Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên
Quyển Hạ
Phần 6
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo Chánh: Tịnh nghiệp hành nhân Minh Tiến & Huệ Trang
10. Trả lời những câu hỏi của cư sĩ Khúc Thiên Tường (hai mươi bảy câu)
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
1)
Hỏi: Nguyên nhân khiến đệ tử tin Phật bắt nguồn từ việc nghiên cứu thuật Thôi Miên.
Xưa kia con đã nghe tục ngữ có câu: “Chín
lần tu làm thiên tử, mười lần tu làm Phật”, nghĩ rằng tu mười đời mới thành
tựu được, thường sợ bỏ dở giữa đường, phí sạch hết công lao [tu tập] từ trước.
Nếu sớm biết sẽ thành tựu ngay trong đời này thì đã sớm niệm Phật rồi. Tuổi con
đã hai mươi bảy, rất hối hận đã phát tâm trễ tràng.
Đáp:
“Chín lần tu làm thiên tử, mười lần tu
làm Phật” chính là lời nói nhảm của kẻ chẳng biết gì về Phật pháp. Người biết
Phật sẽ trọn chẳng nói câu đó. Pháp môn Tịnh Độ chính là cậy vào Phật lực để liễu
sanh tử, đều phải có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, quyết định mong cầu
đến lúc lâm chung vãng sanh Tây Phương. Nếu chẳng cậy vào Phật lực mà muốn liễu
sanh tử thì ngàn đời vạn kiếp chẳng thể liễu thoát rất nhiều!
2)
Hỏi: Con tin tưởng tịnh tâm sẽ thành Phật, giống như trong thuật Thôi Miên ắt
phải trầm tĩnh rồi sau đấy mới có hiện tượng chẳng thể nghĩ bàn.
Đáp:
Tịnh tâm niệm Phật quán Phật sẽ dễ tương ứng với Phật. Nếu có lòng tin chân
thành, nguyện thiết tha, chắc chắn được vãng sanh, rồi sẽ dần dần tấn tu, ắt sẽ
thành Phật. Đừng nên nói “hiện tại tịnh tâm sẽ được thành Phật!”
3)
Hỏi: Con tin tưởng nhờ cậy vào Phật lực, như trong thuật Thôi Miên tự thôi miên
chính mình sẽ khó hơn bị người khác thôi miên. Vì thế biết là Tự Lực chẳng bằng
Tha Lực.
Đáp:
Hết thảy pháp môn đều phải cậy vào Tự Lực để đoạn Hoặc chứng Chân hầu liễu sanh
thoát tử, như người thọt chân tự đi, một ngày khó đi được trăm dặm. Pháp môn Tịnh
Độ nương vào sức Từ của Phật sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh, giống như kẻ thọt
chân ngồi trên bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương, trong một ngày đến khắp
bốn châu, làm sao có thể lấy chuyện Thôi Miên để chứng minh cho được!
4)
Hỏi: Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, [vậy thì] đức Phật được tưởng ấy có giống
như [đức Phật được tưởng trong] phép Quán thứ tám[1]
của Quán Kinh hay không?
Đáp:
Quán tưởng phải bắt đầu tu tập từ phép Quán thứ mười ba[2].
Nếu không, cảnh tế tâm thô, khó thể thành tựu, hoặc nếu như dụng tâm không
thích đáng sẽ dấy lên ma sự.
5)
Hỏi: Như khi gặp nguy hiểm, lâm vào tình thế chẳng thể cùng một lúc kiêm tụng
các chú thì hãy nên ứng dụng như thế nào?
Đáp:
Gặp phải tai nạn cực nguy hiểm, chỉ nên niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát là đỡ
tốn tâm lực nhất, [lại] có cảm ứng nhiều nhất.
6)
Hỏi: Nếu chuyên tụng Phật hiệu, hiệu lực so với thần chú như thế nào?
Đáp:
Phật hiệu và thần chú có công đức giống hệt như nhau, chỉ do lòng chí thành thì
mới có cảm ứng. Nếu trong tâm trước hết đã khởi lên ý niệm coi thường Phật hiệu
thì sẽ chẳng có lợi ích gì, vì đã không chí thành lại còn ngờ vực nên chẳng được
lợi ích chân thật.
7)
Hỏi: “Duy tâm Tịnh Độ tự tánh Di Đà” với “Tịnh Độ và đức Phật ở Tây Phương” là
một nhưng mà hai, là hai nhưng mà một phải không?
Đáp:
Có duy tâm Tịnh Độ thì mới sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Nếu tự tâm chẳng tịnh, làm
sao vãng sanh được? Dẫu là kẻ tội nhân nghịch ác nhưng do niệm Phật mười tiếng
bèn được vãng sanh là vì tịnh tâm niệm Phật mà cảm được [quả báo] vãng sanh Tây
Phương Tịnh Độ. Trong đời lắm kẻ tưởng “duy tâm là không có cõi nước”, trở thành
tri kiến của tà ma, ngoại đạo! Loại tà kiến tựa hồ là đúng nhưng thật ra là sai
ấy chiếm hơn quá nửa đến nỗi người niệm Phật chẳng được lợi ích thật sự, mà vẫn
tưởng mình là cao minh, chẳng biết đấy là tà kiến “chấp lý phế sự, tự lầm, lầm
người!” Do tự tánh Di Đà nên phải niệm đức Di Đà ở Tây Phương để cầu vãng sanh
hòng tấn tu dần dần để có đích thân chứng được Di Đà nơi tự tánh. Nếu chỉ chấp
vào tự tánh Di Đà, chẳng niệm đức Di Đà ở Tây Phương, dẫu có ngộ thật sự vẫn
không thể liễu sanh tử được! Huống chi những kẻ nói lời ấy toàn là bọn chấp chặt
một bề, toàn là phường nói xuông! “Là một nhưng hai” là chuyện trước khi thành
Phật, “tuy hai nhưng một” là chuyện sau khi đã thành Phật.
8)
Hỏi: “Sanh thì quyết định sanh, đi thì chẳng
thật sự đi”, sanh và đi đều chỉ cho điều gì?
Đáp:
“Sanh thì quyết định sanh” là nói
theo mặt Sự. “Đi chẳng thật sự đi” là
nói theo mặt Lý. Chẳng biết cội nguồn của Sự - Lý thì tốt hơn là hãy chất phác
niệm Phật theo sự tướng. Nếu không, ắt sẽ trở thành bọn tà ma, ngoại đạo chấp
lý phế sự.
9)
Hỏi: Người tên X… nọ khi mạng chung chợt nói: “Tịnh Độ ngay trong góc sân”, vậy
cõi đất này là Tịnh Độ ư?
Đáp:
Đấy chính là nghĩa lý “duy tâm Tịnh Độ” phát hiện. “Duy tâm Tịnh Độ” chính là cảnh
của một mình người đó, ngoài ra đều là duy tâm uế độ. Há có nên dựa theo cái thấy
của người ấy để phán đoán ư?
10)
Tụng kinh có phải là để làm cho chính mình sanh tâm hoan hỷ, chán lìa, hay là
còn có tác dụng chi khác?
Đáp:
Ông tụng kinh chỉ biết cầu hoan hỷ cho chính mình, đáng tiếc là vô biên diệu
nghĩa bị ông xem chẳng đáng một đồng!
11)
Hỏi: Hiểu Đệ Nhất Nghĩa là như thế nào?
Đáp: Hiểu Đệ Nhất Nghĩa tức là
triệt ngộ diệu lý Thật Tướng, duy tâm tự tánh.
12) Hỏi: Cái tánh còn lại sau
khi chết, [cái tánh đi] vãng sanh, và Phật tánh có những điểm giống nhau, khác
nhau như thế nào?
Đáp: Cái tánh của hết thảy
chúng sanh trước khi sanh ra sau khi chết đi, cái tánh vãng sanh và Phật tánh [ba
tánh ấy] đồng nhưng bất đồng, bất đồng nhưng đồng. Gọi là đồng vì bản thể của
tâm tánh không hai. Nói là bất đồng vì do mê hay ngộ nên sai khác vời vợi một
trời, một vực! Do có nghĩa này nên dạy người đoạn Hoặc chứng Chân để mong đích
thân chứng được tâm tánh vốn đồng ấy. Chỉ có Thể là đồng, nhưng do mê chưa chứng
nên bày ra đủ mọi pháp khiến cho họ bỏ vọng về với chân, trái trần hiệp giác hòng
đích thân chứng được. Cách tu rất nhiều, chỉ có niệm Phật cầu sanh Tây Phương
là dễ thực hiện nhất, dễ thành tựu nhất!
13) Hỏi: Phật dạy tu Quán
chính là vì chúng sanh đời sau ác trược chẳng lành bị năm thứ khổ bức bách mà lập
giáo. Nếu dùng Thôi Miên để bộc lộ Thiên Nhãn Thông ngõ hầu nói ra để chứng
minh thì hiển hiện cõi nước Cực Lạc cũng chẳng phải là chuyện khó. Huống chi rất
cần chứng minh cho việc niệm Phật, sao không khuyên người tu Quán mà lại bảo đó
là chuyện khó khăn?
Đáp: Thôi Miên là do sức [huyễn]
thuật, há phải là thật sự có Thiên Nhãn Thông ư? Người thật sự có Thiên Nhãn
Thông há chịu để cho người khác thôi miên! Ông nay đã học Phật, hãy nên chuyên
chí học Phật. [Muốn] hiện cõi Cực Lạc, chỉ dùng tịnh tâm mà niệm cho chuyên nhất
thì sẽ làm được. Ví như mài gương, mài đến cùng cực thì [gương] tự nhiên tỏa
sáng. Dùng thuật Thôi Miên để hiện thì trước hết tâm đã chẳng tịnh, niệm cũng
chẳng chuyên nhất, ví như dùng bột trắng xoa lên gương mà cứ mong gương tỏa
sáng, chẳng biết là đã phủ lấp tấm gương càng dầy vậy!
14) Hỏi: Tu Quán có phải là cậy
vào Phật lực hay không? Trong phép Quán thứ mười ba [của Quán Kinh] có nói: “Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên, tâm lực
của phàm phu chẳng thể thấu hiểu được, nhưng do sức túc nguyện của đức Như Lai ấy
nên có kẻ ức tưởng ắt được thành tựu”. Điểm khác biệt giữa phép Quán này và
tham Thiền là gì? So với tham Thiền có dễ hơn hay không?
Đáp: Tham Thiền chỉ cốt suy cứu
tự tâm, niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Hai pháp đạt đến rốt ráo viên thành
thì hoàn toàn giống như nhau, nhưng dụng công trong lúc tu trì thì rất khác biệt.
Ví như đi đường ngồi thuyền hay ngồi xe khác nhau, nhưng về đến nhà thì giống
như nhau.
15) Hỏi: Tu Quán là tưởng hay
là quán, hay dùng cả quán lẫn tưởng? Lấy gần hay lấy xa?
Đáp: Hai chữ “quán tưởng” há
nên chia ra làm đôi! Nhiếp tâm để tưởng chính là quán. Ông nghĩ là hai tức là
trở thành chỉ biết [mười bằng] một nhân với mười, chẳng biết [con số mười ấy]
nó cũng là hai lần năm. Hơn nữa, quán tưởng sao có thể chia ra thành gần hay xa
cho được!
16) Hỏi: Mỗi phép Quán phải cần
[tu tập] tối thiểu bao nhiêu ngày?
Đáp: Ông cho rằng tu một phép Quán
này mấy ngày, rồi sẽ tu pháp Quán khác đó ư? Chẳng biết đức Phật tuy nói mười
sáu phép Quán nhưng thoạt đầu hãy nên thực hành phép Quán thứ mười ba thì mới
là tu khế lý khế cơ.
17) Hỏi: Thoạt đầu là tưởng tượng
thì chẳng phải là lan man ư?
Đáp: Đã biết như trên đã nói
thì cứ dựa theo đó mà suy.
18) Hỏi: Phép Quán đầu tiên là
nhất tâm tưởng mặt trời, hay là phải ngầm trì danh hiệu?
Đáp: Quán và Trì Danh vốn là một
chuyện, ông cho rằng khi quán thì chẳng thể trì danh, chẳng được trì danh hay
sao?
19) Hỏi: Khi ngồi thì tu Quán,
những lúc khác thì trì danh, so với chuyên trì một thứ thì là hơn hay kém?
Đáp: Có cái tâm trầm tĩnh, kín
đáo, thuần túy thì tu Quán cũng tốt mà trì danh cũng hay. Nếu không, so ra trì
danh ổn thỏa hơn, bởi tâm chí sôi động, hời hợt, vọng động mà tu Quán thì sẽ bị
nhiều ma sự.
20) Hỏi: Quán thấy cõi nước Cực
Lạc thì đấy có phải là Tịnh Độ thật sự hay là tướng giả hiện?
Đáp: Quán thấy Cực Lạc chính
là do duy tâm biến hiện, bảo đó là giả thì trở thành gã đứng ngoài cửa mất rồi!
21) Hỏi: Quán thấy cõi Cực Lạc
và được nghe pháp thì có phải là Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông hay không?
Đáp: Đấy chính là do sức Quán
tạo nên. Nếu là Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ thì không cần quán cũng vẫn thấy nghe được.
22) Hỏi: Có người nói thấy Phật
chính là [thấy] vị Phật ở trong tâm chứ không phải là [thấy] vị Phật ở Tây
Phương. Nếu đúng như vậy thì khi vãng sanh, vị Phật trong tâm có hiện ra hay
không? Hay là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn?
Đáp: Lâm chung thấy Phật chính
là đức Phật do tự tâm cảm thành, chớ nên quy hết về tự tâm rồi nói rằng “không
có chuyện Phật đến đón!”
23) Hỏi: Còn như khi tu phép Quán thứ mười
ba, lúc ấy có thể tùy ý vãng sanh hay không? Hay phải đợi đến khi lâm chung mới
có thể vãng sanh?
Đáp:
Nghiệp báo chưa tận, làm sao vãng sanh ngay được? Xưa kia cũng có người [làm được
như vậy], nhưng không thể áp dụng cho hết thảy mọi người được!
24)
Hỏi: Quán đến khi thấy Phật nghe pháp rồi, mỗi ngày lại quán có cần phải bắt đầu
quán từ phép Quán đầu tiên hay không?
Đáp: Quán tưởng thì chỉ cần
quán sao cho đắc lực, cần gì phải từ đầu đến đuôi, hằng ngày tập đi tập lại! Phật
nói ra mười sáu phép Quán thì những phép Quán đầu nhằm khiến cho con người biết
đến sự trang nghiêm của Cực Lạc, [các phép Quán] về chín phẩm vãng sanh ở phần sau
nhằm làm cho con người biết nhân quả của phép được tu. Mỗi phép Quán đã biết
thì qua một phép quán Phật sẽ có thể quán trọn vẹn các phép Quán kia.
25) Hỏi: Từ phép Quán thứ mười
bốn trở đi chính là [quán] các phẩm vãng sanh. Đã không có cảnh để hiện mà dạy
quán, nghĩa là làm sao?
Đáp: Nghĩa này đã nói rồi. Hãy
xem những điều đã nói ở phần trên.
26) Hỏi: Những người vãng sanh
trên đây dường như chẳng phải là những vị do tu Quán mà vãng sanh, chẳng biết
nên tưởng sự vãng sanh của người tu Quán như thế nào?
Đáp: Phẩm vị của người vãng
sanh muôn sai ngàn khác, trong kinh chỉ dùng chín phẩm để nói tóm gọn, sao ông
biết những người vãng sanh trên đây chẳng do tu Quán mà được vãng sanh? Phải biết:
Căn tánh con người bất đồng, dẫu chỉ [cùng là] một pháp mà vẫn có cao - thấp rất
khác nhau, há nên câu nệ nơi pháp được tu ư? Ấy là do khả năng trong tâm địa của
mỗi người, ông cho rằng các vị như Văn Thù, Phổ Hiền… chẳng tu Quán ư?
27)
Hỏi: Nhớ số niệm Phật: Hít vào niệm sáu câu, thở ra niệm bốn câu là như thế
nào? Tâm đã nhớ số lại niệm Phật, rồi lại phải tưởng Phật nữa ư?
Đáp:
Niệm Phật nhớ số là từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười, sao lại hạn
định trong hơi thở? Ông là kẻ học luyện đan vận khí nên mới thấy một hai chữ
hơi tương tự, liền nói đó là công phu của họ. Cách niệm Phật nhớ số là vì kẻ vọng
tâm khó chế ngự mà đặt ra. Niệm được như thế, ghi nhớ như thế, lắng nghe như thế,
chắc chắn tâm sẽ dần dần điều phục. Ở đây có ai dạy ông thêm vào hai chữ “tưởng
Phật” đâu? Ở đây là tùy tiện niệm, nào phải bận tâm thở ra hay hít vào? Nếu hít
thở như thế lâu ngày sẽ bị tổn khí mắc bệnh, chẳng thể không biết [điều này]!
11. Pháp ngữ dạy nữ cư sĩ Châu Dư Chí Liên
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Bà
đã ngoài bảy mươi tuổi rồi, chẳng bao lâu nữa sẽ phải chết. Hiện thời phải
nhanh chóng thu xếp hết thảy mọi việc cho tốt đẹp, trong tâm ngoại trừ niệm Phật
ra, không để vướng mắc bất cứ chuyện gì khác thì khi lâm chung mới có thể không
vướng mắc, không ngăn ngại. Nếu bây giờ cứ vẫn chuyện gì cũng không buông xuống
được như thế, vẫn nhìn không thông suốt, khi lâm chung tất cả những tâm tham
luyến y phục, đồ trang sức trên đầu, nhà cửa, con cháu sẽ đều hiện ra hết, như
thế thì làm sao có thể vãng sanh Tây Phương cho được? Đã không thể vãng sanh được
thì bà một đời thủ tiết niệm Phật và làm đủ mọi chuyện hữu ích sẽ hoàn toàn trở
thành phước báo! Hiện thời bà vẫn chưa có trí huệ, tuy thường tinh tấn niệm Phật,
trong tâm vẫn chưa quyết định cầu sanh Tây Phương, đến đời sau trong lúc hưởng
phước chắc chắn bị phước mê hoặc, sẽ tạo các ác nghiệp. Đã tạo ác nghiệp, chắc
chắn phải đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chịu khổ! Nỗi khổ lớn lao ấy đều
là do đời này niệm Phật chẳng biết quyết định cầu sanh Tây Phương chiêu cảm.
Quang thương xót bà, sợ bà mai sau có thể lâm vào tình huống ấy cho nên lập sẵn
cách cho bà. Nếu bà chịu nghe theo lời tôi, sẽ chẳng do phước mà mắc họa.
Hiện thời tuy bà rất mạnh khỏe
nhưng phải nghĩ mình sắp chết. Bây giờ cần mặc những thứ quần áo nào thì giữ lại
để mặc, phàm những thứ y phục quý trọng như lượt, là, áo da v.v… đều chia cho
cháu, cho dâu. Những thứ cài đầu, xuyến đeo tay, hoa tai, vàng, bạc, phỉ thúy[3]
v.v… đều dùng để cứu giúp dân chúng bị tai nạn. Dùng công đức ấy để hồi hướng
vãng sanh. Nếu trong tâm thấy biết nhỏ nhoi, chẳng thể đem cứu vớt tai nạn thì
cũng nên chia cho con gái, cháu dâu, cháu gái v.v… Bên thân mình quyết chẳng được
giữ lại những thứ khiến cho con người dấy lòng tham luyến ấy. Tất cả những khoản
tiền dành dụm để phòng khi dưỡng già cũng nên giao hết cho con cháu, dù là khế
ước, sổ sách ruộng đất v.v… đi nữa cũng nên giao hết sạch [cho người khác]. Trong
tâm bà trừ chuyện niệm Phật, chẳng để cho có một chút ý niệm nào khác! Ngay cả
cái thân của bà cũng chẳng tính toán sẵn sau khi chết đi sẽ nên an bài ra sao.
Ngay cả với cháu, chắt cũng đều nên coi như người không quen biết, mặc kệ chúng
nó hay dở ra sao, ta chỉ quan tâm niệm đức Phật của ta, nhất tâm mong chờ đức
Phật đến tiếp dẫn ta vãng sanh Tây Phương.
Bà làm theo đúng như lời tôi
nói, hết thảy mọi sự đều buông xuống hết, đến lúc lâm chung tự nhiên cảm được
Phật đích thân rủ lòng tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu vẫn cứ tham luyến hết
thảy những vật tốt đẹp, tiền bạc, ruộng đất, nhà cửa, đồ cài đầu, quần áo và
con cái, cháu chắt v.v… y như cũ thì vàn muôn phần chẳng thể vãng sanh Tây
Phương được! Đã không sanh về Tây Phương được thì đời sau chắc chắn có si phước
để hưởng, do hưởng phước sẽ tạo nghiệp, chắc chắn khi một hơi thở ra không hít
vào được nữa sẽ đọa lạc trong tam đồ vì ác nghiệp ngăn lấp vậy! Tâm thức chẳng
rõ, dẫu có một vị Phật sống đến cứu bà cũng chẳng cứu được, há chẳng đáng
thương đáng xót lắm ư? Xin bà hãy tin lời tôi nói thì thật là may mắn không chi
hơn được!
12. Pháp ngữ khai thị cho cư sĩ Phùng Hữu Thư lúc lâm
chung
Bệnh
ông đã nặng, chỉ nên nhất tâm niệm Phật cầu Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương.
Nếu tâm ấy chân thành, ắt sẽ được mãn nguyện. Còn đối với tất cả tội nghiệp, chớ
nên lấy đó làm điều lo lắng. Vì nếu có thể cực lực chí tâm cầu sanh Tây Phương
thì sẽ có thể cậy vào Từ lực của đức Phật để đới nghiệp vãng sanh. Ví như tảng
đá to bỏ lên thuyền liền có thể từ bờ biển này sang được bờ kia. Cần biết rằng:
Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, tự tánh công đức lực
chẳng thể nghĩ bàn. Ba thứ chẳng thể nghĩ bàn ấy nếu không có cái tâm chí thành
tín nguyện niệm Phật sẽ không có cách gì hiển hiện được. Có lòng chí thành cầu
sanh Tây Phương thì ba thứ thần lực oai đức lớn lao chẳng thể nghĩ bàn ấy sẽ liền
được hiển hiện. Như ngồi trên chiếc tàu thủy lớn lại được xuôi gió, chẳng lìa ý
niệm trong hiện tại đây mà liền sanh về Tây Phương. Ông chỉ nên tin tưởng sâu
xa lời tôi, tự nhiên ông sẽ được mãn nguyện. Nay tôi đặt pháp danh cho ông là
Huệ Thoát, nghĩa là dùng trí huệ, tín nguyện niệm Phật liền được vãng sanh Tây
Phương, thoát ly sanh tử vậy.
13. Lời thông cáo nhún nhường của hội Phật giáo Ngô
huyện tỉnh Giang Tô dành cho Tăng chúng các tự viện
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Đức
Đại Giác Thế Tôn nương theo bi nguyện thị hiện giáng sanh, vốn thuận theo tâm
con người mà lập giáo để kẻ mê nhận lầm hình bóng cái đầu sẽ đích thân thấy được
bản lai diện mục, kẻ ôm của báu mà chịu cùng quẫn sẽ mau chóng có được của cải trân
bảo sẵn có trong nhà. Vì thế, Tam Thừa chóng chứng Bồ Đề, lục phàm cùng lên bờ giác.
Đấy chính là nguyên do khiến đạo này được truyền rộng rãi khắp trên trời dưới đất,
giáo pháp lan truyền khắp cõi tam thiên đại thiên. Ấy là vì Phật pháp là tâm
pháp. Tâm pháp ấy chúng sanh và Phật đều cùng có, phàm - thánh giống hệt như
nhau, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng. Phật do ngộ chứng rốt ráo nên
phước lẫn huệ đều cùng trọn đủ, Phiền Hoặc vĩnh viễn mất, hưởng pháp lạc chân
thường, thí đại giáo tùy thuận căn cơ. Chúng sanh do triệt để mê trái nên Phiền
Hoặc vĩnh viễn hừng hực, luân hồi chẳng ngơi, như chạm phải của báu trong nhà tối,
đâm ra lại bị tổn thương. Các giáo trong thế gian đều là nói quyền biến, chỉ có
mình Phật giáo khế lý lẫn khế cơ. Vì thế, từ đời Hán đến nay, khi giáo pháp được
truyền sang Đông Độ, bao đời đều khâm kính, cả cõi đời thảy tôn sùng.
Nếu [Phật pháp] không tỏ rõ
nhân để chỉ quả khiến cho người đời giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận hòng
giúp cho đạo cai trị, hiểu tâm thấu gốc khiến cho người học đoạn Hoặc chứng
Chân để dự vào dòng thánh thì làm sao có thể kéo dài đến tận ngày nay mà mối đạo
vẫn chẳng bị suy sụp cho được? Huống chi từng bị ba vua Vũ[4]
bạo ngược, bọn Nho sĩ câu nệ như Hàn Dũ, Âu Dương Tu và lũ Trình - Châu trong
lòng sùng phụng, bề ngoài chống trái bài xích mà vẫn được chấn hưng [tiếp tục tồn
tại] trong cõi đời, là do được hàng vua quan có thế lực lớn lao hộ vệ, do bậc đại
đức cao tăng hoằng dương. Cuối đời Thanh, phong hóa cõi đời ngày một đi xuống,
nước nhà không rảnh rỗi để đề xướng, Tăng chúng phần nhiều biếng nhác tu trì, đến
nỗi kẻ không có chánh tri kiến ai nấy đều ôm giữ ý niệm “đuổi Tăng, chiếm đoạt
tài sản”. Nhưng do cõi đời ngày càng loạn đến cùng cực, những người có lòng liền
đua nhau dấy lên học Phật, cho nên [cõi đời] vẫn chưa đến nỗi bị khốn khổ ách nạn
lớn lao.
Những người cùng sắc áo với
tôi hãy thường nghĩ “ta là đệ tử Phật phải nên hoằng dương sự giáo hóa của đức Phật,
giáo hóa chúng sanh để làm cầu bến cho cõi đời, báo ân đức của Phật”. Nếu chính
mình vẫn chẳng tự gắng sức thì hóa ra đã tạo căn cứ cho những kẻ đuổi Tăng chiếm
đoạt tài sản [biện minh cho hành động của chúng], bị kẻ tại gia chuyên ròng tu
hành coi thường, há chẳng phải là tự mình chuốc lấy nỗi lo hay sao? Con người
ai mà không mong được người khác tung hô, nếu chẳng gắng sức tu trì thì chính
là tự chuốc lấy sự chán ghét. Phật pháp chẳng thể bị bại hoại bởi thiên ma, ngoại
đạo mà chỉ bị bại hoại bởi tăng sĩ chẳng tuân phụng giáo pháp, giới luật của đức Phật! Ví như trùng trên thân
sư tử tự ăn thịt sư tử. Chỉ vì thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được
ý niệm bèn thành thánh, con người ai cũng có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng có
thể thành Phật, điều đáng quý là tự gắng sức vậy!
Cuối đời Minh, Ngẫu Ích đại sư
là con nhà họ Chung ở Mộc Độc, thiên tư thông minh, mẫn tiệp, lúc nhỏ theo mẹ
ăn chay lễ tụng, lên bảy tuổi đi học, coi thánh học (Nho học) là trách nhiệm của
chính mình, thề diệt Thích - Lão, bắt đầu ăn mặn, uống rượu, viết mấy chục bài
luận báng Phật. Năm mười bảy tuổi, đọc bài tựa cho cuốn Tự Tri Lục của Liên Trì
đại sư và Trúc Song Tùy Bút bèn chẳng báng Phật. Sau đấy bèn cực lực nghiên cứu,
năm hai mươi bốn tuổi bèn xuất gia, triệt ngộ tự tâm, thâm nhập kinh tạng, một
đời trước thuật mấy chục tác phẩm đều là những thứ xưa nay hiếm thấy.
Hiện thời có ông Đặng Trịnh
Khôn ở Tứ Xuyên là sinh viên tốt nghiệp trường Pháp Luật Chánh Trị hết sức cuồng
ngạo, chống đối. Đầu thời Dân Quốc, ông ta chuyên môn hủy hoại Phật giáo, bất
luận miếu thờ thần hay chùa thờ Phật đều suất lãnh đồ đảng phá hủy. Sau đấy, chợt
biết là sai, tận lực cải hối, đến Phổ Đà xin quy y, ở Thượng Hải Cư Sĩ Lâm tám
năm, tinh tấn tu trì. Năm trước, chiến tranh nổ ra tại đất Hỗ (Thượng Hải), ông
ta ở trong Cư Sĩ Lâm chẳng kinh sợ, chẳng dời động, trước - sau - trái - phải
Cư Sĩ Lâm đều biến thành vùng đất tan hoang, bom đạn lớn nhỏ rớt vào trong Lâm nhưng
chẳng nổ một trái nào. Đủ thấy con người sửa lỗi hướng thiện, Phật, Bồ Tát liền
ban thưởng trọng hậu, che chở cho. Dẫu chúng ta chẳng được như ngài Ngẫu Ích,
há cũng chẳng bằng được ông Trịnh Khôn ư? Trịnh Khôn là người mang tội ác cực lớn
lao còn được cảm ứng như thế, chúng ta há nên lần khân cho qua ngày, chẳng thêm
gắng sức, giống như lên núi báu mà trở về tay không ư?
Gần đây chánh phủ thường ra lệnh
rõ ràng cho Tổng Hội Phật Giáo Trung Quốc, buộc Hội phải nhắc nhở răn đe Tăng
Già ai nấy tận lực giữ Thanh Quy. Phải biết rằng: Tăng Già là bậc thầy khuôn mẫu
cho trời người, chánh phủ ban lệnh đốc thúc tức là [Tăng Già] đã mất thể thống.
Nếu vẫn cứ như đang nằm mộng thì sợ rằng sau này khó tránh được nạn Tăng sĩ bị xua
đuổi, tài sản bị chiếm đoạt! Hiện thời hội Phật giáo của huyện nhà đã được
thành lập, mọi người đều nên nhất trí tiến hành duy trì đại cuộc cho Phật giáo,
chớ nên chỉ mong tu tập cho riêng mình. Nếu hội Phật giáo không có cách gì để
duy trì thì muốn tự tu tập cũng chẳng thể tu tập được đâu! Vì thế, ai nấy đều
phải nghiêm túc tu trì, tự tôn trọng lấy mình. Hiện thời cư sĩ tại gia ai nấy đều
chuyên chú tu tập tinh ròng và nghiên cứu, nỡ nào đường đường là một bậc tỳ-kheo
lại đâm ra thua kém hàng cư sĩ ư? Người có hào khí hãy nên phát khởi mạnh mẽ,
cũng như ai nấy đều nên góp phần tài lực để hỗ trợ cho công việc của hội. Công
việc của hội có liên quan đến sự an - nguy của chính mình, ví như hai tay hai
chân sử dụng lẫn cho nhau. Thứ này chẳng giúp đỡ thứ kia sẽ khó thể sống được.
Quang là một ông Tăng tầm thường
chỉ biết cơm cháo, đang đợi chết, sống uổng phí cả một đời, hổ thẹn sám hối còn
chẳng kịp, sao dám khoe xấu trước mặt những vị thiện tri thức các chùa. Do Chủ Tịch
là hòa thượng Đạo Hằng thấy Quang già cả, nói ra chắc người ta sẽ nghe theo,
bèn cậy tôi soạn lời tuyên cáo. Tuy biết mình thiếu đạo đức để khiến người khác
cảm phục, nhưng một phen giãi lòng thành tính toán lo liệu cho pháp môn ắt sẽ
có người đồng ý. Do vậy, đem tình hình Phật giáo đã trải qua và tình hình trong
thời gần đây trình bày đại lược. Phàm những vị cùng một sắc áo với tôi, ai nấy
hãy mạnh mẽ phát khởi đại tâm để mong trên là tiếp nối huệ mạng của Phật của Tổ,
dưới làm phước điền cho chúng sanh, ngõ hầu Phật pháp được hưng thịnh trở lại trong
buổi nguy ngập, suy vong, nhân dân đều được hưởng lợi ích pháp hóa thì may mắn
chi hơn?
14. Đôi lời đề tựa cho cuốn A Di Đà Kinh của nữ sĩ
Vương Tông Ý
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Các
pháp thế gian và xuất thế gian không gì chẳng lấy lòng Thành làm gốc. Những người
tu hành càng phải nên chí thành. Hễ có lòng Thành thì nghiệp chướng tiêu trừ,
thiện căn tăng trưởng. Phàm lúc tụng kinh ắt phải dứt bặt lo nghĩ, vọng duyên,
nhất tâm tịnh niệm như đối trước thánh dung, đích thân nghe viên âm, chẳng dám
manh nha chút niệm lười nhác, coi thường! Lâu ngày chầy tháng sẽ tự ngầm thông
Phật trí, thầm hợp đạo mầu. Ví như ánh nắng Xuân vừa chiếu đến, băng cứng tự
tiêu tan. Lòng Thành đến mức cùng cực sẽ hoát nhiên thông suốt. Đấy chính là
cách hay nhất để xem kinh, niệm Phật. Bà có thể suốt đời hành theo cách này thì
lợi ích sẽ chẳng thể nào diễn tả được! Tông Ý hãy ghi nhớ nhé!
15. Lời răn dạy khích lệ các học trò ghi sau cuốn Quy
Ước của Cô Nhi Viện Phật giáo chùa Pháp Vân
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
Chuyện
trong thiên hạ đều lấy lòng Thành làm căn bản. Lòng Thành đến mức cùng cực thì
đá - vàng cũng phải nứt. Thành tích, hiệu quả thật sự đều cậy vào lòng Thành.
Cô Nhi Viện từ thuở được đề xướng, thành lập dến nay, các vị quản trị đều thật
lòng cứu người nghèo, giúp đỡ trẻ mồ côi, cạn hết tinh lực để lo toan khiến cho
cô nhi nghèo khổ đều thành tựu chánh khí, thành gia lập nghiệp, vận dụng phong
thái đại đồng bác ái rộng lớn hòng cứu vãn thế đạo nhân tâm [đang trong lúc ai
nấy] đối xử với nhau bằng thái độ khinh dễ, tranh chấp mới thôi. Các vị quản trị
đều có tấm lòng thành ấy, vì thế cảm được Lưu viện trưởng chẳng quản già yếu,
đích thân lo liệu việc trong viện, mỗi một việc dù to lớn hay nhỏ nhặt đều lo
liệu thích nghi. Do vậy, các vị giáo viên đều cùng hết lòng dạy dỗ.
Các trò trong viện được ăn no
mặc ấm, sống yên nơi đây, ắt phải chú trọng dấy lòng cảm kích, nỗ lực học chữ học
nghề, ngõ hầu khỏi phụ một phen hết lòng của viện trưởng, giáo viên, quản trị
và những vị thiện sĩ đã giúp đỡ tiền bạc. Nếu có được cái tâm ấy thì gốc đã lập,
đạo sẽ sanh, sau này thành gia lập nghiệp, phẩm cao hạnh trỗi, được xã hội khâm
phục ngưỡng mộ sẽ là điều có thể đoán trước được! Nhưng muốn mai sau được thành
tựu thì phải lập chí hành sự từ ngay bây giờ, cần phải trung hậu, siêng năng, cẩn
thận, khiêm cung, hòa thuận, tâm và miệng như một, những gì biểu lộ ra ngoài và
những gì ẩn kín trong lòng chẳng hai, thường giữ lòng hổ thẹn, đừng tự kiêu
căng, sáng - tối chí thành niệm Phật để mong tiêu trừ túc nghiệp, tăng trưởng
thiện căn, chuyện gì cũng lấy lòng thành làm gốc, niệm niệm thường tự soi xét tự
tâm thì sự thành tựu của các trò đều chẳng thể lường được! Vì sao vậy? Do có căn
bản vậy! Nếu hiện tại chẳng dấy lòng Thành cảm kích, hổ thẹn, sốt sắng, dũng
mãnh siêng học, chỉ mong cho xong việc sao cho qua ngày đoạn tháng thì hóa ra đã
cô phụ tấm lòng thiết tha của viện trưởng và các vị [ân nhân]. Do không có lòng
Thành nên dẫu chẳng bị tổn phước giảm thọ, chết yểu, thì cũng là thây đi thịt
chạy, là hạng người cả cõi đời đều chán ghét, vứt bỏ! Các trò phải biết tốt - xấu,
ai nấy gắng sức lên thì may mắn lắm thay!
16. Khuyên khắp mọi người kính tiếc giấy có chữ và tôn
kính kinh sách
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Con
người sống trong thế gian được thành tài đạt đức, dựng công lập nghiệp, cho đến
có được một tài một nghề để nuôi bản thân lẫn gia đình đều nhờ vào sức chủ trì
của văn tự. Chữ là thứ quý báu nhất trong thế gian, có thể khiến cho kẻ phàm trở
thành thánh, kẻ ngu thành trí, kẻ bần tiện trở thành phú quý, kẻ tật bệnh trở
thành mạnh khỏe, đạo mạch thánh hiền được lưu truyền muôn đời, lo toan cho bản
thân gia đình, truyền lại cho con cháu, không gì chẳng cậy vào sức văn tự. Nếu
cõi đời không có chữ thì hết thảy mọi sự lý đều chẳng thành lập được, con người
khác gì cầm thú đâu! Đã có công sức như thế, cố nhiên phải nên trân trọng, mến
tiếc. Trộm thấy người thời nay mặc tình khinh nhờn, làm nhơ bẩn, đúng là coi vật
quý báu nhất hệt như phân đất vậy, há chẳng khỏi đời này tổn phước giảm thọ, đời
sau vô tri vô thức ư? Hơn nữa, không chỉ chẳng nên khinh nhờn, làm dơ, vứt bỏ
chữ hữu hình mà đối với chữ vô hình lại càng chẳng nên khinh nhờn, làm bẩn, vứt
bỏ! Nếu chẳng tận lực thực hiện “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” tức
là đã quên mất tám chữ vậy. Đã quên tám chữ ấy thì sống là loài cầm thú đội mũ
mặc áo, chết đọa trong tam đồ ác đạo, chẳng đáng buồn ư?
Chữ là thứ quý báu nhất trong
thế gian; vàng, bạc, châu ngọc, tước vị chẳng thể sánh bằng, vì vàng, bạc, châu
ngọc, tước vị đều do chữ mà có. Nếu thế gian không có chữ thì vàng, bạc, châu
ngọc, tước vị cũng không có cách gì để đạt được cả! Ân đức của chữ nói chẳng thể
tận. Kính tiếc chữ viết phước báo rất lớn. Cha của ông Vương Văn Chánh đời Tống
hết sức kính tiếc giấy có chữ, về sau mộng thấy Khổng Phu Tử dùng tay xoa lưng
bảo: “Ông dốc lòng tiếc chữ của ta như thế
nên ta sẽ sai Tăng Sâm sanh vào nhà ông hòng làm rạng rỡ môn hộ”. Do vậy, về
sau sanh con bèn đặt tên là Vương Tăng[5],
đỗ đầu liên tiếp ba kỳ thi, được phong làm Tể Tướng, khi mất được đặt thụy hiệu
là Văn Chánh Công, tước phong Nghi Quốc Công. Hậu duệ đỗ đạt liên miên, con
cháu hiền thiện đều do đời trước kính trọng sách vở và giấy có viết chữ mà ra.
Gần đây, gió Âu dần dần thổi
sang phương Đông, chẳng những kẻ bình dân chẳng biết kính tiếc sách vở, giấy có
chữ, ngay cả Nho sĩ đọc sách cũng chẳng cung kính sách vở và giấy có chữ, hoặc
bỏ sách trên sập ngồi, hoặc dùng sách để gối đầu, hoặc giận dữ bèn quăng sách
xuống đất, hoặc đi tiêu tiểu vẫn xem thi thư. Chẳng những đại tiểu tiện xong nhất
loạt chẳng rửa tay, mà ngay cả đêm nằm ngủ với vợ, sáng dậy đọc sách cũng chẳng
rửa tay. Thường dùng giấy có chữ viết để lau chùi đồ đạc, rồi vẫn [giả vờ] giữ tiếng
là kính trọng giấy có chữ bèn đốt [những mảnh giấy đã dùng để lau chùi đồ đạc ấy].
Vì thế, khiến cho những kẻ bình dân không có gì để học theo, nên trong thùng
rác, trong nhà tiêu, đầu đường cuối ngõ, không đâu chẳng là giấy có chữ [la liệt]
khắp đất. Người đi tàu, ngồi xe thường dùng giấy báo để lót chỗ ngồi, phụ nữ đi
ra ngoài đều dùng giấy báo để bọc giày, vớ. Đủ mọi nỗi khinh nhờn chẳng thể nêu
trọn. Vì thế, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống đều là vì khinh nhờn vật
quý báu nhất trong trời đất mà ra. Chẳng biết trong những tờ giấy có chữ ấy đều
có những chữ “thiên, địa, nhật, nguyệt”, có những câu văn trích từ kinh sách của
thánh hiền. Coi vật trân bảo tôn quý tột bậc ấy như phân, như đất, há lẽ nào chẳng
giảm phước tổn thọ, hiện tại gánh lấy tai ương, gây nên quả báo con cháu ngu
hèn ư?
Bài văn ở phía trên của thầy ta đã bao quát những nét chánh yếu, nhưng tôi vẫn sợ “nêu ra một điều chưa chắc [người đọc] đã suy nghĩ đến ba”, cho nên tôi lại chọn lựa những điều con người dễ coi thường để nhắc thêm, ngõ hầu người có lòng lo cho thế đạo nhân tâm sẽ xoay vần khuyên chỉ, để ai nấy đều cùng mến tiếc giấy có chữ viết thì sẽ giàu, thọ, mạnh khỏe, bình yên, thân hiện tại được hưởng năm điều phước như Cơ Tử đã luận, thông minh sáng suốt, hậu duệ sẽ nhận lãnh trăm điều tốt lành như trong bài giáo huấn của Y Doãn (Trần Tiên Thiện viết)
17. Luận về tên gọi của Tam Dư Đức Đường
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Ông
Ninh Đức Tấn xin khai thị về tên gọi Tam Dư Đường của chính mình, mong sao đối
với pháp thế gian liền hiểu thông suốt Phật pháp, ngõ hầu con cháu đời sau ai nấy
đều vâng giữ đạo “trọn vẹn luân thường, tu tâm” hòng làm chuyện lợi mình, lợi
người. Tôi nói: Hai chữ Tam Dư[6]
bất quá để khuyên răn siêng năng, tận lực học hành, đừng bỏ phí thời gian, một
khắc ngàn vàng, hễ đã mất không cách nào tìm lại được. Hãy nên thêm vào một chữ
Đức thì ý nghĩa sẽ sâu xa hơn. Dư là như câu “tích thiện dư khánh, tích bất thiện dư uơng” trong kinh Dịch, mang
ý nghĩa dài lâu chẳng ngơi, lưu truyền mãi mãi chẳng hư nát vậy. Không một pháp
thế gian nào thường còn mãi, chỉ riêng có người lập đức, lập công, lập ngôn thì
mới có thể vĩnh viễn truyền lại cho đời sau và thường còn lâu dài; nhưng tạo lập
được đức nghiệp ấy, nói dễ dàng sao? Nay dạy cho ông cách thực hiện dễ mà thành
công cao, dùng sức ít mà được hiệu quả nhanh chóng, dẫu chẳng có bản lãnh tạo dựng
ấy nhưng lợi ích sẽ lớn lao hơn nhiều.
Ấy chính là dốc lòng tu “giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, mến tiếc sanh mạng
loài vật, rộng hành phương tiện, tạo lợi ích cho hết thảy, thật sự vì sanh tử
phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu sanh Cực
Lạc thế giới”. Dùng điều này để tự hành, lại còn dùng đó để dạy người. Phàm
trong là cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, ngoài là làng nước, xóm giềng, thân
thích, bạn bè, đều lấy chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận và niệm Phật
cầu vãng sanh để khuyên lơn sao cho bọn họ đều cùng trong đời này vượt trỗi, dự
vào bậc thánh hiền, đến khi lâm chung cao đăng cõi Cực Lạc. Luận về phương diện
sự nghiệp, thành tích thì những người kia (tức những người lập đức, lập công, lập
ngôn) to lớn hơn những người này nhiều lắm, nhưng luận về lợi ích thì những người
này trội hơn những người kia thật sâu. Ấy là vì một đằng thì chuyên chú vào
pháp thế gian, một đằng còn chú trọng thêm nơi pháp xuất thế. Một đằng chỉ hữu
ích cho sắc thân, một đằng thì kèm thêm lợi ích cho huệ mạng nữa. Đấy chính là
ba dư đức cho pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian. Đến khi vãng sanh Tây
Phương thấy Phật nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn thì Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát
tam đức bí tạng sẽ từ Phần Chứng mà đạt đến chỗ Viên Chứng rốt ráo, thì mới là
rốt ráo ba dư đức vậy! Ba đức ấy theo chiều dọc cùng tột ba đời, theo chiều
ngang trọn khắp mười phương, hằng cổ hằng kim, chẳng dời, chẳng biến, nơi phàm
chẳng giảm, tại thánh không tăng, nhưng do mê chưa ngộ nên chẳng thể thụ dụng
được.
“Pháp Thân Đức” chính là bản
tánh bất sanh bất diệt của chúng ta, “Bát Nhã Đức” chính là chánh trí lìa niệm
thường hiểu biết của chúng ta, “Giải Thoát Đức” chính là tịnh hạnh trong sạch
không tỳ vết của chúng ta. Ba Đức ấy chẳng tách rời nhau, ước trên mặt nghĩa lý
thì chia thành ba, chứ thật ra, một còn chẳng lập, huống là có ba! Vì thế gọi
là “ba dư đức rốt ráo”. Nếu không gieo thiện căn trong đời trước, dẫu hết kiếp
cũng chẳng nghe được nghĩa này. Dùng ngay những pháp thế gian như luân thường,
hiếu, đễ v.v… để tu Phật pháp, dùng ngay pháp xuất thế liễu sanh tử để hướng dẫn
những pháp luân thường, hiếu đễ v.v… khác nào dựng tháp trên đỉnh núi và đào giếng
nơi đất thấp, tuy cùng đạt được những cái giống nhau, nhưng dụng công có hình
tướng khó - dễ khác biệt vô cùng. Nếu có thể y theo đó để tu thì lợi ích lớn
lao thay!
18. Luận về cái tên Tông Đạo
(năm Dân Quốc 19 - 1930)
Đứa
con chưa sanh ra có pháp danh là Tông Đạo, cái tên ấy dùng để xưng hô suốt cả một
đời, chẳng cần phải đặt ra nhũ danh, quan danh, tự và hiệu[7].
Vì sao vậy? Muốn cho nó thấy cái tên mà nghĩ đến ý nghĩa để tự giữ bản thân cho
tốt lành lại còn nêu gương cho hết thảy nữa. Tông là gốc, là chủ. Đạo là cái
tánh bọn ta đều cùng sẵn có và là pháp phải nên trọn hết, phải nên hành vậy.
Tánh tức là Phật tánh, do mê chưa ngộ bèn thành chúng sanh. Nay lấy tánh ấy làm
tông tức là giành được quyền làm chủ, tất cả những vọng niệm tham - sân - si sẽ
chẳng tới mức tự buông lung, ào ạt đến nỗi lấn chủ gây họa. Những pháp “phải nên
trọn vẹn hết, phải nên hành” chính là “cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính,
chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành”. Tám điều ấy tuy thuộc vào
tám đối tượng, nhưng thật ra không một ai chẳng đều trọn đủ [tám vai trò ấy]. Hễ
đã có chức trách thì phải tận hết bổn phận, ắt sẽ chẳng phải lo gia đình không
yên vui, con cái không được dạy dỗ. Lại cần phải “ngăn giận, chặn dục, dứt lòng
tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” thì sẽ làm
gương cho làng xóm, khiến cho ai nấy đều dõi theo nhau, [bắt chước nhau] mà làm
lành. Lại còn phải chí thành niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tự hành, dạy người
cùng sanh về Tịnh Độ, đích thân chứng được Phật tánh vốn có thì cái tên Tông Đạo
mới có thực chất. Xin hãy thường dùng những điều này để dạy bảo nó.
19. Sớ quyên mộ nạo vét ao hoa sen chùa Phổ Tế núi Phổ
Đà
(năm Dân Quốc 20 - 1931, viết thay)
Phổ
Đà danh sơn chính là cuộc đất thù thắng thị hiện dấu tích của Đại Sĩ. Phổ Tế
Thiền Tự quả thật là đạo tràng cầu phước cho quốc dân. Do vậy, các triều đại
khâm kính, cả cõi đời tôn sùng. Phật điện, lầu kinh chót vót tận trời thẳm, lời
văn của hoàng đế, bia ngự huy hoàng trong chốn biển Đông. Thiện tín vì gội ân
toan báo đức mà chẳng sợ trèo núi vượt biển nhọc nhằn, những bậc mong thành chánh
giác, mong chứng Chân trong ngoài nước ai nấy đều muốn giãi bày tấm lòng kiệt
thành tận kính. Nhưng do điện vũ rộng lớn, mà tài sản nhà chùa đạm bạc, hằng
năm cần phải chi tiêu rất nhiều, lương thực cho Tăng chúng [tốn kém] rất lớn,
chỉ chuyên lo đối phó với chuyện ấy, nên chưa rảnh rang để lo đến ao sen. Ao
chính giữa sen còn mọc đầy, nhưng bùn sâu nước cạn, cũng khó thể là kế lâu dài
được! Ao ở phía Tây đã từng là vườn rau, rồi lại đào thành ao. Ao ở phía Đông lớn
nhất, ước chừng mười mẫu, bùn lầy tràn ngập, khác nào chằm cỏ.
Bất Huệ thay mặt vị Trụ Trì,
thẹn thiếu tài đức, trộm nghĩ tiền nhân đào ao đâu phải chỉ nhằm mục đích mỹ
quan, mà chính là vì muốn biểu thị cảnh tượng Tây Phương ngõ hầu những người tạm
đến đây hoặc thường trụ khi đi kinh hành bên bờ ao hoa sen, thần thức sẽ dạo
chơi Cực Lạc. Nếu có thể tịnh niệm tiếp nối, chắc chắn lâm chung sẽ vãng sanh.
Quả thật là duyên trợ đạo thù thắng, thực sự là nhiệm vụ cấp bách để hoằng
pháp, tính cho khơi vét cả hai ao chánh giữa và ao phía Đông, dùng đá be bờ ao
phía Đông, phía trên xây lan can bằng xi-măng để bảo vệ và tạo vẻ mỹ quan. Như
vậy thì cái ao vuông mười mẫu mênh mông như tấm gương, có được nguồn nước lưu
chuyển sẽ soi bóng mây và ánh sáng mặt trời khiến cho bậc thượng sĩ Nam tham, bậc
cao nhân Đông thỉnh[8]
kinh hành trên những tầng cấp ở bốn phía sẽ khế ngộ “nhất niệm tịnh tâm”. Mối
quan hệ ấy há nông cạn, nhỏ nhoi ư? Nhưng bát [rỗng tuếch] như chiếc khánh treo
cậy tay người đẽo gọt, khẩn cầu các vị đại hộ pháp cùng phát thâm tâm thành tựu
sự tốt đẹp, ai nấy quyên ra của báu tốt đẹp vô tận để do tài thí mà thành pháp
thí, chỉ làm một chuyện mà được lợi ích đôi bề, công đức ấy há thể diễn tả được
ư?
20. Sớ thuật bày duyên khởi trùng hưng chùa Thọ Lượng
tại Cám Châu (tỉnh Giang Tây)
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Thật
Tế lý địa trải trần kiếp chẳng biến, chẳng dời, nhưng trên phương diện Phật sự
thì theo nhân duyên mà có hưng vượng hay suy bại. Tuy “bỉ cực thái lai” vốn thuộc
vận trời, nhưng sửa cũ dựng mới quả thật phải nhờ vào con người thực hiện. Xưa
kia khi đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn đã đem pháp đạo phó chúc cho quốc vương,
đại thần, dạy họ hộ trì, lưu thông. Ấy vì Ngài đã thấy trước đời sau pháp yếu
ma mạnh, nếu không cậy vào hạng vĩ nhân có quyền lực bảo vệ bình yên, ngăn chặn
kẻ khinh lấn, thì tròng mắt của trời người, huệ mạng của Như Lai chắc sẽ gần
như bị diệt mất. Chùa Thọ Lượng là một đạo tràng cổ đã lâu một ngàn năm trăm
năm của Cám Châu. Nhằm thời Tiêu Lương[9],
Phòng Ngự Sứ[10]
là Lô Quang Đảo vì sư Đạo Thành mà dựng chùa này. Thoạt đầu đặt tên là Lô Hưng
Diên Thọ, rồi đổi thành Thánh Thọ, đến niên hiệu Tường Phù đời Tống, vua Chân
Tông đặc biệt sắc tứ cho chùa cái tên hiện thời. Trong những đời Nguyên, Minh,
Thanh, đời nào cũng hưng vượng, đến thời Quang Tự nhà Thanh, đột nhiên bị suy
vi. Năm Dân Quốc thứ 4 (1915), lại bị lụt lớn, đến nỗi ngôi chùa Phật trang
nghiêm trọn thành gò hoang, chỉ có mình tượng Quán Âm cao một trượng sáu đúc bằng
sắt là còn nguyên vẹn không bị hư hại. Những vị thân sĩ trong vùng thỉnh hòa
thượng Đại Xuân chùa Quang Hiếu kiêm nhiệm Trụ Trì. Hòa Thượng bèn cùng với đại
sư Đức Sâm – là vị Tăng trụ ở đấy – cạn sức lo liệu, dựng Quán Âm Điện.
Sau này, cụ Đại Xuân qua đời,
thầy Đức Sâm rời đất Cám, tìm người kế nhiệm Trụ Trì không ra, đến nỗi tòa thị
chánh coi là đất bỏ hoang, tính sửa thành chợ rau, mở đường sá. Những hàng Tăng
- tục trong vùng báo cho thầy Đức Sâm biết, do vậy thầy bèn gởi thư đến những bậc
tai to mặt lớn các giới lần lượt khẩn cầu bảo vệ. May sao được Tưởng Ủy Viên
Trưởng thuộc Quân Sự Uỷ Viên Hội và Trần Tổng Tư Lệnh tỉnh Quảng Đông cùng Từ
Quân Trưởng đều đánh điện cho vị Sư Trưởng đang đóng quân ở đất Cám là tiên
sinh Lý Toàn Không lập cách bảo vệ. Hội Phật Giáo Trung Quốc cũng lại gởi thư, đánh
điện cầu xin Lý Sư Trưởng duy trì cũng như tuyển lựa người thích hợp qua lại phụ
trách, quy hoạch, chỉnh lý. Ông Lý bèn hạ lệnh bãi bỏ đề nghị trước kia, lại
còn bằng lòng duy trì cho [nhà chùa] mau được khôi phục. Những vị quan viên, thân
sĩ trong vùng như ông Lưu Cấp Phủ v.v… tận lực đảm nhiệm vai trò trung gian và nguyện
làm hậu thuẫn giúp cho ngôi chùa được khôi phục. Ấy là vì pháp đạo được hưng thịnh
đều do có nhân duyên, chẳng qua cơn sóng gió này thì ngôi chùa này sẽ gần như
biến mất.
Chỉ vì hiện thời đang nhằm thuở
Mạt Pháp, con người căn tánh kém hèn, nếu không cậy sức đại thệ nguyện của Phật
Di Đà để vãng sanh Tây Phương thì ai có thể đoạn sạch Phiền Hoặc, liễu sanh
thoát tử ngay trong đời này? Do vậy, khôi phục lần này sẽ chuyên tu pháp môn Tịnh
Độ và lập thêm Cư Sĩ Lâm, lưu thông xứ (phòng phát hành kinh sách), để các nhân
sĩ trong vùng đều biết đạo trọng yếu hòng
thoát Ngũ Trược lên chín phẩm và biết khuôn mẫu tốt lành để giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, biết nhân quả, tu trì cẩn thận. Như thế thì do Liên Xã được
mở mang mà tông phong chấn hưng, lễ giáo hưng khởi, vận nước tốt đẹp, sáng sủa,
ngõ hầu xứng với ý nghĩa lập chùa đặt tên của cổ nhân, cũng như để an ủi một
phen nhiệt tâm bảo vệ duy trì của các vị.
Nhưng do nhà chùa không có hằng
sản, tăng không tích trữ, bèn cậy Bất Huệ viết lời sớ dẫn giải hòng khẩn cầu
các vị đại hộ pháp và các thiện tín phát tâm Bồ Đề hành phương tiện sự, chở
vàng, chở gạo, xoay vần khuyên bảo quyên mộ, khiến cho điện báu thênh thang sớm
có ngày thành công, mãn nguyệt kim dung thường trụ suốt kiếp. Tịnh tông được thịnh
hành, con người đều biết đạo thoát khổ, nhân quả phô tỏ rõ ràng, mọi người cùng
nhau đi theo con đường mong trở thành thánh, sẽ thấy Phật, trời bảo vệ như mây
nhóm, tốt lành, mừng vui đua nhau đưa đến, cửa nhà yên vui, quyến thuộc bình
an, giàu, thọ, khỏe mạnh, bình yên, thân hiện tại được hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử
đã luận, lan quế[11]
ngào ngạt, hậu duệ nhận lãnh trăm điều tốt lành như đã nói trong bài giáo huấn
của Y Doãn, chỉ mong ai nấy đều phát lòng tùy hỷ, đều cùng được tiếng thơm.
21. Sớ quyên mộ tu bổ điện vũ và thánh tượng chùa Quán
Âm ở Triệu Gia Thôn thuộc Đông Hương, huyện Cáp Dương
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Quán
Âm Đại Sĩ thệ nguyện rộng sâu, pháp giới chúng sanh đều được bình đẳng nhiếp thọ,
khiến cho kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa được độ thoát liền gieo,
liền chín muồi, liền độ thoát. Đối với kẻ nên dùng thân nào để độ được bèn hiện
thân ấy để thuyết pháp. Ấy là vì Đại Sĩ vô tâm, lấy tâm của chúng sanh làm tâm [của
chính mình]; Đại Sĩ không có cảnh, lấy cảnh của chúng sanh làm cảnh [của chính
mình], nên gặp kẻ mê muội tự tâm bèn nói những lời pháp ngữ mềm mỏng khiến cho
kẻ ấy khai ngộ, gặp kẻ mắc phải các hiểm nạn bèn hiện thành cầu bến hay nhân sĩ
khiến cho kẻ ấy được thoát lìa. Do Đại Sĩ thành Phật đạo đã lâu, bi nguyện vô tận,
nên giống như vầng trăng rạng ngời in bóng ngàn sông, dường như ánh nắng Xuân sanh
thành muôn cây cỏ, chẳng mong tưởng mà được như vậy. Do vậy, ai nấy đều cảm mộ hồng
ân bảo vệ, phù trợ, cho nên nơi nào cũng lập miếu để thờ phụng Ngài.
Chùa Quán Âm thuộc Triệu Gia
Thôn tại Ấp Đông, vốn tên là Quán Âm Viện, [điều này] thấy [ghi] trong bi ký do
một Sinh Viên[12]
trong ấp là Lô Tường Hưng soạn vào năm Thiên Khải thứ hai (1622) đời nhà Minh.
Người đời sau dựng thêm Phật điện ở đằng trước, đổi tên viện thành Nho Đông Tự,
nhưng do hai chữ này đối với pháp đạo chẳng biểu lộ được ý nghĩa sâu xa nào, mà
kẻ thấy nghe cũng khó thể gieo thiện căn! Huống chi đang trong lúc luôn gặp phải
tai họa này, nếu chẳng đề xuất thánh hiệu Quán Âm khiến cho nhân dân xưng danh
thoát khổ thì chẳng những cô phụ lòng Từ mênh mông của Đại Sĩ mà còn cô phụ sâu
xa thâm tâm của người kiến lập Quán Âm Viện thuở ấy. Vì thế, đổi tên là Quán Âm
Tự. Kiến trúc của chùa là một tòa cửa Tam Quan, bên trong ấy thờ hai vị Kim
Cang; một tòa Phật điện thờ ba vị Phật Thích Ca, Dược Sư, Di Đà, có Ca Diếp, A
Nan đứng hầu bên cạnh; sau Phật điện là một tòa điện Vi Đà[13],
hai bên là hai tòa phối điện[14],
phía Đông thờ Quan Đế, phía Tây thờ Già Lam[15].
Chính giữa là một tòa Quán Âm Điện, bên trong thờ đức Quán Âm, đứng hầu hai bên
là Thiện Tài, Long Nữ. Hai bên vách là Thập Bát La Hán[16].
Dựa theo hình thế ấy, đủ biết Phật điện là do sau này xây dựng thêm vào.
Người trong ấp tôi từ sau thời
Càn Long - Gia Khánh, Phật học bặt tiếng vang, ngoại đạo cũng không có. Gần đây
nạn đói kém dồn dập xảy ra, quân binh, giặc cướp nhiều lượt quấy nhiễu, nhân
dân khổ sở cùng cực, mong yên vui nhưng chẳng được! Các thứ ngoại đạo thừa cơ
kéo đến, môn đình tuy khác nhau, nhưng nói chung là dùng luyện Tinh - Khí - Thần
để cầu thành tiên làm bầy tôi của Thiên Đế mà thôi! Thoạt đầu, ông Lý Tiên Đào
lên Thượng Hải buôn bán nghe pháp quy y. Đến khi quay về, thỉnh một số kinh
sách để tặng cho những bạn tri giao có học thức tại các huyện Cáp, Trừng, Triều.
Do vậy, mới biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, thực hiện
dễ, thành công cao, dùng sức ít, hiệu quả nhanh chóng, cậy vào Phật từ lực liền
có thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, so với những kẻ cậy vào tự lực để
liễu sanh tử thì khó - dễ khác biệt vời vợi hệt như một trời một vực.
Mùa Hạ năm nay, [ông Lý] từ
Cam Túc trở về làng, ngày mồng Tám tháng Tư đến Quán Âm Tự lễ Phật, thấy điện
vũ điêu tàn, thánh tượng long lở, sứt mẻ, muốn tu bổ đôi chút, nhưng tiếc rằng
sức chẳng thể kham nổi, đến đất Tô cậy Quang viết sớ để hô hào người khác giúp
tay. Quang nói: “Đang trong lúc tai họa liên tiếp xảy ra, nhân dân khốn khổ
này, chỉ sợ chẳng có mấy người chịu thí xả, nhưng đem tờ sớ của tôi cho mọi người
xem, dẫu người ta chẳng bỏ ra một đồng nào cũng đã gieo được thiện căn liễu
thoát ngay trong đời này cho người ấy, huống chi nghĩ đến ân Đại Sĩ ắt sẽ có
người tùy phận tùy sức giúp đỡ. Khoản tiền quyên được nếu nhiều sẽ tu bổ lớn, nếu
nhỏ sẽ sửa chữa nhỏ. Dẫu chẳng được một đồng nào thì tôi vẫn không uổng công soạn
tờ sớ, ông vẫn có công quyên mộ lớn lao! Vì sao vậy? Do [người ta] đọc tờ sớ
này sẽ biết hồng ân độ chúng sanh của đức Quán Âm và đại pháp Niệm Phật để liễu
sanh tử, sẽ thấy sau này những kẻ nối tiếp nhau khởi lên nhiều không thể kể xiết.
Cớ gì cứ phải chấp nhặt một thời, một chỗ, mới là báo ân hoằng pháp hay sao?”
22. Sớ quyên mộ xây dựng đại điện của Liên Tu Tịnh Xá tại
đập Dương Thiện, huyện Giang Đô, Dương Châu
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Pháp
môn Tịnh Độ thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, thực
hiện dễ mà thành công cao, dùng sức ít mà hiệu quả nhanh chóng, chẳng đoạn Hoặc
nghiệp mà được dự vào [địa vị] Nhất Sanh Bổ Xứ, ngay trong đời hiện tại chắc chắn
thoát khỏi luân hồi lục đạo. Do pháp này là chỗ quy túc của hết thảy các pháp Thiền,
Giáo, Luật, Mật, là đạo trọng yếu để ba đời chư Phật viên mãn Bồ Đề vậy. Vào cuối
đời Minh, hòa thượng Giác Căn mở một đạo tràng Tịnh Độ tại đập Dương Thiện thuộc
Giang Đô, chuyên tu Niệm Phật tam-muội. Từ đấy về sau luôn có cao nhân trụ trì,
vì thế pháp đạo [tồn tại] lâu dài chẳng suy vi. Trong thời Hàm Phong - Đồng Trị
nhà Thanh, sau cơn binh hỏa, hòa thượng Tịch Sơn phái người trông coi, gần đây
giao cho đồ đệ là Trí Định làm Trụ Trì, nghiêm túc tuân theo quy củ xưa, chẳng
dính đến ngoại duyên. Năm ngoái bị gặp trận lụt lớn, điện đường, liêu xá đều bị
cuốn ra biển Đông, tường vách đại điện chẳng còn sót gì. Lúc dựng đại điện đã
dùng ba cây gỗ lớn để chống đỡ khám thờ Phật, cũng bị trôi đi mất. Khám thờ Phật
bị nước lũ xoáy vỡ, cũng bị cuốn đi.
Nước ngập đến gối tượng Phật, kim thân của bộ tượng Tây Phương Tam Thánh cao tám thước đều tạc bằng gỗ Hương Chương[17] kể cả tòa sen gặp cơn vùi dập này chẳng bị tổn hoại mảy may. Đủ thấy nước lũ do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm, tượng Phật gặp phải trận tấn công dữ dội này vẫn nghiễm nhiên như cũ. Ấy là vì muốn thị hiện cho khắp mọi chúng sanh được thấy để họ quy mạng, gieo tấm lòng thành cầu được vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Sau khi nước rút, trước hết sư Trí Định dựng một lều tranh để tượng Phật chẳng bị nắng hun mưa xối, nhưng chuyện tu bổ đại điện thì chỉ biết than vãn xuông chẳng biết làm sao hơn! May có huyện trưởng huyện Giang Đô là ông Dương, cục trưởng cục Tài Chánh là ông Diệp, cục trưởng cục Công An là ông Trần, cục trưởng cục Kiến Thiết là ông Lý và những vị thân sĩ, cao niên vùng Giang Đô ai nấy thấy chuyện kỳ lạ như thế đều bỏ tiền ra giúp đỡ hòng khôi phục ngôi cổ đạo tràng làm chỗ cho người địa phương cầu phước; do vậy sư Trí Định xin tôi viết bài sớ giãi bày nguyên ủy để khẩn cầu mười phương đàn-việt (phần dưới lược đi).
23. Sớ quyên mộ tu bổ đại điện và các điện đường, liêu
xá chùa Nam Thiên Trúc Diễn Phước tại Hàng Châu
(năm Dân Quốc 18 - 1929)
Quán
Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã sớm thành Phật đạo, hiệu là Chánh
Pháp Minh, nhưng do tâm từ bi tha thiết, lòng độ sanh ân cần nên lại chẳng lìa
cõi Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, tùy loại hiện thân tầm thanh cứu khổ,
đủ mọi phương tiện độ thoát chúng sanh. Tức là khiến cho kẻ chưa gieo thiện
căn, chưa chín muồi, chưa độ thoát sẽ liền gieo, liền chín muồi, liền độ thoát,
nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy thuyết pháp. Do vậy, nơi nơi đều
lập đạo tràng, nhưng Thiên Trúc là nơi thấy rõ nhất, vì Hàng Châu thường được
xưng là Phật Quốc, nhân dân thiện căn sâu dầy, nên Bồ Tát linh cảm dị thường.
Nam Thiên Trúc Diễn Phước Tự là
do ông Trần Trọng Bảo xây dựng vào năm Khai Hoàng 15 (595) đời Tùy, thỉnh pháp
sư Chân Quán khai sơn. Pháp sư vốn thuộc dòng họ Phạm danh giá ở Tiền Đường, đã
thoát khỏi bẫy lồng từ bé, trí huệ thiên bẩm thâm nhập kinh tạng, triệt ngộ tự
tâm. Thoạt đầu đến yết kiến Thiên Thai Trí Giả đại sư được Đại Sư dùng lễ đồng
môn để đối đãi thì có thể hình dung được mức độ cao sâu nơi đạo đức và sự ngộ
chứng của Sư. Đến khi trụ tại chùa này, Sư thường giảng kinh Pháp Hoa, pháp đạo
hưng thịnh ít ai sánh bằng. Vì thế, người đương thời nói: “Thiên Trúc có Chân Quán là bằng nửa thiên hạ rồi”. Từ đấy về sau bể
dâu biến đổi, hưng - phế không nhất định.
Đến năm Thuần Hựu thứ tám (1248)
đời Tống Lý Tông, chùa lại được trùng hưng, vua ban biển ngạch là Sùng Ân Diễn
Phước Tự, cho mãi đến đời Nguyên, thời nào cũng có cao nhân, nhưng được Nhuận
pháp sư trụ trì sáu năm hoằng dương lớn lao giáo nghĩa Thiên Thai và Liên Tông.
Pháp sư lễ tụng siêng gắng, cõi đời ít ai sánh bằng. Lúc mới xuất gia, Sư lễ thần
Già Lam, tượng bèn hư đổ, nếu chẳng có cội gốc sâu xa, làm sao được như vậy? Đến
cuối đời Minh, gặp cơn binh hỏa, chùa biến thành gò hoang, dân phụ cận chiếm cứ
làm của riêng đã hơn hai trăm năm. Năm Dân Quốc thứ 5 (1916), hòa thượng Hổ Bão
Pháp Luân nhân đọc sách vở mới biết nguyên do, muốn bảo tồn cổ tích, chí mong
khôi phục, hỏi những bậc cao niên tìm được nền chùa cũ, đem ba ngàn đồng chuộc
lại được hơn mười mấy mẫu, liền dựng một am tranh, phái người chăm sóc, để đợi
cơ duyên. Đến năm Dân Quốc 12 (1923), đại sư Phật Duyên mới tiếp nhận trông
nom, sáng chiều lễ tụng, mong có người nương theo đại nguyện luân sẽ trải vàng[18]
trùng hưng đạo tràng Tịnh Độ hoành siêu (phần sau lược đi).
24. Sớ quyên mộ tổ chức pháp hội cầu đảo hằng năm để lợi
lạc rộng khắp
(năm Dân Quốc 18 - 1929. Viết thay cho nhóm cư sĩ Vương Nhất Đình; về sau, do thầy Minh Giác qua đời nên chưa tiến hành được)
Trộm
nghĩ thế giới vốn bình yên, do tình kiến khác biệt mà thành rối loạn; lòng trời
vốn từ thiện, do sự ác của chúng sanh chiêu cảm nên tai ương thường giáng xuống.
Do vậy, mấy năm gần đây đao binh, lụt lội, hạn hán, đói kém, tật dịch liên tiếp
xảy ra, dân không lẽ sống; nhưng đã cùng sống trong khoảng trời đất, há chẳng
ôm lòng “dân là người ruột thịt, loài vật
giống như ta” ư? Vì vậy, những người cùng hàng hèn kém [như chúng tôi] trong
nhiều năm qua, hễ các thứ tai ương, hoạn nạn xảy ra ở các nơi đều tận hết sức mọn
để cứu giúp. Ấy chính là thương xót cho nỗi khổ sở đắng cay trong đời này mà lập
phương cách. Thêm nữa, hồn người đã khuất không chỗ quay về, lâu ngày biến
thành vong linh dữ dằn, nếu chẳng lập cách siêu độ thì làm sao an ủi được những
loại cô hồn ấy dưới suối vàng cho được? Vì thế, mỗi năm
phải đặc biệt lập đạo tràng để cứu vớt cô hồn, cầu chúc thái bình. Đấy
chính là nhiệm vụ cấp bách để ngăn dứt tai ương trong tương lai vậy! Từ trước đến
giờ, việc cầu đảo chưa quyết định tại chỗ nào, cứ tùy ý cử hành tế độ cô hồn.
Trộm nghĩ Quán Âm Đại Sĩ thệ
nguyện rộng sâu, danh sơn Phổ Đà là nơi Ngài ứng hóa. Hòa thượng Minh Giác lại
là vị tăng chân thật tiến hành chuyện công ích, do vậy tính giao phó cho Ngài
[thực hiện pháp hội này] ngay tại am của Ngài. Vào dịp Thanh Minh[19]
trong tháng Ba [Âm lịch] sẽ niệm thánh hiệu Quán Thế Âm bảy ngày, vào ngày viên
mãn sẽ đặc biệt làm lễ thí thực. Vào tháng Bảy bèn niệm thánh hiệu đức Địa Tạng
bảy ngày, thí thực bảy hội. Tiết Đông Chí sẽ niệm thánh hiệu Phật Di Đà bảy
ngày, đến ngày viên mãn sẽ thí thực một hội. Mỗi lần đều thỉnh bốn mươi tám vị
Tăng. Dùng công đức ấy để siêu độ hết thảy những cô hồn chết vì đao binh, lũ lụt,
hạn hán, đói kém, tật dịch để họ đều được sanh vào đường lành, ngõ hầu chẳng đến
nỗi biến thành oán quỷ gây ra chuyện hung ác. Từ đấy nhân dân yên vui, lòng trời
hòa thuận vui sướng, mưa - nắng do vậy sẽ đúng thời, sâu rầy do vậy chẳng sanh
sôi thì vật mạnh, dân yên, thiên hạ thái bình vậy! Lại nguyện quân, dân, trưởng
quan, ai nấy phước thọ đều tăng cao, chuyện tốt lành xảy đến, hưởng đủ năm thứ
phước như Cơ Tử đã luận, cùng nhận lãnh trăm điều tốt lành như đã nói trong bài
giáo huấn của Y Doãn. Dùng phước đức này vỗ về chăm bẵm dân ta, phong thái đại
đồng sẽ lại được thấy trong ngày nay. Phàm những ai cùng hàng với tôi xin hãy
giúp đỡ, tán thành.
25. Sớ lễ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát cầu con
(năm Dân Quốc 29 - 1940. Soạn vào cuối Xuân năm Canh Thìn)
Ngưỡng
vọng Quán Âm Đại Sĩ thệ nguyện sâu xa mênh mông, bình đẳng nhiếp thọ pháp giới
hữu tình, khiến cho kẻ chưa gieo thiện căn, chưa chín muồi, chưa độ thoát sẽ liền
gieo, liền chín muồi, liền độ thoát, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân
ấy thuyết pháp. Ấy là vì Đại Sĩ vô tâm dùng tâm của chúng sanh để làm tâm, Đại
Sĩ vô niệm, dùng niệm của chúng sanh làm niệm. Vì thế, khởi lòng Từ vô duyên, vận
lòng Bi đồng thể, như vầng trăng vằng vặc in bóng khắp ngàn sông, như ánh nắng
Xuân khiến cho khắp muôn loài cỏ cây sanh sôi, khắp các cõi nước nhiều như bụi
trần cảm thì Ngài sẽ ứng trong khắp các cõi nước nhiều như bụi trần. Không điều
mong cầu nào chẳng được toại ý, có nguyện gì đều được vừa lòng. Đệ tử… và vợ
là…. đau xót trước cảnh thế đạo nguy ngập, thương cho lòng người chìm đắm ngày
càng thêm xuống dốc, trọn chẳng ngưng dứt. Ngưỡng mong Đại Sĩ ban cho chúng con
một đứa con phước đức trí huệ để trong tương lai nếu nó nghèo cùng thì sẽ riêng
mình nó thiện hòng xướng suất, hướng dẫn một làng; hễ hiển đạt thì khiến cho
người khác cũng được tốt lành, đẩy lùi con sóng cuồng nghiêng ngửa.
Riêng lập ra ba điều ước định
để làm điều kiện tiên khởi. Thứ nhất là giữ thân tiết dục, thứ hai là giữ vẹn
luân thường, tích đức, thứ ba là khéo dạy từ lúc còn nằm trong thai và khi còn
thơ ấu. Gắng sức hành ba điều này để mong khỏi phụ tấm lòng Từ mênh mông của Đại
Sĩ. Lại mong hết thảy đồng nhân trong ngoài bốn biển đều dứt ác tâm, đều phát
thiện niệm, đều sanh con phước đức, trí huệ, đều thấu hiểu lòng nhân che khắp
chở đều, coi nước láng giềng như chân tay, xem thiên hạ như một nhà, duy trì lẫn
nhau, chẳng xâm lăng, ngược đãi nhau để mong trên là an ủi được ơn lớn mênh mông
của cha trời mẹ đất, dưới xứng danh Con Người cùng với trời đất xưng là Tam
Tài, chuyển đại loạn thành đại trị, khắp nơi cùng vui sướng, sự giáo hóa của đức
Phật được tỏ suốt hai nơi, muôn nước đều yên ổn. Kính nguyện Bồ Tát phổ thí sự
không sợ hãi, thương xót tấm lòng ngu thành của con, cho con được mãn nguyện.
Ngày… tháng… năm… đệ tử… trăm lạy trình lên.
* Ba điều trọng
yếu để cầu con
Thứ
nhất giữ thân tiết dục để vun bồi Tiên Thiên[20].
Thứ hai là giữ vẹn luân thường, tích đức để lập nền phước, thứ ba là khéo dạy từ
khi còn trong thai và khi con còn thơ ấu để con khỏi học theo thói phàm. Ba
chuyện trọng yếu này phải chú tâm thực hành. Ngoài ra lại còn dùng lòng chí
thành lễ niệm đức Quán Thế Âm, cầu Ngài ban cho đứa con phước đức, trí huệ, rạng
danh tổ tiên, vẻ vang đất nước, ắt sẽ được như lòng mong cầu, chẳng phụ thánh
ân vậy!
1)
Thứ nhất, giữ thân tiết dục để vun bồi Tiên Thiên:
Nếu
chẳng tiết dục thì tinh khí bạc nhược ắt khó thọ thai được. Dẫu có thọ thai ắt
khó thành người! Dẫu được thành người, nhưng vì Tiên Thiên chẳng đủ, chắc chắn
sẽ bấy bớt, đã không có thân lực mạnh mẽ, dũng mãnh, khỏe khoắn, mà cũng chẳng
có tâm lực thông minh, mẫn tiệp, nhớ dai, chưa già đã suy, chẳng làm nên cơm
cháo gì! Cầu được đứa con như thế dù Bồ Tát có thỏa nguyện thì thật ra người [cầu
con] cũng đã phụ ân Bồ Tát rất sâu vậy.
2)
Thứ hai, giữ vẹn luân thường, tích đức để lập nền phước:
Muốn
sanh được đứa con phước đức, trí huệ, rạng danh tổ tiên, vẻ vang đất nước, ắt
phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, hiếu thuận cha mẹ, kính trọng người
bề trên, đối đãi tốt đẹp với quyến thuộc, thương xót giúp đỡ tôi tớ, đấy là những
điều phải làm trong gia đình. Còn đối với xóm giềng, bạn bè đều phải nên hòa mục,
khuyên dạy, khiến cho người già khéo dạy con cái, trẻ nhỏ khéo phụng sự cha mẹ,
người bề trên, thường dùng những thuyết “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, nguyện sanh Tây Phương, vĩnh
viễn thoát khỏi khổ luân” để khẩn
thiết diễn nói với khắp mọi người cùng hàng khiến họ bồi đắp cái nhân xuất thế
thù thắng, đều thành dân lành giữ đạo. Người làm được như thế thì nhất cử nhất
động đều có ích cho mình lẫn người, mỗi lời nói, mỗi hành vi đều đáng làm khuôn
phép, đứa con sanh ra ắt sẽ siêu quần bạt tụy, có thành tựu lớn lao. Cố nhiên Bồ
Tát khiến cho con người được mãn nguyện mà con người cũng an ủi tấm lòng Bồ Tát
vậy.
3)
Thứ ba, khéo dạy từ khi còn trong thai và khi con còn thơ ấu để con khỏi học
theo thói phàm:
Những
bậc thánh nhân thuở trước đều do cha mẹ hiền khéo dạy mà thành, huống chi phàm
nhân? Nếu người cầu con chịu dùng cách thai giáo, đứa con nhất định hiền thiện.
Sau khi cấn thai rồi, [người mẹ phải giữ sao cho] hình dung đoan trang, chân
thành, thanh tĩnh, lời lẽ phải trung hậu, hòa bình, cư xử phải hiếu hữu, cung
kính, hòa thuận. Đi - đứng - nằm - ngồi thường niệm thánh hiệu Quán Âm. Bất luận
niệm ra tiếng hay niệm thầm đều phải lắng tai nghe. Hễ nghe thì tâm quy về một
mối, công đức càng lớn. Nếu áo mũ tề chỉnh, rửa tay, súc miệng sạch sẽ thì niệm
ra tiếng hay niệm thầm đều được. Nếu chưa tắm gội, súc miệng, đi đến nơi không
sạch sẽ và lúc ngủ nghỉ, hãy đều nên niệm thầm. Công đức niệm thầm giống hệt
[niệm ra tiếng, chứ những lúc ấy mà] niệm ra tiếng thì không hợp [nghi thức cung
kính]. Nhưng đến khi sanh nở chớ nên niệm thầm, vì lúc sanh nở phải dùng sức để
đẩy đứa con ra. Nếu ngậm miệng niệm, ắt sẽ bị bệnh tắc khí! Sản phụ tự niệm,
gia quyến đều trợ niệm, chắc chắc chẳng bị khó sanh, cũng không bị những điều
nguy hiểm sau khi sanh nở. Nếu có thể cẩn thận thân - miệng - ý như thế, kiền
thành niệm Quán Âm mong cho thai nhi được hưởng chánh khí thuần thiện ấy thì đứa
con sanh ra chắc chắn chẳng phải là hạng tầm thường.
Đến khi con hiểu biết, liền
nói với nó về nhân quả, báo ứng, lợi người lợi vật ắt tốt lành, hại người hại vật
ắt tiêu vong! Phải biết: Lợi người lợi vật thật sự là lợi mình, hại người hại vật
còn quá hơn hại mình, làm lành ắt có thiện báo, tạo ác ắt bị ác báo. Lại còn
nói làm người ắt phải tuân hành tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm,
sỉ” thì mới chẳng thẹn làm người! Nếu không, tuy mang hình dáng con người, tâm
hệt như cầm thú vậy! Chẳng được nói dối, chẳng được bừa bãi, cuồng ngạo, chẳng
được chiếm đoạt đồ vật của người khác, chẳng được đánh chửi người ta, chẳng được
giẫm đạp trùng kiến, giấy có chữ, ngũ cốc, đồ vật. Cử động hành vi ắt phải có
ích cho cha mẹ, cho chính mình, không gây tổn hại đến người đến vật. Ngoài ra,
hãy nên dạy nó thường niệm thánh hiệu Quán Âm để mong tiêu trừ ác nghiệp, tăng
trưởng thiện căn. Tập quen từ thơ ấu, lớn lên sẽ là người thuần thành, chuyên dốc,
chẳng đến nỗi tự kiêu khinh người, thành phường cuồng vọng. Khéo dạy như thế
thì đối với tổ tông là đại hiếu, đối với con cái là đại từ, đối với nước nhà xã
hội là đại trung. Tôi thường nói: “Quyền
trị quốc bình thiên hạ hàng nữ nhân nắm quá nửa” là vì lẽ này. Đức cao đẹp ấy
có thể nối gót ba bà Thái đời Châu ngõ hầu chẳng phụ danh xưng Thái Thái! Nguyện
những người cầu con hãy đều nên lấy những điều trên đây làm khuôn phép thì nước
nhà sẽ may mắn lắm thay!
* Ghi thêm những chuyện cấm kỵ để tránh họa
hại
Phàm
người cầu con thì vợ chồng phải ước định đoạn dục nửa năm để bồi đắp Tiên Thiên
cho đứa con. Đợi khi người vợ sạch kinh nguyệt bèn chung đụng ắt sẽ thọ thai.
Chưa sạch kinh nguyệt chớ nên ân ái, ân ái ắt sẽ bị bặt kinh, gây ra bệnh bạch
đới rất nguy hiểm. Lại phải nhằm ngày lành tháng tốt, khí trời trong trẻo, lúc
mưa to gió lớn, sấm chớp sét lòa phải hết sức kiêng kỵ. Trong thiên Nguyệt Lệnh
sách Lễ Ký có chép: “Quý Xuân, tiên lôi
tam nhật, tù nhân dĩ mộc đạc tuần vu đạo lộ, viết: “Lôi tương phát thanh, hữu bất giới kỳ dung chỉ giả, sanh tử bất bị, tất
hữu hung tai” (Cuối Xuân, trước khi sấm động ba ngày, viên quan truyền lệnh
dùng linh gỗ đi khắp các nẻo đường truyền lệnh: ‘Sắp có sấm động, kẻ nào chẳng kiêng ăn nằm thì sanh con chẳng toàn vẹn,
ắt sẽ bị tai nạn hung hiểm’). Bậc vua thánh thời cổ đau đáu nghĩ đến cuộc sống
người dân, đặc biệt phái quan đi tuyên bố lệnh ấy, lại còn cho chép vào kinh điển,
chẳng phải là tấm lòng của trời đất cha mẹ ư? “Tù nhân” là ông quan tuyên bố mệnh
lệnh. “Mộc đạc” chính là cái linh, rung linh cho dân chúng đều nghe thấy. “Tuần”
là đi. “Đạo lộ” bao gồm đường nẻo trong thành thị và làng quê. “Dung chỉ” là ăn
nằm, “bất bị” là ngũ quan, tứ chi không trọn vẹn hoặc sanh ra quái vật, “hung
tai” là vợ chồng hoặc bị bệnh ngặt, hoặc bị tử vong.
Đã cấn thai rồi, vĩnh viễn
thôi ăn nằm thì chắc chắn sanh được đứa con thân tâm mạnh khỏe, phước thọ sâu dầy.
Có thai rồi chung đụng một lần thì thai bị trúng độc một lần, lớp bọc thai nhi
dày thêm một lần, sản nạn tăng thêm một tầng. Nếu có thai lâu ngày rồi giao phối,
có thể bị sẩy thai hoặc gây tổn thương cho thai. Những điều này là do cư sĩ
Trương Đức Điền ở huyện Vĩnh Gia, tỉnh Chiết Giang nghĩ thương cho thế đạo nhân
tâm ngày càng đi xuống nên vào mùa Thu năm ngoái bèn gởi thơ xin Quang viết bài
sớ lễ niệm Quán Âm cầu con và nói lên cách giữ gìn thân thể, tích đức, dạy dỗ
khéo léo v.v… để mong sanh ra những đứa con đều là hiền thiện, ngõ hầu [đất nước]
dần dần đạt đến thái bình. Quang nhiều lần nại cớ già cả để từ chối, ông ta vẫn
nhiều lần khẩn cầu, khó lòng khước từ mãi, bèn soạn bài sớ đơn giản cùng với ba
điều trọng yếu cho xong trách nhiệm!
26. Lời bạt cho cuốn Liên Tông Chánh Truyền
(năm Dân Quốc 18 - 1929)
Cuốn
sách Pháp Vũ Quyên Trích Lục (Giọt nước Pháp Vũ) đã trình bày khá rõ ràng về những
lẽ lợi - hại do trợ niệm khi lâm chung và phá hoại chánh niệm của việc tắm rửa,
thay quần áo, khóc lóc v.v… Mẹ ông Châu Sư Đạo may nhờ sức trợ niệm mà được
chánh niệm rỡ ràng, hiện các tướng lành qua đời. Do vậy anh em ông ta đem in [cuốn
sách ấy] theo lối thạch bản mấy trăm bản để tặng những người hữu duyên xa gần.
Nay lại dùng số tiền do mẹ để lại để in một vạn cuốn Liên Tông Chánh Truyền nhằm
kết tịnh duyên mong cho mẹ chưa vãng sanh sẽ được vãng sanh, đã vãng sanh sẽ
tăng cao phẩm vị. Do vậy đem cuốn Pháp Vũ Quyên Trích Lục in kèm vào sau cuốn
sách này ngõ hầu hết thảy mọi người đều biết lẽ lợi - hại do trợ niệm và phá hoại
[chánh niệm] để chẳng đến nỗi vì yêu thương cha mẹ và yêu thương anh em, vợ
con, quyến thuộc mà làm chuyện trái đạo, do cái tâm yêu thương làm chuyện tổn hại,
mà vẫn tưởng chính mình đã hết lòng vì người chết! Nhưng do phàm phu hiểu biết
kém hèn, chưa nghe Phật pháp, nào ai biết được bao nhiêu chuyện tổn hại hay hữu
ích. Sách này lưu truyền xa gần để cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc của hết
thảy những ai chánh tín niệm Phật khi còn sống gieo thiện căn sâu xa, mất đi
thì thần thức siêu thăng Tịnh Độ. Phương pháp này do hòa thượng Thiện Đạo đời
Đường đã phát minh ra, cho rằng người thường ngày chẳng niệm Phật mà nương theo
trợ niệm cũng có thể vãng sanh. Hòa thượng Thiện Đạo là hóa thân của Phật Di Đà;
do vậy biết pháp ấy lợi ích sâu rộng, nguyện khắp những người thấy nghe đều
sanh chánh tín, khuyên dạy lẫn nhau công đức vô lượng, đến khi chính mình lâm
chung chắc chắc có người trợ niệm. Vì sao vậy? Do nhân như vậy sẽ cảm được quả
như vậy, nhân lẫn quả đều phù hợp nhau.
27. Lời bạt ấn tống Tịnh Độ Ngũ Kinh
(năm Dân Quốc 26 - 1937)
Kinh
Phạm Võng chép: “Ngươi là Phật sẽ thành,
ta là Phật đã thành, thường tin được như vậy thì giới phẩm đã đầy đủ”. Kinh
Hoa Nghiêm dạy: “Hết thảy chúng sanh sẵn
đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể
chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, [chấp trước] thì Nhất
Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều được hiện tiền”. Do vậy biết tâm tánh chúng sanh và tâm Phật vốn đồng, ba
pháp “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt, chỉ vì mê hay ngộ mà phân
biệt vậy! Hiềm rằng khi chúng sanh còn mê chưa giác, dẫu sẵn đủ Phật tánh viên
mãn rộng lớn theo chiều dọc cùng tột ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười
phương, nhưng tánh ấy hoàn toàn bị vùi lấp trong trần lao, ngược ngạo nương
theo sức công đức của Phật tánh ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, hủy báng Tam Bảo, tự
hại, hại người. Thật giống như giòng suối chảy ngầm dưới đất, hoàn toàn chẳng
hay biết, ắt phải đợi thời tiết nhân duyên khơi mở mới dần dần tỏ lộ được. Vì
thế, xưa nay nhiều bậc vĩ nhân có quyền lực thuở bé mê muội, chuyên lo hủy báng
Phật pháp, đến khi sự lịch duyệt đã dần dần sâu hơn, gặp cảnh chạm duyên đột
nhiên giác ngộ, bèn quy y Tam Bảo, tận lực phụng hành cũng chẳng thể kể xiết. Đủ
chứng tỏ Phật pháp rộng lớn, quả thật là tâm pháp vốn sẵn có của hết thảy chúng
sanh vậy.
Cư sĩ Ngô Nam Phủ ở Cát An, tỉnh
Giang Tây túc căn sâu dầy, từ nhỏ buôn bán ở bến Thượng Hải, giữ tấm lòng từ
thiện, hiềm rằng hoàn toàn chẳng biết đến Phật pháp, ngược ngạo coi chuyện tin Phật
là mê tín, vợ ông ta là Trương Thị, tuy sẵn đủ tín tâm, nhưng lại chẳng biết phân
biệt tà - chánh, dẫu có khuyên can cũng khó thể khơi gợi được! Năm Dân Quốc 20
(1931), [ông Ngô Nam Phủ] bị cướp bắt trói dẫn về sào huyệt, sầu khổ chen lẫn,
suy nghĩ không ra cách nào, sực nhớ lời Trương Thị khuyên nên tin tưởng Phật
pháp. Do vậy bèn mong Phật từ bi cứu giúp hòng thoát sào huyệt bọn cướp. Nào ngờ
Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, lòng Từ của Phật như mẹ nhớ con, cảm ứng đạo giao
nhanh chóng như dùi [vừa chạm mặt] trống [liền vang ra tiếng], chợt có cảnh sát
vì cứu người khác mà chạy lầm đến nơi đó, liền cứu ông ta ra, chẳng tốn một
phân tiền mà an nhiên thoát hiểm. Ông ta mới biết Phật pháp linh ứng, hơi dấy
lòng tin, bèn đến những nơi như Phổ Đà v.v… dâng hương lễ Phật.
Năm Dân Quốc 22 (1933), cùng với
vợ là Trương Thị, dẫn theo một đứa con, ngồi xe hơi, chạy đến chỗ đường cong giữa
đường, chợt một thiếu nữ Tây phương từ bên đường băng ngang, va ngay vào xe, bị
xe chẹt ngang, ngã sóng xoài dưới xe. Ba người cha con bọn họ sợ đến nỗi hồn muốn
lìa khỏi xác, mồ hôi đẫm lưng, cho là cô gái ấy đã thành ba đoạn rồi, cấp tốc
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để mong Phật [rủ lòng] Từ gia bị giải cứu. Đến khi ngừng
xe lại coi chỉ thấy cô gái Tây phương ấy nằm ngửa dưới gầm xe, lọt thỏm giữa bốn
bánh, bị xe lôi đi mấy chục bước. Cùng lúc, tuần cảnh, dân phố xúm lại đông nghẹt,
cha cô gái ấy cũng tìm tới, đỡ cô ta lên, chỉ thấy khắp mặt cô ta đỏ bừng, trọn
chẳng bị sây sát gì! Trải qua kiểm nghiệm, cô ta trọn chẳng bị tổn thương mảy
may gì, cô ta liền theo cha bỏ đi.
Cư sĩ trải qua hai trận nguy
hiểm, lòng tin rộng mở. Năm Dân Quốc 23 (1934), đặc biệt xin được quy y với
Quang, bèn đặt cho pháp danh là Huệ Vân, Trương Thị có pháp danh là Huệ Hiền,
tiếp đó lại thọ Ngũ Giới. Từ đấy, tín tâm chân thật, thiết tha, tinh tấn tu
trì, lại tạo công đức rộng rãi tại các chỗ như Linh Nham. Thêm nữa, mấy người
con trai ông ta sanh liên tiếp mấy đứa cháu gái, khó thể có được cháu trai. Đến
năm Dân Quốc 24 (1935), đúng dịp cư sĩ mừng thọ sáu mươi, cô dâu cả sanh được một
đứa con trai, các thân hữu xúm lại chúc mừng. Do cư sĩ đã trường trai thờ Phật,
trong tiệc thọ của chính mình và lễ đầy tháng cho cháu nội đều dùng cỗ chay, trọn
chẳng dùng mảy may món mặn nào để nhằm đề xướng kiêng giết, ăn chay. Nay lại
dùng một ngàn đồng để in Tịnh Độ Ngũ Kinh hòng biếu tặng kết duyên, thỉnh Quang
viết lời Bạt lược thuật nhân duyên tin Phật của ông ta. Nguyện khắp những ai
chưa phát lòng tin, do thấy nghe [chuyện này] sẽ khởi tín tâm, người đã phát
tín tâm thì sẽ do vậy [mà lòng tin] được tăng trưởng, ngõ hầu người người tin
Phật cùng sanh Tây Phương, cùng viên Chủng Trí, để an ủi bổn hoài phổ độ chúng
sanh của chư Phật vậy.
28. Lời tựa cho bài Sám Hối Văn của ông Thành Phục Sơ
(năm Dân Quốc 25 - 1936)
Nhân
quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân bình trị thiên hạ, Phật độ chúng sanh.
Nếu ai nấy đều biết nhân quả sẽ tự trừ khử nhân dục, noi theo thiên lý để khôi
phục lương tri sẵn có thì chuyện thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ đều do điều này mà được hiển lộ rộng rãi. Phật pháp là căn bản của
các pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Từ khi [Phật pháp] được truyền vào Trung
Quốc dưới đời Hậu Hán, hơn một ngàn tám trăm năm do được vua thánh, tôi hiền, những
vị thông suốt thấu đạt hộ trì, đề xướng, nên được truyền bá khắp trong ngoài nước.
Trong thời gian ấy, tuy bị đôi ba tên vua hung bạo và những nhà Nho câu nệ bài
xích, hủy trừ, nhưng [bọn chúng] đều là hạng ngửa mặt nhổ lên trời, đương nhiên
tự bị nhơ bẩn.
Bọn Trình - Châu đời Tống đọc
kinh điển Đại Thừa nhà Phật, thân cận tri thức Thiền tông để mong trộm lấy ý
nghĩa hòng tự khoe khoang, do chưa đọc trọn khắp các kinh, chưa tham học rộng
khắp với tri thức các tông, bèn trộm lấy ý nghĩa “toàn sự chính là lý” trong kinh Phật và “pháp gì, chuyện gì cũng đều quy về tự tâm” trong Tông môn để giải
thích kinh đạo Nho, rốt cuộc trở thành tà kiến chấp lý phế sự, như nói: “Trời
chính là lý, nào thật sự có vị vua đội mão [xử đoán] đâu? Quỷ thần là lương
năng của hai khí (Âm và Dương). Con người sau khi chết đi hình hài đã mục nát,
thần thức cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã sẽ thi thố vào đâu? Hơn
nữa, thần hồn đã phiêu tán rồi, lấy ai để thác sanh”. Thoạt đầu do chấp lý mà phế sự, kế đến trở thành đoạn diệt, ngoan
không[21].
Do vậy, hết sức phô trương ý kiến của chính mình, báng Phật pháp sâu xa, bảo sự
lý nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo do đức Phật đã nói chính là căn cứ để phỉnh
phờ ngu phu, ngu phụ tuân phụng giáo pháp [của đức Phật], chứ thật ra không có
chuyện ấy. Từ đấy, phàm những kẻ theo Lý Học đều lén lút xem kinh Phật nhưng đều
cật lực báng bổ Phật pháp, chẳng suy xét căn bản của đạo, chỉ chấp chặt vào tri
kiến môn đình. Từ đấy cách trị tâm, trị thân, trị quốc, trị thế chỉ còn bề
ngoài, trọn chẳng có căn bản. Vừa bị Âu hóa liền ngả rạp theo gió, rốt cuộc biến
thành hiện tượng phế kinh điển, phế luân thường, tranh thành, giành đất, thê thảm
chẳng nỡ nghe, trở thành cuộc loạn lạc lớn nhất kể từ khi có con người đến nay.
Xét đến căn nguyên đều là do học thuyết bài xích nhân quả luân hồi ươm thành!
Từ sau Trình - Châu trở đi,
người học hễ thiên tư thông minh thì không ai chẳng trúng phải chất độc [do bọn
Châu - Trình] truyền lại này, tất cả đều tự khoe là bảo vệ đạo pháp, chứ chẳng
biết đã trái nghịch đạo cũng lớn lắm. Đối với đại đa số con người, suốt một đời
không cách gì được nghe đến đạo, nhưng cũng có người lúc đầu bị hãm vào lối xe
đổ, về sau thống thiết cải hối, thương mình, xót người, muốn đem sự mê chấp của
chính mình để làm tấm gương cảnh tỉnh cho hết thảy mọi người giống như ông
Thành Phục Sơ ở huyện Tần An tỉnh Cam Túc nào có hạn lượng?
Dựa theo lời con ông ta là Tịnh
Niệm đã viết thì: “Gia nghiêm từ thuở mười
sáu, mười bảy tuổi, liền trúng phải chất độc do bọn Trình - Châu để lại, tự lấy
chuyện bài xích Phật - Lão làm trách nhiệm của chính mình, tiếc cho một bề chống
trái, thiên kiến, nhưng kinh Phật rất khó được thấy, lại không có bậc cao tăng
hoằng pháp hay bậc thông đạt lỗi lạc để thân cận, bèn coi lời lẽ của Trình - Châu
là lời bàn quyết định ngàn đời chẳng xê xích được, liền y theo những gì bọn họ
nói để bài xích Phật - Lão, chứ thật ra trọn chẳng biết cội nguồn Phật - Lão ra sao! Do lầm lạc bài xích Phật - Lão
và chỉ coi những điều mình sùng phụng là tông chỉ chân chánh của Nho giáo nên
càng thêm mê muội”.
May sao đời trước đã gieo thiện
căn, trời xét soi tấm lòng ngu thành, khiến cho cụ bệnh nặng mấy năm hòng tự phản
tỉnh. Thoạt đầu cụ vẫn nói “thiên đạo vô tri”, rồi đại ngộ chính mình thấy hiểu
lầm lạc, trái nghịch. Từ đấy, thống thiết sửa đổi lỗi trước, tận lực tu tịnh hạnh,
bắt chước ông Liễu Phàm lập mạng, học đòi ông Tịnh Ý sửa đổi cái tâm. Tuy được
tâm địa quang minh, mắt vẫn lòa như cũ (năm Dân Quốc 16 (1927), mắt phải
kéo màng, chẳng thể thấy mọi vật. Đến năm Dân Quốc 20 (1931), mắt trái cũng thế,
bèn cùng với con cực lực sám hối. Người con trích máu vẽ hình Phật, dùng chất
son [hòa máu] chép kinh. Ông ta tự soạn bài văn thú lỗi, mắt bèn thấy được mọi
vật), mới biết chẳng bộc lộ lỗi mình, trọn khó
thể tiêu nghiệp được, nếu phơi bày lỗi xưa thì còn làm lợi cho người khác. Do vậy
bèn soạn bài văn sám hối in ra gởi cho những người cùng hàng, đem sự mê - ngộ của
chính mình để làm khuôn phép răn dè cho kẻ thông sáng mai sau, cậy Quang viết lời
Bạt mong được lưu truyền rộng rãi. Do vậy, tôi lược thuật nguyên ủy mắc bệnh [của
ông Thành Phục Sơ] để mong những người có lòng lo cho thế đạo nhân tâm cùng đẩy
lùi phong thái suy đồi, cùng giữ vẹn hạnh Nho, cùng tu Tịnh nghiệp, cùng được gội
ân Phật, cùng trừ khử món vật nhân dục huyễn vọng, cùng đạt được lương tri sẵn
có, ngõ hầu có thể “sáng tỏ Minh Đức” nhằm “an trụ nơi chí thiện”, trì Phật hiệu
để sanh Tây Phương. Mất niệm biến thành cuồng, khắc chế được ý niệm sẽ thành
thánh, lấy thân làm gương, phổ độ quần mê đều là do những điều [đã được nói] ở
đây vậy.
29. Duyên khởi của Tịnh Nghiệp Xã chùa Tiên Khánh tại
Tam Giang Khẩu, Hàm Giang
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Một
pháp Niệm Phật là pháp môn tổng trì trong Phật pháp, thích hợp khắp ba căn,
thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn căn, trên từ bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể
vượt ra ngoài pháp này, dưới là phàm phu nghịch ác cũng có thể dự vào trong ấy.
Nói nông cạn thì đàn bà, trẻ nít đều có thể tu trì, nói sâu xa thì bậc thánh
triết cũng chẳng thể hiểu trọn. Đã thế, đối với hàng thiện tín tại gia, pháp này
thích hợp căn cơ nhất. Do đức Như Lai gọi “hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp”
là “chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế
chư Phật”, nên hễ là người niệm Phật thì đối với gia đình, luân thường đều
phải trọn hết bổn phận. Tức là cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng
hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành vậy. Lại còn phải ngăn giận, dứt ham
muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành;
nhưng tu thiện trừ ác thì rất cần phải tích cực phản tỉnh xem xét tại nơi khởi
tâm động niệm, dốc lòng thực hiện rộng rãi để trừ khử [những thói hư tật xấu,
phiền não, ác niệm]. Dè dặt kiêng sợ, đừng coi thường thì mới là người lành.
Người lành niệm Phật mới có thể được hưởng lợi ích chân thật nơi niệm Phật. Ví
như nền tảng vững vàng, chắc chắn thì mới có thể tùy ý xây dựng lầu cao muôn
trượng được!
Hiện nay thế đạo nhân tâm chìm
đắm đến cùng cực, nói chung là vì chẳng nói đến đạo “trọn hết tình nghĩa, tận hết
bổn phận” và lý “phước thiện, họa dâm”. Đối với chuyện luân hồi lục đạo và pháp
Niệm Phật vãng sanh thì càng không có cách gì nghe tới được! Do tâm chẳng chú
trọng đạo đức, nhân nghĩa, nhân quả, báo ứng, dẫu có nghe cũng chẳng thể sanh
lòng tin. Bởi những lẽ đó, ươm thành đại kiếp, thiên tai nhân họa liên tiếp
giáng xuống, cơ duyên giết chóc ngập tràn, dân không lẽ sống. Những người có
lòng lo cho cõi đời muốn cứu vãn đều đề xướng Phật học và tu pháp môn Niệm Phật,
bởi pháp này thật sự là pháp dễ tu trì, dễ thành tựu nhất trong Phật pháp, như
người tập bắn lấy mặt đất làm đích, bắn không phát nào chẳng trúng. Pháp này cậy
vào Phật từ lực, nếu chịu tuân theo lời dạy tu trì thì không một ai chẳng thành
tựu. Do vậy, ai nấy hãy nên quy y Tam Bảo, thọ trì Ngũ Giới, tuân hành Thập Thiện,
dùng ba nghiệp thân - khẩu - ý thanh tịnh, sanh lòng tin phát nguyện niệm thánh
hiệu Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong liễu sanh thoát tử, siêu
phàm nhập thánh. Người như thế sống là bậc thánh bậc hiền, thác lên cõi Cực Lạc.
Khuyên dạy lẫn nhau, nhìn nhau [bắt chước] làm lành, khó gì chẳng dứt tai tiêu
họa, tu đức sẽ hưởng phước, giữ vẹn cái gốc, trọng luân thường, thay đổi phong
tục để đạt đến thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui. Do vậy nói rằng “một pháp
Niệm Phật há chẳng là căn bản pháp luân để chấn hưng sức dân, phụ trợ chánh trị,
giáo hóa, chẳng nắm giữ địa vị mà dạy dỗ dân, chẳng nhờ đến hình phạt mà dứt được
chuyện ác ư?” Nguyện những vị mang lòng vãn hồi kiếp vận đều cùng dự vào Tịnh
Nghiệp Xã.
Những người ở xa xôi hoặc thân
mang chức vụ bận bịu, hoặc thanh niên, phụ nữ chẳng tiện đến Tịnh Nghiệp Xã thì
đều có thể nhiếp tâm tịnh niệm ở nhà. Lập ra Tịnh Nghiệp Xã chẳng qua chỉ nhằm [tạo]
một tổ chức để đề xướng diễn thuyết mà thôi. Hằng ngày niệm Phật cố nhiên là
chuyện tu trì tại gia, chẳng thể không biết [điều này]. Tịnh Nghiệp Xã được lập
tại chùa Tiên Khánh, vào ngày nào đó mỗi tháng [xã hữu] cùng đến niệm Phật. Niệm
xong, mời vị nào thông hiểu văn từ lý lẽ giảng diễn chương trình lẫn lợi ích do
niệm Phật cũng như quy củ lẫn lợi ích của việc giáo dục con cái trong gia đình.
Lại còn sắm sửa những sách giảng về niệm Phật tu thiện đơn giản, gần gũi, ai muốn
xem thì cứ trả tiền theo giá vốn để thỉnh về xem, chẳng tốn nhiều tiền lắm. Lại
dùng khoản tiền ấy để thỉnh đầy đủ sách đọc. Nếu mọi người có thể đua nhau thực
hiện chuyện này mạnh mẽ thì thế đạo nhân tâm sẽ tự nhiên thuần thiện, thiên tai
nhân họa không cách chi xảy ra được! Đây quả thật là sách lược tối thượng vì nước,
vì dân, vì xã hội, vì gia đình vậy! Nguyện những người thấy nghe đều cùng khởi
lòng.
30. Duyên khởi của Trợ Niệm Vãng Sanh Xã tại trấn Cấp
Tân, Hải Môn
(năm Dân Quốc 20 -1931)
Mỗi
một tài, một nghề trong thế gian đều phải do mọi người giúp đỡ thì mới có thành
tựu. Vì thế nói: “Bách công cư tứ dĩ
thành kỳ sự, quân tử học dĩ trí kỳ đạo” (Trăm thợ sống ở xưởng thợ để nghề
nghiệp được thành, quân tử học để thấu hiểu đạo[22]).
Pháp thế gian còn như thế, sao riêng pháp xuất thế gian lại chẳng giống như vậy
cho được? Phải biết “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ” chính là pháp môn đặc
biệt trong Phật pháp, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp trọn vẹn lợi căn lẫn độn
căn, Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài, mà phàm phu nghịch ác cũng có thể
dự vào trong ấy. Hết thảy pháp môn chẳng đạt đến mức “nghiệp tận, tình không” sẽ
chẳng thể liễu sanh thoát tử được, vì chỉ cậy vào tự lực, cho nên khó khăn! Pháp
môn Niệm Phật nếu đầy đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha sẽ liền có thể
siêu phàm nhập thánh, bởi chuyên cậy vào Phật lực, cho nên dễ dàng! Hễ được
vãng sanh thì sẽ đạt được lợi ích cao siêu hơn những người “nghiệp tận tình
không” nhiều lắm. Pháp môn này bất luận già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí,
ngu, sĩ, nông, công, thương, tại gia, xuất gia đều nên tu trì; chẳng những
không trở ngại hết thảy nghề nghiệp mà còn có thể giúp cho hết thảy nghề nghiệp
dễ thành tựu.
Phàm là người niệm Phật ắt phải
chăm chú giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng
làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm,
dùng tín nguyện kiên quyết cầu sanh Tây Phương. Dùng những điều ấy để tự hành,
lại còn đem dạy người khác, trong là gia đình, quyến thuộc, ngoài là xóm giềng,
bầu bạn đều cùng tu pháp này, cùng cầu vãng sanh. Công đức ấy há thể diễn tả được
ư? Vì thế, ông Thành Huệ Dân và các cư sĩ tổ chức Trợ Niệm Vãng Sanh Xã tại Vũ
Thánh Miếu[23]
trong trấn của họ, mỗi tháng đúng kỳ đến đấy niệm Phật. Niệm xong, giảng nói lợi
ích của pháp môn Niệm Phật và cách thức tu trì, cũng như biện pháp trợ niệm lúc
lâm chung. Phàm những ai tham dự Trợ Niệm Xã đều nên hành theo đó. Hễ có xã hữu
hoặc không phải xã hữu thỉnh đến nhà trợ niệm đều nên [vận dụng] đại Bồ Đề tâm
vốn có, khai thị, hướng dẫn bệnh nhân và quyến thuộc của người ấy để ai nấy đều
y theo Phật pháp, đừng thuận theo thói phàm. Khai thị xong, mọi người cùng nhất
tâm niệm Phật để mong cho người mất vãng sanh về thẳng Tây Phương mới thôi.
Thành tựu người khác vãng sanh thì đến khi chính mình lâm chung ắt sẽ có người khác
thành tựu sự vãng sanh cho chính mình, đừng cho chuyện ấy là không quan hệ rồi
coi thường!
Đối với những đạo hữu niệm Phật
cùng một Trợ Niệm Xã, trong lúc bình thường hãy nên nói với người trong nhà về
lợi ích do trợ niệm khi lâm chung cũng như những họa hại do tắm rửa, thay áo sẵn,
hoặc đối trước người sắp mất khóc lóc. Hãy nên thỉnh một cuốn Sức Chung Tân
Lương [cho họ đọc] để họ biết tường tận. Để rồi đến khi cha mẹ hoặc các quyến
thuộc khác sắp mạng chung, quyến thuộc trong nhà sẽ cùng nhau vì người ấy niệm
Phật, khiến cho tâm người [sắp mất] ấy giữ được chánh niệm, theo Phật vãng
sanh, cũng như thỉnh xã hữu trợ niệm cho người sắp mất ấy. Lúc ấy là lúc ngàn
cân treo sợi tóc, quan hệ rất lớn. Hãy nên đem những chi phí ma chay cúng tế rỗng
tuếch, hoa mỹ dùng vào lúc ấy, hãy biến tấm lòng buồn đau, tận hiếu chân thành trở
thành cái tâm vì cha mẹ niệm Phật. Lại còn bảo quyến thuộc đều nghe theo lời chỉ
dạy của xã hữu, đừng khư khư theo tập tục kẻo làm hỏng đại sự!
Mạnh Tử nói: “Dưỡng sanh giả bất túc dĩ đương đại sự, duy
tống tử khả dĩ đương đại sự”[24],
huống chi lúc lâm chung dùng niệm Phật để tương trợ thì chánh niệm rạng rỡ,
theo Phật vãng sanh. Thành tựu cho cha mẹ được vãng sanh tức là thành tựu cho
cha mẹ thành Phật. Phàm thành Phật sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Chuyện tận
hiếu trong thế gian há có lớn hơn điều này được chăng? Do vậy, hãy nên cạn kiệt
tấm lòng thành của ta mà tận lực giúp đỡ. Nếu cứ khư khư theo tập tục chẳng coi
trọng việc thành tựu chánh niệm, hoặc tắm rửa, thay quần áo sẵn, do bị đụng chạm,
tâm [người sắp mất] bị nhiễu động có thể bị đau đớn, ắt sanh lòng giận bực. Nếu
khóc lóc, người ấy ắt sanh lòng bi luyến. Đã loạn động thì chánh niệm bị mất,
không cách gì vãng sanh được! Hễ nóng giận sẽ có thể đọa trong các loài độc
trùng; mà mến luyến cũng thuộc về căn bản sanh tử. Con người nếu không bị bệnh
cuồng, ai nỡ vì [trọn hết] lòng ngu thành tận hiếu mà phá hoại chánh niệm của
cha mẹ khiến cho họ đánh mất lợi ích lớn lao “liễu sanh thoát tử hòng được
thành Phật”, đến nỗi chịu sự khổ lớn lao “đọa
lạc trong tam đồ ác đạo, thường bị luân hồi nhiều kiếp” ư? Thực hiện lòng hiếu
kiểu đó khác gì La Sát nữ yêu người đâu? La Sát nữ bảo người bị nó ăn thịt: “Ta
yêu ngươi nên ăn thịt ngươi!” Nguyện hết thảy những người con hiếu cháu hiền và
những quyến thuộc nhân từ hãy cùng tùy thuận cái tâm độ chúng sanh của đức Phật,
đừng yêu thương giống như La Sát nữ thì người thác lẫn kẻ sống đều được lợi ích
lớn lao vậy!
31. Duyên khởi của Xí Lô Liên Xã
(năm Dân Quốc 24 - 1935)
Đức
Đại Giác Thế Tôn thương xót chúng sanh do mê muội diệu tâm vốn có mà luân hồi
sanh tử, bèn thị hiện giáng sanh trong thế gian thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận
căn cơ của chúng sanh, nói đủ mọi pháp. Tuy Đại, Tiểu, Thiên, Viên bất đồng,
Quyền, Thật, Đốn, Tiệm mỗi pháp mỗi khác, nhưng đều nhằm làm cho chúng sanh
khai - thị - ngộ - nhập tri kiến của Phật, rốt ráo thành Phật mà thôi! Nhưng
chúng sanh căn cơ có lớn hoặc nhỏ, mê có cạn hoặc sâu, nên chẳng thể thỏa thích
bổn hoài của Phật được ngay. Lại do chúng sanh đời Mạt nghiệp chướng sâu dầy,
trí huệ cạn mỏng, thọ mạng ngắn ngủi, tri thức hiếm hoi, nếu không cậy vào Phật
lực quyết khó thể liễu thoát trong đời này. Do vậy, đặc biệt mở ra một pháp môn
Tịnh Độ nhiếp trọn Sơ - Trung - Hậu, độ khắp ba căn cơ thượng - trung - hạ để
những vị đã chứng Pháp Thân sẽ mau thành Phật đạo, kẻ chưa đoạn Phiền Hoặc cũng
thoát luân hồi, lợi ích ấy vượt trỗi [hết thảy] giáo pháp trong cả một đời, bởi
lẽ một đằng chuyên cậy vào tự lực, một đằng kiêm nương vào Phật lực.
Ví như gã thọt suốt ngày chỉ
đi được mấy dặm, nếu cưỡi luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương sẽ trong một
ngày đến khắp bốn châu. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng hướng về, mười
phương cùng khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, muôn luận đều tuyên nói, bởi
pháp này là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết
thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Xét từ khi đại giáo
được truyền sang phương Đông, Viễn Công mở liên xã đầu tiên, khi ấy bậc cao
tăng đại nho dự vào hội cả một trăm hai mươi ba người. Từ đấy về sau, đời nào
cũng có cao nhân tục diệm truyền đăng, truyền khắp trong ngoài nước. Đại pháp của
đức Như Lai có năm thứ là Luật, Giáo, Tông, Mật, Tịnh, nhưng chỉ có một pháp Tịnh
Độ là tu trì dễ dàng nhất, thành tựu dễ dàng nhất, là chỗ quy túc của Luật,
Giáo, Tông, Mật. Vì thế các vị thiện tri thức Luật, Giáo, Tông, Mật xưa nay đều
chăm chú ngầm tu, rất nhiều vị cực lực hoằng dương công khai. Pháp này chân - tục
viên dung, vừa khế cơ vừa khế lý, chẳng những vì người học đạo lập ra một môn mầu
nhiệm để thoát luân hồi, mà thật ra còn là đạo trọng yếu để người cai trị đất
nước ngồi hưởng thái bình. Do đó, vãng thánh tiền hiền, bậc thông suốt, người
trí sáng đều cùng tu trì như mọi ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, như các dòng nước xuôi
về biển Đông.
Gần đây lòng người thua kém
thuở xưa, bỏ gốc chạy theo ngọn, gió Âu dần dần thổi sang phương Đông, [con người]
đua nhau chuộng duy tân, tranh thành, giành đất, tàn sát lẫn nhau, thiên tai
nhân họa liên tiếp giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Những
người có tâm lo cho thế đạo nhân tâm thấy hiện tượng ấy, sợ đạo làm người gần
như diệt mất, đua nhau lập cách vãn hồi. Do vậy, các nơi đều lập Tịnh Nghiệp Xã,
Cư Sĩ Lâm đề xướng Phật học hòng nêu tỏ nhân quả ba đời, chỉ ra sự luân hồi
trong sáu nẻo, tỏ lộ Phật tánh chân thường, tán dương Tịnh Độ cao siêu thù thắng,
khiến cho hết thảy mọi người vâng giữ tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa,
liêm, sỉ”, hành tám sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”, đều phải ngăn lòng giận, dứt lòng ham muốn, giữ vẹn
luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều
ác, vâng giữ các điều lành để làm người hiền, người lành trong thế gian, phát Bồ
Đề tâm, tự hành, dạy người “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để đến
khi lâm chung Phật và thánh chúng đích thân đến tiếp dẫn cho người ấy được vãng
sanh, hòng thành bậc thượng thiện nhân xuất thế gian. Đấy chính là đại ý các nơi
thành lập Tịnh Nghiệp Xã, mở Cư Sĩ Lâm vậy.
Tô Châu vốn là xứ Phật giáo
hưng thịnh từ xưa đến nay, cố nhiên có nhiều người túc căn sâu dầy, dù bị ngoại
đạo lung lạc, bước lầm vào ngõ rẽ, chẳng mấy chốc lại quay về đường chánh. Cư
sĩ Tào Tung Kiều sáng lập Ẩn Bần Hội để châu cấp, cứu giúp dân nghèo chính là
ban bố lòng Từ trên phương diện sắc thân. Nay lại lôi kéo hai cư sĩ Trần Y Nhân
và Châu Lương Tế mở Xí Lô Liên Xã nhằm đề xướng niệm Phật cầu sanh Tây Phương,
ngõ hầu kẻ mê trái quê cũ trọn chẳng có tư lương để trở về sẽ đều được đầy đủ
tư lương, đấy chính là lo lắng cho phương diện huệ mạng vậy. Nhưng đạo của Lô
Sơn ai có thể nối tiếp dấu tích được, chỉ đành ngưỡng mộ dõi theo mà thôi thì cũng
chẳng thẹn là đồ đệ của Lô Sơn, vì thế đặt tên là Xí Lô (ngóng theo Lô Sơn) Liên
Xã! Họ cậy Quang viết duyên khởi để phô tỏ ý nghĩa ẩn kín, vì thế mới dài dòng
một phen, mong sao người thấy nghe và các xã viên biết rõ ý nghĩa “đạo sẵn có
ngay nơi tự tâm, pháp để tu chân trong cõi tục, dùng niệm Phật để hộ quốc, ngầm
tu mà giúp đời” vậy.
32. Duyên khởi của Phước Châu Phật Học Đồ Thư Quán (thư
viện Phật học Phước Châu)
(năm Dân Quốc 27 - 1938)
Phật
là giác; tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn thì mới gọi là Phật, tức là hết
sạch Phiền Hoặc, phước huệ trọn đủ, Ngũ Uẩn đều không, chứng triệt để ba đức,
là danh hiệu cao đẹp của bậc “thánh trong các thánh, trời trong chư thiên”, là danh
hiệu chung của mười phương ba đời hết thảy chư Phật. Thích Ca Mâu Ni chính là
tên riêng của đấng giáo chủ cõi Sa Bà. Tiếng Phạn “Thích Ca Mâu Ni” cõi này dịch
là Năng Nhân Tịch Mặc. Năng Nhân nghĩa là rộng độ chúng sanh; Tịch Mặc là triệt
chứng tự tánh. “Học” là bắt chước theo, tức là tùy phần tùy sức tu hành theo lời
dạy. Đã tu hành theo lời dạy, sao lại nói “tùy phần, tùy sức”? Là vì đức Phật
thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Do căn tánh chẳng chỉ có một nên
tùy theo sự hiểu biết, khả năng của họ mà nói pháp thích hợp.
Tùy theo căn cơ ban bố giáo
pháp, đối bệnh cho thuốc, sao cho giáo pháp phù hợp căn cơ, khiến cho ai nấy đều
được lợi ích. Dạy chúng sanh chìm đắm trong biển khổ sanh tử quy y Tam Bảo Phật
- Pháp - Tăng để làm chỗ nương tựa, dạy họ giữ năm giới “chẳng sát sanh, chẳng
trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu”, dạy họ tu Thập Thiện,
đối với ba điều nơi thân, bốn điều nơi miệng, ba điều nơi ý đều dạy dứt ác làm
lành. Tức là thân chẳng làm chuyện giết - trộm - dâm, miệng chẳng nói dối, nói
thêu dệt, nói đôi chiều, nói ác độc, ý chẳng khởi ý niệm tham dục, nóng giận,
ngu si. “Ngu si” nghĩa là không tin nhân quả, nói ra những lời tà kiến như “làm
lành làm ác chẳng có báo ứng, con người chết đi thần hồn diệt mất, không có đời
sau” v.v… Lại còn gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng
hòa, vợ thuận, khuyên bạn bè hướng thiện sửa lỗi, chủ giữ lòng nhân, tớ giữ lòng
trung, mỗi mỗi đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ
lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Đấy chính là pháp
Nhân Thừa. Tu theo pháp này sẽ đời đời làm người. Nhân Thừa là căn bản của
Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, như đắp nền đất vững
vàng, có thể tùy ý xây dựng lầu cao.
Thiên Thừa thì ngoài Ngũ Giới
Thập Thiện ra, còn tu thêm các thứ Thiền Định để sanh vào các cõi trời Lục Dục,
Tứ Thiền, Tứ Không v.v… Nhân Thừa lẫn Thiên Thừa đều chẳng phải là pháp liễu
sanh tử.
Thanh Văn Thừa thì y theo Giới
- Định - Huệ, tu pháp Tứ Đế để liễu sanh tử.
Duyên Giác Thừa thì y theo Giới
- Định - Huệ, quán sát hai môn Lưu Chuyển và Hoàn Diệt[25]
của Thập Nhị Nhân Duyên hòng liễu sanh tử.
Bồ Tát Thừa thì y theo Giới - Định
- Huệ tu lục độ, vạn hạnh, dưới hóa độ chúng sanh để mong trên là thành Phật đạo.
Nhưng pháp ba thừa này đều thuộc
vào pháp phổ thông cậy vào tự lực, người tối thượng thượng căn mới có thể liễu
sanh tử ngay trong đời này, dẫu khi Phật đang còn tại thế cũng là trăm người mới
có được một. Nếu như hiện thời, e rằng cả thế giới cũng không có được một hai
người!
Nhưng do tâm đại từ bi, đức Phật
biết trước chúng sanh đời sau không có kẻ nào cậy vào tự lực để liễu sanh tử
ngay trong đời này được, bèn mở riêng một pháp môn đặc biệt là tín nguyện niệm Phật
cầu sanh Tây Phương, bất luận già, trẻ, trai, gái, sang, hèn, trí, ngu, sĩ,
nông, công, thương, công chức, quân nhân, giới giáo dục học thuật, tại gia, xuất
gia, thượng thánh, hạ phàm đều trong đời này cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây
Phương. Phàm phu sát đất đới nghiệp vãng sanh. Đã vãng sanh Tây Phương, ba thứ
Hoặc - Nghiệp - Khổ thảy đều tiêu diệt. Ví như mảnh tuyết rớt vào lò to, chưa đến
nơi đã tan mất. Hàng Nhị Thừa đã liễu sanh tử và Quyền Vị Bồ Tát vãng sanh sẽ
mau chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Bậc Pháp Thân đại sĩ đã chứng Vô Sanh mà vãng sanh
sẽ mau chứng Phật quả.
Hết thảy các pháp Đại Thừa, Tiểu
Thừa do đức Thế Tôn đã nói trong cả một đời đều cậy vào tự lực, cho nên khó
khăn; chỉ có một pháp này hoàn toàn cậy vào sức từ bi thệ nguyện nhiếp thọ của
A Di Đà Phật và sức tín nguyện thành khẩn ức niệm của hành nhân nên được cảm ứng
đạo giao, giải quyết xong xuôi ngay trong một đời này. Nhưng đã muốn vãng sanh
Tây Phương thì phải nghĩ hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là
chư Phật trong vị lai, nghĩ báo ân ấy sẽ càng thêm mến tiếc, che chở, chẳng dám
giết ăn, thấy hết thảy những người cùng hàng và các quỷ thần cùng với chim,
thú, côn trùng đều tâm niệm miệng nói, dạy bọn họ niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Nếu như ba nghiệp thanh tịnh, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
đem pháp môn Tịnh Độ khuyên lơn thì người ta sẽ nhìn theo bắt chước nhau làm
lành, ắt sẽ có hy vọng thay đổi cảm hóa ngấm ngầm, khiến cho phong tục tốt đẹp
thuần hậu.
Người đời chưa đọc kinh Phật,
chẳng biết Phật suy tính sâu xa để hóa độ chúng sanh, thấy bọn Hàn - Âu - Trình
- Châu báng Phật, liền tự mình gánh lấy trách nhiệm “đề cao điều chánh, quở
trách thói tà”, người ta nói sao mình cũng bảo vậy, thốt lời khinh miệt, phỉ
báng cho sướng miệng, chẳng biết bọn Hàn - Âu hoàn toàn chưa từng đọc kinh Phật.
[Lý luận về] đạo Phật của họ Hàn vốn chỉ có hai chữ Tịch Diệt là từ ngữ trong
Phật pháp, còn những từ ngữ khác đều là lời lẽ của Lão Tử, Trang Tử. Về sau, do
thiền sư Đại Điên khơi gợi, hướng dẫn, [Hàn Dũ] mới không báng Phật nữa. Họ Âu
chỉ đề cao họ Hàn, căn cứ để ông ta báng Phật là “do sự cai trị của nhà vua đã
suy vi, đạo nhân nghĩa không ai đề xướng, nên Phật thừa cơ xâm nhập”. Nếu như
ông ta hiểu biết đạo giúp đời độ sanh do đức Phật tùy thuận cơ nghi [mà lập]
như đã nói trong phần trước, ắt chẳng đến nỗi coi Phật là họa hoạn của Trung Quốc
để rồi muốn xua quét đi. Họ Âu đề xướng như thế, kẻ học [đạo Nho] coi họ Âu như
tông sư, đều bắt chước bài bác Phật giống như vậy. Đại sư Minh Giáo[26]
muốn cứu vãn thói tệ ấy, soạn Phụ Giáo Biên dâng lên hoàng đế [Tống] Nhân Tông.
Nhân Tông đưa cho Hàn Ngụy Công[27]
xem, ông Hàn đưa cho họ Âu xem, họ Âu kinh ngạc nói: “Chẳng ngờ trong Tăng
chúng lại có người như vậy? Sáng mai sẽ gặp mặt một phen!” Ngày hôm sau, ông
Hàn đưa Minh Giáo đến gặp, bàn luận thông suốt trọn một ngày, từ đấy [họ Âu] chẳng
còn báng Phật nữa. Hàng môn hạ [của Âu Dương Tu] tiếp nhận giáo huấn của ngài
Minh Giáo, đa số đều cực lực học Phật.
Họ Trình, họ Châu đọc kinh Đại
Thừa nhà Phật, thân cận thiện tri thức Thiền Tông, biết được những nghĩa “toàn
sự chính là lý” trong kinh và “pháp gì, chuyện gì cũng quy về tự tâm” của Tông
môn, liền tưởng mình đã lãnh hội lớn lao, chứ thật ra chưa hề đọc trọn các kinh
Đại Thừa, Tiểu Thừa và thân cận tri thức các tông, bèn chấp lý phế sự, bác
không nhân quả, bảo đức Phật nói ra nhân quả ba đời, luân hồi sáu đường để làm
căn cứ gạt gẫm ngu phu ngu phụ sùng phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật ra chẳng
có chuyện ấy. Lại còn nói: “Con người chết đi, hình hài đã mục nát thì thần hồn
cũng phiêu tán, dẫu có chém - chặt - xay - giã sẽ thi thố vào đâu? Thần hồn đã
phiêu tán, lấy ai để thác sanh?” Do vậy, kẻ ác mặc lòng tạo nghiệp, người lành
cũng khó gắng sức [làm lành]. Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị
thiên hạ, để Như Lai độ chúng sanh mà họ bảo là “không có thật” khiến cho những
kẻ học đời sau đều chẳng dám nói đến nhân quả, chỉ lấy chánh tâm, thành ý để
làm gốc cho tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ; nhưng nhân quả chính là
cái khiến cho người lành chẳng thể không chánh tâm thành ý, kẻ ác chẳng dám
không chánh tâm thành ý. Đã không nói đến nhân quả thì pháp trị quốc, trị gia,
trị thân, trị tâm chỉ là lời xuông, chẳng có lợi ích thật sự! Mấy trăm năm qua
vẫn còn duy trì được là nhờ phong thái lẫn sự cai trị tốt đẹp của bậc đại nhân thời
cổ còn chưa bị hoàn toàn diệt mất.
Gần đây, những kẻ phế bỏ đường
lối cũ đua nhau đề cao duy tân, tranh thành, giành đất, tàn sát lẫn nhau, cậy mạnh
nuốt yếu, ươm thành đại kiếp đều là do Nho sĩ trong cả nước chẳng dám nói đến
nhân quả, sợ bị người khác công kích mình đã trái nghịch tiên hiền! Hơn nữa, nếu
kẻ nào có chút thành tựu sẽ được dự vào Văn Miếu, [nếu nói đến nhân quả] sẽ bị
người khác coi là nịnh Phật rồi ngăn trở, nên coi việc nói đến nhân quả là điều
phải tránh né! Do vậy bèn phát sanh đại loạn từ xưa đến nay chưa hề có! Nếu gia
đình, nhà trường, xã hội đều giảng nhân quả, chắc chắn chẳng đến nỗi loạn lạc
cùng cực như thế. Vào thuở ấy, Trình - Châu sợ Phật giáo hưng thịnh thì Nho
Giáo sẽ suy tàn, nên mới bài báng bằng cái tâm mê muội trái lý ấy hòng bảo vệ
Nho giáo. Thảm trạng tranh chấp, tàn sát lẫn nhau nhiều năm không dứt quả thật chưa
hề thấy! Đó gọi là “nhân vô viễn lự, tất
hữu cận ưu” (người không lo xa, ắt có buồn gần).
Bọn họ sợ rằng nếu không báng
Phật, Nho sĩ sẽ đều học theo Phật hết, chẳng biết nếu nhà Nho học Phật thì Nho
giáo sẽ càng thêm hưng thịnh. Nghĩa lý này đã được trình bày tường tận trong
bài viết nêu tỏ ý nghĩa ẩn kín qua cuốn Hành Dư Nhật Khóa của Lâm Văn Trung
Công, [bài viết ấy] sẽ được sao chép riêng để những nhà Nho nơi quý địa được mở
rộng tầm mắt, có chỗ nương theo. Đời đã loạn đến cùng cực, những vị nghĩ đến
[phương cách] bình trị đều cùng đề xướng Phật học để sao cho ai nấy đều hiểu rõ
nhân quả, biết tội phước, hồi tâm hướng thiện, vãn hồi kiếp vận để dân được sống
yên. Các vị cư sĩ như La Khanh Đoan v.v… tính lập ra Phật Học Đồ Thư Quán, cậy
tôi viết lời trần thuật duyên khởi hòng nêu tỏ chỉ thú giúp đời độ sanh của Phật
giáo, do vậy tôi bèn viết bài này cho xong trách nhiệm!
33. Duyên khởi quyên mộ tu bổ tháp Báo Ân chùa Báo Ân,
Tô Châu
Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật; đó gọi là Chánh Nhân, thuộc
về Tánh đức, cũng còn gọi là Bổn Giác. Tuy có Chánh Nhân, nhưng nếu chẳng nghe
Phật pháp sẽ như đồ báu trong kho, như viên châu buộc trong chéo áo, do không
biết nên phải oan uổng chịu bần cùng. Đã được nghe Phật pháp, biết “Phật là vị
Phật đã thành, ta và hết thảy chúng sanh đều là những vị Phật chưa thành”, từ đấy
tu Giới - Định - Huệ, đoạn tham - sân - si, bỏ vọng về với chân, trái trần hiệp
giác. Đấy gọi là Duyên Nhân, thuộc về Tu đức, cũng gọi là Thỉ Giác vậy! Công Tu
đức sâu thì Tánh đức hiển lộ, mới biết từ xưa đến nay đã nương theo sức của Chánh
Nhân Phật tánh ấy để làm đủ mọi chuyện trái nghịch tánh, chịu đủ mọi nỗi khổ
huyễn vọng, giống như trong nhà tối đụng phải của báu, đâm ra bị tổn thương!
Nay đã đích thân thấy được Phật tánh sẵn có thì cái gốc cũ chẳng mất, mà [Phật
tánh mới giác ngộ] hiện thời cũng chẳng được[28],
toàn vọng chính là chân, toàn tu chính là tánh. Đấy gọi là Liễu Nhân, chính là
Tánh và Tu dung hợp, Thỉ - Bổn hợp nhất vậy!
Phàm hết thảy những pháp môn Đại
- Tiểu - Quyền - Thật do đức Phật đã nói, không môn nào chẳng nhằm làm cho chúng
sanh đích thân chứng được điều này mà thôi! Nhưng căn cơ chúng sanh có lợi, độn,
chức phận có thân, sơ, nên khó thể tạo lợi ích rộng khắp được! Vì thế, dùng
chuyện tạo dựng tháp miếu, pháp tướng trang nghiêm, gõ chuông, đánh khánh, giơ
nắm tay, dựng đứng cây phất trần để tạo duyên phát khởi, giúp cho [người khác]
nhập đạo. Ở mỗi chỗ cư dân đông đảo, cổ nhân xây dựng đại tháp miếu cốt sao người
thấy nghe sẽ gieo được hạt giống Phật vào trong tám thức điền, sau này ắt sẽ
đích thân chứng được giác đạo, chứ không phải chỉ để [tạo cảnh] tráng lệ hòng nhìn
ngắm [cho sướng mắt].
Chùa Báo Ân ở Tô Châu do vua
nước Ngô thời Tam Quốc là Tôn Quyền xây dựng để báo ân mẹ, vốn có tên là chùa
Thông Huyền. Đến năm Đại Thông thứ tư (530) đời Lương Vũ Đế, chùa được trùng
tu, vị Tăng tên Chánh Huệ lập tháp báu mười một tầng, hết sức trang nghiêm. Khi
Tùy Văn Đế thay nhà Trần [làm chủ giang sơn], chùa bị huyện lệnh đất Ngô là Tôn
Khoan phế bỏ. Đầu đời Đường vị Tăng tên Huệ Quân xây dựng lại. Năm Khai Nguyên
26 (738) đời Đường Huyền Tông, vua xuống chiếu mỗi châu quận trong thiên hạ lập
một ngôi chùa lớn đề tên là Khai Nguyên; chùa bèn được đổi tên là Khai Nguyên Tự,
trong chùa có tượng Huyền Tông bằng đồng thếp vàng. Trong niên hiệu Đại Thuận (890-891)
thời [Đường] Chiêu Tông, chùa bị tên giặc ở Hoài Tây là Tôn Nho[29]
đốt cháy rụi. Năm Đồng Quang thứ ba (925) nhà Hậu Đường, Ngô Việt Vương Tiền
Liêu dựng chùa Khai Nguyên khác ở bên cạnh chùa Thụy Quang phía trong Bàn Môn
vì trong năm Kiến Hưng nguyên niên (313) đời Tấn Mẫn Đế, hai tượng Phật bằng đá
từ biển trôi tấp vào, được xây điện thờ bằng gạch không có rui kèo để thờ. Từ đời
Đường Hy Tông, Ngô Việt Vương Tiền Liêu đã chinh phạt Hoàng Sào[30],
dẹp tan Đổng Xương, tận trung với nhà Đường, được phong vương vào thời Chiêu
Tông, cai quản xứ Ngô Việt, đạo pháp hưng thịnh lớn lao. Thời Ngũ Đại, chỉ có xứ
Ngô Việt là yên ổn nhất do mấy đời vua đều tin Phật, trọn không cai trị hà khắc.
Đến năm Thái Bình Hưng Quốc thứ
ba đời Tống Thái Tông, [Ngô Việt Vương] hiến hết khu vực cai quản cho nhà Tống.
Trong tám chín chục năm ấy, đối với Phật hay đối với Nho đều có quan hệ lớn lao
không gì hơn được! Trong niên hiệu Hiển Đức (954-960) nhà Châu thời Ngũ Đại, tại
nền cũ của chùa Khai Nguyên, Tiền vương đã xây lại chùa, dời biển ngạch của chùa
Báo Ân từ núi Chi Hình về đấy, đấy là nguồn gốc của tên chùa Báo Ân vậy. Đến
niên hiệu Nguyên Phong (1078-1085) đời Tống Thần Tông, trùng tu chùa tháp, Tô
Đông Pha bỏ ra con rùa đồng để chứa xá-lợi, từ đấy có lúc hưng, lúc suy lắm
phen. Đầu đời Vạn Lịch nhà Minh, chùa tháp lại bị cháy rụi, do vị Tăng là Tánh
Nguyệt đảm nhiệm trùng hưng. Đến khi vị Tăng tên Như Kim đến đây, sư Tánh Nguyệt
liền giao phó lại cho Như Kim. Sư Như Kim nói rộng về nhân quả, hiển hiện đại
thần lực khiến cho đàn-việt tín thí tụ tập như mây nhóm, dốc hết công sức suốt
chín năm trời. Năm Khang Hy thứ năm (1666) đời Thanh, pháp sư Nhất Nguyên muốn
trùng tu, gặp đúng dịp Thái Phó[31]
Kim Văn Thông Công cáo lão hồi hưu, do vậy bèn khuyên dụ, đề xướng trùng tu khiến
cho chùa có quy mô lớn hơn trước. Năm Đạo Quang 16 (1836), vị thân sĩ trong ấp
là Phan Mai Khê tự mình bỏ ra một khoản tiền lớn để sửa sang như mới.
Năm Quang Tự 24 (1898), lão
pháp sư Mẫn Hy đến đất Tô, thân sĩ trong ấp do thấy tháp chùa Báo Ân đã hư sụp,
muốn cậy vào đức độ, danh tiếng của lão pháp sư để khôi phục bèn thỉnh Ngài làm
Trụ Trì. Pháp sư bằng lòng, nhưng chưa kịp khởi công đã viên tịch. Pháp đồ là
sư Vịnh Hà cực lực đảm đương, lệnh đồ tôn[32]
là sư Chiêu Tam giúp sức. Ông cháu hai người dốc cạn sức lực trông nom, đốc
thúc, mới khởi công được nửa năm, sư Vịnh Hà mất, khi ấy là năm Quang Tự 31
(1905). Sư Chiêu Tam kế nghiệp làm Trụ Trì, nhọc nhằn lo toan cho tới năm sau
ngôi tháp chín tầng và các điện đường đều được hoàn chỉnh.
Cho đến bây giờ đã hơn ba mươi
năm, mưa gió vùi dập, gỗ mục, ngói vỡ, trung tuần tháng Năm năm nay, góc cạnh của
tầng thứ tám nơi đỉnh tháp đột nhiên bị sụt lở, từ trên xuống dưới tầng nào
cũng bị hư hoại. Nếu chẳng cấp tốc tu bổ, sau này sẽ khó thể nào duy trì được.
Cụ Chiêu Tam cầm tự chí đến [cho Bất Huệ xem] và kể lể tình trạng hiện thời, tính
quyên mộ để sửa chữa, cậy Bất Huệ soạn một bài văn thuật duyên khởi, khẩn cầu
mười phương tể quan, trưởng giả, hàng thiện tín v.v… phát Bồ Đề tâm, hành
phương tiện sự, bỏ tiền của chẳng bền chắc để vun bồi phước đức vô tận, sẽ thấy
Phật, trời che chở như mây nhóm, điều tốt lành đua nhau xảy đến, giàu, thọ, khỏe
mạnh, bình yên, thân hiện tại hưởng năm thứ phước như Cơ Tử đã luận, quế lan
xum xuê, hậu duệ hưởng trăm điều tốt lành như trong bài giáo huấn của Y Doãn.
34. Duyên khởi trùng tu Niệm Phật Đường và mở liên xã
tại chùa Tư Phước, Phụ Dương
(năm Dân Quốc 26 - 1937)
Trong
thánh giáo của Như Lai pháp môn vô lượng, tùy ý nương theo một pháp nào đó, dùng
Bồ Đề tâm tu trì cũng đều có thể liễu sanh thoát tử, thành Phật đạo. Nhưng khi
đang tu còn chưa chứng, sẽ có sự khó - dễ, nhanh - chậm rất lớn. Cầu lấy pháp
viên mãn nhất, nhanh chóng nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, vừa khế cơ lẫn khế
lý, vừa là tánh vừa là tu, thích hợp khắp ba căn, thâu nhiếp hoàn toàn lợi căn
lẫn độn căn, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường tắt
để trời, người, phàm, thánh chứng Chân thì không chi bằng một pháp tín nguyện
niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ấy là vì hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực,
còn pháp môn Niệm Phật cậy thêm Phật lực. Cậy tự lực thì nếu chưa đoạn sạch Phiền
Hoặc sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới, còn cậy vào Phật lực thì tín nguyện chân
thành, thiết tha sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Người trong thời hiện tại muốn
giải quyết xong đại sự sanh tử ngay trong đời này mà bỏ pháp này sẽ trọn chẳng
có hy vọng gì!
Cần biết rằng: Pháp môn Tịnh Độ
pháp nào cũng viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa trời, con sông
nào cũng đều hiện bóng. Thủy ngân rớt xuống đất, viên nào cũng tròn xoe. Chẳng
riêng gì cách vật, trí tri, cùng lý, tận tánh, giác thế, yên dân, trị quốc, giữ
yên cõi bờ đều có lợi ích lớn lao, mà ngay cả sĩ, nông, công, thương, muốn phát
triển sự nghiệp, già, trẻ, trai, gái muốn tiêu diệt bệnh tật khổ sở, không gì
chẳng tùy theo lòng cảm mà ứng, thỏa lòng mãn nguyện. Nay lòng người chìm đắm, cõi
đời loạn lạc đã đến mức tột cùng, biến loạn thị - phi, điên đảo đen - trắng,
tranh đoạt, lừa gạt, lấn áp cực lực diễn ra. Nếu chẳng cứu vãn thì đạo lý làm
người gần như diệt mất. Do vậy, những người hữu tâm các nơi đua nhau đề xướng
Phật pháp, nêu tỏ nhân quả ba đời, tỏ rõ sự luân hồi lục đạo, chỉ rõ Sa Bà trược
ác, nêu rõ Cực Lạc nghiêm tịnh để mong con người trong cõi đời này sẽ đánh đổ
những tư dục xằng bậy, khôi phục lễ nghĩa, hòng còn sống sẽ dự vào bậc thánh, bậc
hiền, liễu sanh thoát tử, mất về cõi Cực Lạc.
Chùa
Tư Phước ở Phụ Dương là ngôi chùa cổ đã trải mấy triều, được ghi chép trong
sách vở. Gần đây, vị Trụ Trì không có tư cách hoằng pháp, những kẻ không biết
Phật pháp đua nhau đề xướng duy tân, phá trừ mê tín, toan muốn gấp rút hủy diệt
ngôi chùa ấy. Tuy bậc minh triết dùng chánh lý để khuyên nhủ, bọn họ trọn chẳng
chịu nghe. Đại biểu hội Phật giáo Phụ Dương là ông Hình Thuần Trai phẫn uất chẳng
quản tấm thân, bôn tẩu tỉnh thành, gặp mặt Chủ Tịch là ông Lưu Tuyết Á, xin hãy
ra thông cáo bảo vệ. May được ông Lưu tâm hộ pháp thiết tha, lòng yêu dân sâu đậm,
lập tức ra thông cáo ngăn cấm nên mới giữ được chùa. Nhân sĩ địa phương do nghĩ
Phật pháp lý trí cao sâu, lợi ích rộng lớn liền nghĩ đến chuyện Tư Phước là chỗ
danh thắng của đất Dĩnh[33],
từ xưa đến nay nhân dân gội ân đội đức của Phật nhiều khôn kể xiết, chẳng nỡ để
mặc cho chùa hoang lương. Do vậy, lại tính chuyện phục hưng.
Hiện thời đã tạo dựng năm gian
Niệm Phật Đường, thỉnh pháp sư Bỉnh Sơ tạm thời chủ trì chuyện ấy, tính thỉnh
bao nhiêu đó vị sư có giới đức an trụ nơi đó để tu trì Tịnh nghiệp quanh năm. Mồng
Một, ngày Rằm mỗi tháng tín sĩ tại gia tụ tập niệm Phật một ngày để giúp cho việc
đề xướng. Buổi chiều, sau khi Niệm Phật xong, bất luận là Tăng hay tục đều có
thể giảng diễn ý chỉ niệm Phật lớn lao và pháp “ở trong trần lao học đạo, sống
nơi rẫy bái mà báo đền đất nước” cùng với sự “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn
phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều
lành” và lý “thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương” để hết thảy mọi người đều biết duyên do “ai cũng có thể là Nghiêu - Thuấn,
ai cũng đều có thể thành Phật” sẽ trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều chăm
chú mong thành thánh, học thành Phật. Đấy chính là pháp môn đại phương tiện “chẳng
giữ địa vị mà bảo vệ đất nước, cứu dân, thay đổi phong tục nhưng chẳng lộ dấu vết”.
Nguyện dù Tăng hay tục đều cùng gắng công thì lợi ích ấy càng thêm lớn lao vậy.
35. Trình bày về việc quyên mộ in cuốn Quán Thế Âm Bồ
Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
(năm Dân Quốc 14 - 1925, lược đi phần trình bày về biện pháp)
Quán
Thế Âm Bồ Tát trong quá khứ đã thành Phật từ lâu trong vô lượng kiếp trước, hiệu
là Chánh Pháp Minh, nhưng do tâm từ bi tha thiết, lòng cứu khổ ân cần, chẳng
lìa Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, trong mười phương vô lượng thế giới
tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Phẩm Phổ Môn nói “nên dùng thân nào để độ được, liền hiện thân ấy để thuyết pháp”. Tuy
là mười phương thế giới không cõi nào chẳng hiện thân, nhưng đối với thế giới
Sa Bà nhân duyên rất sâu. Tuy những thân trong mười pháp giới không thân nào chẳng
hiện, nhưng người đời thường gọi Ngài là Bồ Tát. Tuy những chỗ Ngài ứng hóa trọn
khắp hoàn vũ, nhưng Phổ Đà Sơn tại Chiết Giang là nơi rõ ràng nhất.
Ấn Quang được hưởng ân thật lớn,
đội ân thật sâu. Thoạt đầu xuất gia tại Nam Ngũ Đài Sơn tại Thiểm Tây, tức là đạo
tràng nơi đức Quán Âm hiện thân hàng phục rồng độc. Tiếp đó, sống nhờ ở Phổ Đà
trong biển
Khéo sao nhà đại văn học tỉnh Giang Tây là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh lên núi thăm viếng, vừa gặp nhau đã thành bạn thiết, do vậy bèn đem chuyện này gởi gắm, ông ta liền vui vẻ chấp thuận rồi lắng lòng soạn thuật suốt cả hai năm ròng, viết ra bản Tụng Văn đến hơn hai vạn chữ. Đối với sự tích trong mỗi câu đều chú thích sau mỗi đoạn văn để người đọc vừa xem liền hiểu rõ ngay, tổng cộng gồm ba quyển. Lại sao lục những nghĩa trọng yếu trong kinh, đặt tên là Kinh Chứng (những dẫn chứng trích từ kinh điển) gồm một quyển, ghi kèm vào sau Tụng Văn. Lại còn có Kim Cang Kinh Công Đức Tụng một quyển cũng ghi kèm vào sau để người tụng kinh niệm Phật đều biết phương hướng, cốt sao từ phàm tâm thấy được Phật tâm, thỏa mãn nguyện độ sanh của Như Lai. Hiện nay, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, thế đạo nhân tâm suy hãm đến cùng cực, riêng nhờ vào cuốn sách này để dẫn đường hòng đẩy lui con sóng cuồng, nâng đỡ thế đạo, cùng lên bậc thánh, cùng chứng Bồ Đề. Nay đã sắp chữ, cho khắc in, nguyện những thiện tín có sức đều cùng bỏ ra tịnh tài ngõ hầu những người cùng hàng trong khắp cõi đời ai nấy đều được gội từ ân của Quán Âm Bồ Tát, để rồi cùng được đích thân chứng đắc Phật tánh vốn có, viên mãn vô thượng giác đạo, một tấm lòng khăng khăng như thế mà thôi! (phần sau lược đi)
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên
Quyển Hạ
Phần 6 hết
[1] Phép Quán thứ tám là tổng quán Tây Phương Tam Thánh cùng với cảnh giới trang nghiêm của cõi Cực Lạc, kinh dạy: “Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ trước phải tưởng hình tượng làm sao cho khi nhắm mắt, mở mắt đều thấy một tượng báu như sắc vàng Diêm Phù Ðàn, ngồi trên tòa sen kia. Lúc thấy Phật tượng rồi, tâm nhãn tự được mở mang rõ ràng sáng suốt. Bấy giờ hành giả thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm, như: đất báu, ao báu, hàng cây báu, trên cây có mành báu của chư thiên che phủ, các lưới báu giăng khắp giữa hư không. Khi đã thấy được cảnh tướng rất rõ ràng như nhìn vào bàn tay rồi, lại tưởng hai hoa sen lớn, một ở bên trái, một ở bên phải của Phật, cả hai đều giống như tòa sen trước. Xong lại tưởng hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên trái, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên mặt, thân tướng đều rực rỡ như sắc vàng Diêm Phù Đàn…”
[2] Phép Quán thứ mười ba chỉ quán thân Phật cao một trượng
sáu đứng bên ao thất bảo, thân của hai vị Bồ Tát cũng đồng phân lượng, đồng thời
giảm bớt rất nhiều chi tiết cho phàm phu dễ quán, chẳng hạn chỉ quán hai vị Bồ
Tát khác nhau ở chỗ đức Quán Âm có hóa Phật đứng trên đảnh đầu, còn Đại Thế Chí
là bảo bình trên nhục kế.
[3] Phỉ Thúy (Jadeite) là một loại ngọc quý, còn được gọi bằng những danh xưng Thúy Ngọc, Ngạnh Ngọc, Miến Điện Ngọc, màu xanh lục đậm hơi biếc giống như màu lông chim Phỉ Thúy (chim bói cá, chim trả) nên mới có tên như vậy. Ở Trung Hoa không có loại ngọc này, phải nhập từ Miến Điện về nên rất quý và mắc tiền.
[4] Tức Thái Võ Đế nhà Bắc Ngụy, Vũ Đế đời Bắc Châu, Vũ Tông đời Đường. Ba ông vua này nghe lời bọn đạo sĩ sàm tấu, toan phá hủy sạch mọi chùa chiền, hủy diệt Phật giáo.
[5] Vương Tăng (997-1038), tự Hiếu Tiên, người xứ Thanh Châu, đỗ Trạng Nguyên trong niên hiệu Hàm Bình đời Tống Chân Tông. Khi khảo quan Dương Ức chấm bài thi Đình của Vương Tăng đã kinh ngạc thốt lên: “Đúng là văn chương của một nhân tài phù tá triều chánh!” Ông nổi tiếng là người cương trực, dám can gián thẳng thừng không e ngại nên rất được Tống Chân Tông và Tể Tướng Khấu Chuẩn coi trọng. Đến thời Tống Nhân Tông, ông làm Thừa Tướng, ra sức cải tổ triều chánh, cực lực thẳng tay gạt bỏ những kẻ do chạy vạy hay nhờ quyền thế mà được nắm giữ những chức vụ to tát. Khi ông mất, Tống Nhân Tông rất thương tiếc và đích thân đề bốn chữ “Tinh Hiền chi bi” (bia của bậc hiền nhân tinh ròng) trên bia mộ, đổi tên làng quê của ông thành làng Tập Hiền.
[6] Tam Dư vốn là một điển cố xuất phát từ câu nói của Đổng Ngộ thời Tam Quốc diễn tả chuyện khéo dùng thời gian dư thừa để học hành, tức “Đông giả, tuế chi dư; dạ giả, nhật chi dư; âm vũ giả, tình chi dư dã” (Mùa Đông là thời gian thừa của một năm; ban đêm là thời gian thừa của một ngày. Lúc mưa dầm tối tăm là thời gian thừa của lúc quang tạnh). Ông Ninh Đức Tấn dùng chữ Tam Dư đặt tên cho nhà học để khích lệ con cháu quý tiếc thời gian, chăm chỉ học hành, nhưng Tổ Ấn Quang đã thêm vào chữ Đức với ý nghĩa khuyên răn con cháu ông Ninh không chỉ lo học hành mà còn vun bồi điều lành để hòng đạt được ba đức của Phật tánh là Pháp Thân, Giải Thoát và Bát Nhã.
[7] Nhũ Danh là tên thật được đặt khi còn nhỏ. Khi đến tuổi
trưởng thành, lúc làm lễ Nhược Quan (đội mũ) cha mẹ hoặc người bề trên đặt cho
một cái tên khác nhằm gởi gắm kỳ vọng hoặc cầu chúc, tên ấy được gọi là Quan
Danh. Khi đi học thường chọn thêm một cái tên nữa gọi là Tự (nhằm biểu lộ chí
hướng). Hiệu là tên dùng khi trước tác, hoặc tự xưng nhằm tự trào hoặc bày tỏ
chí hướng.
[8] “
[9] Tiêu Lương tức là Nam Lương (502-557), tức một triều đại vào thời Nam Bắc Triều ở Trung Hoa, được sáng lập bởi Tiêu Diễn (Lương Cao Tổ Vũ Đế) sau khi diệt nhà Nam Tề, xưng đế, đóng đô tại Kiến Khang (nay là Nam Kinh). Do vậy, sử thường gọi triều đại này là nhà Tiêu Lương để phân biệt với những triều Lương khác.
[10] Phòng Ngự Sứ là một chức quan võ được lập ra từ thời
Đường nhằm trông coi việc binh tại những huyện trấn trọng yếu. Qua những đời
quyền hạn của chức quan này bị giảm dần, chỉ nhằm trông coi việc huấn luyện và
phòng thủ địa phương, chứ không có toàn quyền về binh bị như những đời trước.
[11] Lan quế: Ý nói con cháu hiển đạt. Đây là hai điển
tích được ghép chung lại. Một người tiểu thiếp của Trịnh Văn Công thời Đông
Châu nằm mộng thấy có người xưng là tổ tiên họ Trịnh trao cho nhánh lan, tỉnh dậy
liền biết đã thọ thai; do đó, đứa con sinh ra được đặt tên là Lan. Về sau Trịnh
Lan trở thành Trịnh Mục Công, là một ông vua hiền sáng suốt khiến nước Trịnh
tuy nhỏ lại làm bá chủ chư hầu một thời. Do vậy, người ta hay dùng điển tích “mộng
lan” để chỉ người phụ nữ có thai sanh con quý hiển. Chữ Quế phát xuất từ điển
tích Đậu Yên Sơn (tên thật là Đậu Vũ Quân) sống vào đời Hậu Tấn thời Ngũ Đại.
Ông này có năm người con trai đều đỗ đạt, đức cao trọng
vọng, được người đời khen ngợi là Yên Sơn Đậu Thị Ngũ Long (năm con rồng
họ Đậu đất Yên Sơn). Phùng Đạo làm thơ mừng Vũ Quân có câu: “Linh xuân nhất châu lão, đan quế ngũ chi
phương” (Linh Xuân một gốc thọ, đan quế năm cành thơm). Do vậy, người đời
sau thường khen ngợi nhà có con cháu hiển đạt, hiền đức là “lan quế chi gia”.
[12] Sinh Viên chính là danh xưng của học vị Tú Tài vào thời
Minh - Thanh, tức là người đã trúng tuyển kỳ thi tổ chức tại một huyện.
[13]
Vi Đà (Skanda), còn gọi là Kiện Đà Thiên, Vi Đà Thiên, Vi Tướng Quân, Vi Thiên
Tướng Quân, vốn là một vị Bồ Tát thị hiện dưới thân phận một vị thần có danh
xưng là Kārttikeya (người sáu mặt), hoặc Kumāra (Đồng Tử), sáu đầu, mười hai
tay, tay cầm cung tên, cỡi chim công, tức là một trong tám vị đại tướng quân của
Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương, đứng đầu ba mươi hai tướng quân của trời Đế
Thích. Ngài nhận lãnh lời phó chúc của đức Phật bảo vệ ba châu Đông,
[14] Phối điện: Tòa điện thờ phụ thêm vào công trình
chính.
[15] Già Lam ở đây chính là Già Lam Thần, tức mười tám vị thiện thần thủ hộ chốn tùng lâm. Hiểu theo nghĩa rộng, chữ Già Lam Thần chỉ tất cả chư thiên thiện thần bảo vệ chốn chùa chiền. Theo Thất Phật Bồ Tát Sở Thuyết Đại Đà La Ni Thần Chú Kinh quyển bốn, danh xưng của mười tám vị Già Lam Thần như sau: Mỹ Âm, Phạm Âm, Thiên Cổ, Xảo Diệu, Thán Mỹ, Quảng Diệu, Lôi Âm, Sư Tử Âm, Diệu Mỹ, Phạm Hưởng, Nhân Âm, Phật Nô, Thán Đức, Quảng Mục, Diệu Nhãn, Triệt Thính, Triệt Thị, và Biến Quán. Tuy thế, trong rất nhiều tùng lâm Trung Hoa, Quan Công được coi là Già Lam Bồ Tát và được thờ đại diện cho mười tám vị thần Già Lam kể trên.
[16] Thập Bát La Hán: Đúng ra, chỉ có mười sáu vị La Hán. Theo tôn giả Khánh Hữu viết trong tác phẩm Pháp Trụ Ký, lúc đức Phật sắp nhập Niết Bàn đã phó chúc cho mười sáu vị La Hán trụ thế lâu dài cho đến khi Phật Di Lặc ra đời để hoằng dương Phật pháp. Một số nhà nghiên cứu cho rằng người Trung Hoa coi số 9 là con số cát tường nên đã tự động thêm vào hai vị nữa cho đủ con số 18, nhưng những người chủ trương thuyết này không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào. Ngoài 16 vị La Hán được ghi tên trong Pháp Trụ Ký, danh tánh của hai vị được thêm vào này bị biến đổi theo nhiều thời đại, chẳng hạn sách Phật Tổ Thống Ký ghi hai vị La Hán cuối cùng là Ca Diếp tôn giả và Quân Đồ Bát Thán tôn giả. Truyền thống Tây Tạng cũng kể tên 16 vị La Hán giống như sách Pháp Trụ Ký và thêm vào hai vị nữa là Đạt Ma tôn giả và Bố Đại hòa thượng. Vua Càn Long sau khi tham khảo ý kiến các bậc đại đức đương thời, đã xuống chiếu khâm định danh tánh 18 vị La Hán như sau: Tân Độ La Bạt La Đọa Xà (Pindolabharadvaja), Ca Nặc Ca Phạt Tha (Kanakavatsa), Ca Nặc Ca Bạt La Đọa Xà (Kanaka-bharadvaja), Tô Tần Đà (Suvinda), Nặc Củ La (Nakula), Bạt Đà La (Bhadra), Ca Lý Ca (Karika), Phạt Xà La Phất Đa La (Vajraputra), Thú Bác Ca (Svaka), Bán Thác Ca (Panthaka), La Hỗ La (Rahula), Na Già Tê Na (Nagasena), Nhân Yết Đà (Ingata), Phạt Na Bà Tư (Vanavasin), A Thị Đa (Ajita), Chú Đồ Bán Thác Ca (Cuda-panthaka), Hạ Sa Nhã Ba (Ca Diếp tôn giả) và Nạp Đáp Mật Đáp Lạt (Di Lặc tôn giả). Trong dân gian lại thường gọi tên mười tám vị La Hán theo tư thế hay hình dạng được tạc tượng như sau: Phục Long La Hán (La Hán hàng phục rồng - Khánh Hữu), Tọa Lộc La Hán (La Hán ngồi trên con nai - Tân Đầu Lô Phả La Đọa), Cử Bát La Hán (La Hán nâng bát - Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà ), Quá Giang La Hán (La Hán vượt sông - Bạt Đà La), Phục Hổ La Hán (La Hán hàng phục cọp - Tân Đầu Lô), Tịnh Tọa La Hán (La Hán tịnh tọa - Nặc Củ La), Trường Mi La Hán (La Hán lông mày dài - A Thị Đa), Bố Đại La Hán (La Hán cầm túi vải - Nhân Yết Đà), Khán Môn La Hán (La Hán nhìn cửa - Chú Đồ Bán Thác Ca), Thám Thủ La Hán (La Hán sờ bàn tay - Bán Thác Ca), Trầm Tư La Hán (La Hán trầm tư - La Hỗ La), Kỵ Tượng La Hán (La Hán cưỡi voi - Ca Lý Ca), Hoan Hỷ La Hán (La Hán vui vẻ - Ca Nặc Ca Phạt Tha), Tiếu Sư La Hán (La Hán cưỡi sư tử, mỉm cười - La Phất Đa, tức tên ngài Vajraputra được gọi tắt), Khai Tâm La Hán (La Hán phạch ngực - Thú Bác Ca), Thác Tháp La Hán (La Hán cầm tháp - Tô Tần Đà), Ba Tiêu La Hán (La Hán cầm quạt Ba Tiêu - Phạt Na Bà Tư) và Oát Nhĩ La Hán (La Hán ngoáy tai - Na Già Tê Na). Như vậy, trong cách gọi dân gian, tôn giả Tân Đầu Lô được nhắc lại hai lần và tên ngài Khánh Hữu được thêm vào danh sách này.
[17] Hương Chương, còn được gọi là Bổn Chương, Điểu Chương, Lão Chương, hoặc Chương Tử, là một loài cây thân mộc, không rụng lá vào mùa Đông, thuộc họ Long Não, có tên khoa học là Cinnamomum Camphora, thường mọc nhiều ở các tỉnh miền Đông Trung Hoa cũng như phân bố rải rác tại Việt Nam, Nhật Bản, Lưu Cầu, sớ gỗ trắng nhạt hơi ngả nâu, có mùi thơm nhẹ. Người Trung Hoa tin rằng những cây gỗ Chương này có thần nhân nương gá nên không dám chặt đẽo làm vật dụng, chỉ dùng để tạc tượng Phật, tượng thần.
[18] Trải vàng (bố kim): Khi Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa tính mua
ngôi vườn của thái tử Kỳ Đà (Jeta) để xây dựng tịnh xá cho Phật và Tăng đoàn tại
Xá Vệ, thái tử không muốn bán liền nói giỡn: “Nếu ông đem vàng đến lót hết mặt
đất thì tôi sẽ bán cho”. Nào ngờ, ông Cấp Cô Độc chở vàng đến lót khắp mặt đất.
Xúc động trước tấm lòng mộ đạo của Cấp Cô Độc, thái tử nguyện dâng cúng những
cây trong vườn cho Tăng đoàn; do đó, ngôi vườn này được gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc
Viên. Về sau, các sách vở nhà Phật thường dùng chữ “bố kim” để chỉ hành động sẵn
lòng cúng dường hộ trì Phật pháp của hàng Phật tử tại gia.
[19] Thanh Minh là một trong 24 tiết khí của Âm lịch. Tiết khí này thường rơi vào ba tuần cuối của tháng Tư Dương Lịch. Bộ Lịch Thư quy định: “Ngày Rằm sau tiết Xuân Phân khi sao Bắc Đẩu chỉ về hướng Đinh là tiết Thanh Minh. Do thời tiết trong sáng, thanh khiết nên gọi là Thanh Minh”. Thời cổ, hoàng đế thường đi tảo mộ tổ tiên vào tiết Thanh Minh nên dân gian bắt chước theo. Do tiết khí này nhằm vào đầu Xuân, khí trời ấm áp, cỏ cây xanh tốt nên còn gọi là “hội Đạp Thanh” (đạp lên cỏ xanh), tức là dịp cho nam thanh nữ tú vừa đi tảo mộ, vừa có dịp gặp gỡ nhau.
[20] Trong Đông Y, Tiên Thiên chỉ cho những gì được bẩm thụ
từ lúc mới thụ thai, tức cơ sở vật chất hình thành một cá nhân, còn Hậu Thiên
là những gì được bồi đắp, trưởng dưỡng sau khi sanh ra.
[21] Ngoan không, còn gọi là Thiên Không, tức là một loại
tà kiến cho Không được nói trong Phật pháp là cái không trống rỗng, không có gì
hết, rồi quy kết Phật giáo là một thứ hư vô chủ nghĩa (Nihilism), không biết đến
nghĩa Chân Không Diệu Hữu của nhà Phật.
[22] Chúng tôi dịch câu nói này của Tử Hạ theo cách diễn
giải của sách Luận Ngữ Tường Giải.
[23] Vũ Thánh Miếu là miếu thờ Quan Công. Do người Trung
Hoa tôn xưng Quan Công là Vũ Thánh, Khổng Tử là Văn Thánh, nên các miếu thờ
Quan Công thường hay gọi là Vũ Thánh Miếu. Trong Vũ Thánh Miếu thường thờ tượng
Quan Công, hai bên là tượng Quan Bình và Châu Xương đứng hầu. Tuy vậy, ngoài
bàn thờ chính thờ Quan Công ra, có những nơi còn thờ xen lẫn đủ thứ thần tượng
của Đạo Giáo, kể cả tượng Quán Âm.
[24]
Câu nói này trích từ thiên Ly Lũ sách Mạnh Tử, Triệu Kỳ đời Hán giảng như sau: “Người con hiếu tận hết sức hiếu dưỡng cha mẹ,
vẫn chưa đáng coi đó là giữ được chuyện lớn, mà đến lúc mất, tống táng đúng lễ
thì mới đáng coi là giữ được chuyện lớn vậy”.
[25] Lưu Chuyển (Pravrtti) ngụ ý sanh tử tiếp nối không ngừng, xoay lăn trong tam giới, luân hồi trong lục đạo. Quán Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, tức là quán từ vô minh cho đến lão - tử thì gọi là Lưu Chuyển Môn hoặc Thuận Quán.
Hoàn Diệt có nghĩa từ mê trở về với lẽ chân, diệt hết phiền não, tiến nhập Niết Bàn. Quán Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, từ lão - tử quán ngược lại cho đến cội nguồn của mọi đau khổ là vô minh, sẽ phá được vô minh nên gọi là Hoàn Diệt hoặc Nghịch Quán.
[26] Minh Giáo Đại Sư chính là ngài Khế Tung (1007-1072), một vị cao tăng thuộc tông Vân Môn sống vào đời Tống, quê ở Đàm Tân, Đằng Châu (nay là huyện Đằng tỉnh Quảng Tây), tự Trọng Linh, hiệu Tiềm Tử. Sư xuất gia năm bảy tuổi, mười ba tuổi được thế phát, thọ giới, mười chín tuổi đi tham học khắp nơi, đầu thường đội tượng Quán Âm, mỗi ngày trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mười vạn câu. Về sau, Sư đắc pháp nơi thiền sư Hiểu Tông thuộc tông Tào Động. Sư đọc trọn khắp các kinh điển, sách vở, rất giỏi văn chương, thường nhấn mạnh thuyết “Nho - Phật nhất trí”. Ngoài bộ luận Phụ Giáo Biên nổi tiếng ra, Sư còn trước tác những cuốn Truyền Pháp Chánh Tông Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chánh Tông Ký v.v… Những trước tác của Sư được Tống Nhân Tông hết sức ngưỡng mộ, hạ lệnh đưa vào Đại Tạng, ban tặng cho Sư ca-sa tía và ban hiệu là Minh Giáo đại sư. Sau khi Sư thị tịch tại chùa Linh Ẩn vào năm Hy Ninh thứ năm (1072), môn nhân thâu thập những ngữ lục của Sư soạn thành bộ Đàm Tân Văn Tập, 20 quyển.
[27] Hàn Ngụy Công chính là Hàn Kỳ (1008-1075), tự Trĩ Khuê, quê ở An Dương, Tương Châu (tỉnh Hà Nam), là một văn quan đời Tống, cùng với Phạm Trọng Yêm là những văn quan thống lãnh quân phòng ngự biên giới phía Tây, chuyên kháng cự quân Tây Hạ xâm lăng Đại Tống. Về sau, họ Hàn làm Tể Tướng vào năm Gia Hựu thứ ba (1058), rồi được Tống Anh Tông phong cho tước Ngụy Quốc Công.
[28] Do luôn thường hằng sẵn có, nên nói “chẳng mất mà
cũng chẳng được”, chỉ là thấy được Phật tánh hay không mà thôi!
[29] Tôn Nho chính là bộ tướng của Tần Tông Quyền (một trong các tướng cướp đầu hàng Hoàng Sào). Sau khi Hoàng Sào chết, Tần Tông Quyền xưng đế, sai Tôn Nho đánh Lạc Dương, Trịnh Châu v.v… Khi bị Châu Ôn đánh bại, Tần Tông Quyền gọi em là Tần Tông Xung và Tôn Nho về tiếp cứu, Tôn Nho bèn giết Tông Xung, tự xưng vương, chiếm cứ một giải các quận huyện dọc miền Dương Châu. Nhà Đường khi ấy quá suy yếu, phải phong cho hắn làm Hoài Nam Tiết Độ Sứ. Tôn Nho đánh nhau liên tiếp với Dương Hành Mật để giành quyền làm chủ vùng Hoài Nam. Cho đến năm 892, Tôn Nho đem quân sang đánh Dương Hành Mật tại Tuyên Châu, bị họ Dương dùng kế tiêu thổ kháng chiến vây hãm. Cuối cùng, quân lương hết, Tôn Nho bị họ Dương xử tử. Một bộ tướng của Tôn Nho là Mã Ân chạy thoát chiếm cứ miền Hồ Nam, xưng đế, lập quốc, Sử gọi là nước Mã Sở.
[30] Hoàng Sào vốn là con một người buôn muối, thi rớt tiến sĩ, phẫn chí bèn cùng với con là Hoàng Quỹ và cháu là Hoàng Ân Nghiệp tập hợp những tay du thủ du thực, dựng cờ khởi nghĩa tại Oan Cú (nay thuộc thành phố Hà Trạch, tỉnh Sơn Đông) với chiêu bài “thế thiên hành đạo, cứu khổ dân nghèo” để lật đổ nhà Đường vào năm Càn Phù thứ hai (875). Thế lực của Hoàng Sào phát triển nhanh chóng, chiếm lĩnh một vùng đất rộng lớn từ Sơn Đông đến các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, chiếm được cả kinh đô Trường An của nhà Đường, xưng đế, lấy quốc hiệu là Đại Tề, niên hiệu là Kim Thống. Nhờ sự phản bội một đại tướng của Hoàng Sào là Châu Ôn và đội quân dũng mãnh của tướng quân Lý Khắc Dụng người tộc Sa Đà, quân của Đường Hy Tông mới có thể phản công, tái chiếm lại Trường An. Đôi bên đánh nhau dằng dai mãi đến ngày 13 tháng 7 năm 884 Hoàng Sào bị bộ hạ là Lâm Ngôn ám sát, cuộc phản loạn mới được dẹp yên.
[31] Thái Phó là một chức quan đã có từ đời Châu, có quyền
lực rất lớn, cùng với Thái Sư, Thái Bảo được xưng là Tam Công, khi vua còn nhỏ
họ nắm toàn quyền cai trị. Thái Sư tương đương với Tể Tướng trong những đời
sau. Đến đời Tùy - Đường, ba chức vụ này gọi là Tam Sư để phân biệt với Tam
Công là Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không. Trải qua các triều đại, ba chức vụ này dần dần
mất thực chất, có lúc bị phế bỏ, hầu như chỉ còn hư vị. Đến thời Minh - Thanh,
Thái Phó, Thái Sư, Thái Bảo lại được gọi là Tam Công, tuy được xếp vào ngạch
Chánh Nhất Phẩm nhưng hoàn toàn là hư vị. Tam Công thường do đại thần kiêm nhiệm,
được coi như cố vấn của nhà vua khi cần thiết. Chức Thái Phó thường do các vị
quan từng giữ chức Thái Tử Thái Phó (tức vị thầy dạy học cho vua khi vua còn là
Thái Tử) kiêm nhiệm.
[32] Sư Chiêu Tam là đồ đệ của học trò sư Vịnh Hà nên gọi
là “đồ tôn”, vì thế, trong phần sau mới nói “ông cháu hai người”.
[33] Dĩnh là tên vùng đất (gồm các huyện Dĩnh Thượng, Dĩnh
Châu, Dĩnh Đông và Dĩnh Tuyền) thuộc lưu vực con sông Toánh (thường đọc thành
Dĩnh), trực thuộc sự quản hạt của thành phố Phụ Dương, tỉnh An Huy.