Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
Quyển Hạ
Phần 5
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo Chánh: Tịnh nghiệp hành nhân Minh Tiến & Huệ Trang
IV. Tụng Tán
(phụ thêm phần kệ)
1. Phật Bảo
Tán
Phật bảo khen ngợi
khôn cùng,
Từ trần kiếp[1]
trước chứng Đại Hùng,
Thường trụ Tịch Quang bi tâm sâu,
Hóa hiện độ quần mông[2],
Thuyết pháp khế cơ cùng khế lý,
Chấn động điếc - đui trong chín cõi,
Linh Sơn pháp hội nguyện tương phùng,
Thọ ký, rạng tông phong.
2. Pháp Bảo
Tán
Ngợi
khen Pháp Bảo khó lường thay!
Không - Hữu thể - dụng thảy trọn bày,
Mảy trần chẳng lập muôn đức trội,
Vô trụ tâm quang tỏa rạng ngời,
Chân - Tục cùng còn, cùng diệt mất,
Thế nào mới có thể tán dương?
Chứng đến chỗ không gì để được,
Ắt đáng xưng là Pháp Trung Vương.
3. Tăng Bảo
Tán
Tăng Bảo thật chẳng
thể nghĩ bàn,
Bổn - Tích thánh - phàm há dễ hay!
Ngài Văn Thù thầy bảy đức Phật,
Còn hiện tướng Hàn Sơn si ngây.
Phàm tăng tận lực tu Tam Học (Giới - Định - Huệ)
Gánh vác đạo Bồ Đề Như Lai.
Do vậy, hai khuôn mẫu rộng lớn,
Pháp đạo phàm - thánh mãi truyền trì.
4. Tán dương
tượng Phật Dược Sư
Mười hai đại nguyện
đức khó lường,
Xưng danh liền được thoát khổ ương,
Đến khi nghiệp tận tình không ấy,
Đông - Tây cõi giác vốn chân thường!
5. Dược Sư
Phật kệ
Dược Sư Như Lai
Lưu Ly Quang,
Thệ nguyện rộng sâu đời khó lường!
Hiển: sanh điều lành, nhóm phước khánh.
Mật: khiến diệt ác, tiêu họa ương.
Dẹp khổ: cốt sao sạch nhị tử[3],
Ban vui: muôn đức ắt phô bày.
Pháp giới thánh - phàm đều quy mạng,
Gội ân mau chứng được chân thường.
6. Tán dương
tượng Phật A Di Đà
Bốn mươi tám nguyện
độ chúng sanh,
Nghịch ác hướng lòng cũng tiếp nghênh,
Xen trộn đúng - sai không chọn lựa,
Vì thương những kẻ Phật chưa thành.
7. Tán dương
kinh tháp Phật A Di Đà
Bảo tháp nguy nga
tột hư không,
Vô biên pháp tạng
chứa vào trong,
Cực Lạc trang
nghiêm đều hiện trọn,
Di Đà quang thọ vẹn
hình dung,
Sáu phương chư Phật
thường ca ngợi,
Chín giới chúng
sanh trọn hướng lòng,
Một câu sáu chữ hồng
danh gọn,
Quy căn kết đảnh thật mênh mông!
8. Tán dương
tượng Tây Phương Tam Thánh
Tam Thánh vô tâm đều
đã chứng,
Vô tâm ứng trọn hữu
tâm nhân,
Dẫn khắp chúng
sanh về Cực Lạc,
Thân - tâm trọn
không, chẳng dấu hằn.
9. Tán dương
tháp Đa Bảo
Đa Bảo Như Lai,
Vì thỏa nguyện xưa,
Hiển trọn Thật Tế,
Hiện tháp vọt lên.
Hiển Bổn để làm khuôn mẫu lớn,
Mọi kẻ thấy nghe lên bến kia.
10. Tán
dương tượng Quán Thế Âm Bồ Tát
Khắp trần sát cõi
thảy hiện thân,
Thương nhất Sa Bà
lũ thế nhân,
Hễ còn ai đó chưa
thành Phật,
Tầm thanh cứu khổ
chửa nguôi lòng.
11. Kệ tán
dương Quán Thế Âm Bồ Tát
Quán Âm thệ nguyện
diệu khôn lường,
Cảm ứng tùy cơ há
trễ tràng!
Cứu khổ tầm
thanh: từ hút sắt[4],
Hiện thân thuyết
pháp: nước in trăng,
Cứu vớt muôn sự
trần sát cõi,
Sa Bà càng nặng tấm
lòng Từ,
Ân sâu hết kiếp
khen sao trọn,
Che chở quần manh
khắp xót thương.
Quán Âm thệ nguyện
thật mênh mông,
Độ mọi chúng sanh
lìa cõi khổ,
Hưng khởi từ bi
khắp sát trần,
Phổ Môn mỗi mỗi đều
thâu nhiếp,
Nay ứng hiện khắp
băm hai thân,
Khiến chúng rốt
ráo chứng tâm Phật,
Cung kính thường
xưng niệm Quán Âm,
Cát khánh thường
hưởng, chướng dứt bặt.
12. Kệ hồi
hướng cho Quán Âm Thất
Nguyện do công đức
trì tụng này,
Liền cảm được Đại
Sĩ gia bị,
Tiêu trừ ta - người
nghiệp xưa nay,
Thiện căn ta - người
cùng tăng trưởng,
Bao kiếp giữ mãi
Đại Sĩ tâm,
Khắp cõi thường
hành Đại Sĩ sự,
Gây tạo lợi ích tột
vị lai,
Khiến mọi hữu
tình chẳng họa hại.
Nguyện do công đức
này,
Tiêu trừ nghiệp
xưa - nay,
Tăng trưởng mọi
phước huệ,
Viên thành thắng
thiện căn,
Tất cả đao binh
kiếp,
Cùng với nạn đói
khát,
Đều bị diệt trừ sạch,
Thế giới mãi
thanh bình,
Mưa gió thường
thuận hòa,
Nhân dân đều an ninh,
Pháp giới các hàm thức,
Cùng chứng vô thượng đạo.
13. Kệ khánh
chúc Quán Âm
Đoan tọa Phổ Đà
thường nhập Định,
Chúng sanh hễ cầu,
trọn rủ lòng,
Muốn biết nghĩa cảm
ứng huyền diệu,
Xin nhìn trăng rọi
khắp muôn sông.
14. Sửa đổi
cho đúng bài kệ tán dương đức Quán Âm thường được lưu truyền trong cõi đời
Quán Âm Bồ Tát đức
tối ưu,
Chánh Pháp Minh
Phật chứng đã lâu,
Ân sâu lồng lộng
trùm muôn cõi,
Kim Phật vòi vọi
ngự trên đầu,
Nước bình cam lộ
gột trần cấu,
Hễ trần sát cảm,
trần sát ứng,
Vầng trăng in
bóng trọn muôn sông.
15. Tán
dương tượng Đại Thế Chí Bồ Tát
Như con nhớ mẹ siêng
niệm Phật,
Nhiếp trọn sáu
căn tai lắng nghe,
Vâng theo lời Đại
Sĩ khai thị,
Quả giác ắt khế hợp
nhân tâm.
16. Kệ tán
dương Đại Thế Chí Bồ Tát
Thế Chí Bồ Tát đức
vô biên,
Phù tá Di Đà thả
từ thuyền,
Cứu khổ hệt như
Quán Tự Tại,
Dẫn dắt về Tây tợ
Phổ Hiền.
Tu nhân dùng trọn
căn - trần - thức,
Chứng quả đều đạt
viên thông thường,
Nhiếp người niệm
Phật về Tịnh Độ,
Ân này muôn kiếp dễ
đâu quên!
Đại Thế Chí lợi
sanh sâu rộng,
Chuyên chú trọng
pháp môn Niệm Phật.
Như con nhớ mẹ nhớ
Thế Tôn,
Liền được gội
ngay ân đức Phật,
Khế hợp quả giác
lẫn nhân tâm,
Lập tức trở về với nguồn cội,
Nhiếp trọn sáu căn diệu khó lường,
Nguyện khắp chín giới thường vâng giữ.
17. Tán
dương tượng Địa Tạng Bồ Tát
Cao cả thay Đại Sĩ! Thệ nguyện rộng sâu, nghĩ thương
chúng sanh luân hồi kiếp dài lâu, vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên,
thường ở trong địa ngục để mong cứu kẻ bị treo ngược[5].
Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề, địa ngục chưa trống thề chẳng muốn thành Phật. Do nhân duyên ấy, chư Phật ngợi
khen. Huống chi những kẻ đang trong lục đạo há nên chẳng bi luyến? Hư không có
cùng tận, nhưng thệ nguyện vô cùng. Muốn báo ân sâu, riêng in tôn kinh. Nguyện
kẻ thấy nghe đều cùng sanh tịnh tín, lần lượt lưu truyền, lợi ích vô tận.
18. Kệ tán
dương Địa Tạng Bồ Tát
Đại Sĩ thệ nguyện
há thể lường,
Lòng bi trọn khắp
cõi vô ương,
Chúng sanh độ hết
mới xong thệ,
Địa ngục trống rồi
nguyện mới thôi.
Giáo hóa nhiều
người thành Phật đạo,
Tự thân vẫn hiện
tướng Thanh Văn,
Chúng sanh và Phật
tánh vốn một,
Cùng muốn ta người
chứng Pháp Vương[6].
Địa Tạng Bồ Tát đại
từ bi,
Thệ nguyện vĩnh
viễn chẳng hề hết,
Giáo hóa thành Phật
số khôn xiết,
Vẫn hiện oai nghi
bậc Thanh Văn,
Đến khi địa ngục
độ hết sạch,
Mới chịu thị hiện
chứng Bồ Đề,
Khẩn nguyện ban
ân khắp u - hiển,
Cùng theo hải hội
dự liên trì.
19. Kệ tán
dương Di Lặc Bồ Tát
Đấng
Bổ Xứ Từ Vô Năng Thắng[7]
Thường ngự Đâu Suất
diễn viên âm,
Hiện thân trần
sát nào ai biết?
Tâm cùng pháp giới
tự dung thông,
Dốc cạn kho tàng trong đãy vải,
Tươi cười bình đẳng ban thế nhân,
Nguyện cùng Di Đà thương tiếp dẫn,
Khéo trong ba hội[8]
chứng Nhất Chân.
20. Kệ tán
dương Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Văn Thù Bồ Tát đức
khôn lường,
Thành Phật Long
Chủng Thượng Pháp Vương,
Do thương chúng
sanh mê tự tánh,
Riêng giúp Thích
Ca mở đạo mầu,
Thầy bảy vị Phật
thể khôn thấu,
Mẹ chư Bồ Tát dụng
khôn ngằn,
Thường trụ Tịch
Quang ứng mọi cảm,
Muôn sông khắp hiện
bóng muôn trăng.
(Long Chủng Thượng Phật chính là danh hiệu khi ngài Văn Thù đã thành Phật trong kiếp quá khứ, hãy nên biết là vị Long Chủng Thượng Tôn Phật được nói trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội là vị khác).
Văn Thù phù tá
Pháp Vương,
Trí huệ chỉ Phật
suy lường được thôi,
Chấn hưng Viên Đốn
đạo huyền,
Người nghe tình
kiến bỗng nhiên mất liền,
Bồ Đề tràng hiểu
cội nguồn,
Ân quang nguyện gội
giống như Thiện Tài,
Rốt ráo chứng được
chân thường.
21. Kệ tán
dương Phổ Hiền Bồ Tát
Bồ Tát từ bi khó thuật
trần,
Thánh - phàm đều được chứng viên nhân,
Nhất tâm chẳng trụ, siêu các vị,
Mười nguyện dẫn về, nối Năng Nhân[9],
Tam thừa đều được khế quả giác,
Quần manh mau được thoát phiền trần,
Khăng khắng tuân lời răn thanh tịnh,
Chắc chắn đời này thấu bổn chân.
Đức Phổ Hiền hạnh nguyện sâu thẳm,
Khuyên người phát Bồ Đề đại tâm,
Dạy cho Tam Hiền, Thập Địa thánh,
Đều cùng được thấy Di Đà Tôn,
Mười đại nguyện vương nếu tuân giữ,
Lợi ích chỉ Phật kham tuyên bày,
Quả giác, nhân tâm cùng lặng bặt,
Pháp Thân thanh tịnh chứng lên ngay.
22. Kệ tán
dương Trí Tích Bồ Tát
Lâu xa hầu Đa Bảo,
Đến lễ Thích Ca
Tôn[10],
Dạo khắp sát trần
Phật quốc độ,
Riêng thương chúng
sanh cõi Sa Bà,
Tượng vẽ hiện oai
thần.
Xiển dương Phật hóa đời Lương,
Muốn cho tể tướng triều Đường kính tin.
Hiện
thân Sư trị bệnh người,
Đại điện được
bóng tháp ngời rợp che,
Bí tạng của đức Như Lai,
Ai lên nơi đó tức thời hiểu ra,
Giếng đào trên đỉnh non xa,
Uống vào Bát Nhã đạo huyền đều thông.
Tranh ngài vẽ tướng đang ngồi,
Dợm mình như thể sắp dời chân đi.
Trực chỉ pháp Bất Nhị,
Tuy chẳng phải
đích tổ[11],
Truyền tâm chùa
Linh Nham,
Quả thật là khách
quý,
Trong biển khổ độ
sanh.
23. Tán
dương Trí Tích Bồ Tát
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Xét nghĩ Bồ Tát,
bi trí rộng sâu, ở phương dưới thường hầu Đa Bảo Phật, thị hiện dấu tích khắp
trần sát, hiện thân nơi tượng vẽ, Linh Nham đạo trường tồn.
24. Tán
dương Tịnh Độ Tổ Đường
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
Một tông Tịnh Độ khởi nguồn từ đức Phổ Hiền, Viễn công
nối tiếp nguồn pháp ở Chấn Đán, trong - ngoài rộng lưu truyền, khiến cho khắp mọi
phàm - thánh chứng Niết Bàn ngay trong đời này.
25. Tán
dương tượng Viễn Công đại sư
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Xét nghĩ Viễn
Công, thừa nguyện tái lai, sáng lập Liên Tông, thỏa Phật bổn hoài, khiến các
phàm - thánh nhớ niệm Phật danh, cậy Phật từ lực
đới nghiệp vãng sanh. Bậc đã đoạn Hoặc liền chứng Vô Sanh. Bậc chứng Vô Sanh
mau tròn Phật quả. Dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cảm ứng đạo giao lợi ích
thật sâu. Chưa thấy kinh Niết Bàn đã tuyên giảng [Phật tánh] thường trụ, chưa đọc
phẩm Hạnh Nguyện đã khuyên khắp mọi người về Tây, lập ra được pháp ngầm hợp ý
kinh. Bậc hộ pháp Bồ Tát thể hiện sự đại giác của chính mình. La Thập dâng kinh
càng thêm tán thán sâu đậm. Tăng sĩ Tây Vực sanh
lòng ngưỡng mộ, tâm hương liền dâng. Hơn ngàn năm qua, chẳng được nghe viên âm.
May còn di giáo để hòng noi theo. Kính nguyện thầy ta, sẽ lại thị hiện giáng
sanh, dẫn khắp quần luân cùng lên cõi Ngũ Thanh[12].
In di cảo của Ngài để mô tả chân dung đạo pháp của Ngài, hòng kẻ thông sáng mai
sau sẽ bắt chước theo.
26. Tán tụng
mười hai vị Tổ của Liên Tông
1) Sơ Tổ
Đông Lâm Lô Sơn Huệ Viễn đại sư đời Tấn
Dùng pháp đặc biệt
vĩnh viễn làm khuôn phép cho đời, ý chỉ ngầm hợp với phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện,
lưu thông khắp trong ngoài nước, khiến cho kẻ tầm thường lẫn bậc cao nhã giải quyết đại sự xong xuôi ngay trong đời này.
Mở nguồn Liên
Tông khiến Trung Hoa được phước, thỏa thích bổn hoài của Phật, lập phương tiện,
viên âm vừa được xiển dương, sĩ phu đều về với Lô Sơn, đại pháp sắp hoằng khai,
[sơn thần hiển thần thông chuyển vật liệu xây dựng] Thần Vận Điện, hết thảy
pháp môn lưu xuất từ đây, hết thảy hạnh môn được thực hiện từ đây, khiến cho
các tông đều quy hướng, muôn sông đổ về biển, nương theo hạnh nguyện.
2) Nhị Tổ
Trường An Quang Minh Thiện Đạo đại sư đời Đường
Sư sống vào đầu đời
Đường, các tông đều hưng thịnh, đề xướng Tịnh Độ thỏa lòng mọi người, Phật lực ai
dám sánh bằng? Nếu chịu gieo lòng thành, Tây Phương quyết định vãng sanh.
Đời truyền tụng Sư là
Phật A Di Đà thị hiện, đề xướng giáo nghĩa niệm Phật trọn vẹn, phong phú, thiết
tha răn người học phải khiêm nhường, cũng như phải cực lực ưa - chán[13];
về mặt Giải phải thông thạo hết thảy pháp, nhưng về Hạnh chỉ chọn lấy một pháp
vừa khế cơ khế lý. Niệm Phật tỏa hào quang khích lệ đại chúng, hãy nên xem lời
Ngài như do chính đức Phật nói.
3) Tam Tổ
Thân gầy mặt bẩn,
hầu bên Di Đà. Thần thức ngài Pháp Chiếu du hành [đến cõi Cực Lạc] vãng cãnh[14],
Phật chỉ ngôi đình ghi danh ngài [Thừa Viễn], môn đình từ đấy được kế tục, tâm
pháp vĩnh viễn truyền dương.
Ban Châu[15]
khổ hạnh đời khó thể chịu đựng được, nhịn cơm dùng bùn đất làm món ăn, thường
đem những điều trọng yếu trong kinh và danh hiệu Phật ghi khắp trên các lối
ngõ, đá núi. Niệm Phật, Phật dạy pháp đặc biệt, kẻ đến học dùng pháp ấy để an
cái tâm, thiên tử nghe tên hướng về Nam vọng bái, vì thế đạo phong lưu truyền bốn
biển.
4) Tứ Tổ Ngũ
Đài Trúc Lâm Pháp Chiếu đại sư đời Đường
Xét nghĩ Tứ Tổ đức
cao đẹp đáng khâm phục, được Phật, thầy chỉ dạy cõi Cực Lạc, đức Văn Thù dạy
túc nhân, khiến cho khắp mọi người thấu đạt bổn chân ngay trong đời này.
Tại Hành Châu[16]
thấy được thánh cảnh trong bát, mỗi điều đều đích thân tạo dựng nơi non Ngũ
Đài. Nơi Tịnh Độ được thấy sư Thừa Viễn. Tại Trúc Lâm[17]
cung kính nhận lãnh lời ngài Văn Thù dạy dỗ. Tiếng niệm Phật vang khắp ngã đường
Tinh Châu. [Đường] Đại Tông sai sứ dâng chiếu thỉnh: “Niệm Phật rốt ráo mầu nhiệm
như thế nào?” [Sư đáp]: “Khiến được mau
thành đạo Bồ Đề”.
5) Ngũ Tổ
Tân Định Ô Long Thiếu Khang đại sư đời Đường
Tránh bàn đến thế
đế, nên đã bảy tuổi vẫn chưa nói. Thốt lời bèn kinh động trời người. Rộng kết
duyên Tịnh Độ, cho tiền trẻ nhỏ, ai nấy đều gieo chín phẩm sen.
Lên bảy tuổi trọn
chẳng thốt một lời, thốt lời liền xưng danh hiệu Thế Tôn. Vừa đọc bài Tây
Phương Văn của ngài Thiện Đạo liền biết Tịnh Độ là nơi đáng nương tựa, đem tiền
dụ trẻ niệm Di Đà, chưa lâu sau tiếng niệm Phật vang khắp nẻo đường. Niệm Phật,
tượng Phật từ miệng bay ra, có ai thấy nghe chẳng tuân theo lời dạy?
6) Lục Tổ
Hàng Châu Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đời Tống
Một bộ Pháp Hoa, một
trăm lẻ tám Phật sự, bốn thứ liệu giản lợi lạc kẻ ngu lẫn người thông sáng,
muôn điều thiện xét suy, mong siêu bạt trọn khắp, vãng sanh cõi Cực Lạc.
Thấy các chúng
sanh đều là Phật, chỉ nghĩ cứu sanh mạng quên luật nước. Bị giải ra chợ [hành
hình] tâm vui vẻ[18],
sắc mặt chẳng đổi, được xá tội liền thỏa nguyện xuất gia. Công khóa mỗi ngày là
“một trăm lẻ tám Phật sự, tụng một bộ Pháp Hoa, niệm Phật mười vạn tiếng”. Nếu
chẳng phải là bậc Đại Quyền thị hiện trong thế gian, ai có thể dựng được pháp
tràng như thế?
7) Thất Tổ
Hàng Châu Chiêu Khánh Tỉnh Thường đại sư đời Tống
Hâm mộ đạo Lô
Sơn, nối gót liên xã, trích máu biên chép phẩm Tịnh Hạnh, tể tướng [Vương Đán] theo
về dưới tòa. Một trăm hai mươi vị chí hướng lớn lao, cao nhã, nguyện phỏng theo
các ngài Long - Mã (Long Thọ, Mã Minh) [vãng
sanh].
Hâm mộ đạo phong Lô Sơn lập tịnh xã, do vì đời sau ít
người thực hành, liền tùy theo sự việc mà phát thệ một trăm bốn mươi mốt nguyện
để ai nấy đều được an trụ nơi Bồ Đề. Tể tướng Vương Đán đã quy y, công khanh một
trăm hai mươi người được un đúc. Tuy trong Diêm Phù phò tá cơ đồ nhà vua, vẫn
chẳng bằng vãng sanh cõi Cực Lạc hưởng phước nhà Phật.
8) Bát Tổ
Hàng Châu Vân Thê Châu Hoằng đại sư đời Minh
Vừa trụ tại Vân
Thê đã chấm dứt được nạn hổ. Lúc hạn hán, [dân chúng] cầu thỉnh, [Sư] niệm Phật
mưa liền tuôn xuống thỏa lòng dân mong mỏi. Thôn dân đều cảm thán, sắm gỗ lo liệu,
đạo tràng được trùng hưng.
Thuở nhỏ nghe niệm
Phật ý đã quyết, về sau răn môn đồ đừng làm trò quái gở[19],
hạnh là khuôn mẫu cho thế gian, lời lẽ là pháp tắc cho cõi đời. Chú trọng Tịnh
Độ và quy giới. Chống đỡ sóng cuồng thật khế lý, khế cơ. Xiển minh Phật tâm, đuổi
ong, rết. Khiến cho khắp mọi phàm phu đầy dẫy triền phược cậy vào Phật từ lực,
lên cõi sen.
9) Cửu Tổ Bắc
Thiên Mục Linh Phong Trí Húc đại sư đời Thanh
Ngay từ nhỏ đã
tin Phật, theo mẹ lễ tụng, đến lúc đi học theo đạo Nho liền phóng túng, đọc bộ
Trúc Song Tùy Bút[20]
bèn tự trách, tận lực hoằng dương Đại Thừa, mong cho mọi người cùng thoát khỏi
hầm bẫy.
Tông thừa giáo
nghĩa thảy dung thông. Sở ngộ giống hệt như Phật chẳng khác biệt. Hoặc nghiệp
chưa đoạn thì [giống như] bát đĩa [chưa nung], gặp mưa liền rã, uổng công lao
đã [tu tập] từ trước. Do vậy, tận lực tu hạnh Niệm Phật. Quyết muốn trong đời
này thoát khỏi bẫy lồng. Rát miệng thiết tha khuyên người học đạo, có sanh về
được Tây Phương thì mới có thể kế thừa đấng Đại Hùng.
10) Thập Tổ
Ngu Sơn Phổ Nhân Hành Sách đại sư đời Thanh
Xiển dương Tịnh Độ,
khẩn thiết ít ai bằng, dùng lòng tín nguyện sâu để dốc cạn lòng thành tu tập.
Tâm và Phật đôi bên khế hợp, muôn niệm đều dứt, quyết định thoát gò khổ.
Hám Sơn nguyện
xưa chưa làm trọn, nên lại thị hiện giáng sanh làm Triệt Lưu[21],
quở trách “kẻ tu phước cõi trời đúng là bọn
Xiển Đề, Chiên Đà La[22]”.
Tâm tánh của Phật và ta vốn chẳng khác. Phật là đã thành, ta chưa tu. Muốn được
tâm và Phật đều không sai khác, hãy nên cầu nơi “nhớ Phật, niệm Phật!”
11) Thập Nhất
Tổ Hàng Châu Phạm Thiên Thật Hiền đại sư đời Thanh
Bốn mươi tám nguyện,
kính phỏng theo Di Đà, một trăm lẻ tám bài thơ hay hơn Sở Ca[23],
người nghe chán Sa Bà, khiến kẻ chần chừ phấn khởi chứng Ba La Mật Đa.
Thâm nhập kinh tạng
rất khó khăn mà Ngài đích thân chứng được, triệt ngộ tâm rồi tận lực hoằng
dương Tịnh tông. Muốn cho người đời biết nguyên do, viết văn làm thơ nêu bày Phật
lệnh: “Phát tâm Bồ Đề để dẫn đường, chân
tín nguyện hạnh làm đường lối thực hiện. Nếu đầy đủ được những pháp thù thắng ấy,
sẽ siêu phàm nhập thánh ngay trong đời này”.
12) Thập Nhị Tổ Hồng Loa Tư Phước Tế Tỉnh đại sư đời Thanh (tức Triệt Ngộ đại sư)
Thông trọn kinh sử,
mong làm người hướng dẫn cho cõi đời, vừa bị bệnh liền biết [thông thạo kinh sử]
chẳng thể nương cậy được, nghiên cứu chỗ uyên áo của các tông, thấy đều khó chứng
được, bèn chuyên chú nơi giáo pháp Tịnh Độ.
Pháp ngữ dạy đại chúng
lợi ích rất nhiều. Kệ niệm Phật thảy bao la. Toàn chân biến thành vọng chỉ do
tâm này. Toàn vọng biến thành chân cũng chẳng có gì khác. Bất biến tùy duyên
nên tùy tịnh, tùy duyên bất biến chớ thuận theo sai ngoa. Nếu ai nấy y theo
nghĩa này để tu trì thì quang thọ sẽ giống như đức Di Đà.
27. Tán
dương tượng Triệt Ngộ thiền sư
Bậc tuấn kiệt
làng Nho, đấng khôi hùng cửa Phật, sư tử hùng mạnh nơi hang Thiền, rồng thần
nơi biển Giáo, nghiên cứu Từ - Hiền[24]
nhưng hoằng dương giáo pháp Thiên Thai, trụ trì chùa Thiền thổi gió sen, chỉ
mong khế cơ cùng khế lý, chẳng tính môn đình là dị hay đồng, nêu tỏ ý nghĩa “làm
Phật, là Phật”, phá sạch sự tối tăm chấp lý phế sự, đang lúc tà thuyết tung
hoành trong đời ác này, kẻ nhỏ nhoi, người có địa vị lớn lao không đâu chẳng
noi theo!
28. Tán
dương tượng Đạt Ma Tổ Sư
Đặc biệt từ trời
Tây đến đây truyền Phật tâm, Đông Độ vốn nhiều kẻ căn cơ Đại Thừa. Sau đấy một
chiếc dép trở về Tây[25],
con cháu khắp cõi rền tiếng huyền diệu.
29. Tán
dương tượng Tế Công thiền sư
Nhằm khơi gợi
lòng chân tín nguyện cho chúng sanh, nên hiển lộ đủ mọi đại thần thông, chẳng
giả khùng điên để che mắt mọi người, làm sao trụ mãi trong cõi đời để đánh động
bọn điếc - đui?
30. Ca tụng
Túy Bồ Đề, Bồ Đề
túy. Kẻ vô trí chớ theo đuổi. Nếu nhận lầm phương hướng, muôn kiếp thường đọa lạc
Nê Lê[27].
Nguyện người học khéo phân biệt: Thuận tâm nghịch tích[28]
là phương cách tối thượng, [nhưng] nếu không có mắt chọn lựa pháp chân chánh,
chắc chắn sẽ bị tổn hại không lợi ích.
31. Tán
dương bài ký “hình Phật hiển hiện trên răng lợn” của ông Lưu Công Lỗ ở Quý Trì
Hết thảy chúng
sanh, đều có Phật tánh. Do mê trái nên đánh mất lẽ chánh, khởi tham - sân - si,
tạo giết - trộm - dâm, ăn thịt kẻ khác để bồi bổ cái thân mình. Sát nghiệp đã kết,
trải nhiều kiếp giết lẫn nhau. Đức Như Lai thương xót, bèn làm thuyền từ, khơi
mở giáo huấn lớn lao về lòng Từ. Người ta vẫn không tin nên Phật bèn đặc biệt
hiện hình dáng để mong chúng sanh tùy thuận [lời Phật dạy]. Vỏ nghêu sò, hông
bò, móng dê, răng lợn, yếm rùa, đều có hình Phật ngự [trong
đó]. Có người họ Chức vào đời Tống giết lợn quăng đầu, chó giữ [đầu lợn]
bốn ngày chẳng dám táp. Đuổi chó chẻ xương, trên răng hàm lợn hiện hình Phật. Mắt
biếc, búi tóc xoắn ốc, nghiễm nhiên là bậc Đại Giác. Trước khi chưa giết, [mọi
người] đều nói là “súc sanh”, đã giết xong mới biết là Phật. Do vậy, biết sát
sanh chẳng khác gì giết Phật, dẫu chẳng phải do Phật hiện thì cũng là vị lai Phật.
Giết để ăn thịt, tội quá non biển! Hãy gấp đau đáu ngăn dè, hòng được giải
thoát!
Anh em họ Triều làm văn tán dương, nghĩa lý uyên thâm,
văn từ sáng đẹp, ông Thiên Trì biên chép, các vị đề tựa, viết lời bạt, để làm
bài cảnh sách vĩnh viễn nhằm khơi gợi hậu giác. Đã hiểu nghĩa này, ai dám giết
chóc? Tranh thành, giành đất sẽ chấm dứt ngay. Ông Lưu ở Quý Trì, dốc lòng tin
tưởng Phật pháp, bảo tồn sách của ông Từ, lời đề tựa, lời bạt đều phù hợp, sai
con là Công Lỗ đem đưa cho xem, liền kính viết mấy lời tỏ bày chí hướng của
tôi. Nguyện kẻ thấy nghe sẽ ăn chay kiêng giết, chắc chắn trong đời này sẽ về cõi
Cực Lạc.
32. Tán
dương tượng Niệm Thành đại sư
Nghĩ tới đức lớn
của Ngài, ước mong khôi phục Linh Nham, sau cơn tai kiếp một mình ở trong lòng
tháp, gặp được ông Bành lên chơi núi, hứa tra xét ruộng đất của nhà chùa, dần dần
trở thành chốn danh lam.
33. Bài ca tụng
nhân dịp Cô Nhi Viện tại Thượng Hải khánh thành nhà mới
Giúp đỡ cô nhi, tài
cao chót vót. Nếu chẳng cứu giúp, sống bằng cách nào? Đã được nuôi dạy, chánh
khí ắt thành. Hoặc là công, thương, học hành, cày cấy, là hiền, là thiện, tốt
lành, thuần thục, chăm giữ đạo nghĩa, tuy hèn vẫn vinh. Huống chi chẳng ít anh
tuấn lỗi lạc. Do vậy biết rằng: Nuôi dạy cô nhi, lợi ích sâu rộng, lời ông Tử
Dư thật đã nghĩ chín, chỉ nguyện người nhân, cùng sẵn từ bi, nhà viện tuy
thành, nhu cầu vẫn thiếu, ai nấy ra tay, giúp cho hoàn thành. Thương con của
người, con ta ắt nhờ. Hiền thiện tiếp nối, nêu gương cho đời, lợi người, tự lợi,
nhân quả như thế, chớ nên chẳng tin. Lời Phật chẳng dối!
34. Ca tụng
pháp môn Tịnh Độ thù thắng
(chỉ do pháp môn này thù thắng mà bà Trí Nghi được vãng sanh)
Pháp môn Tịnh Độ
dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí - ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết
thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực,
Phật lực khác biệt tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh
về nước Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời
thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình: Nữ sĩ Trí Nghi tâm niệm Phật tha thiết, niệm
chưa được mấy năm đã được Phật đón tiếp. Nguyện người thấy nghe ai nấy chăm chú
tu trì, để dự vào hội Liên Trì, vui sướng nào hơn!
35. Ca tụng
chuyện sanh Tây của cư sĩ Từ Úy Như
Cao cả thay ông Từ!
Xưa đã trọn đủ huệ căn, hiếu hữu, nhân từ, tận hết bổn phận, trọn vẹn luân thường,
nghiêm cẩn tuân theo lời tổ tiên giáo huấn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu hạnh
niệm Phật, mong sanh cõi Tịnh. Tuổi trung niên tận lực đảm nhiệm việc khắc in
kinh điển để nối tiếp huệ mạng của Phật hòng giúp cho cả Mật lẫn Hiển. Thời cuộc
chẳng yên, càng ưa - chán thiết tha, nương nguyện về Tây, đại sự giải quyết
xong, được Phật thọ ký, liền trở lại Sa Bà, tiếp dẫn khắp hàm thức cùng thân cận
Di Đà.
36. Ca tụng
đức cao đẹp của ông Sa Tuyết Phảng
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Cao cả thay cụ
Sa, túc căn rất sâu, hiếu hữu nhân từ, cả làng cùng khâm phục, tuổi đã tám mươi
mới tu Tịnh Độ, phát trọn ba tâm, mong sanh Thượng Phẩm, tâm sẵn có, tâm tạo
tác, tâm làm, tâm là. Giải lẫn hạnh đều viên dung, Lý - Sự nhất trí. Vì thế,
khi lâm chung được an nhiên qua đời, đỉnh đầu ấm, vẻ mặt rạng rỡ, để biểu thị
đã thật sự đến được [Cực Lạc].
37. Ca tụng
chuyện quy Tây của cư sĩ Khuất Tử Kiến
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Phật tâm và chúng
sanh tâm, về bản thể vốn chẳng hai. Do nhân duyên mê - ngộ nên [tâm] chẳng khác
mà [tướng] thành sai khác. Nếu chịu trái nghịch trần lao, kiêm trì thánh hiệu
Phật, hễ được vãng sanh Tây Phương thì sẽ đích thân đến được bờ giác. Cao đẹp thay
ông Tử Kiến! Túc căn thật sâu, thác sanh vào gia đình đời đời thiện lương, giữ
tấm lòng trung hậu, khoan dung. Chuộng nghĩa, khinh tài, thân - sơ đều bình đẳng
quan tâm. Có tư cách lỗi lạc, nhưng chuyên trọng niệm Phật. Tịnh nghiệp đã chín
muồi, biết trước lúc nào sẽ đi, quyến thuộc đều nhất tâm niệm Phật tương trợ.
Vì thế, được nương nhờ Phật lực vãng sanh cõi Cực Lạc. Di tướng[29]
càng thêm rạng rỡ, ai nấy đều khen là lạ lùng, đặc biệt. Các hành nhân đời Mạt
muốn thoát khỏi bẫy sanh tử, chỉ có một pháp Niệm Phật là có thể dự vào bậc
thánh trong đời này. Nêu toát yếu đại lược hòng lưu lại vĩnh viễn cho con cháu,
mong ai nấy đều noi theo đức của người xưa thân cận Di Đà Thế Tôn.
38. Ca tụng
đức cao đẹp của cư sĩ Trương Miện Đường
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Cao đẹp thay ông
Miện Đường! Thừa nguyện thị hiện giáng sanh. Đang trong lúc kiếp nạn ngập trời
này, biển cả, đất liền đầy dẫy cọp, kình, nhân dân bị nuốt cắn, phát tâm dẹp
cho yên. Do vậy, vào quân ngũ, dùng đức giáo hóa binh lính, lấy nhân nghĩa làm
vũ khí, dùng nhân quả làm lũy thành. Phàm đóng quân chỗ nào, tiếng khen ngợi
vang rền truyền đến đất Tô. Trừ bạo, an dân lành, hoằng pháp độ hữu tình, ma
tà, ngoại đạo đều dẹp yên, Phật nhật được chiếu rạng. Chán nghiệp võ theo nghề
văn. Sắt - cầm thường trỗi tiếng. Giảm bớt sự phiền toái trong việc cai trị nên
được nhiều lúc rảnh rỗi. Niệm Phật có chương trình nhất định. Dùng móng tay vẽ
tượng Tam Thánh, tinh diệu khôn sánh tầy. Phàm có ai thấy nghe, tâm đều hướng về
Cực Lạc. “Tâm làm Phật là Phật”, Quán Kinh nghĩa rộng sâu. Sự thế gian, xuất thế,
đều lấy gốc nơi lòng thành, nguyện khắp người mọi giới, nghe phong thái đều dấy
lòng hành theo, ngõ hầu từ nay trở đi thiên hạ thường thái bình.
39. Ca tụng
hạnh cao đẹp của cụ bà họ Từ, mẹ ông Châu
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Cao đẹp thay Châu
mẫu! Xưa có huệ căn, thờ mẹ nuôi em, tiếng khen rộn xóm làng. Gả về nhà ông
Châu, giúp chồng làm điều nhân, sửa đổi nghề nghiệp trước, lòng Từ không ai bằng.
Trông nom gia đình, dạy con, buôn bán, làm lành, phàm tính toán những gì đều hợp
tình lý, lòng mong lợi lạc, giúp người, tài lẫn pháp cùng thí. Xót thương chỉ dạy,
không điều nhỏ nhặt nào chẳng quan tâm đến. Những gì cụ tích tụ [cho riêng
mình] suốt cả một đời, chỉ chứa được đầy tráp. Xét về đạo Nho, hạnh của cụ phù
hợp với lẽ Đại Đồng, xét nơi đạo Thích, hạnh cụ khế hợp pháp Tứ Nhiếp. Phong
thái cao đẹp của hai bà Phi, ba bà Thái vẫn chưa mất; cho nên viết đại lược để
nêu gương cho người sau.
40. Ca tụng
liệt nữ Trương San Trinh
Chánh khí trong
trời đất, được con người thực hiện rộng rãi.
41. Ca tụng
hạnh đẹp của cư sĩ Trình Chí Bằng ở Vụ Nguyên
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Sanh trong đời
nay mà hành đạo xưa. Nêu gương cho làng ấp. Giữ chí khí, tiết tháo của Liêm Lạc[31].
Tin sâu Phật pháp, chẳng tập tành lỗi lầm “trong lòng tuân phụng ngoài mặt chống
trái” [của bọn Trình - Châu]. Nguyện sanh về Liên Bang, lúc mất được cảm ứng đạo
giao thù thắng. Ôi! Con người như vậy là trụ đá giữa dòng chảy, là hướng dẫn tốt
lành trong đường mê. Do vậy bèn viết đại lược để bảo với người thông sáng đời
mai sau.
42. Bài ca tụng
nhân dịp minh thọ[32]
trăm tuổi của cụ Tề Dữu Nam và Kim phu nhân
Ông Tề hiếu hữu đức
siêu quần, phu nhân càng giúp nêu gương thơm. Chớ bảo bình sinh lo buôn bán, phải
biết toàn thân đầy học thức. Học thức ấy thật sự có thể lưu tiếng thơm suốt cả
một đời. Tiếc chưa được nghe Phật pháp, ngộ nguồn tâm. May có con cháu vừa hiền
vừa hiếu, cầu siêu mong cha mẹ được sanh về cõi trời Cực Lạc. Cực Lạc vui sướng
khôn lường! Luôn được đích thân chầu hầu bậc cổ Giác Hoàng[33].
Chứng Vô Sanh Nhẫn nương Bi nguyện, riêng đến cõi này làm thuyền Từ. Thuyền Từ
thả trong biển khổ, khiến cho khắp mọi người về Tây bỏ Đông. Đến ngày tự lợi lợi
tha đều viên mãn, sẽ trong pháp giới xưng Đại Hùng.
43. Bài tụng
hồi hướng cho khắp mọi người trong hiện tại ấn tống và vĩnh viễn lưu truyền Văn
Sao
(năm Dân Quốc 16 - 1927)
Pháp môn Tịnh Độ
là pháp giới tạng, khế cơ và khế lý, thật là vô thượng. Bậc Đẳng Giác đại
thánh, kẻ nghịch ác tiểu phàm, Luật - Giáo - Thiền - Mật, đều khắp bao hàm. Mười
phương chư Phật hết kiếp tuyên dương vẫn khó nói trọn diệu nghĩa, công huân lạ
lùng. Huống chi tôi là kẻ tầm thường phàm tục, ngẫu nhiên nêu tỏ được một hạt bụi
trong cõi đất, một giọt nước trong biển cả, thật quá nhỏ nhoi! Tự lượng kém
hèn, nếu chẳng phải đức Phật sẽ không thể độ được, cũng có những người cùng chí
hướng chỉ chuyên chú nơi chuyện này; do vậy mới có đủ mọi thứ lời lẽ hủ bại.
Giãi bày lòng ngu thành, chứ nào phải hoằng dương Tịnh Độ! Do các cư sĩ nghĩ những
lời lẽ ấy có lợi cho hàng sơ cơ, ấn hành nhiều lượt để mong [hàng sơ cơ] có chỗ
nương tựa. Có ông Diệp Đức Quảng bỏ ra ba ngàn đồng, tính để làm ấn phí mong
sách được lưu truyền rộng rãi. Trong tháng Tám, thành Thiểm Tây bị vây hãm, [tình
thế] rất đáng buồn, cầu cứu giải vây, liền dùng hết số tiền ấy để cứu đói. Phàm
có các thiện sĩ tùy ý quyên góp giúp đỡ, [ấn tống] năm ba ngàn bộ, vẫn gom
thành đủ số. Nguyện những người bỏ tiền và những ai đọc tụng đều tiêu trừ nghiệp
chướng, tăng cao nền phước, cửa nhà yên vui, thân tâm bình yên, mạnh khỏe, sống
dự vào bậc thánh, thác về Tây Phương. Tổ tiên đã khuất, oán thân bao đời, đều
nhờ lòng Từ của Phật mà chứng được diệu tâm vốn có. Can qua vĩnh viễn chấm dứt,
lễ nghĩa nhân nhượng thịnh hành, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình, trọn báo
tứ ân, giúp đều ba cõi, pháp giới chúng sanh cùng chứng Bồ Đề.
Phụ Lục:
Toa thuốc thần
hiệu Bạch Phàn[34]
Cứu Mạng
(Bạch Phàn còn gọi là Minh Phàn hoặc Phàn Thạch)
Phàm ăn nhầm hà đồn[35]
hoặc hết thảy những món độc khác, hoặc do sự việc [trái ngang] bức bách, ý muốn
coi rẻ mạng sống, toan tự tận, nuốt nha phiến, tỳ sương, đằng hoàng[36],
hết thảy những thứ có thể hủy hoại tạng phủ con người khiến cho con người mất mạng,
tức những thứ được đặt tên là độc vật và uống lầm những loại thuốc độc v.v… đều
có thể dùng một cục bạch phàn nghiền nát, dùng nước sôi hòa tan, hòa thêm chừng
mấy chén nước lạnh, cốt sao nước phèn vẫn giữ được tánh chất, mùi vị chua rít đậm
đặc là được. Liền bảo người bị nạn uống mấy chén nước phèn ấy, chưa đầy một khắc
đồng hồ, sẽ ói hết sạch những thứ độc vật đã ăn vào, liền bảo toàn được tánh mạng.
Nếu như ăn phải chất độc thời gian quá lâu, đổ nhiều
nước phèn cho lọt vào bụng cũng vẫn có thể cứu chữa được! Dẫu cho tạng phủ đã bị
hư hoại, cứu vãn không kịp, cũng không có hại gì. Xét ra, bạch phàn tánh mát, vị
chua rít, giải được các chất độc, vì thế rất thích hợp. Cũng có thể dùng bài
thuốc này để chữa trị chứng hoắc loạn (bệnh dịch tả). Bài thuốc này do y sĩ
Phùng Văn Phù ở Thiên Tân trải hơn mười năm kinh nghiệm, áp dụng trăm lần đều
công hiệu, nhiều lần chứng kiến hiệu quả thần kỳ. In toa thuốc lưu truyền rộng
rãi ngõ hầu cứu giúp rộng khắp quả thật là dụng tâm của người nhân từ, quân tử,
Hơn nữa, bạch phàn ở chỗ nào cũng mua được, giá lại phải chăng. Nguyện người đọc
lưu tâm [dùng bài thuốc này] làm phương tiện cứu người, công đức sẽ chẳng thể
nghĩ bàn. Liền đem công đức cứu người ấy hồi hướng Tây Phương thì cũng có thể
dùng làm duyên tăng thượng thù thắng.
V. Những bài
viết khác
1. Lâm chung
tam đại yếu (Ba điều quan trọng nhất lúc lâm chung)
(năm Dân Quốc 19 - 1930)
Ðiều bi thảm nhất trong thế gian không chi bằng cái chết,
nhưng người trong khắp cả cõi đời, không một ai may mắn thoát được! Vì vậy, người
có tâm muốn lợi mình lợi người chẳng thể không sớm lo liệu. Thật ra, một chữ CHẾT
vốn chỉ là giả danh, do kỳ hạn của quả báo chiêu cảm từ [các nhân] đời trước đã
hết nên bỏ tấm thân này rồi lại thọ cái thân khác vậy. Kẻ chẳng biết Phật pháp
thì đúng là không tìm được cách gì, chỉ đành mặc cho nghiệp xoay chuyển. Nay đã
được nghe pháp môn Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh của đức Như Lai thì phải nên tín
nguyện niệm Phật, sắp đặt sẵn tư lương vãng sanh, hầu mong thoát được nỗi khổ
luân hồi sanh tử giả huyễn, chứng sự vui Niết Bàn thường trụ chân thật.
Nếu ai có cha, mẹ, anh, em và các quyến thuộc mắc phải
bệnh nặng, bệnh tình khó bề thuyên giảm thì hãy nên phát tâm hiếu thuận, từ bi,
khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương và trợ niệm cho họ để mong người bệnh
nhờ đó sau khi chết liền được sanh về Tịnh Ðộ. Sự lợi ích như thế làm sao diễn
tả được? Nay tôi nêu lên ba điều trọng yếu để làm căn cứ hòng thành tựu sự vãng
sanh cho người lâm chung; lời lẽ tuy thô vụng, quê kệch, nhưng ý vốn lấy từ
kinh Phật. Gặp được nhân duyên này đều nên làm theo. Ba điều trọng yếu vừa nói
đó chính là:
* Một là khéo chỉ dạy, an ủi, khiến [người sắp mất]
sanh chánh tín.
* Hai là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh
niệm [cho người sắp mất].
* Ba là hết sức tránh dời động, khóc lóc, kẻo làm hỏng
việc.
Nếu có thể tuân theo ba
pháp này để hành thì chắc chắn sẽ tiêu trừ được túc nghiệp, tăng trưởng Tịnh
nhân (cái nhân để vãng sanh Tịnh Độ), được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây phương. Hễ
đã được vãng sanh thì sẽ siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, dần dần tấn
tu ắt sẽ đạt tới viên thành Phật quả mới thôi. Sự lợi ích như vậy hoàn toàn nhờ
vào sức trợ niệm của quyến thuộc. Có thể làm được như thế mới là chân hiếu đối
với cha mẹ, mới thật là chân đễ[37]
đối với anh em trai, chị em gái, mới thật là chân từ đối với con cái, mới thật
là chân nghĩa, chân huệ đối với bằng hữu và đối với mọi người; dùng những điều ấy
để vun bồi cái nhân Tịnh Ðộ của chính mình, khơi gợi lòng tin tưởng của những đồng
nhân, lâu ngày chày tháng nào có khó gì mà chẳng tập thành lề thói được. Nay
tôi sẽ trình bày từng điều một để chẳng đến nỗi có những điều không thích đáng
lúc lâm chung vậy.
a. Ðiều thứ
nhất là khéo chỉ bày, an ủi, khiến cho [người sắp mất] sanh chánh tín
Thiết tha khuyên người
bịnh buông xuống hết thảy, [chỉ] nhất tâm niệm Phật. Nếu như cần phải giao phó
việc gì thì phải mau giao phó. Giao phó xong thì chẳng đếm xỉa đến nữa, chỉ
nghĩ ta nay sắp theo Phật vãng sanh cõi Phật; tất cả sự giàu sang, vui sướng,
quyến thuộc thế gian, các thứ trần cảnh đều là chướng ngại, thậm chí khiến ta mắc
hại. Vì thế, chẳng nên sanh một niệm quyến luyến, vướng mắc. Phải biết: Một niệm
chân tánh của chính mình vốn chẳng có chết. Sự chết vừa mới nói đó chỉ là xả
thân này để lại thọ cái thân khác mà thôi! Nếu chẳng niệm Phật thì sẽ phải thuận
theo nghiệp lực thiện, ác để lại thọ sanh trong nẻo lành, đường dữ (Đường lành là trời - người. Đường ác là súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục. A Tu La vừa gọi là đường lành vừa gọi là đường ác vì họ
tu nhân cảm quả đều là thiện - ác xen tạp). Nếu như trong
lúc lâm chung, nhất tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật thì do tâm niệm Phật chí thành
ấy, ắt quyết định cảm được Phật dấy lòng từ bi lớn lao, đích thân tiếp dẫn khiến
cho ta được vãng sanh.
Thêm nữa, đừng nghi rằng: Ta là nghiệp lực phàm phu,
chỉ do niệm Phật trong một thời gian ngắn sao lại có thể thoát khỏi sanh tử,
vãng sanh Tây phương? Nên biết rằng: Vì đức Phật đại từ bi nên dẫu là kẻ tội
nhân Thập Ác, Ngũ Nghịch rất nặng, lúc lâm chung tướng địa ngục đã hiện ra, mà
nếu có thiện tri thức dạy cho niệm Phật bèn niệm mười tiếng hoặc chỉ một tiếng
thì cũng được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây phương. Hạng người ấy chỉ niệm mấy
câu còn được vãng sanh, sao còn cho rằng ta nghiệp lực nặng nề, niệm Phật ít ỏi
rồi sanh lòng nghi ư? Phải biết: Chân tánh vốn sẵn có của chúng ta và chân tánh
của Phật chẳng hai; chỉ vì ta Hoặc nghiệp sâu nặng nên chẳng thọ dụng được! Nay
đã quy mạng nơi Phật như con nương về với cha, chính là trở về với quê nhà ta vốn
sẵn có, chứ nào có phải là điều gì ra ngoài khả năng của ta đâu! Hơn nữa, xưa
kia, đức Phật đã phát nguyện: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu của ta mà
chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì chẳng lấy
ngôi Chánh Giác”. Vì thế, hết thảy chúng sanh lúc lâm chung phát tâm chí
thành niệm Phật cầu sanh về Tây phương thì không một ai là chẳng được Ngài rủ
lòng Từ tiếp dẫn. Ngàn vạn phần chẳng được hoài nghi nữa! Hoài nghi tức là tự
mình lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ đâu!
Huống hồ, lìa khỏi thế giới khổ não này sanh về thế giới
vui vẻ kia là chuyện hết sức sung sướng, hãy nên sanh tâm hoan hỷ, ngàn vạn phần
chẳng được sợ chết! Dẫu sợ chết vẫn chẳng thể không chết, lại còn đâm ra mất phần
vãng sanh Tây phương nữa, vì tâm mình trái với tâm Phật rồi! Dẫu Phật sẵn lòng
đại từ bi cũng không làm thế nào được đối với chúng sanh chẳng nương theo lời dạy
của Phật! Vạn đức hồng danh của Phật A Di Ðà giống như lò luyện lớn lao; tội
nghiệp trong nhiều kiếp của chúng ta như một mảnh tuyết trong hư không. Nghiệp
lực phàm phu do bởi niệm Phật nên nghiệp liền tiêu diệt, giống như mảnh tuyết ở
gần bên lò lửa lớn liền bị tiêu hết chẳng còn gì nữa. Vả lại, huống chi nghiệp
lực đã tiêu thì bao nhiêu thiện căn sẽ tự nhiên tăng trưởng thù thắng; sao lại
còn ngờ chẳng được vãng sanh và Phật chẳng đến tiếp dẫn nữa ư?
Mềm mỏng, uyển chuyển chỉ dạy, an ủi như thế thì người
bệnh sẽ có thể tự sanh tâm chánh tín. Ðấy chính là những điều chỉ dạy cho người
bệnh. Còn như những việc chí thành, tận hiếu mà ta phải nên làm thì cũng chỉ
chú trọng ở những điểm ấy; chớ nên thuận theo thói tục van cầu thần thánh, tìm
thầy chạy thuốc. Mạng lớn đã sắp hết thì làm sao quỷ thần, thuốc men giữ cho
người ấy khỏi chết được! Nếu đã nhọc lòng vì những sự vô ích như thế thì lòng
thành khẩn đối với một sự niệm Phật sẽ bị xen tạp, không cách gì cảm thông [đức
Phật] được! Nhiều kẻ lúc cha mẹ lâm chung chẳng tiếc tiền của, mời khá nhiều thầy
thuốc đến khám. Ðấy gọi là mua tiếng hiếu, muốn được người đời khen ta tận hiếu
đối với cha mẹ; nào hay trời đất, quỷ thần thật sự xét soi [tường tận] nỗi
lòng. Vì vậy, đối với những sự thuộc về chuyện tống táng cha mẹ mà quá sức phô
trương thì nếu chẳng mắc thiên tai ắt cũng bị nhân họa. Kẻ làm con chỉ nên chú
trọng những gì thần thức của cha mẹ đạt được! Lời xưng tụng của người đời cố
nhiên chẳng đáng cho kẻ sáng mắt nhếch mép cười, lẽ đâu lại dốc lòng mong mỏi,
thật chỉ khiến cho ta mắc phải cái lỗi bất hiếu to lớn mà thôi!
b. Thứ hai
là mọi người thay phiên niệm Phật để giúp tịnh niệm [cho người chết]
Trước đó, đã chỉ dạy người bệnh khiến cho kẻ ấy sanh
chánh tín; nhưng vì người bịnh tâm lực yếu ớt, đừng nói chi hạng người lúc còn
khỏe mạnh chưa bao giờ niệm Phật, chẳng dễ gì niệm liên tục lâu dài được, ngay
cả người chuyên trọng niệm Phật đến lúc ấy cũng hoàn toàn nhờ vào người khác trợ
niệm thì mới có thể hữu hiệu. Vì vậy, quyến thuộc trong nhà hãy nên cùng nhau
phát tâm hiếu thuận, từ bi, vì người ấy trợ niệm Phật hiệu. Nếu bệnh tình còn
chưa đến nỗi sắp chết vào bất cứ lúc nào thì nên chia ban niệm Phật. Nên chia
thành ba ban, mỗi ban hạn định mấy người. Ban đầu tiên niệm Phật ra tiếng, ban
thứ hai và thứ ba niệm thầm. Niệm một tiếng đồng hồ thì ban thứ hai niệm tiếp;
ban thứ nhất, ban thứ ba niệm thầm. Nếu có chuyện nhỏ thì nên lo liệu trong lúc
niệm thầm; còn trong lúc trực ban trọn chẳng nên bỏ đi. Ban thứ hai niệm xong,
ban thứ ba niệm tiếp. Xong rồi liền trở lại từ đầu. Niệm một tiếng, nghỉ hai tiếng;
[như vậy thì niệm] suốt cả ngày đêm thì cũng không mệt nhọc lắm.
Phải biết: Chịu giúp người đạt được Tịnh niệm vãng
sanh thì cũng sẽ được hưởng quả báo có người trợ niệm. Chớ có nói “chỉ vì cha mẹ
nên mới phải tận hiếu như vậy”, đối với người dưng cũng nên vun bồi ruộng phước
của chính mình, trưởng dưỡng thiện căn của chính mình thì mới đúng là cái đạo tự
lợi, chứ chẳng phải chỉ vì người khác mà thôi! Thành tựu một người được vãng
sanh Tịnh Ðộ chính là thành tựu một chúng sanh làm Phật. Công đức như thế há thể
nghĩ lường được ư?
Ba ban liên tục, tiếng niệm Phật chẳng ngớt. Nếu sức bệnh
nhân niệm được thì nương theo đó niệm nho nhỏ theo. Chẳng thể niệm nổi thì lắng
tai nghe kỹ, tâm không có niệm gì khác thì tự có thể tương ứng với Phật vậy. Tiếng
niệm Phật chẳng nên quá to; niệm to sẽ hao hơi, khó niệm lâu được; cũng chẳng
thể quá nhỏ khiến cho bệnh nhân nghe chẳng rõ. Chẳng nên niệm quá mau, cũng chẳng
nên quá chậm. Quá mau bệnh nhân niệm theo chẳng nổi, dẫu có lắng nghe [tiếng niệm]
cũng khó nghe rõ. Quá chậm thì chẳng tiếp hơi nổi nên cũng khó có ích. Nên niệm
chẳng lớn tiếng, chẳng nhỏ tiếng, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp; từng chữ phân
minh, từng câu rành mạch khiến cho từng chữ, từng câu lọt tai thấu dạ bịnh
nhân; như vậy thì dễ có sức [niệm theo]. Đối với pháp khí dùng để niệm Phật, chỉ
nên dùng dẫn khánh, hết thảy các thứ khác nhất loạt chẳng nên dùng. Tiếng dẫn
khánh trong trẻo khiến tấm lòng người nghe thanh tịnh. Tiếng mõ trầm đục chẳng
thích hợp cho việc trợ niệm khi lâm chung.
Lại nữa, nên niệm Phật hiệu gồm bốn chữ. Lúc bắt đầu
thì niệm vài câu sáu chữ; rồi sau đó chuyên niệm bốn chữ A Di Ðà Phật, chẳng niệm
Nam Mô. Do ít chữ dễ niệm nên bệnh nhân sẽ niệm theo được hoặc nhiếp tâm lắng
nghe, đều đỡ tốn tâm lực. Quyến thuộc trong nhà niệm như vậy mà thỉnh thiện hữu
bên ngoài đến thì cũng niệm như vậy. Dù nhiều người hay ít người đều phải niệm
như thế, chẳng nên niệm một chốc lại ngưng nghỉ, rồi lại niệm khiến cho bịnh
nhân niệm Phật gián đoạn. Nếu gặp lúc ăn cơm thì nên ăn vào lúc thay phiên, đừng
ngớt tiếng niệm Phật. Nếu như lúc bịnh nhân sắp tắt hơi thì cả ba ban nên cùng
niệm cho đến tận sau khi đã tắt hơi hẳn rồi mới lại chia ba ban niệm suốt ba tiếng
đồng hồ nữa. Sau đấy, mới ngưng niệm để lo liệu, sắp đặt mọi việc.
Trong lúc niệm Phật, chẳng để cho bè bạn đến trước bệnh
nhân thăm hỏi, vỗ về. Ðã có lòng đến thăm thì hãy theo đại chúng niệm Phật mấy
thời. Ấy mới là tấm lòng yêu mến chân thật, có ích cho bịnh nhân. Còn nếu cứ
theo thói tục thường tình thì chính là đã xô người ta xuống biển. Tình ấy tuy
đáng cảm, nhưng [để xảy ra] sự ấy thật đáng đau đớn. Toàn là cậy vào người chủ
chốt hiểu rõ đạo lý, bảo trước với người [đến thăm] để khỏi tổn thương tình cảm,
lại khỏi gây hại cho bệnh nhân bị phân tâm chẳng được vãng sanh vậy.
c. Thứ ba là
kiêng dè dời động, khóc lóc để khỏi làm hỏng đại sự
Lúc người bệnh sắp chết chính là lúc phân biệt giữa
thánh, phàm, người, quỷ, [tình trạng khác nào] ngàn cân [treo] đầu sợi tóc;
quan trọng cùng cực! Chỉ nên dùng Phật hiệu để chỉ dạy thần thức của người ấy,
trọn chẳng nên tắm rửa, thay áo, hoặc dời chỗ nằm. Mặc kệ [người ấy] nằm - ngồi
như thế nào, cứ để yên người đó trong tư thế ấy, chẳng nên dời động chút nào.
Cũng chẳng nên đối trước [người ấy] mà lộ vẻ buồn bã, thương xót, hoặc đến nỗi
khóc lóc. Vì khi đó [người sắp chết] thân chẳng tự chủ được; hễ lay động là
toàn thân lẫn chân tay đều bị đau đớn như bị bẻ, chặt, giằng xé. Hễ đau đớn thì
sanh tâm sân hận nên [tâm] niệm Phật bị ngưng dứt. Mang tâm sân hận ra đi, phần
nhiều bị đọa vào độc loại (những loài vật hung dữ, độc địa như rắn, bò cạp, rết…),
đáng sợ hãi quá sức! Nếu [người sắp chết] thấy [thân quyến] đau đớn, khóc lóc
thì tâm mến luyến phát sanh nên [tâm] niệm Phật cũng bị ngừng nghỉ. Vì mang tâm
ái luyến mà ra đi nên đến nỗi đời đời, kiếp kiếp chẳng được giải thoát.
Lúc ấy, có lợi nhất thì không gì bằng nhất tâm niệm Phật;
điều gây hại nhất không chi bằng vọng động, khóc than. Nếu như vọng động, khóc
than đến nỗi [người chết] sanh lòng sân hận hay mến luyến thì dẫu có muốn sanh
Tây phương, cả vạn trường hợp cũng chẳng được một!
Thêm nữa, người sắp chết hơi nóng rút từ dưới rút lên
trên là tướng siêu thăng, còn [hơi nóng] từ trên rút xuống dưới là tướng đọa lạc.
Vì vậy, có thuyết:
Ðảnh thánh, nhãn thiên
sanh
Nhân tâm, ngạ quỷ phúc
Súc sanh tất cái ly,
Ðịa ngục cước bản xuất
Nhưng nếu mọi người chí thành trợ niệm thì [người chết]
ắt tự có thể sanh thẳng về Tây phương; chẳng nên thăm dò nhiều lượt khiến cho
khi thần thức [người chết] chưa rời [khỏi xác], có thể sẽ do bị kích thích như
vậy mà tâm sanh phiền đau nên chẳng được vãng sanh. Lỗi lầm ấy thật là vô lượng
vô biên. Xin các thân hữu ai nấy đều khẩn thiết niệm Phật, chẳng cần thăm dò
hơi nóng cuối cùng bị lạnh đi ở chỗ nào. Kẻ làm con hãy nên lưu tâm điều này mới
là hiếu thật sự. Nếu cứ thuận theo các tình cảm thông tục trong thế gian thì
chính là xô người thân xuống biển khổ chẳng thương xót, mong một lũ vô tri vô
thức xúm lại khen ngợi ta đã tận hiếu! Hiếu như vậy thì có khác chi là tình yêu
của La Sát Nữ!
Kinh dạy: “La Sát Nữ ăn thịt người, bảo: ‘Vì ta yêu
ngươi nên ăn thịt ngươi!’ Kẻ vô tri kia thể hiện lòng hiếu khiến cho người
thân mất vui bị khổ, há chẳng phải là giống hệt cái tình yêu người của La Sát Nữ
hay sao? Tôi nói ra lời này, chẳng phải là không đếm xỉa tình người, chỉ là muốn
cho ai nấy đều xét rõ sự thực, cốt sao người chết vãng sanh, kẻ còn sống được
phước, để thỏa tấm lòng thành sắt son của con hiền, cháu thảo thương yêu người
thân, chẳng ngờ lời lẽ dường như quá khích. Người thương yêu cha mẹ thật sự ắt
sẽ lượng thứ cho.
Thuyết: Ðảnh thánh, nhãn sanh thiên... là nói về
khi người đã tắt hơi, toàn thân đã lạnh, chỉ còn đảnh đầu ấm thì ắt là siêu
phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nhãn sanh thiên là nếu mắt và trán
còn nóng thì sanh trong thiên đạo. Riêng chỗ ngực còn ấm thì sanh vào nhân đạo.
Riêng bụng còn nóng thì sanh trong ngạ quỷ đạo. Riêng đầu gối còn nóng thì sanh
trong súc sanh đạo. Riêng bàn chân còn nóng thì sanh địa ngục đạo. Ðấy là do
hai nghiệp thiện, ác đã tạo của người ấy lúc còn sống đến giờ đây cảm hiện như
thế, chứ chẳng thể dựa vào thế lực nào để làm giả ra như vậy được. Khi đó, nếu
bệnh nhân có thể chí thành niệm Phật, lại thêm sức của quyến thuộc và bạn lành
trợ niệm chắc chắn có thể đới nghiệp vãng sanh, siêu phàm nhập thánh vậy. Chẳng
cần phải để ý thử sờ xét nghiệm, đến nỗi làm hỏng việc! Mong mỏi lắm thay!
2. Tịnh Độ
Chỉ Yếu (Chỉ bày những điều trọng yếu
trong pháp môn Tịnh Độ)
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Pháp môn Tịnh Độ
chính là pháp môn đặc biệt trong giáo pháp suốt cả một đời đức Như Lai, thích hợp
khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn. Bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng
thể vượt ra ngoài được, tội nhân nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy. Chẳng
đoạn Hoặc nghiệp mà thoát khỏi luân hồi; ngay trong một đời này quyết định lên
cõi Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn, bỏ pháp môn này làm sao yên được?
Phàm những ai tu Tịnh nghiệp thì điều thứ nhất là phải giữ tịnh giới nghiêm ngặt;
điều thứ hai là phải phát Bồ Đề tâm; điều thứ ba là phải đầy đủ lòng tín nguyện
chân thật.
Giới là cơ sở, nền tảng của mọi pháp, Bồ Đề tâm là chủ
soái của tu đạo, tín nguyện nhằm dẫn đường cho việc vãng sanh. Pháp môn Tịnh Độ
lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông: Không tin sao có thể phát nguyện cho
được? Không có nguyện làm sao khởi hạnh? Không có diệu hạnh trì danh, làm sao chứng
điều đã tin, mãn điều đã nguyện cho được? Được vãng sanh hay không hoàn toàn là
do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do trì danh sâu hay
cạn! Tín - Nguyện - Hạnh như ba chân của cái đỉnh, thiếu một sẽ đổ nhào.
Nếu chẳng chú trọng tín nguyện, chỉ mong trì danh cho
đạt được nhất tâm, dẫu đạt được nhất tâm sâu xa, cũng khó thể liễu sanh thoát tử!
Vì sao vậy? Do Phiền Hoặc chưa hết sạch, chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh
tử được. Tín nguyện đã không có, chẳng thể cậy vào Phật lực để liễu sanh tử! Đời
có kẻ ham cao chuộng xa, thường phô phang tự lực, miệt thị Phật lực; chẳng biết
từ sống đến chết không chuyện gì chẳng cậy vào sức người khác nhưng chẳng lấy
đó làm thẹn, sao riêng đối với đại sự liễu sanh tử và Phật lực lại chẳng muốn
tiếp nhận, [chắc là] mất trí điên khùng nên mới đến nỗi như vậy! Hành giả Tịnh
tông hãy nên thống thiết răn dè!
Đối với pháp tắc tu trì, hãy nên thường như con nhớ mẹ,
đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, im lặng, qua lại, một câu Phật hiệu miên miên mật
mật! [Dẫu gặp] bất cứ sự duyên nào cũng chẳng để cho gián đoạn, nhiếp trọn sáu
căn tịnh niệm tiếp nối. Người làm được như thế chắc chắn vãng sanh! Lại phải
nên tâm niệm nhân từ, rộng lượng, tánh khí khiêm nhường, thuận thảo, nhẫn được
những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể
hành, chịu cực nhọc thế cho người khác, thành tựu điều tốt đẹp cho người ta.
Thường nghĩ mình sai quấy, đừng bàn lỗi của kẻ khác! Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong
mười hai thời lễ mười phương Phật để sám trừ túc nghiệp, huống là kẻ còn đang
trong địa vị phàm phu! Hãy nên thường hổ thẹn, nào dám ỷ y! Nếu ỷ y, dẫu có tu
trì thảy đều thuộc về ma nghiệp. Con người như thế chớ nên thân cận, để khỏi đến
nỗi lâu ngày đều bị biến đổi giống như họ.
Phải vâng giữ chắc tông chỉ, chẳng bị xoay chuyển bởi
kinh giáo và lời lẽ của thiện tri thức rồi bỏ pháp này tu pháp khác. Pháp môn này
chính là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy
chư Phật trên thành Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh. Hết thảy pháp môn không
pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu xuất; hết thảy hạnh môn không môn nào chẳng
trở về pháp giới này. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng hướng về, mười
phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận cùng tuyên nói. Bọn
ta là hạng mạt học sao lại lập dị, tự chuốc lấy tội khiên tự lầm, lầm người ư?
Nguyện hãy suy nghĩ sâu xa, xin hãy suy nghĩ sâu xa!
3. Trình bày
ý nghĩa ẩn kín nơi cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung Công
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Xem cặn kẽ khắp
những bậc đại trung đại hiếu thuở xưa, lập đại công, dựng đại nghiệp, đạo che
trùm thời ấy, đức thấu đến hậu thế, hạo khí lấp trời đất, lòng tinh trung mờ nhật
nguyệt đều do học Phật đắc lực mà ra. Những nhà Nho trong cõi đời chẳng biết gốc
đạo, chỉ thấy được dấu vết đã bộc lộ, chẳng biết đến cội nguồn của cái tâm, khiến
cho cái gốc bị ẩn kín chẳng hiển lộ, tiềm tàng chẳng tỏ rõ. Do những Nho sĩ câu
nệ thường đố kỵ Phật, nên [những vị danh nhân] phần nhiều chú trọng tiềm tu mật
chứng, chẳng tự bộc lộ. Nếu xét kỹ hành vi của bọn họ, ắt sẽ có những điểm chẳng
thể giấu được. Nếu con cháu chẳng đầy đủ chánh tri kiến ắt chỉ sợ bị kẻ tục Nho
chê cười, nên cũng chẳng chịu xiển dương. Do nhân duyên này, khiến cho tiềm đức
u quang[38]
ẩn mất không được nghe đến nhiều lắm!
Trong bộ Cựu Đường Thư[39],
phàm những sự tích về Phật pháp và ngôn luận trao đổi giữa các bậc sĩ đại phu
và cao tăng đều được chọn lọc những điều trọng yếu để ghi chép lại. Âu Dương Tu
soạn bộ Tân Đường Thư[40]
đã gạt bỏ hơn hai ngàn điều. Bộ Ngũ Đại Sử[41]
cũng vậy. Ấy là do chỉ sợ thiên hạ đời sau biết Phật pháp hữu ích cho thân tâm
tánh mạng, cho nền chánh trị của nước nhà, rồi sẽ học theo! Những sử quan khác
đa phần thuộc loại tri kiến hẹp hòi câu nệ ấy. Vì vậy, sự tiềm tu mật chứng của
những bậc đại nhân xưa kia đều chẳng được biết đến!
Văn Trung Công Lâm Tắc Từ học vấn, trí thức, chí khí,
tiết tháo, trung nghĩa đều ít thấy trong đời Thanh trước kia. Tuy bận bịu việc
nước, ông chẳng hề gián đoạn việc tu trì Tịnh nghiệp chút nào vì học Phật chính
là căn bản của học vấn, chí khí, tiết tháo, trung nghĩa vậy. Đã có được căn bản
này thì ứng xử đều thích đáng, xử sự đều hợp lẽ. Đấy chính là nguyên do vì sao bậc
đại nhân đời xưa vượt trỗi những hạng tầm thường. Một bữa nọ, chắt của Văn
Trung Công là ông Tường, tự là Bích Dư, đưa cho tôi xem cuốn kinh gồm các bài
kinh chú Di Đà, Kim Cang, Tâm Kinh, Đại Bi do Văn Trung Công đã đích thân viết,
trang bìa ghi “Tịnh Độ Tư Lương”. Trên
mặt cái hộp đựng sách đề Hành Dư Nhật Khóa (Khóa tụng hằng ngày trong lúc ngồi
xe).
Đủ biết Văn Trung Công ngầm tu pháp môn Tịnh Độ, tuy
ra vào, đi lại, vẫn chẳng chịu bỏ phế. Do dùng để trì tụng lúc đi xe, cuốn kinh
ấy chỉ dài khoảng bốn tấc, rộng ba tấc. Chữ viết cung kính, mực thước, không một
nét bút nào cẩu thả, đủ thấy lòng cung kính, chí thành của ông, chẳng dám coi
thường, chểnh mảng chút nào! Bản kinh ấy mỗi trang gồm sáu hàng, mỗi hàng gồm
mười hai chữ. Bích Dư sợ thủ bút của tiên nhân lâu ngày bị mất đi, liền cho sắp
xếp thành sách in theo lối thạch bản để mong được lưu truyền trong nhân sĩ các
giới, ngõ hầu [mọi người] đều biết Văn Trung Công suốt đời tu trì, cốt sao ai nấy
gặp việc nhân chẳng nhường, thấy người hiền mong được bằng. Do vậy, sẽ cùng
mong vượt ngũ trược lên chín phẩm. [Ông Bích Dư] sai Quang lược thuật nguyên ủy,
Quang từ bé đã nghe danh ngưỡng vọng Văn Trung Công, nay biết ông tu trì nghiêm
mật như thế, thật có thể nói là bậc thừa nguyện tái lai, hiện thân tể quan để
thuyết pháp. Nguyện những người thấy nghe sẽ nhất trí tiến hành, cùng noi theo
vết chân thì quốc gia may mắn lắm, mà nhân dân cũng may mắn lắm thay.
4. Nêu tỏ ý
nghĩa giáo dục trong gia đình là căn bản khiến cho thiên hạ thái bình
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
Đời đã loạn đến
cùng cực rồi, ai nấy đều mong mỏi bình trị nhưng chẳng biết cội gốc thì có mong
cầu cũng uổng công! Hãy nên gấp biết cái gốc nằm ở đâu! Sự dạy dỗ của người mẹ
trong gia đình chính là căn bản khiến cho hiền tài được dấy lên đông đảo, thiên
hạ thái bình. Chẳng chú trọng nơi ấy, làm sao đạt được bình trị? Mẹ dạy dỗ thì
thứ nhất là thai giáo. Thai giáo chính là dạy dỗ về bẩm tánh, phẩm chất từ thuở
đầu. Phàm nữ nhân sau khi có thai, hãy chú trọng suy nghĩ, tưởng niệm, xử sự sao
cho chỉ một bề chân thành, cẩn trọng. Nhất cử nhất động chẳng trái lẽ chánh. Nhất
là phải nên vĩnh viễn dứt trừ những món tanh tưởi, hằng ngày thường niệm Phật
khiến cho thai nhi được bẩm thụ chánh khí của mẹ, thì lúc sanh nở ắt được yên
vui không khổ sở, sanh được đứa con tướng mạo đoan nghiêm, tánh tình từ thiện,
thiên tư thông minh.
Đến lúc con bắt đầu hiểu biết, liền nói cho nó nghe về
đạo lý làm người, như hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ v.v… và tội phước
nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chuyển biến, khiến cho trong tâm nó thường luôn
có những điều kiêng sợ, có những điều mong mỏi, hâm mộ. Lại dạy nó niệm Phật,
niệm Quán Thế Âm để mong tăng phước, tăng thọ, tránh tai, tránh nạn. Chẳng cho
phép nó nói lời dối trá, nói lời thị phi, đánh người, chửi người, chẳng cho nó
giẫm đạp giấy có viết chữ, giẫm đạp ngũ cốc, giẫm đạp hết thảy các món đồ vật.
Chẳng cho nó ăn uống bừa bãi, chẳng cho nó tụ tập chơi giỡn cùng bọn trẻ cùng
xóm. Hơi lớn lên, bèn dạy nó đọc thuộc sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, Văn
Xương Âm Chất Văn, Quan Đế Giác Thế Kinh, để cho nó biết có khuôn pháp để noi
theo, có những điều ngăn cấm. Đối với mỗi điều đều nói sơ lược đại ý để làm
phương tiện hướng dẫn hòng mai sau nó học hành sẽ được lợi ích.
Lúc bé như thế, càng học hành sẽ càng hiền thiện, lo
gì nó chẳng đạt đến địa vị thánh hiền, rạng mày nở mặt tổ tông! Nếu không, cứ mặc
cho nó quen thói kiêu căng, nuôi thành phường bại hoại, dẫu có thiên tư cũng chẳng
biết học hành là để học làm thánh hiền nên càng học càng thêm tồi bại! Những kẻ
đại gian đại ác xưa nay đều là những kẻ có thiên tư tốt đẹp, có bản lãnh lớn
lao, chỉ vì cha mẹ, thầy giáo của chúng đều chẳng biết dạy chúng học thành
thánh hiền, tận lực thực hiện, chỉ dạy bọn chúng học văn tự để làm căn cứ hòng
đối phó với đời, mưu cầu lợi lộc, trí thức hèn tệ đến tột cùng, đến nỗi những
thảm kịch phế kinh điển, phế luân thường, tranh thành giành đất tàn sát lẫn
nhau ồ ạt diễn ra. Mối họa loạn ấy đều do cha mẹ, thầy giáo chẳng biết phương
cách dạy dỗ con em mà ra. Dù chính họ chẳng làm điều ác lớn lao nào, nhưng cái
tội hoại loạn thế đạo nhân tâm cũng sẽ khiến cho họ đời đời kiếp kiếp cùng chịu
ác báo giống như con em!
Vì thế, tôi nói: “Dạy
con là căn bản khiến thiên hạ thái bình, nhưng dạy con gái càng quan trọng hơn
nữa” do con người thuở thơ ấu chuyên cậy vào mẹ dạy dỗ. Cha chẳng thể thường
ở trong nhà, còn mẹ thường chẳng rời con. Nếu mẹ hiền lương, có trí huệ thì
hành vi, lời lẽ đều đáng làm gương, [con cái] thấy nghe quen mắt, trong tâm đã
thành nề nếp, lại do thường xuyên răn dạy, đã tập quen thành tánh như vàng lỏng
đúc thành đồ dùng, nếu cái khuôn đúc tốt đẹp, chắc chắn chẳng đến nỗi đúc ra vật
xấu xí! Vì thế, dạy dỗ con gái so ra càng khẩn yếu hơn dạy con trai. Bởi lẽ, hiền
mẫu do hiền nữ mà có, nếu không có hiền nữ, làm sao có hiền mẫu cho được? Không
có hiền mẫu thì lại làm sao có được con cái hiền lương cho được?
Đạo lý cực bình thường ấy ai cũng đều có thể làm được!
Điều đáng đau tiếc là quá ít người đề xướng khiến cho những kẻ làm mẹ chỉ biết
nuông chiều mù quáng, những kẻ làm cha cũng chẳng khéo dạy. Đến khi con vào trường
học hành, kẻ làm thầy cũng do thuở bé chẳng nghe được nghĩa lý này, vì thế cũng
trọn chẳng biết học hành là để học làm thánh hiền, chẳng dạy học trò tận tụy thực
hành đạo do thánh hiền đã nói, chỉ học văn tự hòng mưu cầu lợi lộc, chẳng hề biết
học làm thánh hiền có lợi ích không chi lớn hơn, chính bản thân mình và con
cháu đời đời kiếp kiếp hưởng dùng chẳng hết. Còn mưu cầu lợi lộc, nếu mưu cầu một
cách tốt đẹp thì chẳng qua đạt được phú quý nhỏ nhoi trong đời này mà thôi! Nếu
mưu cầu xấu xa, trong đời này những kẻ thân bại danh liệt, con chết yểu, cháu
tuyệt diệt đâu đâu cũng có!
Con người cùng trời đất được gọi là Tam Tài là vì có
công năng “dùng tiên giác để giác ngộ kẻ hậu giác, kế tục bậc thánh đời trước,
mở lối cho người học đời sau”; do vậy mới được tôn xưng như thế. Nếu chẳng chú
trọng học làm thánh hiền sẽ là thây đi thịt chạy, chỉ biết niềm vui ăn uống, trai
gái, còn khác gì cầm thú nữa đâu? Một chữ “người” còn là mạo danh, há còn có thể
cùng với trời đất xưng là Tam Tài nữa ư? Nhưng con người tánh vốn lành, ai nấy
đều có thể làm Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật, nhưng kẻ chẳng thể
làm Nghiêu - Thuấn, chẳng thể thành Phật thì chỉ có tánh đức, trọn chẳng có tu
đức “đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy để khôi phục lễ nghĩa, dứt lòng tà, giữ
lòng thành và tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si”. Tu đức ấy lúc ban đầu
là do cha mẹ hiền, sư trưởng khơi gợi vậy, kế tiếp là do chính mình khăng khăng
nỗ lực tu trì. Dẫu chưa thể đạt đến địa vị Nghiêu - Thuấn hay địa vị Phật, nhưng
đã khác hẳn một trời một vực với kẻ hạ ngu hằng ngày chôn vùi trong nhân dục rồi!
Kinh Thư chép: “Duy
thánh võng niệm tác cuồng, duy cuồng khắc niệm tác thánh” (Chỉ vì thánh
đánh mất niệm mà thành cuồng, chỉ vì kẻ cuồng khắc chế được ý niệm mà thành
thánh). Kinh dạy: “Hễ mê thì Phật chính
là chúng sanh, ngộ rồi thì chúng sanh chính là Phật”. Ta may mắn có căn cơ
làm Nghiêu - Thuấn, thành Phật, là trang nam tử hào hùng, há chịu bỏ mặc cho
tánh đức này bị vùi lấp trong nhân dục, vĩnh viễn làm chúng sanh hạ ngu trầm
luân trong biển khổ ư? Nguyện những người làm cha mẹ, làm sư trưởng, làm con
cái, làm học trò trong cõi đời ai nấy đều gắng sức thì nước ta thật may mắn mà
toàn cầu cũng may mắn lắm thay!
5. Nêu tỏ ý
nghĩa ẩn tàng của Phật Quang Phân Xã tại Xung Điền, Vụ Nguyên
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Phật quang là tâm
quang. Tâm quang ấy chúng sanh và Phật đều cùng có, bình đẳng giống hệt như
nhau, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi chúng sanh chẳng giảm bớt. Vì thế, lúc mới
thành Chánh Giác, đức Thế Tôn than thở sâu xa: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì
chưa ngộ nên chẳng tránh khỏi biến trí huệ đức tướng ấy thành vô minh nghiệp thức,
mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác hiệp trần, ví như đi mãi trong đêm dài, chẳng
thấy được đường chánh, chẳng va tường đụng vách thì cũng đọa hầm sụp hố, luân hồi
lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra!” Đức Như Lai thương xót, thị hiện
giáng sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, diễn nói
các pháp, chỉ dạy thể tướng của nhất tâm, nói ra nhân quả ba đời, pháp thế gian
lẫn xuất thế gian không gì chẳng trọn khắp.
Lại muốn lợi lạc khắp ba căn nên đặc biệt mở ra một
môn Tịnh Độ, ngõ hầu hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này cậy vào
Phật từ lực vãng sanh Tây Phương hòng siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử,
đích thân chứng được tâm quang mà Phật và chúng sanh đều cùng có, cũng như [chứng
được] tánh thể vô lượng quang thọ. Lại còn rủ lòng từ tiếp dẫn đến tột cùng đời
vị lai, ngõ hầu pháp giới chúng sanh đều được đẫm Phật quang, cùng chứng tâm
quang. Quang quang chiếu sáng lẫn nhau, thành một thế giới Thường Tịch Quang mới
thôi! Đấy chính là cội nguồn của việc cư sĩ Dịch Viên lập ra Phật Quang Xã.
Còn những gì được đề xướng trong liên xã thì trọn chẳng
lập ra cách thức sai khác, tức là ai nấy đều dốc tâm thực hiện ngay trong những
cư xử thường ngày của chúng ta, có nghĩa là “cha từ, con hiếu, anh nhường, em
kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành”, mỗi mỗi đều nghiêm túc
trọn hết bổn phận. Như thế thì chính là người lành “chẳng làm các điều ác, vâng
làm các điều lành”. Hơn nữa, trong khi đi lại, nói năng, làm lụng, đi, đứng, nằm,
ngồi, [luôn luôn] chấp trì một câu thánh hiệu A Di Đà Phật, dùng vạn đức hồng
danh của Phật để hun đúc nghiệp thức vô minh của chính mình, hun đúc lâu ngày
thì vô minh nghiệp thức ấy sẽ biến thành trí huệ đức tướng. Thanh Lương quốc sư
nói: “Phàm phu cắm cúi niệm Phật, niệm đến
cùng cực sẽ có thể ngầm thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu”, chính là nói về
điều này vậy. Huống chi dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha để cảm Phật, Phật
sẽ dùng thệ nguyện từ bi nhiếp thọ; do đó được cảm ứng đạo giao, vạn người tu vạn
người về. Lòng từ của đức Như Lai, sự nhiệm mầu của pháp môn không chi hơn được!
Nếu không có túc căn sẽ chẳng thể gặp gỡ!
Cư sĩ [Giang] Dịch Viên đã đạt được lợi ích sâu xa, lại
còn khuyên dạy người trong ấp cùng tu pháp này. Do vậy, người do nghiệp tiêu
trí rạng mà vãng sanh và những người cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh kể
sao cho xiết! Vì thế, các vị thiện sĩ ở Xung Điền nghe tiếng tăm dấy lòng noi
theo, lập riêng phân xã để mong cư dân lân cận sẽ cùng được đẫm Phật quang,
cùng sanh về Cực Lạc, đủ thấy con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý
này, đã gieo thiện căn sâu xa trong nhiều đời nhiều kiếp vậy!
Phải biết: Phật pháp vốn là tâm pháp, là gốc của hết
thảy các pháp thế gian. Nếu biết Phật pháp thì đạo “cách vật, trí tri, chánh
tâm, thành ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của thế gian đều được
viên mãn rốt ráo. Nếu không, chỉ là bày biện nơi cành nhánh, chứ trọn chẳng được
lợi ích thật sự nơi căn bản: Vì cái thân mưu tính sẽ chẳng thể vượt ra ngoài
thân xác, vì đất nước mưu tính sẽ chẳng thể khiến cho phong thái đại đồng được
thông suốt. Bậc thượng mà còn như thế thì bậc hạ cần chi phải nói nữa! Ngu phu,
ngu phụ nếu y theo pháp môn Tịnh Độ do đức Phật đã nói để tu trì thì khi còn sống
sẽ tận hết bổn phận, trọn hết tình nghĩa để trở thành hiền thiện, mất đi sẽ cao
đăng chín phẩm sen liễu sanh thoát tử. Bậc hạ mà còn được như thế huống gì là bậc
thượng! Nguyện những thiện tín tham dự liên xã và những ai thấy nghe trong hiện
tại, tương lai, đều cùng nhờ vào tâm quang để đề cao Phật quang thì xã hội may
mắn lắm mà thiên hạ cũng may mắn lắm thay!
6. Nêu tỏ ý
nghĩa ẩn kín của việc thành lập Phật Quang phân xã tại nội thành Vụ Nguyên
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Phật quang là tâm
quang. Tâm quang ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Chỉ vì chúng
sanh chưa ngộ nên chẳng thể thụ dụng được, lại ngược ngạo nương vào sức tâm
quang ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi lục đạo trọn chẳng ngừng nghỉ. Vì thế,
đức Phật tùy thuận căn cơ của chúng sanh, vì họ nói nhân quả của các pháp môn Tứ
Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ v.v… và lý tánh sâu mầu trạm tịch viên dung Thường
- Lạc - Ngã - Tịnh để chúng sanh y theo đó tu tập, sẽ có ngày tự viên mãn Bồ Đề,
rốt ráo đích thân chứng được tâm quang ấy chiếu khắp pháp giới. Nho giáo cũng hết
sức chú trọng pháp nhân quả. Vì thế, Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch, vừa mở đầu
liền nói: “Tích thiện chi gia tất hữu dư
khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện niềm vui có
thừa, nhà tích điều bất thiện tai ương có thừa). Cuối cùng, Ngài nói: “Một Âm, một Dương gọi là đạo”. Phàm
tích thiện hay tích bất thiện, đó là nhân; dư khánh, dư ương chính là quả. Đức
Phật nói nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo chính là nêu bày nhân quả đến rốt
ráo vậy.
Có người bảo nhân quả là Tiểu Thừa, chẳng chịu đề xướng,
đấy đều là hạng chuyên bàn xuông, chẳng tu thật đức! Đức Như Lai thành Chánh
Giác, chúng sanh đọa ác đạo đều chẳng ra ngoài nhân quả, sao lại riêng coi là
Tiểu Thừa ư? Như [Khổng Tử] nói “một Âm một
Dương gọi là Đạo”, thì cái Đạo vừa nói ấy thật sự là đạo gì? Chẳng phải là
đạo Thành và Minh hợp nhất đó ư? Thành chính là Minh Đức, tức diệu tánh bất sanh
bất diệt vốn sẵn có trong tâm chúng ta, đấy chính là Tánh Đức. Do không có công
phu khắc phục [phiền não] nên chẳng thể hiển hiện được; vì thế gọi nó là Âm.
Minh chính là như chữ Minh [thứ nhất] trong câu “minh Minh Đức” (làm sáng tỏ đức sáng), tức là công phu “triêu càn tịch dịch[42],
gắng sức tu trì”, tức Tu Đức. Do những sự thuộc về Tu Đức hiển hiện rõ ràng
nên gọi là Dương. Dốc công Tu Đức đến cùng cực thì Tánh Đức sẽ tỏ lộ trọn vẹn,
Thành và Minh hợp nhất, tức là cái thường được gọi là “minh Minh Đức chỉ ư chí thiện” (làm sáng Minh Đức, ở yên nơi tốt
lành tột cùng). Công phu phía trước điều này (tức những phương cách tu tập để đạt
đến “minh Minh Đức chỉ ư chí thiện”) là
cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, còn sự nghiệp phía sau điều này
(tức những diệu dụng được thể hiện sau khi đã đạt đến “minh Minh Đức chỉ ư chí thiện”) là tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Nhưng [nếu] chỉ dùng [những công phu tu tập] Thành và
Minh hợp nhất “minh Minh Đức, chỉ ư chí
thiện” này để đạt tới “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” thì chưa thể nào đạt
như vậy được, cho nên mới [cần phải] có những điều khiến cho chính ta không thể
không làm như vậy được (tức là những điều khiến cho chúng ta phải gắng sức cách
vật, trí tri, chánh tâm, thành ý). Thế nào là “những điều khiến cho chính ta
không thể không làm như vậy được?” Chính là nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo! Kẻ
tuy chí ngu quyết cũng chẳng chuộng hung ghét lành, vui mừng vì bị tai họa! Nghe
“chất chứa điều thiện ắt sự vui có thừa,
chất chứa điều bất thiện ắt tai ương có thừa”, người hiền ắt sẽ càng thêm
siêng tu, kẻ không ra gì cũng phải gắng sức làm lành. Cố gắng lâu ngày, nghiệp
sẽ tiêu, trí sẽ rạng, không có lầm lỗi, đức được sáng tỏ, xưa kia là kẻ chẳng
ra gì, nay là bậc đại hiền.
Do vậy biết đối với việc tự tu thì đạo Thành - Minh đã
đủ rồi, nhưng để dạy người khác, nếu chẳng dùng nhân quả để giúp vào thì cũng
khó khiến cho trọn hết mọi người đều tuân theo được! Kết hợp hai pháp nhân quả
và Thành - Minh thì mới là đạo kế thiên lập cực[43]
nêu gương mẫu cho muôn đời của thánh nhân, đấy cũng chính là ánh sáng sẵn có
trong tự tâm và Phật quang phổ chiếu pháp giới vậy.
Bất Huệ thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian lẫn xuất thế
gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”. Muốn vãn hồi kiếp vận, cứu chữa
nhân tâm nhưng chẳng chú ý điều này thì giống như tìm cá trên cây! Bọn Tống Nho
khí lượng hẹp hòi, trộm cắp những nghĩa trọng yếu trong kinh Phật để phát huy
tâm pháp của thánh nhân Nho giáo đời trước, muốn cho kẻ học đời sau chẳng nghe
tới Phật pháp nên âm thầm sùng phụng, bề ngoài chống trái, càng ra sức bài bác
[Phật pháp], cho là thật sự chẳng hề có những chuyện nhân quả luân hồi như đức
Phật đã nói, Ngài chỉ nhờ vào đó để gạt gẫm hàng ngu phu ngu phụ tuân phụng
giáo pháp của Ngài mà thôi! Do báng Phật nên tuy là nhân quả do thánh nhân đã
nói cũng như những sự tích luân hồi sanh tử được chép trong các bộ Sử Ký, Hán
Thư họ đều chẳng buồn nhắc tới, chỉ lấy “trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận,
chánh tâm, thành ý” để làm căn bản trị mình, trị người, trị nước mà thôi!
Họ lại còn nói con người chết rồi, hình hài đã mục
nát, thần thức cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã thì lấy gì để thực
hiện? Hơn nữa, thần thức đã phiêu tán, còn ai để thác sanh? Kẻ nói như vậy chẳng
những phản bác Phật pháp mà còn hết sức phản bác những sự tích về thác sanh, biến
hóa được chép trong Tứ Thư, Ngũ Kinh và Sử Ký, Hán Thư, riêng muốn dùng những
cách ngăn lấp hậu học ấy khiến cho hàng hậu học đời đời chẳng được nghe Phật
pháp để không ai biết những gì chính họ (tức bọn Tống Nho) đã đạt được [là do
đâu mà có] và nhờ đó Nho Giáo cũng sẽ hưng thịnh. Họ chẳng biết cội gốc đã bị tổn
thương thì cành nhánh làm sao tươi tốt cho được!
Từ đấy trở đi, phương cách để duy trì thế đạo nhân tâm
chỉ là “trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý” mà thôi,
hoàn toàn phế bỏ sự lý nhân quả thiện ác là cái thúc đẩy người khác chẳng thể
không trọn hết tình nghĩa, trọn hết bổn phận, chánh tâm, thành ý! Cõi đời bậc đại
hiền thì ít, kẻ [căn cơ] trung hạ lại nhiều. Nếu coi nhân quả là hư vô, con người
chết đi sẽ vĩnh viễn diệt mất thì chính là lấp mất con đường gắng sức làm lành
của kẻ trung hạ, mở tung đầu mối cho kẻ cuồng vọng phóng túng chẳng kiêng dè! Đến
khi gió Âu vừa thổi qua, bồng bột ngả theo, lại bị biến đổi dữ dội đến tận gốc,
rốt cuộc đến nỗi phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, vứt lòng thẹn,
mà vẫn khoe khoang, chẳng biết hổ thẹn. Nếu như lý nhân quả chẳng bị bài xích,
đả phá, có ai chịu xướng lên những vở tuồng xấu ác ấy để chuốc lấy quả báo vĩnh
viễn đọa trong ác đạo ư? Các vị tiên sinh [bên Nho giáo] chỉ biết dùng kiểu đó
để bảo vệ đạo Nho, chẳng ngờ do đấy mà đạo Nho bị diệt! Học thuyết gây lầm lạc
cho người khác, còn quá nước lũ, mãnh thú, chẳng đáng sợ hay sao?
Gần đây, phong hóa trong cõi đời ngày một đi xuống, những
người hữu tâm ai nấy đều đề xướng học Phật. Tại Vụ Nguyên, kể từ khi được cư sĩ
Giang Dịch Viên đề xướng đến nay, nhân sĩ cả một vùng đua nhau phụ họa, đã có
nhiều nơi lập phân xã. Ấy là vì mong được nhờ Từ quang của đức Phật để từ đó bỏ
ác tu thiện, tiêu tai, lành bệnh, giặc cướp nhiều phen chẳng kéo đến, tật dịch
nhiều phen không xảy ra, hễ mưa nắng trái thời thì niệm Phật cầu đảo bèn được ứng
nghiệm. Người cả một vùng khâm phục lời lẽ của Dịch Viên giống như bảy mươi người
khâm phục Khổng Tử[44]
vậy.
Nay tại huyện thành cũng lập phân xã, trước khi mở cửa,
cư sĩ Tề Dụng Tu xin Bất Huệ lược thuật những nét chánh yếu dù ẩn hoặc hiển về
Phật quang, cho nên tôi trình bày những chuyện trong hơn tám chín trăm năm qua
để bậc thông sáng mai sau có cái để soi xét. Còn đối với những người ắt dốc sức
thực hành thì [hãy nên] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ
lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, vâng giữ tám đức “hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, thực hiện tám sự “cách vật, trí tri,
thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, lại còn phát Bồ
Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, tự hành dạy người cùng sanh về Tây Phương, cùng
chứng vô lượng thọ, vô lượng quang để tâm quang của mỗi người cùng với Phật
quang thường tịch và tâm quang từ Hạnh Đàn[45]
Tứ Thủy chiếu rọi lẫn nhau thì quốc gia may mắn lắm mà pháp đạo cũng may mắn lắm.
7. Trình bày
ý nghĩa ẩn kín của chữ Nhân (人)
(năm Dân Quốc 27 - 1938, giảng cho một đệ tử)
Con người là một
sinh vật trần trụi, thân bất quá mấy thước, tuổi thọ chẳng quá mấy chục năm, lại
cùng với trời cao đất dầy dài lâu không lường xưng là Tam Tài, nghĩa ấy như thế
nào? Phải biết: “Tài” là danh xưng của đức năng. Trời có đức năng che phủ trọn
khắp, sanh thành trưởng dưỡng muôn vật; đất có đức năng chuyên chở trọn khắp, hàm
dưỡng, bồi đắp muôn vật. Con người lấy việc “phụ trợ quyền sanh thành, dưỡng dục
của trời đất, kế tục bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau” làm đức
năng. Nếu không có đức năng của con người [bổ trợ] thì đức năng của trời đất vẫn
còn thiếu sót. Do được đức năng “giúp đỡ, kế thừa, khơi lối” của con người [bù
đắp] mà đức năng của trời đất được viên mãn, đầy đủ, theo chiều dọc cùng khắp
ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương. Con người cùng với trời đất được
xưng là Tam Tài là vì lẽ đó! Đức năng của con người nói tổng quát có bốn điều:
1) Nhân (人 - con người) tức là
Nhân (仁), tức lòng nhân từ trắc ẩn, tự lợi, lợi tha, vì thế gọi
là Nhân.
2)
Nhân là Nhẫn (忍), chịu thương chịu khó, đảm đương nhiệm vụ chống trời
đỡ đất, vì thế gọi là Nhân.
3) Nhân là Nhiệm (任), tận lực đảm nhiệm tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” sao cho không bị khiếm khuyết. Vì thế gọi là Nhân (Tám sự này thất phu thất phụ cũng đều làm được. Đấy chính là đại sự “giúp đỡ quyền sanh thành, trưởng dưỡng của trời đất, kế tiếp bậc thánh đời trước, khơi lối cho người học đời sau, chống đỡ trời đất” vậy. Nếu coi thường hoặc quên mất một hai sự, hoặc cả tám sự đều quên, sẽ trở thành kẻ giả dối mạo danh con người, chứ không phải là con người thật sự sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài. Nếu suy gẫm như thế thì mong thành thánh, thành hiền, học làm Phật, làm Tổ ắt sẽ dư dùng).
4) Nhân là Tận (盡),
tận hết đạo luân thường của Nho giáo để giữ vẹn luân thường, tận hết đạo tâm
tánh của Phật giáo để chứng tâm, vì thế gọi là Nhân.
Ý nghĩa của chữ
Nhân lớn lao thay! Nguyện hết thảy những người cùng hàng ai nấy gánh vác bốn
nghĩa của chữ Nhân thì nào phải chỉ mình nước ta may mắn, mà thật ra muôn nước
trong thiên hạ đều hưởng may mắn sâu xa. Nếu nói: “Ông nói như thế, ông có thực
hiện được mỗi một điều ấy không thiếu sót hay chăng?” Thưa rằng: “Con chim sắp
chết tiếng kêu cũng bi thương, con người sắp chết cũng nói lời phải. Tôi xót
cho tôi mỗi điều đều thiếu sót, chỉ mong sao hết thảy những người cùng hàng điều
nào cũng chẳng thiếu sót, để mỗi một người cùng hàng lúc tuổi thọ đã hết sẽ khỏi
phải xót xa sâu đậm giống như tôi vậy! Ông chẳng thấy trong kinh Vị Tằng Hữu
Nhân Duyên con dã can[46]
thuyết pháp, trời Đế Thích vái lạy mà nghe đó ư? Nếu người trong khắp cõi đất đều
là trời Đế Thích thì cũng chẳng đến nỗi con dã can phải mở miệng, sao ông lại cố
chấp tướng nhân ngã để rồi trách móc tôi vậy? Tôi biết lỗi rồi, từ rày chẳng
dám nói nữa!”
8. Nêu tỏ ý nghĩa
ẩn kín của việc học nghề Y
(năm Dân Quốc 27 - 1938, nói với đệ tử là Châu Thanh Thái)
Phật là Đại Y Vương
trị khắp những bệnh thân - tâm sanh tử cho chúng sanh, nhưng đại bệnh sanh tử
do tâm khởi, nên trước hết phải [lấy] trị tâm bệnh làm điều kiện tiên khởi. Nếu
có thể tu trì theo đúng pháp thì thân bệnh cũng sẽ nhờ đó mà được trị lành.
Thân bệnh có ba thứ: một là túc nghiệp, hai là nội thương, ba là ngoại cảm. Trong
ba thứ bệnh này chỉ có túc nghiệp là khó trị! Nếu có thể dốc lòng thành, cạn
lòng kính, phát đại Bồ Đề tâm tự lợi, lợi tha niệm thánh hiệu “nam-mô A Di Đà
Phật” và “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để siêu độ những oan gia đối đầu đã bị [người
bệnh] hãm hại trong những đời trước. Nếu họ (tức những oan gia đối đầu ấy) lìa
khổ được vui thì người bệnh sẽ tiêu nghiệp, lành bệnh; họ chẳng những không còn
quấy phá mà trái lại còn cảm cái ơn siêu độ nên sẽ âm thầm phù hộ. Phàm những
ai mắc bệnh này và những người chữa trị bệnh ấy đều không thể không biết đến
nghĩa này.
Hai là nội thương, hoặc do dụng tâm quá độ, hoặc do rượu
chè, sắc dục, tiền bạc, hút sách, đối với mỗi thứ đều tham ưa. Nếu có thể giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành và dùng thuốc chữa trị ắt sẽ dễ lành bệnh. Nếu chẳng
chú ý nơi căn bản, chỉ cậy vào thuốc men, cũng khó thấy được hiệu quả. Dù có hiệu
quả, vẫn khó giữ cho vĩnh viễn không bị tái phát.
Ba là ngoại cảm, chỉ cần làm theo như cách đã nói
trong phần nội thương trên đây. Dẫu có bị trúng phải gió, lạnh, nắng, mưa bên
ngoài cũng hết sức dễ chữa. Nếu chẳng chú ý ngăn ngừa giận dữ, gạt bỏ ham muốn,
dứt lòng tà, giữ lòng thành thì tuy là bệnh ngoại cảm vẫn chẳng dễ gì chữa trị
vì bị tổn thương từ căn bản mà chỉ trị nơi cành nhánh, thật khó được lợi ích! Do
vậy, thánh nhân giữ yên đất nước khi chưa loạn, bảo vệ thân khi chưa bệnh, tuy
không có kỳ tích bình trị, bảo vệ, nhưng sự bình trị, bảo vệ cũng lớn lắm.
Tôi hoàn toàn chẳng biết gì về thuốc men, nhưng rất
mong cho người đời đều không bệnh tật, hằng ngày trì chú Đại Bi gia trì vào nước
sạch, có người mắc bệnh ngặt lâu ngày, thầy thuốc Bắc, thuốc Tây đều chẳng chữa
được, [tôi cho người ấy uống nước đã được trì
chú Đại Bi], dạy người ấy kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật và
niệm Quán Âm, nếu thật sự chí thành sẽ lập tức xoay chuyển được tình thế, không
lâu sau tự lành bệnh. Dẫu chẳng thể lành ngay, quyết cũng chẳng lẽ nào bị bệnh
nặng thêm, lại còn có thể tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, lại chẳng
tốn kém chi!
Ông muốn học Y, tuy chú trọng nơi châm cứu, dược phẩm,
nhưng cần phải phát đại Bồ Đề tâm, thường dùng thánh hiệu của Phật, Bồ Tát và
chú Đại Bi khắp vì ta - người trì tụng, để mong đôi bên cùng được thân tâm an lạc
trong đời này, lâm chung quyết định vãng sanh Tây Phương thì chẳng uổng là đệ tử
Phật, tùy phần tùy sức thực hiện đạo lợi khắp ta - người. Nếu giống như những
gã thầy thuốc tầm thường trong cõi đời chỉ cầu lợi, chẳng coi trọng chuyện cứu
chữa người bệnh, dẫu cho giàu nứt đố đổ vách cũng chỉ được kết quả là chính
mình vĩnh viễn đọa trong ác đạo, con cháu hoặc thành phường bại hoại, hoặc rốt
cuộc bị tuyệt diệt! Uổng có cơ hội tự lợi lợi tha mà lại ngược ngạo biến thành
cái quả tự hại, hại người, chẳng đáng thương sao? Chẳng đáng sợ sao? Sách Cảm Ứng
Thiên có câu: “Họa phước không cửa, chỉ
do con người tự chuốc lấy”, người thông minh trong cõi đời phần nhiều đều
muốn hưởng phước lạc, đâm ra chuốc lấy họa ương. Nếu ông chẳng thuận theo thói
đó, ắt sẽ được “danh xứng với thật”, là bậc đại quốc thủ. Nếu không, chỉ trở
thành kẻ giặc cho dân mà thôi! Lấy - bỏ thế nào, mong ông hãy tự chọn lựa!
9. Pháp ngữ
dạy thầy Hoa Quyền đang bị bệnh
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
Con người sống
trong thế gian ai cũng chẳng thể nào tránh khỏi nỗi khổ tật bệnh, chết chóc!
Trong khi những sự khổ như vậy xảy ra, chỉ nên buông xuống muôn duyên, nhất tâm
niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”. Nếu hơi thở ngắn thì chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật,
nhất tâm cầu Phật từ bi tiếp dẫn ông vãng sanh Tây Phương. Trừ một niệm ấy ra,
trong tâm chẳng được khởi lên mảy may tưởng niệm khác biệt nào, cũng đừng mong
bệnh chóng lành, cũng chớ có tưởng niệm cầu thần cầu trời giáng phước. Hễ có những
thứ tưởng niệm ấy, tâm ông sẽ bị cách ngăn với tâm đức A Di Đà Phật; do vậy sẽ
chẳng hưởng được sức gia bị do lòng từ của Phật. Ông phải hiểu rằng: Trời đất
cha mẹ đều chẳng thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử được, chỉ có đức A Di
Đà Phật là có thể làm cho ông thoát luân hồi sanh tử!
Giả sử ông chịu buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật
thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ được chóng lành. Nếu tuổi thọ đã hết, liền vãng
sanh Tây Phương; nhưng chớ nên cầu bệnh chóng lành, chỉ nên cầu mau được vãng
sanh. Nếu tuổi thọ đã hết mà cầu lành bệnh sẽ chẳng được vãng sanh. Cầu vãng
sanh thì nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Vãng sanh Tây Phương có
những điều hay chẳng thể nói trọn, so với những kẻ sanh lên cõi trời làm thiên
đế, thiên vương vẫn cao cả hơn vô số vô lượng vạn vạn vạn vạn lần.
Ông đừng có si tâm vọng tưởng sợ chết. Có cái tâm sợ
chết sẽ chẳng thể vãng sanh được! Chúng ta sống trong thế gian giống như loài
giòi trong hầm phân, tù nhân trong lao ngục, khổ chẳng chịu đựng được! Vãng
sanh Tây Phương như thoát khỏi hầm phân, lao ngục, đến quê nhà thanh tịnh an lạc
tiêu dao tự tại, há nên sợ chết? Nếu có tâm niệm sợ chết, sẽ vĩnh viễn chịu khổ
trong sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng có thuở thoát khổ. Nếu ông niệm ra tiếng
được thì cũng nên niệm nhỏ tiếng, chẳng thể niệm ra tiếng nổi thì niệm thầm
trong tâm, tai nghe người khác niệm, trong tâm cũng niệm như thế. Mắt lại dõi
nhìn A Di Đà Phật (tức đức Phật được thờ trong thất), trong tâm tưởng đến A Di Đà Phật. Hễ có những niệm
khác khởi lên, hãy nên tự trách: “Ta muốn cậy vào Phật lực vãng sanh Tây Phương,
sao lại khởi lên những thứ ý niệm này làm hỏng đại sự của ta?”
Nếu ông chịu niệm theo như lời tôi nói, chắc chắn được
vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, bao kiếp vĩnh
viễn thường hưởng khoái lạc, trọn chẳng phải thấy nghe mảy may sự khổ gì, há
còn có những thứ khổ não tật bệnh như thế này hay sao? Nếu gặp lúc trong tâm dấy
lên phiền não, phải hiểu rằng đấy chính là do ác nghiệp trong đời trước xui khiến,
muốn phá hoại đạo vãng sanh Tây Phương của ta, muốn khiến cho ta vĩnh viễn bị
khổ vì sanh tử luân hồi, ta nay hiểu được nó muốn hại ta, ta chẳng để cho nó
xoay chuyển, trừ chuyện niệm Phật ra, chẳng nghĩ đến chuyện gì khác. Như vậy thì
tâm tâm tương ứng với Phật, được Phật tiếp dẫn, sẽ liền vãng sanh. Hãy nhớ kỹ lời
tôi thì sẽ tự mau được lợi ích không chi lớn hơn được!
10. Pháp ngữ
dạy mẹ con ông Ân Đức Tăng (hai bài)
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
1) Hai chữ “nhân
quả” gồm trọn hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian, trọn hết không bỏ
sót gì. Do vậy, chẳng riêng gì Phật giáo đề cao [nhân quả] mà pháp thế gian
cũng chẳng bỏ qua [nhân quả]. Trong sách Nho đã sớm để lại giáo huấn rõ ràng.
Kinh Dịch chép: “Tích thiện dư khánh,
tích bất thiện dư ương” (tích chứa điều thiện niềm vui có thừa, tích chứa
điều bất thiện tai ương có thừa), kinh Thư ghi: “Tác thiện giáng tường, tác bất thiện giáng ương” (làm lành thì điều
tốt lành sẽ giáng xuống; làm điều chẳng lành, tai ương sẽ giáng xuống) chẳng phải
là nói về nhân quả hay sao? Nhưng hết thảy những chuyện kỳ kỳ quái quái, thiện
thiện ác ác được biên chép trong bộ Xuân Thu Tả Truyện đều là những ghi chép thật
sự về nhân quả. Nếu người đời sau đọc bộ sách ấy, xét nghĩ những chuyện ấy sẽ
thấy rành rành họa phước vô thường, báo ứng chẳng sai vậy!
Do có quỷ thần, dè dặt kinh sợ, bậc thượng trí sẽ mạnh
mẽ dấy lên chí hướng ưu thời mẫn thế, gắng tu đức của chính mình; kẻ hạ ngu
cũng biết nể sợ, chẳng dám làm ác. Vì thế, nhân quả thật sự là sự phòng ngừa lớn
lao để ràng buộc lòng người, đáng để phụ trợ cho những chỗ mà sự cai trị của
nhà vua chưa được thấu tới, mà cũng là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế
gian lẫn xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh, và cũng là mấu
chốt khiến cho đất nước yên ổn hay loạn lạc, hưng thịnh hay suy vi từ xưa đến
nay vậy.
Hiện thời thế đạo ngày một suy vi, lòng người chìm đắm,
sở dĩ tệ hại đến cùng cực như thế này đều là vì chẳng hiểu rõ lý nhân quả báo ứng
mà ra. Lý nhân quả chẳng được sáng tỏ thì tuy cái nhân gần là do bị ảnh hưởng bởi
những học thuyết mới, nhưng thật ra cái nhân xa là do Tống Nho bác Phật đã ươm
thành. Ấy là vì [từ khi] học thuyết Tống Nho được xướng suất mạnh mẽ: “Quỷ thần
chỉ là lương năng của hai khí (Âm - Dương), con người chết đi thần hồn cũng
phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã sẽ thực hiện vào đâu, quân tử có làm
gì để làm lành thì chuyện làm lành ấy cũng chẳng thật, cần gì phải bàn đến nhân
quả?” Phàm “không làm gì mà là làm lành” chỉ để nói với bậc thượng trí, chứ đối
với hạng người từ bậc trung trở xuống, ắt phải nhờ vào khuyên bảo “hãy có làm”[47]
thì mới là lành. Nay nói: “Chẳng làm gì mà là làm” sẽ ngăn trở con đường hướng
thiện của người khác!
Thánh nhân dùng thần đạo để lập giáo, ngầm khen ngợi
thần minh, từ kết quả truy ngược về cội nguồn nên biết được lẽ sanh tử. Tinh - khí
là vật, du hồn biến chuyển, do vậy biết được tình trạng của quỷ thần. Nay coi
quỷ thần là hư vô, hoang đường, tức là đã phế trừ giáo huấn của các bậc tiên
vương! Nếu chết đi đã thành đoạn diệt, không nhân quả, không báo ứng thì hết thảy
hạnh nghịch ác hễ tỏ được cái chí thì đâu cần kiêng sợ gì mà không làm cơ chứ?
Loạn thiên hạ, gây họa cho nhân loại, ắt đều bắt nguồn từ đây! Bọn Trình - Châu
chỉ biết cổ vũ “quân tử không làm gì chính là làm lành”, chẳng thèm lo tới chuyện
“bọn tiểu nhân không kiêng sợ nên cứ làm ác” hay sao? Trong thiên hạ, bậc quân
tử thì ít, tiểu nhân lại nhiều, lời lẽ của bọn Trình - Châu lợi thiên hạ thì
ít, hại thiên hạ cũng nhiều, chẳng đáng đau xót ư? Nhưng cái thuyết Lý Học của
bọn Trình - Châu phần nhiều lấy từ các [nghĩa lý trong] kinh Phật, nhưng họ lại
toan dùng đó để tự khoe tài, đã học được từ người ta lại ngược ngạo bảo người
ta chẳng bằng mình, bịt tai trộm linh, trong lòng sùng phụng, mặt ngoài chống
trái, thậm chí chẳng tiếc công đàn áp.
Thật sự là vì đâu mà lại như thế? Đáp: Do tri kiến môn
đình và muốn được phối hưởng[48]
trong Văn Miếu mà thôi! Bọn họ chỉ vì tri kiến môn đình, gây họa hoạn vô cùng
cho hậu thế. Đấy cũng là điều bọn Trình - Châu chẳng lường tới, nhưng những người
có lòng [lo cho đời] đều đau đớn sâu đậm! Trình - Châu từng là những bậc đại
Nho một thời dưới đời Tống, công duy trì nhân luân kỷ cương của họ đâu thể không
tính kể tới, nhưng lập luận của họ chẳng tránh khỏi trái nghịch tiên thánh, gây
lầm lạc cho đời sau. Bọn ta đọc sách để học đòi cổ nhân, há chẳng suy xét sâu
xa ư?
2) Hiện nay muốn
xương minh sự lý nhân quả và phương pháp thực hành [điều đó] thì trước hết phải
thực hiện bằng sự giáo dục trong gia đình; nhưng giáo dục trong gia đình lại phải
lấy phụ nữ làm chủ thể. Bởi lẽ, đời có mẹ hiền thì mới có con hiền. Noi theo bậc
hiền mẫu thời cổ, thực hiện thai giáo: un đúc bẩm chất từ lúc ban đầu, nuôi nấng,
dạy dỗ từ khi chưa sanh ra ngõ hầu con sẽ tập quen thành tánh. Như ba bà Thái đời
Châu (Thái Khương, Thái Nhậm, Thái Tự) ngầm
giúp đỡ chồng, dạy con từ lúc nó còn nằm trong thai, đều là bậc thánh nhân
trong nữ giới, quả thật họ đã lập nên nền tảng mở mang vương nghiệp nhà Châu.
Tôi thường nói: “Quyền trị quốc bình
thiên hạ hàng nữ nhân nắm quá nửa”. Lại nói: “Dạy con gái là cái gốc để tề gia, trị quốc” tức là nói đến chuyện “trọn
hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con”. Nữ giới ngày nay phần nhiều chẳng hiểu nghĩa
này, lầm lạc muốn tham gia chánh trị nắm quyền, tính làm đại sự, bỏ mặc đạo căn
bản là vun bồi gia đình. Điều này quả thật gom sắt của muôn nước chín châu cũng
chẳng đúc được cái lỗi lầm lớn lao ấy[49],
thật đáng cảm khái sâu xa!
Thế nào là đạo căn bản để vun bồi gia đình? Chính là hễ
dạy dỗ con cái, ắt phải khi con đang còn trong độ tuổi măng sữa, trước hết phải
làm cho nó biết về thuyết nhân quả báo ứng thì đối với hết thảy những hành vi
nghịch ác nó sẽ tự kiêng sợ chẳng dám làm. Giảng giải sách nhân quả không chi
hay bằng Cảm Ứng Thiên[50]
và Âm Chất Văn[51].
Hai cuốn sách ấy phải thường giảng nói, ắt sẽ tự có lợi ích không chi lớn bằng!
Bởi lẽ, trẻ thơ thiên tánh chưa xấu xa, lời lành dễ tiếp nhận, tập quen từ bé,
lâu ngày sẽ thành bản tánh, đến khi lớn lên sẽ chẳng thay đổi được! Gốc chánh
nguồn trong được bắt nguồn từ đấy! Vì thế, kinh Dịch chép: “Mông dĩ dưỡng chánh, thánh công dã” (Dạy cho trẻ thơ điều đúng đắn,
có công như thánh nhân vậy).
Ngày nay thiên hạ sở dĩ đại loạn đều là do cha mẹ chẳng
hiểu nguyên lý giáo dục đã ươm thành vậy. Bởi lẽ đã chẳng thể dùng thai giáo để
dạy dỗ điều lành từ đầu, lại còn chẳng thể dùng nhân quả để răn nhắc lúc sau. Căn
bản đã hỏng thì sẽ bừa bãi, tràn lan chẳng thể nào thâu thập được. Do vậy mới
xướng lên những thuyết bất hiếu, không cần cha mẹ, mới bàn đến chuyện cách mạng
gia đình không kiêng dè chi! Dẫn đến [tình cảnh] bạn bè chơi với nhau vì lợi lộc
hòng bán chác, vợ chồng hợp lại hay chia tay nhau giống như cầm thú, chôn vùi đạo
nghĩa liêm sỉ, thiên lý tuyệt diệt [như] nước lũ cuồn cuộn tận trời chẳng biết
khi nào ngừng. Dẫu Khổng Tử, Thích Ca sống trong thời buổi này cũng không có
cách gì cứu giúp được, nguy ngập vậy thay!
Làm như thế nào đây? Đáp: Đường lối để cứu vãn chỉ có
cách chú trọng giáo dục gia đình sao cho ai nấy giảng rõ sự lý nhân quả cho con
cái hòng vun bồi căn bản mà thôi! Đã gieo thiện nhân ắt gặt thiện quả, mới hòng
có hy vọng trong tương lai lòng người biến đổi tốt đẹp, phong tục dần dần thuần
lương, thiên hạ nước nhà thái bình vậy.
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,
Quyển Hạ
Phần 5 hết
[1] Trần kiếp: Gọi đủ là “trần điểm kiếp” hoặc “vi trần số
kiếp” tức số kiếp (kalpa) nhiều như số vi trần. Đôi khi còn nói là “Phật sát vi
trần số kiếp” (số các kiếp nhiều như số vi trần trong một cõi Phật).
[2] Quần mông: Những kẻ tăm tối, chỉ những chúng sanh bị
phiền não vô minh che lấp.
[3] Nhị tử: Biến dịch sanh tử và phần đoạn sanh tử.
[4] Từ hút sắt:
[5] Cứu giúp kẻ bị treo ngược: Chữ “treo ngược” (đảo huyền - Ullambana) chỉ những người có tội sau khi đã chết bị đọa trong địa ngục, chịu những hình phạt khổ sở giống như bị treo ngược đầu xuống.
[6] Nguyên văn là Cứu Cánh Tức. Trong nguyên bản có ghi
thêm một đoạn chú thích như sau: “Ngài
Trí Giả thuộc tông Thiên Thai đã dùng khái niệm Lục Tức để giải thích về Phật.
Một là Lý Tức Phật, hai là Danh Tự Tức Phật, ba là Quán Hạnh Tức Phật, bốn là
Tương Tự Tức Phật, năm là Phần Chứng Tức Phật, sáu là Cứu Cánh Tức Phật”. Cứu
Cánh Tức Phật chính là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, do đức Phật còn được
gọi là Pháp Vương nên chúng tôi chuyển dịch chữ Cứu Cánh Tức thành Pháp Vương
cho thuận với âm vận của bài kệ.
[7] Ngài Di Lặc Bồ Tát họ Di Lặc (Maitreya: lòng Từ), tên
là A Dật Đa (Ajita - dịch nghĩa là Vô Năng Thắng: Không ai hơn được). Vì thế,
đôi khi tên Ngài được dịch nghĩa là Từ Thị Vô Năng Thắng. Do đó, câu này có thể
hiểu: Ngài là đấng từ bi không ai hơn được, hoặc chỉ có thể hiểu đơn giản đây
là tên họ đầy đủ của Ngài.
[8] Khi ngài Di Lặc thành Phật, sẽ ba lần chuyển pháp
luân (tam chuyển pháp luân), mỗi lần chuyển pháp luân đó được gọi là một hội
thuyết pháp (chứ không có nghĩa Ngài chỉ thuyết pháp có ba lần), xin xem chi tiết
trong kinh Quán Di Lặc Hạ Sanh. Tam Chuyển Pháp Luân là ba giai đoạn giáo hóa của
đức Phật, gồm Căn Bản Pháp Luân, Chi Mạt Pháp Luân và Nhiếp Mạt Quy Bổn Pháp
Luân. Căn Bản Pháp Luân tức là những giáo pháp dạy cho hàng đại Bồ Tát chứng ngộ
cảnh giới siêu việt của Phật, tương ứng với thời Hoa Nghiêm. Chi Mạt Pháp Luân
là những giáo pháp dành cho mọi căn tánh nhằm hướng dẫn họ bước vào Phật đạo, lần
lượt dạy từng bậc, từng lớp theo mức độ kiến giải cao dần để dẫn nhập họ từ Tiểu
Thừa bước vào Đại Thừa. Cuối cùng là Nhiếp Mạt Quy Bổn Pháp Luân tức là nói ra
chân tướng sự thật Nhất Thừa, gộp ba thừa vào một thừa, khiến mọi căn cơ đều liễu
ngộ căn bản pháp luân, tương ứng với thời Pháp Hoa Do Ngài thành Phật dưới cội
Bồ Đề, những cành nhánh của cây Bồ Đề ấy giống như những con rồng đang phun ra
những đóa hoa, nên cây Bồ Đề ấy được gọi là cây Long Hoa. Vì thế, kinh sách nhà
Phật thường gọi ba hội thuyết pháp của Đương Lai Di Lặc Tôn Phật là “Long Hoa Tam Hội”. Do không hiểu rõ ý
nghĩa chữ Long Hoa, Tam Chuyển Pháp Luân, cũng như sự thị hiện giáng sanh của
chư Phật, rất nhiều thứ ngoại đạo mượn danh Phật giáo đã lập lờ đánh lận con
đen rao giảng Thượng Đế sai Di Lặc Bồ Tát mở hội Long Hoa để thanh lọc chúng
sanh, lập đại hội Vạn Linh. Theo họ, hội Long Hoa đã bắt đầu diễn ra từ năm
1992 (sic!), thế gian đang bước vào thời Hạ Nguơn (Nguyên), sắp tận thế, phải
tu theo đạo của họ thì mới được quần tiên tiếp dẫn sanh về thiên giới!
[9] Năng Nhân (Śākya), còn được phiên âm là Thích Ca, tức họ của đức Phật. Đức Phật Thích Ca là một vị hiền nhân (Muni, còn dịch là Tịch Mặc) xuất thân từ dòng họ Thích Ca nên có hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Năng Nhân có nghĩa là “người ban bố, thực hiện lòng nhân”. Do vậy, hiểu theo nghĩa hẹp, chữ Năng Nhân chỉ cho Phật Thích Ca; nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì đây là danh xưng chung để tán dương các đức Phật. Riêng đối với danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật, tổ Ấn Quang còn giảng thêm: “Năng Nhân nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc là triệt chứng tự tánh” (xin xem trong bài Duyên Khởi của Phật Học Đồ Thư Quán Phước Châu trong phần “Những bài viết khác” của Ấn Quang Văn Sao Tục Biên, quyển Hạ).
[10] Theo phẩm Hiện Bảo Tháp kinh Pháp Hoa, khi đức Thích
Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh Pháp Hoa, từ dưới đất vọt lên tháp báu chứa toàn
thân xá-lợi của Phật Đa Bảo, tán thán và chứng minh cho pháp hội Pháp Hoa. Trí
Tích Bồ Tát là một trong số những vị thượng thủ theo hầu Phật Đa Bảo đến dự hội
Pháp Hoa, đàm luận Phật pháp với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôn giả Xá Lợi Phất và
Long nữ (con gái của vua rồng Ta Kiệt La).
[11] Chữ “đích tổ” ở đây được dùng với ý nghĩa là vị tổ
khai sáng một ngôi chùa. Trí Tích Bồ Tát chỉ là một vị Tăng nhập chúng tại Linh
Nham Sơn Tự thời Lương, chứ không phải là tổ sư khai sáng ngôi chùa, nên không
phải là đích tổ của Linh Nham.
[12] Ngũ Thanh: Tên gọi khác của Cực Lạc, do cõi ấy không
có năm thứ nhơ uế (Ngũ Trược) nên gọi là Ngũ Thanh.
[13] Ưa mến Cực Lạc, nhàm chán cõi Sa Bà.
[14] Theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ngài Pháp Chiếu nhập Định,
thần thức đến cõi Cực Lạc, thấy bên cạnh Phật Di Đà có một vị Tăng gầy gò đứng
hầu, mặt nám đen, mặc áo rách, bèn hỏi thì được biết đó là ngài Thừa Viễn ở Nam
Nhạc. Do Tổ Thừa Viễn không muốn mất thời gian hóa duyên để chuyên dành trọn thời
gian tu trì, nên ẩn cư trong rừng sâu, thường móc bùn đất ăn thay cơm đỡ đói
hòng chuyên tu tập. Do vậy, Ngài gầy nhom, mặt nám đen, quần áo rách rưới.
[15] Ban Châu gọi đủ là Ban Châu Tam Muội (Pratyutpanna-Samādhi),
đôi khi còn đọc là Bát Châu Tam Muội là một trong các phép tu Định. Phép này
còn được dịch là Thường Hành Tam Muội, Ban Châu Định, Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội
hoặc Phật Lập Tam Muội. Căn cứ theo những điều được dạy trong kinh Ban Châu Tam
Muội (Pratyutpanna Buddha Sammukhāvasthita Samādhi Sūtra) do ngài Chi Lâu Ca Sấm
dịch vào năm Quang Hòa thứ hai (179) đời Hán Linh Đế thì để tu pháp này, trong
vòng 49 ngày, ngoại trừ lúc ăn uống ra, hành giả đều phải luôn kinh hành, mỗi
bước đều niệm A Di Đà Phật, ý quán tưởng Phật, tam nghiệp tương ứng, cho nên
cách tu này được gọi chung là “tam nghiệp vô gián”. Theo sử truyện, tại Lô Sơn,
tổ Huệ Viễn đã đề xướng cách tu này đầu tiên. Các vị Thiện Đạo, Trí Khải, Huệ
Nhật, Thừa Viễn, Pháp Chiếu đều tiếp tục hoằng dương cách này, vì nếu người dụng
công khẩn thiết, chí thành, trong Định sẽ thấy được Phật.
[16] Hành Châu nay là thành phố Hành Dương thuộc tỉnh Hồ
Nam, khác với Hàng Châu thuộc tỉnh Giang Tô.
[17] Thoạt đầu Tổ đã hâm mộ di phong của tổ Huệ Viễn, tu Niệm Phật tam-muội, trong Định thấy chính mình qua cõi Cực Lạc gặp được tổ Thừa Viễn thân gầy áo rách đứng hầu bên Phật Di Đà, khi xuất định bèn sang Nam Nhạc y chỉ với ngài Thừa Viễn. Khi Tổ ngụ tại chùa Vân Phong ở Hành Châu đã thấy thánh cảnh Ngũ Đài hiện trong bát cháo. Khi được biết đó là thánh cảnh Ngũ Đài, tháng Tư năm sau, Tổ lên Ngũ Đài triều bái, đến chùa Phật Quang, chợt thấy có hai đồng tử đến đón, dẫn vào chùa Trúc Lâm, được hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền dạy cho pháp yếu Niệm Phật cũng như dạy phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật (tức niệm Phật gồm năm đoạn với tiết tấu khác nhau), rồi hai vị Bồ Tát bảo Tổ lui ra. Trong lúc theo đồng tử trở ra, Tổ ngầm bẻ cây đánh dấu để sau này có dịp trở lại, nhưng lúc ngoảnh lại, đã thấy tất cả đều biến thành đồng hoang núi vắng, hai đồng tử cũng mất dạng. Bi thương khôn xiết, Tổ lập chùa Trúc Lâm Đại Thánh tại đó để kỷ niệm pháp duyên hy hữu ấy. Nhạc phổ Ngũ Hội Niệm Phật hiện đã thất truyền, khúc Ngũ Hội Niệm Phật đang lưu hành hiện thời do người đời sau soạn ra, chứ không phải là nguyên khúc do Bồ Tát truyền dạy cho tổ Pháp Chiếu. Người đương thời thường cho rằng Tổ là hóa thân của ngài Thiện Đạo (theo Ngũ Đài Sơn Linh Tích, không rõ tác giả, Hòa Tục Xuất Bản Xã, Đài Loan, ấn hành năm 1995).
[18] Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ vừa là tổ thứ sáu của Tịnh Độ, vừa là tổ thứ ba của Pháp Nhãn Tông bên Thiền. Theo Tống Cao Tăng Truyện và Cảnh Đức Lục, Tổ họ Vương, tự là Xung Huyền, hiệu Bão Nhất Tử, nguyên quán tại Đan Dương, sau dời qua Dư Hàng. Từ bé, Tổ từ năm sáu tuổi đã ngưỡng mộ Phật giáo, không ăn mặn. Đến tuổi trưởng thành, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, thường tụng kinh Pháp Hoa, làm chức quan coi kho cho Tiền Văn Mục Vương xứ Ngô Việt, rồi đến năm 28 tuổi, Ngài được thăng lên chức Hoa Đình Trấn Sứ, trông kho quân nhu. Ngài thường lấy tiền trong kho để mua cá, tôm đem phóng sanh đến nỗi tiền trong kho bị thiếu hụt. Sự việc vỡ lỡ, Tiền Văn Mục Vương hạ lệnh giải Ngài ra chợ chém. Tiền Văn Mục Vương sai người theo dõi xem Ngài phản ứng ra sao, thấy Ngài trong khi ngửa cổ đợi đao phủ xuống tay, nét mặt thật vui sướng, hân hoan. Giám trảm quan hỏi duyên cớ, Tổ đáp: “Ta dùng tiền trong kho để phóng sanh, chứ chẳng dùng riêng cho mình một đồng nào nên tâm không thẹn thùng”. Do vậy, Tiền Văn Mục Vương bèn hạ lệnh tha, Tổ bèn đi xuất gia với Thúy Nham thiền sư tại chùa Long Sách.
[19] Một môn nhân của tổ Liên Trì ẩn cư trên núi thường nhập
định dự đoán mưa nắng, nói chuyện hậu vận, tai họa cho người khác. Tổ gởi thư
quở trách, khuyên hãy chú tâm tu luyện hầu được giải thoát hơn là phô phang huyền
thuật.
[20] Trúc Song Tùy Bút là một tác phẩm của tổ Vân Thê Liên Trì gồm ba quyển được biên soạn vào năm Vạn Lịch 43 (1615), gồm hơn bốn trăm bài viết ngắn trình bày những nhận định của Tổ Liên Trì về Thiên Thai, Thiền, Tịnh v.v…
[21] Triệt Lưu là pháp tự của tổ Hành Sách.
[22] Chiên Đà La (Candāla), còn phiên âm là Chiên Trà La, dịch nghĩa là Nghiêm Xí (hừng hực dữ dội), Bạo Lệ (tàn nhẫn dữ dội), Chấp Ác, Hiểm Ác, Chủ Sát Nhân, Trị Cẩu Nhân v.v… Chiên Đà La vốn là một danh xưng chỉ giai cấp hạ tiện nhất trong hệ thống giai cấp của Ấn Độ thời cổ. Bọn họ chuyên làm những nghề coi ngục, buôn bán, đồ tể, đánh cá, chôn người chết, quét dọn nhà vệ sinh v.v… Do nghề nghiệp bị coi là nhơ uế và bị xã hội ruồng rẫy, khinh rẻ, đa số rất hung bạo, tham lam và tìm mọi cách bòn rút khi những người thuộc giai cấp trên có việc phải nhờ đến họ. Theo luật Mã Nỗ (Manu) của đạo Bà La Môn, những người bị xếp vào hạng Chiên Đà La là con của đàn ông thuộc giai cấp Thủ Đà La (Sudra) lén ăn nằm với nữ nhân thuộc dòng Bà La Môn. Bọn họ bị cấm bước vào đền thờ Ấn Độ giáo vì sợ hình bóng của họ sẽ làm ô uế tượng thần! Kinh Phật mượn từ ngữ này để chỉ những kẻ tánh tình bạo ác, hung hăng, không biết nhân từ, lễ nghĩa, chứ không hàm ý miệt thị giai cấp như trong kinh điển Bà La Môn.
[23] Sở Ca là những khúc hát bằng tiếng nước Sở thời Xuân
Thu Chiến Quốc. Khi quân Hán của Lưu Bang vây hãm quân Sở của Hạng Vũ tại Cai Hạ
(nay thuộc huyện Linh Bích, tỉnh An Huy), Hạng Vũ vẫn còn rất đông quân, Trương
Lương bèn bày kế cho người thổi sáo và hát những điệu dân ca nước Sở, quân Hạng
Vũ động lòng nhớ nhà, đào ngũ gần hết. Do đó, từ ngữ “Sở Ca” thường được dùng để
chỉ những câu hát mang tính chất lay động lòng người, khiến người khác thay đổi
chí hướng. 108 bài thơ được nhắc đến ở đây là 108 bài thơ khuyên tu, tán dương
Tịnh Độ do tổ Thật Hiền đã viết.
[24] Từ là Từ Ân tông (Duy Thức tông), Hiền là Hiền Thủ
tông (Hoa Nghiêm tông).
[25] Theo truyền thuyết, tổ Bồ Đề Đạt Ma thị tịch vào ngày mồng Năm tháng Mười nhằm năm Đại Thống thứ hai (536) đời Ngụy Văn Đế. Đến ngày 18 tháng Chạp năm ấy, môn nhân đưa pháp thể tới chôn tại núi Hùng Nhĩ (tỉnh Hà Nam), dựng tháp thờ tại chùa Định Lâm. Ba năm sau, Tống Vân được vua Ngụy sai sang sứ Tây Vực, khi trở về đến Thông Lãnh (tức cao nguyên Pamir hiện thời), gặp Tổ quảy một chiếc dép phiêu diêu đi một mình, liền hỏi: “Sư đi đâu vậy?” Tổ đáp: “Ta trở về Tây Thiên!” Tống Vân trở về, thuật lại chuyện ấy, môn nhân đào mộ, mở quan tài ra chỉ thấy trong ấy có một chiếc dép. Triều đình bèn sai đem chiếc dép ấy về thờ tại chùa Thiếu Lâm. Về sau, đến năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời Đường, có kẻ trộm lấy đưa về thờ tại chùa Hoa Nghiêm trên Ngũ Đài, đến nay không biết đã thất lạc về đâu!
[26] Núi Nam Bình là một trong mười thắng cảnh vùng Tây Hồ (nằm ở phía Tây Hàng Châu, tỉnh Giang Tây), cảnh núi đẹp đến nỗi họa sĩ Trương Trạch Đoan đời Tống đã vẽ một bức họa rất nổi tiếng với tựa đề Nam Bình Vãn Chung Đồ (Bức họa tiếng chuông chiều tại Nam Bình). Trên núi có rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng, nổi tiếng nhất là chùa Hưng Giáo (đại bản doanh của phái Sơn Gia tông Thiên Thai) và Tịnh Từ. Trong bài tụng này, tổ Ấn Quang ca ngợi tông phong của chùa Tịnh Từ. Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục xây chùa Tịnh Từ tại núi Nam Bình vào năm Hiển Đức nguyên niên (954) đời Hậu Châu, thoạt đầu chùa mang tên Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự (đến đời Tống Thái Tông đổi thành chùa Thiên Ninh, rồi thành Tịnh Từ), thỉnh ngài Đạo Tế (tức Tế Điên hòa thượng) đến trụ trì, Ngài trở thành tổ khai sơn của chùa. Sư tính đúc tượng mười tám vị La Hán, chưa tâu lên, vua đã mộng thấy mười tám người khổng lồ đến tìm, bèn giúp cho Sư hoàn thành chí nguyện. Khi ngài Đạo Tế thị tịch năm Kiến Long thứ hai (961) đời Tống, vua bèn thỉnh ngài Vĩnh Minh Diên Thọ từ chùa Linh Ẩn về Trụ Trì, chấn hưng tông phong mạnh mẽ, độ hơn 1.700 đệ tử xuất gia. Tổ hằng ngày làm 108 Phật sự, niệm Phật mười vạn tiếng, tụng hết một bộ Pháp Hoa khiến khắp xa gần đều ngưỡng mộ tông phong chùa Tịnh Từ. Ngài Vĩnh Minh cũng đã soạn bộ Tông Kính Lục (100 quyển) lừng danh tại chùa Tịnh Từ. Túy Bồ Đề là xước hiệu của ngài Tế Điên vì Ngài thường làm ra vẻ điên cuồng, hay uống rượu say sưa, nhưng mỗi lời Ngài nói ra không câu nào chẳng hợp Thiền cơ, khiến người hữu duyên nghe xong tỉnh ngộ sâu xa.
[27] Nê Lê (Naraka), còn phiên âm là Na Lạc, Na Lạc Ca, Na La Kha, hay Nại Lạc, dịch nghĩa Khổ Khí, Khổ Cụ, chính là địa ngục. Chữ Nê Lê bao gồm những ý nghĩa “tối tăm, không đúng, chẳng thể vui sướng”. Theo Câu Xá Quang Ký quyển tám, chữ Na Lạc nghĩa là “người”, Ca nghĩa là “ác”. Như vậy Na Lạc Ca là người tạo nhiều tội ác, bị đọa vào trong ấy vì thế gọi là Na Lạc Ca. Có thuyết giải thích Ca có nghĩa là “vui sướng”, Nại là “không”, Lạc là “cùng với, tương ứng”. Như vậy, Nại Lạc Ca nghĩa là “chẳng tương ứng với vui sướng”, hoặc “chẳng thể cứu vớt được”!
[28] Do ngài Đạo Tế thường thị hiện những hạnh trái nghịch phạm hạnh xuất gia như uống rượu, ăn thịt chó, nhằm ẩn giấu thần thông để hóa độ người hữu duyên, nên có nhiều kẻ tưởng lầm tu Thiền đã giải ngộ rồi thì không cần giữ giới luật nữa, cứ phóng túng làm càn, nên tổ Ấn Quang khuyên: “Nếu nhận lầm phương hướng, muôn kiếp thường đọa lạc Nê Lê. Nguyện người học khéo phân biệt”. Sở dĩ gọi là “thuận tâm nghịch tích” vì ngài Đạo Tế là bậc kim thân La Hán, tâm đã giác ngộ thanh tịnh (“thuận tâm”) nhưng thị hiện những hành vi trái với oai nghi của người xuất gia nhằm ẩn giấu thân phận, nên gọi là “nghịch tích” (thể hiện hành vi trái nghịch).
[29] Chỉ thân xác, vẻ mặt của ông Khuất Tử Kiến sau khi đã
mất.
[30] Theo tác phẩm Thiên Hạ Tàn Cuộc (tác giả Đàm Bá Ngưu, nhà xuất bản Đồng Tâm, Hoa Lục, 2006): “Chữ Danh tương đương với ‘hình thái ý thức’ trong ngôn ngữ hiện thời, tức là vận dụng lịch sử và kinh nghiệm cá nhân, phương pháp lý luận suy diễn từ nguyên nhân đến hậu quả để đề ra một khái niệm, hay một nguyên tắc hòng định khuôn mẫu cho nếp sống. Giáo tức là dạy dỗ, tuyên truyền sao cho mỗi cá nhân đều sống sao cho đạt được những mục đích chuẩn mực đã đặt ra trong Danh”. Như vậy, Danh Giáo có thể hiểu đại lược là những chuẩn mực về luân lý, đạo đức được đề cao trong xã hội.
[31] Liêm Lạc nói đủ là “Liêm Lạc Quan Mân” là bốn đại học phái Lý Học đời Tống, Liêm là phái Lý Học của Châu Đôn Di ở Liêm Khê, Lạc là phái Lý Học của Trình Di ở Lạc Dương, Quan là phái Lý Học của Trương Tải ở Quan Trung, còn Mân là phái Lý Học của Châu Hy ở đất Mân Việt (Phước Kiến).
[32] Minh thọ là sinh nhật của người đã mất.
[33] Giác Hoàng là một danh hiệu tôn xưng đức Phật, ý
nghĩa giống như chữ Giác Vương. Do A Di Đà Phật đã thành Phật từ mười kiếp trước
nên gọi là “cổ Giác Hoàng”.
[34] Bạch Phàn (Alumen) thường được gọi là phèn trắng, hay phèn chua, thường có màu trong suốt hoặc trắng ngả vàng, có công thức hóa học là KAl(SO4)2·12H2O. Đông Y thường dùng Bạch Phàn để giải độc sát trùng, chữa ghẻ, hoặc uống để cầm máu, chữa thổ tả, trừ phong đàm.
[35] Hà Đồn (globefish, puffer fish), có tên khoa học Takifugu Rubripes, là một loại cá rất độc, hình dáng giống cá Nóc bên ta, thân hình tròn ung ủng, đuôi và vây ngắn củn, trông giống như quả cầu nhỏ bị thổi phình lên nên còn có tên là Khí Cổ Ngư (cá trông như cái trống bơm căng) hoặc Xuy Đỗ Ngư (cá thổi phình bụng). Do thịt loại cá này ăn rất ngon, nên người Hoa xếp nó vào Trường Giang Tam Tiễn (ba món tươi ngon của sông Trường Giang), tức Hà Đồn, Đao Ngư, và Thời Ngư (cá cháy), nhưng trong mình Hà Đồn nó chứa một lượng chất độc có thể giết chết được ba mươi người trưởng thành (theo Wikipedia). Nếu không biết cách khử chất độc trên da cá, ăn vào sẽ bị trúng độc. Người Nhật gọi loại cá này là Fugu và chế biến thành một món Sushi rất đắt tiền, người đầu bếp làm món này khi được mướn phải trình cho nhà hàng văn bằng chứng nhận anh ta đã được huấn luyện cách chế biến đúng mức. Tuy thế, mỗi năm tại Nhật vẫn có cả trăm trường hợp chết vì trúng độc do ăn món cá này.
[36] Tỳ Sương (Arsenic Trioxide) còn gọi là Thạch Tín, chất
độc không giết chết người ngay nếu uống với liều lượng nhỏ. Trong thế kỷ 18-19,
do chưa hiểu biết về độc tánh của chất này, Âu Tây vẫn dùng một loại thuốc chứa
chất Thạch Tín mang tên Arsphenamine để chữa bệnh!
Đằng Hoàng (Garcinia Morella) là chất nhựa trích từ một
loài cây leo thuộc họ Đằng Hoàng (Clusiaceae)
thường có hoa đơn màu vàng, mọc thành chùm, trổ từ kẽ lá, lá hình trứng. Chất
keo Đằng Hoàng thường được dùng trong Đông Y để cầm máu, sát trùng, chữa bệnh
phù thũng. Do họ Đằng Hoàng có nhiều loại cây hình dạng tương tự nên khi thu thập
chế biến rất dễ hái lầm loại có chất độc.
[37] Chân đễ: Tình thương yêu, hòa thuận thật sự đối với
anh em.
[38] Tiềm đức u quang: Những đức hạnh tốt đẹp ngầm kín,
không bộc lộ.
[39] Cựu Đường Thư được biên soạn dưới đời Hậu Tấn. Năm Thiên Phúc thứ sáu (941), Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) sai bọn văn thần Trương Chiêu Viễn, Giả Vĩ… soạn bộ sử về triều Đường do tể tướng Triệu Oánh làm Tổng Giám Tu (Chief Editor). Đến năm Khai Vận thứ hai (845) sách mới hoàn thành. Lúc ấy, Lưu Hú đã thay Triệu Oánh làm Tể Tướng nên sách ghi tên vị Tổng Giám Tu là tể tướng Lưu Hú. Thoạt đầu, sách mang tên là Đường Thư, đến đời Tống khi nhóm các văn thần do Âu Dương Tu cầm đầu biên soạn bộ sử mới về nhà Đường, liền đổi tên tác phẩm này thành Cựu Đường Thư. Bộ Cựu Đường Thư dày đến 200 quyển, chép những sự kiện lịch sử từ năm Vũ Đức nguyên niên (618) đời Đường Cao Tổ đến năm Thiên Hựu thứ tư (907) đời Đường Ai Đế.
[40] Bộ Tân Đường Thư do các văn thần Âu Dương Tu, Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lã Hạ Khanh cùng biên soạn, tổng cộng gồm 225 quyển. Do Tống Nhân Tông chê bộ Đường Thư biên chép lộn xộn, nhiều chi tiết thừa thãi, văn phong không rõ ràng, nên năm Khánh Lịch thứ tư (1044) xuống chiếu sai Âu Dương Tu, Phạm Kỳ v.v… sửa chữa, tu đính bộ Đường Thư tạo thành bộ sử mới. Bộ sử mới biên soạn trong suốt 17 năm mới xong. So với bộ Cựu Đường Thư, văn phong Tân Đường Thư tao nhã hơn, những bài viết dài hơn, hoa mỹ hơn, nhưng nội dung, dữ liệu chỉ bằng 7/10 bộ sử cũ. Tư Mã Quang khi soạn bộ Tư Trị Thông Giám chỉ sử dụng dữ liệu từ bộ Cựu Đường Thư; ông chê Tân Đường Thư chỉ có ưu điểm văn phong tao nhã, chứ đã tùy tiện lược bớt quá nhiều những sự kiện lịch sử, nhất là những dữ kiện về mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Đường và các nước lân cận, lược bỏ truyện ký của những nhân vật có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng học thuật thời ấy như các ngài Huyền Trang và Nhất Hạnh (vì các vị đó là cao tăng nhà Phật), cũng như thiếu hẳn khí thế bi tráng khi mô tả sự kiện như trong bộ Cựu Đường Thư, nhiều sự kiện bị họ Âu tùy tiện sửa đổi theo thiên kiến nên không đáng được coi như một sử liệu khả tín. Sau này, Ngô Chẩn đã viết cuốn Tân Đường Thư Củ Mậu (uốn nắn những sai lầm trong bộ Tân Đường Thư) để nêu lên bốn trăm sáu mươi điều sai lầm trong bộ Tân Đường Thư, đồng thời phê phán rất nặng: “Không biết cách san định những điểm trọng yếu, chỉ biết tuân theo những gì mình ưa thích!”. Học giả Vương Hân Phu còn chê thẳng thừng: “Bọn Âu Dương Tu chỉ biết viết văn, coi thường khảo chứng!”
[41] Ngũ Đại Sử gồm hai bộ Cựu và Tân. Cựu Ngũ Đại Sử vốn có tên là Lương Đường Tấn Hán Châu Thư, nên thường được gọi tắt là Ngũ Đại Sử, được biên soạn từ tháng Tư năm Khai Bảo thứ sáu (973) đến tháng Mười năm Khai Bảo thứ bảy (974) theo lệnh của Tống Thái Tổ, do Tiết Cư Chánh cầm đầu một nhóm văn thần chấp bút. Bộ sử này chép những sự kiện lịch sử từ năm Khai Bình nguyên niên (907) đời Hậu Lương đến năm Hiển Đức thứ bảy (960) đời Châu Thế Tông (tức năm nhà Hậu Châu bị Bắc Tống diệt), gồm 150 quyển. Về sau, Âu Dương Tu tự biên soạn tu chỉnh bộ Ngũ Đại Sử, đặt tên là Ngũ Đại Sử Ký (đến thời Càn Long được gọi là Tân Ngũ Đại Sử), bộ sử mới được hoàn tất vào năm Hoàng Hựu thứ năm (1053), nhưng chỉ cất giữ tại tư gia, không phổ biến. Đến khi Âu Dương Tu mất, người nhà dâng lên triều đình, được phê chuẩn lưu hành. Khi bộ này được lưu hành, bộ Cựu Ngũ Đại Sử dần dần biến mất. Theo những sử quan thời cổ như Tư Mã Quang nhận định, khi biên soạn Tân Ngũ Đại Sử, Âu Dương Tu đã tùy tiện cắt xén những dữ liệu lịch sử theo thiên kiến yêu - ghét cá nhân, thiếu hẳn tính công bình, cẩn trọng cần có nơi một sử quan. Do vậy, đến thời Càn Long, dựa vào những phần được bảo tồn trong bộ Vĩnh Lạc Đại Điển đời Minh và hai mươi bộ sách giá trị khác như Sách Phủ Nguyên Giám, Thái Bình Ngự Lãm, Tư Trị Thông Giám Khảo Dị, Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc, Thiên Trung Ký, Cổ Kim Tánh Thị Thư Biện Chứng v.v… Thanh triều đã cố gắng phục hồi diện mạo của bộ Cựu Ngũ Đại Sử, quy định bộ Cựu Ngũ Đại Sử là chánh sử, còn Tân Ngũ Đại Sử chỉ được coi như một tác phẩm văn chương. Ngô Chẩn (một học giả đời Thanh) đã biên soạn cuốn Ngũ Đại Sử Toản Ngộ (tập hợp những sai lầm trong bộ Ngũ Đại Sử) ba quyển để nêu lên những điều sai lầm nặng nề trong bộ Tân Ngũ Đại Sử. Sau đấy, Ngô Lan Đình đời Thanh cũng soạn bộ Ngũ Đại Sử Ký Toản Ngộ Phụ gồm sáu quyển để nêu tiếp những sai lầm trong bộ sử của Âu Dương Tu mà Ngô Chẩn chưa nhắc đến. Các sĩ phu nổi tiếng đời Thanh như Cố Viêm Vũ, Tiền Đại Hân cũng chê Âu Dương Tu luôn tự phụ đã viết sử theo phong cách kinh Xuân Thu, nhưng hoàn toàn chẳng hiểu thấu đáo cách viết sử của kinh Xuân Thu cũng như không phân biệt được sự khác biệt giữa viết sử và viết văn!
[42] “Triêu càn tịch dịch” vốn là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói trong sách Châu Dịch: “Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược lệ, vô cữu” (Quân tử suốt ngày từ sáng đến tối cẩn thận dè dặt, không có chút coi thường, chểnh mảng nào, nên không lầm lỗi). Do vậy, “triêu càn tịch dịch” có thể hiểu là luôn cố gắng cẩn thận, giữ gìn, không coi thường, buông lung ý niệm.
[43] “Kế thiên lập cực”
là một thành ngữ hiểu theo nghĩa đen là kế thừa ngôi vua, do vua được xưng tụng
là thiên tử (con trời), ngôi vị cao nhất trong vạn dân, nên gọi là “kế thiên lập
cực”. Hiểu theo nghĩa rộng, “kế thiên lập
cực” là kế thừa đạo trời, dự vào ngôi vị cao cả, tức ngôi vị thánh nhân,
thuận theo mạng trời, được vạn dân ngưỡng vọng.
[44] Theo Pháp Ngôn Nghĩa Sớ của Dương Hùng, chữ “thất thập tử” phát xuất từ một câu nói của Khổng Tử: “Tốc tai, thất thập tử chi tiếu Trọng Ni” (Nhanh chóng thay, bảy mươi người có thể giống như Trọng Ni vậy). Tiếp đó, Dương Hùng đã dẫn các lời chú giải như sau: “Nhan Sư Cổ chú thích: Thất thập tử nghĩa là [trong số] bảy mươi hai người đệ tử thấu đạt đạo của thầy, chỉ nêu số người đã học thành cái đạo của thầy nên nói là bảy mươi”. Ở đây, Tổ Ấn Quang đã mượn thành ngữ này để khen ngợi ông Giang Dịch Viên cũng như khen ngợi những người do khâm phục ông Giang đã tự đề xướng tu trì Tịnh nghiệp tại các nơi giống như học trò Khổng Tử đã truyền bá cái đạo của thầy vậy.
[45] Hạnh Đàn là tên gọi ngôi nhà nơi Khổng Tử dạy học tại
huyện Tứ Thủy thuộc nước Lỗ xưa kia (nay thuộc địa phận tỉnh Sơn Đông). Hạnh
Đàn tại Khổng Miếu hiện thời là một công trình được xây dựng từ đời Kim trên nền
cũ của ngôi trường ấy.
[46] Theo Phật Quang Từ Điển, Dã Can (Śrgāla) còn được phiên âm là Tất Già La, là một loại cáo nhỏ. Nhưng trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa, ngài Huyền Trang lại giảng: “Dã Can, tiếng Phạn là Tất Già La, sắc vàng lẫn xanh, giống như con chó, sống thành bầy, tối đến tru lên giống như tiếng sói tru. [Chữ Dã Can] đôi khi được viết thành Xạ Can”. Như vậy, có lẽ Dã Can là một loài sói hay chó rừng thì đúng hơn, không biết đây có phải là một loài chó rừng mà người Anh - Mỹ thường gọi là Jackal hay không?
[47] Ý nói: Phải tích cực làm lành (tức là có thực hiện điều
thiện thì mới là làm lành), chứ không phải như bọn Lý học rêu rao “hễ có làm gì
để làm lành thì là ác”. Các nhà Lý Học không hiểu thánh hiền đạo Nho dạy “không
có gì để làm mới là làm lành” chính là làm lành nhưng không chấp trước vào việc
làm lành, làm lành với tâm không phân biệt, tự nhiên làm lành như đói cần ăn,
khát cần uống, nên làm lành mà cũng như không làm lành.
[48] Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử và 72 môn đệ (Thất Thập
Nhị Hiền). Tại Văn Chỉ (một hình thức thu gọn của Văn Miếu tại mỗi làng), những
người có chí khí, danh tiết cao đẹp trong làng cũng được thờ trong gian bên cạnh
hoặc nơi bàn thờ phụ, gọi là “thờ phối hưởng”.
[49] Câu nói này vốn dựa theo ý một câu nói của La Thiệu Uy vào cuối đời Đường. Theo Tư Trị Thông Giám, nguyên văn câu nói của La Thiệu Uy là: “Hợp lục châu tứ thập tam huyện thiết bất năng chú thử thác” (Gộp sắt của bốn mươi ba huyện trong sáu châu cũng không đúc được lỗi lầm này). Nguyên lai, vào cuối đời Đường, các phiên trấn (những tướng lãnh nắm giữ binh quyền tại các địa phương) thế lực rất lớn. Khi Điền Thừa Tự giữ chức Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác (bao gồm sáu châu Ngụy, Bác, Tương, Vệ, Bối, Đàn, nay thuộc vùng duyên hải của Bột Hải thuộc phía Bắc Hoàng Hà) đã tuyển lựa những quân sĩ thân tín, chu cấp hậu hĩnh, huấn luyện kỹ càng, tổ chức thành một đội quân tự vệ, gọi là Nha Quân. Đến khi La Thiệu Uy làm Tiết Độ Sứ vùng Ngụy Bác, do thấy Nha Quân thế lực quá lớn, kiêu binh tung hoành không thể kiềm chế được, thậm chí đôi khi còn làm loạn, giết cả Tiết Độ Sứ. Năm Thiên Hựu thứ hai đời Đường Chiêu Tông, một viên chỉ huy của Nha Quân là Lý Công Toàn gây binh biến, La Thiệu Uy bèn cầu cứu viên Tiết Độ Sứ có thế lực mạnh nhất thời ấy là Vũ Châu Ôn (ông này làm Tiết Độ Sứ vùng Tuyên Vũ, nay thuộc huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Châu Ôn liền phái bảy vạn nhân mã tiến vào Ngụy Bác, giết được tám ngàn Nha Quân, dần dần dẹp tan sự đối kháng của Nha Quân. Để cung cấp cho quân đội của Châu Ôn, La Thiệu Uy đã phải tốn hơn nửa ức tiền, giết đến gần bảy chục vạn trâu dê cho quân Châu Ôn ăn trong nửa năm, tốn kém lương thảo vô số. Lúc quân Châu Ôn rút đi, lại còn phải biếu tặng cả trăm vạn quan tiền. Từ đấy, vùng Ngụy Bác suy sụp, kiệt quệ, hoàn toàn không còn sức đối kháng ngoại địch. Như vậy, tuy La Thiệu Uy trừ được mối lo do Nha Quân gây ra, nhưng cũng đồng thời tự diệt sạch lực lượng chính bảo vệ vùng Ngụy Bác, hoàn toàn chịu sự chi phối của Châu Ôn. Do đó, La Thiệu Uy mới hối hận thốt lên thời than thở như vậy. Từ câu nói ấy đã phát sanh thành ngữ ‘chú thành đại thác’ vốn thường được dùng để chỉ lỗi lầm chết người do ham mối lợi nhỏ trước mắt mà ra.
[50] Theo thiên Nghệ Văn Chí trong Tống Sử và sách Quận Trai Độc Thư Phụ Chí, ẩn sĩ Lý Xương Linh đời Tống đã biên soạn cuốn Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, thác danh Thái Thượng Lão Quân giáng cơ. Tuy thế, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý ai thật sự là tác giả của cuốn sách này. Do nội dung sách này khuyến thiện làm lành rất tích cực, nó được người Trung Hoa rất ngưỡng mộ, cũng như được rất nhiều người viết lời chú giải. Sách càng được nổi tiếng lưu hành mạnh mẽ hơn khi được học giả Huệ Đống đời Thanh chú giải tường tận, cho đến hiện thời cuốn sách này vẫn được lưu hành rất rộng và được Phật môn Trung Hoa rất coi trọng.
[51] Âm Chất Văn tên gọi đầy đủ là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn, chưa rõ ai là tác giả. Châu Khuê đời Thanh khi giảo chánh cuốn Âm Chất Văn Chú đã nhận định: “Âm Chất Văn nói những chuyện liên quan đến đời Tống, ắt phải do người đời Tống biên soạn”. Học giả Tửu Tỉnh Trung Phu của Nhật lại cho rằng tác phẩm này phải được hình thành vào cuối đời Minh, nhưng không đưa bằng chứng đủ tính thuyết phục nào. Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của Âm Chất Văn, các đạo sĩ đã biên soạn Văn Đế Cứu Kiếp Kinh và Văn Đế Diên Tự Kinh để tiếp tục xiển dương tư tưởng khuyến thiện trừng ác trong Âm Chất Văn. Âm Chất Văn thác danh Văn Xương Đế Quân giáng cơ. Văn Xương Đế Quân vốn còn gọi là Tử Đồng Đế Quân, theo truyền thuyết vốn là Trương Á Tử, làm quan đời Tấn, chết trận, được dân chúng lập miếu thờ, rất hiển linh. Do các đạo sĩ đời Tống - Nguyên viết truyện nói ông Trương được Thượng Đế sắc phong làm Tử Đồng Đế Quân và đã nhiều lần giáng thế, được thiên đình giao cho nhiệm vụ chưởng quản phủ Văn Xương chuyên coi về việc học hành, thi cử, quan chức của thế gian nên còn có tên là Văn Xương Đế Quân. Do vậy, năm Diên Hựu thứ ba (1316) đời Nguyên, vua đã sắc phong cho Văn Xương Đế Quân một tước hiệu thật dài “Tử Đồng Thần Vi Phụ Nguyên Khai Hóa Văn Xương Tư Lộc Hoằng Nhân Đế Quân”. Chữ Âm Chất phát xuất từ thiên Hồng Phạm sách Thượng Thư: “Duy thiên âm chất hạ dân” thường được giải thích là “trời ngấm ngầm bảo vệ, che chở muôn dân”. Từ đó, Âm Chất được hiểu là làm những việc công đức ngấm ngầm, không khoe khoang, rêu rao cho người khác biết. Đặc điểm của Âm Chất Văn là dung thông những quan điểm của Tam Giáo, đặc biệt đề cao nhân quả, luân hồi, báo ứng, nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng.