Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên
Quyển
2
Phần
3
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ Trang
294. Thư trả
lời cư sĩ Đức Bồi (thư thứ nhất)
Thư
nhận được đầy đủ. Pháp Bảo Đàn Kinh chính là kinh điển trọng yếu của Thiền
Tông. Thiền Tông chỉ [chú trọng] hiểu rõ tự tánh, bọn độn căn chúng ta không thể
đạt được lợi ích thật sự [nơi tông này]. Nếu chẳng sâu xa, thiết tha, tận lực
tu tập, chắc sẽ đến nỗi hiểu lầm ý Lục Tổ, sẽ chẳng được lợi ích mà còn phạm lỗi.
Pháp môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, trước khi chưa thành Phật [ai nấy] đều
phải tu tập. Chúng ta đã chẳng thể đoạn Hoặc chứng Chân, cậy vào tự lực để liễu
sanh tử, mà nếu vẫn chẳng lấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm chí hướng, sự
nghiệp thì dù có tu tập cũng đều trở thành phước báo trong cõi trời người. Muốn
liễu sanh tử chắc phải tới năm con lừa[1]
(trong mười hai con giáp không có con lừa). Huống
chi tuổi đã sáu mươi hai; dẫu thọ được tám mươi cũng chỉ là [sống thêm được] mười
bảy, mười tám năm nữa, nhưng kỳ hạn cái chết của con người ai có thể làm chủ được?
Vì thế, hãy nên miệt mài chuyên tu Tịnh nghiệp. Tự mình đã tu Tịnh nghiệp, hãy
nên dạy quyến thuộc đều tu Tịnh nghiệp. Một là tạo lợi ích cho họ, hai là đề phòng
khi chính mình lâm chung bị quyến thuộc chẳng biết niệm Phật phá hoại chánh niệm
đến nỗi chẳng được vãng sanh!
Nay đặt pháp danh cho ông là
Huệ Canh, nghĩa là nương theo pháp môn Tịnh Độ được nói từ trí huệ của đức Phật
để tự hành, dạy người mà cày bừa, ngõ hầu trong là quyến thuộc, ngoài là người
đời cùng gieo thiện căn, cùng tu Tịnh nghiệp, đấy chính là ý cao tột của Y Doãn
khi cày ruộng Sằn[2]
dùng tiên giác để giác ngộ kẻ hậu giác vậy. Niệm Phật nhằm đối trị phiền não, tập
khí. Phiền não tập khí giảm được một phần thì công phu niệm Phật tiến được một
phần. Trong khi ấy (tức trong khi niệm Phật) hãy thường tự niệm tự nghe. [Bí
quyết] “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối” của Đại Thế Chí Bồ Tát chính là pháp chú trọng nơi Nghe.
Nay gởi cho ông và Huệ Chỉ mỗi
người một cuốn Tịnh Độ Ngũ Kinh, một cuốn Sức Chung Tân Lương. Thường tụng Tịnh
Độ Ngũ Kinh sẽ biết được cội nguồn duyên do của pháp Tịnh Độ, chẳng bị hết thảy
kinh luận, thiện tri thức lay chuyển, lung lạc. Đọc Sức Chung Tân Lương sẽ biết
cách dự phòng, chớ nên không thường xuyên luyện tập quyến thuộc! Những điều
khác đã nói tường tận trong Văn Sao, ở đây không ghi cặn kẽ. Lại gởi cho hai
người các ông một bộ Tịnh Độ Thập Yếu gộp chung vào một gói. Mong hãy sáng suốt
suy xét, từ rày hãy y theo những sách này mà tu tập, đừng gởi thư đến nữa, do
Quang mục lực suy yếu đến cùng cực, chẳng thể phúc đáp được!
295. Thư trả
lời cư sĩ Đức Bồi (thư thứ hai)
Đang
nhằm thời Mạt Pháp, con người căn cơ kém hèn, chỉ có một pháp Niệm Phật là phù
hợp căn cơ nhất. Có nhiều người hễ cầu đảo đều luôn bận tâm về chuyện con người
chẳng thể niệm tụng trọn hết kinh chú; chẳng biết hễ trì vạn đức hồng danh của
A Di Đà Phật còn có thể thành Phật, há chẳng thể tiêu tai được ư? Quán Thế Âm Bồ
Tát có duyên với thế giới này của chúng ta nhất, cũng nên niệm kèm thêm; chỉ cần
chí thành, cung kính, nhất định “hễ có cảm liền thông”. Dẫu cho tu trì lúc bình
thường hay do có chuyện bèn cầu đảo đều cùng phải coi trọng chuyện “ai nấy đều có
thể niệm được”. Tứ Xuyên nhiều lần tổ chức cầu đảo [nhưng không có hiệu quả,
nguyên nhân] chánh yếu đều là vì không phải ai cũng niệm được chú Lăng Nghiêm,
khiến cho người [ngoài cuộc cảm thấy] đáng cười, đáng thương thay! Những kẻ [đứng
ra tổ chức những pháp hội cầu đảo] ấy thuộc hạng ưa ăn nói lớn lối, thích làm
chuyện khó khăn, chính họ làm thì được nhưng bảo nam nữ trọn tỉnh Tứ Xuyên đều
niệm thì lại không thể niệm được! Họ chẳng biết rằng: Niệm Phật, hay niệm Quán
Âm, đứa trẻ lên ba cũng niệm được! Sau này, ông tổ chức Liên Xã để cầu đảo, hãy
nên lấy niệm Phật, niệm Quán Âm làm chánh thì lợi ích lớn lắm. Hơn nữa, cố
nhiên nhiều liên xã thì tốt, nhưng nhiều mà tràn lan hỗn loạn thì không nên. Đừng
chú trọng [lôi kéo người gia nhập liên xã] cho đông đến nỗi xen lạm, tràn lan, hỗn
tạp thì công chẳng cự được lỗi đâu!
296. Thư trả
lời cư sĩ Đức Bồi (thư thứ ba)
Tam
Thời Hệ Niệm chính là do người đời sau soạn ra, đội tên Trung Phong quốc sư[3].
Sách ấy có hai loại[4],
ý tưởng chung giống nhau, nhưng văn tự không thật giống nhau cho lắm. Sách ấy vốn
dùng để đề xướng trong lúc [tu tập] lúc bình thường, sao lại dùng để trợ niệm? Trợ
niệm phải nên chuyên nhất niệm Phật. Nếu đến lúc sắp chết, ngay cả kinh A Di Đà
cũng không niệm thì mới có thể làm cho tâm người sắp mất gom về một chỗ được! Theo
sách ấy, pháp sư thăng tòa, vừa niệm xong bèn giảng nói một đoạn, đại chúng ngồi
nghe [pháp sư] giảng nói xong bèn niệm Phật một lượt. Đấy chính là coi trọng giảng
nói, coi niệm Phật là phụ. Người soạn ra sách ấy quả thật chẳng biết đạo trợ niệm,
nhưng kẻ chẳng biết pháp môn Tịnh Độ trong cõi đời lại dùng [nghi thức ấy] để làm
Phật sự trợ niệm, cũng đáng than thở lắm!
Trợ niệm lúc lâm chung chuyên lấy
Phật hiệu làm chánh. Hoằng Hóa Xã có sách Sức Chung Tân Lương nói cặn kẽ về
pháp tắc, đọc sách ấy sẽ biết cách trợ niệm, chứ không chú trọng giảng bày những
sự lý chẳng thiết yếu hao tốn thời gian. Nghe nói quý xứ bị nạn binh đao, nên
chẳng dám gởi [sách tới]. Nếu nạn binh đao đã dứt, hãy nên gởi tiền sang thẳng chùa
Báo Quốc ở Tô Châu để thỉnh. Mỗi gói sách ước chừng hai đồng; hiện thời giấy đắt
gấp mấy lần, hai đồng vẫn chưa đủ giá vốn. Nếu tính theo giá vốn phải là ba bốn
đồng. Nếu tiền nhiều thì tăng thêm sách, nếu ít thì giảm bớt sách. Nếu còn dư
đôi chút sẽ gởi trả lại [số tiền thừa] bằng bưu phiếu.
Thời cuộc gian nan, gởi thư xuông sẽ không trả lời. Hơn nữa, cước phí bưu điện mỗi tháng đều tăng; cứ chuyển một lần xe hơi thì mỗi gói lại tăng thêm bốn cắc; chuyển lần thứ hai, thứ ba đều chiếu theo đó [mà tính]. Nhưng chỉ giao cho bưu điện, có giấy tờ chứng nhận là hết, còn gởi đến nơi hay không, họ không chịu trách nhiệm, vì có lúc gặp phải binh lính hay thổ phỉ [ngăn chặn]. Đang trong thời thế này, hoằng pháp rất khó. Chuyện tương lai càng khó dự liệu. Quang từ khi tới Linh Nham, chuyên một mực đợi chết, chẳng qua là biết biện pháp nên mới nói cho ông biết đấy thôi. Quang mắt chẳng đọc được chữ, phải nhờ vào kính lão lẫn kính lúp để gắng gượng đọc và trả lời. Từ rày đừng nên gởi thư đến nữa, do Quang không có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp. Sẽ hỏi bưu cục, nếu như gởi sách được, sẽ gởi cho ông một gói. Từ nay về sau xin hãy tiếp xúc Hoằng Hóa Xã để thỉnh sách, chứ Quang không thể giới thiệu được! (ngày Rằm tháng Ba)
297. Thư trả
lời cư sĩ Đức Bồi (thư thứ tư)
Trong
Mật Tông, nếu chưa được A Xà Lê truyền dạy, chẳng được tụng chú, kết ấn. Nếu
không, sẽ bị coi là trộm pháp. Điều này nhằm thể hiện ý nghĩa tôn trọng [Mật
pháp] tột bậc. Nếu có vị A Xà Lê đạo đức, cố nhiên nên thỉnh vị ấy truyền dạy. Nếu
không, chính mình chí tâm chân thành niệm tụng, ắt sẽ có cảm ứng. Đã có cảm ứng,
chẳng đến nỗi mắc tội. Nếu nhất quyết là có tội, [chấp rằng] “chưa được truyền
dạy mà niệm tụng, kết ấn đều sẽ gặp họa” thì nay tôi nêu một thí dụ. Như có người
đọc sách, làm theo những điều sách dạy, sẽ trở thành học trò của thánh hiền, lấy
thân mình làm gương cho mọi người, khiến cho ai nấy đều giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các
điều lành, đấy chính là “chẳng nắm giữ địa vị mà dạy dân” và cũng thay đổi được
phong tục, bù đắp chỗ khuyết thiếu trong sự cai trị, chẳng có kẻ nào chê người ấy
sai trái được!
Nếu tự cho chuyện mình đã làm vượt trỗi chuyện do quan địa phương làm, bèn phát hiệu lệnh để thực hành đạo “yêu dân, chuyên cần việc công” thì sẽ gần như là kẻ phản loạn, ắt sẽ bị hình phạt của quốc gia giáng xuống! Xin hãy suy nghĩ cặn kẽ để chính mình khỏi nghi ngờ, lầm lẫn! Đang trong lúc nhân dân khốn khổ, gian nan, không nơi nương tựa này, kẻ chẳng cậy vào sức kinh chú của Phật, Bồ Tát mà được yên ổn thì hiếm hoi lắm. Nếu chấp chết cứng “chưa được truyền dạy mà niệm chú, kết ấn đều phạm tội trộm pháp” thì nhân dân và cô hồn chưa được truyền dạy đều chẳng được hưởng pháp ích (lợi ích từ nơi Phật pháp). Những ai đã được hưởng pháp ích ắt sẽ chẳng đến nỗi do nương theo đấy tu trì mà gặp họa. Nếu suy luận theo lẽ này, hai đằng đều ổn thỏa, chẳng trái nghịch nhau! (ngày mồng Năm tháng Sáu)
298. Thư trả
lời cư sĩ Doãn Toàn Hiếu (thư thứ nhất)
Đạo
Hiếu lớn lao không gì ra ngoài được. Muốn được trọn vẹn, nếu không cùng gánh
vác thế pháp (pháp thế gian) lẫn Phật pháp sẽ chẳng thể [trọn vẹn] được. Đối với
thế pháp, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng
thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Với Phật pháp ắt phải
kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Dùng
những điều ấy để tự hành, lại còn dạy người khác, sao cho trong là gia đình,
ngoài là xã hội, hết thảy đồng nhân đều tu pháp này để mong liễu sanh tử ngay
trong đời này. Phật pháp có vô lượng pháp môn, tất cả hết thảy pháp môn đều phải
đoạn sạch Phiền Hoặc mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu có mảy may Phiền Hoặc
nào chưa đoạn hết thì vẫn chẳng thể thoát khỏi luân hồi!
Chỉ
có một pháp Niệm Phật hoàn toàn cậy vào Phật lực. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật,
nguyện thiết tha, chắc chắn có thể nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh.
So với hết thảy pháp môn khác, sự khó - dễ sai khác vời vợi một trời một vực!
Chúng ta đã không có đạo lực để đoạn sạch Phiền Hoặc, mà nếu chẳng chuyên chú lấy
niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm đại sự tự lợi lợi tha thì từ trần sa kiếp này
sang trần sa kiếp khác vẫn phải luân hồi trong sáu nẻo! Muốn trọn vẹn đạo Hiếu,
cố nhiên phải nên miệt mài tu trì Tịnh nghiệp. Sách ấy trước kia đã từng gởi
cho ông [Tưởng] Đặc Sanh khá nhiều; trong tháng Tám năm nay lại gởi [cho ông ta]
một trăm cuốn Tịnh Độ Ngũ Kinh. Hãy nên thường tụng kinh ấy sẽ hiểu đầy đủ lợi
ích của pháp môn Tịnh Độ.
Nay đặt pháp danh cho ông là
Huệ Phổ, nghĩa là dùng pháp môn Tịnh Độ được nói bởi trí huệ của đức Phật để
làm cho khắp mọi đồng luân đều cùng thoát khỏi sanh tử, luân hồi, để rốt ráo “trọn
vẹn lòng hiếu, thường được trời che chở, giúp đỡ”[5].
Tụng chú Đại Bi vào nước để trị bệnh thì tâm phải chí thành, khẩn thiết mới có linh
nghiệm. Mỗi ngày, trước khi trì chú, trước hết lễ Thích Ca, Di Đà và Thường Trụ
Tam Bảo. Nếu muốn giản tiện thì niệm Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam-mô
A Di Đà Phật, Nam-mô Thập Phương Nhất Thiết Chư Phật Nhất Thiết Tôn Pháp Nhất
Thiết Hiền Thánh Tăng (một lạy), ba lượt
xưng, ba lượt lạy như thế. Rồi niệm Nam-mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (ba
lạy), rồi niệm chú Đại Bi.
Biến đầu tiên, tay phải kết ấn
Bảo Thủ (tức là ngón cái trong bàn tay phải đè lên đốt đầu tiên của ngón
thứ hai (ngón trỏ), ngón thứ ba (ngón giữa), và ngón thứ năm (ngón út), còn
ngón thứ tư là ngón vô danh (ngón đeo nhẫn) thì duỗi ra) vẽ chữ Phạn “Án Lam” (Om Ram) trên nước; tay trái kết ấn Kim Cang Quyền
(ngón tay cái của bàn tay trái đè lên đốt cuối (tức đốt giáp lòng bàn
tay) của ngón thứ tư (vô danh). Ngón thứ hai (ngón trỏ), ngón thứ ba (ngón giữa),
ngón thứ năm (ngón út) đè lên trên ngón cái. Nếu khó thể thường kết ấn được thì
không kết cũng không sao. Hoặc kết ấn lúc bắt đầu niệm và lúc gần niệm xong
cũng được. Hễ lúc nào trì chú đều nên kết ấn này).
Niệm chú Đại Bi bao nhiêu biến đó, lúc sắp xong lại kết ấn Bảo Thủ, vẽ hai chữ
Án Lam. Vẽ như vậy vào lúc khởi sự niệm biến chú Đại Bi cuối cùng. Niệm chú Đại
Bi xong, chiếu theo số biến chú Đại Bi [đã niệm] mà niệm hai chữ “Bộ-lâm” (Bhrūm)[6] chừng đó biến, niệm nhiều hơn cũng được. Niệm chữ Bộ-lâm
này để cầu được nhanh chóng viên mãn thành tựu. Chẳng tham danh, chẳng tham lợi,
chỉ muốn cứu người bệnh khổ sẽ có linh nghiệm. Nếu trì tụng đã được linh nghiệm
rồi mà tham danh lợi hoặc phá giới, sẽ chẳng còn linh nghiệm nữa! Phàm mọi chuyện
không chuyện gì chẳng lấy chí thành làm căn bản.
Quang già rồi, mục lực suy yếu tột bậc, dùng cả kính lão lẫn kính lúp mới gắng gượng đọc thư và viết thư được. Thư ông gởi đến đã mấy ngày, do bận bịu nên [trả lời] chậm trễ, cho nên gởi thư [trả lời] theo đường máy bay cho nhanh. Từ nay đừng gởi thư tới nữa, tôi đã cho đăng lời thông báo này trên tờ Tân Văn vào ngày Mười Ba hôm sau, đăng trên tờ Thân Báo vào ngày Mười Bốn hôm sau nữa, đăng trên Phật Học Bán Nguyệt San vào ngày Rằm để cự tuyệt hết thảy thư từ bởi mục lực lẫn tinh thần chẳng thể thù tiếp được (Một Lá Thư Trả Lời Khắp chính là bài văn “tùy cơ lợi người” rất quan trọng. Toa thuốc Cai Nghiện Ma Túy hết sức hiệu nghiệm. Toa thuốc Trị Bệnh Sốt Rét không ai chẳng được trị lành. Toa Thuốc Trị Chó Dại Cắn cũng hết sức linh nghiệm). Nếu quân nhân có thể lấy chuyện “trừ bạo, an lương”[7] để răn nhắc binh sĩ, coi cha mẹ, anh em trai, chị em gái của trăm họ như cha mẹ, anh em trai, chị em gái của chính mình, chỉ mong họ chẳng bị tổn hại, chẳng dám cậy vào oai thế của quân đội để lừa dối, lấn hiếp, gian dâm thì sẽ là cứu tinh của trăm họ, phàm đi đến đâu thiện thần đều ủng hộ. Đấy gọi là “hoa sen trong lửa”. Nếu binh lính biết nghĩa này sẽ không trận nào chẳng thắng, thiên hạ tự nhiên thái bình vậy! (ngày Mười Hai tháng Mười Một)
299. Thư trả
lời cư sĩ Doãn Toàn Hiếu (thư thứ hai)
Đã
nhận được thư từ mấy hôm trước, liền bảo Hoằng Hóa Xã gởi Kinh Chú Tuyển Lục,
Văn Sao, Tịnh Độ Ngũ Kinh, lấy hai mươi đồng làm hạn. Do bận bịu, chẳng rảnh rỗi
để trả lời thư. Hôm qua lại bảo gởi cho ông những sách như Thập Yếu, Gia Ngôn Lục
v.v… lấy hai mươi đồng làm hạn. Chỗ ông thỉnh sách chẳng dễ, còn tiền thì Quang
không dùng để cứu trợ tai nạn cũng dùng để in sách. Gởi sách cho ông so ra hợp
lý hơn [gởi cho] những nơi khác, chỉ giữ lại mười đồng để tự dùng. Pháp danh của
cha mẹ và vợ ông được viết riêng trong một tờ giấy khác. Điều trọng yếu là quyết
định cầu sanh Tây Phương.
Cha mẹ ông đã già, hãy nên đọc
kỹ Sức Chung Tân Lương thì chẳng đến nỗi làm hỏng chuyện lúc họ lâm chung. Nếu
không, trong mười người hết chín kẻ đều vì lòng hiếu mà hại cha mẹ chìm đắm mãi
trong biển khổ sanh tử! Lại còn khi con cái vừa hiểu biết liền dạy dỗ thì mới
là lòng Từ thật sự. Khuyên trăm họ ai nấy đều hiểu nhân biết quả thì mới là đạo
căn bản để hưng khởi điều lợi, trừ thói tệ. Người học Phật ắt phải giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác,
vâng giữ các điều lành. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn đem dạy người
khác thì mới là đệ tử chân chánh của đức Phật. Những điều khác đã nói tường tận
trong Văn Sao, ở đây không viết cặn kẽ.
Gần đây, có người cho biết một
phương cách thần diệu để cai nghiện thuốc phiện, xin hãy bảo những người nghiện
dùng thử. Nếu linh nghiệm, hãy nên truyền bá rộng rãi hòng diệt gốc họa ấy. Dùng
một tấm vải Tây màu đỏ vuông vức một thước, cắt thành hai mươi bốn miếng. Trước
khi hút thuốc, dùng que tiêm thuốc phiện cắm lên trên đầu [mảnh vải ấy] rồi đốt
trên một cái chén. Đem tro rớt vào trong chén hòa nước sôi uống rồi mới hút thì
chẳng đợi uống hết hai mươi bốn miếng vải đã không còn nghiện ngập nữa, cũng chẳng
niệm chú. Nếu linh nghiệm, tức là trời đã giúp [cho chúng ta] diệt được mối tai
họa này. Thêm nữa, bài thuốc trị bệnh sốt rét được chép ở cuối toa thuốc trị
nghiện thuốc phiện đã gởi lần trước cực linh nghiệm, không ai chẳng được trị
lành.
Còn bệnh cùi[8] là bệnh từ xưa đến nay trong ngoài nước đều chẳng trị được (chỉ có thể giảm nhẹ, chứ chẳng thể lành bệnh hoàn toàn). Năm Dân Quốc 21 (1932), một đệ tử là ông Bàng Tánh Tồn tìm được phương thuốc có thể trị lành bệnh hoàn toàn. Hiện thời các tỉnh đều có loại thuốc cao[9] [chế theo toa thuốc ấy] để giúp người. [Toa thuốc ấy] được chép thêm vào cuối sách Sơ Cơ Tiên Đạo. Nói chung đã nêu lên cách chế biến, sử dụng thuốc, nhưng ít nói [cặn kẽ] về lúc sắc thuốc: Phải dùng một miếng ván dài, rộng hơn một hai tấc [làm đũa khuấy], phía dưới vát xéo góc [và miếng gỗ phải đủ dài] cho đụng đến đáy nồi. Phải thường cạo khuấy tới tận đáy để thuốc khỏi bị cháy khét dưới đáy nồi, mất công hiệu. Sắc thuốc liên tục sáu tiếng đồng hồ, bỏ bã (xác) thuốc. Lại đem nước thuốc cô đặc trong sáu tiếng đồng hồ nữa. Nếu chẳng cạo khuấy tận đáy, ắt thuốc sẽ đọng lại cháy khét ở đáy nồi. Thuốc này còn trị được bịnh phong thấp, chứ không phải chỉ bệnh cùi. [Chỉ dùng] một vị thuốc là cỏ Thương Nhĩ[10], chẳng thêm một vị thuốc nào khác nữa! Nếu chẳng nhận biết được loại cỏ này thì vào mùa Hạ đến tiệm thuốc mua dăm hạt Thương Nhĩ cầm về, xem loại cỏ nào có hạt giống như loại hạt ấy thì nó chính là cỏ Thương Nhĩ. Tôi đã bảo chép toa thuốc này vào sau cuốn Niệm Phật Khẩn Từ (ngày Ba Mươi tháng Mười)
300. Thư trả
lời cư sĩ Lộ Viên
Học
Phật mà chẳng muốn làm bậc đại thông gia, chỉ chuyên tâm dốc chí nơi pháp môn Tịnh
Độ, có thể nói là “đã có huệ căn từ đời trước, có con mắt chọn lựa pháp”. Đã muốn
giải quyết đại sự cho xong ngay trong đời này, hãy nên lấy Tịnh Độ Ngũ Kinh làm
thường khóa. Niệm kinh Kim Cang cũng được, mà không niệm cũng được, chẳng sao cả!
Chiều tà đường xa, cố nhiên tâm hãy nên chuyên nhất. Ban đêm niệm Phật, còn ngày
thì nghiên cứu đủ loại kinh luận, chắc sẽ đến nỗi tinh thần chú trọng tìm hiểu
ý nghĩa, khó thể đạt đến nhất tâm nơi Tịnh nghiệp được. Chủ - khách đảo lộn vị
trí, về mặt gieo thiện căn thì có, nhưng nơi phương diện giải quyết xong đại sự
sẽ bị thiếu sót! Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông. Nếu
đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt được nhất tâm bất loạn
vẫn có thể vãng sanh.
Các hạ lấy nhất tâm bất loạn làm điều mong mỏi, nhưng hằng ngày chỉ nghiên cứu các thứ kinh luận, dường như chẳng phù hợp với điều mình mong mỏi cho lắm! Còn chuyện quy y hay không đều chẳng quan trọng. Đã chẳng chịu tự nhún mình thì không quy y còn tốt hơn! Tận lực tu Tịnh nghiệp, vãng sanh Tây Phương, thân cận Di Đà Thế Tôn, chẳng cần phải tôn ông Tăng hèn kém tầm thường làm thầy. Quang và các hạ cùng là bầu bạn trong hội Liên Trì, chẳng cần phải dùng danh hiệu giả tạo ấy để tự nhún nhường. Nếu [người nào] muốn quy y, quyết chẳng thể vì [kẻ xin quy y] không chịu khuất mình mà chấp nhận; bởi đấy chính là quy định thường hằng về chuyện phá hoại hay duy trì pháp hóa vậy! (ngày Hai Mươi Mốt tháng Ba năm Ất Hợi - 1935)
301. Thư trả
lời cư sĩ Thừa Ân
Thư
nhận được đầy đủ. Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, vốn không
có tư cách làm thầy người khác, nhưng do một người truyền hư, mọi người đều tin
là thật! Đến nỗi mười mấy năm qua thường có người viết thư hỏi han duyên do tu
trì. Bất luận người ta ăn nói như thế nào, Quang đều trả lời. Chỉ có ai xin quy
y mà chẳng chịu nhún mình thì Quang sẽ nói mềm mỏng, hoặc nói rõ ràng nguyên
nhân để đôi bên chẳng bị mắc tội khinh pháp, mạn pháp mà thôi! Nên biết rằng Phật
pháp có hai loại “trụ trì pháp đạo” (duy trì pháp đạo) và “trực thị Chân Tế” (dạy
thẳng vào Chân Thể, Thật Tướng) khác biệt. Mang phận phàm phu thì phải hành
theo luật nghi. Nếu không, sẽ thành khinh pháp! Khinh pháp sẽ chẳng thể tăng
trưởng thiện căn cho người ấy được (trong Luật đã nói rộng về hình tướng
này). Nếu như người cầu pháp lễ mạo không cung
kính sẽ chẳng nói với người ấy, huống là cầu quy y Tam Bảo ư?
Đối với người hỏi pháp, cố
nhiên Quang chẳng quá cố chấp. Chỉ có kẻ cầu quy y mà chẳng tự nhún mình, Quang
quyết chẳng dám chấp nhận. Không phải vì mong được người ta cung kính để tự đại,
mà chính là muốn cho người ấy sanh lòng kính tín [Tam Bảo] sâu xa hòng được lợi
ích thật sự. Dẫu là bậc Pháp Thân đại sĩ đã chứng Thánh Quả, nhưng nếu hiện
thân phàm phu thì vẫn phải tuân theo lễ nghi thế gian mà làm! Nếu hiện thân
thánh nhân thì hoàn toàn chẳng theo quy củ nhất định nào! Như trong kinh Pháp
Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát lễ khắp tứ chúng, thọ ký cho họ rằng: “Tôi chẳng dám khinh quý ngài. Quý ngài đều
sẽ thành Phật”. Thậm chí tứ chúng dùng roi, gậy, ngói, đá, đánh ném, bèn chạy
né ra xa đứng, rồi lại lễ bái, xưng tán. Đấy chính là quy củ rộng lớn của bậc Đại
Bồ Tát nhằm chỉ thẳng vào Chân Tế, phàm phu nào dám bắt chước bừa bãi! Bắt chước
bừa bãi sẽ hoại loạn pháp đạo, mắc lỗi cực lớn! Quang sợ lỡ cư sĩ thấy trong
kinh có hành vi ấy, chắc sẽ nghĩ cách “trụ trì pháp đạo” là sai, nên mới nói đại
lược duyên do của hai thứ sai khác, ngõ hầu ông không còn nghi ngờ, bàn bạc gì
nữa!
Đã muốn quy y thì đành đem lầm đáp lạc. Nay đặt pháp danh cho cư sĩ là Đức Thành. Thành là cội gốc của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, nhưng càng phải nên chú trọng pháp môn Tịnh Độ. Vì pháp này có thể dùng Nhân Địa Tâm khế hợp được Quả Địa Giác. Dẫu là phàm phu sát đất vẫn có thể thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, lên chín phẩm sen kia ngay trong đời này, cùng bầu bạn với Quán Âm, Thế Chí. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, ở đây không ghi cặn kẽ. Quang mục lực quá suy, chớ nên gởi thư tới. Nếu thường đọc Văn Sao thì đối với một pháp Niệm Phật sẽ không nghi ngờ nghĩa lý nào nữa! Nếu cứ nghiên cứu kinh luận tràn lan thì Quang chẳng thể nào tuyên nói được! (ngày mồng Bảy tháng Năm năm Ất Hợi - 1935)
302. Thư trả
lời cư sĩ Giác Tăng
Nhận
được thư biết ở Thanh Hải vẫn có người hoằng dương pháp môn Tịnh Độ, khôn ngăn
vui vẻ, an ủi! Quang già rồi, mục lực lẫn tinh thần đều không đủ. Tất cả thư từ
đều nhất loạt chẳng hỏi đến nữa, thư nào không quan trọng khẩn yếu bèn bỏ mặc.
Có thư nào quan trọng khẩn yếu thì vị Thư Ký trong chùa viết thay. Do ông ở xa
lại có chuyện cần sách nên mới đặc biệt đưa cho Quang đọc. Quang sớm chẳng bảo
đảm được tối, tất cả chuyện nhờ cậy bút mực đều nhất loạt chẳng thể đáp ứng được.
May là mấy năm trước có viết bài tựa cho Cư Sĩ Lâm ở Triều Dương, Quảng Đông, một
đệ tử ở huyện Thường Thục tỉnh Giang Tô thấy bài ấy được đăng trong bán nguyệt
san bèn chép lại, cho in thạch bản, gởi cho Quang năm mươi phần, vẫn còn một phần,
nay đem gởi cho ông. Văn tuy vụng về, chất phác, nhưng ý nghĩa chấp nhận được.
Chỉ cần sửa đổi địa danh, tên người, thỉnh người viết chữ đẹp viết theo lối chữ
Khải to chừng hai tấc, hoặc cho khắc ván, hoặc đem dán lên bảng để những ai đến
đấy đều đọc được. Chớ nên dùng các lối chữ viết thiếp, Tục Thể, chữ Lệ, chữ Thảo,
vừa tỏ rõ ý kính trọng, vừa dễ đọc. Phàm những dấu chấm câu đều dùng dấu khoanh
tròn (o) để người kém học vấn cũng đọc được thành câu.
Hiện thời gởi sách hết sức khó khăn. Ông muốn quy y thì đặt pháp danh cho ông là Khế Giác. Từ rày đừng gởi thư đến nữa, một là vì sớm chẳng bảo đảm được tối, hai là không có sức để thù tiếp. Tôi đọc qua bài vãng sanh ký của vị pháp sư nọ, tôi cho rằng “hãy nên dựa theo sự thật viết ra bài khác”, đừng nên “chuyện không, nói có” khơi gợi cho kẻ vô tri bắt chước theo! Nếu [bịa đặt, tô vẽ] thì dường như là hoằng pháp nhưng thật ra đã tạo thành đầu mối tranh cãi khiến cho đạo pháp suy bại, gây họa lớn lắm. Vị pháp sư ấy lúc lâm chung không cho các cư sĩ đến, sau khi tắt hơi rồi mới cho họ đến, [tức là] ông ta chưa thể suy nghĩ sâu xa về chuyện trợ niệm. Vì sao vậy? Lâm chung được mọi người trợ niệm sẽ chẳng đến nỗi có chuyện phá hoại chánh niệm. Hơi thở đã bặt, nhưng thật ra chưa chết liền, lỡ gặp phải kẻ vô tri thò tay thăm dò hơi nóng, hoặc cho là đã chết, xúm nhau bàn luận om xòm, chắc sẽ bị hỏng việc! Đã chẳng cho người khác tới thì phải hạn định sau khi tắt hơi trong vòng năm tiếng chẳng cho ai đến. Nếu chưa tắt hơi bèn trợ niệm thì sau khi tắt hơi, chắc chắn chẳng có những hành vi kinh động, ầm ĩ khác. Từ rày trợ niệm chớ nên y theo pháp ấy! (ngày Mười Tám tháng Năm)
303. Thư trả
lời cư sĩ Đức Minh
Đang trong đại kiếp này, hãy nên khuyên mọi người nhất trí tiến hành cầu sanh Tây Phương. Nếu không, nỗi khổ mai sau sẽ càng nặng nề hơn vì lòng người ngày càng độc ác, cách giết người ngày càng tinh vi, [thế giới] sẽ trở thành địa ngục nơi nhân gian, huống chi do ác tâm mạnh mẽ ấy sẽ chiêu cảm địa ngục thật sự ư? Nếu là người có hiểu biết, nghe nói như vậy, chắc chẳng đến nỗi coi thường bỏ qua. Sau này có ai tin tưởng, hãy bảo họ quy y với vị Tăng ở địa phương. Quang mục lực lẫn tinh thần đều không đủ, hơn nữa sớm chẳng bảo đảm được tối, chắc sẽ thành uổng công [quy y] (ngày mồng Hai tháng Giêng).
304. Thư trả
lời cư sĩ Phùng Thần
Quang
xuất gia năm mươi lăm năm, trọn chẳng nói một câu nào dạy người khác xuất gia,
bởi con người hiện thời sau khi xuất gia đều biến thành hạng lười nhác, biếng
trễ! Đấy chính là bậc thượng, chứ bậc hạ sẽ phá trai, phạm giới, không chuyện
gì chẳng làm! Vì thế, tôi thề chẳng thâu nhận đồ đệ, chẳng khuyên người khác xuất
gia (Đây vẫn là tình hình thời triều Thanh, chứ từ thời Dân Quốc đến
nay, chánh phủ nhiều lần muốn đuổi Tăng, chiếm đoạt tài sản. Rất nhiều ngôi
chùa lớn ở Quảng Đông, Thiểm Tây, Hà Nam đều bị phá hủy, sửa đổi [thành cơ sở
khác], nhưng do vẫn có những vị Tăng - tục cực lực chống đỡ, nên vẫn còn kéo
dài được với năm tháng. Nếu không, cả nước đã sớm trọn chẳng nghe thấy dấu
tích, danh hiệu tăng sĩ rồi!)
Ông tu trì tại gia là cách tu trì ổn thỏa thích đáng nhất. Tôi đã bảy mươi lăm tuổi, sẽ chết trong sớm tối, một thân vẫn hiềm là nhiều, nào chịu thâu nhận đồ đệ! Nếu chẳng nghe lời tôi, tức chẳng phải là đệ tử quy y với tôi. Mặc cho ông làm sao thì làm, ông đừng gặp tôi. Gặp tôi thì nước tôi cũng không cho ông uống! Tôi chăm sóc cho chính tôi còn không xong! Ông muốn dùng một lá thư xin quy y để buộc tôi cả đời phải lo toan cho ông, tôi đâu có tinh thần, tài lực để lo liệu cho kẻ chẳng nghe lời thầy dạy dỗ như vậy! Ông nghĩ xuất gia là chuyện sung sướng lớn lao, đâu biết tăng chúng ngày nay đúng là không còn có sanh lộ nào để đi được nữa! Muốn tìm đường chết thì cần gì phải tìm lối xuất gia? (ngày Hai Mươi Bốn tháng Chạp năm Dân Quốc 24 - 1935)
305. Thư trả
lời cư sĩ Bái Trúc (thư thứ nhất)
Quang già rồi, tinh thần lẫn mục lực đều không đủ; lại còn [tu chỉnh] ba bộ Sơn Chí chưa xong, đấy là chuyện cấp bách chẳng thể trì hoãn được. Vì thế, gần đây cự tuyệt hết thảy mọi sự sai khiến viết lách, ngõ hầu những bộ Sơn Chí ấy sớm được hoàn thành. Nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Trúc, nghĩa là nương theo Phật tu trì, giống như cây trúc lòng rỗng, đốt thẳng, thách đố sương tuyết, chẳng thuận theo thói tục! Những điều khác đã viết tường tận trong Một Lá Thư Trả Lời Khắp, hãy nên hành theo đó. Từ nay về sau đừng gởi thư tới nữa; gởi tới quyết chẳng trả lời. Cũng đừng giới thiệu người khác đến quy y để đôi bên khỏi nhọc trí, tốn công, mà cũng chẳng có ích lợi gì! (ngày mồng Mười tháng Chạp năm Quý Dậu - 1933).
306. Thư trả
lời cư sĩ Bái Trúc (thư thứ hai)
Ông
muốn mẹ vãng sanh Tây Phương, muốn cho cha thân tâm mạnh khỏe, sống hưởng yên
vui, mất về Tịnh Độ, hãy suất lãnh gia quyến già - trẻ - trai - gái cùng nhau sốt
sắng niệm Phật để mong Phật từ gia bị tiêu diệt tội nghiệp, tăng trưởng thiện
căn, há chỉ nên chú trọng lấy trăm câu hay ngàn câu niệm Phật [làm hạn]? Trong
cõi đời, kẻ làm công cho người khác vì một hai cắc bạc mà vất vả suốt ngày chẳng
nghỉ. Ông lại ngược ngạo coi chuyện lớn lao này chẳng đáng siêng nhọc bằng cầu
một hai cắc bạc, cho nên không có cảm ứng cũng chẳng lạ gì! Nếu cảm đến cùng cực,
chắc chắn chẳng lẽ nào không ứng! Ông cảm kiểu đó vẫn là hời hợt, hờ hững, làm
sao tiêu được nghiệp chướng lớn lao trong đời này, đời trước cơ chứ? Các quyến
thuộc của ông niệm Phật cho cha mẹ, so với chuyên niệm cho chính mình công đức
càng lớn hơn vì có tấm lòng hiếu thảo vậy!
Hiện tại, thời cuộc nguy hiểm, chẳng biết chiến sự sẽ nổ ra lúc nào mà vẫn chẳng chịu niệm. Nếu tới lúc phải đương đầu với sát kiếp, thử hỏi sẽ trông cậy vào đâu? Bệnh của cháu ông cũng là do túc nghiệp. Xem [tình trạng của] cha mẹ và cháu ông, đủ biết nhà ông nhiều đời rất thiếu đức. Nay hãy nên luôn lưu tâm, tận lực vun bồi, lại còn khuyên hết thảy mọi người cùng tu Tịnh nghiệp để vãn hồi. Sau này sẽ được sự mừng vui “tai lui, hên nhóm”. Thượng Bân đã muốn quy y, nay đặt pháp danh cho ông ta là Tông Nguyên. Nguyên là tăng trưởng các điều lành, mà cũng là ý nghĩa đầu tiên của quẻ Càn. Càn là trời, “Thiên Hành Kiện: Quân tử dĩ tự cường bất tức” (quẻ Thiên Hành Kiện: Quân tử tự gắng sức mạnh mẽ không ngừng), đấy là [lời giải thích trong phần] Tượng Từ [của kinh Dịch]. Nếu có thể tự gắng sức mạnh mẽ không ngừng niệm Phật, tự gắng sức mạnh mẽ không ngừng sửa lỗi, tu thiện, thân tâm chắc chắn được mạnh khỏe, có thành tựu lớn lao. Một Lá Thư Trả Lời Khắp chính là phương pháp để hết thảy mọi người cầu phước, cầu thọ, cầu lành bệnh, cầu sanh con. Nếu có thể y theo [lá thư ấy] để tự hành, dạy người thì vô biên lợi ích sẽ đều đích thân đạt được (ngày mồng Năm tháng Chín năm Giáp Tuất - 1934)
307. Thư trả
lời cư sĩ Bái Trúc (thư thứ ba)
Thư
đặt pháp danh quy y cho Thượng Bân đã sớm gởi đi rồi, chắc là bưu điện làm mất,
hoặc là người phát thư giao lầm. Nay lại đặt pháp danh khác cho ông ta là Tông
Thành. Tông là chủ, là gốc, nghĩa là lấy lòng Thành làm chủ, làm gốc, sẽ tự được
tiêu nghiệp lành bệnh, chuyển yếu thành mạnh. Nói đến chuyện nàng dâu cả của
người con trai thứ nhà ông bị điên cuồng cũng là do túc nghiệp gây nên; hoặc
cũng do bọn ngoại đạo thấy ông phản lại giáo pháp của chúng bèn sai tà quỷ, tà
thần quấy rối, muốn cho ông vẫn sùng tín giáo pháp của bọn chúng. Ông chẳng bị
lay chuyển thì người bệnh cũng chẳng bị lay chuyển, bọn tà quỷ tà thần kia cũng
không làm gì được người chánh khí đâu! Vì thế, ắt sẽ lành bệnh. Ngoại đạo phần
nhiều có loại tà pháp ấy để lừa gạt, khiến cho những kẻ vô tri vô thức u mê.
Nói đến chuyện đối trước đức Phật tự thọ Tam Quy Ngũ Giới thì qua lá thư gởi cho bà Từ Phước Hiền ở Từ Châu trong bộ Văn Sao, Quang đã có nói đến chuyện này, mong hãy tìm đọc. Thượng Bân đau khổ vì là người tàn phế, nhưng mỗi ngày chỉ niệm Phật hai ba ngàn câu; cớ sao mong mỏi lớn lao mà tu tập lại nhỏ nhoi đến thế? Hãy nên thường niệm suốt ngày, sẽ tự có thể đi lại như người mạnh mẽ được. Nói đến chuyện niệm Phật có lắm vọng tưởng thì hãy nên nhất tâm niệm, lắng tai nghe kỹ từng chữ từng câu, đừng để luống qua, lâu ngày chầy tháng, tâm tự quy nhất. Đấy là pháp niệm Phật tuyệt diệu nhất. Chương Đại Thế Chí [Niệm Phật] Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. “Nghe” chính là pháp “nhiếp trọn sáu căn”. Pháp này bất luận người thượng trung hạ căn sử dụng đều có lợi, không có điều tệ. Phàm với hết thảy mọi người đều nên lấy chuyện “lắng nghe” để bảo ban. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, ở đây không viết cặn kẽ (ngày mồng Năm tháng Mười năm Giáp Tuất - 1934).
Tam-ma-địa
(Samadhi) chính là tên khác của tam-muội, cõi này (Trung Hoa) dịch là Chánh Định
hay Chánh Thọ; ý nói nhất tâm niệm Phật, chẳng bị ngoại cảnh lay động, chẳng bị
tạp niệm xâm lấn. Vì thế, gọi là Chánh Định, Chánh Thọ.
308. Thư trả
lời cư sĩ Bái Trúc (thư thứ tư)
Tịnh
Độ Ngũ Kinh chính là căn bản của pháp môn Niệm Phật, hãy nên tặng cho người
thông hiểu văn lý, có tín tâm, biết cung kính. Đọc kỹ hai lời Tựa và một lời Bạt
của Quang sẽ liền biết được duyên do của pháp môn Tịnh Độ; rồi đọc năm kinh ấy
sẽ biết được pháp ấy rộng lớn, cao sâu, phàm lẫn thánh đều cùng hướng về. Niệm
Phật vọng niệm nhiều thì hãy nên lắng tai nghe kỹ. Đức Đại Thế Chí nói “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”
chính là ý này. Còn nói về Phổ Cập Niệm Phật Hội thì chính là bày ra cách để
khuyên mọi người niệm Phật, niệm Quán Âm, chứ chẳng có dụng ý chi khác. Tổng Hội
cũng chẳng có quyền cai quản, bất quá nhờ vào [danh nghĩa] đó để làm cho người
khác phát tâm mà thôi.
Đấy là duyên do đại lược vì sao cư sĩ Ổ Sùng Âm đề xướng vậy ([ông Ổ] biệt hiệu Hàn Thế Tử, người huyện Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Thượng Hải Đạo Đức Thư Cục do ông ta sáng lập). Ông ta khá hiểu Phật học, chưa mười phần thấu triệt, nhiệt tâm đề xướng, thật hiếm có trong thời gần đây. Những sách cần thiết sẽ gởi riêng cho ông. Mười ba đồng năm cắc ấy đều dùng để gởi sách, chẳng lâu nữa sẽ có năm gói Kỹ Lộ Chỉ Quy được gởi tới. Trong tháng Bảy sẽ gởi tới hai gói Vật Do Như Thử, xin hãy chia ra tặng. Hiện tại, thời cuộc nguy hiểm, bất luận già - trẻ - trai - gái đều nên niệm Phật và niệm Quán Âm để dự phòng. Nếu không, khi đại kiếp đối đầu sẽ nương cậy vào đâu? Quang già rồi, mục lực suy đến cùng cực. Từ nay về sau đừng gởi thư tới nữa. Dẫu sách được gởi đến cũng chỉ gởi thiệp báo “đã nhận được rồi” mà thôi. Từ rày để thỉnh kinh sách hãy tiếp xúc trực tiếp với Hoằng Hóa Xã, đừng nhờ Quang chuyển, cũng đừng giới thiệu [người khác] đến quy y vì mục lực chẳng đủ, chẳng thể thù tiếp được! Chỉ để đọc và trả lời lá thư lần này, đã phải dùng cả kính lão lẫn kính lúp để gắng gượng thù tiếp vậy (ngày mồng Tám tháng Năm năm Bính Tý - 1936)
309. Thư trả
lời cư sĩ Bái Trúc (thư thứ năm)
Kẻ ngu trong thế gian thường thích lập môn hộ, lấy trộm những lời lẽ từ Tam Giáo lập ra đạo “bí mật, chẳng được nói công khai với người khác!” Do đạo ấy “bí mật” nên người khác chẳng biết nội dung, đều xúm xít đi theo đạo ấy như nhặng xanh bu theo mùi thối. Do trước khi được truyền trao đạo pháp, [người xin nhập đạo] phải thề độc, nên kẻ ngu dẫu chết cũng chẳng dám phản bội. Hết thảy ngoại đạo trong thế gian đều cậy vào hai pháp này (tức “chẳng được kể với người khác về pháp mình đã được truyền” và “thề độc sẽ gặp tai ương dữ dội nếu bỏ đạo”) để truyền khắp thiên hạ, không sao diệt được! Nếu bọn chúng không có hai pháp này thì không một loại ngoại đạo nào có thể tồn tại trên thế gian được! Các ông may mắn thoát khỏi nẻo mê, trở về đường chánh, hãy nên giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, nghiêm túc tuân phụng Phật pháp. Pháp danh của hai ông Vũ và Tả được viết trong một tờ giấy khác, gởi cho hai người ấy mỗi người bốn gói sách thay cho lời khai thị, mong ông hãy nói rõ với bọn họ. Trong năm nay sẽ có hai lần gởi chừng đó cuốn sách nữa (ngày Mười Ba tháng Tám)
310. Thư trả
lời Tịnh Độ Tông Nguyệt San Xã
Nhận
được tờ hoa, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Tịnh Tông được chư vị hoằng dương sẽ
khiến cho nhân dân khắp mọi giới đều được thấm nhuần ân trạch. Quang là người sẽ
mất trong sớm chiều, mắt đã quáng lòa, chẳng thể xem thư, viết chữ. Ngay như để
viết lá thư dở tệ này, phải đeo kính lão tám mươi hoa[11],
rồi lại cầm kính lúp[12]
để viết. Vì thế, cự tuyệt hết thảy những chuyện sai khiến bút mực. Nếu ngẫu
nhiên có thư từ gì, chỉ đáp sơ sài mấy câu, mà cũng chẳng giữ lại bản nháp, do
một mực chẳng giữ lại bản sao. Phật Học Thư Cục Bán Nguyệt San ngẫu nhiên có
đăng tải [những lá thư của Quang] cũng là do người nhận thư gởi đến, chứ Quang
chưa hề gởi cho họ một lần nào, huống là hiện thời mắt đã lòa ư? Báo được in ra
cũng đừng gởi tới, bởi chữ nhỏ chẳng thể đọc được, há nên biến vật hữu dụng
thành vô dụng ư? Đơn thỉnh sách [do quý vị gởi tới] đã giao cho Hoằng Hóa Xã. Hễ
gặp ai thỉnh kinh, hoặc người thông hiểu văn tự trọn vẹn thì gởi kèm thêm trong
gói sách, chắc sẽ có hiệu quả. Còn như người ở nơi ấy rất ít giao du với Quang nên
chẳng thể [biết ai mà] chia ra tặng được. Xin quý vị thương tôi già nua, bệnh
hoạn đang đợi chết mà đừng trách tội, cảm tạ khôn ngằn!
311. Thư trả
lời cư sĩ Dương Chân
Đọc
thư ông, biết tội ông thông đến tận trời! Nhưng cội nguồn tội ấy là do cha mẹ ông
một mực nuông chiều [khiến ông] quen thói kiêu ngạo từ bé, chẳng hề răn dạy; đến
khi tánh xấu đã thành hình mới tự hối hận. Đã vô ích cho con mà chính mình cũng
bị tổn hại! Đấy là căn bệnh chung của hết thảy mọi người trong thế gian này.
Nay nói toạc ra với ông, mong ông sẽ sanh được con cái hiền thiện. May là đời
trước ông còn có thiện căn, nửa chừng biết hối. Nếu đến chết vẫn không thay đổi
thì muốn thoát khỏi địa ngục, chỉ sợ khó mộng thấy được! Quán Thế Âm Bồ Tát đại
từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn. Do ông là người cực bất hiếu, cực dâm đãng, nhất
niệm chí thành xưng niệm liền được việc làm như ý. Những kẻ hủy báng Phật pháp,
muốn diệt Phật pháp đúng là đã hãm người đời sau trong thiên hạ vào biển khổ mà
vẫn nhơn nhơn tự đắc, khoe khoang công lao, hễ nghĩ tới liền khôn ngăn xót
thương những kẻ ấy!
Năm mười bốn, mười lăm tuổi, ông
đã phung phí nguyên khí, mười năm qua dâm dục vô độ, tinh thần bị tổn thương kể
sao cho xiết? Huống chi lại có hai người vợ trẻ! Nếu chẳng biết tiết dục thì chẳng
những không thể sanh con mà còn đến nỗi đoản mạng chết yểu! Từ nay trở đi, hễ
thấy phụ nữ của người khác hãy tưởng như mẹ, chị, em, con gái; xem hai cô vợ của
chính mình như đạo hữu. Ngày thường niệm Quán Âm, đêm đừng ngủ chung với hai cô
vợ. Dưỡng cho thân thể được hồi phục mười phần rồi mới làm chuyện vợ chồng một
lượt. Mỗi năm ăn ở với hai bà vợ một lần thì tình cảm vợ chồng ổn thỏa, mà đôi
bên đều chẳng bị tổn thương, chắc chắn sẽ sanh được con cái mũm mĩm, thông
minh, tâm tánh hiền thiện, không bệnh, trường thọ, có thể làm rạng rỡ gia đình,
làm khuôn mẫu cho người trong một làng. Nếu coi chuyện ân ái là điều vui thú
thì chuyện vui chưa lâu, khổ lớn liền tới. Tinh khô, thân chết, không thuốc nào
cứu được đâu!
Lại nên đem nghĩa này nói với
hai người vợ, mọi người cùng giữ điều răn cấm này thì sẽ có nhiều con cái tốt đẹp,
ba người bọn ông hạnh phúc đến già, sống thì hưởng Ngũ Phước, mất sẽ lên chín
phẩm. Nay gởi cho ông một bộ An Sĩ Toàn Thư, một cuốn Thọ Khang Bảo Giám, một
cuốn Gia Ngôn Lục, một bộ Quán Âm Tụng, một cuốn Sức Chung Tân Lương. Trong bộ
An Sĩ Toàn Thư có bốn tác phẩm: Đầu tiên là Âm Chất Văn Quảng Nghĩa giảng rộng
về ý nghĩa “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”; thứ hai là Vạn Thiện
Tiên Tư [khuyên] kiêng giết; thứ ba là Dục Hải Hồi Cuồng răn dâm; thứ tư là Tây
Quy Trực Chỉ khuyên tu Tịnh Độ. Quán Âm Tụng giảng rõ cặn kẽ sự linh cảm của đức
Quán Âm. Hễ đọc Thọ Khang Bảo Giám sẽ chẳng dám không tiết dục. Gia Ngôn Lục giảng
đầy đủ rõ ràng về những điều quan trọng trong tu trì. Sách này trích lục những
điều trọng yếu từ bộ Văn Sao. Đọc Sức Chung Tân Lương sẽ có thể làm cho mẹ ông
quyết định được vãng sanh Tây Phương.
Nay đặt pháp danh cho ông là
Tông Chân. Tông là gốc, là chủ. Nghĩa là khởi tâm, động niệm, xử sự đều mong
sao chân thật, chẳng dối. Chí thành, không dối thì mới là thiện nhân trong thế
gian, đấy cũng là tư lương để xuất thế. Đặt pháp danh cho Lý thị là Tông Trinh,
Hà thị có pháp danh là Tông Khiết. Nữ nhân lấy trinh khiết làm đức, huống chi
niệm Phật cầu sanh Tây Phương mà nếu chẳng lấy trinh khiết làm gốc thì thân tâm
ô uế chẳng tịnh, làm sao vãng sanh Tịnh Độ cho được? Ba người bọn ông bầu bạn
niệm Phật với mẹ, khuyên mẹ ông đừng cầu phước báo trời - người, chuyên cầu
vãng sanh Tây Phương. Nếu có thể giúp đỡ cho đạo nghiệp của mẹ thì là đại hiếu.
Dùng hiếu hạnh ấy để trừ cái tội bất hiếu trước kia, ví như do đất vấp té thì
cũng từ đất mà đứng dậy. Quang già rồi, mùa Đông năm ngoái ban đêm giảo duyệt
sách dưới ánh đèn điện nên mắt bị tổn thương nặng nề. Xem thư, trả lời thư đều
phải dùng cả kiếng lão lẫn kính lúp mới thấy lờ mờ. Từ nay về sau đừng gởi thư
tới nữa, cũng đừng giới thiệu ai quy y, cũng đừng do thỉnh kinh sách từ Hoằng
Hóa Xã mà tiện tay gởi thư cho Quang vì mục lực chẳng thể thù tiếp được!
312. Thư trả
lời cư sĩ Huệ Thái
Ban ngày giảo chánh đối chiếu những sách đã in và [đọc, trả lời] thư từ; lại có những người xin giám định [những tác phẩm tính in], không rảnh rỗi cho lắm. Tụng niệm công khóa vào canh năm ban đêm khá nhọc nhằn. Ông chớ nên chớm lên ý niệm xuất gia. Tuổi tác đã cao rồi, chẳng thể tham học được, chẳng thể khổ hạnh được, ai lại nuôi dưỡng một đồ đệ già nua như ông? Tại gia nhất tâm niệm Phật, đối với quyến thuộc lẫn chính mình đều có lợi ích lớn lao; còn xuất gia thì quyến thuộc vĩnh viễn chẳng có ngày thoát khổ. Quang thề chẳng thâu nhận đồ đệ, đừng nghĩ tới chuyện ấy nữa! Hiện thời có Ngũ Đài, Nga Mi, Cửu Hoa ba bộ Sơn Chí cũng như Linh Nham Sơn Chí chưa được sắp chữ, ấn hành; đợi đến năm sau khi các sách ấy được in xong, sẽ đi ở ẩn để mong chuyên tu Tịnh nghiệp. Nếu không, rốt cuộc sẽ chẳng có lúc nào được nhàn rỗi! Đã bảo [Hoằng Hóa Xã] gởi cho ông ba gói sách, đối với lá thư dài (tức Một Bức Thư Trả Lời Khắp) hãy nên cung kính cẩn thận sao lại một bản để lưu truyền trong gia đình. (ngày Hai Mươi Hai tháng Mười Một).
313. Thư trả
lời cư sĩ Huệ Chiêu
[Cho
tới] tháng Chạp năm ngoái, do phải giảo chánh bộ Lịch Sử Thống Kỷ suốt hơn hai
tháng để [nhà in] làm thành hai bức Chỉ Bản hòng in ra hai vạn bộ sách từ mỗi bức,
ngõ hầu nhờ vào đây mà vãn hồi thế đạo nhân tâm. Đến ngày Hai Mươi tháng Chạp mới
hoàn tất. Ngày hôm sau bị cảm lạnh, nằm bệnh hơn cả tuần. Nay tuy lành bệnh,
tinh thần vẫn chưa hoàn toàn bình phục. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ ở ẩn, nên mới
trình bày đại lược nguyên do. Trước đây, tôi đã bảo thầy Minh Đạo gởi mười gói
sách, chắc ông đã nhận được rồi.
Nói đến chuyện ông Mã quán tưởng
hữu hiệu thì cũng là do kiệt lòng thành, cạn lòng kính mà ra, chứ có lạ lùng, đặc
biệt gì đâu! Do một mình ông Mã [quán tưởng] được tương ứng, ông bèn nẩy sanh ý
niệm nghi ngờ đối với pháp do chư tổ Liên Tông thường dạy người (tức pháp Trì
Danh) thì có còn đáng gọi là người tin Phật, tin Pháp được chăng? [Phép] Quán Tưởng
vốn do đức Phật khai thị, nhưng do người đời thường chưa thể triệt để dứt bặt vọng
tưởng, dùng cái tâm bộp chộp, lầm lạc muốn mau chứng đắc để tu Quán sẽ rất nguy
hiểm. Đa số những kẻ xưa nay bị ma dựa là vì lẽ này. Vì thế, cổ đức nói: “Cảnh tế, tâm thô, quán khó thành tựu, có
thể dấy lên ma sự”, chứ không phải là trọn chẳng cho người khác tu Quán,
cũng chẳng hề nói: “Tu Quán đều bị ma dựa!”
Nay vì một mình ông Mã [tu
Quán] hữu hiệu, bèn nghi ngờ lời lẽ chân thật vì người của chư tổ sư từ trước đến
nay, đủ thấy ông và các bạn đều thuộc phường “trọng nay, khinh xưa!” Có kiến giải
giống như thế, ắt sẽ thấy lạ, nghĩ khác, tìm cầu những cái được gọi là “huyền
diệu, đặc biệt, lạ lùng”. Mai sau có kẻ đề xướng những pháp huyền diệu cao siêu
khác để gạt người, [thốt] lời cuồng vọng “khiến cho [người hành theo pháp ấy]
có thể thành Phật đạo trong một thời gian ngắn”, chắc ông sẽ thuận theo lời hắn
bỏ pháp này tu pháp ấy. Như bèo không rễ, bềnh bồng [trôi nổi] theo gió, “tin đạo chẳng chuyên dốc, làm được gì đâu?”
Khổng Tử đã sớm dự đoán điều này, cần chi Quang phải rườm lời nữa ư? Chỗ hay của
ông Mã là thành khẩn. Tuy chẳng biết đến nghi thức phát nguyện, nhưng do quán
niệm một trăm lẻ tám câu Phật hiệu, lại nói thêm câu “tiếp dẫn con đến Tây
Phương” thì đấy chính là “có nguyện”. Nhưng cái kiểu kèm thêm như vậy để niệm, chớ
nên bắt chước! Người đời nay hễ thấy một pháp nào hữu hiệu bèn chẳng buồn chọn
lựa, hoàn toàn tập hành theo, đến nỗi chưa được lợi ích thật sự mà trước hết đã
bị tổn hại lớn lao rồi! Ví như ăn quả dưa thì phải bỏ vỏ và hạt, không phải là
hoàn toàn ăn hết, mà cũng chẳng phải là hoàn toàn bỏ hết. Đấy là do người học đạo
khéo dụng tâm mà thôi! Xin hãy sáng suốt suy xét thì may mắn lắm thay!
Hơn nữa, ông Diệp Chiếu Không
trước đây có gởi thư đến, tôi vốn không muốn trả lời. Do ông ta quen biết với
ông, nên hễ ông viết thư liên lạc thì xin hãy chuyển lời đến cho ông ta. Quang
là một Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, bị cái hư danh làm phiền, mười mấy
năm qua bận bịu vì người khác, đến nỗi bỏ lơ Tịnh nghiệp của chính mình. Há nên
đem câu chuyện “người cha chữa bệnh cho con trong kinh Pháp Hoa” để sánh ví, chẳng
sợ mắc lỗi đem phàm lạm thánh ư? Người tu Tịnh Độ chú trọng ba pháp Tín - Nguyện
- Hạnh, chứ chẳng nên chú ý tới Bát Xúc[13]
và Lục Diệu[14]
trong cảnh Định. Nếu do công phu [mà những điều ấy] phát sanh thì cũng nên coi
là bình thường, chớ nên sanh lòng vui sướng, mừng rỡ. Nếu không, sợ rằng sẽ tưởng
đấy là những chuyện thù thắng nhiệm mầu, đến nỗi ngược ngạo coi Tịnh nghiệp vốn
là hạnh tu chánh yếu giống như chuyện thừa thãi.
Chớ nên tự lầm lạc gánh vác chữ
Y gồm ba điểm[15],
đấy chính là Tam Đức bí tạng Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, bậc Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo mới có thể chứng được chút phần, chỉ có Phật mới có thể triệt
chứng viên mãn. Ông là hạng người nào mà dám ăn nói lớn lối quá phận vậy? Nên
biết rằng “dẫu thấy lý ngang với chư Phật thì tu trì vẫn phải noi theo sự tướng
phổ biến” ngõ hầu chẳng đến nỗi chấp lý phế sự, rớt vào hầm sâu “bác không nhân
quả” không đáy, mênh mông như hư không.
Ba đứa con của ông muốn được đặt
pháp danh, nay với mỗi đứa đều lấy một chữ [từ tên ngoài đời] để đặt. Tân Đường
pháp danh là Đức Tân, Ung Đường pháp danh là Đức Ung, Hy Đường pháp danh là Đức
Hy. Có thể mỗi ngày đều làm cho đức ấy được mới sẽ đoạn được tham - sân - si, dứt
tuyệt giết - trộm - dâm, tam nghiệp thanh tịnh. Ung là hòa, đôn đốc luân thường,
tu trì Tịnh nghiệp, dùng tâm chí thành để mong thành thánh, thành hiền, đấy
chính là Phật pháp hòa hợp với pháp thế gian, tâm mình đều hòa cùng tâm thánh
hiền. Hy có nghĩa là ánh sáng, sáng sủa. Tận lực trừ Phiền Hoặc, chẳng để nó
ngăn lấp tự tâm thì lương tri, Chân Như sẵn có đều được hiện rõ. Đối với những
điều khác, hãy bảo các cháu đọc kỹ Gia Ngôn Lục sẽ tự biết. Vì vậy, chẳng cần
nói nhiều.
Tụng bốn mươi tám nguyện [của
kinh Vô Lượng Thọ] hay chương giảng về phép Quán Chín Phẩm [vãng sanh trong
Quán Kinh] tùy ý thích của mỗi người, dùng hay không tùy ý. Nói chung, người niệm
Phật coi mọi chuyện đơn giản là điều hay. Nếu bày vẽ đủ mọi hành nghi quá lố,
chắc sẽ bị mệt mỏi. Pháp không có tướng nhất định, chớ nên cố chấp, cũng chớ
nên tràn lan hỗn loạn, chỉ chú trọng sao cho được lợi ích, phù hợp căn cơ.
314. Thư trả
lời cư sĩ Trí Viên
Thư
nhận được đầy đủ. Bưu phiếu mười đồng đã nhận được rồi. Đợi sau này sẽ châm chước
gởi các loại sách cho ông. Vãng sanh Tịnh Độ cố nhiên quý ở chỗ tu lâu dài,
nhưng điều quan trọng là chí nguyện quyết định chẳng thay đổi. Kẻ suốt đời niệm
Phật mà tâm thường mong cầu phước báo trời người dẫu có tinh tấn, nhưng vì tâm
nguyện vẫn còn lưu luyến cõi Sa Bà này, làm sao có hy vọng sanh về Cực Lạc cho
được? Vì thế, biết Tín - Nguyện thật sự là căn cứ lớn lao để chúng ta vãng sanh
Tây Phương. Cảnh tượng lúc Trương Đức Du lâm chung rất tốt, một là do chính ông
ta có chí hướng quyết định, hai là vì được mọi người trợ niệm, may mắn không bị
ai phá hoại [chánh niệm]. Hạng người này công hạnh rất cạn, nếu không được trợ
niệm, lại còn có kẻ phá hoại, sẽ không hy vọng gì vãng sanh được! Lâm chung trợ
niệm rất tốt, nhưng trong lúc bình thường cần phải đem lợi ích của trợ niệm khi
lâm chung, họa hại do phá hoại chánh niệm, nói với hết thảy mọi người, khiến
cho các con cháu quyến thuộc đều giúp đỡ ta, chẳng đến nỗi phá hoại. Thỉnh người
khác trợ niệm thì có khi họ không có sức để làm được, nếu quyến thuộc biết tường
tận [lợi ích của việc trợ niệm] thì có lợi lớn lắm!
315. Thư trả
lời cư sĩ Hạng Trí Nguyên
Nhận
được thư, biết ngôn hạnh vẫn chẳng lui sụt, an ủi lắm! Cuốn Nhật Ký Tu Trì rất
hay. Ông Đào Tụng Minh ở Vô Tích lập hơn một trăm Liên Xã, tặng cho mỗi người một
cuốn. Mỗi cuốn là mười hai trang, ghi rõ các ngày. Dưới mỗi ngày đều ghi kinh,
chú, Phật hiệu (nữ nhân có mười tám, mười chín [người ghi danh], nam
nhân chỉ có mười một, mười hai)[16].
Ở đây do nhiều người nên không thể ghi ra tường
tận được. Lập biểu đồ theo hàng ngang, dưới mỗi ngày để ra mấy dòng để ghi thì
cũng là pháp phương tiện để dẫn dụ người khác tinh tấn. Lời thuật Duyên Khởi được
khắc ở đầu [cuốn Nhật Ký Tu Trì] khá hữu ích.
Đối với câu hỏi về “giác hải”
(biển giác) [được nêu ra] trong sách Nhập Phật Vấn Đáp, nếu luận trên mặt gốc
thì một còn chưa thể được, nói chi đến vô lượng! Nếu ước theo lợi ích thật sự
khác biệt do thọ dụng từ biển giác qua những gì đã chứng được và chưa chứng của
mỗi người thì cũng chẳng thể nói là “chỉ một không hai” được[17]!
Ví như hư không vốn không có hai, do những vật có tánh chất ngăn ngại xen cách nên
trở thành chỗ này, chỗ kia khác biệt, nhiều khôn kể xiết! Nếu bỏ những thứ có
tánh chất gây ngăn ngại đi, sẽ trở lại [tình trạng] không có đây - kia. Tâm
tánh của chúng sanh và Phật không hai; do chúng sanh mê chưa ngộ, đủ mọi thứ chấp
trước, nên trong một biển giác thành ra ngăn cách, trở ngại, biến thành biển
nghiệp. Đoạn sạch được phiền não, giống như dẹp sạch mọi vật có tánh chất gây
ngăn ngại, sẽ thành “hư không chẳng hai”! Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thập phương chư Như Lai, đồng cộng nhất
Pháp Thân, nhất tâm, nhất trí huệ. Lực vô úy diệc nhiên” (mười phương chư Như
Lai cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ. Lực, vô úy cũng thế). Ba
pháp “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt; cái sai biệt chính là tướng huyễn
vọng, chứ không phải là bản thể.
Người đời sau đông đúc là do
sanh sôi đông đảo, chứ không phải do trì Ngũ Giới, gieo thiện căn mà đông! Cổ
nhân nói: “Nhất nhân sanh nhị nhân, thập
thế nhất thiên đinh” (một người sanh hai người, mười đời thành ngàn kẻ),
sao không nhiều cho được? Phật dạy “thân
người khó được”; trong khoảng [rộng] một thước từ mặt đất cho đến tận trời,
những chúng sanh trong ấy nhiều hơn số người trong Tứ Thiên Hạ. Có những chúng
sanh từ ác đạo thoát ra, do từ thiên giới giáng xuống, chẳng biết là bao nhiêu!
Xưa kia con người ít ỏi là vì duyên để sanh trưởng ít ỏi. Nay con người đông đúc
là do duyên để sanh trưởng nhiều. Chớ nên nói: “Do con người nhiều hơn xưa, tức
là vì hiện thời có nhiều người trì giới mà được nhiều như thế!” Chẳng biết những
loài trùng nhỏ xíu noãn - thai - thấp - hóa trong lục đạo nhiều vô lượng. Huống
chi còn có những chúng sanh trong quỷ đạo ư? Huống
chi còn có kẻ ở trong địa ngục nữa? Vì thế, mới nói: “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên
trùng” (Phật xem một bát nước, tám vạn bốn ngàn trùng). Sao ông lại mang
tri kiến lệch lạc như thế?
Quang già rồi, trong khoảng
Xuân - Hè năm nay còn có mấy thứ sách cần phải in. Ngày Hai Mươi Ba sẽ xuống
núi qua Thượng Hải, ngụ tại chùa Thái Bình. Đến tháng Sáu trở về núi ở hết Hè,
tháng Bảy lại xuống núi chẳng trở về nữa. Tháng Tám, tháng Chín, việc in sách kết
thúc liền diệt tung tích, ẩn náu lâu dài. Do mấy năm qua, hằng ngày chỉ bận bịu
thù tiếp thư từ, gần đây tinh thần ngày một giảm, chuyện thù tiếp ngày càng nhiều.
Nếu chẳng đi theo một đường lối khác thì chưa bận tới chết sẽ trọn không có lúc
nào ngớt được, vô ích cho người, tổn hại cho mình, há chẳng đáng buồn lắm ư?
Không có chuyện gì thì chẳng cần phải gởi thư đến. Mấy tháng tới đây tôi đều ở
tại chùa Thái Bình nơi bến Trần Gia, Thượng Hải. Tới tháng Tám, tháng Chín, sẽ
không nói được địa chỉ [nhất định] nào!
316. Thư trả
lời cư sĩ Lưu Huệ Xước
Lệnh
từ pháp danh là Đức Ý, thứ từ[18]
pháp danh là Đức Trinh. “Ý” có nghĩa là đức tốt đẹp, có thể ăn chay niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, làm bậc thầy khuôn mẫu cho chốn khuê các thì mới là Đức Ý.
“Trinh” có nghĩa là “kiên định, chẳng thể chuyển dời”. Thủ tiết gọi là Trinh,
thì đấy là cái Trinh nhỏ nhoi. Nhất tâm niệm Phật, quyết chí cầu sanh Tây
Phương, mặc cho tri thức dạy tu các pháp khác đều chẳng đổi chí này thì mới gọi
là Đức Trinh. Hãy nên nỗ lực tu trì hòng thoát được đời ác Ngũ Trược này. Nếu
không, nỗi khổ đời sau chẳng nỡ nói cặn kẽ được! Cả nhà hãy nên ăn chay niệm Phật
để đề xướng [pháp môn Tịnh Độ] tại Thanh Hải.
Niệm Phật mà hết sức mong mỏi
[được ở nơi nào] vắng lặng thì chẳng hợp lẽ cho lắm. Có căn bệnh sợ ồn ấy, nay
đã phát hiện tướng bệnh rồi. Nếu vẫn cứ như thế, lâu ngày về sau sẽ không có
thuốc nào chữa được! Hãy nên đối với ồn ào hay lặng lẽ đều [cảm thấy] như nhau,
đang tịnh cũng chẳng sợ náo nhiệt xảy tới, trong lúc náo nhiệt tâm ta vẫn yên tịnh,
chẳng sanh chán ghét, sẽ chẳng phát sanh ma sự “kinh sợ, nhàm chán”. Nếu chẳng
gấp sửa đổi, sau này sẽ phát cuồng. Niệm Phật mà sanh lòng đau thương thì cũng
là tướng lành, nhưng chớ để thường xuyên như thế. Nếu thường để như thế ắt sẽ bị
ma đau buồn dựa vào. Ma đau buồn đã dựa vào thì sẽ suốt ngày đau buồn, hoặc đến
nỗi chết đau đớn. Những tình huống này đều là do chẳng khéo dụng tâm mà ra. Đỉnh
đầu đau ngứa là vì căng thẳng tinh thần quá mức, tâm hỏa bốc lên mà ra. Hãy nên
nhất tâm tịnh niệm, tuyên nói với khắp cả làng, thường niệm ở chỗ đông người
thì chẳng mấy chốc những chuyện kinh sợ, đau lòng, ngứa ngáy sẽ bị tiêu diệt!
317. Thư trả
lời cư sĩ Lý Huệ Tài
Nếu quả thật đúng như ông đã nói thì em trai ông chắc chắn vãng sanh. Song thân ông hãy nên sanh lòng vui mừng lớn lao, nhất tâm niệm Phật, cầu mau được vãng sanh. [Cõi Sa Bà này là] thứ địa ngục sống đủ muôn điều ác không có cách gì để thoát khỏi được! Hãy nên nghĩ: Con cái đã nêu gương sanh về Tây Phương ngay trong đời này, ta vẫn chẳng nhất tâm niệm Phật để theo con ra đi, cứ muốn ở lại làm người trong thứ địa ngục sống đủ muôn điều ác này; sao mà chẳng biết tốt - xấu đến tột cùng như thế? Xin hãy đưa lời lẽ này cho song thân ông đọc, ông cũng nên tùy duyên sống qua ngày chuyện gì bỏ qua được thì bỏ qua, đừng lo sầu trước để rồi bị tổn hại, chẳng ích lợi gì đâu! (ngày Mười Hai tháng Tư năm Dân Quốc 29 - 1940)
318. Thư trả
lời cư sĩ Trịnh Cầm Tiều
Ông
tuổi đã sáu mươi lăm, đã hai lần thọ giới mà vẫn chưa ăn chay, tức là chỉ biết vị
ngon của thịt, chẳng biết mối họa khốc liệt của thịt. Lúc ăn tuy ngon, thử nghĩ
đến nỗi khổ lúc phải đền trả, ắt sẽ chẳng nuốt xuống được! Nay ông đừng ăn mặn
nữa, hãy nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau
được lành bệnh. Tuổi thọ đã tận liền được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Hễ
sanh về Tây Phương thì liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, so với sanh
lên trời làm thiên đế, thiên vương còn cao trỗi hơn vô lượng, vô biên lần! Bởi
lẽ, phước trời sẽ có lúc hết, nên cần phải niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Hễ
sanh về Tây Phương sẽ tấn tu dần dần, quyết định thành Phật, chớ nên sợ chết. Hễ
có bệnh liền nguyện vãng sanh, nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được chóng lành.
Nếu sợ chết chỉ cầu lành bệnh
thì tuổi thọ đã hết vẫn phải chết, quyết khó được vãng sanh! Khuyên người niệm
Phật cầu sanh Tây Phương chính là thành tựu cho người ta thành Phật. Ông chớ
nên vì tri kiến phàm phu của chính ông mà sanh lòng ngờ vực chẳng tin. Quang
nghĩ ông đang bệnh nên tâm không yên, cầu Quang cứu ông, nên mới nói với ông lời
này. Nếu vẫn không tin thì Phật cũng chẳng thể cứu được ông đâu! Vì sao vậy? Những
gì Quang vừa nói vốn lấy từ những lời Phật đã dạy trong kinh, chẳng qua trích lấy
ý nghĩa để nói đại lược mà thôi, đừng tưởng rằng Quang bỗng dưng bịa chuyện.
Sau khi ông lành bệnh rồi, hãy nên đọc khắp các kinh điển Tịnh Độ sẽ tự biết
rõ. Nếu sanh về Tây Phương thì mỗi điều sẽ được chứng minh, Quang chẳng lừa dối
ông.
Nay đặt pháp danh cho ông là
Huệ Minh, nghĩa là dùng Phật huệ để thấu hiểu giáo lý hòng tu pháp môn Tịnh Độ.
Đức Phật nói hết thảy pháp môn tuy cao sâu huyền diệu, viên đốn, thẳng chóng,
nhưng đều phải đoạn sạch Phiền Hoặc mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu đoạn
chưa sạch thì vẫn chẳng thể liễu được; huống hồ kẻ hoàn toàn chưa đoạn được ư? Chỉ
có pháp môn Niệm Phật cậy vào Phật từ lực, nếu có lòng tin chân thành, nguyện
thiết tha, chí thành niệm Phật, không một ai chẳng được vãng sanh; nhưng kẻ niệm
Phật thì nhiều, người vãng sanh lại ít là vì ngu si vô tri chỉ cầu phước báo trời
- người trong đời sau, hoặc chẳng sanh lòng hổ thẹn, thường làm chuyện bất hiếu,
chẳng từ, bất trung, bất nghĩa v.v… là vì tâm trái nghịch với Phật mà ra. Lỗi ở
nơi chính mình, nào phải Phật chẳng từ bi!
Nếu trước khi người ấy chưa
phát tâm niệm Phật từng làm các điều ác, nay đã niệm Phật hãy nên sanh lòng hổ
thẹn lớn lao, thống thiết sửa đổi lỗi trước thì cũng có thể quyết định vãng
sanh. Phật coi chúng sanh hệt như con ruột; nhưng con cái chẳng nghe lời cha mẹ
dạy, cha mẹ cũng chẳng làm sao được! Chúng sanh nếu chịu sửa lỗi hướng thiện niệm
Phật, chắc chắn lúc lâm chung sẽ được Phật rủ lòng đích thân tiếp dẫn.
319. Thư trả
lời cư sĩ Nghê Văn Khanh
Đọc
lá thư ông gởi cho thầy Diệu Chân, [biết ông] không thể ăn cơm, chỉ ăn được cơm
lúa mạch hay Mạn Đầu. Chưa đáng coi là bệnh, sao lại phải cầu thuốc Tây, thuốc
Tàu trị bệnh? Ông nói mỗi ngày tụng kinh Địa Tạng một cuốn, nay lại muốn thầm đọc
kinh Pháp Hoa một cuốn. Nếu tinh thần sung túc thì được; nếu không, hãy chuyên
lấy Phật hiệu để thay thế cho kinh, sẽ đỡ tốn tâm lực nhiều lắm. Quyến thuộc trong
nhà ông vẫn muốn ông ngả mặn, đáng gọi là “si dại đến cùng cực!” Ông vẫn cần phải
nghiêm túc răn nhắc họ về lợi ích do được trợ niệm lúc lâm chung và những họa hại
vì tắm rửa, thay quần áo sẵn, khóc lóc. Nếu không, chắc sẽ đến nỗi trở thành thể
hiện lòng hiếu kiểu “tình yêu của La Sát nữ” thì ông lẫn họ đều mắc họa thật sự.
Chuyện này phải thường nói cho họ nghe quen tai.
Hiện thời ông hãy bảo con cái,
dâu, cháu sớm tối bầu bạn niệm Phật với ông. Niệm đã quen thì mới hòng nhờ cậy
họ trợ niệm khi lâm chung. Nếu không, theo như lời Vương Thiếu Hồ, Châu Thạch
Tăng đã kể, sợ họ sẽ do một niềm hiếu tâm mà phá hoại [chánh niệm của ông]: Họ
chẳng làm chuyện “đẩy xuống giếng rồi lại còn hè nhau vần tảng đá to quăng xuống”,
quyết chẳng cam tâm! Con hiếu cháu hiền trong thế gian nếu chẳng biết Phật pháp
thì trong ngàn người trọn chẳng có một ai không hiếu thuận kiểu đó! Điều này trọn
chẳng khác gì La Sát nữ bảo người bị nó ăn thịt: “Ta yêu ngươi nên ăn thịt
ngươi”. La Sát nữ do yêu thương mà ăn thịt, coi đó là tình yêu thật sự. Quyến
thuộc vô tri do hiếu thảo mà buộc ông ngã mặn, do lòng hiếu mà tắm rửa, thay quần
áo sẵn, khóc lóc, khiến cho người sắp qua đời hoàn toàn mất chánh niệm, vứt sạch
công lao niệm Phật. Vốn có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, nhưng
[những hành động vô tri ấy] ắt sẽ khiến cho thánh cảnh đã hiện lại bị diệt mất,
lại còn [khiến cho người đã khuất] phải đọa trong ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh thì mới chịu dừng tay. Đấy chính là lòng hiếu lớn lao đặc biệt của quyến
thuộc vô tri.
Ông Trần Phi Thanh sắp chết,
con trai ông ta gởi thư đến, Quang nói về lợi ích của việc trợ niệm khi lâm
chung và họa hại do phô trương bày vẽ. May là con ông ta làm theo lời Quang bảo,
nên ông ta mất rất tốt đẹp. Ba ngày trước [khi ông ta mất], họ nhận được thư
Quang, [khi ấy] thần thức ông ta đã không còn tỉnh táo nữa, thường nói sảng. Trong
thư Quang gởi đến có kèm theo một ít tro hương đã được gia trì bằng chú Đại Bi,
họ liền pha nước cho ông ta uống, thần thức liền sáng suốt. Họ bèn trợ niệm cho
ông ta. Ông ta còn lần chuỗi niệm theo, niệm đến khi đã tắt hơi một lúc lâu mà
tay vẫn còn lần chuỗi. Quang cũng bảo con ông ta: “Những kẻ hiếu thảo với cha mẹ
trong cõi đời quá nửa đều giống như lòng yêu thương của La Sát nữ. Nếu các vị
chịu làm theo lời tôi thì mới là lòng hiếu thật sự!”
Lời Quang nói rất khích liệt, nên hai đứa con ông ta cũng khá cảm động. Nay tôi lại muốn cho con cái dâu cháu của ông đều giống như hai người con ông Trần Phi Thanh nên mới lược thuật như trên. Bệnh của ông chẳng cần biết nặng nề đến đâu, hãy uống nước [pha bằng] tro hương chắc sẽ được lành. Nếu chẳng lành, cần gì cứ nhất định phải ăn cơm? Cháo lúa mạch so ra bổ dưỡng hơn cháo gạo, Mạn Đầu[19] là thứ người phương Bắc ăn thay cơm mỗi ngày, há đáng để bận tâm ư? Đối với chuyện phát nguyện cầu lành bệnh, chắc sẽ được như nguyện. Dẫu không được như nguyện, cũng chớ nên đâm ra si dại cố cầu; chỉ sợ đâm ra bị tổn hại, vô ích! Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm. Chuyện thế gian mỗi mỗi đều toàn thân buông xuống hết! Nếu quyến thuộc [của ông] giống như con ông Trần Phi Thanh, ông sẽ quyết định được vãng sanh. Nếu có ý niệm sanh trong cõi trời cõi người thì Tây Phương sẽ chẳng có phần đâu; bởi lẽ, tâm sanh tử đã quá sức thuần thục, một sức nhỏ như mảy lông ấy vẫn có thể cự lại cái tâm liễu sanh tử nặng ngàn cân. Viết ra điều này [để] xin ông sáng suốt suy xét! (ngày Mười Bốn tháng Mười năm Dân Quốc 27 - 1938)
320. Thư trả
lời cư sĩ Long Trí
Đọc
thư ông gởi tới, biết những người có đủ chánh tri kiến trong cõi đời quá sức là
ít. Lại biết: Có người đề xướng thì những ai đã có thiện căn từ đời trước đều
được mở mang chánh tri kiến. Ông từ Đồng Thiện Xã [thoát ra], lại dự vào Kim
Đan Đạo[20],
nếu chẳng gặp được kinh Phật thì suốt đời làm đạo sư của ngoại đạo, nguy hiểm
thay, may mắn thay! Do xem kinh Phật, lại gặp pháp môn Tịnh Độ, có thể nói là
chẳng uổng kiếp sống này, chẳng phí dịp gặp gỡ này. Nay lại làm cho cha mẹ và
các quyến thuộc cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh Độ, đáng gọi là “đại hiếu,
tôn kính cha mẹ, chẳng thiếu lòng hiếu thảo” vậy!
Người quy y lần này tổng cộng là ba mươi bốn người, ông phải bảo họ đều kiêng giết, ăn chay, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Người học Phật phải chuyên chú giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, giữ tấm lòng tốt, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt lành, dùng những điều này để tự hành, lại còn đem dạy người, thì sống sẽ là học trò của hiền thánh, mất về cõi nước Như Lai. Hiện thời thế đạo đã loạn đến tột cùng, cội gốc là do mọi người chẳng nói đến nhân quả, vì thế trở thành cuộc đại loạn bậc nhất kể từ khi có trời đất tới nay! Hiện thời, suy tính kế sách, bất luận là ai đều phải hiểu nhân rõ quả. Hiểu rõ nhân quả sẽ chuyển tàn sát lẫn nhau thành duy trì lẫn nhau. Nếu không, cha mẹ có đại ân mà còn muốn giết, huống là những kẻ khác ư? Quang thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, là diệu pháp để trị cả gốc lẫn ngọn”. Tống Nho bài xích nhân quả luân hồi chính là phá cái đê để ngăn lụt mà muốn nước chẳng ngập trời, há có được chăng? Trong tháng Tám, tháng Chín, khi Văn Sao Tục Biên được in ra, sẽ gởi cho ông mấy bộ. So với lần trước, lần này có nhiều lời lẽ cứu khổ hơn (ngày Hai Mươi Sáu tháng Bảy).
321. Thư gởi
cư sĩ Trầm Bân Hàn
Thư ở Quý Châu, phiền ông giao cho pháp sư Đức Sâm, đợi khi nào thư ấy gởi tới sẽ gởi thẳng cho Phạm cư sĩ, đừng lo. Gần đây, một đệ tử đem toa thuốc trị bệnh sốt rét để chữa cho một người ở Thường Châu mắc bệnh sốt rét suốt một thời gian dài là mười ba năm rưỡi, cũng một lần trị liền hết ngay. Vùng quê mắc bệnh này rất nhiều, xin hãy đăng dài hạn trên Bán Nguyệt San. [Bài thuốc ấy] chiếm chỗ không nhiều đâu, [xin hãy đăng tải] để mong cho người thấy kẻ nghe đều thoát lìa khỏi nỗi khổ vì bệnh sốt rét. Cũng như Một Lá Thư Trả Lời Khắp và lời thông cáo rộng khắp “lúc sanh nở niệm Quán Âm, sữa độc giết trẻ con” đăng kèm sau cuốn Tức Tai Hội Khai Thị Lục, nếu có thể thường đăng sẽ cứu mạng trẻ thơ chẳng thể nào tính đếm được! Công đức ấy làm sao diễn tả cho được? (ngày Mười Sáu tháng Mười)
322. Thư trả
lời cư sĩ Huệ Hoa (thư thứ nhất)
Thư
nhận được đầy đủ. Hiện thời loạn trong giặc ngoài, dân không lẽ sống. Nếu có thể
giữ tấm lòng Thành trừ bạo an dân, gìn giữ địa phương thì chính là “dùng quân sự
để làm Phật sự!” Đối với mình lẫn người đều có lợi ích lớn lao. Lại còn phải
nên đem ý này răn nhắc, cổ vũ binh sĩ để [ai nấy] đều coi người khác như chính
mình, mong sao họ được an lạc, thấy người khốn khổ lênh đênh như chính mình
đang khốn khổ lênh đênh, xem cha mẹ người khác như cha mẹ của chính mình, muốn
cho họ được yên vui; xem vợ con của người khác như vợ con của chính mình, chẳng
dấy lên tà niệm. Con người sống trong thế gian chỉ mấy chục năm mà thôi. Nếu buông
lung làm càn, sẽ bao kiếp chẳng thể lại được mang thân người. Thêm nữa, hãy thường
niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát để mong ngầm được Ngài che chở. Quân nhân nếu
thường giữ tấm lòng lành, chẳng làm những chuyện ác như cướp bóc, gian dâm v.v…
lại thường niệm Quán Âm, dẫu trong chốn rừng súng mưa đạn, cũng chẳng đến nỗi gặp
nguy hiểm lớn lao. Nếu cứ làm càn những chuyện cướp đoạt, gian dâm v.v… sẽ khó
thể nào được Bồ Tát gia bị. Xin hãy nói với hết thảy anh em [binh sĩ về những
điều này].
Nay tôi gởi cho ông một gói Tịnh
Độ Thập Yếu, tổng cộng là ba bộ. Một bộ tự giữ, hai bộ tặng cho người có tín
tâm, thông hiểu văn lý, có lòng cung kính. Sách này chính là sách quan trọng nhất
trong Tịnh tông, đọc lời Tựa của Quang sẽ tự biết. Phật Học Cứu Kiếp Biên ba
gói, Gia Ngôn Lục, Chánh Tín Lục, Một Lá Thư Trả Lời Khắp gộp thành một gói, tổng
cộng là năm gói, xin hãy thâu nhận. Vận nước nguy ngập, lòng người hoang mang,
chẳng lấy nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi của Phật và tín nguyện niệm Phật cầu
sanh Tây Phương để làm pháp duy trì thì con người sẽ chẳng khác gì cầm thú ăn
nuốt lẫn nhau!
323. Thư trả
lời cư sĩ Huệ Hoa (thư thứ hai)
Hai
lần nhận được thư nhưng không rảnh rỗi, lại không có chuyện gì quan trọng nên
chưa trả lời ngay. Chắc ông đã nhận được sách Thập Yếu rồi, nay lại gởi một gói
Thập Yếu, một gói [Phật Học] Cứu Kiếp Biên, lần trước đã từng gởi Cứu Kiếp Biên
hay chưa? Cuốn Hạ trong bộ sách ấy nơi dòng mười một trang hai mươi lăm phần Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm đã bị thiếu tám chữ “như
kim Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na” (giống như đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện thời). Nếu
chẳng thể chép thêm vào dòng ấy thì hãy nên chép thêm vào phía dưới hàng thứ
hai [tức dòng] “ngã giai tùy học”
(tôi đều học theo) trong trang ấy thì văn lẫn nghĩa đều trọn vẹn. Ấy vốn là do cuốn
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Tập Yếu Sớ do pháp sư Đế Nhàn biên soạn đã bị sót chữ,
khi cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh dựa theo đó để viết lời chú giải đại lược, chưa đem đối
chiếu với chánh kinh. Khi Quang cho sắp chữ, giảo chánh, cũng chưa từng đem đối
chiếu với kinh nên mới đến nỗi bị sai sót như vậy. Một gói Tâm Kinh Tân Sớ, một
gói Sanh Vô Sanh Luận Sớ. Bốn loại sách này đều nên tặng cho những người thông
hiểu văn lý, có tín tâm, có lòng cung kính. Sơ Cơ Tiên Đạo một gói, Tịnh Nghiệp
Chỉ Nam một gói, Liễu Phàm Tứ Huấn một gói, Tây Phương Công Cứ một gói, Sức
Chung Tân Lương một gói, tổng cộng là mười gói để giúp cho việc đề xướng.
Từ nay về sau, không có chuyện
gì quan trọng đừng gởi thư tới. Quang tinh thần lẫn mục lực ngày một suy, thư từ
các nơi [gởi về] ngày một nhiều, đúng là không có sức để chống đỡ. Ông đã tin
được rồi thì hãy lấy Văn Sao v.v… để làm căn cứ tu trì. Nếu Văn Sao chẳng đáng
làm khuôn phép thì Thập Yếu chính là những lời chư Phật, chư Tổ tán thán, hoằng
dương, hãy nên tuân thủ như trung thần vâng theo thánh chỉ của minh chúa, như
con hiếu tuân theo di chúc của từ thân (cha mẹ hiền từ), chớ nên thấy lạ, nghĩ
khác! Hiện thời lắm kẻ ăn nói lớn lối để dối đời, chẳng những chuyên ham luyến
vợ đẹp thiếp xinh, lại còn chơi bời bừa bãi, no ứ rượu thịt, phóng túng không
kiêng dè gì, mà vẫn tự xưng là bậc đại thông gia Bồ Tát ứng thế, hủy báng người
ăn chay trì giới là Tiểu Thừa, mặc tình phô phang tri kiến cuồng vọng khắp nơi,
gây rối loạn cho sự thấy nghe của người khác! Cũng có nhiều gã mù quáng, ngỡ lũ
đó nói chuyện huyền diệu, liền trỗi giọng phụ họa. Đúng là “kẻ mù dẫn lũ đui
kéo nhau vào lửa”, chẳng đáng buồn sao? Mong ông hãy sáng suốt suy xét, đừng bị
mê hoặc thì may mắn lắm thay!
324. Thư trả
lời cư sĩ Hàn Giác An (thư thứ nhất)
Hai
chữ “hợp thập” (chắp mười ngón tay)
chớ nên dùng. Vì quy y Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo há nên chỉ dùng chắp mười
ngón tay làm lễ? Do ông không biết, nên tôi mới nói riêng. Quang già rồi, hiện
đang nằm bệnh mấy ngày, nay hơi khỏe đôi chút. Từ nay chớ nên gởi thư tới nữa,
bởi không có mục lực lẫn tinh thần thù tiếp vậy!
325. Thư trả
lời cư sĩ Hàn Giác An (thư thứ hai)
Khế
có nghĩa là “phù hợp, chẳng khác”. Giác chính là “vô thượng giác đạo được chứng
bởi Phật”. Hiện thời dùng tâm Bồ Đề tự lợi lợi tha để tín nguyện niệm Phật, niệm
lâu ngày, nghiệp tiêu, trí rạng, sẽ khế hợp với giác đạo của đức Phật đã chứng.
Vì thế, chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có
câu: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm
Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ đến
phương tiện, tâm tự được mở mang, như người nhiễm hương, thân có mùi thơm”.
Đấy chính là ý nghĩa của Khế Giác.
Ông nên giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ
các điều lành, thì lợi ích ấy chỉ có đức Phật mới biết được! Nếu học theo phường
căn tánh kém hèn, còn chưa thể chân thật niệm Phật mà cứ muốn khai ngộ ngay,
thì muốn khế giác đâm ra lại nghịch giác! Do niệm Phật đến mức cùng cực sẽ tự
được khai ngộ. Khai ngộ rồi càng phải sốt sắng niệm. Thứ tri kiến kém hèn coi
niệm Phật như chuyện thừa thãi ấy, cứ tưởng “hễ ngộ là đắc đạo rồi”; nếu ngộ rồi
mà trọn chẳng cần phải tu để liễu thoát nữa thì sẽ trở thành “khế mê” chứ không
phải “khế giác!”
Từ nay về sau không được gởi
thư đến nữa, vì tôi không có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp vậy. Nay lại gởi
cho ông Một Lá Thư Trả Lời Khắp, Kinh Nghiệm Dược Phương để giúp cho việc tự lợi,
lợi tha. Toa thuốc trị bệnh sốt rét không ai chẳng được trị lành. Dù người bị bệnh
sốt rét lâu từ hai ba năm cho đến mười mấy năm, cũng trị một lần liền lành. Năm
nay, một đệ tử trị cho một người mắc bệnh sốt rét suốt mười ba năm rưỡi cũng một
lần trị liền lành.
326. Thư trả
lời cư sĩ Đinh Phổ Tịnh
Thư
gởi đến nhận được đầy đủ. Nên biết rằng: Phật pháp đầy đủ hết thảy các pháp thế
gian lẫn xuất thế gian. Trước kia, bọn Lý Học chê trách Phật pháp “vứt bỏ luân
lý để giảng nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi”, quở rằng: “Không cha, không
vua, dối đời, lừa dân!” Dùng ngay những lời lẽ ấy để luận thì chẳng những bọn
chúng (bọn Lý Học) không biết những nghĩa lý tinh thâm của Phật pháp, mà ngay cả
những sự tướng thô thiển trong Phật pháp chúng cũng chưa hề biết đến! Phật pháp
gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ
nhân từ, tớ trung thành. Luân lý thế gian chẳng bỏ sót mảy may điều thiện nào!
Nhân quả tỏ rõ sự luân hồi trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, chỉ rõ sáu
đường “trời, người, A Tu La, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục”. Nếu có thể đem lý ấy
để hướng dẫn dân, giáo hóa cõi tục, vẫn chẳng có ích lợi lớn lao cho đạo của nhị
đế, tam vương[21],
Châu, Khổng hay sao?
Bọn họ ghen ghét [Phật pháp]
như thù, hận chẳng thể làm cho cả nước không còn dấu tích, tiếng tăm [Phật pháp]
nữa, bèn tự kiêu căng khoe mình có trí, bảo Phật là ngu, đặc biệt coi những lời
lẽ về nhân quả báo ứng sanh tử luân hồi là lời lẽ để làm cho bọn ngu tục bị mê
hoặc, ngu xuẩn. Rốt cuộc những kẻ tập theo những thuyết ấy đều coi nhân quả
luân hồi là không có căn cứ! Đối với sự thực, căn cứ để dạy người chánh tâm
thành ý, bọn chúng hoàn toàn vứt bỏ, giữ xuông lời lẽ chánh tâm thành ý để hoằng
truyền xiển dương đạo Nho. Người bậc thượng may ra còn có thể chánh tâm, thành
ý, nhưng do hễ chết rồi sẽ vĩnh viễn diệt mất nên cũng chẳng thể phát tâm thực
hiện lớn lao. Kẻ căn cơ trung hạ thì do hễ chết rồi bèn vĩnh viễn diệt mất,
Nghiêu hay Kiệt cũng đều chết ráo, cần gì phải tuân theo mực thước, chịu bị
trói buộc oan uổng ư? Do vậy buông lòng thả chí làm theo lòng ham muốn!
Chất độc ấy đã ẩn ngầm gần một
ngàn một trăm năm. Lại thêm gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, đua nhau đề
cao văn minh vật chất, nên hết thảy những vở thảm kịch cậy mạnh hiếp yếu, thảm não
thiếu hẳn đạo làm người thảy đều diễn ra. Xét đến gốc họa, đều do bọn Lý Học đả
phá nhân quả luân hồi mà nên nỗi! Học thuyết lầm lạc gây họa khốc liệt hơn nước
lũ, mãnh thú, khiến cho dân đen nước ta phải chết vì đao binh, đói kém, cai trị
hà khắc, thổ phỉ, trộm cướp, chẳng thể kể xiết! Những ai may mắn giữ được cái mạng
thừa, cũng hứng chịu nỗi đau đớn nước sâu lửa bỏng, chẳng đáng buồn ư?
Nay muốn tự lợi, lợi người,
yên thân, yên đời, hãy nên bắt đầu bằng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành,
trong là gia đình, ngoài là người đời, đều dùng nhân quả, báo ứng, sanh tử,
luân hồi để khuyên chỉ, khiến cho ai nấy đều tu nhân lành hòng hưởng quả vui, sợ
quả khổ để dứt nhân ác. Như vậy thì con em trong gia đình chẳng đến nỗi thành
phường thổ phỉ, trộm cướp; làng, ấp, xã hội sẽ dần dần khôi phục lễ nghĩa, nhân
nhượng, phong tục thuần phác. Đây mới chỉ là nói đến lợi ích của Phật pháp về chuyện
thế gian.
Đối với lẽ xuất thế, cũng vẫn
phải lấy những điều này làm gốc; nhưng phải nên sanh lòng tin, phát nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương thì ai nấy đều tu được, ai nấy đều được hưởng lợi ích
thật sự. Đấy chính là một pháp đặc biệt trong Phật pháp, thích hợp khắp ba căn,
phàm - thánh cùng tu. Ngu phu, ngu phụ đều có thể dự vào, mà đại thánh, đại hiền
cũng chẳng thể vượt ra ngoài được! Nếu có thể sanh được lòng tin nơi pháp này,
dẫu nghiệp lực phàm phu cũng có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ngay
trong đời này. Nếu chẳng sốt sắng tu trì nơi pháp này, đối với hết thảy các
pháp do đức Như Lai đã nói, tu theo một pháp hoặc kiêm tu các pháp hòng liễu
sanh tử, đừng nói chẳng thể liễu ngay trong đời này, dẫu trải qua trăm ngàn vạn
đời hay trăm ngàn vạn kiếp vẫn chẳng thể liễu được, [khó khăn hơn] nhiều lắm!
Vì sao thế? Vì một pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương chuyên cậy vào Phật lực. Chỉ
cần chính mình có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì thánh hiệu của
Phật thì lúc lâm chung quyết định được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Hết
thảy các pháp môn khác ắt cần phải tu cho đến khi nghiệp tận tình không mới có
thể liễu thoát sanh tử. Nếu không, mặc cho ông công phu sâu đậm, công đức lớn
lao, nếu phiền não còn sót mảy may chưa tận thì vẫn chẳng thể thoát ra ngoài lục
đạo luân hồi được! Đem chuyện dùng tự lực để liễu sanh tử so với cậy vào Phật lực
để liễu sanh tử thì sự khó - dễ vời vợi hệt như một trời một vực.
Ông may mắn sẵn có thiện căn từ
đời trước nên có thể sanh lòng tin nơi pháp môn này, nhưng cần phải lập trọng thệ
sâu xa, quyết chẳng bị thuận theo kinh điển hay ngôn giáo của những tri thức
khác mà bỏ pháp môn này tu theo pháp khác, ngõ hầu chẳng phụ túc căn và duyên
hiện tại. Nếu đọc các kinh Đại Thừa, thấy nghĩa lý sâu xa, huyền áo, hoặc thân
cận tri thức thuộc các tông Thiền, Giáo, Luật, Mật, nghe họ nói những điều thân
thiết liền coi Niệm Phật là tầm thường, coi những pháp ấy mới là lạ lùng, đặc
biệt, bỏ pháp này, tu pháp kia, sẽ giống như con thơ bỏ cha mẹ, bệnh nặng bỏ
lương y, muốn được thành người, lành bệnh, há có được chăng? Ông đã đọc Văn
Sao, sao chẳng chú tâm thấu hiểu, suy xét? Sao lại có sáu thứ nghi vấn như sau:
1)
“Phật tức là tâm, tâm tức là Phật”
chính là ước theo bản thể của tâm chúng ta mà nói. Do có vô lượng vô biên phiền
não Hoặc nghiệp, nên cần phải nhờ vào sức đại từ bi gia bị của Phật A Di Đà là
đấng đã hết sạch Hoặc nghiệp, phước huệ viên mãn, có đại thệ nguyện để được
vãng sanh, rồi tu tập dần dần cho đến khi rốt ráo đích thân chứng được “tâm này là Phật” mới thôi. Ông cho rằng
đã là Phật thì cần gì phải niệm Phật ư? Ví như tấm gương báu tròn lớn bị bụi phủ
cả kiếp, tuy sẵn đủ quang minh chiếu trời soi đất, nếu chẳng đổ công chùi mài,
dẫu trải cả kiếp cũng chẳng có lúc tỏa ánh sáng được! Hiểu lầm chữ “tức thị” (tức là) họa khôn kể xiết!
Còn như ông Hứa Chỉ Tịnh nói:
“
2)
Niệm Quán Âm cầu sanh Tây Phương cũng được vãng sanh Tây Phương, nhưng chớ nên
bảo “cần gì phải niệm A Di Đà Phật!” Bởi lẽ, Quán Âm chính là vị phù tá đức A
Di Đà Phật. Phật Di Đà là chủ, Quán Âm là khách. Phật Di Đà như quốc vương,
Quán Âm như trủng tể (người đứng đầu các quan). Khéo hiểu ý nghĩa, ắt chẳng trở
ngại gì!
3)
Nhiều kiếp chẳng thể thành Phật là do tu pháp môn tự lực. Cần biết rằng: Pháp
môn Tịnh Độ dẫu lâm chung mới được nghe mà có thể sanh lòng tín nguyện rồi niệm,
liền được vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Huống là lúc trước khi lâm
chung đã tu sẵn ư?
4)
Đàn cầu cơ phần nhiều do linh quỷ dựa vào, Ngọc Tiên là một vị tiến sĩ nhưng
tri kiến hèn tệ chẳng thể nào diễn tả được! Những gì ông ta tuyên truyền nào
đáng để nhắc đến ư?
5)
Lúc trì Phật hiệu, tạp niệm tơi bời, đấy chính là hiện tượng lắm tri nhiều kiến,
tâm không có chánh niệm. Muốn cho hiện tượng ấy chẳng xuất hiện thì chỉ chuyên
tâm đau đáu nghĩ chính mình sắp chết, chỉ sợ đọa ngay vào ác đạo, dốc chí niệm
Phật, chẳng khởi lên những ý niệm khác, lâu ngày sẽ được trong lặng.
6)
Ăn chay không khó, hễ miệng bụng tham muốn thì sẽ khó ăn chay. Tam tịnh nhục và
“thịt bên cạnh rau” chính là pháp được lập ra cho kẻ hạ căn. Xin ông hãy sáng
suốt suy xét.
327. Thư trả
lời hai vị cư sĩ Du Huệ Úc và Trần Huệ Sưởng
(đính kèm thư gởi đến)
Đệ tử nghiệp chướng sâu nặng, bẩm tánh ngu độn,
tối tăm, may được nghe pháp môn Tịnh Độ, được quy y dưới tòa, chỉ khăng khắng
tuân lời thầy răn thật thà niệm Phật để mong sớm liễu sanh tử, chẳng phụ lòng
thầy đau đáu. Phàm đã là Phật tử, phải nên phát tâm tự độ, độ người. Nay lũ đệ
tử chúng con chưa thể tự độ, sao nói chuyện độ người cho được? Nhưng gặp thân hữu
liền dùng phương tiện khuyên họ tin tưởng cũng là chuyện thuộc bổn phận. Nhưng
thường có hai loại người kiến giải lẫn lời lẽ đều là tự lầm, lầm người, thật chẳng
ít ỏi! Một là loại nói: “Phật không có dục. Những thứ vàng, báu như kinh A Di
Đà đã nói vẫn giống như dục, chẳng giống như kinh Kim Cang [dạy] ‘hết thảy đều
không’ cao siêu, huyền diệu hơn!’ Do vậy, họ miệt thị pháp môn Tịnh Độ, chẳng
sanh lòng tin. Đấy là vì họ chẳng biết ý nghĩa của hai kinh Di Đà và Kim Cang,
chỉ thuận theo ý mình nói bừa.
Một loại nói: “Phật đã dạy người thấy thấu suốt hết thảy, sao chính
mình lại ngược ngạo nẩy sanh thứ tham dục này?” (chỉ những thứ vàng, báu
được nói trong kinh A Di Đà). Chúng ta sao lại khổ sở bỏ đi những gì có thật trước
mắt để mong cầu những thứ mờ mịt nơi thân sau?” Đây chính là kẻ tà kiến, chấp
trước, mặc tình báng Phật, báng Pháp. Hai hạng này tuy phẩm vị có cao - thấp
nhưng tà kiến đều hệt như nhau, đều tự lầm, lầm người hệt như nhau. Bọn đệ tử
chúng con tận lực bảo họ những cảnh giới Tây Phương đều do công đức của A Di Đà
Phật hóa hiện Thật Tướng trang nghiêm, là quả báo phước đức tự tại hưởng dụng,
khác hẳn những thứ do nghiệp lực tạo thành trong đời ác Ngũ Trược. Huống chi, tất
cả mọi thứ trong Sa Bà đều khổ, không, vô thường; vì thế phải nên vứt bỏ để cầu
lấy Thật Tế. Nhưng lời lẽ của kẻ ngu muội [như chúng con] dẫu chẳng trái chánh
lý, trọn chẳng thể khơi gợi chánh tín [cho họ được]. Kính nghĩ tất cả ngôn luận
của thầy như mặt trời rạng rỡ giữa hư không, không tối tăm nào chẳng chiếu tỏ, dám
xin thầy giảng giải mấy lời để phá thứ tà kiến ấy.
Hai
thứ tà kiến được nói trong thư gởi đến chính là “đem tri kiến phàm phu để dò lường
cảnh giới của Như Lai”. Khổng Tử gọi đó là “hiếu
hành tiểu huệ”[22],
Mạnh Tử thì gọi là “tự bạo, tự khí”[23].
Hạng người này vốn chẳng có giá trị, tư cách để cùng bàn luận. Nhưng đức Phật
lòng Từ rộng lớn, chẳng bỏ một ai, chẳng ngại lập ra một phương tiện để họ tỉnh
mê tan mộng. Do đức Phật trọn chẳng có tham dục nên mới cảm được cảnh giới thù
thắng các thứ trang nghiêm quý báu, mọi thứ đều hóa hiện chẳng cần đến sức người
lo toan, tạo dựng; cảnh giới phàm phu trong thế giới Sa Bà há có thể so sánh được
ư?
Ví như người từ thiện, có đức,
tâm địa, hành vi đều chánh đại quang minh thì tướng mạo cũng hiện vẻ từ thiện rạng
rỡ. Cố nhiên người ấy chẳng cầu tướng mạo dung nhan đẹp đẽ mà tự nhiên được
tươi đẹp. Kẻ tạo nghiệp tâm địa rối ren, ô uế, hung ác, vẻ mặt cũng tối tăm,
hung ác theo. Cố nhiên kẻ ấy muốn sắc mặt tươi đẹp để người khác tưởng mình là
bậc thiện nhân chánh đại quang minh, nhưng do tâm địa chẳng lành, dẫu cầu [được
như thế] cũng trọn chẳng thể được. Đấy là ước theo cái nhìn của con mắt phàm
phu mà nói; chứ quỷ thần sẽ thấy người lành thân có quang minh, quang minh lớn
hay nhỏ tùy thuộc vào người ấy đức lớn hay nhỏ; thấy kẻ ác thân có những tướng
tối tăm, hung ác v.v… Tướng ấy lớn hay nhỏ cũng tùy theo sự ác lớn hay nhỏ mà
hiện. Những kẻ [tà kiến] kia cho rằng “kinh Kim Cang là không”, chẳng biết kinh
Kim Cang giảng rõ về Lý Tánh, nhưng chưa nói đến quả báo đạt được do chứng Lý Tánh.
Sự trang nghiêm nơi Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ chính là quả báo rốt ráo đạt được
bởi kinh Kim Cang. Phàm phu nghe vậy, cố nhiên sẽ ngờ vực cho là “chẳng hề có
chuyện ấy!”
Kinh Kim Cang dạy thiện nam nữ
phát tâm Bồ Đề, tâm chẳng trụ vào tướng nhưng muốn độ trọn hết chúng sanh. Dẫu
độ, cũng chẳng thấy “ta là người độ, chúng sanh là kẻ được độ”, cũng như pháp
Niết Bàn rốt ráo để đạt. Đấy gọi là “vô sở
trụ nhi sanh kỳ tâm” (chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm), do đã đạt đến “vô sở đắc” (không có gì để đạt được)
nên bèn thành Phật. Họ lại bảo đức Phật đã thành, quốc độ Ngài trụ trong kinh
Kim Cang cũng giống hệt như cảnh giới trong đời ác Ngũ Trược này ư? Họ tưởng là
rỗng tuếch tuềnh toang, trọn chẳng có gì cả ư?
Cõi Phật thanh tịnh, con người
vừa nghe đến tên [cõi Phật ấy] thân tâm liền thanh tịnh, họ lại cho là tham dục!
Đúng là loài giòi tửa hằng ngày nằm trong hầm xí, tự xưng là thơm tho, thanh
khiết, coi hương Chiên Đàn là hôi thối, chẳng muốn lìa khỏi hầm xí ấy để ngửi mùi
thơm kia! Đạo Chích[24]
tụ tập đồ đảng mấy ngàn tên hoành hành trộm cắp trong thiên hạ, ngược ngạo tự xưng
là “hữu đạo”, cực lực chê trách “vua Nghiêu bất nhân, vua Thuấn bất hiếu, vua
Vũ dâm dật, Thành Thang, Vũ Vương bạo loạn, Khổng Tử hư ngụy”, chê họ là vô đạo!
Thật giống với tri kiến của hai hạng người ấy! Lại như trong thời gần đây, những
kẻ phế kinh, phế hiếu, phế luân thường, lõa thể rong chơi, cho đó là bẩm tụ phẩm
đức tự nhiên của trời đất, chẳng cần phải tạo tác. Thế nhưng mùa Hạ tranh nhau
lõa lồ, sao mùa Đông chẳng trần trụi? Bảo là bẩm thụ tự nhiên, chẳng cần phải tạo
tác, [vậy thì] đào giếng, cày ruộng, dệt cửi mới có cơm ăn, áo mặc, chẳng phải
là tạo tác đó sao? Kẻ ác ngăn trở phá hoại người khác làm lành thường là như thế.
Chúng bảo rằng: “Thiện phải do vô tâm mà làm, hễ có tâm làm thì chẳng phải là
thiện thật sự!” Nhưng bậc thánh hiền thuở xưa, không vị nào chẳng sáng chiều miệt
mài gắng sức, răn dè, cẩn thận, kiêng sợ như vào vực sâu, như bước trên băng mỏng,
là có tâm hay chăng? Hay là vô tâm vậy?
Nói chung, những hạng người ấy
ý họ muốn “chẳng phải tu trì gì mới là cao thượng”, nên mới lập ra thứ lý luận
mù quáng hèn kém nhất ấy để tự khoe mẽ mình hiểu rõ lý, mong được người khác tưởng
mình là cao minh, là đại thông gia, là chân danh sĩ! Họ chẳng biết toàn thân nằm
trong hầm xí, trừ những kẻ có cùng tri kiến với chúng, ai chịu chấp nhận [những
luận điệu càn quấy ấy]?
328. Thư trả
lời cư sĩ La Hồng Đào (thư thứ nhất)
Các hạ đã tự xưng là đệ tử Phật, há nên dùng tri kiến phàm phu của chính mình để suy lường cảnh giới Phật, cho rằng những điều ấy (tức những điều được giảng nói về cảnh giới Phật trong kinh luận) đều xuất phát từ ý kiến của con người, đều chẳng đáng để tin tưởng ư? Cần biết rằng sở dĩ đức Phật [nói ra những pháp môn] để dạy con người đều nhằm đối trị tập khí. Do tập khí chướng lấp tự tâm nên chẳng những không biết được những hành vi thần diệu của đức Phật, mà ngay cả sự thấy - nghe - hay - biết của chính mình từ sống cho đến chết có bao giờ tự biết đâu? Nay đã tin Phật lại chẳng dốc sức vào chỗ đạt được lợi ích chân thật, lại cứ lan man cật vấn những chỗ tri kiến của chính mình chưa thể thấu hiểu được ư? Đấy đúng là “bỏ những thứ trà - cơm nhà mình thường có để mong cỗ ngon nơi bếp trời”, tính toán sai lầm lớn quá! (ngày mồng Một tháng Ba năm Dân Quốc 17 - 1928)
329. Thư trả
lời cư sĩ La Hồng Đào (thư thứ hai)
Nhận
được thư trách Quang trả lời chẳng hợp với câu hỏi, ông chẳng biết đấy chính là
lá bùa hộ thân của kẻ tầm thường, kém cỏi! Các hạ lầm tưởng ông Tăng tầm thường
vô tri vô thức là thiện tri thức. Lỗi lầm căn bản thuộc về các hạ, chứ không phải
do Ấn Quang. Các hạ đã tin Phật, hãy nên dựa theo những lý tột cùng của Phật để
luận, sao lại chỉ dựa theo những dấu tích thần diệu để bàn? Hơn nữa, những dấu
tích thần diệu vô lượng; các hạ lại chẳng nói rõ dấu tích thần diệu nào, mà vẫn
cứ mong muốn một kẻ trọn chẳng nghiên cứu đạo Gia Tô[25]
như Quang biện định dấu tích thần diệu của Gia Tô và Phật giống nhau hay khác
nhau ra sao! Hơn nữa, các hạ bảo Quang chê các hạ “dùng tri kiến của phàm phu để
suy lường trí Phật lẫn cảnh giới của Phật” là đã hiểu lầm [ý các hạ]. Như vậy
thì xét theo phía Quang, cố nhiên Quang không trả lời câu hỏi của các hạ là
đúng rồi, [bởi Quang] sợ [các hạ sẽ nói] Quang đem tri kiến phàm phu suy lường
cảnh giới Phật, nên chối từ như thế. Đúng hay sai xin các hạ tự cân nhắc; nếu gởi
thư tới nữa sẽ không trả lời một chữ nào! Xin hãy sáng suốt suy xét điều này!
Ấn Quang tái bút: “Đăng Đông Sơn nhi tiểu Lỗ, đăng Thái Sơn nhi tiểu thiên hạ. Quán ư hải giả nan vi thủy, du ư thánh nhân chi môn giả nan vi ngôn” (lên Đông Sơn thấy nước Lỗ nhỏ, lên Thái Sơn thấy thiên hạ nhỏ. Nhìn biển cả khó thấy được nước, dạo chơi cửa thánh nhân khó thốt lời). Các hạ đã biết đạo Gia Tô sai lầm, lại tin Phật đến mức tột bậc, nhưng chẳng nương theo lý lẽ tột cùng mà lại biện luận dấu tích thần diệu thì có khác nào bảo kênh, lạch, khe, rãnh giống hệt biển cả chẳng khác gì! Đã chẳng thể biết được trí của chính mình, lại muốn được thiện tri thức trả lời trọn vẹn. Xin các hạ chớ đem tri kiến phàm phu suy lường cảnh giới Phật thì thiện tri thức chẳng cần phúc đáp mà các hạ vẫn tự hiểu rành rẽ! (ngày mồng Hai tháng Ba năm Dân Quốc 17 - 1928)
330. Thư trả
lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ nhất)
Hôm
qua nhận được thư biết ông đời trước gieo thiện căn sâu xa, được gặp pháp môn Tịnh
Độ liền sanh lòng tin, hết sức an ủi! Họ Đinh (tức Đinh Phước Bảo) chú giải kinh
phần nhiều chuyên tìm chứng cứ, chứ chưa làm sáng tỏ ý nghĩa của kinh văn cho lắm.
Cuốn Di Đà Kinh Tiên Chú có rất nhiều chỗ sai, nhưng xét về mặt dẫn chứng những
sự tích trong sách ấy thì cũng khá có lợi cho kẻ sơ cơ. Các nhà Nho thời Tống -
Minh phần nhiều lấy những ý nghĩa trong kinh Phật để chống đỡ môn đình Nho
giáo, nhưng họ chỉ nói sao cho thật cao xa, huyền diệu, chứ trọn rất ít kẻ hành
đúng theo kinh Phật. Căn bệnh ấy là do chưa thể tin tưởng sâu xa sự lý sanh tử
luân hồi. Nếu họ tin tưởng sâu xa, ai chịu gác bỏ lợi ích liễu sanh tử lớn lao,
chuyên lấy những lời của nhà Phật giảng bày Lý Tánh để khoác mũ miện “giảng học”,
nhưng chẳng chịu dựa theo đó để thực hành ư? Một pháp Tịnh Độ là con đường để
thượng thánh hạ phàm cùng theo, ai có thể vừa nghe liền tin, nếu chẳng phải là
do trong đời trước đã từng gieo đại thiện căn sẽ chẳng thể được!
Quang là một ông Tăng chỉ biết
cơm cháo mà thôi! Đối với Tông lẫn Giáo đều chẳng biết gì, chỉ tự lượng kém hèn,
chuyên chú trọng Tịnh Độ. Do ông Từ Úy Như ấn hành những bản sao thư từ trao đổi
[với bạn bè] đến nỗi một người truyền hư, vạn người truyền thật, đều lầm tưởng
Quang là tri thức, khiến cho người ta phải hổ thẹn khôn cùng! Ông đã lầm lẫn coi
Quang là tri thức thì cũng chẳng ngại gì “coi sai là đúng!” Nay đặt pháp danh
cho ông là Trí Mục. Ông dùng đạo đức của kẻ sĩ để chăn dắt (định hướng cho cuộc
đời của chính mình)[26],
dẫu có thể kế thừa bậc thánh đời trước, khơi lối cho kẻ học trong đời sau, dùng
tiên giác để giác kẻ hậu giác, sợ rằng chỉ mong thành thánh thành hiền trong thế
gian mà thôi! Nên biết rằng: Một pháp liễu sanh tử nếu chẳng dùng trí để chăn dắt
sẽ chẳng thể được! Có thể dùng trí để tự chăn dắt thì phiền não, Hoặc nghiệp sẽ
tự tiêu diệt, công đức, trí huệ sẽ tự hiển hiện. Dùng trí để tự chăn dắt, mà cũng
dùng trí để chăn dắt người khác thì chuyện “kế thừa đời trước, mở lối người
sau, tự giác, giác tha” mới là Thật Nghĩa rốt ráo. Nhưng muốn dùng trí để tự
chăn dắt, ắt phải nên đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Phàm những
điều thiện - ác đều đoạn trừ từ ngay nơi khởi tâm động niệm rồi mở rộng ra thì
mới là thực tiễn, chẳng thành nói xuông!
Nếu muốn dùng trí để chăn dắt
người khác thì phải bắt đầu từ cha mẹ, vợ con. Cha mẹ còn sống, hãy khuyên họ
ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, chớ nên để nghiệp sát sanh gây lụy cho
cha mẹ, cho đó là phụng dưỡng ngọt bùi. Đấy chính là cái nhìn lầm lạc của thế
gian, trọn chớ nên làm theo. Nếu như cha mẹ chẳng chịu ăn chay, chỉ nên chí
thành niệm Phật sám hối thay cho cha mẹ, khiến cho họ tiêu trừ túc nghiệp sẽ liền
ăn chay được. Vợ con chính là những người gần gũi với mình nhất, chẳng thể dùng
Phật pháp đễ dẫn dắt họ, làm sao dẫn dắt người đời cho được? “Nêu gương cho vợ, [ảnh hưởng] đến tận anh
em rồi lan truyền ra khắp cả nước”, pháp thế gian hay xuất thế gian không
gì đều chẳng như vậy! Từ nhà đến cả nước, thì mới là đường lối “đi xa do bước từ
chỗ gần, lên cao phải bắt đầu từ dưới thấp” vậy! Trong khi niệm Phật, do thương
những chúng sanh khổ não, lòng chua xót ứa lệ, đấy chính là thiện căn phát hiện,
nhưng chớ nên tưởng đó là đức rồi thường để xảy ra như vậy! Nếu thường như thế,
sẽ bị ma bi thương dựa, điều này hết sức thiết yếu!
Niệm Phật lấy Tín - Nguyện làm
chủ, có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, quyết định được vãng sanh. Còn [tâm
mong] chứng tam-muội thì chẳng thể không phát tâm ấy, nhưng người đời nay thật
rất ít kẻ chứng tam-muội, bởi lẽ đã chứng được Niệm Phật tam-muội là đã siêu
phàm nhập thánh ngay trong đời này, chớ nên coi là chuyện dễ dàng! Không biết
ông có bộ Văn Sao của Quang hay chưa? Nay gởi cho ông một bộ, xin hãy đọc kỹ
thì cách tu trì, dụng tâm đều có thể hiểu rõ. Lại còn có bản in bằng lối khắc
ván, so với bộ này nhiều hơn một trăm bốn mươi mấy bài; muốn xem xin hãy gởi
thư cho cư sĩ Trương Thụy Tăng ở Đại Thập Tam Loan, Dương Châu xin một bộ. Ông
ta thí rộng rãi các thiện thư, không ai xin mà chẳng cho; thí thiện thư rất nhiều,
chứ không phải chỉ có một loại sách này.
Thêm nữa, hiện thời Thương Vụ Ấn
Thư Quán đã sắp chữ gần xong, ước chừng cuối tháng Ba sẽ có thể in ra sách; so
với bản khắc ván lại nhiều hơn một trăm bài nữa. Đã được bạn bè chịu trách nhiệm
in hai vạn bộ, sắp chữ hoàn chỉnh xong liền bắt đầu in, sẽ in ba vạn bộ. Mỗi bộ
giá ước chừng bốn cắc, chưa tính bưu phí. Nếu muốn lợi người, xin hãy đứng ra
in bao nhiêu bộ đó để kết tịnh duyên. Cách chịu trách nhiệm là ai bỏ ra bao
nhiêu tiền sẽ căn cứ theo số tiền ấy mà giao sách cho người đó. Trong đây chẳng
có mảy may riêng tư nào để cho mọi người làm công đức chân thật. Nếu muốn đảm nhiệm in, xin hãy gởi tiền sang văn phòng
chánh của Thương Vụ Ấn Thư Quán ở số Bốn Mươi Lăm, Hoa Tự đường Bảo Sơn,
Thượng Hải, giao cho cư sĩ Nhậm Tâm Bạch. Ông ta nhận được liền gởi biên lai, đợi
khi nào sách in ra sẽ giao theo số tiền [đã đóng góp]. [Giá tiền như đã nói
trên đây] là căn cứ theo số lượng ba vạn bộ mà định giá, so với giá bán lẻ sẽ rẻ
hơn một nửa.
Pháp do đức Như Lai đã nói trong cả một đời đều là dạy dùng tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh tử. Chỉ có một môn Tịnh Độ chuyên trọng Phật lực, do [nương vào] Phật lực nên tuy tội nghiệp sâu nặng mà nếu đủ lòng tín nguyện sẽ đều được vãng sanh. Nếu có thể đoạn chứng thì sở chứng càng cao. Pháp này lợi khắp ba căn thượng, trung, hạ. Cõi đời thường vì thấy ngu phu ngu phụ cũng niệm được bèn cho pháp này là chuyện của ngu phu, ngu phụ, đến nỗi kẻ không ngu lại bị kẻ ngu thương xót ngược lại, nguyên nhân đều là do không có trí để tự chăn dắt vậy. Nếu có thể dùng trí để tự chăn dắt, ắt sẽ viên chứng thiên chân Phật tánh sẵn có nơi tâm này để thành Phật đạo đầy đủ phước huệ vậy! (ngày Hai Mươi Mốt tháng Giêng năm Giáp Tý - 1924)
331. Thư trả
lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ hai)
Do
bệnh mắt chưa lành, sau đấy lại vì thư từ dồn đống nên lá thư [ông gởi] ngày Mười
Tám tháng trước để chậm trễ tới nay. Nói “dùng
trí để tự chăn dắt, chăn dắt người khác”, chính là cật lực giữ vẹn luân thường,
chuyên dốc tu Tịnh nghiệp, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Nếu
ông luận về đạo “tự dẫn dắt, dẫn dắt người khác” ở ngoài những điều ấy, sẽ trở
thành lời nói mâu thuẫn với việc làm, chẳng biết đấy chính là trí Đại Bát Nhã.
Ông đã nói lời ấy, tức là đã xem mấy câu nói đó [của Quang trong lá thư trước]
như tri kiến thừa thãi! Quán Thế Âm Phổ Môn phẩm cũng là pháp môn Niệm Phật! Những
kẻ cầu phước báo thế gian do chẳng biết có pháp xuất thế gian, mà cũng chẳng biết
tâm tánh của chính mình và tâm tánh của Phật chẳng hai.
Vợ ông đã có tín tâm, hãy nên
dùng nhiều cách khuyên lơn, khích lệ, khiến cho [lòng tin ấy] được tăng trưởng.
Cha mẹ ông không tin là vì túc căn nông cạn. Hãy nên đem toàn thể công đức trì
tụng của chính mình chí tâm hồi hướng cho cha mẹ, há nên chỉ hạn định trong ba
biến chú Đại Bi? Ông chớ nên nói “hồi hướng cho cha mẹ, chính mình sẽ chẳng có
phần!” Nếu ông có thể chân thật hồi hướng cho cha mẹ thì so với việc “chỉ trì tụng
[cho chính mình], chẳng hồi hướng cho cha mẹ”, công đức càng thù thắng hơn. Vì
thế, trong nhà Phật, phàm mỗi khi lễ tụng đều hồi hướng cho khắp pháp giới
chúng sanh, huống là cha mẹ sanh ra ta ư?
Ví như một ngọn đèn, đem thắp cả trăm ngàn vạn ức vô lượng vô biên ngọn đèn khác, chính cây đèn ấy vẫn y như cũ. Nếu chẳng thắp [cho ngọn đèn nào khác], ngọn đèn ấy có được tăng thêm gì đâu! Huống chi sự sanh trưởng, phát khởi của đại Bồ Đề tâm, cố nhiên chẳng thể nào dùng ánh sáng của ngọn đèn trong thế gian để tỷ dụ được! Chẳng qua là mượn chút ý nghĩa đấy thôi! Trước kia, ông Nhậm Tâm Bạch nói ông có gởi thư đến, gởi cho Khổng Chúc Sanh bốn đồng, đợi tới tháng Tư sách được in ra sẽ gởi đi, mỗi bộ chẳng quá bốn cắc (bưu phí chưa tính).
Ngày Hai Mươi Lăm, Hai Mươi Sáu, Quang sẽ xuống núi. Không có chuyện gì quan trọng đừng gởi thư đến. Nếu có chuyện gì cần gởi thư, hãy gởi sang chùa Thái Bình ở bến Trần Gia, Thượng Hải, nhờ hòa thượng Chân Đạt chuyển. Bởi lẽ, có thể Quang cần sang nơi khác, nên phải giao cho thầy ấy. Ước chừng [thời gian tôi ở Thượng Hải] sẽ kéo dài hai, ba tháng (ngày Mười Hai tháng Ba năm Giáp Tý - 1924)
332. Thư trả
lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ ba)
Thư
nhận được đầy đủ. Hiện nay người cùng nhà đánh nhau, dân chúng lầm than, đều là
vì những kẻ [hiện đang] có quyền lực, trong đời trước đã chỉ biết vun phước, chẳng
biết cầu sanh Tịnh Độ, nên đến nỗi đời này cậy vào phước lực để rối nước hại
dân. Nhưng trăm họ bị bọn chúng hãm hại cũng là vì đời trước chẳng biết kiêng
giết, bảo vệ sanh mạng, chỉ biết vui thỏa bụng miệng, chẳng biết đây - kia cùng
một thân thể, cùng một tánh linh, nhẫn tâm giết ăn! So với giết chính mình để tự
ăn còn tàn khốc gấp vạn lần. Nhưng kẻ ngu tục chẳng biết nên mới dùng thịt để tỏ
lòng hiếu, cúng giỗ tổ tông, đãi đằng khách khứa. Nếu không có thịt, sẽ chẳng
có mặt mũi nào nhìn ai, [cảm thấy] nhục nhã, ê chề không chi bằng! Chẳng biết
đã tạo thành đại kiếp giết chóc lẫn nhau này; tuy Phật, Bồ Tát đại bi cứu khổ
cũng chẳng làm thế nào được!
Ông đã biết ăn chay, khuyên lơn
cha mẹ, đúng là biết cội gốc, nhưng nỡ để vợ con, quyến thuộc tạo mãi sát nghiệp,
chịu mãi sát báo ư? Cả nhà ắt đều nên ăn chay và đem điều này giáo hóa cả làng,
cả ấp, sẽ cứu được cái khổ trong tương lai chẳng thể nào lường được! Lại cần phải
khuyên dạy họ đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, sanh lòng tin phát
nguyện cầu sanh Tây Phương ngõ hầu đoạn trừ được hạt giống khổ sở. Phận làm con
hiếu thảo với cha mẹ thì chỉ có điều này là lớn. Nếu chẳng dốc sức nơi điều này
thì cha mẹ chưa được vãng sanh sẽ bị đọa lạc nhiều lắm. Dẫu cho một đời, hai đời
chẳng bị đọa lạc, rốt cuộc cũng có ngày đọa trong tam đồ ác đạo. Lặng im suy
nghĩ, tâm sao yên được?
Cần biết rằng: Cái quan trọng
nhất trong thế gian là thần thức. Dẫu [con cái] công thành danh lập, rốt cuộc
thần thức của cha mẹ có được hưởng lợi ích chi đâu? Đại Vũ là đại thánh nhân,
chẳng cứu nổi thần thức của ông Cổn. [Ông Cổn chết đi] hóa thành con Hoàng Nai (chữ
Năng (能) đọc thành Nãi (乃), giọng ngang, chính là con ba ba
có ba chân) chui xuống vực Vũ. Nghĩ tới điều
này, tâm khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương sẽ tràn trề nẩy sanh. Nếu
không, chính là ngỗ nghịch, bất hiếu, vì chẳng đoái hoài thần thức cha mẹ bị đọa
lạc, tội ấy còn [nặng] hơn giết cha mẹ vậy! Kẻ chưa nghe Phật pháp thì chẳng biết
làm sao, chứ ông đã quy y Phật pháp, đương nhiên Quang chẳng thể không dựa theo
sự thực để bảo ông. Mong ông hãy đưa lời này của Quang cho cha mẹ xem, chắc họ
sẽ dễ sanh lòng tin.
Văn Sao đã nhận được hay chưa?
Nay lại gởi cho ông hai gói, xin hãy tặng cho người thông văn lý, có tín tâm.
Sách Giới Sát Phóng Sanh Bạch Thoại và Sơ Cơ Tịnh Nghiệp Chỉ
Tôi chỉ nghe tiếng sư Bảo Nhất, chưa hề trao đổi thư từ. Nếu ông muốn thân cận, cũng chẳng phải là không được; chỉ có điều cuốn Tự Tri Lục do một nữ đệ tử của Sư in ra thì đừng xem. Sợ ông xem rồi sẽ đến nỗi không dốc sức nơi nhất tâm, chỉ chuyên mong được cảnh giới tốt đẹp, ắt sẽ bị ma dựa. Đấy là ý nghĩa trọng yếu ([nhiều người ở] Thượng Hải, Hàng Châu, Dư Diêu trông thấy sách ấy đều muốn đem in thạch bản. Quang hết sức nói ra điều tệ của sách ấy nên họ đều thôi in) (ngày Hai Mươi Tám tháng Chạp năm Giáp Tý - 1924)
333. Thư trả
lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ tư)
Nhận
được thư khôn ngăn vui vẻ, an ủi. Người không thông hiểu [pháp môn Tịnh Độ]
trông thấy Tự Tri Lục không một ai chẳng hớn hở muốn lưu thông, chẳng biết [người
viết ra sách ấy] đã bị ma dựa quá nhiều, khiến cho công lao chân tu của người
khác đều bị cảnh giới [được mô tả trong sách] ấy ngăn trở[27].
Giống như bỏ chất độc vào Đề Hồ, ăn vào ắt sẽ chết người, đáng than quá đỗi!
Ông Hoàng Hàm Chi ôm lòng làm lợi, cứu giúp người khác, ắt sẽ thay ông lo liệu,
nhưng nghe nói năm ngoái ông ta bị bệnh, chẳng biết hiện thời đã lành hay chưa?
Cha mẹ ông chẳng phát tâm thì
một là do họ tự coi đó là chuyện nhỏ nhặt, chẳng phát tâm liễu sanh thoát tử,
siêu phàm nhập thánh; hai là do chẳng biết đến cội nguồn nên chẳng phát tâm. Nếu
vợ ông thông hiểu văn nghĩa, hằng ngày đem những nghĩa trong Văn Sao ra giảng
nói, chắc sẽ cảm động được tâm họ. Như vợ ông chẳng thể giảng nói, thì cháu
gái, cháu trai đọc Văn Sao sẽ có thể giảng nói. Lại hãy nên thỉnh Sơ Cơ Tịnh
Nghiệp Chỉ
Nay đặt pháp danh cho vợ ông
là Trí Dục, nghĩa là dùng trí huệ để tự nuôi dưỡng đức mình, khiến cho nhân dục
hết sạch, Minh Đức hiện rõ. Lại dùng trí ấy để giáo dục con cái khiến cho chúng
đều trở thành bậc quân tử lập được đức “chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành”. Từ đây lại mở rộng ra thì lợi ích sẽ chẳng thể nghĩ bàn được. Kẻ ngu
trong cõi đời chẳng biết tu đức, chỉ muốn nhờ vào thờ Phật để diệt tội. Vậy là
chỉ mong được tiếng, chẳng trọng thực chất, há có thể đích thân đạt được lợi
ích thật sự ư?
Quân Anh, Khuê Anh đã có túc
căn, lại đọc Văn Sao, ắt sẽ có lúc phát sanh thiện căn lớn lao, chẳng ngại đặt
sẵn pháp danh cho chúng để chúng gắng công tu đức của chính mình hòng trở thành
bậc thầy gương mẫu cho nữ giới. Dẫu chúng không có tâm quy y, chỉ cần tu theo
đúng những gì Văn Sao đã nói thì cũng là người trong Liên Trì Hải Hội. Nếu bọn
chúng phát được tâm tự lợi, lợi tha, há chỉ riêng nữ giới được lợi ích mà thôi
ư? Nay đặt pháp danh cho Quân Anh là Liên Anh, Khuê Anh pháp danh là Tịnh Anh.
Do bọn chúng nếu có thể quyết chí đè nén thói xấu của nữ giới, chuyên tu Tịnh
nghiệp, trong tương lai sẽ đem những gì chính mình đã biết vun đắp cho bố mẹ chồng,
chồng, cùng với chị em dâu và con cái thì cả nhà nhân từ, làng ấp cũng đều nhìn
theo đó bắt chước làm lành. [Làm được như thế] thì chính là bậc anh thư trong đời
này.
“Anh” có nghĩa là “siêu quần
xuất chúng”, tức là bậc trượng phu trong nữ giới, tương lai vãng sanh Tây
Phương, làm đệ tử của Phật A Di Đà, là quyến thuộc của Quán Âm, Thế Chí, đáng gọi
là “cùng làm con thật sự của đức Như Lai trong thế giới hoa sen thanh tịnh”. Ý
nghĩa thật sự của chữ Anh là như vậy đó. Chúng chịu tin tưởng, làm theo những lời
này, ắt sẽ chẳng nói xuông. Người bận bịu chắc chắn phải dùng đến cách Thập Niệm
vào buổi sáng, nhưng ngay cả người nhàn tản có thể tụng niệm công khóa, cũng vẫn
có thể dùng phép Thập Niệm vào buổi sáng được, chứ không phải là đã tụng công
khóa thì không được dùng! Cổ nhân có nhiều vị suốt đời dùng phép Thập Niệm buổi
sáng rồi mới tụng khóa lễ chánh, nào có trở ngại chi!
Hiện thời, thế đạo nhân tâm suy hãm cùng cực, đều do gia đình chẳng dùng nhân quả báo ứng để dạy dỗ. Hơn nữa, trường nữ sinh ngày nay phần nhiều cổ động học sinh toan tính nắm giữ chánh quyền, làm Đốc Quân, Tỉnh Trưởng, Đại Tổng Thống, hoàn toàn chẳng đề xướng “giúp chồng, dạy con” đến nỗi lũ học sinh như điên, như cuồng, gần là gây lụy cho gia đình, xa là gieo tai ương cho xã hội, đáng tiếc thay! Xin hãy nói cặn kẽ những lời này với Quân Anh, Khuê Anh (ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai năm Ất Sửu - 1925).
334. Thư trả
lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ năm)
Nhận
được thư khôn ngăn đau thương, nước ta nhiều năm qua chẳng bị thiên tai thì
cũng bị nhân họa. Tuy nguồn cội đều là do ác nghiệp trong quá khứ lẫn hiện tại
gây nên, nhưng quá nửa cũng là vì kẻ nắm giữ chánh quyền chuyên cậy vào ý mình,
chẳng tuân theo công lý, đến nỗi đã loạn lại càng loạn thêm! Những kẻ lưng chừng
đều thành loài trộm cướp; đúng là không lập được cách nào [cứu vãn], không có
thuốc nào chữa được, đáng đau, đáng than! Mười đồng để in Đại Sĩ Tụng đã nhận
được rồi. Nếu Nhuận Phủ có thể thôi ăn mặn, kiêng rượu, Quang sẽ chẳng uổng phí
một phen tâm tư.
Ngày hôm qua Liên Anh có gởi
thư đến, hỏi cách khiến cho cha mẹ được vãng sanh, tợ hồ cô ta chưa thể thấu hiểu
những ý trong Văn Sao. Nếu không, trọn chẳng đến nỗi có lời hỏi ấy! Quang cực lực
nói về lợi ích do niệm Phật, cũng như lợi - hại do giữ gìn lòng trinh. Nếu giữ
được cho vững thì không chi tốt lành bằng! Nếu không, hãy nên vâng theo thiên
lý nhân luân mà xuất giá, so với việc không lấy chồng mà bị thất tiết sẽ cao
siêu gấp trăm ngàn vạn lần. Cuối thư, Quang bảo cô ta hãy thường đọc Văn Sao,
chớ nên thường gởi thư đến cho thêm bận rộn.
Nhà chồng của Tịnh Anh đã gây
khó khăn về chuyện ăn thuần đồ chay thì ăn thịt ít đi sẽ chẳng trở ngại gì, hoặc
chính mình chỉ ăn rau trong những món thịt. Hơn nữa, bọn họ quyết chẳng dò xét cô
ta ăn cơm [như thế nào], chỉ giữ lòng bất nhẫn thì tuy chẳng thể ăn thuần món
chay thanh tịnh nhưng những món tanh tưởi phải ăn kèm theo cũng chẳng có mấy!
Hơn nữa, cô ta đã thông hiểu văn lý, nên cũng có thể uyển chuyển thuật những lợi
ích [do ăn chay] với chồng. Lâu ngày chồng cô ta sẽ chẳng đến nỗi vẫn ngăn trở.
Dẫu bị ngăn trở thì chỉ nên niệm Phật hồi hướng cho những chúng sanh bị ăn thì
cũng bù đắp được đôi chút cho sự thiếu sót ấy, không còn mắc sát nghiệp nữa! Cô
ta niệm Phật [thấy] ánh sáng tỏa ra, đấy vẫn thuộc về ma cảnh. Hãy viết thư gấp,
bảo cô ta đừng tưởng chuyện ấy là thật, lâu sau [hiện tượng ấy] sẽ mất đi. Nếu
tưởng đó là thánh cảnh hiện tiền, sợ rằng tương lai sẽ đến nỗi bị ma quỷ dựa
thân, bị ma nhập phát cuồng, hết thuốc chữa!
Ấy là vì chúng ta từ vô lượng
kiếp đến nay đã kết oán nghiệp vô lượng vô biên. Bọn chúng muốn đến báo oán,
nhưng vì cô ta có sức tu trì niệm Phật, chẳng thể báo oán trực tiếp được. Do cô
ta mong tưởng cảnh giới tốt đẹp, những kẻ oán nghiệp ấy bèn hiện ra cảnh giới
đó khiến cho cô ta dấy lòng hoan hỷ, tưởng công phu tu hành của mình đã đạt mức
rồi, hoặc tưởng mình đã thành thánh đạo. Do vọng niệm cứng chắc ấy sẽ bị mất
chánh niệm, ma quỷ bèn nhập thân khiến phát điên phát cuồng, Phật cũng chẳng thể
cứu được! Cõi đời lắm kẻ dụng công tu hành rồi phát điên phát cuồng đều do
chính mình chẳng biết dứt trừ vọng tưởng, nhiếp tâm, chánh niệm dụng công, thường
đều là “chưa dụng công đã mong thành thánh!” Do suốt ngày chỉ chăm chú mong
ngóng thánh cảnh giống như uống thuốc độc, hôn mê, loạn trí, vô tri, bảo là “trời
đất lăn chiêng, thần kỳ quỷ quái!” Chứ thật ra đều là do vọng tâm của chính
mình chiêu cảm ma quỷ gây tác dụng.
Hãy nên dạy cô ta nhất tâm niệm
Phật. Trừ danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật ra, nhất loạt chẳng để cho tâm nẩy sanh
các niệm thì tự nhiên sẽ như hư không tan sương mù, mặt trời chiếu rạng. Lợi
ích của nhất tâm niệm Phật và họa hại vì tâm vọng tưởng sôi động mong thấy cảnh
giới trong Văn Sao đều đã nói tới nhiều lần. Xin hãy sao lại thư này gởi cho
[cô ta]. Lại nên khuyên cô ta hãy tận lực y theo lời tôi nói, chớ tưởng cảnh ấy
là thật. Dẫu nó có xuất hiện cũng chẳng sanh vui mừng, cũng không sanh lòng sợ
sệt, cảnh ấy sẽ tự tiêu. Như kẻ giặc vào nhà người ta, tưởng nó là người trong
nhà chính mình thì cũng bị hại. Biết nó là giặc nhưng lầm lẫn sanh lòng sợ hãi
thì cũng sẽ bị hại. Nếu chẳng vui, chẳng sợ, nhất loạt chẳng thèm đoái hoài tới
nó, nó sẽ chẳng có chỗ nào để đặt chân!
Hiện thời Văn Sao không còn, tôi sẽ gởi thư cậy thầy Chân Đạt gởi cho dăm ba gói để giúp Quang bù đắp chỗ thiếu thốn. Trong lúc này, làm chuyện lớn sẽ rất mệt trí. Nếu chẳng hết sức tỉ mỉ, khiến cho người khác bị hại thì chính mình mắc lỗi, khổ sở chẳng kham nói được đâu! (ngày Mười Tám tháng Tư năm Ất Sửu - 1925)
335. Thư trả
lời cư sĩ Trần Sĩ Mục (thư thứ sáu)
Phàm
tình chẳng thể suy lường lợi ích của Phật pháp được! Kẻ ngu chỉ biết dùng thuốc
men để trị bệnh và van thần vái quỷ cầu được lành bệnh đều đáng gọi là phường
“gánh gai bỏ vàng, đi ngược đường”. Ông do bị bệnh mà biết “công phu chẳng hờ hững,
hời hợt sẽ đạt được lợi ích thật sự”. Lại biết Phật pháp quả thật có thuật “điểm
đá thành vàng” (đây là ví dụ, đừng hiểu lầm), có công huân biến phàm thành thánh. Đấy cũng là do thiện căn đời trước
mà ra, mà cũng là do đời này tu trì mà được. Hãy khéo dụng tâm, đừng cho đấy là
chuyện kỳ lạ, đặc biệt, rồi thoái thất công lao trước kia thì tương lai sẽ càng
đạt được lợi ích sâu xa. Nói đến lợi ích sâu xa thì bất tất phải cầu nơi cảm
thông cảnh giới, mà hãy nên nhận chắc sự vãng sanh Tây Phương thì mới chẳng phụ
ân sâu Tam Bảo gia bị lần này.
Chung Anh túc căn sâu xa,
nhưng tri thức chưa mở mang! Nửa đêm niệm Phật, thấy một vị thần mặc kim giáp,
sợ bị ma thử thách, nên chẳng dám niệm. Sao mà vô trí quá mức như thế? Phàm người
niệm Phật chỉ nên chí thành, khẩn thiết, nhất tâm chánh niệm, trọn chẳng chuyên
chú vọng tưởng thấy Phật hoặc thấy cảnh giới. Bởi lẽ, nếu tâm quy nhất, thấy Phật
hay thấy cảnh giới đều chẳng đến nỗi lầm lẫn sanh hoan hỷ, rồi đến mức “được
chút ít đã cho là đủ”, trở thành lui sụt. Không thấy Phật, không thấy cảnh giới,
cũng trọn chẳng thiếu sót gì! Tâm chưa quy nhất mà muốn gấp thấy Phật, thấy cảnh
giới, đừng nói thấy cảnh ma, dẫu thật sự thấy cảnh Phật mà tâm lầm lẫn sanh
hoan hỷ cũng bị tổn hại (nghĩa là “do sanh hoan hỷ bèn lui sụt”), chẳng được hưởng lợi ích. Hãy nên chú trọng chí
thành niệm Phật, đừng ôm lòng [mong tưởng] thấy Phật hay thấy cảnh giới.
Nếu khi đang niệm Phật, chợt có
tượng Phật và tượng Bồ Tát, tượng chư thiên hiện ra, lòng chỉ giữ chánh niệm, đừng
sanh chấp trước. Biết tượng hiện ra ấy chỉ do tâm hiện, tuy hiển hiện vằng vặc
phân minh, thật sự chẳng phải là một vật nào! Do tâm tịnh nên hiện ra cảnh tượng
ấy, như nước thanh tịnh, trăng liền hiện bóng, chẳng có mảy may kỳ lạ, đặc biệt
nào. Trọn chẳng sanh lòng khoe khoang, vui sướng, tâm càng thêm chuyên nhất, sốt
sắng niệm Phật. Người làm được như thế thì đừng nói là “cảnh giới Phật hiện ra
sẽ được lợi ích”, dẫu ma hiện ra vẫn có lợi ích. Vì sao vậy? Do chẳng chấp trước,
tâm có thể quy nhất. Phật hiện thì tâm càng thanh tịnh. Ma hiện thì do tâm
thanh tịnh chẳng chấp trước nên ma không thể quấy nhiễu được, tâm càng thêm
thanh tịnh, đạo nghiệp tự tiến.
Nay ngẫu nhiên có chuyện biến
hiện bèn sanh hoảng sợ, chẳng dám niệm Phật, tâm đã mất chánh niệm rồi! May chẳng
phải là ma hiện! Nếu là ma hiện, vì không dám niệm Phật nên ma liền có thể nhập
vào tâm khiếu, bị ma dựa phát cuồng, chôn vùi chánh niệm. Sao chẳng biết tốt - xấu
đến mức như thế? Sợ là ma hiện thì càng phải nên sốt sắng khẩn thiết niệm Phật,
con ma ấy sẽ tự chẳng có chỗ dung thân! Như ánh sáng chiếu đến, tối tăm tự
nhiên chẳng còn, chánh đến tà tự tiêu diệt. Sao lại sợ ma hiện bèn chẳng dám niệm
Phật? May chẳng phải là ma, nếu quả thật là ma thì đã trao toàn quyền cho nó rồi.
Pháp để tự mình đối trị hoàn toàn chẳng dùng tới, bỏ mặc cho ma khuấy, buồn
thay, xót thay!
Niệm Phật ngẫu nhiên sanh lòng
bi cảm, cũng là điều hay, nhưng chớ nên chuyên muốn dấy lên cảm tưởng ấy. Nếu
tâm thường muốn dấy lên cảm tưởng ấy, chắc sẽ đến nỗi bị ma dựa, chẳng thể cứu
được. Hãy nên giữ tâm như hư không, trọn chẳng có một vật gì trong tâm. Dùng
tâm thanh tịnh ấy để niệm Phật thì sẽ tự chẳng có hết thảy cảnh giới. Dẫu có ma
cảnh, nhưng do tâm ta như hư không, chẳng sanh kinh sợ, cứ niệm Phật, ma ắt tự
tiêu! Nay sợ là ma, chẳng dám niệm Phật thì ví như sợ cường đạo kéo đến bèn trước
hết tự mình đem những lính hộ vệ trong nhà chuyển đi phương xa, chẳng cho họ ở
trong nhà. Đấy chính là đã trao quyền bảo hộ cho cường đạo khiến chúng trọn chẳng
sợ hãi gì, mặc sức cướp đoạt sạch sành sanh! Sao mà ngu si đến tột bậc như thế?
Văn Sao đã được in, ước chừng
cuối năm nay có thể ra sách. Lúc này hãy nên từ từ. Quyển Trung và Hạ của Tâm
Kinh do lũ đồ đệ ma ngụy tạo; Cư Sĩ Lâm biếu tặng sách ấy, Quang chưa từng thấy,
chắc là chưa từng được kiểm duyệt chăng? Loại sách ấy vạn phần chớ nên lưu thông!
Nếu không, sẽ làm hại chánh nhãn của người khác, tội chẳng nhỏ đâu! Ông X….
quen thói thế tục, quả thật là một vết nhơ cho pháp môn.
Trong Nhất Hạnh Cư Tập, chỉ một
đoạn nói về chế ngự tà dâm là chẳng nể nang hai chúng tại gia thuộc tông Thiên
Xin hãy nói với Chung Anh, đừng
xử sự như gã si thì mai sau ắt sẽ có lợi ích lớn lao (ý nói nghiệp tiêu,
trí rạng, chướng tận, phước dầy và vãng sanh Tây Phương; chứ không phải là nói
tới cảnh giới). Đã gởi xong hai mươi bảy bộ Đại
Sĩ Tụng trong hai lượt, tức trong ngày Ba Mươi Mốt tháng Năm và mồng Năm tháng
Sáu Dương lịch. Đã giao hết sách cho Tôn Trí Trạch và cha ông rồi. Do in tới một
vạn bộ, người đứng ra in nhiều thì giao trước một ít, những người bỏ tiền ít sẽ
giao hết để khỏi tốn công. Sách được giữ tại hội quán ở Thiên Tân (ngày
mồng Hai tháng Sáu năm Ất Sửu - 1925).
Ấn Quang
pháp sư Văn Sao Tam Biên
Quyển 2
Phần 3 hết
[1] Nguyên văn “lư niên” (năm con lừa). Thời cổ dùng 12
con giáp để đặt tên cho từng năm, nhưng trong mười hai con giáp không có con lừa
nên cổ nhân dùng chữ “lư niên” để chỉ chuyện không có kỳ hạn, hoặc không bao giờ
xảy ra.
[2] “Y Doãn canh
Tân” vốn là một điển tích dựa theo một câu nói được ghi trong thiên Vạn
Chương thượng sách Mạnh Tử: “Y Doãn canh
vu Hữu Tân chi dã, nhi lạc Nghiêu Thuấn chi đạo yên” (Y Doãn cày ruộng trên
cánh đồng Hữu Tân mà vui với đạo của Nghiêu - Thuấn). Cánh đồng Hữu Tân nằm giữa
hai thôn Tân Dã, Tân Lý thuộc trấn Tân Đình. Trước khi theo Tân Thị về hầu vua
Thành Thang, Y Doãn vốn là nô lệ của họ Tân Đằng. Khi Tân Thị lấy vua Thành
Thang, Y Doãn được phái đi theo Bồi Giá (người hầu đi theo nữ chủ về nhà chồng
gọi là Bồi Giá). Khi dâng cơm, Y Doãn thừa dịp trình bày những kiến giải rất đặc
sắc khiến Thành Thang ngưỡng mộ, trả tự do cho Y Doãn và phong cho ông làm Tể
Tướng. Ông thường được cổ sử xưng tụng là “thiên thu hiền tướng”. Do chữ Tân
thường bị đọc trại thành Sằn trong các sách vở được lưu truyền từ trước đến
nay, chúng tôi cũng ghi theo cách đọc phổ biến là “Y Doãn cày ruộng Sằn”
[3] Trung Phong Minh Bổn (1263-1323), là một vị cao tăng thuộc tông Lâm Tế sống vào đời Nguyên, người huyện Tiền Đường, Hàng Châu, thường được biết dưới mỹ hiệu Trí Giác thiền sư hoặc Phổ Ứng quốc sư. Từ nhỏ Ngài đã qua tham học với ngài Cao Phong Nguyên Diệu núi Thiên Mục, năm 24 tuổi xin xuất gia với ngài Cao Phong, sau này được phó truyền pháp mạch. Từ đấy, Ngài không có nơi trụ nhất định, thường vân du khắp nơi, nên thường tự xưng là Huyễn Trụ Đạo Nhân. Đạo đức, trí huệ rạng ngời nên được người đời xưng tụng là Giang Nam Cổ Phật. Vua Nhân Tông nhà Nguyên từng hạ chỉ triệu Sư vào triều, Sư luôn tìm cách từ chối, chỉ tiếp nhận bộ ca-sa kim lan và mỹ hiệu Phật Từ Viên Chiếu Quảng Huệ Thiền Sư do vua phong tặng. Nguyên Anh Tông xin quy y với Sư được Sư chấp thuận. Sau khi Sư mất, ngài Từ Tịch biên tập những lời dạy và những trước tác của Sư, tạo thành một bộ toàn tập, đặt tên là Thiên Mục Trung Phong Hòa Thượng Quảng Lục. Qua bộ toàn tập này, ta thấy Sư thông hiểu Phật học uyên thâm, giảng rất nhiều kinh cũng như giảng dạy rất phóng khoáng, không hạn cuộc trong một tông phái nào, do đó Sư được người thời ấy ca ngợi: “Phật pháp trung hưng Bổn Trung Phong” (có thể hiểu hai cách: Phật pháp được trung hưng bởi sư Minh Bổn Trung Phong, hoặc vốn nhờ vào ngài Trung Phong mà Phật pháp được trung hưng)
[4]
Hiện thời có hai bản Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm được lưu hành:
1)
Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự. Bản này phổ biến nhất, thường dùng thay
thế cho nghi thức Diệm Khẩu, chủ yếu lấy kinh Di Đà làm kinh văn phúng tụng
trong cả ba thời. Hiểu theo nghĩa hẹp, “tam thời” là buổi sáng, chính ngọ và buổi
chiều, tức là trong suốt một ngày thường luôn hệ niệm tưởng nhớ đến Phật. Hiểu
theo nghĩa rộng, Tam Thời chỉ hết thảy thời. Hệ niệm là thân - khẩu - ý đều
nương theo văn nghĩa kinh Di Đà chuyên lòng chú tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới,
không còn nghĩ gì khác.
2) Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự Phạm Nghi: Cũng chia thành ba thời,
nhưng dùng hai kinh Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ để trì tụng. Thời thứ nhất
tụng cuốn Thượng của kinh Vô Lượng Thọ (bản Ngụy dịch, tức bản dịch của ngài
Khang Tăng Khải), thời thứ hai tụng cuốn hạ của Vô Lượng Thọ Kinh, thời thứ ba
tụng Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Giữa thời thứ nhất và thời thứ hai có kèm
theo nghi thức Cúng Ngọ. Giữa thời thứ hai và thời thứ ba lễ A Di Đà Sám Nghi.
Các phần khai thị, tán Phật, sám hối, phát nguyện, hồi hướng đều giống như loại
thứ nhất.
[5] Nguyên văn “toàn
hiếu tích loại”, là một cách diễn tả khác ý tưởng một câu trong kinh Thi “hiếu tử bất quỹ, vĩnh tích nhĩ loại”
(hiếu tử chẳng thiếu thốn, trời vĩnh viễn ban thưởng cho bọn ngươi).
[6] Chú này vốn có tên gọi đầy đủ là Nhất Tự Chuyển Luân
Vương Chú (hoặc gọi tắt là Nhất Tự Tâm Chú), còn được phiên âm là Bộ Long, Bột
Long, hay Bột Lỗ Úm, do chính đức Phật nói ra trên cõi trời Tịnh Cư. Theo kinh
Đại Đà La Ni Mạt Pháp Trung Nhất Tự Tâm Chú (do ngài Bảo Tư Duy dịch trong đời
Đường), khi ấy đức Phật nhập Nhất Thiết Như Lai Tối Thượng Đại Chuyển Luân
Vương Đảnh Tam Muội, từ giữa chặng mày phóng ra hào quang chiếu khắp mười
phương thế giới, nhiễu quanh Phật ba vòng, nhập vào đảnh Như Lai, rồi trong hào
quang chợt vang ra tiếng nói: “Ta là Nhất Tự Chú Đại Chuyển Luân Vương” rồi nói
ra chú này. Theo kinh dạy, sau khi xuất định đức Phật đã giảng cặn kẽ về công
năng của chú này, trong ấy có câu: “Nếu
trì các thần chú mà không có thần lực, hiệu nghiệm, hãy nên tụng thần chú này một
trăm vạn biến liền được thành tựu, đạt được cảnh giới”. Do vậy, khi trì các
bài chú, hành giả Mật Tông thường ghép thêm bài chú này thành chữ cuối của mỗi
biến, hoặc tụng riêng sau khi đã tụng đủ biến số mình muốn trì.
[7] Trừ kẻ hung bạo, giúp cho người lành được sống yên ổn.
[8] Thông thường, trong các tự điển chữ “đại ma phong” được
dịch là “bệnh cùi”. Từ trước đến giờ chưa thấy tài liệu nào nói Trung Quốc chữa
tuyệt căn bệnh cùi cũng như dược điển không ghi Thương Nhĩ chữa được căn bệnh
nan y này, chỉ thấy Thương Nhĩ trị bệnh lác và các chứng lở loét ngoài da rất
công hiệu. Chúng tôi đoán “đại ma phong” được nhắc đến ở đây chỉ là một chứng lở
loét ngoài da hay bệnh lác.
[9] Nguyên văn “ngao cao”, là một loại cao chế bằng cách
ép dược liệu lấy nước, lọc xác, rồi cô đặc. Hoặc ngâm dược liệu vào rượu, đun
liu riu cho đến khi dược chất tan hết vào rượu rồi cô đặc từ từ.
[10] Thương Nhĩ (tên khoa học là Xanthi Sibiricum), còn được
gọi là Quyển Nhĩ, Tước Nhĩ, Địa Quỳ, Dương Phụ Lai, Đạo Nhân Đầu, Tiến Hiền
Thái, Dã Gia v.v… là một loại thảo mộc thuộc họ Cúc, thường mọc hoang, trổ hoa
vào khoảng giữa Hạ sang Thu, có trái hình trứng, khắp thân cây mọc đầy gai rất
cứng. Loại thực vật này có chất độc, đôi khi có thể gây ra tử vong. Theo Đông
Y, Thương Nhĩ tánh ôn, vị cay và đắng, có tác dụng đi vào kinh Phế, thường dùng
để chữa phong thấp, đau đầu do cảm mạo, trừ các chứng ghẻ lở, ngứa ngáy, mụn nhọt,
ù tai… Tuy thế, liều lượng sử dụng phải hết sức cẩn thận. Trong khoảng
1960-1962, tại Trung Quốc đã có 30.119 trường hợp bị ngộ độc, trong số đó có
405 người chết vì dùng Thương Nhĩ.
[11] Tám mươi hoa (bát thập hoa) là thuật ngữ để chỉ mắt
già bị viễn thị, chỉ nhìn vật được ở cách mắt đến 80cm, nhưng không đọc chữ được,
phải đeo kính viễn thị để có thể nhìn gần, đọc được chữ.
[12] Nguyên văn “hiển vi kính”. Chữ “hiển vi” ở đây khác với
chữ thuật ngữ “kính hiển vi” được dùng để dịch chữ Microscope hiện thời. Kính
hiển vi thời ấy chỉ có nghĩa là kính phóng đại, kính lúp (magnifier).
[13] Bát Xúc: Theo Ma Ha Chỉ Quán (quyển chín), khi sắp đắc Sơ Thiền, trong thân sanh ra tám thứ cảm xúc:
1) Động Xúc: Lúc ngồi Thiền, đột nhiên thân thể rung động.
2) Dưỡng Xúc: Thân đột nhiên ngứa ngáy.
3) Khinh Xúc: Thân thể đột nhiên cảm thấy nhẹ bổng như mây, như bụi, có cảm giác như đang bay lơ lửng.
4) Trọng Xúc: Đột nhiên cảm thấy thân nặng như tảng đá, chẳng thể cử động được chút nào.
5) Lãnh Xúc: Đột nhiên thân lạnh buốt.
6) Noãn Xúc: Đột nhiên thân nóng như lửa.
7) Sáp Xúc: Đột nhiên cảm thấy thân thô rít như da, như gỗ.
8) Hoạt Xúc: Đột nhiên cảm thấy thân trơn mịn như sữa.
Nguyên nhân là do khi sắp đắc Sơ Thiền, cực vi của thượng giới nhập vào cực vi của Dục Giới, hai thứ xen lẫn nhau, khiến cho Tứ Đại phát động cuồng loạn. Người không hiểu tình trạng này sanh lòng kinh sợ, sẽ sanh bệnh, huyết mạch đi loạn đường, dễ phát cuồng.
[14] Lục Diệu Môn là pháp do tông Thiên Thai đề xướng. Chữ Diệu chỉ cho Niết Bàn. Do có sáu cửa để nhập Niết Bàn nên gọi là Lục Diệu Môn, tức sáu phép Thiền Quán. Theo Lục Diệu Pháp Môn và Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn (quyển thượng) thì Lục Diệu Môn là:
1) Sổ Tức Môn: Đếm hơi thở từ một đến mười để nhiếp tâm nhằm nhập định.
2) Tùy Tức Môn: Chú tâm nơi hơi thở ra vào, chẳng cần đếm số.
3) Chỉ Môn: Ngưng lặng các vọng niệm để khởi Thiền Định.
4) Quán Môn: Quán Ngũ Ấm hư vọng, phá trừ các vọng kiến điên đảo, nhằm khai phát Vô Lậu Phương Tiện Trí.
5) Hoàn Môn: Quay trở lại quán tâm, biết cái tâm quán ấy không thật nên Ngã Chấp tự mất, Vô Lậu Phương Tiện Trí tự nhiên tỏ rạng, tự nhiên đoạn Hoặc chứng Chân.
6) Tịnh Môn: Không có tâm trụ trước, lắng bặt thanh tịnh, Chân Minh Vô Lậu Trí nhờ đây tự phát hiện, tự nhiên đoạn Hoặc chứng Chân.
Ba môn đầu thuộc Định, ba môn sau thuộc Huệ.
[15] Theo Đại Bát Niết Bàn Kinh Huyền Nghĩa, quyển thượng. Chữ Y trong mẫu tự Siddham gồm ba điểm hợp thành, xếp thành hình tam giác có đỉnh nhọn quay xuống dưới, cho nên thường được dùng để ví với “chẳng một, chẳng khác, chẳng trước, chẳng sau”. Chữ Y do đó được dùng để ví cho ba đức của Niết Bàn là Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát. Ba đức này hợp thành Thật Nghĩa của Niết Bàn như chữ Y do ba điểm hợp thành, mà ba điểm này tách rời không thành chữ Y cũng như không thể nào tìm Niết Bàn ngoài ba đức này. Ngoài ra, chữ Y còn được dùng để ví với Tam Bồ Đề (Thật Tánh, Thật Trí, Phương Tiện) hoặc Tam Phật Tánh (Chánh Nhân, Liễu Nhân, Duyên Nhân), hoặc Tam Bảo, hoặc Tam Đạo (Khổ, Phiền Não, Nghiệp) v.v…
[16] Đây là một hình thức khích lệ tu trì. Nhật Ký Tu Trì
ghi những điều phát nguyện tu trì của các liên hữu trong liên xã. Mỗi trang là
một tháng, ghi rõ trong mỗi ngày trong tháng ấy, ai phát nguyện tụng bao nhiêu
biến kinh nào, niệm bao nhiêu biến chú nào, hoặc niệm bao nhiêu câu Phật hiệu.
[17] Ý nói: Xét đến rốt ráo về mặt bản thể thì giác ngộ chỉ
là một, sự giác ngộ rốt ráo của Phật và chúng sanh giống hệt như nhau không
hai, không khác nên nói là “một còn chưa thể được”, tức là không còn phân biệt,
đối đãi nên ngay cả sự giác ngộ cũng không thấy có. Hay nói cách khác, không thấy
có sự giác ngộ của Phật và của chúng sanh nên nói “một còn chưa thể được”. Nếu
xét theo mặt Sự, tùy trình độ tu chứng, căn cơ, chấp trước, mức độ đoạn phiền
não của mỗi người mà thấy sự giác ngộ có nhiều từng cấp, nhiều đến vô lượng nên
gọi là “biển giác”.
[18] Lệnh từ: tiếng gọi mẹ của người khác với ý kính trọng.
Thứ từ: Mẹ kế.
[19] Mạn Đầu (thường được biết dưới tên gọi Mằn Thầu) là một thứ bánh bao không nhân, có hình dáng như một miếng bột cuộn tròn lại, thường dùng để ăn như cơm hằng ngày ở Hoa Bắc. Từ thời Xuân Thu, người Hoa đã lấy lúa mì cho lên men, vo tròn lại đem hấp ăn, gọi là Di Thực. Đến thời Hán, do đã có cối xay, lúa mì được xay thành bột, mới phổ biến lối làm bánh bằng bột mì. Tương truyền Mạn Đầu do chính Gia Cát Lượng (Khổng Minh) chế ra khi đem quân vượt sông Lô Thủy để đánh Mạnh Hoạch. Theo sự mê tín thời đó, hễ đại quân vượt sông phải dùng đầu người tế thủy thần để xin phép. Gia Cát Lượng liền sai quân lính vò bột mì ủ men thành bánh bao, bên trong nhồi thịt heo, ném xuống sông giả làm đầu người để lừa thủy thần. Do vậy bánh bao được gọi là Mạn Đầu (謾頭: Mạn (謾) là lừa dối). Dần dần Mạn Đầu (謾頭) được viết thành Mạn Đầu (饅頭) và là từ ngữ để chỉ chung các loại bánh bao. Đến đời Tống, Mạn Đầu chỉ còn có nghĩa là loại bánh bao không nhân, còn loại có nhân được gọi là Bao Tử hoặc Đại Bao.
[20] Kim Đan Đạo có tên nguyên thủy là Tại Lý Hội, vốn là một chi phái của Bạch Liên Giáo, do Dương Lai Như sáng lập tại huyện Tức Mặc tỉnh Sơn Đông vào cuối đời Thanh, chủ trương “dung hợp Tam Giáo thành nhất thể”, vay mượn giáo nghĩa của Tam Giáo, chủ yếu tu tập vận khí, luyện đan, ăn chay, kiêng rượu, cấm hút thuốc phiện. Giáo phái này mượn danh nghĩa tôn giáo nhằm lập hội kín chủ trương quy tụ nông dân để phản Thanh phục Minh. Năm Quang Tự 17 (1891), thủ lãnh Dương Duyệt Xuân đã lãnh đạo tín đồ phát động khởi nghĩa tại Bình Tuyền, Kiến Xương, Xích Phong v.v… thiêu hủy nhà thờ Thiên Chúa, đánh giết các giáo sĩ, đánh phá quân triều đình. Sau khi bị triều đình nhà Thanh đàn áp, phải rút lui vào hoạt động bí mật, đổi tên thành Kim Đan Đạo, rồi lại thịnh hành khi Dân Quốc thành lập.
[21] Nhị đế tam vương: Nhị đế là Đế Nghiêu, Đế Thuấn, tam
vương là vua Đại Vũ nhà Hạ, Thành Thang nhà Thương và Văn Vương nhà Châu.
[22]
Đây là một câu nói
trong thiên Vệ Linh Công của sách Luận Ngữ: “Quần cư chung nhật, ngôn bất cập nghĩa, hiếu hành tiểu huệ, nan hỹ
tai”. Trong Luận Ngữ Giảng Yếu, cụ Lý Bỉnh
[23] Từ ngữ này xuất phát từ thiên Ly Lâu thượng sách Mạnh Tử: “Tự bạo giả, bất khả dữ hữu ngôn dã; tự khí giả, bất khả dữ hữu vi dã” (Kẻ tự phụ rẫy mình thì chẳng thể nói năng gì với hắn được. Kẻ tự vứt bỏ, thì chẳng thể làm gì với hắn được). “Tự bạo, tự khí” thường được dùng như một thành ngữ hàm nghĩa kẻ thiếu ý chí tiến thủ, tự thụt lùi, tự đầu hàng, tự buông mình vào tuyệt vọng.
[24] Đạo Chích tên thật là Liễu Hạ Chích, là một tên trộm lừng danh thời cổ, được coi như tổ sư “nghề” ăn trộm nên thành tên Đạo Chích. Thành ngữ “Đạo diệc hữu đạo” (ăn trộm cũng có đạo nghĩa) xuất phát từ truyện Đạo Chích (số 29) trong phần Tạp Biên sách Trang Tử. Theo đó, em trai của Liễu Hạ Quý là Đạo Chích, tụ tập chín ngàn người, hoành hành trong thiên hạ, cướp bóc, gian dâm, không biết kiêng sợ ai. Khi Khổng Tử buông lời chê trách Liễu Hạ Quý không biết dạy dỗ em, Liễu Hạ Quý biện bác, thoái thác trách nhiệm. Khổng Tử bèn tìm đến tận sào huyệt của Đạo Chích để khuyên giải, liền bị hắn mạt sát, dương dương tự đắc khoe mình có đạo đức, nhất loạt chê trách tất cả thánh hiền từ xưa đến nay đều là phường tội lỗi, chỉ riêng hắn có đạo nghĩa. Cũng như những câu chuyện khác của Trang Tử, đây cũng chỉ là chuyện hư cấu, với ngụ ý châm biếm những kẻ làm càn vẫn tự khoe mình tài đức.
[25] Nguyên văn “Da Giáo” (đạo Gia Tô). Gia Tô là cách người
Trung Hoa phiên âm chữ Jesus. Đúng ra phải viết là Da Tô, nhưng các sách vở từ
trước đến nay thường ghi là Gia Tô, nên chúng tôi cũng thuận theo cách viết phổ
biến này.
[26] Cái tên Sĩ Mục (士牧)
có thể hiểu là “chăn dắt (hướng dẫn) kẻ sĩ”, hoặc “dùng đạo đức của kẻ sĩ để tự
chăn dắt, định hướng cho cuộc đời của chính mình”. Mục (牧)
theo vốn nghĩa là chăn dắt gia súc, như “mục đồng” là đứa bé chăn trâu. Cũng giống
như vậy, Thiên Chúa Giáo quan niệm tín đồ là lũ con chiên (cừu non) của Chúa
nên những tu sĩ được gọi là Mục Sư, Linh Mục; Jesus được gọi là Đấng Chủ Chiên;
công việc hướng dẫn tín đồ, rao giảng Phúc Âm do vậy được gọi là “công tác mục
vụ”.
[27] Theo phần trước, đệ tử của sư Bảo Nhất bịa chuyện Sư
có hai người đệ tử niệm Phật đã tu chứng được cảnh giới Bồ Tát nhằm đề cao đức
hạnh cũng như khả năng giáo hóa cao siêu của thầy mình. Sư Bảo Nhất không ngăn
trở còn đề tựa tán dương. Do đó, người không thông hiểu sâu xa pháp môn Tịnh Độ
khi đọc cuốn Tự Tri Lục sẽ rất dễ khởi tâm mong cầu mau đắc những cảnh giới thần
kỳ giống như vậy, cho nên khó thể đạt nhất tâm do lòng ham cầu quá mạnh! Thậm
chí, do tánh tự ái, ham danh, sẽ bịa chuyện kể những cảnh giới tốt đẹp mình đã
đạt được để mong người khác khen mình tu giỏi!