Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
Quyển Hạ
Phần 4
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Hòa
Giảo Chánh: Tịnh nghiệp hành
nhân Minh Tiến & Huệ Trang
III. Ký
1. Bi ký trình bày sự thần dị của suối Bát Công Đức thuộc
Tam Thánh Thiền Viện núi Phổ Đà
Quán Thế Âm Bồ
Tát tùy loại hiện thân trong mười phương thế giới, tầm thanh cứu khổ, nhưng vẫn
lấy Phổ Đà làm cuộc đất ứng hóa, [là vì] muốn cho hết thảy tứ chúng có chỗ để
gieo lòng thành. Sự từ bi linh cảm của Bồ Tát cố nhiên ai nấy đều biết rõ, ngay
cả một hòn đá, một giòng nước, không gì chẳng tỏ rõ dấu tích chẳng thể nghĩ bàn
của Bồ Tát. Những hòn đá kỳ lạ ở Phổ Đà cố nhiên nhiều lắm, nhưng chỉ có Bàn Đà
Thạch[1]
là bậc nhất. Người hiểu lý trông thấy tảng đá này thì thần thông, oai đức chẳng
thể nghĩ bàn của Bồ Tát chẳng cần phải đợi nói tường tận mà sẽ đều ngộ giải cả.
Những cuộc đất gần biển thì nước đều mặn chát, chẳng thể dùng để uống được; [vậy
mà] khắp núi Phổ Đà nước đều ngọt ngào, tuy là cuộc đất ở sát bên biển mà trọn
chẳng có nước mặn, nhưng con suối Bát Công Đức thật là bậc nhất!
Theo
Sơn Chí, vào thời Vạn Lịch nhà Minh, vị Tăng tên Đại Phương dựng lều tranh nơi
đây. Năm [Vạn Lịch] ba mươi (1602), nội giám[2]
Trương Tùy, Đảng Lễ vâng chiếu đốc thúc xây cất điện chứa kinh, nhàn du đến nơi
đây, uống nước thấy ngọt ngào, nghe [Tăng chúng] kể lại dẫu hạn hán hay lũ lụt,
[nước suối] vẫn không tăng, không giảm, hễ cầu mưa ắt lấy nước từ nơi đây, liền
quyên tiền dựng Tam Thánh Đường, đặt tên cho con suối ấy là Bát Công Đức. Ấy là
phỏng theo tên nước trong ao bảy báu nơi Cực Lạc thế giới. Suối Bát Công Đức do
Tam Thánh Đường mà được tên, Tam Thánh Đường do nước tám công đức mà khởi đầu; ấy
gọi là do thời tiết nhân duyên cho nên có chuyện chẳng mong cầu mà tự được!
Theo kinh Phật, nước [cõi Cực Lạc] có tám công đức là:
1) Trong trẻo: Khác
với [nước ở] phương này [thường] nhơ đục.
2) Sạch mát: Khác
[với phương này nước thường] lạnh hay nóng.
3)
Ngọt ngào: Khác [với phương này nước thường] mặn, nhạt, hay vị rất tệ.
4) Mềm nhẹ: Khác [với
phương này nước thường] nặng nề.
5) Trơn láng,
tươi tắn: Khác [với phương này nước thường] tù đọng, màu sắc ủ dột, bệch bạc.
6) An hòa: Khác [với
phương này nước thường] chảy xiết, dữ dội.
7) Trừ đói khát:
Khác [với phương này, nước thường] gây [cảm
giác] lạnh lẽo.
8) Trưởng dưỡng
các căn: Khác [với phương này nước] gây tổn hoại các căn và tạo ra tật dịch,
tăng thêm bệnh tật, chết chìm v.v…
Chúng sanh đời
trược nghiệp lực sâu nặng đến nỗi nước cõi này không có những công đức, lực dụng
ấy. So với những loại nước thông thường khác, nước suối Bát Công Đức có rất nhiều
công đức. Vì thế, đặc biệt nêu rõ để tỏ bày dấu tích chẳng thể nghĩ bàn của Bồ
Tát ngõ hầu những người sống trong núi và những ai đến núi chiêm bái sẽ từ mỗi
tảng đá, mỗi giòng nước đều có thể ngộ sâu xa thường lý viên thông, hòng lấy
tâm Bồ Tát làm tâm [của chính mình], lấy sự nghiệp của Bồ Tát làm sự nghiệp [của
chính mình] vậy!
2. Bài ký về chuyện xây dựng đại điện của đạo tràng chuyên
tu Tịnh nghiệp tại núi Linh Nham
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Kinh Hoa Nghiêm mầu
nhiệm lý sự viên dung, Lý do Sự hiển, Sự do Lý thành. Lý lẫn Sự đều đạt đến tột
cùng, viên chứng Tỳ Lô Pháp Thân. Vì thế, lúc đức Như Lai mới thành Chánh Giác
bèn cùng với các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị là Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác nói các pháp môn và các pháp nhân quả
do đức Như Lai đã tự chứng. Nhân quả chính là Sự, pháp do đức Như Lai tự chứng
chính là Nhất Chân pháp giới[3],
Chân Như Phật Tánh tịch - chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt, chẳng phải có,
chẳng phải không. Phật Tánh ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Phật
do chứng rốt ráo nên thường hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh[4];
chúng sanh do triệt để mê nên hằng chịu nỗi khổ huyễn vọng sanh tử luân hồi. Ví
như tấm gương báu tròn lớn bị bụi phủ cả kiếp, tuy có ánh sáng chiếu trời soi đất
nhưng không do đâu tỏ lộ để thụ dụng được. Vì thế, nhờ vào các vị Bồ Tát cùng
nhau xướng đáp để nói ra các pháp môn Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Lại còn dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực
Lạc để mong viên mãn Phật Quả. Đấy chính là đức Như Lai dùng nhân quả tự chứng
để làm một khuôn mẫu lớn lao hòng dạy khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho ai nấy
đều đích thân chứng đắc. Kinh Hoa Nghiêm riêng thích hợp cho căn cơ Đại Thừa; chứ
Nhị Thừa, phàm phu chẳng thể vâng nhận được! Vì thế, trong hội Phương Đẳng, đức
Phật đặc biệt nói ra ba kinh Tịnh Độ để dù phàm hay thánh đều cùng chuyên chú
tu trì, ngõ hầu trong đời này thoát khỏi cõi Ngũ Trược đây, lên được cõi sen chín
phẩm kia.
1)
Trong núi Linh Thứu nước Ma Kiệt Đề, đức Phật nói đến nhân địa đầu tiên của đức
Phật A Di Đà: Bỏ nước xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện, lại trải qua nhiều
kiếp dài lâu tu hành đúng như lời nguyện cho đến khi phước huệ viên mãn, được
thành Phật đạo, cảm được thế giới trang nghiêm, mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được,
mười phương chư Phật đều cùng tán thán. Mười phương Bồ Tát và hàng Nhị Thừa hồi
Tiểu hướng Đại lẫn phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp đều được vãng sanh, được bình đẳng
nhiếp thọ. Đấy là Vô Lượng Thọ Kinh.
2)
Trong vương cung nước Ma Kiệt Đề, nói ba phước Tịnh nghiệp, mười sáu phép Quán
mầu nhiệm để hết thảy chúng sanh hiểu rõ những nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ
tâm tưởng mà sanh. Tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh. Biển nghiệp
phiền não của chúng sanh từ tâm tưởng mà sanh” vượt ngoài ngôn ngữ. Nếu có
thể hiểu được sâu xa nghĩa này, ai chịu bị luân hồi oan uổng? Cuối kinh nói rõ những
nhân vãng sanh của chín phẩm ngõ hầu ai nấy đều tu Thượng Phẩm. Đó là Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh.
3)
Nơi vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, nói diệu quả y báo, chánh báo của Tịnh Độ để
[người nghe] sanh lòng tin, khuyên người nghe hãy nên phát nguyện cầu vãng
sanh, dạy hành giả lập hạnh chấp trì danh hiệu. Ba điều Tín - Nguyện - Hạnh là
cương tông của pháp môn Tịnh Độ. Đầy đủ ba pháp này rồi, hoặc suốt một đời chấp
trì đã đắc nhất tâm, hoặc lâm chung mới được nghe pháp này chỉ xưng mười tiếng,
đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đấy là kinh A Di Đà.
Ba
kinh này chuyên nói về Tịnh Độ, nhưng kinh A Di Đà lời lẽ đơn giản, ý nghĩa
phong phú, nhiếp thọ căn cơ bậc nhất nên các tông Thiền, Giáo, Luật đều vâng
dùng làm kinh nhật tụng. Các kinh Đại Thừa nói kèm về Tịnh Độ nhiều không thể kể
xiết, nhưng chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm quả thật
là khai thị mầu nhiệm nhất về pháp Niệm Phật. Nếu có thể như con nhớ mẹ, nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm, há chẳng trong hiện tại hay tương lai
nhất định thấy Phật, gần là chứng viên thông, xa là thành Phật đạo ư? Pháp môn
Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt một đời đức Phật: Tuy
là phàm phu sát đất đầy dẫy Hoặc nghiệp, chỉ cần tín nguyện niệm Phật sẽ có thể
cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Dù là vị Bồ Tát đã chứng địa vị Đẳng
Giác cao cả vẫn phải hồi hướng vãng sanh thì mới viên mãn Phật quả được!
Do
vậy biết: Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, thích hợp khắp ba
căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn. Chúng sanh trong chín giới bỏ
pháp này thì trên sẽ chẳng có gì để viên thành Phật đạo; mười phương chư Phật
lìa pháp này thì dưới chẳng có gì để phổ độ quần manh[5].
Hết thảy pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy hạnh
môn không hạnh nào chẳng trở về pháp giới này, bởi đây là pháp môn tổng trì
thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Vì thế, được chín giới cùng hướng về, mười phương
cùng khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.
Nhưng
pháp môn này do hai đức Thế Tôn hai cõi tạo lập, đức Thích Ca nơi Sa Bà dạy rõ
Tịnh Độ để đưa con người đi về [cõi Cực Lạc], đức Di Đà nơi Cực Lạc đợi lúc họ
lâm chung tiếp dẫn [từ Sa Bà] về tới [Cực Lạc]. Ấy là muốn cho chúng sanh thoát
được nỗi khổ sanh tử ngay trong đời này, chứng sự vui chân thường. Tâm thương
xót, che chở, bảo vệ ấy dẫu hết cả kiếp khó thể nói trọn. Có kẻ bảo: “Đã là đệ
tử Phật Thích Ca, hãy nên niệm Thích Ca Mâu Ni Phật cầu sanh Hoa Tạng thế giới
trong cõi này”, họ chẳng biết đức Thích Ca dạy niệm A Di Đà Phật là nhằm làm
cho hàng phàm phu sát đất nương vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu
phàm nhập thánh. Chỉ có bậc Đại Sĩ đã phá vô minh chứng Pháp Thân mới thấy được
Hoa Tạng thế giới của cõi này; phàm phu chỉ thấy uế độ, chẳng thấy được cõi Thật
Báo Trang Nghiêm, há nên mong tưởng quá phận! Huống chi Tây Phương cũng nằm
trong Hoa Tạng thế giới, mà trong hội Hoa Nghiêm hết thảy các vị Bồ Tát trong
Hoa Tạng thế giới hải đều dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây
Phương để mong viên mãn Phật Quả. Ông là hạng người như thế nào mà dám chống đối
các vị ấy?
Kể
từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, Viễn Công lập Liên Xã đầu tiên, một
người xướng, trăm người hòa, không ai chẳng noi theo, thỏa thích bổn hoài của
Phật chỉ có mỗi một mình pháp môn này là bậc nhất! Từ đấy trở đi, đời nào cũng
có cao nhân, tục diệm truyền đăng[6],
rạng rỡ trong ngoài nước mãi cho đến tận hiện thời, tông phong chẳng suy sụp,
nhưng Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai, Thanh Lương quốc sư thuộc tông Hiền
Thủ, Khuy Cơ pháp sư thuộc tông Từ Ân, Bách Trượng thiền sư thuộc Thiền tông, Đại
Trí luật sư[7]
thuộc Luật tông, không vị nào chẳng giải thích kinh, soạn luận, khuyên khắp mọi
người tu trì. Những sự tích của họ đã được chép tường tận trong Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục. Do vậy biết những vị tri thức các tông Thiền, Giáo, Luật đều noi theo
Hoa Tạng hải hội, nhất trí tiến hành cầu sanh Cực Lạc, huống chi kẻ căn cơ cạn
mỏng đời Mạt Pháp ư? Nhân duyên Linh Nham sáng lập Tịnh Độ đạo tràng đã được
chép đầy đủ trong tấm bia [thuật duyên khởi] xây dựng Niệm Phật Đường trước kia.
Nay tu bổ đại điện, đặc biệt nêu rõ nguyên do của pháp môn Tịnh Độ để những bậc
thông sáng mai sau có cái để nương tựa, hướng về. Chi phí xây cất và phương
danh của người đã quyên tặng được ghi trong một tấm văn bia riêng, không ghi tường
tận nơi đây.
3. Bi ký về việc chùa Linh Nham vĩnh viễn trở thành đạo
tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ và công đức xây dựng lần này
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
Có được cuộc đất
tối thắng thì mới hoằng dương được đạo tối thắng. Tạo dựng chuyện phi thường ắt
phải đợi người phi thường. Tuy bỉ cực thái lai[8]
thuộc về vận trời, nhưng sửa cũ dựng mới thật sự phải nhờ vào con người thực hiện.
Núi Linh Nham là cuộc đất thánh đạo tràng trời tạo đất dựng. Ngô Vương Phù Sai
dựng cung Quán Oa nơi đây, chỉ chuộng dâm lạc, làm ô nhục núi này quá sức! Vì
thế, xây xong cung điện chưa được bao lâu liền bị nước tan, mạng mất, đúng là
nhân quả phù hợp nhau. Nếu ông ta lập đức thi thố lòng nhân noi theo phong cách
cai trị tốt đẹp của tổ tiên là Thái Vương, Thái Bá, Trọng Ung đã lưu lại, ắt sẽ
ngang ngửa với Văn Vương trên linh đài[9],
lúc sống được hưởng phước vòi vọi, khi mất để lại thanh danh vang dội, đâu đến
nỗi quỳ gối xin được sống cũng chẳng được, rốt cuộc che mặt tự vẫn[10],
gây nhục lây cho tổ tiên ư? Do vậy biết kẻ không có đức cao trội mà có cuộc đất
thù thắng, đâm ra lại là cái gốc họa! Nguyện những bậc quân tử đời sau đều lấy
Phù Sai làm gương thì lợi ích ấy chẳng thể nào
diễn tả được!
Đời
Tấn, Tư Không Lục Ngoạn sống tại núi này, do nghe Phật pháp bèn biến nhà thành
chùa, đấy chính là khởi đầu của đạo tràng Linh Nham vậy. Đến đời Lương lại càng
được phát triển. Đến đời Đường lại càng thêm trùng hưng. Trong khoảng thời gian
ấy, phần nhiều là do hình vẽ của Trí Tích Bồ Tát hiện thân, khơi gợi lòng tin
tưởng, ngưỡng mộ của mọi người, khiến cho đạo tràng Linh Nham đứng đầu đất Ngô.
Cung khuyết dâm lạc xưa kia nay trở thành cuộc đất thánh đạo tràng, cho thấy
các pháp tùy duyên, hễ có người tài giỏi ắt cuộc đất sẽ linh ứng! Những vị Trụ
Trì trong đời Tấn, đời Đường chẳng thể tra cứu được. Từ đời Tống cho đến đời
Thanh, ngôi Trụ Trì đều do Giáo hải lão long, Thiền quật cự sư[11],
đức hạnh đáng làm bậc thầy gương mẫu cho cả trời lẫn người, đạo tiếp nối được
huệ mạng của Phật, của Tổ. Đầu đời Thanh, sư Hoằng Trữ trụ nơi đây, mở mang giảng
tòa rộng lớn, điện đường, liêu xá mới mẻ rạng ngời. Thánh Tổ, Cao Tông (Khang
Hy, Càn Long) tuần du phương Nam đều nghỉ lại nơi đây, pháp môn hưng thịnh chói
ngời xưa nay.
Năm
Hàm Phong thứ 10 (1860), gặp cơn binh hỏa[12],
cháy tiêu gần hết. Trong thời Đồng Trị, vị Tăng tên Niệm Thành được ông Bành
Cung Bảo Ngọc Lân hộ trì những mong sẽ dần dần được phục hưng. Năm Quang Tự 18
(1892), vị Tăng tên Biến Ngọc đúc hồng chung, nhưng chưa xây lầu [chuông]. Năm
Tuyên Thống thứ ba (1911), vị Tăng tên Đạo Minh do bị mất y [ca-sa] đánh lầm kẻ
khả nghi, khiến cho dân chúng phẫn nộ, phải bỏ trốn. Chùa đã không có chủ, tất
cả đồ đạc không còn được một vật nào, ruộng đất cũng bị mất mát chẳng ít. Vị
hương thân vùng Mộc Độc là Nghiêm Lương Xán khải thỉnh hòa thượng Chân Đạt[13]
làm Trụ Trì. Cụ Chân bèn sai học trò là Minh Hú thay mặt trông coi, trước hết dựng
lầu chuông.
Đến
năm Dân Quốc 15 (1926), đất Ngạc (tỉnh Hồ Bắc) loạn lạc, pháp sư Giới Trần và học
trò xuống miền Nam, cụ Chân liền đem Linh Nham giao cho, biến thành đạo tràng
thập phương chuyên tu Tịnh nghiệp vĩnh viễn. Nhất loạt chẳng giảng kinh, truyền
giới, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, làm chuyện kinh sám thù tạc, [chỉ] quanh năm
niệm Phật, chương trình giống như phổ thông Phật thất. Huê lợi ruộng đất chỉ
thâu được tám chín trăm đồng, hạn định số người sống ở đây là hai mươi vị, nếu
chi phí không đủ, cụ Chân sẽ bù đắp, [chứ Linh Nham] cũng chẳng mộ duyên. Năm
Dân Quốc 17 (1928), thầy Giới đặc biệt sang Phổ Đà, cầu cụ Chân dựng thêm phòng
ốc, lấy năm sáu ngàn đồng làm chuẩn, cụ Chân bằng lòng. Thầy ấy trở về núi, liền
rời chùa, đi sang Vân Nam, ấy là để tránh nỗi phiền phức do xây dựng. Do vậy, mọi
việc trong chùa giao cho pháp sư Từ Châu[14].
Thầy
Từ Châu khí lực yếu ớt, không chịu đựng được khổ nhọc, liền mấy lượt sang Hán
Khẩu giảng kinh. Mùa Hạ năm ngoái lại nhận lời mời của Cổ Sơn, chẳng từ tạ, bỏ
đi. Hai ba năm gần đây, đàn-việt[15]
nhiều người biết đến đạo phong của Linh Nham, có người muốn cầu siêu cho tiên
vong, chúc thọ cho cha mẹ, xin đả thất. Số người ở lại đã trên bốn mươi vị,
phòng ốc chẳng chứa nổi, lại thêm hẹp nhỏ, trời mùa Hè rất nóng. Nay dựng năm
gian lầu cao, phía dưới làm Niệm Phật Đường, rộng rãi mát mẻ. Ngoài ra lại dựng
thêm hơn ba mươi gian nữa, chi phí ước chừng hơn năm vạn đồng. Cụ Chân bỏ ra
hơn hai vạn hai ngàn đồng, khoản còn lại [góp] từ số tiền chi dùng của Thường
Trụ còn dư và do đàn-việt vui vẻ giúp sức. Nay đã hoàn thành, thầy Diệu Chân
làm Đương Gia Sư. Do hai lần xây dựng, cụ Chân bỏ ra gần ba vạn, lần này cụ
cũng đứng ra xướng suất, công đức ấy và việc biến [ngôi chùa] này thành đạo
tràng thập phương đều đáng nên lập bia, [do vậy, tăng chúng Linh Nham] thỉnh
tôi lược thuật chuyện ấy để ghi chép công đức hòng bảo với mai sau; vì thế, bất
đắc dĩ chẳng thể từ tạ chuyện viết lách được! Thuở ban đầu đã lập năm điều quy
ước:
1) Trụ Trì bất luận
thuộc tông phái nào, chỉ cần lấy chuẩn mức là “tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, giới hạnh
tinh nghiêm”. Chỉ truyền hiền, chẳng truyền pháp để dứt thói tệ pháp quyến
riêng tư.
2)
Trụ Trì chỉ luận thứ số, chẳng luận theo thế hệ để bậc cao đức khỏi bị đứng sau
kẻ đức hạnh tầm thường.
3)
Chẳng truyền giới, chẳng giảng kinh để khỏi chèo kéo, xáo động, gây nhiễu loạn
chánh niệm. Trong chùa tuy hằng ngày thường giảng nhưng chẳng lôi kéo người
ngoài đến nghe.
4)
Chuyên nhất niệm Phật, ngoại trừ đả Phật thất ra, nhất loạt chẳng làm hết thảy các
Phật sự mang tính cách thù tạc.
5)
Bất luận là ai, chẳng được ở trong chùa mà thâu nhận đồ đệ xuất gia.
Ai
phạm một điều nào trong năm điều sẽ lập tức ra khỏi chùa. Đại sư Tử Bách đời
Minh một đời xây dựng hơn mười ngôi đại tùng lâm, nhưng chẳng làm Phương Trượng,
chẳng thâu nhận đồ đệ, hễ xong việc liền bỏ đi, gác bỏ mọi việc. Đại sư Diệu Phong
phàm những công trình chùa, tháp, cầu cống, đường sá người khác chẳng thể lo liệu
được, thỉnh Sư trông nom, hễ qua tay Sư đều thành công, hoàn tất xong liền cáo
từ. Trong lúc đang tu bổ hay xây dựng, có khi Sư sai học trò thay mình lo liệu,
công trình hoàn thành, trọn chẳng để lại đó một người nào của chính mình cả! Tấm
lòng Sư chánh đại quang minh, mấy trăm năm sau còn nghe tiếng, khiến cho mọi
người khâm phục khôn nguôi, đáng được vua tôi cung kính, long thiên ủng hộ, lúc
sống tiếng tăm vang dội, lúc mất chứng thánh quả. Người đời nay phần nhiều âm
mưu cướp đoạt đạo tràng của người khác, ai chịu đem những gì mình đã có nhường
cho người khác?
Cụ
Chân khẳng khái làm như vậy, tuy đạo còn kém xa Tử Bách, Diệu Phong, nhưng tấm
lòng sáng ngời không riêng tư cũng gần bằng các vị ấy, thật đáng khâm phục!
Nguyện những người làm Trụ Trì và giữ chức trách trong nhà chùa, cũng như những
người nhập chúng tu trì đều cùng giữ tấm lòng đại công vô tư, chuyên tinh tu tập,
ngõ hầu chẳng phụ ân Phật đã nói ra pháp môn Tịnh Độ hoành siêu và lịch đại tổ
tông hoằng pháp, ân cụ Chân Đạt tạo dựng cũng như một phen yêu thương, siêng
năng nhọc nhằn lo toan sâu đậm của thầy Diệu Chân.
4. Bi ký thuật công đức của phân hội Tô Châu Hội Cứu Giúp
Loài Vật Trung Quốc quyên tặng vĩnh viễn khu vườn ao phóng sinh cho Linh Nham
Sơn Tự để làm hạ viện
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
Đức Đại Giác Thế
Tôn là đại sư của ba cõi, cha lành của bốn loài, xem hết thảy chúng sanh như
con một vì hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật, đều là cha
mẹ trong quá khứ, là chư Phật đời vị lai. Trong các kinh Đại Thừa, Phật đã
nghiêm cấm sát sanh ăn thịt ngõ hầu hết thảy chúng sanh đều được hưởng quả báo
gần là trường thọ yên vui, quả báo xa là cùng chứng giải thoát Niết Bàn. Đại sư
Trí Giả đề cao lòng từ bi của Phật, trong niên hiệu Đại Kiến (569-583) đời Trần
đã mua hơn sáu mươi chỗ thuộc Lâm, Hải, Giang, Hỗ, Khê, Lương, cả hơn ba trăm dặm
để làm ao phóng sanh, xin vua ban sắc chỉ, lập bia ngăn cấm đánh cá, kẻ nào bắt
trộm sẽ bị mắc họa. Đến niên hiệu Trinh Quán (627-649) đời Đường vẫn còn như thế.
Đấy chính là bi tâm phổ độ chúng sanh của Phật, Tổ vậy.
Càn
là đại phụ, Khôn là đại mẫu, dân là người ruột thịt của ta, loài vật giống như
ta[16].
Đấy chính là chí hướng thường hằng coi con người và loài vật bình đẳng như nhau
của nhà Nho vậy. Nghiêm cấm đọa thai phá trứng để chim, thú, cá, ba ba đều được
sống yên vui (“điểu thú ngư miết hàm nhược”: “Nhược” nghĩa là thuận. “Hàm
nhược” là đều được sống thuận lợi vậy). Đấy chính là sự cai trị bằng đức để
thắng tàn bạo, trừ giết chóc của bậc thánh vương. Ấy là vì đức lớn của trời đất
là Sanh, nỗi khổ lớn lao của con người lẫn loài vật chính là Sát. Thắng bạo tàn,
trừ giết chóc phải từ nhỏ đến lớn. Nhân từ với con người, yêu thương loài vật ắt
phải từ dễ đến khó. Nếu chẳng hàm dưỡng lòng nhân từ, khoan dung từ cội gốc, ắt
sẽ trở thành bỏ nhỏ lấy lớn, bỏ dễ lấy khó vậy! Hằng ngày làm chuyện tàn sát,
mà lầm lạc mong mỏi nhân từ với con người, yêu thương loài vật sẽ trở thành nói
xuông, chắc chắn khó thể thật hành được chuyện ấy! Vì sao nói vậy? Trẻ nhỏ, kẻ
bình thường đều có thể thật hành chuyện yêu thương loài vật, hành lâu ngày, bụng
dạ đầy ắp nhân từ, mai kia có địa vị, nắm quyền cai trị, sẽ có thể che chở dân
đen lớn lao. Dẫu ẩn cư trong một làng vẫn có thể lấy thân mình đốc thúc mọi người
thay đổi phong tục! Như vậy, đạo nhân từ với người khác phải được bồi đắp từ
lòng yêu thương loài vật thì mới có thể viên mãn trọn khắp, không có điều tệ vậy!
Nếu
chẳng do lòng yêu thương loài vật thì tuy trong đời này chưa có gì đáng tiếc,
nhưng trong tương lai ắt sẽ phải lo lắng lớn lao, vì đã gieo cái nhân tàn hại
loài vật sẽ khó tránh được cái quả luân phiên báo đền [lẫn nhau]! Nguyện người
có lòng nhân với kẻ khác thường suy nghĩ cẩn thận vậy. Chuyện phóng sanh vốn nhằm
khơi dậy thiện tâm của con người trong hiện tại, vị lai, cốt sao họ kiêng giết,
ăn chay, khiến cho khắp mọi hàm thức đều được sống yên ổn, đều hưởng hết tuổi
thọ. Gần là dứt được cái nhân giết chóc, xa là diệt được quả báo do giết chóc,
nhỏ là khiến cho tâm chúng ta toàn thuần là lòng nhân, lớn là chấm dứt sát kiếp
cho toàn thế giới. Chớ nghĩ đây là chuyện chẳng cấp bách, rồi coi thường bỏ
qua.
[Nguồn
gốc] khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Khiếu (Hổ Gầm) của Hội Cứu Giúp Loài Vật
Trung Quốc phân hội Tô Châu [như sau]: Vào tháng Bảy năm Giáp Tý tức năm Dân Quốc
13 (1924), hội viên Hội Cứu Vớt Loài Vật tại Thượng Hải là ông Lục Duy Dung đến
đất Tô bàn bạc, mới biết những hội viên Hội Cứu Giúp Loài Vật phân hội Tô Châu
đã bàn tính chuyện thiết lập khu vườn ao phóng sanh bèn cực lực tỏ ý tán thành.
Ông cho biết: Khéo sao ông Trầm là người đất Tô có một khu đất rộng khoảng sáu
mẫu, đã quyên tặng cho Hội Cứu Vớt Loài Vật Thượng Hải, nay đem tặng lại cho
phân hội [Tô Châu] để làm cơ sở [tạo lập] khu vườn ao phóng sanh. Trong khu đất
ấy có một cái đầm, đào vét thành ao rất đỡ tốn công, tiếp đó ông ta đem bằng
khoán đất gởi xuống Tô Châu.
Đến
tháng Chín năm Dân Quốc 14 (1925), hội viên thuộc phân hội [Tô Châu] là ông
Dương Đạt Toàn giới thiệu ông Uông Cát Đình gia nhập phân hội, [ông Uông] đứng
ra ngỏ ý quyên tặng tiền để xây dựng, các hội viên lại đóng góp [thêm vào] được
hơn một vạn đồng, xây dựng liên tục, đào ao, dựng đình, sắp đặt hết thảy. Tuy
chẳng hoa mỹ, nhưng thanh nhã không phàm tục, đáng gọi là chốn “thế ngoại đào
nguyên” (chốn tiên bồng ngoài cõi tục). Đến tháng Chạp năm Dân Quốc 15 (1926),
công trình mới hoàn thành. Tháng Năm năm Dân Quốc 17 (1928), ông Viên Hiếu Cốc
tậu thêm một nền đất rộng bảy phân ở phía Nam, nhờ đó [khu vườn ao] càng thêm rộng
rãi, vẽ họa đồ, trình lên huyện, lập hồ sơ đầy đủ. Việc quản lý kinh phí trong
mấy năm đều do nhóm các ông Ngô Dĩnh Chi v.v… trước sau lo toan.
Mùa
Hạ năm ngoái, Giám Viện Linh Nham Sơn Tự là thầy Diệu Chân do thấy Linh Nham
không có hạ viện tại thành Tô Châu, sau này đến đất Tô cảm thấy khá bất tiện,
chú ý đến khu vườn ao phóng sanh tại cầu Hổ Khiếu, cậy Quang hỏi thăm tình hình
nơi ông Tào Tung Kiều, cũng như nhờ cậy ông ta thương lượng với mọi người trong
hội ấy. Nếu chịu thí tặng thì sự nghiệp phóng sanh càng được tiến hành mạnh mẽ
hơn; lại không cần phải phái người chuyên lo quản lý, đôi bên đều có lợi, đúng
là “một chấm thủy mặc, đôi bên đều thành
rồng”. Ông Tào đi hỏi, mọi người đều cùng tán thành, bảo rằng: “Linh Nham
sơn chưa đầy mười năm mà đạo phong đã nghe tiếng khắp xa gần, nghiễm nhiên trở
thành đạo tràng thanh tu bậc nhất của Ngô Huyện. Nếu biến khu vườn ao phóng
sanh thành Hạ Viện thì sau này sẽ phát đạt, an hòa nào kém Linh Nham?” Bèn bàn
bạc, ước định năm điều kiện ngõ hầu vĩnh viễn chẳng suy sụp:
1) Danh xưng khu
vườn ao phóng sanh thuộc hội Phật Giáo Cứu Vớt Loài Vật Trung Quốc phân hội Tô
Châu.
2) Điện thờ Tế
Công tổ sư.
3)
Bài vị của thầy Ngộ Căn.
4)
Tòa cát đình[17]
trên bờ ao.
5)
Mộ phần của chủ đất họ Trầm nằm ngoài tường bao quanh khu vườn.
Năm
thứ này phải được bảo tồn vĩnh viễn, chẳng được bỏ đi. Những thứ kiến trúc, mở
mang khác do Tăng chúng chùa Linh Nham tùy ý tiến hành. Duyên khởi ấy được khắc
vào bia, ghi vào sổ sách để lưu lại vĩnh viễn. Do vậy, đem tất cả khế ước, họa
đồ, hồ sơ, giấy tờ chứng minh [đã lập] từ trước kia đều giao ra hết. Có thể nói
là thành tựu cho Linh Nham Tịnh nghiệp đạo tràng, phát triển sự nghiệp phóng
sanh, công đức lớn nhất! Mong sao hội viên hội này và giám viện Linh Nham, mọi
người đồng tâm dốc sức đề xướng bảo vệ sanh mạng, ăn chay, để thành tựu chuyện “không
phóng sanh mà là phóng sanh lớn lao”, chí thành niệm Phật để được vãng sanh
hòng liễu sanh tử, dứt sát kiếp để vời thỉnh quyến thuộc cõi trời, vãn hồi thế
đạo, uốn nắn nhân tâm thì [công đức ấy] há văn tự, ngôn ngữ có thể hình dung được
ư?
5. Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai thành lập
ao phóng sanh
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Đức Đại Giác Thế
Tôn... (cho đến) coi thường
bỏ qua (phần
này giống hệt như trong bài bi ký ở trên nên lược đi). Chùa Quốc
Thanh là ngôi chùa hàng đầu của núi Thiên Thai. Hòa Thượng Khả Hưng cực lực
khôi phục, lại thỉnh pháp sư Tĩnh Quyền phụ trợ, muốn mở rộng lòng từ bi của Phật,
Tổ để khơi gợi thiện niệm cho người đời, do đó bèn lập ao phóng sanh nơi vườn
rau phía Tây của Tam Môn. Dòng Khê Thủy từ Tây Sơn đổ vào nơi đó, nước chảy vào
chảy ra cuồn cuộn, là chỗ thích hợp nhất để nuôi cá. Mùa Thu, mùa Hạ, nhằm buổi
trời trong, đêm trăng, tiết Xuân, tiết Đông thì sau giờ Ngọ, trước lúc xế chiều,
đại chúng đến đây niệm Phật hiệu vang vang, nhiễu quanh ao ba vòng hồi hướng Tịnh
Độ để những loài thủy tộc ấy đều gieo thiện căn xuất thế cũng như khiến cho đại
chúng đều phỏng theo bi nguyện của Phật, của Tổ. Do muốn tỏ rõ ý nghĩa “do phóng
sanh mà đạt được lợi ích”, [chùa Quốc Thanh] sai Quang viết bài ký để thưa cùng
bậc sáng suốt mai sau.
Trộm
nghĩ: Phóng sanh vốn là để đề xướng kiêng giết, ăn chay. Nếu con người suốt đời
ăn chay sẽ trở thành không phóng sanh mà phóng sanh lớn lao vậy. Nay tôi chép lại
bài thơ răn đừng ăn thịt của cư sĩ Hoàng Sơn Cốc[18]
đời Tống để mong mọi người lúc ăn thịt hãy suy nghĩ đôi ba phen, ắt chẳng nỡ ăn
và tâm chẳng dám ăn nữa sẽ bừng bừng dấy lên. Bài thơ ấy như sau:
Ngã nhục, chúng sanh nhục,
Danh
thù, thể bất thù,
Bổn
thị nhất chủng tánh,
Chỉ
vi biệt hình khu,
Khổ
não tùng tha thụ,
Phì
cam vi ngã nhu,
Mạc
giao Diêm Quân đoán,
Tự
sủy ứng hà như?
(Thịt ta, thịt
chúng sanh,
Danh khác, thể vốn
đồng,
Vốn cùng một chủng
tánh,
Chỉ hình hài khác
nhau!
Khổ não chúng hứng
chịu,
Béo ngon ta hưởng
riêng,
Chớ đợi Diêm La xử
Tự
suy sẽ biết mà!)
Bài
thơ ấy có ý nghĩa lắm thay! Trung hậu, khoan dung cách đạo chẳng xa, điều gì chẳng
muốn [người khác] làm cho chính mình thì chớ làm cho người khác. Lòng nhân với
con người, yêu thương loài vật ấy [chính là] đại kinh đại pháp thành thủy thành
chung, chẳng cần phải nói tường tận về ý nghĩa nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo
sâu xa! Nguyện những ai thấy nghe đều suy nghĩ sâu đậm.
6. Bi ký về việc chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai sáng lập ba
viện dưỡng lão, dưỡng bệnh và trợ niệm
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Sa Bà là cõi khổ
sở cùng cực, vì thế cõi này thuộc về quán trọ trên đường lữ thứ; An Dưỡng là chốn
vui sướng tột bậc, vốn là quê nhà sẵn có. Nhưng do chúng sanh mê muội chưa ngộ,
bèn cứ khăng khăng coi quán trọ là quê nhà, chẳng biết có trụ xứ thanh tịnh an ổn
tột bậc do cha ông đã tạo dựng. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm -
dâm, luân hồi trong sáu nẻo, chìm đắm trong tam đồ từ kiếp này sang kiếp khác,
không cách nào thoát ra. Đức Đại Giác Thế Tôn thương xót, thị hiện sanh trong
thế gian, tùy thuận căn cơ thuyết pháp để các chúng sanh bỏ mê về với ngộ, theo
đường về nhà. Do chúng sanh căn cơ chẳng phải chỉ có một, nên mỗi pháp đức Như
Lai nói ra đều khác biệt. Nhưng các pháp ấy đều phải cậy vào tự lực, chỉ bậc
thượng căn cao nhất mới có thể hoàn thành được ngay trong đời này. Nếu là kẻ
kém hơn thì sẽ hai đời, ba đời mới giải quyết xong. Những kẻ trải kiếp dài lâu
vẫn chưa thể giải quyết xong vẫn chiếm đa số! Lòng Như Lai phổ độ chúng sanh
chan chứa nhưng chưa thỏa mãn được; do vậy, bèn đặc biệt mở ra một pháp tín
nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, để thượng thánh hạ phàm đều cùng trong đời
này thoát cõi Sa Bà đây lên cõi An Dưỡng kia. Bậc thánh sẽ mau thành Phật đạo,
kẻ phàm sẽ dần dần chứng được Bồ Đề. Phổ độ chúng sanh cô đơn quạnh quẽ không
nơi nương tựa, thỏa thích lớn lao bổn hoài xuất thế của đức Như Lai. Trên là
Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, dưới là tội nhân Ngũ Nghịch, Thập Ác cực
nặng đều là căn cơ được thâu nhiếp bởi pháp này. Chúng ta trên chẳng bằng được
các vị như Văn Thù v.v… dưới chưa đến nỗi giống như hàng Ngũ Nghịch, Thập Ác,
há lẽ đâu chẳng mạnh mẽ phát ra đại chí ngõ hầu vượt ngang ra khỏi tam giới ư?
Xét
từ khi đại giáo được truyền sang phương Đông, tuy có môn đình Thiền, Giáo, Luật,
Mật, Tịnh bất đồng, nhưng không một môn nào chẳng lấy vãng sanh Tịnh Độ làm chỗ
quy túc! Núi Thiên Thai là đạo tràng của Trí Giả đại sư. Đại sư dùng Ngũ Thời Bát
Giáo[19]
để phán thích[20]
giáo pháp cả một đời đức Như Lai nhưng vẫn chú trọng nơi một môn Tịnh Độ. Tuy
chưa thấy được phần kinh văn quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm nhưng đã lập
pháp ngầm hợp, đủ thấy Phật và Tổ vốn [thở] cùng một lỗ mũi! Chùa Quốc Thanh là
ngôi chùa được xây trên nền đất [ngôi chùa] lúc Đại Sư sắp nhập Diệt Định[21].
Đến nay đã một ngàn ba trăm mấy chục năm, tuy trải qua nhiều lượt biển dâu, có
khi hưng, khi phế, nhưng nhờ được cao nhân làm Trụ Trì, cho đến hiện thời đạo
phong vẫn chẳng suy sụp.
Đầu
thời Càn Long nhà Thanh, Bảo Lâm Trân Công trùng hưng, điện đường, liêu xá mới
toanh rạng ngời, nhưng còn ba viện chưa đủ sức để thành lập. Một là Dưỡng Lão
vì bậc danh đức các phương, bậc kỳ cựu trong chùa, tuổi già lắng lòng chuyên lo
tu tập đạo nghiệp của chính mình nhưng chưa có một tòa viện chuyên biệt thì làm
sao giúp cho Tịnh nghiệp được? Hai là Dưỡng Bệnh: Thập phương tăng lữ cô quạnh
một thân, đã đến chùa này nương tựa thì chính là người ruột thịt, hễ bị bệnh tật
chẳng thể theo đại chúng, bèn dời đến nơi này để an dưỡng mong cho chóng lành.
Nếu tuổi thọ sắp hết sẽ đưa sang Trợ Niệm Đường. Ba là Trợ Niệm, phàm người bệnh
nặng sắp mất, sẽ chuyển sang viện này. Thường Trụ liền phái người luân phiên trợ
niệm. Trụ Trì hay người trưởng ban sẽ khai thị, hướng dẫn người [sắp mất] ấy, để
người ấy toàn thân buông xuống hết, nhất tâm niệm Phật. Trước mặt người ấy nên
thờ tượng Phật tiếp dẫn, để người ấy tâm niệm, miệng niệm, tai nghe, mắt nhìn,
trừ đức Phật ra, không còn nghĩ gì khác nữa, ngõ hầu chánh niệm rạng rỡ, theo
Phật vãng sanh. Đây chính là một đại sự khẩn yếu tột bậc của chốn tùng lâm hoằng
pháp lẫn người xuất gia tu hành.
Người
làm Trụ Trì và những vị có chức trách hãy nên coi người khác già - bệnh - chết
giống như chính mình già - bịnh - chết, ắt sẽ lo liệu ổn thỏa, chắc chắn chẳng
chịu quấy quá cho xong chuyện thì đạo đức hiện tại sẽ ngày một cao quý, phẩm
sen vãng sanh càng thù thắng vậy! Huống chi cổ nhân tạo dựng tùng lâm vốn là vì
người già kẻ bệnh mà lập, cũng như khiến cho tăng chúng đông đảo có chỗ nương tựa,
người học ùn ùn có nơi để tham học, thừa sự. Có ai chẳng già? Có ai không bệnh?
Ai mà không chết? Nếu chẳng đặc biệt lập ra một viện thì người già, người bệnh,
thân tâm khó yên. Thân tâm đã chẳng yên thì niệm Phật cầu vãng sanh sẽ bị chướng
ngại. Đấy chính là nguyên do thành lập riêng hai tòa điện đường Dưỡng Lão và Dưỡng
Bệnh. Nhưng già và bệnh còn có thể tạm để đó, chứ lâm chung chắc chắn khó thể
coi thường, trì hoãn được! Nếu công phu chưa sâu, Phật niệm chưa thuần, lại
thêm bệnh khổ trầm trọng, chẳng có tri thức khai thị, hướng dẫn, Tịnh lữ trợ niệm,
sẽ trở vào luân hồi, trọn chẳng có hy vọng gì được liễu thoát! Nếu là người
công phu đã sâu, Phật niệm đã thuần, lại có sức trợ niệm của đại chúng, há chẳng
mau chóng thấy Phật, nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn ư?
Do
vậy biết chuyện trợ niệm quan hệ rất lớn. Đang trong lúc tánh mạng sắp chấm dứt
ấy, nhằm lúc phán định thăng - trầm, mà đã có người khai thị, hướng dẫn, trợ niệm,
ví như kẻ khiếp nhược tránh giặc tính ngồi thuyền trốn xa, được mọi người nâng
đỡ, liền có thể vọt lên thuyền, liền được ngồi yên ổn đến tận bờ kia. Nếu là
người không được khai thị, hướng dẫn, trợ niệm, ắt sẽ mắc cái họa phá hoại
chánh niệm, đừng nói người công phu chưa sâu chẳng thể liễu thoát, dẫu là người
Phật niệm đã thuần vẫn khó vãng sanh! Ví như dũng sĩ phá vòng vây lọt ra, tính
ngồi thuyền thoát đi, bị mọi người chèo kéo, ngay lập tức té xuống vực sâu. Siêu
phàm nhập thánh hay vẫn luân hồi y như cũ chỉ trong một hơi thở này! Lẽ được - mất
quá nửa nằm trong tay vị Trụ Trì, một phần ít nằm trong tay những người giữ chức
trách. Nếu vị Trụ Trì hay những vị có chức trách thấy người khác chết giống như
cha mẹ, thầy, bạn của chính mình chết ắt sẽ cực lực trợ niệm đúng pháp, thành tựu
vãng sanh. Đã được vãng sanh, lâu dần ắt sẽ viên thành Phật đạo. Thành tựu một
người vãng sanh chính là thành tựu một chúng sanh thành Phật; công đức ấy há thể
diễn tả được ư?
Đến
năm Dân Quốc 17, 18, do không kiếm được người Trụ Trì nên [Quốc Thanh Tự] lâm
vào cảnh suy bại sát đất. Năm Dân Quốc 19 (1930), những bậc kỳ lão trong núi và
các vị hương thân cung thỉnh hòa thượng Khả Hưng là bậc đã xin thôi chức Trụ
Trì về hưu trước kia trở lại làm Trụ Trì để mong khôi phục [nhà chùa]. Cụ Hưng
bèn mời người bạn thân là pháp sư Tĩnh Quyền giúp sức. Do vậy, đặc biệt mở học
xã để hoằng dương xiển phát tông Thiên Thai, hưng khởi điều lợi, trừ thói tệ,
tiến hành đầy đủ trăm chuyện đã bị phế bỏ. Nay lại tính lập ra ba viện này, mỗi
viện gồm năm gian, vị trí ở gần nhà bếp để tiện cung cấp những thứ thức ăn,
trà, nước cho những vị già cả, bệnh tật. Mỗi viện đều cử người trông nom, đều lập
quy ước. Trụ Trì và những vị có chức trách thường đi xem xét, chẳng để cho những
người chăm sóc lười nhác, coi thường. Dụng tâm cẩn thận, sát sao đáng cho người
khác khâm phục! [Hòa thượng Khả Hưng] sai Quang soạn bài ký. Do vui đẹp trước tấm
lòng thành vì pháp vì người [của chùa Quốc Thanh] nên [Quang] quên mình hèn tệ,
viết những ý chính. Nguyện từ nay trở đi, Trụ Trì và những vị có chức trách
chùa Quốc Thanh cũng như Trụ Trì và những vị có chức trách các nơi trong hiện tại
lẫn tương lai ai nấy đều chú ý sâu xa.
7. Bi ký về chuyện Hương Quang Liên Xã thuộc Hương Sơn Thảo
Am ở Ngô Huyện xây dựng Tam Thánh Điện
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Đức Đại Giác Thế
Tôn khéo trị những căn bệnh nơi thân nơi tâm chúng sanh, khéo làm cho thiên hạ
thái bình, nhân dân yên vui. Tâm bệnh có những thứ nào? Chính là tham - sân -
si. Đã có những bệnh ấy, tâm chẳng thể chánh được, những ý niệm thuận theo tình
kiến, trái nghịch lý sẽ ồ ạt dấy lên. Những niệm ấy đã khởi, ắt sẽ muốn thỏa
lòng ham muốn của chính mình, cái tâm hèn tệ giết - trộm - dâm sẽ ngay lập tức
biến thành sự thực. Đấy gọi là “do Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp chuốc khổ trải trần
điểm kiếp[22]
chẳng thuở nào xong!” Đức Như Lai thương xót, tùy theo từng căn bệnh của chúng
sanh mà ban thuốc, bảo họ: “Tâm tham -
sân - si chẳng phải là cái tâm vốn có của các ngươi, tâm các ngươi vốn viên
minh tịnh diệu như tấm gương sáng sạch, trọn chẳng có một vật nào! Hễ có vật ở
trước gương thì không vật nào chẳng được soi trọn vẹn. Vật đến chẳng cự tuyệt,
vật đi chẳng lưu giữ. Giữ được tánh thiên chân của ta, chẳng bị chuyển theo vật.
Mê tâm đuổi theo cảnh thì gọi là ngu phu. Trái trần hợp giác liền dự vào dòng
thánh”. Nếu con người biết được điều này, tâm bệnh sẽ lành. Tâm bệnh đã
lành, thân bệnh chẳng có cội gốc nữa, dẫu cảm xúc lạnh - nóng cũng chẳng bị
nguy hiểm. Tâm đã chánh thì thân sẽ chánh theo. Do đã không có tình niệm tham -
sân - si, sẽ do đâu mà có những hạnh hèn tệ giết - trộm - dâm cho được? Ai nấy
đều như thế thì dân là đồng bào, loài vật giống như ta, đối đãi bình đẳng, nào
còn có chuyện tranh đất, giành thành, tàn sát lẫn nhau nữa ư?
Vì
thế, những bậc vua quan thông minh duệ trí thời xưa không vị nào chẳng sùng phụng,
hộ trì, bởi [Phật pháp] giữ yên đất nước khi chưa loạn, bảo vệ đất nước khi
chưa nguy, nên đạt đến thái bình mà chẳng hay chẳng biết, chẳng tỏ lộ dấu vết vậy!
Tiếc cho những nhà Nho đời sau tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen, lấy diệu nghĩa từ
kinh Phật để giúp cho những chuyện bàn xuông của bọn họ, nhưng bài xích thật lý
do đức Phật đã nói, bảo là bịa đặt! Sự lý nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo
chính là đại kinh đại pháp khiến cho người hiền mau lên cảnh thánh, kẻ ngu gắng
sức làm người dân lương thiện, [thế mà] bọn chúng bảo “thật ra chẳng có chuyện
nhân quả báo ứng, con người chết đi, thần hồn đã diệt, còn ai để chịu tội và
thác sanh?” Từ đấy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt,
đến nỗi hùa nhau phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, bỏ thẹn, chẳng hề xấu
hổ, ngược ngạo coi đó là vinh, đều là do những thứ học thuyết ấy ươm thành! Cõi
đời đã loạn đến cùng cực, ai nấy đều lo sợ, muốn cứu vãn thì chẳng thể không
noi theo đại pháp của đức Như Lai. Do vậy, các nơi đều lập Tịnh nghiệp xã hoặc
Cư Sĩ Lâm để đề xướng nhân quả, chuyên tu Tịnh nghiệp.
Trụ
Trì Hương Sơn Thảo Am ở Ngô Huyện là đại sư Thanh Thiền và các cư sĩ tại địa
phương đã sáng lập Hương Quang Liên Xã từ lâu, nay đặc biệt xây cất năm gian
Tây Phương Tam Thánh Điện ở phía Đông thảo am. Những tăng nhân sống trong am suốt
năm tu tập, Tăng - tục tham dự liên xã định kỳ cử hành, sắm sửa đầy đủ kinh
sách Tịnh tông để mọi người đọc tụng. Ngày Rằm mỗi tháng mọi người đều tụ lại,
niệm Phật một ngày, hễ thuận tiện bèn giảng diễn tông chỉ của pháp môn Tịnh Độ
ngõ hầu những người tu trì hiểu thấu triệt tự tâm, chẳng đến nỗi miệng nói cầu
sanh Tây Phương mà lòng vẫn nhớ tưởng cõi này đến nỗi công phu sắp thành nhưng
vì mắc lỗi hiểu lầm [đến nỗi] mong thoát sanh tử mà vẫn đọa luân hồi! Lại còn
chỉ dạy cặn kẽ nhân quả, thuật đủ tội phước.
Phàm
những ai tham dự liên xã đều phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt
lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, giữ
gìn tám đức “hiếu, đễ, lễ, nghĩa, trung, tín, liêm, sỉ”, dốc chí nơi tám sự “cách
vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, ắt
sẽ khiến cho Nho tông nhờ Phật pháp mà được phục hưng, sự giáo hóa của Phật do
hàng Nho sĩ mà được truyền rộng rãi, bù đắp thiên kiến “trong lòng sùng phụng,
ngoài mặt chống trái”, tự lầm, lầm người của tiền nhân, dạy đời sau quy củ rộng
lớn “sống trong cõi trần học đạo, tự lập, lập người”. Ba người cùng đi ắt có
[người] là thầy ta; một ấp mười nhà, ắt có [nhà] trung tín. Ai cũng đều có thể
là Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật. Người ta là trượng phu, mình
cũng là trượng phu, chớ nên tự khinh rồi cam phận lui sụt, ngõ hầu chẳng cô phụ
Phật tánh sẵn có nơi tâm mình và đại pháp liễu thoát ngay trong đời này! Nguyện
khắp những người đến [với liên xã này] đều ghi nhớ chớ quên thì may mắn lắm
thay!
8. Bi ký thuật duyên khởi của Tây Phương Điện tại Vô Tích
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Pháp môn Tịnh Độ
là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt cả một đời đức Phật, là cội nguồn của
các pháp, cả phàm lẫn thánh đều được độ, thích hợp khắp ba căn thượng, trung, hạ;
Thiền, Giáo, Luật cùng hướng về một đạo, thực hiện dễ, thành công cao, dùng sức
ít nhưng đạt hiệu quả nhanh chóng. Quả thật là con đường tắt cho chúng sanh
trong chín pháp giới trở về lẽ chân, thỏa thích bản hoài xuất thế của đức Bổn
Sư Thích Ca. Xét từ khi pháp được truyền sang Đông Chấn (Trung Hoa), Viễn công
mở Liên Xã đầu tiên, từ đấy những bậc cao nhân chí hâm mộ Tây Phương ai nấy
vâng theo tông phong, sự giáo hóa lan khắp cả nước và các nước ngoài. Tuy hơn một
ngàn năm qua không lúc nào chẳng có những tình trạng hưng thịnh hay suy vi,
trong tâm chúng sanh vẫn thường giữ lòng thành quy hướng.
Huyện
Vô Tích chính là cuộc đất thù thắng nơi Thái Bá, Trọng Ung ẩn mình. Tây Phương
Điện là đạo tràng cùng tu cả Phật pháp lẫn thế pháp. Nhằm năm Quang Tự 29 (1903)
đời Thanh đã có năm vị ưu-bà-di là Cao Siêu Tắc, Tần Học Tây, Triệu Tịnh Chứng,
Đằng Tâm Tịnh, Cố Tịnh Minh, hạnh noi theo ba bà Thái[23],
chí mong nơi chín phẩm sen, mỗi người bỏ ra một món tịnh tài là năm trăm đồng,
tính dựng tinh xá niệm Phật ngoài cửa Tây, [thuộc khu vực đánh số] 22-7 trên bản
đồ. Bà Siêu Tắc lại bảo con là Chấn Thục tặng cho [tinh xá] sáu phân năm ly đất
nữa để góp thêm vào khoảnh đất do các xã hữu đã chung sức quyên góp tậu được.
Bèn dựng đại điện, cửa tam quan, nhà khách, tịnh thất, tổng cộng hơn mười gian,
mất ba năm mới xây dựng xong. Phàm tượng Phật, kinh điển, pháp khí trang nghiêm
nói chung đều đầy đủ, lại còn định quy ước rõ ràng, ghi chép lại để lưu truyền,
vâng giữ. Nếu là hàng phụ nữ quy y Tam Bảo, dốc lòng tu Tịnh nghiệp thì đều có
thể tùy hỷ tu trì, đây chính là nơi tiên khởi của liên xã dành cho nữ giới tại
Vô Tích vậy.
Thuở
đầu, bà Siêu Tắc lòng nhàm chán sanh tử mong mau được liễu thoát, được hai người
chú là các tiên sinh Ngưng Phong và Đạo Nam chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ, bèn phát
tâm kết xã đồng tu Tịnh nghiệp. Lúc ban đầu, lập hội trong Thạch Sư Am; tiếp
đó, sáng lập điện này để tự có thể chủ trì được việc này. Tới năm Tuyên Thống
thứ hai (1910), bà sắp về Tây, bèn mời khắp các vị hương thân, cao niên, thiện
tín hộ pháp đến, giao cho bà Học Tây kế tục đảm nhiệm mọi việc. Nối tiếp bà Học
Tây chủ trì đến nay là bà Hiển Trung. Bà Hiển Trung xưa đã gieo huệ căn, hiếu học,
chuyên tu, thường nương theo bà Siêu Tắc tu trì tại đây. Gần đây bà lãnh đạo tịnh
hữu rất được tiếng khen. Trong điện từ trước đến nay khóa tụng sáng tối, ba thời
niệm Phật quy củ nghiêm túc, tu trì tinh tấn, khiến cho kẻ thấy nghe đều sanh
lòng chánh tín. Do vậy, [những người] bỏ mê về với ngộ, chuyển tà thành chánh
mà chẳng hề hay biết không thể đếm xuể được! Gần đây, liên xã thành lập như rừng,
tiếng niệm Phật chở đạo[24]
chưa hề [có nơi nào] chẳng phải do điện này phát khởi vậy! Lại ở trước cửa dành
ra hai phân năm ly đất, dự tính mai sau sẽ dần dần mở rộng cuộc đất ra.
Hiển
Trung do chủ trì đã lâu, bị già - chết bức bách, ý muốn thoái ẩn, hòng chuyên
tu Tịnh nghiệp. Do vậy trình bày với Quang về duyên khởi, lai lịch của điện
này, cậy tôi viết bài ký. Do vậy, tôi bèn trình bày đại lược sự rộng lớn cao
sâu của pháp môn Tịnh Độ, [cũng như] do sự tu trì tinh tấn của mọi người trong
điện này nên được thiện tín khâm phục, ngưỡng mộ, hộ trì, nhằm thành tựu đạo
tràng thù thắng nhiệm mầu “tu chân ngay trong cõi tục, tự lợi, lợi tha” này,
ngõ hầu hết thảy mọi người đều biết “ở ngoài thế giới [giống như] nhà cháy này,
vốn có quê hương thanh tịnh yên vui tột bậc”, cùng chuẩn bị tư lương Tín - Hạnh
- Nguyện để trở về nhà, mong sao đích thân thấy được bậc cha mẹ đại từ bi là A
Di Đà Phật, liền được cùng với Phật chứng vô lượng quang thọ. Nguyện ai nấy gắng
sức, nguyện mỗi người hãy gắng công lên! (Tam môn chính là ba môn giải thoát Không, Vô Tướng, Vô Tác,
nhưng một môn có đủ cả ba nghĩa giải thoát này vậy)
9. Bi ký ghi duyên khởi sáng lập chùa Pháp Vân bên sông Tam
Xoa tại Nam Kinh
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Như Lai vì một đại
sự nhân duyên nên xuất hiện trong cõi đời. Gọi là “đại sự” là vì muốn cho hết
thảy chúng sanh đều khai - thị - ngộ - nhập tri kiến Phật, ai nấy đều được
thành Phật mới thôi. Do chúng sanh căn tánh lớn - nhỏ khác biệt, nên pháp môn của
đức Như Lai có Quyền - Thật bất đồng. Vì vậy, tâm phổ độ chúng sanh của Như Lai
chưa được thỏa mãn lớn lao. Bởi thế, đặc biệt mở ra một pháp “tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương” để dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này thoát khỏi
cõi khổ này, sanh sang nước vui sướng kia. Bậc thượng căn sẽ mau chứng Pháp
Thân, kẻ [căn cơ] trung - hạ cũng đều cùng lên Bất Thoái, khiến cho chúng sanh
cùng thoát sanh tử, thỏa thích bản hoài xuất thế của Như Lai. Lợi ích ấy chẳng
thể diễn tả được! Vì thế, pháp này được chín giới hướng về, mười phương cùng
khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói, vì pháp này là
pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật
trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh.
Chùa
Pháp Vân phỏng theo đạo tràng niệm Phật phóng sanh do chùa Vân Thê đã lập.
Nguyên do là vì trong tháng Tám năm Dân Quốc thứ mười (1921), Quang sang Dương
Châu để khắc in sách, ông Vương Ấu Nông đi cứu trợ ở Nam Kinh, theo lời ước hẹn
đến thăm viếng. Ngày hôm sau đến thăm ông Lưu Viên Chiếu, ông Ngụy Mai Tôn cũng
đến gặp, cho biết chính ông ta “khá tin
tưởng Phật pháp, đã từng đọc Văn Sao của thầy, gần đây cũng niệm Phật, nhưng hận
rằng nghiệp chướng, tập khí sâu dầy, chẳng thể ăn chay được!” Quang bảo: “Bệnh ấy dễ trị, xin hãy đem bài sớ [kêu gọi
tu bổ] ao phóng sanh [chùa Cực Lạc] ở Nam Tầm đọc kỹ, đảm bảo ông sẽ ăn chay được!”
Vào tháng Mười, ông ta liền ăn chay trường, lòng đau đáu nghĩ tưởng sát kiếp
tràn lan đều do sát sanh ăn thịt cảm thành, nhân đấy bèn miệt mài đề xướng niệm
Phật, phóng sanh, mong sao người và vật đều được sống yên vui, đều được vãng
sanh Tây Phương. Năm sau, [ông Mai Tôn] cùng với Ấu Nông, Bàng Tánh Tồn, Diệu
Liên, Tâm Tịnh v.v… thương lượng mua chừng đó mẫu đất của ông Phương Tuấn Sanh
bên sông Tam Xoa để thực hành chuyện ấy.
Ông
Tuấn Sanh vốn là con cháu của một gia tộc đời đời đức hạnh, khôn ngăn hoan hỷ,
đặc biệt bán giá rẻ, xin đem bài vị tổ tiên cha mẹ thờ vĩnh viễn trong Niệm Phật
Đường để mong cậy vào Phật từ lực tiếp dẫn vãng sanh hòng báo ân cha mẹ. Liền
khởi công vào tháng Chạp, đào ao, đắp nền. Năm sau, dựng liên xá[25]
và mười mấy căn nhà để sử dụng, đào chín cái ao để phóng sanh theo từng loại nhằm
tránh cái nạn cá dữ nuốt cá. Năm ấy lại đề xướng
lập Cô Nhi Viện nuôi dạy cô nhi để chúng nó học chữ, học nghề hầu có thể tự lập,
chẳng đến nỗi lang thang chết đói và trở thành phường không ra gì! Do vậy, xây
dựng Cô Nhi Viện trước, còn chuyện dựng chùa sẽ tính từ từ. Do nhiều năm liên
tiếp thời cuộc không ổn, nên lần khân mãi đến ngày nay. Ông Đặng Phác Quân và
Mai Tôn đều là học trò của ông Phùng Mộng Hoa, lại cùng quy y với Quang, xin
ông Phùng và Quang đề tựa cho sổ vàng Bốn Mươi Tám Nguyện nhằm quyên mộ khoản
tiền xây dựng Pháp Vân. Phàm những người khác quyên mộ cũng gộp vào trong sổ
vàng ấy. Mỗi nguyện là một ngàn đồng, hễ có được bốn năm vạn đồng liền có thể
xây dựng. Ghi đến hơn năm chục nguyện, đã giao ra hai vạn hai ngàn bảy trăm bảy
chục đồng mà vẫn chưa khởi công, vì thế chẳng quyên góp nữa.
Năm
Dân Quốc 19 (1930), ông Phác Quân quy Tây, hai cuốn sổ ấy con ông ta là Hàn
Phân giao lại cuốn đầu, cuốn sau bị thất lạc, nên không biết được tên những người
quyên mộ, cũng như do có người đã qua đời hay chuyển chỗ ở nên tuy có tên trong
sổ cũng khó lòng thâu hết được. Mấy năm qua, khi kinh phí cho Cô Nhi Viện chẳng
đủ đã tự tiện dùng tiền lời của khoản tiền ấy [để bù đắp]; vì thế, trọn chẳng
tăng thêm được. Năm ngoái, ông Mai Tôn quy Tây, ông Ấu Nông do thấy Quang và
ông ta đều là khách chẳng còn ở lâu trong cõi đời này, nếu chẳng gấp rút lo
toan, sau này chắc sẽ bị mất tích, bèn quy định biện pháp cho khởi công động thổ,
sắm sửa vật liệu, mùa Xuân năm nay sẽ đứng ra đốc thúc xây cất. Gặp đúng lúc
chánh phủ cử ông ta làm ủy viên chánh phủ tỉnh Thiểm Tây kiêm nhiệm chức vụ trưởng
ty dân sự vụ tỉnh Thiểm Tây, giữ nhiệm vụ trông nom xây dựng, nên mọi việc giao
lại hết cho thầy Trụ Trì Tâm Tịnh.
Hơn
nữa, việc này do Quang phát khởi nên [thầy Tâm Tịnh] bảo Quang soạn bi ký nhằm
thưa với những người thông sáng mai sau. Trong năm Dân Quốc 11 (1922), lúc mua
đất, đã bàn bạc quyết định chương trình là đạo tràng chuyên tu Tịnh nghiệp,
quanh năm niệm Phật, công khóa mỗi ngày giống như phổ thông Phật thất. Nhất loạt
chẳng giảng kinh, truyền giới, truyền pháp, thâu nhận đồ đệ, làm chuyện kinh
sám thù tạc. Trụ Trì bất luận Thiên Thai, Hiền Thủ, Lâm Tế, Tào Động, nếu giới
hạnh tinh nghiêm, thông hiểu giáo lý, tin tưởng Tịnh Độ sâu xa, chí mong lợi
người thì đều có thể mời đảm nhiệm [chức Trụ Trì]. Nếu những mặt khác đều xuất
sắc, chỉ có với Tịnh Độ chẳng hề chú ý thì quyết chẳng thể thỉnh được! Trụ Trì
luận theo tuổi hạ, đức hạnh, chẳng luận trên thế hệ truyền thừa, do [theo lệ]
truyền hiền chứ không theo lệ thầy truyền cho trò. Trong Niệm Phật Đường, mỗi
ngày vị Trụ Trì hoặc người trưởng ban nói về Tịnh Độ và giới luật, khai thị một
lần để các sư phát tâm tăng thượng thù thắng. Có vị tín sĩ nào hâm mộ đạo phong
nơi này xin mở Niệm Phật Thất để cầu cho cha mẹ được tăng tuổi thọ, cầu siêu
linh hồn của tổ tông, tiêu trừ tội khiên do chính bản thân, hoặc vun đắp nền
phước cho con cháu thì vẫn cứ niệm Phật như thường lệ, chỉ thêm vào ba lượt hồi
hướng mà thôi! Lễ Diệm Khẩu cũng nhất quyết không thực hiện, nhằm ngăn ngừa hạng
Tăng ứng phó thừa cơ ẩn nấp phá hoại đạo tràng[26].
Phàm những ai xin mở Phật thất chỉ được đến một hai người để tỏ lòng kính trọng,
lễ bái, nhưng phải ra về ngay trong ngày hôm ấy. Nếu tụ họp bạn bè đông đảo và
đem theo quyến thuộc nữ giới trẻ tuổi ở lại cho đến khi viên mãn mới về thì quyết
chẳng chấp thuận. Đạo tràng này thực hành pháp môn đặc biệt nên chẳng tuân theo
thông lệ đã thành lập. Chương trình ấy đã ấn định ổn thỏa ngay trong lúc mua đất,
nhưng trong năm Dân Quốc 15 (1926), tại Linh Nham ở Tô Châu, hòa thượng Chân Đạt
khi biến ngôi chùa của mình thành đạo tràng thập phương đã thực hiện quy định
này trước hết!
Hiện
thời do khoản quyên góp hữu hạn, lại thêm thời cuộc khó khăn chẳng dễ gì quyên
mộ, chỉ có cách tốt nhất là thu nhỏ phạm vi để khỏi bị bó tay. Đại điện dựng
năm gian lầu cao, phía trên thờ Đại Tạng Kinh bản đời Tống mới được ấn hành và
làm chỗ xem kinh. Phía dưới là đại điện, niệm Phật cũng ở chỗ đó. Hai bên đều dựng
mười mấy gian để làm nhà khách, nhà kho, nhà bếp, phòng để bế quan. Cửa Tam
Quan chính là điện Di Lặc Vi Đà[27].
Phạm vi tuy nhỏ, nhưng nói chung hình thức đầy đủ. Trước đó, đã sắp xếp mười mấy
vị tăng thật lòng tu đạo, tích cực tu trì để cầu vận nước tốt đẹp, hưng thịnh,
tai họa tiêu diệt, mưa - nắng đúng thời, thiên hạ thái bình. Tất cả việc đả thất
hoặc cầu siêu cho vong linh, hoặc cầu thọ, do bài vị được thờ sau khám thờ Phật
sẽ được nghe tiếng Phật hiệu suốt năm, giúp ích cho thần thức cũng lớn lắm.
Phương danh công đức cho lần xây dựng này được khắc trong một tấm bia khác. Nếu
có vị đại công đức chủ [phát tâm hộ trì] thì số người thường trụ nơi đây sẽ được
tăng thêm. Kính mong những vị sống trong chùa này đều cùng phát tâm “tự lợi, lợi
tha, cùng sanh Tây Phương”, ngõ hầu khỏi phụ bạc sự giáo hóa của Phật, chẳng phụ
rẫy tánh linh của chính mình, báo trọn bốn ân, giúp khắp ba cõi vậy.
10. Bi ký ghi công đức xây dựng lầu Tàng Kinh chùa Đại Phật
Lăng Vân thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Phật - Pháp - Tăng
Tam Bảo là đèn đuốc cho đêm dài vô minh, là thuyền bè trong biển khổ sanh tử,
không riêng gì người có chí mong đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử phải
nên nương tựa, mà ngay cả những ai chuyên tâm nơi “minh đức, thân dân, trị quốc,
an bang” cũng phải lấy việc “sáng tỏ diệu lý tâm tánh, nêu rõ sự thực nhân quả”
làm một trợ duyên lớn lao cho việc xoay chuyển lòng người, phụ trợ nền bình trị
của nước nhà vậy. Vì thế, xưa kia, những bậc lập đại công, dựng đại nghiệp,
lòng trung lòa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất, phần nhiều do học Phật đắc lực
mà ra, không ai chẳng dốc sức nơi trang nghiêm tượng Phật, lưu thông kinh Phật,
hộ trì Tăng chúng tu hành, mong cho hết thảy nhân dân đều cùng do Trụ Trì Tam Bảo[28]
mà ngộ nhập Nhất Thể Tam Bảo[29],
đích thân chứng được Chân Như Phật Tánh sẵn có nơi tâm này. Ở chùa Lăng Vân xưa
kia, thế nước chảy xiết[30],
thuyền đi ngang bị đụng vỡ gây hại rất lớn. Đầu đời Đường, thiền sư Hải Thông
thấy vậy thương xót, muốn tìm cách cứu vớt, che chở, bèn tạc một bức tượng
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật ngồi trên núi, cao đến ba mươi sáu trượng,
[kích thước của] tòa sen Ngài ngồi chẳng tính vào trong [con số ba mươi sáu trượng
ấy]. Do nguyện lực của Sư nên cảm được đức Phật rủ lòng Từ gia hộ, nước đổi
dòng, chạy sát vào chân núi, nổi lên một bãi cát bồi để người ta có thể sống được
[ở đó]. Ý Sư cho rằng ngài Di Lặc là đức Đương Lai Thế Tôn lòng Từ không ai hơn
được, tạo bức tượng lớn này chẳng những chỉ muốn cậy vào Phật từ lực để cứu
giúp, che chở thuyền bè qua lại mà còn vì mong mỏi sâu xa những kẻ thấy nghe sẽ
nạp vào tám thức điền tạo thành một đại nhân duyên hòng trong đời này phát tâm
tu trì, vãng sanh Tây Phương, tương lai trở vào Sa Bà phù tá [Di Lặc Phật] trong
hội Long Hoa. Sư đến hết đời vẫn chưa hoàn thành được công trình, đến niên hiệu
Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông [công trình] mới hoàn thành. Gặp dịp Nam Khang
Vương là Vi Cao làm Tiết Độ Sứ[31]
Tây Xuyên bèn soạn bi ký, có câu: “Thân
cao ba trăm sáu mươi thước, đầu to chừng đó thước, mắt rộng hai trượng, những
tướng hảo khác mỗi mỗi đều xứng hợp. Đây chính là tượng Phật lớn nhất nước ta.
Nhưng Pháp Thân thật sự của Phật trọn khắp pháp giới, còn thân ứng hóa biến hiện
thì mênh mông chẳng nhất định”. Năm Dân Quốc thứ 9 (1920), ông Trang Tư
Giam ở Thường Châu triều bái Phổ Đà, đem theo ba bức “mễ Phật” (tượng Phật hiện
trên hạt gạo) đưa cho xem. Những tượng ấy trang nghiêm vi diệu, cả cõi đời
không thể sánh bằng, ấy chính là tượng đứng do thiên nhiên tạo thành, dưới hạt
gạo vẫn còn vòng cám. Hễ ai thấy nghe đều cảm kích ân Phật.
Đối
với những đế lý được nói trong kinh Phật, cố nhiên chẳng dễ gì tỏ rõ, nêu được
những điều quan trọng là Luận. Tứ thánh, lục phàm, nhân quả của mười pháp giới
vốn trong một tâm. Đối với bản thể của tâm, phàm - thánh chẳng hai, chúng sanh
và Phật hệt như một, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng, thường hằng khắp
xưa - nay, chẳng đổi dời, chẳng biến chuyển, Thể tuy bất biến, Dụng thường tùy
duyên. Thuận theo tịnh duyên, do công đức có sâu hay cạn mà có chứng quả Thanh Văn, chứng quả Duyên Giác, chứng quả Bồ Tát, chứng
quả Phật sai khác. Tuy Thanh Văn là nhỏ nhất, nhưng đã đoạn Hoặc chứng
Chân, liễu sanh thoát tử, thường hưởng pháp lạc, chẳng thọ thân sau nữa. Theo
nhiễm duyên, do Hoặc nghiệp nặng hay nhẹ mà có sanh lên đường trời, sanh trong
đường người, sanh trong đường A Tu La, sanh trong đường súc sanh, sanh trong đường ngạ quỷ, sanh
trong đường địa ngục khác biệt. Dẫu trời - người là cao nhất, vẫn là đầy
dẫy Hoặc nghiệp, sanh tử luân hồi, thường ở trong tam giới, lục đạo, trọn chẳng
có thuở thoát ra. Mười pháp giới ấy do một tâm của chính đương nhân tạo ra, thăng
- trầm, khổ - vui khác biệt vời vợi một trời một vực; nhưng thể tánh của cái tâm
ấy vẫn thường tự như như, nơi phàm chẳng nhiễm, tại thánh chẳng tịnh. Vì thế,
kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhược nhân dục liễu
tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”
(nếu ai muốn hiểu rõ hết thảy Phật ba đời, hãy quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ
tâm tạo).
Do
vậy, đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật chưa thành, tùy thuận cơ
nghi của họ mà trước hết nói Ngũ Giới Thập Thiện thuộc Nhân Thiên Thừa, rồi nói
Tứ Đế của Thanh Văn Thừa, rồi nói Thập Nhị Nhân Duyên của Duyên Giác Thừa, rồi
nói đến Lục Độ Vạn Hạnh của Bồ Tát Thừa, rồi nói đến phước lẫn huệ cùng trọn vẹn,
tịch chiếu cùng dung thông, hết sạch Tam Hoặc, vĩnh viễn mất hai thứ chết, viên
mãn Bồ Đề, trở về chỗ “không có gì để đạt được” của Phật Thừa. Lại nghĩ chúng
sanh kém hèn, không cậy vào sức thệ nguyện rộng sâu của Phật Di Đà chắc chắn
khó lòng liễu sanh thoát tử ngay trong đời này được, nên đặc biệt mở ra pháp
môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ngõ hầu bọn phàm phu đầy dẫy Hoặc
nghiệp nương vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh thì Hoặc
nghiệp đã hết, đã chứng địa vị thánh, so với những kẻ chỉ cậy vào tự lực thì sự
khó - dễ dù hết cả năm cũng chẳng thể nói trọn!
Nhưng
pháp môn này chính là nhằm tiếp độ thượng căn, tiếp độ kèm thêm hàng trung - hạ;
vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy dùng mười đại
nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn
Phật quả, cũng như khuyên khắp các vị Bồ Tát thuộc Hoa Tạng hải chúng nhất trí
tiến hành, bởi đây là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương
ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Đời có những
kẻ bẩm tánh thông minh đôi chút thường coi rẻ pháp môn Tịnh Độ, chẳng chịu tu
trì, chẳng những tự lầm, lầm người, mà đúng là còn hủy báng Phật pháp nữa! Như
Hoa Tạng hải chúng là các vị Đại Sĩ đã chứng Pháp Thân thuộc bốn mươi mốt địa vị
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, dùng công đức của mười
đại nguyện vương để hồi hướng vãng sanh Tây Phương hầu mong mau chứng viên mãn
Bồ Đề, trở về Phật quả “không có gì để đạt được”. Những vị ấy là hạng người như
thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào, ta là hạng người nào mà dám chống đối
các vị ấy?
Còn
như kinh văn trong giáo pháp của cả Đại Tạng được chia thành ba phần là Kinh,
Luật, Luận, nên có tên là Tam Tạng. Tạng có nghĩa là “sâu chắc, u viễn, lấy để
sử dụng chẳng bị cạn kiệt!” Nếu đối với mỗi một chữ, một câu mà có thể thâm nhập
thì sẽ thông suốt hết thảy pháp, hiểu hết thảy nghĩa. Vì thế, Lục Tổ của Thiền
Tông nghe một câu “ưng vô sở trụ nhi sanh
kỳ tâm” (hãy không trụ vào đâu để sanh tâm) bèn nối tiếp ngôi vị Tổ; hành
nhân Liên Tông thường trì sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật” liền có thể ngay trong
đời này sanh về nước Cực Lạc, dự vào hội Liên Trì.
Ba
tạng Kinh, Luật, Luận ấy từ Thiên Trúc truyền sang, trong bộ Khai Nguyên Thích
Giáo Lục[32]
đời Đường đã chép [kinh điển nhà Phật] có đến năm ngàn bốn mươi tám (5.048) quyển.
Từ đấy, liên tục dịch thêm cũng chẳng ít, nhưng cũng có những quyển bị thất lạc!
Hiện thời, Đại Tạng Kinh đời Thanh (Càn Long Đại Tạng Kinh) từ chữ “Thiên, Địa, Huyền, Hoàng”[33]
đến chữ Tất trong câu “Tất Thư Bích Kinh” gồm có bốn trăm tám
mươi lăm (485) hòm[34],
tức bốn ngàn tám trăm năm mươi quyển. Trước thuật thuộc phương này (Trung Hoa)
gồm thích kinh, tông kinh, các sớ luận và truyện ký, ngữ lục v.v… từ chữ “Thư, Bích, Kinh” đến câu “Lưỡng Sớ Kiến Cơ” mới hết, gồm hai trăm
ba mươi chín (239) hòm, tức hai ngàn ba trăm chín mươi quyển, tổng cộng là bảy
ngàn hai trăm bốn mươi quyển. Bộ này được khởi công khắc từ tháng Hai năm Ung
Chánh mười ba (1735) đến ngày Rằm tháng Chạp năm Càn Long thứ ba (1738) mới
hoàn thành.
Bậc
thượng căn lợi trí đối với mỗi chữ một câu trong những kinh này, nếu tâm hồn
thông hiểu liền có thể tự lợi, lợi tha, tự lập, lập người. Tiếp đó lại chí
thành, khẩn thiết thọ trì, đọc tụng, y giáo phụng hành, hiểu nhân quả, rõ tội
phước, dùng thân xướng suất người khác, ngõ hầu hết thảy mọi người nhìn vào bắt
chước làm lành thì đối với pháp môn, đối với xã hội đều có lợi ích. Nếu hoàn
toàn chẳng có ý niệm cung kính, chỉ cầu đa văn, hoặc lầm lạc dùng ý kiến ức
đoán để luận định nghĩa lý sâu xa trong kinh thì tuy là nhân lành lại chắc chắn
chuốc lấy quả ác! Nguyện những người đọc ai nấy hãy gắng công!
Trụ
Trì chùa Lăng Vân là hòa thượng Quả Tĩnh đã muốn cung thỉnh Đại Tạng từ lâu, để
những người có đại chí trong hàng Tăng - tục đều được nghiên cứu, xem đọc,
nhưng lầu chứa kinh chưa xây, thỉnh về sẽ không có chỗ để. May sao năm Dân Quốc
18 (1929), pháp sư Vinh Nham cùng cư sĩ Vương Húc Đông đến chùa vãn cảnh, nhân
đó nói chuyện thỉnh kinh cần phải dựng lầu, hai vị liền khẳng khái mỗi người
giúp năm trăm đồng. Do vậy, bèn dốc hết sức lo toan, nung ngói, mua gỗ, khởi
công từ tháng Giêng năm Dân Quốc 23 (1934) đến tháng Tư năm nay mới hoàn thành.
Lầu ấy gồm bảy gian, cao năm trượng sáu thước, hai bên lầu dựng năm gian nhà mỗi
bên để làm chỗ nghỉ ngơi cho người đọc kinh. Đã lên Bắc Bình[35]
thỉnh kinh, trước khi kinh về tới, đã sai Quang soạn bi ký về việc xây dựng lầu
tàng kinh; do vậy bèn viết đại lược về nguyên do lập chùa và những nghĩa trọng
yếu của Đại Tạng cùng số hòm, số quyển để những bậc thông sáng đời mai sau đều
thấu hiểu cặn kẽ. Kính mong nền tảng đất nước vững bền, đạo bình trị hưng thịnh,
Phật nhật thêm sáng, pháp luân thường chuyển, đàn-việt tín chủ hưởng phước,
tăng chúng an hòa, binh đao vĩnh viễn chấm dứt, mưa gió thuận thời!
11. Bài ký về việc trùng tu tháp viện của Đại Từ Lão Nhân
(năm Dân Quốc 19 - 1930)
Xem rộng khắp những
bậc anh hiền lỗi lạc xưa nay, tài năng tót vời, tại gia thì lập đại công, dựng
đại nghiệp, thờ vua giúp dân, nêu gương cho hậu thế, xuất gia thì triệt ngộ tự
tâm, thâm nhập kinh tạng, dạy dỗ lợi lạc trời - người, nối tiếp huệ mạng của Phật
thì đều là do đức hạnh cao đẹp của ông bà cha mẹ cảm thành. Nếu không, làm sao
sanh được con cháu hiền tài siêu quần bạt tụy, giúp đỡ hết thảy như vậy được ư?
Người ta chỉ thấy quốc sư Ngọc Lâm đạo đức cao vời, ngộ chứng sâu thẳm, trên cảm
động cửu trùng[36],
dưới hóa độ tứ chúng, Phật tổ, tâm ấn, đại pháp chiếu khắp nhân quần, sống tươi
chết héo[37],
khuôn mẫu tốt đẹp lưu lại đời sau, chẳng biết đấy đều là do ông nội và cha mẹ
Ngài đã giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi người giúp vật, dốc lòng
tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người mà ra!
Xét
ra, Sư có họ ngoài đời là Dương, thuộc dòng vọng tộc ở Diên Lăng (thuộc tỉnh
Thiểm Tây), đời nào cũng có người hiển đạt, cha húy là Phương, tuổi ngoài ba
mươi vẫn chưa có con. Người trong họ là Dương Hưng bị thổ hào[38]
vu hãm, sắp đến nỗi phải chết. Ông nội Ngài bảo cha Ngài vào triều kêu oan,
quan liền thả Dương Hưng, đánh đòn thổ hào. Thổ hào ôm hận, không lâu sau,
trong ấp bắt được kẻ gian, giải lên quan xét án. Gã thổ hào thừa dịp ghi tên
ông nội Ngài vào sổ, quan xét án rất nghiêm khắc, tàn khốc, truyền bắt giữ khẩn
cấp. Chú Ngài và cha Ngài tranh nhau chịu tội thay, cha Ngài không chịu liền tự
đi. Quan xét án rất ghét kẻ chịu tội thay, dùng hình phạt quá đáng để giết chết.
Ngày hôm ấy đã giết chết liên tiếp mấy người rồi. Đến phiên cha Ngài liền gào to:
“Tôi chịu đòn thay cho cha tôi”, quan xét án nghe tiếng cảm động vô cùng, xét hỏi
cặn kẽ, biết là bị vu cáo bèn thả ra.
Tháng
Tư năm ấy, tức năm Giáp Dần thuộc niên hiệu Vạn Lịch 42 (1614) đời Minh, liền
sanh ra Sư. Lúc sanh, bà mẹ là Mậu Thị mộng thấy Quán Âm ẵm một đứa bé trao
cho, liền sanh ra Sư. Thêm nữa, cha mẹ Sư thường giảm bớt sự chi tiêu của chính
mình để mua những con vật đem phóng sanh. Cha mẹ Sư hiếu hữu nhân từ như vậy
đó! Năm sau, cha Sư quy y với đại sư Liên Trì, có pháp danh là Quảng Phức, cũng
xin quy y cho Sư, được pháp danh là Đại Tiềm. Đến năm mười hai tuổi, lúc cha Sư
sắp mất, bèn đối trước tượng ngài Liên Trì, cầu cao tăng thay mặt [cho đại sư
Liên Trì] xuống tóc, thuyết giới [cho cụ]; nửa tháng sau cụ mất. Năm mười chín
tuổi, Sư lễ ngài Khánh Sơn xin xuất gia. Chưa đầy hai năm đã đại triệt, ngài
Khánh Sơn rất coi trọng, dặn dò Sư hãy xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, đặt pháp
danh là Thông Quang. Năm Sư hai mươi hai tuổi, ngài Khánh Sơn thị tịch tại chùa
Báo Ân, Sư giữ tâm tang hầu hạ bên khám thờ đồng thời lo liệu việc trong chùa.
Năm sau, Tăng - tục thỉnh Sư kế nhiệm, trăm điều đã bỏ phế đều được tiến hành,
tông phong chấn hưng lớn lao.
Năm
hai mươi chín tuổi, tuân theo di mạng của ngài Khánh Sơn, Sư thay ngài Khánh
Sơn xuống tóc, thuyết giới cho mẹ, lại đón về chùa Báo Ân, dựng nhà tranh để phụng
dưỡng suốt đời, gọi là Đại Từ Lão Nhân. Bà cụ chuyên tu Tịnh nghiệp, kiêm tu
tham cứu, liền được đại ngộ. Mười một năm sau, tức năm Sư bốn mươi tuổi, nhằm
năm Thuận Trị thứ mười (1653) đời Thanh, Đại Từ Lão Nhân thị tịch, thọ bảy mươi
mốt tuổi. Sư ở trước khám thờ ngồi xếp bằng trên mặt đất suốt bảy ngày đêm, chẳng
đụng đến một hạt gạo! Một thị giả đứng cạnh Sư suốt bảy ngày đêm đến nỗi chân
và đầu gối nước vàng chảy ròng ròng, vẫn chẳng tạm rời đi. Đại chúng chùa Báo
Ân thấy Sư đau buồn quá mức, muốn khích cho Sư ăn uống liền niêm phong nồi,
đóng chặt bếp. Sư nghe [nói như vậy] liền húp cháo, bảo mở nồi ra. Sư đã xuất
gia còn đau buồn như thế, hiếu tử trong thế gian cũng chẳng hơn được! Nhưng Sư
làm cho mẹ ngộ đạo thì hiếu tử trong cõi đời có ai làm được như vậy đâu? Sư
nghĩ đến ân của phụ sư, mẫu sư[39]
tính tìm một cuộc đất thích hợp để an táng hòng báo ân sâu dưỡng dục, dạy dỗ.
Tìm được một cuộc đất ở Ngữ Sơn bèn dời quan tài cha về chôn tại đó.
Đến
năm Thuận Trị 15 (1658), đạo phong thấu đến bề trên, tháng Chạp sứ giả cầm chiếu
đến triệu Sư về kinh lập tức. Sư lấy cớ sắp dựng tháp chôn mẹ để từ tạ, [vua xuống]
chiếu rằng: “Đợi khi gặp Sư hỏi đạo xong liền đưa Sư về núi chôn mẹ, quyết chẳng
giữ lâu”. Tháng Ba năm sau, Sư lên kinh đô chầu vua, vua dùng lễ đãi Sư như thầy,
phong hiệu là Đại Giác Phổ Tế Năng Nhân Quốc Sư. Đến tháng Tư, Sư từ tạ chốn
cung khuyết trở về Nam, tìm được miếng đất phía sau chùa Tạng Hải ở Ngu Sơn bèn
dựng tháp cho Đại Từ Lão Nhân, nhân đó lập ra chùa Tạng Hải, sai đệ tử là Đức
Nham Thiệu làm Trụ Trì. Như vậy, nguồn pháp Tạng Hải do Đại Từ Lão Nhân khởi đầu;
kẻ làm pháp tự[40]
phải quan tâm. Đương thời, xây dựng phức tạp hay giản dị đều thích nghi. Năm
tháng lâu sau, lại thêm chiến tranh, nên bị tan nát, còn sót lại một cái tháp,
[chứ những thứ khác] đều thành gò hoang hết.
Nay
vị Trụ Trì đã về hưu là Giới Công, thấu hiểu sâu xa tấm lòng hiếu thảo của Quốc
Sư, đặc biệt trùng tu, dựng lại đình, bia, xây tường vây quanh, cũng dựng lại
bia mộ mới, lát con đường đá hơn mười trượng, vun trồng cây cối để lấy bóng mát
ngõ hầu những ai sau này đến đây đều biết tới tháp viện của bậc cao ni đắc đạo
là Đại Từ Lão Nhân mẹ của quốc sư Ngọc Lâm, do đó sẽ khởi lòng kính ngưỡng, ai
nấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, lợi lạc cứu giúp người lẫn vật, dốc
lòng tin tưởng Phật pháp, tự hành, dạy người, để mong sanh được đứa con phước đức
trí huệ, hễ nghèo túng thì riêng bản thân kẻ ấy tốt lành, làm gương cho cả một
làng, một ấp, hễ hiển đạt thì sẽ làm cho người khác cùng thiện, để lợi lạc, cứu
giúp khắp bốn biển chín châu! Do vậy, soạn bài ký.
Hơn
nữa, khi Quang mới xuất gia, thấy các vị thiền tăng khắp Nam Bắc lên núi triều
bái, tụ tập bàn đến chuyện Ngọc Lâm Quốc Sư tâm liền khinh thường họ, cho là những
hạng tăng nhân này không những chẳng biết tâm tướng của Phật, Bồ Tát mà cũng chẳng
biết tâm tướng của thánh hiền thế gian, chỉ dùng tri kiến của bọn vô lại đầu đường
xó chợ bịa đặt đồn đãi để vu báng, miệt thị cổ đức, tội cùng cực đến đâu! Về
sau, đọc Niên Phổ của Quốc Sư thì những gì bọn họ đã nói ngay cả một câu cũng
không có, mà những điều chép trong Niên Phổ bọn họ cũng chưa hề nghe thấy một
câu nào! Do vậy, biết những lời nói lưu truyền trong cõi tục chẳng đáng tin tưởng!
Kính mong bậc quân tử hiểu lý đừng coi những lời lẽ đó là chuyện thật, rồi vì
đó mà coi thường cổ đức, khinh miệt Phật pháp thì sẽ tự gieo được thiện căn sâu
dầy, được gội pháp trạch lớn lao vậy!
12. Bi ký về việc chùa Bích Sơn núi Ngũ Đài được thảo am Quảng
Tế tiếp pháp thành tựu[41],
vĩnh viễn trở thành thập phương thường trụ
(năm Dân Quốc 18 - 1929)
Trộm nghĩ phàm
phu đầy dẫy triền phược lấy mê nhiễm làm căn bản để thọ sanh, bậc Pháp Thân đại
sĩ dùng bi trí làm nguồn ứng hóa. Vì thế, đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ta đạo chứng
Lưỡng Túc[42],
đức trỗi Thập Địa, thành Chánh Giác đã lâu, an trụ Tịch Quang, do Bi nguyện rộng
sâu nên chẳng động Chân Tế mà hiện thân trong các cõi nhiều như vi trần. Trong
thế giới này, ngài thị hiện làm Bồ Tát, dùng sức đại trí phù tá Thích Ca, thị
hiện ứng hóa tại núi Thanh Lương như trong kinh Hoa Nghiêm đã báo trước. Vì thế,
khi đại pháp được truyền sang phương Đông, [Ngũ Đài] liền được khai sơn, từ đấy
trở đi, đời nào cũng có cao nhân hoằng dương pháp hóa, lợi ích quần manh. Từ đời
Hán đến nay, tiếp nối chẳng dứt. Đến khoảng niên hiệu Thành Hóa[43]
đời Minh, có thiền sư Cô Nguyệt Tịnh Trừng[44]
Thiền lẫn Tịnh đều đạt đến tột bậc, tiếng tăm đạo hạnh nhân đấy vang dội. Vua đất
Đại[45]
là Thành Luyện thờ Sư làm thầy, dựng chùa ở Hoa Nghiêm Cốc để cung phụng, xin
được vua xuống chiếu ban biển tên Bích Sơn Phổ Tế Thiền Tự, pháp đạo hưng thịnh
lớn lao, tông phong rạng rỡ. Đầu đời Thanh, thiền sư Uẩn Chứng Như Bích trụ trì
chùa này, lâu dần được vua quan tôn kính. Đầu thời Khang Hy, đổi tên chùa thành
Hộ Quốc. Đến cuối đời Thanh, bậc triết nhân đã khuất, chùa khá điêu linh.
Năm
Quang Tự 32 (1906), hai Sư Thừa Tham, Hằng Tu đến núi triều bái các Đài[46],
thấy trên đảnh các Đài chỉ có nhà đá, trọn chẳng có Tăng ở. Phàm những người
triều bái các Đài khát không có nước uống, đói không có gì để ăn, mệt không có
chỗ nghỉ, liền phát đại tâm, dựng một am tranh nơi đảnh Bắc Đài, đặt tên là Quảng
Tế, chuyên làm chỗ nghỉ ngơi, ăn uống cho người triều bái các Đài, tùy sức kết
duyên hòng lợi lạc hết thảy Tăng - tục trong ngoài nước. Dân Quốc thành lập, Tăng
chúng chùa Bích Sơn không thể duy trì được, ruộng đất đã cầm cố gần như hết sạch.
Thừa Tham, Hằng Tu, Quả Định nhập tịch chùa Bích Sơn, xưng danh [thảo am Quảng
Tế] là Đông Phòng. Thừa Tham đổi tên là Xương Thừa, Hằng Tu đổi tên là Xương Hằng,
Quả Định đổi tên là Long Quả, đó gọi là “tiếp pháp thành tựu”. Do vậy, tận lực
quyên mộ duy trì đạo tràng, kiến thiết thảo am hòng tiếp đãi thập phương Tăng
chúng, dốc hết sức cúng dường. Từ đấy trở đi, mùa Xuân mở niệm Phật thất, mùa
Hè giảng kinh, Thu - Đông thì mở thất tọa hương đả tịnh[47]
để trọn hết bổn phận của chính mình cầu chúc quốc dân. Xây cất thêm thiền đường,
liêu xá[48],
tính khôi phục lại quy mô cũ, tiếp nối vĩnh viễn Tổ đăng. Năm Dân Quốc thứ bảy
(1918), quyên tiền chuộc lại nhà đất thuộc hai viện Đông, Tây. Năm Dân Quốc thứ
chín (1920), chuộc lại ruộng lúa mạch ở thôn chùa Quang Minh thu tô được bốn
mươi thạch[49]
để làm cái ăn cho Tăng chúng.
Trong
hai năm Dân Quốc thứ chín và thứ mười, hai vị Thừa Tham, Hằng Tu nối nhau viên
tịch. Môn nhân nối pháp là Quả Định tuân theo di mạng, gắng sức duy trì, được
các vị đại hộ pháp, chư sơn trưởng lão ra sức nâng đỡ, xây dựng thêm nhà cửa
hơn ba mươi gian nữa, in thêm tạng kinh, trồng trọt cây cối, sửa chữa ngòi nước
từ thôn chùa Quang Minh chạy thẳng đến bên trong chùa Bích Sơn, lại tu bổ đập
đá bên sông để ngừa nước ngập làm hại hoa màu. Các chùa Nam - Bắc, các vị đại
cư sĩ do thấy chùa Bích Sơn đã là thập phương thường trụ, mọi người đều tán
thành là hợp lý, trình công văn lên chánh phủ, ra cáo thị, lập hồ sơ ngõ hầu
vĩnh viễn không bị suy sụp, mọi người cử Mã Ký Bình, Uông Đại Tiếp làm đại biểu,
pháp sư Đế Nhàn và các vị thuộc hội Duy Trì Phật Giáo tại Thượng Hải như ông
Trình Tuyết Lâu v.v… gởi thư xin Diêm Đốc Biện[50]
tỉnh Sơn Tây ủng hộ. Do vậy, Tổng Tham Nghị Trưởng[51]
là Triệu Tải Văn ủy cho hội trưởng pháp giới tỉnh Sơn Tây là hòa thượng Lực Hoằng
cùng các hội viên lên núi vào tháng Năm năm Dân Quốc 16 (1927), mời chánh phó hội
trưởng của Tăng chúng trong núi này, khu trưởng, hội trưởng thương hội, những
người có danh vọng trong giới Tăng - tục thuộc mười ngôi chùa lớn, cùng bàn định:
Chùa Bích Sơn mắc nợ quá lớn, không có người gánh vác, sẽ do Đông Phòng là Thảo
Am Quảng Tế đứng ra trả thay món nợ hơn một vạn bảy ngàn bảy trăm đồng. Tất cả
điện, phòng, ruộng đất của Bích Sơn vĩnh viễn trở thành thập phương thường trụ,
không chấp thuận cho thâu nhận đồ đệ để khỏi bị cái họa chôn vùi Tổ đức, làm nhục
Phật môn.
Vào ngày 29 tháng Bảy năm Dân Quốc 17
(1928), cùng với đại chúng trả món nợ do sư Long Phước đời Thanh đã thiếu bên
ngoài gồm hơn một vạn bảy ngàn bảy trăm đồng. Những bằng khoán ruộng đất nhà cửa
do Long Phước đã đem cầm cố trước kia đều thâu hồi để giữ vĩnh viễn. Hội Phật
Giáo tỉnh Sơn Tây đại diện trình lên chánh quyền tỉnh và huyện để lập hồ sơ, ra
thông cáo, ngõ hầu mọi người đều biết chùa Bích Sơn vĩnh viễn trở thành thập
phương thường trụ, chỉ chuyên tâm tu hành, tu trì Tịnh nghiệp, sẽ thấy trong
hang Sư Tử trọn chẳng còn có loài thú khác, trong rừng Chiên Đàn, vĩnh viễn mất
giống Y Lan[52],
gắng sức kế tục đạo của Cô Nguyệt thiền sư, hòng an ủi tấm lòng của Văn Thù đại
sĩ thì một phen khổ tâm nâng đỡ, thành toàn của
hết thảy Tăng - tục mới chẳng trở thành luống uổng! Phàm những ai sống tại đây
ai nấy đều nên gắng sức lên!
13. Bi ký thuật duyên khởi hạ viện Linh Nham Sơn Tự lập
thêm hội phóng sanh bên ao phóng sanh
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
Đức lớn của trời
đất là Sanh, gốc lớn của nhân dân là Thiện. Sanh thì thực vật, động vật đều
sanh thành, Thiện thì yêu người thương vật đều cùng thực hành. Càn là đại phụ,
Khôn là đại mẫu, dân là người ruột thịt của ta, loài vật giống như ta. Nếu chẳng
khiến cho dân lẫn loài vật được sống yên vui, làm sao hợp lòng trời? Muốn cho
quyến thuộc cõi trời thường rủ lòng thương xót, hãy nên gấp rút chú trọng nơi lòng
nhân ái. Được như thế, mưa gió sẽ đúng thời, thóc lúa trúng mùa, nhân dân yên
vui, thiên hạ thái bình. Dù chỉ luận về phương diện cá nhân thì cũng được nghiệp
tiêu, trí rạng, chướng tận, phước tăng, sống dự vào bậc thánh hiền, mất sẽ lên
cõi Cực Lạc.
Khu vườn ao phóng
sanh tại cầu Hổ Gầm ở Tô Châu vốn do hội Cứu Giúp Loài Vật phân hội Tô Châu
sáng lập. Năm Dân Quốc 24 (1935), tặng cho Linh Nham Sơn Tự làm Hạ Viện. Giám
viện là thầy Diệu Chân do được tặng hậu hĩ như vậy càng ra sức tiến hành chuyện
phóng sanh để mong người có lòng nhân nơi ấy và những kẻ thấy nghe đều hiểu được
ý nghĩa phóng sanh, do vậy sẽ kiêng giết bảo vệ sanh vật, ngõ hầu chim - thú - cá
- rùa đều sống yên vui, sao cho câu nói “dân
là người ruột thịt, loài vật giống như ta” chẳng trở thành chuyện nói
xuông, mà phong thái yêu người thương vật cũng ngày càng được phát triển!
Do
vậy, cùng với những vị thuộc hội Cứu Giúp Loài Vật trước kia như các ông Dương
Đạt Toàn, Viên Hiếu Cốc, Tào Tung Kiều v.v… và vị phát khởi lần này là hòa thượng
Chân Đạt, cư sĩ Huệ Thường, các vị Tăng - tục tổ chức một hội phóng sanh. Phàm
những người gia nhập hội đều nên kiêng giết, ăn chay, lấy thân làm gương thì những
người ưa điều lành ai mà chẳng giống như ta, nhìn nhau bắt chước làm lành, hiệu
quả rất lớn! Nếu chẳng thể đoạn ngay được thì cũng nên giảm dần dần, giảm đến
cùng cực thì sát nghiệp vĩnh viễn chấm dứt. Nếu một người suốt đời chẳng giết
thì những sanh mạng được sống sót đã chẳng thể tính được, huống chi là từ một
người cho tới mười, một trăm, một ngàn, một vạn người, sẽ trở thành không phóng
sanh mà thường hành phóng sanh rộng khắp vậy! Gần đây sát kiếp ngập tràn, hễ giặc
cướp kéo đến, dân chúng đều gặp cảnh lầm than, đôi bên chẳng hề biết nhau, vừa
thấy nhau liền giết phăng, hoặc đánh đập, tra khảo, nung đốt để lòi ra tiền của.
Luận theo cuộc sống hiện thời, quả thật là mắc họa ngang xương! Nhưng hễ có quả
ắt phải có nhân, có nhân ắt phải chuốc lấy quả! Thử nghĩ xem, người đời vì bụng
miệng mà giết hại sanh mạng đủ mọi nỗi thảm khốc, ai có thể chịu đựng được?
Nhưng do quen thói, chẳng những không sanh lòng thương xót, lại ngược ngạo nẩy
lòng vui sướng, đến nỗi tuần hoàn báo đền, trở thành kiếp vận lớn lao này! Chư
Phật, Bồ Tát vì cứu sát kiếp mà hiện thân trong dị loại, cũng bị con người giết.
Đã giết rồi, thấy các tướng lạ mới biết là do Phật hiện, nhân đấy ai nấy đều kiêng
giết. Trong năm Dân Quốc 20 (1931), Quang từng vì ông Lưu Công Lỗ ở Quý Trì (thuộc
tỉnh An Huy) viết bài tán làm lời bạt cho bài ký [về chuyện] tượng Phật hiện trên
răng hàm lợn như sau:
Hết thảy chúng sanh, đều có Phật tánh. Do mê
trái nên đánh mất lẽ chánh, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, ăn thịt
kẻ khác để bồi bổ cái thân mình. Sát nghiệp đã kết, trải nhiều kiếp giết lẫn
nhau. Đức Như Lai thương xót, bèn làm thuyền từ, khơi mở giáo huấn lớn lao về
lòng Từ. Người ta vẫn không tin nên Phật bèn đặc biệt hiện hình dáng để mong
chúng sanh tùy thuận [lời Phật dạy]. Vỏ nghêu sò, hông bò, móng dê, răng lợn, yếm
rùa, đều có hình Phật ngự [trong ấy]. Có người họ Chức vào đời Tống giết lợn
quăng đầu, chó giữ bốn ngày chẳng dám táp. Đuổi chó chẻ xương, trên răng hàm lợn
hiện hình Phật. Mắt biếc, búi tóc xoắn
ốc, nghiễm nhiên là bậc Đại Giác. Trước khi chưa giết, [mọi người] đều nói là
“súc sanh”, đã giết xong mới biết là Phật. Do vậy, biết sát sanh chẳng khác gì
giết Phật, dẫu chẳng phải do Phật hiện cũng là vị lai Phật. Giết để ăn thịt, tội
quá non biển! Hãy gấp đau đáu ngăn dè, hòng được giải thoát! Anh em họ Triều
làm văn tán dương, nghĩa lý uyên thâm, văn từ sáng đẹp, ông Thiên Trì biên
chép, các vị đề tựa, viết lời bạt, để làm bài cảnh sách vĩnh viễn nhằm khơi gợi
hậu giác. Đã hiểu nghĩa này, ai dám giết chóc? Tranh thành, giành đất sẽ chấm dứt
ngay. Ông Lưu ở Quý Trì, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, bảo tồn sách của ông Từ,
lời đề tựa, lời bạt đều phù hợp, sai con là Công Lỗ đem đưa cho xem, kính viết
mấy lời tỏ bày chí hướng của tôi. Nguyện kẻ thấy nghe sẽ ăn chay kiêng giết, chắc
chắn trong đời này sẽ về Cực Lạc”
Lời bạt này tuy văn từ thô thiển, nhưng
cũng có thể [làm cho] người xem sanh lòng cảm động. Kính sao lục nguyên văn để
mong dứt diệt si tâm của kẻ ham giết ăn thịt, phát khởi thiện niệm kiêng giết
ăn chay. Phật, Bồ Tát hiện thân trong dị loại để dứt sát kiếp cho cõi đời, thấy
trong khắp các sách vở. Đọc phần Hiện Tướng Trong Loài Vật của sách Quán Âm Bổn
Tích Tụng sẽ biết được đại khái. Do đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật
nên chẳng nỡ tàn sát lẫn nhau, [kẻo bị] vĩnh viễn chìm đắm trong ác đạo. Đây
chính là những thứ biến hiện khiến cho con người thấy nghe mà kinh sợ, chẳng thể
không suy nghĩ cặn kẽ sâu xa ư?
14. Bi ký về việc Linh Nham Sơn Tự xây dựng tháp Phổ Đồng
cho tứ chúng
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
Con người sống
trong thế gian thật giống như huyễn hóa, dẫu thọ trăm tuổi cũng chỉ là một khoảng
khảy ngón tay. Lúc sanh ra cũng tùy theo túc nhân (nhân trong đời trước) mà đến,
lúc chết cũng tùy theo hiện nhân (cái nhân trong đời này) mà đi. Dẫu sẵn đủ Phật
tánh thường trụ bất biến, tịch - chiếu viên dung, nhưng do mê chưa ngộ nên ngược
ngạo nương vào sức công đức của Phật tánh ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp luân hồi
sáu nẻo, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Đức Như Lai thương xót nên khi họ còn sống
bèn dạy tu tịnh hạnh để mong bỏ mê về với ngộ, lìa vọng theo về chân ngõ hầu
khôi phục Phật tánh sẵn có, sau khi chết bèn hỏa thiêu thân xác nhằm chỉ rõ sáu
Trần không có Thể, năm Uẩn đều là không, đích thân chứng được diệu tâm thường
trụ. Ở Tây Vực có bốn cách an táng:
1)
Một là thả trôi trong nước, tức là bỏ trong các sông rạch cho cá, rùa ăn.
2)
Hai là hỏa thiêu, dùng lửa đốt xác ngõ hầu phá được Ngã Chấp.
3)
Ba là chôn xuống đất, tức vùi kín trong huyệt để [thân xác] khỏi bị phơi bày.
Nước ta thường chú trọng chôn xuống đất; nhưng biển dâu biến đổi, đường đất nhiều
lượt thay đổi, đào mộ lộ xương, thảm thương tột cùng!
4)
Bốn là thi lâm (rừng thây), tức bỏ xác trong rừng cho chim thú ăn. Nay tại Ngoại
Mông Cổ[53],
bỏ xác trong đồng hoang để nuôi chim, thú.
Từ
khi Phật pháp truyền sang phương Đông, Tăng chúng đều [an táng theo cách] hỏa
thiêu. Những bậc cao nhân thông đạt, sùng tín Phật pháp đời Đường đời Tống cũng
thường dùng cách này vì Phật pháp trọng thần thức, chỉ sợ đắm chấp thân xác, chẳng
thể giải thoát được! Thiêu đi thì sẽ biết đấy chẳng phải là ta, không còn đắm
chấp nữa. Lại vì [người đã khuất] tụng kinh niệm Phật, mong họ chứng được Pháp
Thân. Nho giáo trọng hình tích, còn thần thức thăng hay giáng trọn chẳng để ý tới,
nên làm quan quách[54]
cho bền chắc để mong xác thân thường còn, chẳng bị biến hoại. Hiện nay, cả nước
mở mang đường tàu hỏa, đường xe hơi, đào lên những hài cốt vô chủ nhiều không
thể kể xiết, thảm thương chẳng nỡ nhìn! Những bậc cao nhân hiểu biết đều muốn sửa
đổi cách an táng. Chùa Thiên Ninh ở Thường Châu có tháp Tứ Chúng Phổ Đồng: Đào
một cái huyệt lớn, trong chia thành bốn ngăn, phía trên xây tháp bốn mặt, mỗi mặt
đều trổ cửa. Phàm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, hay ưu-bà-di đều đem các túi
đựng cốt đặt vào trong những lỗ huyệt.
Mùa
Xuân năm ngoái, chùa Linh Nham dựng tháp này, phỏng theo cách ấy nhưng sửa đổi
thành hai loại Phổ Thông và Đặc Biệt. Phổ Thông là phía dưới đào bốn cái huyệt,
phía trên dựng bốn cái tháp, xương của chúng nào thì đặt túi đựng cốt vào trong
lỗ huyệt thuộc tháp của chúng đó. [Tháp] Đặc Biệt là phía trên dựng khám thờ Phật
để thờ Tây Phương Tam Thánh, phía sau làm một cái khám nhỏ đề thờ bài vị của
người nhập tháp. Phía dưới dùng xi-măng (cement) xây thành tầng ngầm, chia ra
hai gian Đông và Tây. Mỗi gian chia thành bốn khu, mỗi khu nhìn ra hai hướng, mỗi
hướng gồm sáu nhóm, mỗi nhóm là bao nhiêu đó ô đựng cốt, tổng cộng là một ngàn
ba trăm chín mươi chín ô. Gian phòng thờ được chia thành bốn bộ phận: một là tỳ-kheo,
hai là tỳ-kheo-ni, ba là ưu-bà-tắc, bốn là ưu-bà-di. Hỏa thiêu xong, đựng tro
trong hũ sứ, đem từ khám thờ Phật xuống đặt trong tầng ngầm. Nếu đã nạp lệ phí,
ghi danh sẵn, ước định sẽ đặt vào nhóm nào, ô nào thì bất luận nhập tháp lúc
nào vẫn xếp theo đúng ước định. Nếu không, người nhập tháp trước sẽ được xếp đằng
trước, người nhập sau xếp đằng sau. Phía trên [tầng ngầm] xây năm gian nhà lớn,
ba gian chính giữa là khám thờ Phật, phía dưới là tháp đặc biệt. Bốn tháp ở
phía Đông và phía Tây sau khám thờ chính là tháp Phổ Thông. Hai gian hai bên
dùng làm chỗ ở cho vị trông coi nhang đèn, nước nôi và những vị già cả không thể
ở chung với chúng được. Chuyên nhất niệm Phật suốt năm để người mất thường được
nghe Phật hiệu, phẩm sen tăng cao, người còn sống đau đáu nghĩ tới vô thường, gấp
cầu vãng sanh. Âm - dương đều được lợi, cùng gội ân sâu khế lý khế cơ. Kẻ thấy
nghe phát tâm cùng tu diệu đạo “tâm làm,
tâm là”, ngõ hầu phàm phu sát đất cậy vào Phật lực siêu phàm nhập thánh. Đã
dự vào hải hội sẽ đoạn Hoặc chứng Chân ngay trong đời này, thật là nhân duyên tối
thắng để liễu sanh tử, mà cũng là chỗ quy túc tốt lành nhất sau khi hết tuổi thọ!
Tụng rằng:
Tịnh Độ đại pháp môn,
Mười phương Phật cùng khen,
Mất - còn siêng tu trì,
Chóng được lên bờ giác.
15. Bài ký về chuyện cư sĩ Châu Tử San sanh Tây
Cư sĩ húy Dục
Anh, hiệu Tử San, là cháu đích tôn của vị đại thương gia đất Cát An tỉnh Giang
Tây tức tiên sinh Châu Phù Cửu. Mất cha mẹ từ bé, do bà nội là Đàm Thái Phu
Nhân chăm bẵm thành người, bẩm tánh thông minh, sáng suốt, hiếu học, ưa tìm
tòi, nhân từ, hòa nhã, lòng dạ rỗng rang tựa hang trống, sanh trưởng trong nhà
phú quý nhưng chẳng có mảy may thói quen kiêu căng, xa hoa. Ra làm quan, hoàn
toàn chú trọng trung thực, giữ lòng từ ái. Từ bạn đồng liêu, thân hữu cho đến
tôi tớ, nếu ai trái ý chưa hề hiện vẻ giận dữ, thốt lời thô tháo! Luôn luôn
tươi tỉnh, hòa nhã, chuyện nghịch xảy đến bèn thuận chịu. Đến khi cáo quan về ở
ẩn, đóng cửa ngầm tu dưỡng, ngẫu nhiên đọc nội điển (kinh Phật) liền biết Phật
pháp là căn bản của hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, tạo phước lợi
cho xã hội, phổ độ chúng sanh đều toàn nhờ vào Phật pháp cả! Vì thế, liền quy y
với lão pháp sư Đế Nhàn chùa Quán Tông, được đặt pháp danh là Trí Tạng. Từ đấy,
ăn chay trường, niệm Phật, kiêng giết, bảo vệ sanh vật, đối xử người khác bằng
lòng khoan dung, trung hậu, tự sống đạm bạc, bạn bè thường vay mượn nhưng chẳng
nề hà, hết thảy chuyện lành đều khảng khái giúp cho thành tựu. Nêu gương giúp kẻ
đói rét là chuyện thường làm, thực hiện những điều lành thế gian đều dùng tâm Bồ
Đề để hồi hướng hòng tạo duyên tăng thượng thù thắng nhất hòng vãng sanh Tây
Phương. Lại thấy lòng người hiểm ác, thời sự mỗi ngày một sai trái nên càng dốc
sức làm lành, lòng ưa - chán[55]
càng sâu.
Năm
Dân Quốc 21 (1932), tức năm Nhâm Thân, nhằm độ tuổi tri mạng (50), ngày mồng
Tám tháng Tư gặp đúng hôm thánh đản đức Thích Ca Văn Phật[56],
vào lúc bảy giờ sáng, ông thị hiện chút bệnh nhẹ, cảm thấy hông lưng đau nhức,
bảo người xoa nắn nhè nhẹ cho dễ chịu. Tự mình ngồi xếp bằng ngay ngắn hướng về
Tây, chuyên tâm xưng niệm A Di Đà Phật. Thanh âm rõ ràng, rồi cúi đầu qua đời.
Người nắn lưng thấy [cư sĩ] im lặng hồi lâu chẳng ừ hử gì liền thăm dò hơi thở
nơi mũi mới biết cư sĩ đã bỏ báo thân này vãng sanh Tây Phương rồi! Lúc ấy mùi
hương lạ ngập nhà, năm ngày sau mới tan. Tướng lành như vậy có thể nói là chánh
niệm phân minh, xả báo an tường như nhập Thiền Định, tức là được Phật tiếp dẫn
vãng sanh Tây Phương chẳng còn mảy may nghi ngờ, bàn tán chi nữa! Ôi! Đang
trong lúc kiếp trược khổ chẳng kham nổi này, cư sĩ đến lúc lâm chung mới thị hiện
chút bệnh, chỉ trong khoảnh khắc liền ngồi mà mất, đã nêu tấm gương lớn cho những
kẻ chịu đựng khổ sở chẳng kham nổi! Cư sĩ Ngô Nam Phố gởi chuyện này cho Quang,
nhân vậy bèn ghi lại những nét chánh yếu.
16. Bi ký về ao phóng sanh của Liên Hoa Am tại Thường Thục
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Càn là đại phụ,
Khôn là đại mẫu, dân là ruột thịt của ta, loài vật giống như ta, đấy chính là
chí hướng chủ yếu “coi dân và loài vật giống như nhau” của nhà Nho, nghiêm cấm
gây đọa thai, phá trứng, ắt sẽ khiến cho chim - thú - cá - rùa đều được sống
yên vui. Đấy chính là lối cai trị bằng đức hòng thắng tàn bạo, trừ khử giết
chóc của bậc thánh vương. Đó là vì đức lớn của trời đất là Sanh, nỗi khổ lớn của
người lẫn vật là Giết. Thắng tàn bạo, trừ giết chóc phải từ chuyện nhỏ mà thành
lớn, thương người yêu vật phải từ dễ đến khó. Nếu chẳng hàm dưỡng lòng nhân từ,
khoan thứ từ cái gốc ắt sẽ đến nỗi bỏ nhỏ lấy lớn, bỏ dễ lấy khó, hằng ngày tàn
sát mà cứ lầm lạc muốn yêu người thương vật, ắt chỉ thành chuyện nói xuông, quyết
khó thể thực hiện được chuyện ấy! Vì sao nói thế? Trẻ nhỏ, kẻ bình thường đều
có thể thực hiện chuyện yêu thương loài vật thì do làm lâu ngày bụng dạ sẽ đầy ắp
nhân từ, mai sau có địa vị, nắm quyền cai trị, sẽ che chở dân đen lớn lao; dẫu ẩn
cư trong một làng cũng có thể dùng thân làm gương để thay đổi phong tục. Như vậy
thì cái đạo thương dân phải vun bồi từ lòng yêu vật mới có thể viên mãn trọn khắp
không điều tệ! Chẳng xuất phát từ lòng yêu thương loài vật thì trong đời này tợ
hồ cũng chẳng có chi đáng áy náy, nhưng trong tương lai ắt phải lo nghĩ lớn
lao, bởi đã gieo cái nhân tàn sát loài vật sẽ khó thể tránh cái quả tuần hoàn
báo đền. Nguyện những ai có lòng thương người hãy suy nghĩ cặn kẽ! Chuyện phóng
sanh vốn nhằm để khơi gợi thiện tâm nơi con người hiện tại và tương lai, ngõ hầu
họ sẽ kiêng giết, ăn chay, làm cho khắp các loài hàm thức được sống yên vui, đều
trọn hết tuổi thọ. Gần là dứt được cái nhân giết chóc, xa là diệt được sát quả;
nhỏ là trọn tấm lòng thuần nhân của ta, lớn là dứt sát kiếp cho cả thế giới. Đừng
bảo đấy chẳng phải là chuyện cấp bách, rồi coi thường bỏ qua!
Liên
Hoa Am bốn mặt đều là nước, chính giữa nổi lên một bãi bồi, cất am trên ấy, thờ
Tây Phương Tam Thánh, chuyên thỉnh vị Tăng có giới đức làm Trụ Trì. Cảnh sắc
thanh u, chẳng bén hồng trần, tu trì nghiêm mật, giới đức lan xa, dùng cừ chặn
khúc sông trước mặt am làm ao phóng sanh. Từ đời Minh đến nay, thời gian đã lâu
xa. Hiện tại có những vị thân sĩ trong ấp như Cù Lương Sĩ, Bàng Đức Siêu v.v… hết
sức muốn chỉnh đốn, và muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trọng yếu và lợi ích của việc
phóng sanh, cậy tôi soạn bài văn để thưa cùng bậc sáng suốt trong mai sau. Trộm
nghĩ: Phóng sanh vốn nhằm để đề xướng kiêng giết ăn chay. Nếu con người ăn chay
trọn đời sẽ trở thành không phóng mà hóa ra là phóng sanh lớn lao vậy! Nay sao
chép lại bài thơ răn đừng ăn thịt của cư sĩ Hoàng Sơn Cốc để mong mọi người lúc
ăn thịt hãy suy nghĩ lại, ắt sẽ chẳng nỡ lòng ăn mà lòng chẳng dám ăn cũng bừng
bừng dấy lên! Thơ rằng:
Ngã nhục, chúng sanh nhục,
Danh
thù, thể bất thù,
Bổn
thị nhất chủng tánh,
Chỉ
vi biệt hình khu,
Khổ
não tùng tha thụ,
Phì
cam vi ngã nhu,
Mạc
giao Diêm Quân đoán,
Tự
sủy ứng hà như?
(Thịt ta, thịt
chúng sanh,
Danh khác, thể vốn
đồng,
Vốn cùng một chủng
tánh,
Chỉ hình hài khác
nhau!
Khổ não chúng hứng
chịu,
Béo ngon ta hưởng
riêng,
Chớ đợi Diêm La xử
Tự
suy sẽ biết mà!)
Bài
thơ này ý vị làm sao! Trung hậu, khoan thứ sẽ cách đạo chẳng xa, điều gì chẳng
mong người khác làm cho chính mình thì chớ gây cho người khác, đấy chính là đại
kinh đại pháp thành thủy thành chung để yêu người thương vật vậy. Do vậy, chẳng
cần phải nói cặn kẽ về những nghĩa lý sâu xa nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo.
Nguyện những ai thấy nghe đều suy nghĩ sâu xa.
17. Bi ký thuật công đức trùng tu Di Lặc Lâu Các của Linh
Nham Sơn Tự
(năm Dân Quốc 29 - 1940, cuối
Hè năm Canh Thìn)
Di Lặc là đấng
giáo chủ của thế giới Sa Bà sẽ giáng sanh trong tương lai, Lâu Các là phòng ốc
nơi đức Di Lặc ở khi Thiện Tài đi về phương Nam tham học. Nhà nhiều tầng là
Lâu, lầu cao là Các. Lâu các này thắng diệu khôn sánh, phàm phu, Nhị Thừa, Quyền
Vị Bồ Tát đều chẳng thể thấy được! Đấy chính là báo cảnh do công đức thắng diệu
thượng cầu hạ hóa của đức Di Lặc từ vô lượng kiếp đến nay cảm thành. Thiện Tài
đã tham học với hai vị thiện tri thức là Đức Sanh và Hữu Đức[57]
xong, họ lại dạy Thiện Tài đi qua Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng Đại Lâu Các
trong vườn Đại Trang Nghiêm ở nước Hải Ngạn tại phương Nam thỉnh giáo Di Lặc Bồ
Tát: “Vị Bồ Tát ấy ắt sẽ có thể vì ngươi
nói diệu pháp khế lý khế cơ rốt ráo, khiến cho ngươi được đại lợi ích”. Do
vậy, Thiện Tài cực lực đối trị tập khí phiền não, cực lực tu trì đạo Giới - Định
- Huệ, đến trước Tỳ Lô Giá Na Đại Lâu Các ở nước Hải Ngạn, năm vóc mọp sát đất,
nguyện thấy đức Di Lặc, nói kệ tán thán, bèn thấy Di Lặc Bồ Tát từ chỗ khác đi
tới.
Thiện
Tài đảnh lễ, Di Lặc đối trước đại chúng cùng đi với Ngài, tán thán Thiện Tài là
chân Phật tử, là chân pháp khí. Lại vì Thiện Tài nói đủ mọi công đức của tâm Bồ
Đề hòng bồi đắp nền tảng thành Phật, dạy vào trong Đại Lâu Các quan sát trọn khắp
sẽ biết rõ cách học Bồ Tát hạnh. Học xong sẽ thành tựu vô lượng công đức. Thiện
Tài bạch rằng: “Kính xin Đại Thánh mở cửa lâu các cho con được vào!” Ngài Di Lặc
khảy ngón tay ra tiếng, cửa liền mở ra, bảo Thiện Tài vào. Vào xong cửa đóng lại.
Thấy lâu các ấy rộng rãi vô lượng giống như hư không. Mặt đất và cung điện, hết
thảy vật cúng đều dùng vô lượng các thứ báu để hợp thành. Lại thấy trong ấy có
vô lượng trăm ngàn các thứ lâu các nhiệm mầu, mỗi mỗi rộng lớn nghiêm trang, đẹp
đẽ, đều bằng với hư không, chẳng ngăn ngại nhau, cũng chẳng tạp loạn. Nơi mỗi một
chỗ thấy hết thảy chỗ, trong hết thảy chỗ đều thấy như thế. Khi đó, Thiện Tài rạp
mình lễ kính, vừa mới mọp đầu đã tự thấy thân mình trọn khắp trong hết thảy các
lâu các, lễ khắp hết thảy Phật - Pháp - Tăng, thấy đủ các thứ cảnh giới tự tại
chẳng thể nghĩ bàn, như là: Hoặc thấy đức Di Lặc vừa mới phát tâm Bồ Đề hành đạo
Bồ Tát, thân cận vị thiện tri thức nào, chứng tam-muội nào cho đến đích thân chứng
được Pháp Thân, trong mười phương pháp giới, trải qua số kiếp nhiều như số vi
trần trong cõi Phật hiện những thân tam thừa lục đạo để giáo hóa, mỗi mỗi đều
thấy trọn vẹn và hết thảy chư Phật trong mười phương thế giới từ lúc mới phát
tâm cho đến khi thành Phật độ sanh và nhập Niết Bàn, pháp tồn tại lâu - mau,
cũng đều thấy trọn vẹn. Thiện Tài ở trong lâu các thượng cầu hạ hóa, trải số kiếp
nhiều như số vi trần trong cõi Phật siêng năng, chuyên ròng tu trì đủ mọi diệu
hạnh mà chẳng mỏi mệt, nhất tâm tiến thẳng đến Vô Thượng Bồ Đề.
Khi
ấy, Di Lặc Bồ Tát liền thâu hồi thần lực, vào trong lâu các, khảy ngón tay ra
tiếng, bảo Thiện Tài: “Thiện nam tử! Hãy
dậy đi, pháp tánh như vậy đó. Đây chính là trí biết các pháp của Bồ Tát, [biết
các pháp] là tướng được hiện bởi nhân duyên tụ tập. Tự tánh như thế giống như huyễn, như mộng!” Do vậy, Đại Lâu Các ấy
chính là pháp giới tạng. Phàm tất cả những sự vi diệu trong pháp giới không gì
chẳng thấy trọn vẹn trong lâu các này. Đó gọi là “mười pháp giới xưa - nay, từ đầu đến cuối chẳng lìa một niệm hiện tại,
vô biên cõi nước, ta - người chẳng cách biệt chừng bằng mảy lông!” Nếu
không có thần thông đạo lực của Di Lặc, Thiện Tài cạn lòng thành tận lòng kính,
làm sao đạt được như vậy?
Đời
gần đây, các nơi không nơi nào chẳng thờ tượng Di Lặc nơi tiền điện, chẳng gọi
là Di Lặc Điện mà lại gọi là Thiên Vương Điện, đúng là coi ngài Di Lặc như
khách ăn nhờ ở đậu các Thiên Vương, quá mất ý nghĩa tôn kính! Linh Nham tu bổ
tiền điện, nhân đấy tôi bèn nói nguyên cớ với giám viện là đại sư Diệu Chân, lại
trích lục chương Thiện Tài tham học với ngài Di Lặc từ kinh Hoa Nghiêm để chứng
tỏ ngài Di Lặc đức vượt trỗi Thập Địa, đạo đã chứng Đẳng Giác, từ bi cứu vớt
chúng sanh, nếu không phải là Phật sẽ chẳng thể biết được! Do vậy, bèn đặt tên [cho
tiền điện] là Di Lặc Lâu Các để mong sau này ai bước vào đó sẽ đều giống như
Thiện Tài hoặc trong đời này hoặc trong đời mai sau, ai nấy đích thân chứng được
đạo trong lâu các, để an ủi tấm lòng đại từ bi “luôn dạy cho người đương thời”
của ngài Di Lặc. Hơn nữa, các nơi thờ tượng Di Lặc chính là tượng Bố Đại hòa
thượng do ngài Di Lặc thị hiện vào cuối đời Đường. Nay đã biết là do Di Lặc thị
hiện thì cố nhiên hãy nên thờ bổn tượng vi diệu trang nghiêm. Nhằm tỏ rõ ngài đang
sống trên Đâu Suất Thiên nên tạc tượng ngài đội mũ Ngũ Phật để làm tiêu thức[58].
Lược thuật duyên khởi để bảo cùng người thông sáng mai sau, hiểu tôi hay trách
tội tôi, tôi cũng chẳng màng! Chuyện tu bổ điện từ đầu đến cuối, công đức của
đàn-na tín chủ được ghi cặn kẽ trong tấm bia khác, nên chẳng ghi lại tường tận ở
đây!
Phụ Lục
Toa chế thuốc hoàn tiêu đờm chữa ho
Cách chế tạo:
Dùng Kinh Giới, Cát
Cánh, Tử Uyển, Bách Bộ, Bạch Tiền, Trần Bì, Tang Bạch Bì, Cam Thảo[59],
mỗi thứ một lạng, đều để tươi nghiền nát thành bột mịn, lại thêm vào hai lạng hạt
củ giền[60]
tươi để nghiền. Lại dùng một lượng lá Tỳ Bà[61]
nấu nước để lọc nước cốt hạt củ giền, rồi thêm vào hai lạng nước cốt củ giền
tươi, hòa [chất bột của những thứ thuốc nói trên] với nước cốt củ giền vò thành
hoàn, thêm vào hai hay ba lạng bách luyện mật[62]
nữa là được. Mỗi hoàn nặng hai tiền năm phân[63].
Cách uống:
Dùng
nước sôi để chiêu thuốc, mỗi lần uống một hoàn, trẻ nhỏ thì giảm xuống một nửa.
Mỗi ngày sáng dậy lúc chưa ăn gì và lúc tối sắp đi ngủ, uống mỗi lúc một lần.
Bài
thuốc này vốn trích từ sách Y Học Tâm Ngộ Nghiệm Phương Tân Biên nhưng thiếu Trần
Bì, Cam Thảo. Hơn nữa, mỗi thứ đều sao rồi mới chế thuốc, uống vào sợ rằng gây
khô háo[64],
nay thêm vào Tang Bạch Bì, và lại dùng lá Tỳ Bà, hạt củ giền, nước cốt củ giền,
vò thành hoàn. Các thứ thuốc đều nghiền tươi. Từ đấy áp dụng không ai chẳng
công hiệu, phong - hàn - đàm - nhiệt đều thích hợp! Nhiếp Vân Đài ghi.
Tôi
bị trúng gió ho húng hắng, xin được từ chỗ cư sĩ Vân Đài mười mấy hoàn, uống mấy
hoàn liền khỏi bệnh. Những hoàn thuốc còn lại cùng với số xin thêm từ Tam Lạc
Xã đem gởi tặng cho người khác, họ đều khen là linh nghiệm. [Do vậy] đặc biệt
ghi thêm toa thuốc vào đây. Nguyện người đọc dựa theo toa chế thuốc nhằm tạo tiện
lợi cho người khác thì công đức vô lượng. Đức Sâm ghi thêm.
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
Quyển
Hạ
Phần
4 hết
[1] Bàn Đà Thạch là một tảng đá
chồng có hình dáng kỳ lạ, trên to dưới nhỏ, phần trên to đến hơn 20 mét (có thể
đứng được ba mươi người), nằm chông chênh trên một tảng đá lớn khác cao đến 3
mét, rộng 7 mét. Chỗ tiếp xúc của hai tảng đá rất nhỏ, tạo cảm giác nếu khẽ đẩy
sẽ bị rơi xuống, đã bao người thử đẩy nhưng tảng đá chỉ rung rinh rồi vẫn đậu
chênh vênh như cũ. Theo truyền thuyết, đây là nơi Quán Âm Đại Sĩ thuyết pháp.
Khi chiều sắp tắt nắng, cả tảng đá trông óng ánh như được dát vàng, những ai
leo lên đỉnh Bàn Đà Thạch khi ấy, dõi nhìn ra biển cả sẽ thấy phong cảnh tráng
lệ, không bút mực nào tả xiết. Vì thế, “Bàn
Đà Tịch Chiếu” (chiều soi bóng trên tảng Bàn Đà) được coi là một trong những
cảnh đẹp nhất của Phổ Đà Sơn.
[2] Nội giám:
Danh xưng khác của Hoạn Quan, tức Thái Giám.
[3] Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao
quyển 16, Nhất Chân pháp giới được giải thích như sau: “Nhất tức không hai, Chân tức chẳng vọng, đan xen lẫn nhau triệt để
viên dung nên gọi là pháp giới. Đây chính là Pháp Thân bình đẳng của chư Phật,
vốn chẳng sanh chẳng diệt, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng trong, chẳng
ngoài, chỉ một bề chân thật, chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là Nhất Chân pháp giới”.
[4] Thường - Lạc - Ngã - Tịnh
là bốn đức trọn đủ nơi Pháp Thân của Như Lai, bốn đức này còn gọi là Niết Bàn Tứ
Đức. Bốn đức này được giải thích tường tận trong kinh Đại Bát Niết Bàn. Nếu hiểu
đại lược thì sự giác ngộ nơi cảnh giới Niết Bàn vĩnh viễn chẳng biến đổi nên gọi
là Thường, cảnh giới ấy không khổ, luôn an vui nên gọi là Lạc, tự do tự tại
không bị trói buộc mảy may nào nên gọi là Ngã, không bị phiền não ô nhiễm nên gọi
là Tịnh.
[5] Quần manh (Bahu-Jana) còn dịch
là Quần Sanh, có nghĩa là các loài chúng sanh. Đây là tên gọi khác của Chúng
Sanh. Chữ “manh” hàm nghĩa giống như cây cỏ mới nẩy mầm, chưa thấy được rõ
ràng. Chúng sanh vừa mới phát đạo tâm, nhưng vẫn còn bị vô minh che lấp giống
như cây cỏ vừa mới nảy mầm, nên mới gọi là Quần Manh.
[6] Tục diệm
truyền đăng: Tiếp nối ánh sáng ngọn đèn, ý nói “nối tiếp, lưu truyền mối đạo từ
đời này sang đời khác”.
[7] Đại Trí Luật Sư, tức là
ngài Linh Chi Nguyên Chiếu (1048-1116), người đất Dư Hàng, tự là Trạm Nhiên, hiệu
An Nhẫn Tử. Xuất gia từ bé, 18 tuổi thọ Cụ Túc giới, học giáo nghĩa tông Thiên
Thai với ngài Thần Ngộ Xử Khiêm, nhưng dốc chí nơi Luật Tông. Về sau lễ ngài Quảng
Từ thọ Bồ Tát giới, nối pháp Nam Sơn Chánh Truyền của ngài Doãn Kham. Trong
niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085), Sư trụ tại Chiêu Khánh hoằng truyền Luật
Tông, đến tuổi già, dời sang ở tại chùa Linh Chi ở đó suốt ba mươi năm nên người
đời thường gọi Sư là Linh Chi Hòa Thượng. Khi mất, Sư được ban thụy hiệu là Đại
Trí Luật Sư. Sư viết chú giải cho hai kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh và A Di
Đà kinh, chú giải bộ Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao của ngài Đạo
Tuyên, soạn thành bộ Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký.
[8] “Bỉ cực thái lai” nguyên gốc là “bỉ
chung tắc thái”. Bỉ và Thái vốn là tên hai quẻ kép tương phản trong sáu
mươi bốn quẻ của kinh Dịch. Quẻ Bỉ gồm quẻ Càn ở trên, quẻ Khôn ở dưới ghép
thành, hàm nghĩa: Dương khí bốc lên, Âm khí chìm xuống, Âm - Dương chẳng giao hội,
vạn vật bế tắc. Do vậy, đây là quẻ xấu. Quẻ Thái thì Càn dưới, Khôn trên, nên
Âm - Dương giao hội, vạn vật thông suốt, do vậy là quẻ tốt. Phần Hệ Từ giảng: “Bỉ chung tắc thái” (quẻ Bỉ kết thúc sẽ
chuyển biến thành quẻ Thái), hàm nghĩa vận xấu đến cùng cực sẽ chuyển biến
thành vận hanh thông, giống như hết Đông sẽ tới Xuân. Do ý nghĩa này, “bỉ chung tắc thái” được biến đổi thành “bỉ cực thái lai”.
[9] Linh Đài:
tên một cái đài do Văn Vương xây dựng được nhắc đến trong bài thơ Linh Đài thuộc
thiên Đại Nhã của kinh Thi. Bài thơ này có nội dung ca ngợi đức hạnh của nhà
vua, đoạn đầu bài thơ có câu: “Kinh thỉ
linh đài, kinh chi, doanh chi, thứ dân công chi, bất nhật thành chi” (Vừa
tính xây đài thiêng, tính toán, lo liệu, nhân dân góp công, chưa đầy một buổi,
đài đã xây xong). Do vậy, “linh đài” được dùng như một từ ngữ để ca ngợi vị vua
cai trị nhân dân bằng đức hạnh và lòng nhân từ, được nhân dân hết sức yêu mến.
[10] Khi Việt
Vương Câu Tiễn diệt nước Ngô, bắt sống Phù Sai. Phù Sai đã quỳ lạy, khóc lóc,
van xin được sống sót làm nô lệ chăn ngựa giống như xưa kia Việt Vương Câu Tiễn
bại trận đã phải xin làm nô lệ giữ ngựa cho Phù Sai. Khi bị Câu Tiễn ép tự sát,
Phù Sai xõa tóc che mặt với ngụ ý không còn mặt mũi nào nhìn tổ tiên dưới suối
vàng!
[11] “Rồng già nơi biển giáo, sư tử lớn nơi hang
Thiền”, ý nói toàn là những bậc tông tượng lỗi lạc thuộc Giáo môn hay Thiền
tông.
[12] Tức loạn
Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn khởi xướng. Quân Thái Bình Thiên Quốc đã đốt
sạch, phá trụi các chùa miếu, đạo quán mỗi khi chúng chiếm được một địa phương
nào!
[13] Tuy hòa thượng Chân Đạt
đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời hoằng pháp và là người nỗ lực thực
hiện tông chỉ chuyên tu Tịnh nghiệp của tổ Ấn Quang, hầu như không thấy có tài
liệu nào ghi chép chi tiết về tiểu sử của hòa thượng. Dựa theo những ghi chép của
môn nhân Tổ Ấn Quang, chúng ta chỉ biết hòa thượng Chân Đạt vốn xuất thân từ
Tam Thánh Đường tại Phổ Đà Sơn, do thường bế quan nên chưa hề gặp mặt tổ Ấn
Quang. Sau khi bộ Văn Sao được lưu hành, hòa thượng rất ngưỡng mộ tổ Ấn Quang,
nhưng lúc đó hòa thượng đã sang Thượng Hải nên chưa gặp gỡ được! Đến mùa Xuân
năm Dân Quốc 15 (1926), ông Cao Hạc Niên từ núi Bôi Độ trở về Ninh Ba, ước hẹn
với tổ Ấn Quang sẽ cùng nhau đến Thượng Hải lo việc in sách. Hòa thượng Chân Đạt
biết tin liền dặn ông Cao đưa tổ Ấn Quang đến nghỉ ngơi tại chùa Thái Bình là Hạ
Viện của Tam Thánh Đường tại Thượng Hải, do vậy, hai vị mới được gặp mặt nhau
và nhanh chóng trở thành bạn thiết. Từ đấy về sau, mỗi dịp cần sang Thượng Hải,
tổ Ấn Quang thường đến ở tại một gian phòng dành riêng cho Ngài trong chùa Thái
Bình. Hòa thượng Chân Đạt chẳng tiếc sức hỗ trợ tổ Ấn Quang trong công cuộc hoằng
pháp. Khi Tổ muốn tránh phiền nhiễu do bị các nơi gởi thư hỏi han quá nhiều,
tính đi sang Hương Cảng để bế quan, hòa thượng Chân Đạt đã tha thiết mời Tổ về
bế quan tại chùa Báo Quốc do hòa thượng quản nhiệm cũng như tận lực ủng hộ tổ Ấn
Quang trong công cuộc biến Linh Nham Sơn Tự thành thập phương đạo tràng chuyên
tu Tịnh nghiệp. Cảm kích trước thịnh tình của hòa thượng Chân Đạt, trong những
thư từ trao đổi, Tổ luôn gọi hòa thượng Chân Đạt là “huynh” tuy tuổi tác lẫn
pháp lạp của Tổ đều cao hơn hòa thượng Chân Đạt. Khi Tổ Ấn Quang viên tịch,
chính hòa thượng Chân Đạt đã đứng ra dựng tháp, chủ trì lễ trà-tỳ và tuyên pháp
ngữ trước khi châm lửa.
[14] Từ Châu (1877-1957)là người huyện Tùy, tỉnh Hồ Bắc, pháp danh là Phổ Hải. Từ
bé đã theo cha học Phật. Đến năm 33 tuổi, vợ chồng đồng lòng xuất gia. Không
lâu sau, Sư thọ Cụ Túc Giới nơi chùa Quy Nguyên tại Hán Dương, từng theo hầu dưới
tòa pháp sư Nguyệt Hà là một vị đại đức thuộc tông Hoa Nghiêm. Sư thường giảng
kinh Hoa Nghiêm, xiển dương giới luật, hoằng hóa rất sâu rộng, trì luật rất
nghiêm, kiêm tu Tịnh Độ lẫn pháp giới quán. Tuy thông hiểu Hoa Nghiêm sâu xa,
trong khi thuyết pháp, Sư vẫn dùng những lời lẽ giản dị, chẳng bàn đến những lý
lẽ cao siêu khó hiểu, mà chỉ chú trọng vào những điểm cốt lõi, thực tiễn. Sư
chuyên giảng Hoa Nghiêm, Viên Giác, Khởi Tín Luận, Tứ Phần Luật v.v… Năm 1920,
Sư sáng lập Hoa Nghiêm đại học, Minh Giáo học viện để đào tạo tăng tài. Nhận lời
mời của hòa thượng Hư Vân, Sư sáng lập Pháp Giới Học Viện tại chùa Pháp Hải ở
Phước Kiến, về sau trường được dời sang chùa Tịnh Liên ở Bắc Kinh. Sư thị tịch
tại An Dưỡng Tinh Xá, còn để lại những tác phẩm như Tỳ Ni Tác Trì Yếu Lục, Bồ
Tát Giới Bổn Sớ, Đại Thừa Khởi Tín Luận Thuật Ký, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm
Thân Văn Ký v.v… Những trước tác của Sư đã được biên tập thành bộ Từ Châu Đại
Sư Pháp Vựng.
[15] Đàn-việt (Dānapati): Thí chủ,
tức người bố thí. Đàn là gọi tắt của chữ Dāna (bố thí).
[16] “Vật ngô dữ dã”. Trong nguyên bản, sau
chữ Dữ có chú thích “與, 友也” (dữ, hữu
dã: Dữ là bạn bè). Chúng tôi dịch câu này theo cách giải thích trong sách Tứ
Thư Giảng Yếu. Trộm nghĩ, “vật ngô dữ dã” là “loài vật là bạn bè của ta” và
“loài vật giống như ta” theo cách giải thích của Tứ Thư Giảng Yếu ý nghĩa không
khác nhau cho lắm. Chúng tôi vẫn giữ theo cách giải thích của Tứ Thư Giảng Yếu
cho nhất quán.
[17] Một loại
đình nhỏ (gazebo) là một loại kiến trúc nhỏ, lợp mái, nhiều cột, không có vách,
thường dùng làm nơi hóng mát hay ngắm trăng.
[18] Hoàng Sơn
Cốc tên thật là Hoàng Đình Kiên, tự là Lỗ Trực, hiệu là Sơn Cốc đạo nhân, vốn
là một nhà thư pháp (calligrapher) nổi tiếng thời Bắc Tống, quê ở huyện Tu Thủy,
tỉnh Giang Tây. Ông làm thơ, viết chữ, vẽ tranh đều xuất sắc nên được xưng tụng
là Tam Tuyệt. Đương thời, ông nổi tiếng không kém Tô Đông Pha nên người đương
thời thường dùng từ ngữ Tô Hoàng để chỉ hai bậc văn gia này.
[19] Ngũ Thời:
Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn. Bát Giáo: Tám loại
giáo hóa, gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (bốn phương thức dùng để giáo hóa) gồm: Đốn, Tiệm,
Bí Mật, Bất Định và Hóa Pháp Tứ Giáo (bốn nội dung giáo hóa) gồm Tạng, Thông,
Biệt, Viên.
[20] Phán thích:
Phán định, giải thích.
[21] Chùa Quốc Thanh nằm ở phía
Nam ngọn Phật Lũng rặng Thiên Thai, do Tấn Vương Dương Quảng (sau này là Tùy Dạng
Đế) xây dựng cho ngài Trí Khải (Trí Giả đại sư). Thoạt đầu, Định Quang thiền sư
trụ trì tại núi này, thường bảo đệ tử: “Không lâu sau sẽ có vị thiện tri thức
thù thắng lãnh chúng sống tại núi này”. Quả nhiên, không lâu sau có ngài Trí Khải
vượt Trường Giang đến nơi này, mở mang pháp thí rộng lớn. Đại sư tính xây dựng
chùa ở phía nam núi Phật Lũng, nhưng xây chưa xong đã nhập diệt. Tấn Vương
Dương Quảng tiếc nuối khôn cùng, bèn lập hội trai tăng một ngàn vị, xây dựng
ngôi phạm vũ nguy nga này, thoạt đầu đặt tên là Thiên Thai Sơn Tự. Nhưng sau
này, vua nhớ lại khi còn là Thái Tử, nhằm khi ngài Trí Khải tới nơi đây, sư Định
Quang đã từng báo mộng với nhà vua: “Ba nước (tức Bắc Châu, Bắc Tề, Trần) sẽ hợp
thành một, người có thế lực lớn lao mới ở được chùa này, chùa xây xong, đất nước
sẽ thanh bình”. Do vậy, đổi tên là chùa Quốc Thanh.
[22] Trần điểm
kiếp: Kiếp số nhiều như số vi trần.
[23] Ba bà Thái chính là Thái
Khương (vợ Châu Thái Vương, tức bà nội của Văn Vương), Thái Nhậm (vợ Châu Vương
Quý, mẹ vua Văn Vương) và Thái Tự (vợ Châu Văn Vương), ba người đàn bà hiền đức
mẫu mực nhất thời cổ.
[24] Nguyên văn
“Phật thanh tải đạo”: Dựa theo ý câu “văn dĩ tải đạo” dùng văn chương để chuyển
tải đạo lý. Tương tự, tiếng niệm Phật khiến người nghe thức tỉnh, phát khởi thiện
căn, mỏng nhẹ phiền não, do vậy, tiếng niệm Phật cũng chuyên chở đạo lý vậy.
[25] Liên xá:
Gian nhà để niệm Phật. Do chỉ là một gian nhà tạm thời để niệm Phật nên không gọi
là Niệm Phật Đường.
[26] Do nghi lễ
Diệm Khẩu rất phức tạp, bao gồm nhiều lễ nghi, thể loại tán tụng, ấn quyết,
cũng như lễ nhạc rất phức tạp, nếu không phải là một vị Tăng được huấn luyện
chuyên môn sẽ không thể tham dự vào ban kinh sư để cử hành lễ này được. Chữ “ứng
phó” ở đây thường bị đọc trại thành Ứng Phú với ý nghĩa “có khả năng thực hiện
các nghi lễ thành thục, thông thạo, đúng cách”. Muốn cử hành lễ Diệm Khẩu phải
mời những vị Tăng chuyên được đào luyện về khoa Ứng Phú; tuy vậy, trong số những
vị tinh thông nghi lễ ấy, không đảm bảo họ sẽ đều là người chú trọng tu trì, giới
hạnh tinh chuyên! Nếu thường xuyên cử hành lễ Diệm Khẩu sẽ phải mời những vị ấy
đến ở trong chùa. Nếu họ không phải là người chú trọng tu trì, sẽ rất dễ gây
xáo trộn trở ngại cho sự thanh tu trong đạo tràng, cũng như khiến cho việc
chuyên tu bị xen tạp. Hơn nữa, để cử hành lễ Diệm Khẩu phải tốn nhiều công sức
chuẩn bị, rất tốn kém, nếu không mời Tăng bên ngoài thì Tăng chúng bổn tự phải
dành nhiều thời gian để tập luyện khoa Ứng Phú cho nhuần nhuyễn nên sẽ xao
nhãng việc niệm Phật.
[27] Gọi như vậy
vì tầng trên Tam Quan thờ Di Lặc Bồ Tát và đức Hộ Pháp Vi Đà Bồ Tát.
[28] Trụ Trì Tam Bảo là một
trong ba loại Tam Bảo, có tác dụng hiện diện trong cõi thế gian để duy trì Phật
pháp, gồm tượng Phật, hình Phật là Phật Bảo, kinh sách là Pháp Bảo, Tăng chúng
xuất gia là Tăng Bảo.
[29] Nhất Thể Tam Bảo, còn gọi
là Đồng Thể Tam Bảo, Đồng Tướng Tam Bảo. Tuy phân thành ba ngôi, nhưng vốn cùng
một thể nên gọi là Nhất Thể. Nếu giải thích chi tiết hơn thì:
1) Luận trên mặt Sự, Phật thể
mang ý nghĩa giác chiếu là Phật Bảo. Phật đức mang tác dụng làm khuôn mẫu (quỹ
pháp) nên là Pháp Bảo, đã dứt hết những sự tranh cãi, trái nghịch nên là Tăng Bảo.
Ba nghĩa này tuy khác, nhưng xét về mặt bản thể của mỗi đức lại chẳng khác nên
gọi là Nhất Thể. Đây là giáo nghĩa được tuyên dương bởi các bộ luận Thành Thật,
A Tỳ Đàm cũng như các kinh luận Đại Thừa.
2) Luận trên phương diện phá
tướng và “bản thể vốn là không” thì Sự tuy có sai khác, nhưng Thể đều không,
nên gọi là Nhất Thể. Giáo nghĩa này chỉ hạn cuộc trong giáo pháp Đại Thừa.
3) Luận trên thực tế, tuy
Tam Bảo khác biệt nhưng đều lấy thực tánh làm Thể nên gọi là Nhất Thể. Đây cũng
là một giáo nghĩa chuyên biệt của Đại Thừa. Hoa Nghiêm Kinh Khổng Mục Chương,
quyển hai, giảng: “Đồng Tướng Tam Bảo
nghĩa là đồng một pháp tánh Chân Như, có ba nghĩa khác biệt là giác nghĩa, quỹ
pháp nghĩa (khuôn phép), hòa hợp nghĩa, nên gọi là Tam Bảo”.
[30] Chùa Lăng Vân nằm ngay bờ
Đông chỗ hai dòng Đại Độ và Mân Giang giao nhau. Núi Lăng Vân có chín ngọn nên
còn gọi là Cửu Đảnh Sơn. Từ chùa nhìn sang bên kia sông là thành Lạc Sơn. Vào
thời Đường, nơi mỗi ngọn núi đều có chùa, hiện giờ chỉ còn mỗi chùa Lăng Vân.
Tượng Phật Di Lặc được đục thẳng vào vách núi trong tư thế ngồi, cao đến 71
mét, vai tượng rộng đến 28 mét. Tượng được tạc từ Khai Nguyên nguyên niên (713)
đời Đường Huyền Tông đến năm Trinh Nguyên 19 (803) đời Đường Đức Tông mới hoàn
thành, tức là tượng được tạc ròng rã trong chín mươi năm! Tượng này thường được
gọi là Lạc Sơn Đại Phật hay Lăng Vân Đại Phật.
[31] Tiết Độ Sứ
là một chức quan được đặt ra vào đời Đường. Thoạt đầu, những vị võ tướng nắm giữ
binh quyền ở một Đạo (tương đương với tỉnh bây giờ) được gọi là Đô Đốc, chỉ những
vị Đô Đốc được vua ban cờ Tiết (một loại cờ hiệu tượng trưng cho uy quyền) mới
được gọi là Tiết Độ Sứ. Đến đời Đường Duệ Tông, chức vụ này mới được chính thức
thiết lập và phạm vi cai quản của Tiết Độ Sứ được mở rộng, trông coi cả về nội
chính lẫn binh quyền trong một Đạo. Các Tiết Độ Sứ cũng thường được phong tước
Quận Vương, quyền uy rất lớn, khi chính quyền trung ương suy yếu, các Tiết Độ Sứ
thường thừa cơ chiếm đất làm vua một cõi. Do vậy, đến đời Tống, triều đình quy
định Tiết Độ Sứ chỉ trông coi về nội chính, không được giữ binh quyền nữa.
[32] Khai Nguyên Thích Giáo Lục
còn được gọi là Khai Nguyên Mục Lục hay Trí Thăng Lục do ngài Trí Thăng biên soạn
vào năm Khai Nguyên 18 (730) đời Đường, gồm 20 quyển, nội dung ghi nhận danh mục
kinh nhà Phật được phiên dịch sách và những bản chú sớ, ngữ lục được trước tác
từ năm Vĩnh Bình thứ 10 (67) đời Hán Minh Đế cho đến năm Khai Nguyên 18 nhà Đường.
Đến năm Trinh Nguyên thứ 10 (794) đời Đường, ngài Viên Chiếu lại soạn thêm bộ Tục
Biên (thường được gọi là Đại Đường Trinh Nguyên Tục Khai Nguyên Thích Giáo Lục)
gồm ba quyển để bổ sung danh mục những kinh điển đã được dịch thêm hay chưa được
nhắc đến trong bộ Khai Nguyên Thích Giáo Lục.
[33] Đây là cách đánh số thứ tự
các hòm (tức rương hay tráp đựng kinh) trong Càn Long Đại Tạng Kinh dựa theo mỗi
một chữ trong Thiên Tự Văn, vốn là một bài văn vần dùng để dạy trẻ học vỡ lòng
chữ Hán. Gọi là Thiên Tự Văn vì bài này gồm một ngàn chữ Hán khác nhau. Theo
truyền thuyết, để luyện tập thư pháp cho công chúa, Lương Vũ Đế sai Châu Hưng Tự
(407-521) soạn ra bài văn này với tên gọi đầy đủ là Thứ Vận Vương Hy Chi Thiên
Tự Văn. Thiên Tự Văn bắt đầu bằng câu “Thiên
địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, nhật nguyệt doanh trắc, thần tú liệt
trương, hàn lai thử vãng” (trời thẳm sắc đen, mặt đất sắc vàng, vũ trụ rộng
lớn vô biên, mặt trời mặt trăng hết vơi lại đầy, tinh tú chi chít trong không
trung, lạnh qua nóng đến) rồi kết thúc bằng câu “Vị ngữ trợ giả, yên tai hồ dã” (Những trợ ngữ dùng trong câu nói
là ‘yên, tai, hồ, dã’). Từ chữ Thiên trong câu “Thiên Địa Huyền Hoàng” đến chữ Tất trong “Tất Thư Bích Kinh” (Tất Thư là sách viết theo lối cổ chép bằng sơn
trên các mảnh trúc (vì thuở đó chưa có giấy), Bích Kinh là những kinh điển của
Khổng Tử được chôn giấu trong tường khi Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt sách, chôn học
trò) là 485 chữ. Từ chữ Thư trong câu “Tất
Thư Bích Kinh” đến “Lưỡng Sớ Kiến Cơ”
(hai ông Sớ Quảng và Sớ Thọ thấy trước nguy cơ bèn cáo lão hoàn hương) là 239
chữ nữa. Chúng tôi dịch những câu này theo cách giải thích của Wikipedia.
[34] Nguyên văn là “hàm”, tức gọi
tắt của chữ “hàm quỹ”, một loại rương nhỏ để tăng chúng cất giữ pháp phục, những
vật dụng tùy thân nhỏ nhặt, thường để dưới gầm giường. Do đó, tráp đựng sách
cũng theo thói quen được gọi là “hàm”, ta thường
dịch là “hòm”. Để tiện phân loại, đánh số, lưu trữ, tìm kiếm, Đại Tạng Kinh được
chia thành nhiều hòm (mỗi một hòm như vậy là mười quyển, giống như hình thức
chia thành từng tập (volume) hiện thời). Do khổ giấy khi xưa khá hẹp, mỗi quyển
như vậy thường có từ 30 đến 40 trang, in cả hai mặt giấy, mỗi mặt thường từ 10
đến 20 dòng, mỗi dòng từ 10 đến 12 chữ (tùy theo khổ chữ).
[35] Bắc Bình
là tên gọi của Bắc Kinh trong khoảng thời gian từ 1928 đến 1949.
[36] Cửu trùng
(chín tầng, chín bệ) chỉ hoàng đế. Theo Dịch học, từ Hà Đồ và Lạc Thư, những
con số thuộc về Trời là 1, 3, 5, 7, 9. Như vậy 9 là con số Dương lớn nhất. Vì
thế, con số 9 được dùng để tượng trưng cho ngôi vị cao cả nhất, sáng đẹp nhất.
Do vậy, nhà vua được gọi là Cửu Trùng (chín bậc). Từ ý nghĩa này, những hào
dương trong quẻ Dịch cũng được gọi là Cửu.
[37] Đây là một
cách nói thông dụng trong Phật môn Trung Hoa ngụ ý sống chết thuận theo lẽ tự
nhiên, thung dung tự tại, như cây cỏ đã chết thì phải khô héo, hễ còn sống thì
tươi tốt.
[38] Thổ hào: Kẻ
có thế lực tại một địa phương.
[39] Do cha mẹ
ngài Ngọc Lâm đức hạnh, nhân từ; nhân cách cao đẹp của ngài Ngọc Lâm do cha mẹ
uốn nắn hình thành nên họ vừa là cha mẹ vừa là thầy của ngài Ngọc Lâm. Vì thế,
tổ Ấn Quang mới dùng chữ “phụ sư, mẫu sư”.
[40] Người nối
dòng pháp, tức môn nhân đệ tử.
[41] Chùa Bích
Sơn suy vi sắp vỡ nợ, các vị Hằng Tu, Thừa Tham, Quả Định thương xót, sát nhập
chùa Quảng Tế vào Bích Sơn để đứng ra chấn hưng, trang trải nợ nần. Do các vị
này không thuộc sơn môn chùa Bích Sơn mà lại đứng ra tiếp nhận nhằm chấn hưng
chùa Bích Sơn ngõ hầu môn hộ Bích Sơn được tiếp tục tồn tại nên gọi là “tiếp
pháp thành tựu”.
[42] Lưỡng Túc:
Trí huệ và phước đức đều trọn đủ, tức đã thành quả vị Phật.
[43] Thành Hóa
là niên hiệu của Minh Hiến Tông, thời gian kéo dài từ 1465 đến 1487.
[44] Cô Nguyệt Thiền Sư: Hành trạng
của vị này không được biết đến nhiều, theo Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập quyển
3 và Ngũ Đài Sơn Danh Tăng quyển 5 thì Cô Nguyệt thiền sư húy Tịnh Trừng, người
Yên Đô, họ Trương, cha mẹ mất sớm, tham học với Nguyệt Khê lão nhân, đắc ngộ,
nghe tiếng pháo trúc hốt nhiên tâm rỗng không. Thoạt đầu Sư học kinh giáo, kiêm
chuyên tu Niệm Phật tam-muội. Lại đến tham học với ngài Vân Cốc, được giao phó
y bát. Khi thầy mất, Sư gặp được ngài Thanh Thiện chùa Thọ Ninh ở Ngũ Đài bèn
theo đến Ngũ Đài nhập chúng, đổi tên là Tịnh Trừng. Tại Ngũ Đài sau khi đắc ngộ
do tu tập Thiền Quán, Sư vào Tuyết Sơn tại Tứ Xuyên khổ công tu Thiền, đến năm
Thành Hóa nguyên niên (1465) mới trở về Ngũ Đài và dựng chùa Bích Sơn. Trước
tác có bộ Thanh Lương Ngữ Lục được lưu truyền trong cõi đời.
[45] Đất Đại
chính là Đại Quận, thuộc lãnh thổ nước Đại thời Chiến Quốc, nay thuộc huyện Cao
Dương tỉnh Sơn Tây. Châu Thành Luyện được phong tước vương và được ban thái ấp ở
đất Đại nên gọi là Đại Vương, vương hiệu đầy đủ của Thành Luyện là Đại Huệ
Vương.
[46] Ngũ Đài gồm
có năm ngọn, danh xưng mỗi ngọn đều có chữ Đài vì đảnh núi bằng phẳng, rộng rãi
như một cái đài. Do đó, người lên tận các ngọn để lễ bái gọi là “triều đài”.
[47] Tức thiền
thất, do trong các tùng lâm xưa, mỗi khóa ngồi thiền sẽ chừng khoảng thời gian
cháy hết một cây hương lớn (từ 45 phút đến một tiếng đồng hồ) nên gọi là “tọa
hương đả tịnh”.
[48] Phòng ở của
Tăng gọi là liêu. Liêu xá là tên gọi khác của Tăng đường.
[49] Thạch là
đơn vị đo lường thời cổ, có hai đơn vị:
1) Nếu là
đơn vị đo dung lượng, một Thạch là 100 lít.
2) Nếu là
đơn vị đo trọng lượng thì một Thạch là 71 kg.
Không rõ ở
đây dùng Thạch theo nghĩa nào. Nếu theo như kiểu người Việt thường đong lúa bằng
giạ thì Thạch sẽ được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
[50] Đốc Biện là một chức quan
đã có từ thời nhà Thanh. Khi Khang Hy dẹp yên được Thiên Địa Hội, thâu phục Đài
Loan đã đặt ra chức Đài Loan Phủ Đốc Biện Khẩn Đại Thần với nhiệm vụ cai quản
dân chúng Đài Loan và trông nom việc khẩn hoang nhằm phát triển Đài Loan. Đến
năm 1895, khi nhà Thanh suy yếu, để mất Đài Loan vào tay Nhật Bản, chức quan
này bị bãi bỏ. Đến thời Dân Quốc, tướng lãnh quân phiệt họ Diêm chiếm cứ Sơn
Tây, tự xưng là Đốc Biện. Các tướng quân phiệt khác cũng thích xưng là Đốc Biện.
[51] Dưới thời
Minh và Thanh, Tham Nghị là chức quan giúp việc cho quan Thông Chánh Sứ Ty, tức
một chức quan giúp việc hành chánh, chuyên giảo duyệt công văn tường trình lên
nội các. Đến thời Dân Quốc, chức Tổng Tham Nghị Trưởng tương đương với Đổng Lý
Văn Phòng.
[52] Y Lan
(Eranda) có nghĩa là cây cực thối, là một loại thực vật thuộc họ Bế Ma (Thầu Dầu),
mùi thối nồng gắt, hạt có dầu, thường được ép và tinh chế thành dầu Thầu Dầu.
Kinh điển thường ví phiền não với Y Lan, còn Bồ Đề thì ví với Chiên Đàn. Y Lan
cũng dùng để ví với những kẻ đầy dẫy tập khí xấu ác.
[53] Gọi là Ngoại Mông Cổ nhằm để
phân biệt với Nội Mông Cổ. Khi người Mông Cổ chiếm Trung Hoa lập ra nhà Nguyên,
Hốt Tất Liệt sát nhập đất đai Mông Cổ vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi Châu Nguyên
Chương (Minh Thái Tổ) lật đổ nhà Nguyên, người Mông Cổ bị đuổi ra ngoài cửa ải,
nhưng các vương hầu, tộc trưởng Mông Cổ gây chiến liên miên với nhau nên càng
ngày càng suy yếu, phải dựa dẫm vào thế lực của một sắc dân ngày càng quật cường
là dân Mãn Châu. Do ngày càng cường thịnh, dân Mãn Châu đã lần lượt biến các bộ
tộc Mông Cổ thành chư hầu của họ. Khi Mãn Châu chiếm được Trung Hoa lập ra đế
quốc Đại Thanh, toàn bộ đất đai Mông Cổ một lần nữa lại bị sát nhập vào lãnh thổ
Trung Hoa. Ngoại Mông Cổ là vùng nằm gọn trong địa bàn nước Cộng Hòa Mông Cổ
ngày nay (đa số là dân Mông Cổ sắc tộc Khalkha), còn Nội Mông Cổ bao gồm phần đất
sát với Vạn Lý Trường Thành, có rất đông người Mông Cổ sinh sống, chủ yếu là
các sắc tộc Hung Nô, Ô Hoàn, Tiên Ty, Đột Quyết và Đông Hồ (hai tộc này là người
Mông Cổ). Khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, Nội Mông Cổ trở thành một
đặc khu tự trị với thủ phủ là Hohot.
[54] Quách: Giới
quyền quý thời cổ khi mai táng, ngoài quan tài còn thêm một lớp bọc nữa gọi là
Quách. Sách Châu Lễ, thiên Địa Quan ghi: “Bất
quyền giả vô quách” (kẻ không có quyền thế thì quan tài không có quách).
[55] Ưa cõi Cực
Lạc, chán cõi Sa Bà.
[56] Thích Ca Văn hay gọi đủ là
Thích Ca Văn Ni là cách phiên âm khác của chữ Thích Ca Mâu Ni (đa phần các bản
kinh dịch trước thời pháp sư Cưu Ma La Thập dùng cách phiên âm này). Chẳng hạn
như trong Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh (mất tên người dịch), có ghi: “Kim ngã tác Thích Ca Văn Ni Phật, tánh Cù
Đàm” (nay ta là Thích Ca Văn Ni Phật, họ Cù Đàm). Phẩm Nhập Lục Đạo Chúng
Sanh của Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Phổ Tế Kinh (Bồ Tát từ
trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ nói kinh cứu tế rộng khắp) do ngài Trúc
Pháp Niệm dịch có câu: “Thích Ca Văn Ni
Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hạnh Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng
Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn nay đang ở trong thai mẹ rộng nói pháp tạng vô thượng thâm yếu”. Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh (do
ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn) khi nhắc đến danh hiệu đức Phật Thích
Ca đều viết là Thích Ca Văn v.v…
[57] Đức Sanh đồng tử
(Śrī-Sambhava) là vị thứ năm mươi mốt trong số năm mươi ba vị thiện tri thức được
Thiện Tài đến tham học. Vị này cùng với Hữu Đức đồng nữ cùng ở tại thành Diệu Ý
Hoa Môn, đều đã chứng môn giải thoát của Bồ Tát, do tịnh trí quán sát thấy các
thế gian đều là huyễn trụ, đều do nhân duyên sanh cho đến các việc biến hóa điều
phục của hết thảy các vị Bồ Tát đều là huyễn trụ, đều do nguyện và trí hợp lại
mà thành vậy.
[58] Tiêu thức
là những vật dụng nhằm biểu thị hạnh nguyện, phương tiện của một vị Phật hay một
vị Bồ Tát, chẳng hạn tiêu thức của ngài Quán Âm là bình cam lộ với nhành dương
liễu, tiêu thức của Địa Tạng Bồ Tát là viên minh châu và tích trượng, tiêu thức
của Văn Thù Bồ Tát là thanh kiếm trí huệ v.v... Trong Mật Tông thường tạc tượng
Di Lặc Bồ Tát cầm tháp báu (tượng trưng cho Tỳ Lô Giá Na Lâu Các) đội mũ Ngũ Phật
và mặc y phục cõi trời, ngồi thõng hai chân (ngụ ý Ngài vẫn chưa thành Phật).
[59] Kinh giới (Schizonepeta Tenuifolia) là một loại rau
thơm thuộc họ
Bạc Hà, có vị hơi the, thường được dùng như rau thơm ăn chung với rau muống chẻ,
nhất là khi ăn bún riêu! Cây này được dùng rất phổ biến trong các bài thuốc Nam
để chữa ho, cảm lạnh, xông hơi v.v…
Cát Cánh (Balloon Flower
- Platycodon grandiflorus) là một loại thân thực vật, hoa màu từ tím đậm đến nhạt,
hình như hoa loa kèn, có năm cánh, ta thường gọi là Hoa Chuông Tím, thân có chất
nhựa thơm dịu.
Tử
Uyển (Tatarian Astert - Asteris Radix) thuộc họ Cúc, thân ngầm. Bộ phận chính để
làm thuốc là phần thân ngầm và rễ, có vị ngọt đắng và thơm nhẹ, chủ yếu dùng để
trừ đàm trong Đông Y.
Bách
Bộ (Stemona Root - Radix Stemonae) là một
loại thực vật lá to, bóng mượt nhưng hẹp và dài, mọc rất chậm nên còn gọi là Mạn
Sanh Bách Bộ, phần để làm thuốc chính là phần thân ngầm của nó.
Bạch Tiền (Willowleaf
Swallowwort - Cynanchum stauntonii) là một loài thực vật có thân hình trụ dài,
cành thường cong quẹo, có màu trắng ngả vàng hoặc vàng nâu, phần để làm thuốc
chính là phần thân ngầm và rễ.
Trần Bì: Vỏ cam hay quýt.
Tang Bạch Bì: Chất vỏ trắng
lấy từ rễ cây dâu tằm (Mulberry tree).
[60] Nguyên văn
La Bặc. Theo từ điển Hán Việt, chữ La Bặc thường dịch là củ cải trắng; thế
nhưng theo Wikipedia phiên bản tiếng Hán, chúng tôi thấy chữ La Bặc được dùng để
chỉ ba loại khác nhau: Bạch La Bặc (củ cải trắng), Thanh La Bặc (củ su hào) và
Anh Đào La Bặc (củ radish, ta thường gọi là củ giền, hay củ La Đì). Do trong đoạn
dưới ông Nhiếp Vân Đài nói dùng La Bặc để giảm tính khô nóng của các vị thuốc
nên chúng tôi dịch là củ Radish vì củ cải trắng quá hàn và hạt củ cải trắng lẫn
hạt su hào đều có chất độc có thể gây chết người, có lẽ không thích hợp để chữa
bệnh ho.
[61] Tỳ Bà
(Japanese plum, Loquat - Eriobotrya
Japonica), còn gọi là Lô Quất, thường thấy ở Trung Hoa và Nhật Bản, là một loại
cây thân mộc, xanh tươi quanh năm, lá to xanh thẫm, bóng mướt, mặt dưới lá nâu
nhạt, thuôn dài như hình dáng giống thân đàn tỳ bà, hoa có mùi thơm ngọt, năm
cánh, sắc trắng. Trái có hình bầu dục hoặc thuôn như trái lê, mọc thành chùm,
dày đặc, sớ thịt của trái Tỳ Bà hơi giống thịt trái lê, có vị ngọt nhẹ, hơi
chua.
[62] Bách Luyện
Mật: Mật ong được đun sôi riu riu cho bốc hơi bớt chất nước, nhằm cô đặc lại.
[63] Một Tiền
3,73 gram, một Tiền gồm 10 Phân. Như vậy, hai Tiền năm Phân là 2,5 x 3,73 gr =
9,325 gram.
[64] Nguyên văn
là Táo, ý nói người bệnh uống vào cảm thấy nóng, bức rức, uống nhiều nước vẫn
thấy khát, ta thường gọi là “khô háo”.