà của hàng xóm, nặng mấy cân. Lúc tỉnh dậy, tra vặn vợ, quả nhiên vợ lỡ tay ném chết gà hàng xóm, sợ bị chồng mắng, hàng xóm chửi, nên chôn giấu sau vườn. Đào gà lên đem cân, quả nhiên bằng đúng cân lượng đã ghi trong hồ sơ tội trạng cõi âm. Tác phẩm này cũng được đưa vào Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập.

[16] “Tẩu bàn châu” còn gọi là “hải thủy trân châu” là một loại ngọc trai. Trong các loại trân châu được lưu hành tại Trung Quốc, ngọc trai từ Hợp Phố (thuộc đất Giao Chỉ xưa) quý nhất vì hình dáng tròn trặn, màu sắc tươi đẹp, óng ánh nhất, hầu như không viên nào có khuyết điểm. Do viên ngọc trai Hợp Phố rất tròn, bỏ vào khay hay đĩa, dùng ngón tay đẩy nhẹ nó sẽ lăn tròn trong đĩa nên thường được gọi là “tẩu bàn châu” (châu chạy trong khay).

[17] Ý nói: Đừng thuận theo những suy nghĩ phán đoán do thiên kiến của chính mình, không thèm nghe theo những lời dạy trong kinh hoặc của chư cổ đức.

[18] Bát Thức (Astau Vijñānāni) là tám Thức gồm Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức và A Lại Da Thức. Tùy theo cách nhận định về vai trò của tám Thức mà có ba cách gọi như sau:

1) Do bảy Thức từ Nhãn Thức đến Mạt Na Thức do A Lại Da Thức sanh ra, biến chuyển thành, nên bảy Thức đầu được gọi là Chuyển Thức hoặc Thất Chuyển Thức, còn A Lại Da Thức gọi là Căn Bản Thức hoặc Chủng Tử Thức.

2) Theo thứ tự chuyển biến, A Lại Da Thức gọi là Năng Biến, Mạt Na Thức gọi là Đệ Nhị Năng Biến, sáu Thức còn lại gọi chung là Đệ Tam Năng Biến.

3) Địa Luận gọi A Lại Da Thức là Chân Thức, Mạt Na Thức là Vọng Thức (không thấy định danh cho sáu Thức còn lại).

Riêng về thức thứ tám, lại còn có ba tên gọi (theo Bát Thức Quy Củ Tụng) là A Lại Da Thức, Dị Thục Thức và Nhất Thiết Chủng Thức.

Cẩm Hán dựa theo khuynh hướng Duy Vật và Phân Tâm Học Tây Phương để giải thích các Thức, nên cho rằng các Thức đều chỉ là những trạng thái tâm lý, coi Chân Như Phật Tánh như là “hậu thiên vật” tức là một dạng vật chất được hình thành sau khi một cá nhân được sanh ra và do tri giác của người đó phản ứng trước những tác động của hoàn cảnh bên ngoài mà có tám Thức, nên mới nói là “do động lực mà thay đổi”.

[19] Lục Bộ Thiền là một thuyết cho rằng để lãnh hội được tinh tủy của Thiền Tông phải lần lượt đọc và thấu hiểu được sáu bộ sách được coi là quan trọng nhất trong nhà Thiền (Hoàng Bá Truyền Tâm Pháp Yếu, Tông Kính Lục, Đại Huệ Ngữ Lục, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Thiên Thánh Quảng Đăng Lục, Thiên Thánh Tục Đăng Lục).

[20] Theo các bộ truyện tường thuật hành trạng của các thiền sư, các vị ấy đại triệt đại ngộ chỉ cần nhờ tham thấu một công án. Khi đã thấu triệt một công án thì hết thảy công án đều thông. Do đó nếu bảo là “tham thấu xong một bộ sách lại phải tiếp tục tham thấu cho đến trọn sáu bộ ngữ lục” thì sự tham thấu ấy chỉ là thấu hiểu, suy lường nghĩa lý theo mặt văn tự, chứ không thể là đại triệt đại ngộ được.

[21] Do khi xưa khổ vải quá hẹp nên để may Mạn Y (y trơn) phải ghép năm miếng lại. Nhưng năm miếng ấy phải dài bằng nhau, không được cắt thành dài ngắn khác biệt. Hiện thời hầu như không thấy Mạn Y gồm năm miếng nữa mà Mạn Y luôn được may bằng cả khổ vải. Mạn Y thường được đắp bởi Sa Di và người tại gia thọ Bồ Tát Giới (cũng có trường hợp người thọ Ngũ Giới đắp y nhưng khá hiếm). Tại Trung Hoa, Mạn Y của Sa Di và cư sĩ giống hệt nhau; riêng tại Việt Nam, Mạn Y của Sa Di và Sa Di Ni được may có một sọc nổi lên chính giữa tấm y. Y năm điều (An Đà Hội: Antarvāsa) của tăng sĩ cũng gồm năm miếng ghép lại, nhưng mỗi miếng ấy lại được cắt thành hai miếng nhỏ, một dài một ngắn (tức là gồm mười miếng tất cả. Gọi là “y năm điều” là do đếm theo chiều dọc của Y). Miếng đầu tiên và miếng cuối cùng của Y năm điều phải có hai miếng ngắn ở trên. Do cách may như vậy nên tổ Ấn Quang mới viết “y năm điều một dài một ngắn”. Y bảy điều (Uất Đa La Tăng: Uttarāsamga) do gồm bảy miếng lớn ghép theo chiều dọc nên gọi tên như vậy. Mỗi miếng lại cắt thành hai miếng dài hai miếng ngắn ghép lại. Y này dùng để thọ trai, lễ bái, giảng kinh, tụng kinh nên thường gọi là Nhập Chúng Y. Các miếng này được may đâu lại, dằn chỉ cho nổi lên thành vằn nên tổ gọi là “hoành văn” (sọc ngang). Y của chư tăng Trung Hoa cắt thành từng miếng, nhưng may khít nhau, mỗi miếng không may chừa mép như y của chư Tăng Việt Nam.

[22] Tiếng gọi tỏ vẻ kính trọng vợ người khác.

[23] Tông Lặc (1318-1391) là một vị Tăng thuộc tông Lâm Tế sống vào đầu đời Minh. Sư là người Đài Châu (nay là huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang), tự Quý Đàm, hiệu Toàn Thất. Năm lên tám tuổi, Sư tới chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu để học pháp với ngài Tiếu Ẩn Đại Hân, mười bốn tuổi xuống tóc, hai mươi tuổi thọ Cụ Túc. Sư cũng tham học với ngài Kính Sơn Nguyên Tẩu. Đầu đời Minh, vua xuống chiếu cử Sư làm trụ trì chùa Thiên Giới, sai Sư cùng với sư Như Kỷ soạn các bộ Lăng Già Kinh Chú Giải, Bát Nhã Tâm Kinh Chú Giải và Kim Cang Bát Nhã Kinh Chú Giải; đồng thời kiểm điểm Đại Tạng Kinh, soạn ra nhạc phổ tán Phật. Năm Hồng Vũ thứ 10 (1377), Sư sang Tây Vực, thỉnh được kinh Trang Nghiêm Bảo Vương và Văn Thù Kinh v.v… Năm Hồng Vũ 15 (1382), Sư trở về Trung Hoa, được phong chức Hữu Thiện Thế cai quản Tăng Lục Ty. Về sau, do triều thần tìm đủ mọi cách gièm báng, Sư bèn thoái ẩn về am Viên Thông. Về sau, Sư mất tại chùa Thạch Phật thuộc Giang Phố. Ngoài những trước tác kể trên, Sư còn soạn các bộ Toàn Thất Ngoại Tập, Toàn Thất Cảo v.v…

[24] Thạch Thiên Cơ (1659-1736), tên thật là Thạch Thành Kim, tự Thiên Cơ, hiệu Tỉnh Trai, người Dương Châu, ham học từ nhỏ, rất thông thạo, suốt đời lấy việc dạy học trước tác làm vui. Ông trước tác rất nhiều, những trước tác được tập hợp thành bộ Truyền Gia Bảo Toàn Tập.

[25] Tiếng gọi cha người khác nhằm tỏ ý kính trọng.

[26] Vì nếu kết ấn đúng pháp thì phải vừa kết ấn vừa quán tưởng chủng tự của vị bổn tôn của ấn chú ấy, đồng thời tâm phải thể nhập phẩm đức của vị tôn thánh ấy, sao cho tam mật tương ứng. Chẳng hạn như khi tụng chú Cam Lộ Thủy Chân Ngôn trong nghi thức Mông Sơn, người tụng kết ấn, đồng thời phải tưởng trong tâm có một vầng trăng, chính giữa vầng trăng có Phạn tự Bham (thường phiên âm thành Vãm hoặc Noan trong chữ Hán), sáng chói ngời, từ giữa chữ ấy tuôn ra nước Bát Nhã Cam Lộ Tánh Thủy tràn ngập khắp pháp giới, nhuần thấm hết thảy chúng sanh trong nghiệp đạo, khiến họ đều lìa phiền não, được thanh tịnh.

[27] Nguyên văn “thời mao” có nghĩa là những trào lưu thời thượng, thích lập dị, chạy theo thời trang, coi đó là trẻ trung, tiến bộ, không cổ hủ.

[28] Đây là bộ Lăng Nghiêm Khai Mông của sư Thông Trí Tầm Nguyên.

[29] “Giao trụ cổ sắt” (dán trụ, gảy đàn Sắt) là một thành ngữ cổ thường được dùng để chỉ những kẻ chấp chặt một cách mù quáng, không biết quyền biến. Theo Hán Ngữ Thành Ngữ Tự Điển, Sắt là một loại đàn cổ, giống như đàn Cầm, nhưng tiếng vang và cao hơn. Trụ là những con sáo (tức những miếng gỗ nhỏ hình tam giác đặt trên mặt đàn có thể di động để biến đổi độ căng của dây đàn). Theo sách ấy, có một người nước Tề sang đất Triệu học đàn Sắt. Do người nước Triệu chỉnh dây đàn rất khéo, người nước Tề bèn dùng keo dán chặt con sáo xuống mặt đàn cho khỏi lạc điệu rồi trở về nước. Suốt ba năm anh ta tập đàn nhưng không đàn thành khúc nào, đâm ra oán trách người nước Triệu giấu nghề. Có người từ đất Triệu đến thăm, anh ta bèn hỏi ra mới biết mình quá xuẩn ngốc: Những con sáo không thể di chuyển thì làm sao biến đổi xoang điệu cho được!

[30] Khi Nhị Tổ Thần Quang Huệ Khả của Thiền Tông cầu Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy cho cách an tâm, Tổ Đạt Ma đã dạy: “Ông đem cái tâm của ông lại đây, ta sẽ an cho”. Tổ Huệ Khả thưa: “Con không tìm được cái tâm”, Tổ Đạt Ma liền dạy: “Ta đã an tâm cho ông rồi đó”.

[31] Đây là một câu kinh trích từ kinh Lăng Nghiêm thuộc phần biện định về Ngũ Ấm Ma. Sau khi nghe đức Phật nói các danh hiệu của kinh, ngài A Nan liền hỏi về nguyên nhân có các nẻo luân hồi. Đức Phật dạy nguyên nhân “do tình hay tưởng khác nhau mà có thăng hay đọa”. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn đoạn kinh ấy và lời giảng của pháp sư Viên Anh trong sách Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa:

Chánh kinh: “Thuần tưởng tức phi, tất sanh thiên thượng. Nhược phi tâm trung kiêm phước kiêm huệ, cập dữ tịnh nguyện, tự nhiên tâm khai, kiến thập phương Phật, nhất thiết Tịnh Độ, tùy nguyện vãng sanh”.

Giảng: Tưởng là lắng lòng quán tưởng, chẳng phải là loạn tưởng. Tưởng ở đây khác với tưởng của loài noãn sanh. Ước theo lúc chúng (tức loài noãn sanh) thọ sanh thì Tưởng của chúng là tưởng vọng nhiễm, còn Tưởng [được nói đến trong đoạn kinh văn] ở đây là ước theo [người ấy] lúc còn sống đã quen tu tập Tưởng thắng diệu. Do thuần tưởng có cảnh giới thắng diệu nên có thể bay lên, chẳng đến nỗi đọa lạc, ắt sanh lên cõi trời, sống trong cõi trời… “Thuần tưởng” ở đây thuộc về [tưởng] của chư thiên trong tam giới, nên thấy được chư thiên, đều do thiện nghiệp từ trong cái tâm quán tưởng ấy cảm thành. Nếu trong cái tâm thuần tưởng bay lên ấy, lúc bình thời có kiêm tu phước, tu huệ, chẳng hạn như cúng Phật là phước nghiệp, nghe pháp là huệ nghiệp và những người tịnh nguyện, vẫn thường nguyện học theo Phật, được Phật thọ ký, và những ai muốn cầu vãng sanh nguyện được thấy Phật. Phàm [những người bình thường không tu tập] khi thọ mạng sắp hết, thần thức hôn ám, trông khắp mười phương giống như một vùng tối, mờ mờ, mịt mịt, chẳng biết đi về đâu. [Còn người do tu tập thuần tưởng], nay do tưởng thuần tịnh và sức phước huệ cùng với sức tịnh nguyện, tự nhiên tâm địa khai thông, thấy mười phương Phật, hết thảy Tịnh Độ, như cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, cõi Lưu Ly của Phật Dược Sư v.v… mười phương đều hiện, hơn - kém rành rành. Vì thế, được tùy nguyện vãng sanh”.

[32] Bọn Đạo Sĩ đã soạn ra cuốn Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ, mạo danh tác giả là Thuần Dương Lã Tổ (Lã Động Tân) để xuyên tạc kinh Lăng Nghiêm như sau: “Các thầy vâng giữ diệu dụng, vẫn còn có bí quyết nhanh chóng nhất trong các bí quyết, tức là lúc buông xuống muôn duyên, chỉ dùng chữ Y của Phạm Thiên (tức là Nhật Nguyệt Thiên Cương, đấy chính là mắt trái, mắt phải và chính giữa hai chân mày trong thân người. Tiên thiên thần nhân đều có đủ ba mắt như Đẩu Mẫu Lôi Tổ vậy. Con người biết tu luyện, mi tâm (chính giữa hai mày) liền mở ra, con mắt được mở ra ấy gọi là Thiên Mục)… Các thầy tuân hành pháp, chẳng có pháp nào khác để cầu tiến, chỉ thuần tưởng ở nơi đó. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thuần tưởng tức phi, tất sanh thiên thượng”. Thiên [ở đây] không phải là trời xanh thẳm, mà chính là Càn cung (đảnh đầu) trên thân, lâu ngày tự nhiên sẽ được thân ở ngoài cõi trời”. Do bọn Đạo Sĩ xuyên tạc kinh Phật để chứng minh phép luyện đan vận khí nên Tổ mới chê là “hồ thuyết ba đạo” (nói nhăng, nói càn).

[33] Theo quy chế quan chức đời Thanh, cả nước được chia thành nhiều Tỉnh, mỗi Tỉnh lại chia thành nhiều Phủ (hoặc Châu, Sảnh). Mỗi Phủ gồm nhiều Huyện. Quan đầu tỉnh gọi là Tổng Đốc nắm trọn quyền hành chánh, quân sự và tư pháp từ một tỉnh đến ba tỉnh; chỉ riêng Tổng Đốc Tứ Xuyên là quản trị một tỉnh. Sau này, danh xưng Tổng Đốc ít dùng, hầu như chỉ dùng danh xưng Tuần Phủ (Tuần Vũ) và quyền hành của Tuần Phủ được thu gọn trong một tỉnh. Tuần Phủ thường được gọi bằng danh xưng Phủ Quân, Phủ Đài. Dưới chức Tuần Phủ lại lập ra chức Bố Chánh Sứ chuyên lo việc hành chánh, dân sự, ngân khố của một tỉnh, chức quan này thường được gọi là Phiên Đài hoặc Phiên Ty. Đôi khi, có trường hợp đặc biệt như Phiên Đài Quảng Đông lại trông coi cả việc trị an. Bên cạnh Bố Chánh Sứ còn có quan Án Sát Sứ, chuyên lo việc tư pháp trong một tỉnh, giám sát và thuyên chuyển những quan chức nhỏ hơn. Chức quan này thường được gọi là Niết Đài hoặc Niết Ty. Chức quan phụ tá Niết Đài, trông coi một Đạo (gồm nhiều Phủ) được gọi là Đạo Viên hoặc Đạo Đài. Ông Hoàng Hàm Chi giữ chức Đạo Đài hai phủ Ninh Ba và Thiệu Hưng nên gọi là Ninh Thiệu Đạo Đài.

[34] Thời ấy trong khuynh hướng sôi nổi phá bỏ lối học từ chương, cổ điển, sáo mòn đời Thanh, các nhà giáo dục Trung Hoa đầu thời Dân Quốc chủ trương mọi văn bản đều viết bằng văn Bạch Thoại, cực lực đả phá việc trích dẫn nguyên văn những thư tịch cổ trong bài viết, cũng như cấm học trò học viết văn theo lối Văn Ngôn. Tổ chủ trương vẫn dùng Văn Ngôn, nhưng viết cho rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, không dùng quá nhiều điển tích cầu kỳ, chấm câu rõ ràng để người đọc dù học ít vẫn lãnh hội được. Quan điểm này hoàn toàn đúng đắn vì về sau này, do chỉ học theo lối văn Bạch Thoại, rất nhiều người đã tốt nghiệp đại học ở Hoa Lục, Đài Loan mà vẫn rất lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn khi đọc những tác phẩm viết bằng Văn Ngôn.

[35] Tức bản Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh (hai quyển) do Chi Khiêm dịch vào đời Ngô.

[36] Ngài Huệ Viễn (334-416) Sơ Tổ tông Tịnh Độ sống vào đời Tấn, thường được gọi là Lô Sơn Huệ Viễn để phân biệt với ngài Huệ Viễn (523-592) người huyện Đôn Hoàng (tỉnh Cam Túc) sống vào đời Tùy. Ngài Huệ Viễn đời Tùy đôi khi còn được gọi là Tùy Viễn, Tiểu Viễn, Đại Viễn, Bắc Viễn. Ngài Tùy Viễn theo xuất gia với ngài Tăng Tư vào năm 13 tuổi. Năm 16 tuổi, theo ngài Trạm Luật Sư sang Nghiệp Quận (nay là huyện Lâm Chương tỉnh Hà Bắc) chuyên nghiên cứu kinh Đại Thừa, Tiểu Thừa. Sư thọ Cụ Túc năm 20 tuổi, thoạt đầu theo ngài Đại Ẩn học luật Tứ Phần, sau chuyên nghiên cứu pháp tạng. Khi Vũ Đế nhà Bắc Châu diệt Tề quốc, ra lệnh hủy hoại kinh tượng, buộc Tăng chúng hoàn tục, Tăng chúng trốn lánh, Sư một mình ra tranh biện với hoàng đế, trách mắng nhà vua: “Bệ hạ nay cậy sức vương giả, tự tung tự tác, phá diệt Tam Bảo, là kẻ tà kiến. Địa ngục A Tỳ chẳng phân biệt sang - hèn, đọa xuống đó không sợ hay sao?” Vua nổi giận quát: “Chỉ cần trăm họ yên vui, trẫm chẳng từ nan các sự khổ trong địa ngục”, nhưng tha không trừng phạt Sư. Rốt cuộc vua vẫn hạ lệnh hủy diệt Phật pháp, Sư bèn ẩn cư ở Cấp Quận, ngầm tụng Pháp Hoa, Duy Ma v.v… để cầu Phật pháp phục hưng. Đến khi nhà Tùy diệt Châu, Sư mới xuất hiện, đại khai pháp môn ở Lạc Ấp, rất được Tùy Văn Đế kính trọng, nhiều lần triệu vào cung giảng pháp. Không lâu sau, vua hạ chiếu sai Sư trụ tại chùa Hưng Thiện, rồi xây riêng ngôi chùa Tịnh Ảnh cho Sư chuyên giảng dạy, nghiên cứu Phật pháp. Vì thế, người đời thường gọi Sư là Tịnh Ảnh Huệ Viễn. Năm Khai Hoàng 12 (592), Sư vâng chiếu tham dự dịch trường, san định từ nghĩa trong các bản kinh được dịch, nhưng rồi Sư thị tịch ngay trong năm ấy. Sở học của Sư chủ yếu thuộc Địa Luận Tông Nam Đạo Phái, đến tuổi già Sư lại học Nhiếp Đại Thừa Luận với ngài Đàm Thiên. Sư thông thạo các kinh điển, thông hiểu văn lý, yếu nghĩa, nên được người đương thời xưng tụng là Thích Nghĩa Cao Tổ. Những trước tác nổi tiếng nhất của Sư gồm Đại Thừa Nghĩa Chương, Thập Địa Kinh Luận Nghĩa Ký, Hoa Nghiêm Kinh Sớ, Đại Niết Bàn Kinh Nghĩa Ký, Pháp Hoa Kinh Sớ, Duy Ma Kinh Nghĩa Ký, Thắng Man Kinh Nghĩa Ký, Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ…

[37] Đại Giác Hoài Liên (1009-1090), người Chương Châu, tỉnh Phước Kiến, xuất gia từ nhỏ, dốc chí học đạo, du phỏng. Sư theo học với ngài Lặc Đàm Hoài Trừng mười mấy năm. Sau khi được ngài Hoài Trừng ấn khả, bèn sang chùa Viên Thông ở Hỗ Sơn giữ chức Thư Ký trong đạo tràng của ngài Cư Nạp (Tổ Ấn thiền sư). Vua Tống Nhân Tông nghe tiếng ngài Cư Nạp, xuống chiếu vời sang Trụ Trì chùa Tịnh Nhân để hoằng dương đạo Thiền ở kinh đô. Ngài Cư Nạp viện cớ bệnh tật để từ chối, tiến cử ngài Hoài Liên đi thay. Vào chầu vua, đối đáp đại ý thiền pháp thông suốt, vua hết sức đẹp dạ, bèn phong hiệu Đại Giác Thiền Sư. Từ đấy, Sư đại khai thiền pháp tại chùa Tịnh Nhân.

[38] Thảo Đường Thiện Thanh (1057-1142), là một vị danh tăng thuộc phái Hoàng Long, tông Lâm Tế, người huyện Bảo Xương tỉnh Quảng Đông. Từ nhỏ đã tham yết thiền sư Pháp Tư chùa Hương Vân, được xuất gia năm Nguyên Phong thứ tư (1081) đời Tống Thần Tôn, đến tham học với Đại Quy Mộ Triết, rồi xin nhập chúng của ngài Hối Đường Tổ Tâm, được nối pháp của ngài Tổ Tâm. Năm Chánh Hòa thứ năm (1115) Sư sang Giang Tây hoằng dương dòng thiền Hoàng Long, từng trụ tại chùa Thảo Đường ở Giang Tô. Những lời dạy được môn nhân thu thập thành bộ Thảo Đường Thanh Hòa Thượng Ngữ Yếu.

[39] Đồng Thiện Xã (còn có danh xưng là Đồng Thiện Đường, Hồng Tín Đại Đồng Xã) là một thứ tà giáo, mệnh danh Tam Giáo Đồng Nguyên, được Bành Nhữ Tôn (1873-1950) sáng lập vào năm 1912 tại trấn Long Thủy, huyện Đại Túc (nay thuộc Trùng Khánh), tỉnh Tứ Xuyên. Đồng Thiện Xã chủ trương “dùng lễ tiết Nho giáo, tu tập công phu Đạo giáo nhằm chứng quả vị thuộc Thích giáo (đạo Phật)”. Họ thờ Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca Mâu Ni Phật; lại còn rêu rao “ai gia nhập đạo sẽ tránh được kiếp nạn, được thăng lên thiên đường”. Họ vay mượn thuật ngữ Long Hoa Hội từ Phật giáo để tuyên truyền kiếp nạn đến gần, ai theo đạo họ sẽ được Phật, trời, tiên thiên cứu rỗi, dùng những hình thức cúng tế kỳ bí để chiêu dụ tín đồ, nhất là cầu cơ, hầu đồng để tiên nhập vẽ bùa, đốt lấy tro hòa vào nước trị bịnh. Họ khôn khéo vận động để được chánh quyền Dân Quốc phê chuẩn như một tôn giáo chánh thức vào năm 1917, thậm chí Quốc Vụ Tổng Lý (Thủ Tướng) Đoàn Kỳ Thụy và Đại Tổng Thống Tào Côn đều trở thành Hộ Pháp của họ. Được sự ủng hộ của chánh quyền Dân Quốc Bắc Dương, giáo phái này lớn mạnh rất nhanh, thành lập phân hội tại hầu hết các huyện, tỉnh Trung Hoa. Chủ trương tái lập đế chế phong kiến của Bành Nhữ Tôn rất hợp ý các tướng lãnh quân phiệt nên càng được họ ủng hộ mạnh mẽ. Từ năm 1927, nhằm thỏa mãn tham vọng, Đồng Thiện Xã cấu kết với quân phiệt Nhật Bản, đưa phế đế Phổ Nghi của Thanh Triều về làm hoàng đế Mãn Châu Quốc; đồng thời gây bạo loạn nhiều nơi nhằm lật đổ Quốc Dân Đảng. Do vậy, chánh quyền Quốc Dân Đảng thay đổi thái độ, đàn áp Đồng Thiện Xã. Năm 1948, Bành Nhữ Tôn triệu tập hội nghị khẩn cấp tại Thượng Hải, ra lệnh cho tín đồ cướp vũ khí của quân Quốc Dân Đảng. Sau khi Hoa Lục rơi vào tay Mao Trạch Đông, thế cùng lực kiệt, Bành Nhữ Tôn nuốt vàng tự tử tại Tứ Xuyên