Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên,

Quyển Hạ

Phần 1

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo Chánh: Tịnh nghiệp hành nhân Minh Tiến & Huệ Trang

 

II. Tự

1. Lời tựa cho sách Vãn Hồi Thế Đạo Nhân Tâm Cùng Trị Cả Gốc Lẫn Ngọn

(Mùa Đông năm Kỷ Mão (1939) thời Dân Quốc, khi ấy đã bảy mươi chín tuổi)

 

      Lý thế gian lẫn xuất thế gian chẳng ngoài hai chữ “tâm tánh”. Sự thế gian và xuất thế gian chẳng ngoài hai chữ “nhân quả”. Lý tâm tánh nhỏ nhiệm, dẫu là thánh nhân vẫn có điều không biết; sự nhân quả rành rành, dù ngu phu cũng có thể hiểu đại khái. Thánh nhân muốn cho thiên hạ vĩnh viễn thái bình, nhân dân thường yên vui, bèn đặc biệt soạn ra sách Đại Học để dạy pháp ấy. Vừa mở đầu sách, liền nói: “Đại Học chi đạo, tại minh Minh Đức” (đạo Đại Học nhằm làm sáng tỏ Đức Sáng). Minh Đức chính là điều ai nấy đều sẵn có, nhưng do thiếu công phu khắc chế ý niệm, tự phản tỉnh, suy xét, nên Minh Đức bị tư dục huyễn vọng che lấp chẳng thể hiển hiện để thụ dụng được! Cách để làm sáng tỏ [Minh Đức] là “khắc chế ý niệm”. Thứ tự của công phu khắc chế ý niệm là “tu thân, chánh tâm, thành ý, trí tri, cách vật”. “Vật” là gì? Chính là tư dục huyễn vọng được sanh bởi cảnh, chẳng hợp thiên lý, chẳng thuận nhân tình, chứ không phải là vật ở bên ngoài! Do những tư dục này kết chặt trong tâm nên tất cả tri kiến đều xuôi theo tư dục, trở thành lệch lạc, tà vạy. Như kẻ tham danh tham lợi chỉ biết có lợi, chẳng biết đến hại, kiệt lực lo toan, rất có thể đến nỗi thân bại danh liệt! Kẻ yêu vợ thương con chỉ biết đến những điều tốt của vợ con, chẳng biết đến những thói xấu của họ, nuôi thành mầm họa, sẽ có thể đến nỗi bị tan nhà nát cửa. Đấy đều là do tư dục Tham và Ái sai khiến. Nếu trừ khử hết sạch những thứ tư dục chẳng hợp tình hợp lý ấy thì vợ con đúng hay sai sẽ tự biết, đối với đường lối để đạt được danh lợi sẽ chẳng cần phải đút lót hay mong cầu sai trái nữa!

Trước hết, phải hiểu chữ Vật này là tư dục huyễn vọng chẳng hợp tình hợp lý thì trừ khử nó sẽ là chuyện dễ dàng! Nếu không, suốt đời dốc sức cũng chẳng làm gì được nó! Dẫu đọc trọn hết sách vở thế gian cũng chỉ trở thành một loài dây leo sống bám vào cội cây [lớn], trở thành một gã theo sóng đuổi sóng! Cái họa của món vật tư dục lớn lắm thay! Nếu biết “vật” ấy là oán gia sanh tử của chúng ta, quyết chẳng để cho nó được tạm tồn tại trong tâm ta thì chánh tri vốn sẵn có trong cái tâm này sẽ tự hiển hiện. Chánh tri đã hiển hiện thì “ý thành, tâm chánh, thân tu” sẽ được hướng dẫn xuôi dòng với khí thế như chẻ tre, chẳng mong cầu mà tự nhiên được như thế. Con người ai cũng đều có thể là Nghiêu - Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật, vì hết thảy mọi người ai nấy đều sẵn có Minh Đức, hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Những kẻ chẳng thể là Nghiêu - Thuấn, chẳng thể làm Phật đều do bị tư dục bít chặt, chẳng mạnh mẽ đổ công sức khắc chế ý niệm đến nỗi bị tư dục xoay chuyển, luân hồi sáu nẻo từ kiếp này sang kiếp khác, trọn chẳng có lúc thoát ra, chẳng đáng buồn sao? Những kẻ chuyên dạy “cách vật trí tri” mà chẳng dùng nhân quả để phụ giúp cho sự hướng dẫn, chắc sẽ khó thể phát khởi đại tâm mạnh mẽ, dốc chí tu trì được!

Tôi thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để Phật độ thoát chúng sanh”. Luận theo Phật pháp, từ địa vị phàm phu cho đến Phật Quả, tất cả các pháp đều chẳng ra ngoài nhân quả. Luận theo thế gian, lẽ đâu riêng một pháp nào lại chẳng như thế? Vì thế Khổng Tử khen ngợi Châu Dịch[1], thoạt đầu liền nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (nhà tích thiện sự vui mừng có thừa, nhà chất chứa điều bất thiện tai ương có thừa). “Tích thiện, tích bất thiện” là nhân, “dư khánh, dư ương” là quả. Hơn nữa, đã có dư khánh, dư ương, lẽ đâu chẳng có bổn khánh, bổn ương? Bổn khánh, bổn ương chính là quả báo sẽ đạt được trong đời kế tiếp hoặc trong những đời sau nữa của người tích lũy điều thiện hay điều bất thiện, [những quả báo ấy] sẽ lớn lao hơn dư khánh, dư ương mà con cháu được hưởng cả trăm ngàn vạn lần! Phàm phu chẳng thấy được, há nên cho là không có ư? Ví như trong đêm tối om chẳng thấy được hết thảy mọi vật, nhưng chẳng được nói hết thảy mọi vật đều bị tiêu diệt!

Cơ Tử[2] trình bày Hồng Phạm, trong phần cuối cùng mới nói: “Hưởng dụng ngũ phước, oai dụng lục cực” (Thuận theo sẽ được năm điều phước, trái nghịch sẽ bị sáu điều khốn khó). Ngũ Phước, Lục Cực là nói đến cái nhân trong đời trước trở thành cái quả trong đời này. “Hưởng” () là thuận theo, “dụng” () là “dĩ” () (thì, là), là đắc () (được). [Trong Ngũ Phước], một là “thọ”, hai là “phú” (giàu có), ba là “khang ninh” (mạnh khỏe, yên ổn), điều thứ năm là “khảo chung mạng” (hết tuổi thọ mới chết), đó chính là quả cảm thành bởi tu đạo, tu đức trong đời trước; điều thứ tư là “du hảo đức” (thường có đức tốt) chính là thói quen tu đạo tu đức từ đời trước. “Cực” () có nghĩa là tai ách tột cùng. Nên hiểu nghĩa chữ Oai () là Vi ()[3], [tức] trái nghịch; ý nói: Những gì đã làm trong đời trước trái nghịch với đạo đức thì đến đời này sẽ bị: Một là xui xẻo chết ngang và đoản thọ (xui xẻo và đoản thọ gộp thành điều thứ nhất); hai là thân bệnh tật chẳng được mạnh khỏe; ba là tâm lo lắng không yên; bốn là nghèo cùng, chi dùng chẳng đủ; năm là diện mạo xấu xa; sáu là thân yếu ớt, không có năng lực!

Nhà Nho mờ mịt nơi tiền nhân hậu quả, nên chuyện gì cũng đều quy về sự cai trị của vua, gần như diệt thiên lý, vu báng sự cai trị của nhà vua! Trẻ nhỏ sanh vào nhà phú quý bèn hưởng phước, sanh vào nhà nghèo cùng sẽ chịu khổ, há có phải là do nhà vua cai trị có phân biệt khiến nó phải sanh như vậy hay chăng? Vì thế, kinh dạy: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn biết cái nhân đời trước thì những gì phải chịu trong đời này chính là nó đấy; muốn biết quả trong đời sau thì những gì đã làm trong đời này chính là nó đấy). Hồng Phạm do vua Đại Vũ soạn ra, Cơ Tử trần thuật [nội dung sách ấy] với Vũ Vương. Lời nói về Ngũ Phước, Lục Cực ở cuối [thiên sách] ấy đã giảng rõ nghĩa “nhân quả ba đời” cực kỳ xác đáng, thiết thực.

Tống Nho cho rằng: “Phật nói nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi chính là chỗ dựa để lừa bịp ngu phu, ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật ra chẳng hề có chuyện ấy”. Họ phán quyết: “Con người sau khi chết đi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán. Dù có chém - chặt - xay - giã, lấy chi để thực hiện? Thần hồn đã phiêu tán rồi, còn ai để thọ sanh?” Họ quyết đoán “chắc chắn không có nhân quả”, vậy thì trong Xuân Thu Truyện, Sử Ký, Hán Thư thường chép những kẻ bị giết oan quấy phá, kẻ chịu ân báo đức, đủ mọi sự tích, chắc là tiền hiền đã tạo sẵn căn cứ cho Phật giáo lừa phỉnh người khác đó chăng? Đã không có nhân quả, không có đời sau thì Nghiêu hay Kiệt đều chết sạch cả rồi, ai chịu khăng khăng tu trì để cầu hư danh sau khi chết nữa đây? Bởi lẽ cái Ta thật sự đã không có, hư danh có ích chi đâu? Do vậy, thiện không có gì để khuyên, ác không có gì để trừng phạt. Lại còn riêng xướng cao giọng dạy người “làm lành thì phải là không làm gì cả, hễ có làm gì để làm lành tức là ác”. Thứ tà thuyết này gây lầm lạc, nguy hãm cho quốc gia, xã hội chẳng cạn đâu!

Kẻ vô tri khâm phục [Châu - Trình] cao minh, trọn chẳng có một niệm muốn làm lành. Người có trí đau xé tâm can bởi [Tống Nho] hoàn toàn phế bỏ đạo “khuyên dụ dần dần làm lành” của thánh nhân mà cứ mong con người có tư cách thánh nhân! Nhưng thánh nhân cũng chẳng phải là hạng “chẳng làm gì mới là làm lành”! Khổng Tử đến năm bảy mươi tuổi vẫn muốn trời cho sống thêm dăm mười năm nữa để học Dịch hòng tránh khỏi lỗi lớn. Một bộ kinh Dịch không điều gì chẳng nhằm dạy con người về đạo “hướng lành, tránh dữ, lo lắng dè dặt khắc chế ý niệm để tu trì”. Nếu đúng như họ (tức những nhà Tống Nho) nói thì Phục Hy, Văn Vương, Châu Công, Khổng Tử đều trở thành những kẻ tội lỗi đứng đầu, là cội gốc họa hại lầm lạc dạy người khác làm ác cả, có lẽ ấy hay chăng?

Tình người như nước, nhân quả như đê. Tống Nho cực lực bài bác nhân quả, cho đấy là chỗ dựa dẫm để Như Lai gạt gẫm người ta tuân phụng giáo pháp của Ngài, nhưng lẽ nào nhân quả được nói trong kinh điển đạo Nho chẳng phải là thật có ư? Họ muốn bác Phật để bảo vệ Nho, rốt cuộc trở thành phế kinh, phế trừ luân thường, thực hành biến [con người] thành loài thú. Vở tuồng xấu xa ấy đều do những kẻ cao giọng đề xướng ấy diễn xuất, khiến cho đạo làm người hầu như diệt mất! Ông Phí Trí Nghiễm xưa kia từng lậm phải chất độc của Trình - Châu rất sâu, đến lúc tuổi già, do sự lịch duyệt sâu xa, nhân đời loạn mà biết được cái gốc họa; bởi vậy bèn quy y Tam Bảo, đọc khắp các sách vở, đối với sự tích nhân quả ba đời và lục đạo luân hồi, đều sao chép sơ lược đại khái, ngõ hầu người đọc bỏ được tà kiến Đoạn Diệt, tuân theo quy củ lớn lao của đạo Nho và Thích. Nếu con người ai nấy đều hành theo thì cõi đời sẽ trở lại thuở Đường Ngu, con người giữ vẹn lễ giáo, biến nghị lực tàn sát lẫn nhau trở thành sự nghiệp lớn lao duy trì lẫn nhau. Do vậy, bèn đặt tên cho sách này là Tập Sách Vãn Hồi Thế Đạo Nhân Tâm Cùng Trị Cả Gốc Lẫn Ngọn.

Do thầy thuốc trị bệnh, bệnh cấp bách bèn trị nơi đằng ngọn (triệu chứng), bệnh tình hòa hoãn bèn trị nơi đằng gốc (căn nguyên). Như người cổ họng sưng phồng, hai đường đại - tiểu tiện chẳng thông, nếu trước hết chẳng dùng thuốc để tiêu chứng phù thũng và khai thông đại tiểu tiện thì người ấy sẽ chết ngay, dẫu có cách trị tận gốc cũng trọn chẳng có chỗ nào để áp dụng được! Vì thế, phải trị đằng ngọn trước. Với những chứng bệnh thuộc đằng ngọn khác, chỉ cần điều hòa tạng phủ cho tốt lành thì những chứng đằng ngọn không trị cũng sẽ tự mất! Sự lý “cách vật, trí tri, thận độc (cẩn thận, dè dặt), khắc chế ý niệm, nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi” từ địa vị phàm phu cho đến khi thành thánh, thành Phật, đều chẳng thể lìa được! Khổng Tử lo âu vì “đức chẳng tu, học chẳng giảng, nghe điều nghĩa chẳng thể noi theo, điều không tốt chẳng thể sửa đổi”; đức Như Lai giảng Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, lục độ, vạn hạnh, mỗi mỗi đều là nhân quả. Nếu không có nhân quả thì con người có khác gì cầm thú, há nên nói xằng ư?

 

2. Lời tựa tái bản Tịnh Độ Ngũ Kinh

(năm Dân Quốc 22 - 1933)

 

      Pháp môn Tịnh Độ lớn lao không gì ra ngoài được, thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn. Chúng sanh trong chín giới bỏ pháp này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật rời khỏi pháp này thì dưới chẳng thể độ khắp quần manh. Hết thảy pháp môn, không một pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này. Hết thảy hạnh môn, không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Nếu luận theo chỗ thấy của bậc căn cơ Đại Thừa thì [pháp môn này] quả thật bắt nguồn từ kinh Hoa Nghiêm, vì Thiện Tài tham học với khắp các tri thức, cuối cùng ở dưới tòa của đức Phổ Hiền nhờ oai thần của Ngài gia bị, sở chứng bằng với đức Phổ Hiền và bằng với chư Phật, trở thành bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Ngài Phổ Hiền bèn đem mười đại nguyện vương khuyến tấn Thiện Tài và Hoa Tạng hải chúng [tức là] hàng Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị đều hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên mãn Phật Quả, đấy chính là pháp quy tông kết đảnh của kinh Hoa Nghiêm vậy! Kinh Hoa Nghiêm dạy rõ pháp thành Phật trong một đời, nhưng quy tông[4] nơi cầu sanh Tịnh Độ. Do đó, biết rằng: Một pháp Tịnh Độ chính là vô thượng đại pháp thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh vậy. Đấy chính là chỗ thấy của bậc căn cơ Đại Thừa, hàng Nhị Thừa còn chưa được thấy nghe, huống là phàm phu đầy dẫy triền phược ư?

Cho đến hội Phương Đẳng[5], đức Phật đặc biệt chuyên nói ba kinh Tịnh Độ để hết thảy dù phàm hay thánh đều cùng chăm chú tu trì ngõ hầu được thoát khỏi cõi Ngũ Trược đây, vượt lên cõi sen chín phẩm kia ngay trong đời này. Tại núi Linh Thứu[6] thuộc nước Ma Kiệt Đề, đức Phật nói ra nhân địa lúc ban đầu của A Di Đà Phật: Bỏ nước xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện. Lại trải kiếp dài lâu, tu hành theo đúng lời nguyện, cho đến khi phước huệ viên mãn, được thành Phật đạo, cảm được thế giới trang nghiêm mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được, mười phương chư Phật đều cùng tán thán. Mười phương Bồ Tát và hàng Nhị Thừa hồi Tiểu hướng Đại lẫn phàm phu trọn đủ Hoặc nghiệp đều được vãng sanh, đều được bình đẳng nhiếp thọ. Đấy là kinh Vô Lượng Thọ.

Trong vương cung nước Ma Kiệt Đề, nói ra ba phước Tịnh nghiệp, mười sáu phép quán mầu nhiệm để hết thảy chúng sanh đều biết nghĩa lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật, biển Chánh Biến Tri[7] của chư Phật đều từ tâm tưởng sanh; tâm này là chúng sanh, tâm này làm chúng sanh, biển nghiệp phiền não của chúng sanh từ tâm tưởng sanh” đã được nêu rõ ràng. Nếu có thể hiểu sâu xa nghĩa này, ai chịu bị luân hồi oan uổng? Cuối kinh nói rõ cái nhân của chín phẩm vãng sanh ngõ hầu ai nấy đều tu Thượng Phẩm. Đấy là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh.

Tại nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô [Độc], nói diệu quả của y báo và chánh báo cõi Tịnh Độ để [thính chúng] sanh lòng tin, khuyên những người nghe hãy nên phát nguyện cầu được vãng sanh. Lại dạy các hành giả lập hạnh chấp trì danh hiệu. Ba điều Tín - Nguyện - Hạnh là cương tông của pháp môn Tịnh Độ. Đầy đủ ba pháp này thì hoặc là suốt đời chấp trì đã đắc nhất tâm, hoặc khi lâm chung mới được nghe, chỉ xưng danh mười niệm, đều được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Đấy là A Di Đà Kinh.

Ba kinh này là những kinh chuyên giảng về Tịnh Độ, nhưng A Di Đà Kinh thâu nhiếp căn cơ phổ biến nhất. Vì thế, các tông Thiền, Giáo, Luật đều cùng vâng dùng làm kinh nhật tụng. Các kinh Đại Thừa nói kèm về Tịnh Độ nhiều không đếm xuể, nhưng chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm quả thật là khai thị mầu nhiệm nhất về pháp Niệm Phật. Nếu chúng sanh có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối mà niệm, há có ai chẳng thể trong hiện tại hay tương lai nhất định thấy Phật, gần là chứng Viên Thông, xa là thành Phật đạo ư? Vì thế đem chương này xếp vào sau ba kinh; nối theo sau Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm để thành một đại duyên khởi cho pháp môn Tịnh Độ khiến cho những người đọc sẽ biết pháp này tỏ bày thông suốt rộng lớn bản hoài của đức Phật, so với các pháp cậy vào tự lực để đoạn Hoặc chứng Chân hòng liễu sanh tử thì sự khó - dễ khác xa một trời, một vực! Do vậy, chín giới cùng hướng về, mười phương chung khen ngợi, ngàn kinh đều xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. Bản khắc Tịnh Độ Tứ Kinh ở Kim Lăng đã bị mờ nét, người tu Tịnh nghiệp khổ vì không có bản rõ ràng nhất để đọc. Vì thế, cho đúc bản kẽm, ghép Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương vào sau ba kinh Tịnh Độ [và phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện], gọi là Tịnh Độ Ngũ Kinh. Nếu luận trên duyên khởi của pháp môn nên để kinh Vô Lượng Thọ đứng đầu, [nhưng] nay để thuận tiện cho việc đọc tụng nên đặt kinh A Di Đà lên đầu, [mong] người đọc lượng thứ.

 

3. Lời tựa trình bày duyên khởi của việc in kèm phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm vào sau Tịnh Độ Ngũ Kinh

(năm Dân Quốc 23 - 1934)

 

      Bộ kinh Hoa Nghiêm mầu nhiệm sự lý viên dung, Lý là do Sự mà hiển, Sự là do Lý mà thành, Lý lẫn Sự đều đạt đến tột cùng, viên chứng Tỳ Lô Pháp Thân. Vì thế, đức Như Lai khi mới thành Chánh Giác bèn cùng các Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác nói ra các pháp nhân quả của những pháp môn do đức Như Lai tự chứng. Nhân quả chính là Sự, pháp do đức Như Lai tự chứng chính là Nhất Chân Pháp Giới, là Chân Như Phật Tánh tịch chiếu viên dung, bất sanh, bất diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. Phật Tánh ấy nơi phàm chẳng giảm, tại thánh chẳng tăng. Đức Phật do đã chứng rốt ráo nên thường hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh; chúng sanh do triệt để mê nên luôn chịu nỗi khổ sanh tử luân hồi hư vọng. Ví như tấm gương báu tròn lớn bị bụi đóng cả kiếp, dẫu có ánh sáng chiếu trời soi đất vẫn chẳng có cách nào tỏ lộ để thụ dụng được! Vì thế, phải nhờ đến các vị Bồ Tát hỏi đáp với nhau để nói ra những pháp môn Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Lại dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc hòng viên mãn Phật Quả. Đấy là Như Lai đem nhân quả do Ngài tự chứng dạy cho khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho ai nấy đều đích thân chứng được khuôn phép lớn lao. Những người thuộc Tín vị (tức những người thuộc địa vị Thập Tín) thì dùng phẩm Tịnh Hạnh làm Nhân Địa Tâm (cái tâm trong lúc tu nhân) để trên là hợp với hoằng thệ đại nguyện về Quả Giác. Dù có vượt lên những bậc cao sâu hơn như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, nhưng trong mỗi địa vị vẫn phải dùng một trăm bốn mươi mốt nguyện này[8] để làm căn cứ tấn tu.

Do vậy, biết rằng phẩm kinh này giữ một vai trò quan trọng rất lớn, nó chẳng những là cơ sở đầu tiên để nhập [cảnh giới] Phật, mà thật sự còn đáng gọi là cội gốc lớn lao để thành Phật! Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém mỏng, nếu có thể tâm tâm niệm niệm thường tụng kinh văn này, thường phát những nguyện này thì tam nghiệp sẽ mau được thanh tịnh, niệm niệm trên khế hợp tâm Phật, lâm chung lên thẳng Thượng Phẩm, công đức [của phẩm này] cùng [công đức thọ trì] phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện soi rọi lẫn nhau, chẳng hề kém sút. Vì thế, pháp sư Tỉnh Thường đầu đời Tống hâm mộ phong thái của Lô Sơn Viễn Công (tổ Huệ Viễn), đề xướng pháp môn Tịnh Độ, trích máu chép phẩm này. Lại dùng chữ Tịnh Hạnh để đặt tên cho liên xã. Liên tông được chấn hưng, nguyên do là vì dốc sức sâu xa nơi lời lẽ, hành vi thường ngày đều hợp với giác đạo vô thượng của Như Lai vậy!

Một đệ tử là Dương Huệ Đạo tính muốn in gộp chung phẩm Tịnh Hạnh và phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện để lưu thông, Quang nói: “Muốn cho kẻ sơ cơ lắng lòng niệm Phật, hãy nên dùng Tịnh Độ Ngũ Kinh để dẫn đường, chẳng nên chỉ chọn một mình phẩm Hạnh Nguyện trong Ngũ Kinh, hãy nên làm sao cho họ được đọc trọn khắp năm kinh, lại còn dùng phẩm Tịnh Hạnh để răn nhắc trong hết thảy thời, hết thảy chỗ thì họ sẽ tự hớn hở nơi đạo vậy!” Than ôi! Đời bây giờ là đời gì vậy? [Chính là] lúc vứt bỏ cương thường luân lý, chuyên đề cao mưu mẹo dối trá, tàn sát lẫn nhau. Nếu chẳng lấy tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để hướng dẫn thì sợ rằng đời sau làm người đối với những tên gọi “cương thường, luân lý” do thánh nhân đời trước đã lập còn chẳng thể được nghe! Vì thế, phàm là người có đủ chánh tri kiến, chánh tín tâm đều lấy sự tu trì tịnh nghiệp làm chí hướng, sự nghiệp. Do vậy, ở đây tôi riêng thuật duyên khởi ghép [phẩm này] vào sau kinh văn để người đọc sau này không nghi ngờ vậy!

 

4. Lời tựa tái bản lưu thông sách Tâm Kinh Thiêm Túc

(năm Dân Quốc 19 - 1930)

 

      Tâm Kinh dạy rõ về Bồ Đề, Niết Bàn được chứng bởi tam thế chư Phật và hết thảy chúng sanh sẵn có Chân Như Phật Tánh. [Kinh này] là đạo trọng yếu để độ sanh của mười phương Như Lai, là khuôn mẫu tốt lành cho cả hằng trăm hành nhân thành Phật. Văn giản dị, nghĩa phong phú, từ ngữ ngắn gọn nhưng lý uyên thâm, khiến cho khắp mọi thượng trung hạ căn hễ khởi công [tu tập] đều cùng được vào thẳng địa vị của Như Lai, trong các kinh thật là bậc nhất! Tuy chỉ gồm hai trăm sáu mươi chữ, nhưng nghĩa lý sâu thẳm của sáu trăm quyển kinh Đại Bát Nhã đều được bao trùm sạch sành sanh.

Ấy là vì đức Như Lai trí huệ tự tại vô ngại, tùy theo đương cơ [nghe pháp] mà nói rộng hay nói đại lược cho phù hợp. Nói rộng thì tuy trọn hết biển mực cũng chẳng thể [viết trọn] hết được, nói đại lược thì kiếm một chữ cũng không ra, khiến cho người nghe ai nấy đều được lợi ích thật sự. Chúng sanh đời Mạt căn cơ kém hèn thường trì kinh này, y theo đó tu tập, sẽ tự được Ngũ Uẩn rỗng không, chứng Thật Tướng của các pháp, lìa điên đảo, đạt được Niết Bàn rốt ráo. Vì thế, [trong số] các danh nhân thời cổ thường có những vị tụng đến mấy trăm vạn biến, bởi kinh này là pháp môn Tổng Trì của các pháp.

Con trai thứ của cư sĩ Hạ Huệ Hoa là Thúc Quỳ bẩm tánh thông minh, mẫn tiệp, nhiệt tâm làm chuyện công ích, luôn ôm ấp chí hướng “chẳng làm lương tướng ắt làm lương y”, làm Hội Trưởng Hội Sinh Viên trường thuốc Hiệp Hòa tại Bắc Bình (Bắc Kinh). Năm Dân Quốc 15 (1926), tuổi tròn hai mươi bảy, bị bệnh rất nặng, khi sắp chết, hỏi cha rằng: “Nên giải nói [ý nghĩa] bất sanh bất diệt của Tâm Kinh như thế nào?” Cư sĩ dạy: “Đấy chính là nói về bản thể của cái tâm bọn ta, giống như thái hư không, không tướng, không hình, chẳng phải không, chẳng phải có, tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng, ở trong sanh tử chẳng nhơ, chứng Niết Bàn chẳng sạch, tướng sanh còn chẳng có, làm sao có tướng diệt cho được? Ngộ được lý ấy, mới xứng danh là Phật Tử. Tuy nhiên, nói thì dễ dàng làm sao! Con hãy nên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương đợi đến khi hoa nở thấy Phật chứng Vô Sanh Nhẫn thì mới phần chứng được tâm thể bất sanh bất diệt này! Từ đấy tấn tu mãi cho đến khi ba Hoặc đều hết sạch, hai thứ tử (biến dịch và phần đoạn) đều vĩnh viễn mất, viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để đạt được nữa thì mới là rốt ráo chứng được tâm thể bất sanh bất diệt ấy! Chớ nên nghĩ ‘nghe tên là đích thân chứng’, chẳng cầu vãng sanh, để đến nỗi trầm luân cả kiếp dài lâu, không cách nào thoát khỏi được!” Không lâu sau, người con liền mất, lúc sống đối với Phật pháp anh ta hoàn toàn chưa từng bận tâm, lâm chung lại hỏi đến chuyện này, chẳng phải là có túc căn hay sao? Được cư sĩ khai thị, nếu không vãng sanh cũng có thể trở thành duyên nhập đạo cho đời sau, so với những kẻ cho đến hết đời chẳng được nghe đến, khác biệt hệt như một trời một vực!

Nhân đó, cư sĩ muốn lưu thông bản chú giải Tâm Kinh rõ ràng, rộng rãi, cặn kẽ nhất ngõ hầu hàng sơ cơ đều có thể lãnh hội được; cư sĩ Phạm Cổ Nông khuyên nên in cuốn Tâm Kinh Thiêm Túc của pháp sư Hoằng Tán đời Minh, lại còn [đích thân] giảo chánh câu chữ. Do vậy, bèn cho in ra chừng đó quyển để tặng các tịnh lữ hòng kết pháp duyên để siêu tiến, giữ lại hai bản in để tái bản mãi mãi. Mong những ai thấy nghe, thọ trì, đều dùng Quán Trí rất sâu soi thấy Ngũ Uẩn đều không, đích thân chứng được tâm thể bất sanh bất diệt này để vượt qua hết thảy khổ ách!

 

5. Lời tựa lưu thông kinh Địa Tạng in theo lối thạch bản

(năm Dân Quốc 17 - 1928)

 

      Tâm chúng sanh và tâm Phật không hai. Kẻ chẳng thể làm Phật, thường làm chúng sanh là vì chính họ chẳng có huệ lực, chẳng thể giác ngộ, lại không có thiện tri thức chỉ dạy. Do vậy, diệu tâm sẵn có Phật Tánh trở thành căn bản để khởi Hoặc tạo nghiệp đến nỗi luân hồi cả kiếp dài lâu, trọn chẳng có thuở thoát ra, chẳng đáng buồn ư? Vì thế, lúc mới thành Chánh Giác, đức Thế Tôn ta bèn lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ, vì muốn cho hết thảy chúng sanh đều cùng mong báo ơn cha mẹ, nên đặc biệt dạy rõ Địa Tạng Bồ Tát trong những kiếp xưa do cứu mẹ đã rộng phát thệ nguyện Bồ Đề để làm thuyền bè cho chúng sanh trong tương lai được thoát biển khổ.

      Toàn bộ kinh văn [kinh Địa Tạng Bổn Nguyện] dạy cặn kẽ cả sự lẫn lý, văn từ rõ ràng, thoáng đạt, nêu tỏ trọn vẹn những nghĩa lý “tâm này làm Phật, tâm này là Phật; tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh” “tâm có thể tạo nghiệp thì tâm có thể chuyển nghiệp, tâm chẳng chuyển được nghiệp thì nghiệp sẽ trói buộc tâm” v.v… Hai câu chuyện đức Địa Tạng trong kiếp xưa cứu mẹ càng nêu thật sát sao, rõ ràng ý nghĩa này; thật có thể gọi là “người dẫn đường nơi lối hiểm, đuốc huệ nơi đường tối, kho báu cho kẻ nghèo thiếu, gạo thóc cho năm đói kém” khiến cho hết thảy chúng sanh mê muội mau được giác ngộ, hết thảy những đứa con hiếu thuận có được sư thừa[9]. Lợi ích của kinh không thể nào tuyên nói được! Tây Thiên, Đông Độ, những người đọc kinh này bèn khởi chí chẳng thể nào đếm xuể! Hòa Thượng Chân Đạt muốn báo ân võng cực[10], tính mời người viết chữ đẹp cung kính chép kinh này để in theo lối thạch bản thí tặng, gặp đúng lúc cư sĩ Trí Chuẩn Lỗ Chỉ Nam đem bản kinh Kim Cang do chính ông ta tự viết xin Hòa Thượng giảo chánh. Sư thấy cư sĩ vì muốn báo ân cha mẹ liền đích thân cung kính chép kinh [Kim Cang] để thường trì tụng, ắt cũng sẽ vui sướng chép kinh này, nên bèn khẩn khoản nhờ chép, liền được [cư sĩ] nhận lời. [Hòa Thượng] sai Quang viết lời tựa phơi bày trọn vẹn sự lợi ích của kinh, hòng phát khởi tấm lòng hiếu thảo của những kẻ làm con trong thế gian, mong họ sẽ tùy thời, tùy việc trọn hết đạo hiếu.

Nghĩ đến ân sâu cù lao[11], ắt sẽ [thực hiện] cho đến khi cha mẹ ta được rốt ráo an ổn nơi bảo sở mới thôi. Do vậy, dùng tâm chí thành, niệm thánh hiệu Phật, kèm thêm kính cẩn giữ vẹn luân thường, trọn hết thiên chức của chính mình, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, dùng công đức này để giúp cho cha mẹ ta, mong cho cha mẹ còn sống sẽ được nghiệp chướng tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, phước thọ tăng cao, trí huệ khơi mở, đã khuất bóng thì thần hồn siêu thăng cõi tịnh, nghiệp trả lại trần lao, chứng Vô Sanh Nhẫn, ở vào địa vị Bất Thoái, ngõ hầu hơi trọn được tấm lòng riêng của quạ[12], chẳng làm đấng sanh thành phải thẹn. Lại còn phải biết: Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai, hãy nên dùng tâm Đại Bồ Đề tùy thuận cơ nghi vì họ tuyên nói và cứu giúp hòng khế hợp Phật tâm, phù hợp cái nguyện của chính mình, quạt gió Từ dập tắt ác nghiệp, sẽ thấy lễ nghĩa, nhân nhượng được hưng khởi, can qua dứt bặt mãi mãi, phong tục tốt đẹp, thiên hạ hòa bình!

 

6. Lời tựa cho sách Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Tập Chứng

(năm Dân Quốc 17 - 1928)

 

      Kinh Phạm Võng là đại pháp để đức Như Lai nung luyện hết thảy dù thánh hay phàm, ngõ hầu họ sẽ rốt ráo đoạn trừ ba Hoặc, đích thân chứng được ba đức, khôi phục Phật Tánh sẵn có, thành Phật Quả vô thượng. Ấy là vì đối với Chân Như diệu tánh thì chúng sanh và Phật cùng một thể, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh chẳng tăng, nhưng từ vô thủy đến nay cứ mê chẳng ngộ, như vàng còn trong quặng chẳng thụ dụng được! Đức Như Lai thương xót hết thảy chúng sanh mê mất minh châu trong chéo áo, uổng công rong ruổi hướng ra ngoài tìm tòi. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm đến nỗi luân hồi lục đạo trọn chẳng có thuở ra! Dù có người đoạn được những Hoặc trong tam giới, thoát lìa sanh tử, nhưng vẫn còn cách địa vị Phật quá xa! Bởi thế, khi mới thành Chánh Giác, Phật liền lập tức vì hết thảy thánh - phàm giảng đại pháp này, trước hết làm cho họ liễu ngộ tự tâm vốn là Phật tâm, nên mới nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, các ông là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành”.

Tin được như thế, chắc chắn sẽ chẳng đến nỗi đề cao thánh cảnh nhưng tự cam phận phàm ngu, trên là cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới là phụ bạc tánh linh của chính mình! Cho nên mới nói: “Thường tin tưởng như thế thì giới phẩm đã đầy đủ!” Rồi đối với những lời ăn tiếng nói, hành vi thường ngày, khởi tâm từ bi, tâm hiếu thuận, dẹp lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ cái ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, đừng làm các điều ác, vâng làm những điều thiện, sao cho luôn đúng chừng mực, không phải hổ thẹn chút nào, nơi ba nghiệp vĩnh viễn trọn chẳng có tỳ vết thì hai thứ đại thể đại dụng “tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha” đều đầy đủ. Giữ tấm lòng thanh khiết xông tận trời thẳm, khác nào hư không mênh mông chứa khắp muôn hình tượng trọn chẳng chướng ngại gì! Xử sự chánh đại quang minh như mặt trời chói lọi chiếu khắp muôn phương, nhưng trọn chẳng hề chọn lựa. Do vậy, Tứ Nhiếp cùng được thực hiện, Tứ Hoằng[13] phổ độ, đáng gọi là “tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí” (trước hết dùng dục[14] để lôi kéo, sau làm cho nhập Phật trí), hư không dẫu có tận, nguyện tôi vẫn vô cùng.

Làm được như thế, nào còn có cái tâm ta - người, đúng - sai, tự tư tự lợi chi nữa, huống là có chuyện phá trai, phạm giới và tổn người, lợi mình, lật đổ, tàn hại lẫn nhau nữa ư? Do vậy biết: Kinh này dẫu thuộc về đại pháp xuất thế, nhưng quả thật là mưu lược tốt lành để giữ yên cõi đời. Vì thế, hết thảy quốc vương, đại thần và tứ chúng xuất gia, bốn chúng tại gia cùng các quỷ thần đều nên thọ trì! Nếu có thể thọ trì sẽ như nước rửa sạch đồ đựng, liền khôi phục sự sạch sẽ sẵn có; như hương xông áo, sẽ mau chóng thêm thơm ngát hơn. Trong lúc Kiếp Trược này, muốn vãn hồi mà bỏ pháp này, làm sao yên được?

Hành giả Diệu Lãng xưa đã có linh căn, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, thường đọc kinh này, ngưỡng mộ khôn xiết, phát nguyện lưu thông để lợi khắp hết thảy. Lại thường đối với những ý nghĩa trì giới trọng yếu đã được khai thị trong các kinh Tiểu Thừa, Đại Thừa và các truyện ký mà chính mình đã đọc đều trích lục, ghi vào đằng sau [chánh kinh] để làm pháp răn dạy cho mình lẫn người cùng tu trì, ngõ hầu người đọc biết được lợi ích do trì giới: Gần là ba nghiệp thanh tịnh, Tam Học (Giới - Định - Huệ) viên minh, xa là sạch hết ba Hoặc, ba đức trọn bày. Họa hoạn do phạm giới thì gần là ba nghiệp ô trược, vĩnh viễn đọa trong tam đồ; xa là ba chướng[15] thường hiện diện, chẳng thoát được tam giới! Phật do chính ta làm, địa ngục do chính ta tạo, như đến trước gương báu, tốt - xấu hiện rành rành, ai lại chịu tự chuốc lấy mối lo, bỏ lợi ích để nhận lấy họa hoạn cơ chứ?

Người chị dâu [của Diệu Lãng] là Phương Tỉnh, vâng theo di mạng của bà mẹ chồng đã quá cố, nguyện bỏ ra tịnh tài để giúp in một vạn cuốn hòng thành tựu chí nguyện này, ngõ hầu kính tặng các Phật tử tại gia và xuất gia. Do công đức này, mong cửa nhà bình yên, may mắn, quyến thuộc yên ổn, mạnh khỏe, đời này được hưởng Ngũ Phước như Cơ Tử đã luận, con cháu được hưởng trăm điều tốt lành như trong bài huấn dụ của Y Doãn[16]. Lại cầu thời thế hòa bình, mùa màng sung túc, dân giàu, vật mạnh, lễ nghĩa, nhân nhượng hưng khởi, can qua vĩnh viễn chấm dứt, pháp vận thông suốt, thiên hạ thái bình. Do vậy, bèn tụng rằng:

      Đức Thế Tôn ta,

      Là vua các pháp,

      Khiến khắp chín giới,

      Cùng chứng chân thường,

      Các pháp nói ra,

      Đều tùy cơ nghi,

      Chỉ giới pháp này,

      Phàm - thánh cùng nương,

      Đẳng Giác Bồ Tát,

      Quần manh sáu đường,

      Không có một ai,

      Chẳng nên hành trì!

      Do tâm chúng sanh,

      Chẳng khác tâm Phật,

      Do bởi Hoặc nghiệp,

      Trở thành khác xa,

      Về tướng tuy khác,

      Nhưng tánh vốn đồng,

      Nên nói kinh này,

      Hòng chứng Đại Hùng[17],

      Đã biết chúng sanh,

      Đều có Phật Tánh,

      Phật là đã thành,

      Ta thật sẽ chứng,

      Ví như cùng tử[18],

      Được kho báu xưa,

      Được, vốn chẳng được,

      Hoan hỷ vô lượng,

      Đã ngộ Phật Tánh,

      Phải hành Phật Hạnh,

      Nghiêm tịnh Tỳ Ni[19],

      Cẩn thận bóng áo[20],

      Phát tâm từ bi,

      Và tâm hiếu thuận,

      Tự lợi, lợi tha,

      Cùng thoát vòng khổ,

      Người được như thế,

      Là chân Phật tử,

      Những gì Phật đắc,

      Ta sẽ giống thế,

      Phải biết kinh này:

      Khuôn lành đúc Phật,

      Tận lực tu theo,

      Liền chứng Vô Dư[21],

      Nguyện người thấy nghe,

      Cùng chăm thọ trì,

      Tiêu trừ Hoặc nghiệp,

      Viên mãn Bồ Đề.

 

7. Lời tựa cho sách Phổ Môn Phẩm Giảng Nghĩa

(năm Dân Quốc 18 - 1929)

 

      Quán Thế Âm Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã sớm thành Chánh Giác, hiệu là Chánh Pháp Minh[22], nhưng do thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn, chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, tùy loại hiện thân, tầm thanh cứu khổ. Nên dùng thân nào để độ được liền hiện thân ấy để thuyết pháp, nguyện cho hết thảy chúng sanh trong hết thảy thế giới đều được lìa khỏi nỗi khổ huyễn vọng trong hiện tại, hưởng pháp lạc chân thường, nhưng Ngài lại thương xót thế giới Sa Bà nhất. Do vậy, trong hội Pháp Hoa, Thích Ca Thế Tôn muốn cho chúng sanh cõi Sa Bà luôn được che chở, bèn đặc biệt nhân lời hỏi của Vô Tận Ý Bồ Tát[23] mà trình bày rõ ràng thệ nguyện từ bi, công đức, oai thần của đức Quán Âm để hết thảy chúng sanh trong chín giới đều được nương tựa.

Cho đến khi [Phật] pháp được truyền sang xứ này, đến đời Tấn, pháp sư La Thập riêng dịch kinh Pháp Hoa, [mọi người] mới biết đức Quán Âm dù Bổn địa hay Tích môn đều khó nghĩ lường! Trong hội Lăng Nghiêm, đức Quán Âm tự thuật pháp Viên Thông; trong hội Hoa Nghiêm, đức Quán Âm chỉ dạy Thiện Tài, đều phù hợp khít khao với ý chỉ Pháp Hoa. Do vậy, biết: Đại Sĩ vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm [của chính mình], cho nên hễ cảm liền ứng, trọn chẳng sai chạy! Vào cuối đời Tấn, Thư Cừ Mông Tốn[24] nhà Bắc Lương bị bệnh, ngài Đàm Vô Sấm[25] dạy tụng phẩm Phổ Môn, [Mông Tốn] liền được lành bệnh. Do vậy, phẩm này được lưu truyền riêng. Đời Tùy - Trần, đại sư Trí Giả chú giải kinh Pháp Hoa, đặc biệt giải thích cặn kẽ phẩm này. Đủ thấy tâm của Phật, Bồ Tát, tổ sư chỉ mong cho hết thảy chúng sanh lìa hết thảy khổ, được hưởng hết thảy vui.

Pháp sư Đế Nhàn tận lực hoằng dương tông Thiên Thai, kiêm tu Tịnh Độ. Mùa Hạ này, Sư hoằng giới (diễn giảng về giới luật) tại Cáp Nhĩ Tân (Harbin), trở về đi ngang qua Đại Liên, các cư sĩ Phan Đối Phù, Thi Tỉnh Chi v.v… thỉnh Sư giảng diễn kinh này. Lại sợ tiếng địa phương Nam - Bắc không thông, nhân đấy bèn đem những nghĩa đã giảng trước đó, in ra năm trăm bản, tặng cho mọi thính giả để họ đều được tận mắt thấy lời dạy; nhưng do thời gian vội vã, chẳng tránh khỏi sai sót. Cư sĩ Phan Đối Phù muốn [bài giảng ấy] được lưu truyền rộng rãi trong cõi đời; do vậy, bèn gởi cho tôi một bản và cậy viết lời tựa.

Trộm nghĩ kinh tạng Pháp Hoa sâu thẳm u viễn, không ai có thể thấu đạt được, chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu triệt rốt ráo, Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, làm sao có thể nêu tỏ đến mức tột bậc cho được? Đành lược thuật Bổn - Tích[26] của đức Quán Âm và lai lịch lưu thông, chú thích kinh này cho xong trách nhiệm. Nguyện khắp các đồng nhân thường niệm thánh hiệu Quán Âm. Nếu đạt đến mức “niệm cực tình vong”, tâm lẫn cảnh cùng vắng lặng thì hằng sa công đức, vô lượng diệu nghĩa sẽ tự hiển hiện trọn vẹn trong một niệm. Do vậy, chẳng cần phải trình bày rườm rà chi nữa!

 

8. Lời tựa cho [ấn bản] Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh được viết theo lối chữ Khải để tặng đại chúng đọc tụng

 

      Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh chúng sanh và Phật cùng sẵn đủ, trọn chẳng hề tăng - giảm. Phật do rốt ráo chứng nên an trụ Tịch Quang, thụ hưởng pháp lạc Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Chúng sanh do triệt để mê nên khởi Hoặc tạo nghiệp, chịu nỗi khổ sanh tử luân hồi huyễn vọng. Tuy là tịnh - nhiễm bất đồng, khổ - vui sai khác, nhưng tánh Chân Như mầu nhiệm sẵn có vẫn tự chẳng tăng, chẳng giảm! Chúng sanh chỉ có Tánh Đức, trọn chẳng có Tu Đức, nên chẳng thể thụ dụng được, ngược ngạo nương theo sức công đức của diệu tánh ấy để tạo ra cái nhân sanh tử, chịu quả luân hồi. Do nhân duyên ấy cảm Phật dấy lòng từ bi, thị hiện sanh trong thế gian, tùy cơ thuyết pháp, khiến cho ai nấy đều theo đường về nhà, biết lấy hạt châu trong chéo áo, ngõ hầu chẳng đến nỗi cô quạnh, lênh đênh, không nơi nương tựa.

Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh chính là nhân bí mật để viên mãn Bồ Đề của tam thế chư Phật, là diệu hạnh để tiến về giác đạo của hết thảy Bồ Tát, cho nên gọi là Thủ Lăng Nghiêm (Śūrangama). Tiếng Phạn Thủ Lăng Nghiêm, tiếng Hán là Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố (hết thảy sự rốt ráo cứng chắc). Nhất Thiết Sự là gì? Chính là hai pháp tâm và cảnh; nói rộng ra là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại. Nhất Thiết Sự (hết thảy mọi sự) này đều là toàn thể đại dụng của Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh, vốn tự cứng chắc, trọn chẳng có các tướng sanh, diệt, sạch, nhơ, tăng, giảm, nhưng chúng sanh mê chân đuổi theo vọng, trái giác hợp trần, dù tâm hay cảnh đều thành huyễn vọng, đều là sanh diệt, đều chẳng cứng chắc!

Vì thế, do ngài A Nan thưa hỏi phương tiện ban đầu để mười phương Như Lai thành tựu Bồ Đề, Xa Ma Tha, Tam Ma[27], Thiền Na mầu nhiệm, Như Lai liền gạn hỏi cái tâm, chỉ rõ cái Thấy, lần lượt [giảng về] Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại để hiển thị “mỗi mỗi đều là Như Lai Tạng, thuận theo tâm chúng sanh, thuận theo nghiệp mà tỏ lộ” khiến cho họ khai ngộ. Kế đó, hai mươi lăm vị thánh nhân, mỗi vị chứng [một pháp] Viên Thông [riêng biệt] trong hai mươi lăm pháp, [mỗi vị tường thuật pháp Viên Thông do chính mình đã chứng] nhằm chứng thực lời giảng ấy. Kinh này nhằm thích ứng với [năng lực] đa văn của A Nan và căn cơ “tánh nghe nhạy bén nhất” của cõi Sa Bà. Do vậy, đức Văn Thù chọn lựa [pháp Viên Thông] bèn chỉ chọn [phápViên Thông của] Quán Âm.

Pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật thích hợp trọn khắp căn cơ của hết thảy chúng sanh trong mười phương ba đời; do vậy, được kể sau pháp [Viên Thông] của ngài Di Lặc, trước [pháp Viên Thông của đức] Quán Âm, nhằm ngầm nêu ý nghĩa thích hợp khắp mọi căn cơ! Nếu không, sẽ kể pháp này sau pháp của ngài Hư Không Tạng[28], trước pháp của ngài Di Lặc. Luận sát sao về những pháp môn thông thường thì phải đoạn sạch Phiền Hoặc mới có thể liễu sanh thoát tử, chỉ có bậc thượng thượng lợi căn nhất mới có thể giải quyết xong ngay trong đời này! Nếu chẳng phải là loại căn tánh ấy thì hoặc hai, ba, bốn, năm đời, hoặc hai, ba, bốn, năm kiếp, hoặc thậm chí từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác vẫn luân hồi trong lục đạo, [kẻ như vậy] nhiều lắm! Bởi cậy vào sức Giới - Định - Huệ của chính mình để đoạn sạch Hoặc nghiệp phiền não tham - sân - si cho nên khó khăn. Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người hèn kém, thọ mạng ngắn chủn, tri thức hiếm hoi, tà ma, ngoại đạo tung hoành, hễ chánh kiến hơi thiếu liền bị đọa vào lưới ma ư? Chỉ có pháp môn Tịnh Độ đặc biệt “cậy vào thệ nguyện từ bi của đức Di Đà và sức tín nguyện ức niệm của chính mình”, đến lúc lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương [là thỏa đáng]! Nếu là hạng Thượng Thượng Căn sẽ mau chứng Vô Sanh, dẫu là kẻ Hạ Hạ Căn vẫn được dự vào dòng thánh! Lợi ích ấy làm sao diễn tả được? Nghĩa này là nghĩa quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm; đừng vì Quang là kẻ kém cỏi mà cho là sai lầm, bịa đặt!

Nếu chúng ta có thể đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha như con nhớ mẹ, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối để niệm, thì hai tầng công phu “xoay cái niệm để niệm nơi tự tánh” của đức Thế Chí và “xoay cái nghe để nghe nơi tự tánh” của đức Quán Âm sẽ hòa lẫn trong một tâm để niệm hồng danh vạn đức của Như Lai. Lâu ngày chầy tháng, cái tâm nghiệp thức chúng sanh sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng, đấy gọi là “dùng Quả Địa Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân”. Người có duyên gặp được, mong chớ coi rẻ. Đấy là đường vào cửa Niết Bàn của vi trần đức Phật, huống gì chúng ta là người đời Mạt Pháp há dám chẳng noi theo? Cuối cùng, [kinh] chỉ bày nghiêm ngặt bốn thứ giới luật để bồi đắp nền tảng ấy, nói cặn kẽ công đức của thần chú [Lăng Nghiêm] ngõ hầu [hành nhân] được nương tựa, bảo vệ. Kinh giảng cặn kẽ nhân quả của mười pháp giới, mỗi mỗi đều là theo nghiệp hiện ra. Chỉ rõ cảnh Ngũ Ấm Ma hòng [người nghe] biết kẻ công hạnh sâu vẫn còn có chuyện bị ma dựa tạo tội đọa địa ngục, huống hồ kẻ sơ tâm ư? Xem kinh thoạt đầu là bảy chỗ gạn tâm, mười phen tỏ rõ cái Thấy, lần lượt giảng đến Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại, tầng tầng khai thị khiến cho vị căn tánh nhạy bén nhất là A Nan viên ngộ Tạng tánh (tức là cái được nhà Thiền gọi là đích thân thấy được “bản lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”), vậy thì đại triệt đại ngộ quả thật chẳng dễ dàng gì! Phần sau kinh [nói về hành giả đã có] sức Thiền Định sâu rồi, đã phá được hai Ấm là Sắc và Thọ, vẫn bị ma mê hoặc, đánh mất chánh kiến, tạo các ác nghiệp, sống vướng phép vua, chết đọa địa ngục. Do vậy biết: Muốn liễu sanh tử chỉ cậy vào Tự Lực thì nguy hiểm, khó khăn chẳng thể nào sánh ví được! Nguyện những người cùng hàng hãy nương theo pháp “nhớ Phật, niệm Phật” của đức Thế Chí và lời dạy mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc của đức Phổ Hiền để cùng với các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng Thế Giới Hải nhất trí tiến hành cầu sanh Tây Phương, đấy mới thật là kế sách vẹn toàn vậy!

Cư sĩ Trí Mậu Hứa Văn Thanh chép kinh Lăng Nghiêm theo lối chữ Khải để tặng những liên hữu trong Giác Xã đọc tụng; hai vị cư sĩ Cù Trí Hồng, Diệp Thánh Phương mua giấy. Chép xong, xin Quang viết lời tựa. Do Quang thấy Giác Xã là đạo tràng niệm Phật, theo đúng lý thì phải nêu tỏ ý nghĩa thắng diệu của pháp môn Tịnh Độ, ngõ hầu những kẻ ham cao chuộng xa chẳng đến nỗi chuyên trọng tự lực, vứt bỏ Phật lực, rốt cuộc trở thành kết quả “cầu thăng hóa đọa, biến khéo thành vụng!” Vì vậy, lời lẽ tựa hồ bàn luận tràn lan, viễn vông, hủ bại. Dẫu có ai vì điều này mà quở trách, cũng chỉ thưa A Di Đà Phật, A Di Đà Phật mà thôi!

 

9. Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thập Yếu

(năm Dân Quốc 19 - 1930)

 

      Hết thảy các pháp môn do đức Như Lai đã nói trong suốt cả một đời tuy là Đại, Tiểu, Đốn, Tạm bất đồng, Quyền, Thật, Thiên, Viên sai khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm khiến cho hết thảy chúng sanh đều theo đường về nhà, khôi phục tâm tánh mà thôi! Nhưng những pháp ấy đều cần tự lực tu trì để đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, hoàn toàn không được một sức nào khác nhiếp trì hòng chắc chắn được siêu phàm nhập thánh, thành tựu sở nguyện ngay trong đời này! Chỉ có pháp môn Tịnh Độ cậy vào sức thệ nguyện, nhiếp thọ của Phật và lòng thành tín nguyện niệm Phật của chính mình, bất luận đã chứng ngộ hay không; thậm chí kẻ chưa đoạn mảy may Phiền Hoặc nào vẫn đều có thể cậy vào Phật từ lực liền được vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Đã được vãng sanh, nếu là người đã chứng ngộ liền lên thẳng Thượng Phẩm, kẻ chưa đoạn Hoặc vẫn dự vào dòng thánh.

Do vậy biết pháp môn Tịnh Độ rộng lớn không có gì ra ngoài được, như trời che khắp, dường đất chở đều, thống nhiếp các căn cơ trọn chẳng sót vật nào! Thật có thể nói là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn và độn căn. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể vượt ra ngoài được; dưới là phàm phu nghịch ác vẫn có thể dự vào trong đó. Thỏa thích bản hoài xuất thế của đức Như Lai, mở ra con đường chánh để chúng sanh trở về nguồn. Vì thế, [pháp này] được chín giới cùng quay về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, muôn luận đều tuyên nói.

Huống chi đang nhằm thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, bỏ pháp này tu pháp khác thì chẳng những hàng phàm phu bộn bề phiền não chẳng có cách nào thoát ly sanh tử, mà ngay cả bậc thánh nhân Thập Địa cũng khó viên mãn Bồ Đề! Vì vậy, Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thanh Lương, Vĩnh Minh đều phát tâm Kim Cang hoằng truyền, tán dương, ngõ hầu lục đạo, tam thừa đều được vượt ngang ra khỏi tam giới, khôi phục lại tâm tánh vốn có. Trước thuật tại Thiên Trúc và Chấn Đán (Trung Hoa) [để tuyên giảng pháp môn này] nhiều khó thể kể xiết! Đại sư Ngẫu Ích chọn lấy chín tác phẩm khế hợp thời cơ nhất và bộ Di Đà Yếu Giải do chính mình trước tác, [gộp thành một bộ sách] đặt tên là Tịnh Độ Thập Yếu, muốn cho người học nhờ [xem] những tác phẩm này sẽ hiểu trọn vẹn chỗ trọng yếu trong sự độ sanh của đức Như Lai và nguyên do pháp này thống nhiếp khắp hết thảy các pháp.

Đại Sư mất rồi, môn nhân là Thành Thời muốn [tác phẩm này] được lưu truyền trọn khắp pháp giới, nhưng sợ văn từ dài dòng, số lượng quyển quá lớn, chi phí lớn lao, khó thể [lưu truyền] rộng khắp được, bèn tóm lược câu chữ, đối với mỗi tác phẩm chỉ trình bày đại lược những ý chánh quan trọng, thêm vào những điều bình luận, quả thật hết sức lao tâm khổ tứ! Tiếc rằng Sư ỷ mình trí có thể chiếu soi trọn vẹn, đọc đến đâu, trích lược đến đấy, chẳng bỏ công tra duyệt lại, cứ cho khắc in ngay, đến nỗi lời văn nhiều chỗ mù mờ, lại thêm giọng điệu sai lầm, lời lẽ chẳng đạt ý vậy!

Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), cư sĩ Từ Úy Như đến thăm Quang; do ông ta lo liệu việc khắc in Tạng kinh, tôi bèn cậy ông ta sưu tập, khắc in bản gốc [của bộ Tịnh Độ Thập Yếu]. Sau đấy, ông ta bèn khắc in hai tác phẩm là Di Đà Yếu Giải và Tây Phương Hiệp Luận. Nay đã có được nguyên bản đầy đủ, cư sĩ Lý Viên Tịnh tính tái bản theo đúng như hình thức sách Tịnh Độ Thập Yếu [đã được in] trước kia: Phàm mỗi một lời bình luận do sư Thành Thời đã viết đều chiếu theo đó sao lục, chỉ bổ sung những chỗ sư Thành Thời khiếm khuyết, hòng chẳng diệt mất sự cực trí của sư Thành Thời, soạn thành bốn quyển. Do những chỗ trích lược khác nhau bao nhiêu đó chỗ, cho nên phải sắp xếp lại thứ tự từng quyển. Trước kia, Tây Trai Thi, Niệm Phật Trực Chỉ thứ tự trước - sau bị đảo lộn, nay sắp xếp lại cho thích đáng; cuối mỗi quyển đều kèm theo những bài văn quan trọng và [những đoạn trích từ] Triệt Ngộ Ngữ Lục. Lại còn đem Vãng Sanh Luận Chú và Liên Hoa Thế Giới Thi gộp thành một quyển để làm phụ bản, tổng cộng là năm quyển, thảy đều phù hợp với lời văn, ý nghĩa và tông chỉ của sách Thập Yếu, hoàn toàn chẳng khác biệt. Giống như những hạt châu nơi cái lưới của Thiên Đế soi bóng lẫn nhau, khiến cho những người đọc biết sâu xa pháp môn Tịnh Độ chính là chỗ quy túc của hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp, không pháp nào chẳng lưu lộ từ pháp giới này, chẳng trở về pháp giới này!

 

10. Lời tựa sách Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận Sớ

(năm Dân Quốc 19 - 1930)

 

      Triệu pháp sư[29] nói: “Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu giấu kín trong núi hình”. Lời này nói về kẻ chưa ngộ chưa chứng, chứ thật ra vật báu ấy bao quát thái hư, cùng tột theo chiều dọc, trọn khắp theo chiều ngang, hằng cổ, hằng kim, luôn luôn hiển lộ! Đấy chính là như câu nói: “Thời thời thị thời nhân, thời nhân tự bất thức” (Luôn luôn chỉ dạy cho người, mà người vẫn cứ chẳng hề biết cho), chẳng đáng buồn sao? Chỉ có mình đức Thích Ca Thế Tôn ta đích thân thụ dụng được, những chúng sanh khác trải kiếp này sang kiếp khác dựa vào sức oai thần của vật báu ấy để khởi Hoặc tạo nghiệp, luân hồi sáu nẻo, trọn chẳng có thuở ra! Ví như kẻ mù đích thân lên núi báu chẳng những không thụ dụng được, trái lại còn bị thương!

      Do vậy, đức Thế Tôn tùy thuận cơ nghi mà khai thị, khiến cho bọn họ ai nấy đều theo đường trở về nhà, nơi sáu căn, sáu trần, sáu thức, bảy đại, tùy theo từng hoàn cảnh mà quán sát kỹ càng mong họ đích thân thấy được vật báu ấy. Nhưng bậc có đủ trí chiếu Bát Nhã liền lập tức rỗng không các uẩn, hết sạch mọi khổ ách, tuy có nhiều vị [làm được] như vậy, nhưng đấy chẳng phải là điều bọn chúng sanh độn căn đời Mạt mà hòng mong mỏi được! Bởi vậy, [đức Phật] mở ra một pháp môn đặc biệt ngõ hầu thượng - trung - hạ căn đều đạt được lợi ích thật sự ngay trong đời này, dạy họ dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha chuyên niệm thánh hiệu A Di Đà Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, lâu ngày chầy tháng, chính cái tâm nghiệp thức chúng sanh này sẽ trở thành Như Lai Bí Mật Tạng, tức là do báu Tam Muội chứng được báu Thật Tướng, mới biết vật báu này trọn khắp pháp giới, lại đem vật báu này thí khắp hết thảy.

Do vậy, từ khi đức Phật mở ra pháp môn này, hết thảy Bồ Tát, tổ sư, thiện tri thức thảy đều tuân hành pháp này do pháp này trọn đủ tự lực và tha lực, so với những pháp chuyên cậy vào tự lực thì khó - dễ khác nào một trời, một vực! Pháp sư Phi Tích đời Đường trụ tích[30] tại chùa Thảo Đường núi Tử Các trong rặng Chung Nam, hoằng dương giáo hóa rộng lớn pháp môn Tịnh Độ, đặc biệt soạn ra bộ Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận để hết thảy tứ chúng niệm trọn vẹn tam thế Phật, nhưng chuyên chú nơi Tây Phương A Di Đà Phật. Do nếu chẳng niệm chư Phật vị lai sẽ chẳng thể phát đại Bồ Đề tâm, chiết phục tràng ngạo mạn, trong hết thảy cảnh vẫn còn có tình kiến phàm - thánh, làm sao lìa trọn vẹn bốn tướng, triệt chứng Nhất Chân cho được? Nếu thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật thì tâm sẽ tự chẳng còn có tình kiến phàm - thánh để được nữa, nên mới rốt ráo đoạn trừ phiền não, rốt ráo viên chứng tự tâm. Nếu chẳng niệm trọn vẹn chư Phật trong quá khứ và hiện tại thì có lẽ cái tâm niệm A Di Đà Phật sẽ bị câu nệ, hạn cuộc, chẳng thể viên mãn, trọn khắp. Vì thế, dạy người niệm Phật “dẫu niệm một đức Phật nhưng niệm trọn tam thế chư Phật; tuy niệm trọn hết tam thế chư Phật nhưng ắt phải chuyên dốc sức nơi A Di Đà Phật, ngõ hầu cái tâm niệm Phật theo chiều ngang trọn khắp mười phương, theo chiều dọc tột cùng ba đời!” Đây chính là cái tâm niệm Phật này và tâm của mười phương ba đời chư Phật không lúc nào chẳng khế hợp nhau!

Bộ luận này ý nghĩa sâu rộng, nếu chẳng chú thích chắc có lẽ [người đọc] sẽ gặp tận mặt mà bỏ lỡ, cũng như chưa chắc đã khỏi hiểu lầm lý sự. May mà lão pháp sư Đế Nhàn thuộc tông Thiên Thai chẳng tiếc tinh lực, riêng soạn sớ giải để dù văn hay nghĩa đều được sáng tỏ. Lợi ích ấy há diễn tả được ư? Cư sĩ Chí Tịnh tu Tịnh nghiệp đã lâu, tâm lợi người tha thiết, phát tâm in năm ngàn bộ để tặng cho các vị Tăng - tục tu Tịnh Độ, xin tôi trình bày đại ý của bộ luận, ngõ hầu người đọc ngay từ đầu đã thấy được chỗ chỉ quy [của bộ luận]. Do vậy, chẳng nài thô lậu, trình bày đại lược những điều ẩn chứa, để [người đọc] biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn vừa cạn vừa sâu, vừa là Quyền vừa là Thật. Hết thảy pháp môn, hà sa diệu nghĩa, không pháp nào chẳng từ pháp giới này lưu lộ, không pháp nào chẳng trở về pháp giới này, do pháp này chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nếu thấy lời này chẳng thích đáng, xin hãy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát là vị đã khuyên phát mười đại nguyện vương, hướng dẫn về Cực Lạc!

 

11. Lời tựa cho bộ Di Đà Thánh Điển

(năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

      Một pháp Niệm Phật chính là tổng trì lời Phật dạy, nhưng có người chuyên niệm Tự Phật, có người chuyên niệm Tha Phật, hoặc niệm Tự Phật lẫn Tha Phật bất đồng! Kẻ chuyên niệm Tự Phật là như tham cứu sâu xa đến cùng tận Thật Tướng trong các kinh để mong ngộ chứng, dùng trí chiếu Bát Nhã để thấu hiểu trọn vẹn đương thể của hết thảy các pháp Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại v.v… toàn là không, đích thân thấy được tánh Chân Như mầu nhiệm vốn sẵn có, hoặc như Thiền Tông khán những câu thoại đầu như “người niệm Phật là ai?” v.v… để mong đích thân thấy được “bản lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra”. Trong bốn loại Niệm Phật, [cách này] được gọi là Thật Tướng Niệm Phật.

Chuyên niệm Tha Phật thì có ba cách niệm:

      1) Một là quán tưởng, nghĩa là dựa theo Thập Lục Quán Kinh để quán, hoặc chuyên quán tướng bạch hào[31], hoặc chỉ quán thân Phật một trượng sáu, hay thân tám thước, hoặc quán Pháp Thân rộng lớn và quán trọn vẹn mười sáu phép Quán.

      2) Hai là quán tượng, tức là đối trước hình tượng Phật, tưởng tướng hảo, quang minh của Phật v.v…

      3) Ba là trì danh, tức là nhất tâm xưng niệm thánh hiệu A Di Đà Phật.

      Ba cách niệm Phật này tuy cách thức khác nhau, nhưng đều cần phải có lòng tin chân thành, nguyện thiết tha thì mới cảm ứng đạo giao cùng đức Phật được, mới có thể chắc chắn trong đời này lìa khỏi cõi Sa Bà này, sanh sang cõi Cực Lạc kia.

Trong bốn thứ niệm Phật này, chỉ có Thật Tướng Niệm Phật là đế lý sâu xa nhất, nhưng chẳng dễ gì tu được! Do cậy vào Giới - Định - Huệ và sức tham cứu, quán chiếu, soi xét của chính mình, chứ không có Tha Lực nào khác phụ trợ, nếu chẳng phải là hạng túc căn chín muồi thì ngộ còn chưa dễ gì đạt được, huống là thật chứng! Chỉ có Trì Danh Niệm Phật, thực hiện dễ dàng nhất, thành công nhanh nhất! Nếu có thể nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm liên tục ắt sẽ đích thân chứng được Niệm Phật tam-muội ngay trong đời này, lâm chung chắc chắn vãng sanh Thượng Phẩm. Dẫu căn cơ hèn kém, chưa chứng được tam-muội, chỉ dùng lòng tin chân thành trì danh hiệu Phật như con nhớ mẹ, luôn luôn chẳng gián đoạn, đến khi lâm chung cảm ứng đạo giao, nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Chúng sanh đời Mạt chỉ có pháp này để nhờ cậy. Nếu không, chỉ gieo được cái nhân cho đời sau, khó được lợi ích thật sự!

Nếu có thể chí tâm trì niệm, niệm đến khi “toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm, không niệm mà niệm, niệm mà không niệm, tâm lẫn Phật cùng tỏ rạng, lại cùng mất hẳn” thì diệu lý Thật Tướng sẽ hiện rõ rành rành, y báo, chánh báo cõi Tây Phương triệt để hiện trọn vẹn. Tuy trì danh nhưng đạt Thật Tướng sâu xa, chẳng quán tưởng mà đích thân thấy được Tây Phương! [Pháp trì danh] nhiếp thọ căn cơ phổ biến nhất, được lợi ích sâu xa nhất, lợi lạc nhất cho kẻ độn căn trong đời Mạt Pháp, thỏa thích lớn lao bản hoài xuất thế của Như Lai. Vì thế, từ xưa hàng tri thức phần nhiều đều chuyên chú nơi một môn Trì Danh. Đây là nói đại lược về cách niệm Tha Phật vậy.

Còn như niệm Tự Phật lẫn Tha Phật thường được gọi là Thiền Tịnh Song Tu, có người chuyên khán câu “người niệm Phật là ai?” để mong minh tâm kiến tánh, chẳng chú trọng tín nguyện cầu sanh. Tuy tợ hồ Thiền Tịnh Song Tu, nhưng thật ra là “có Thiền, chẳng có Tịnh”. Đã không có tín nguyện, sẽ không có cách nào cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sanh được! Nếu chưa đạt đến địa vị nghiệp tận tình không, vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Do vậy biết: Thiền Tịnh Song Tu chỉ hạng người có đầy đủ tín nguyện sâu xa mới có thể được lợi ích. Nếu không, đương nhiên chẳng bằng chuyên dốc sức nơi một môn trì danh hiệu Phật! Pháp môn Tịnh Độ thật là pháp môn đặc biệt khế lý khế cơ trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai. Vì thế, vãng thánh tiền hiền ai nấy đều hướng về, ngàn kinh muôn luận đâu đâu cũng chỉ bảo hướng về.

Ông X… ở Đông Doanh (Nhật Bản), trích lục những nghĩa lý xiển dương pháp Niệm Phật từ các kinh luận, soạn thành bộ Di Đà Thuyết Lâm, nội dung phân thành mười môn, diễn giảng thông suốt Nhất Hạnh[32], đáng là một bộ sách trợ giúp cho việc tu Tịnh nghiệp. Cư sĩ Phạm Cổ Nông đích thân giảo chánh, tra cứu, đổi tên thành A Di Đà Phật Thánh Điển nhằm tỏ rõ ý nghĩa tôn sùng; nhưng những phần trích lục hoàn toàn chẳng nêu rõ nguồn gốc, đợi khi nào có thời gian rảnh rỗi, cư sĩ sẽ dựa theo kinh mà phân định tường tận để hết thảy mọi người biết một pháp Niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là đạo để hết thảy thượng thánh hạ phàm cùng tu, ngõ hầu chẳng đến nỗi phạm những lỗi như sanh lòng tự phụ “ta là bậc thượng căn”, chẳng chịu tu trì, hoặc tự hạ thấp “ta là hạ căn chẳng thể tu trì được”! Thợ sắp chữ gần xong, cậy Quang viết lời tựa, bèn ước theo những điều mình biết để giãi bày. Nên biết rằng: Một pháp Niệm Phật chính là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nếu chẳng tin tưởng được, xin hãy chất vấn Phổ Hiền Bồ Tát!

 

12. Lời tựa sách Tịnh Độ Tập Yếu

(năm Dân Quốc 17 - 1928)

 

      Thuốc không quý - hèn, thuốc nào trị được bệnh [thì thuốc ấy] là thuốc hay. Pháp chẳng cạn - sâu, [pháp nào] hợp căn cơ sẽ là pháp mầu nhiệm. Đang thời Mạt Pháp, căn cơ con người kém hèn, nếu chẳng nương vào hoằng thệ nguyện lực của đức Như Lai, ai có thể đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng vô sanh? Ví như bệnh đã lậm vào tạng phủ, tuy [bệnh tình] hòa hoãn vẫn không thể làm gì được, nhưng nếu chịu uống thuốc A Già Đà trị chung vạn bệnh này, thì chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng Vô Sanh” vừa nói trên đây ai nấy đều đích thân chứng được, hoàn toàn chẳng khó khăn gì! Vì sao vậy? Do người ấy dùng lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương, lâm chung chắc chắn sẽ được Phật tiếp dẫn, liền được vãng sanh. Đã được vãng sanh, thân cận Phật Di Đà dài lâu, theo gót hải chúng, còn có thể viên mãn Bồ Đề, triệt chứng Niết Bàn rốt ráo, huống là những chuyện “đoạn Phiền Hoặc để thoát sanh tử, thấy được bản tánh, chứng Vô Sanh” vừa mới nói đó ư? Do vậy, biết rằng: Trong thời tiết[33] này, chỉ có một pháp này thích hợp căn cơ nhất. Nếu bỏ pháp môn cậy vào Phật lực này để tu những pháp môn tự lực khác, đừng nói hạng trung - hạ căn không cách chi mong mỏi, dẫu là thượng căn chắc chắn cũng khó lòng thành tựu ngay trong một đời được; phần nhiều chỉ gieo nhân cho đời sau, khó được lợi ích thật sự! Vì thế, hàng tri thức xưa nay cực lực hoằng dương pháp này để mong trên báo ơn Phật, dưới độ những người cùng hàng.

Các ông Phan Huệ Thuần và Thiệu Huệ Viên ở Lưu Dương (thuộc tỉnh Hồ Nam) dốc lòng tin tưởng Phật pháp, xem xét thời tiết, căn cơ; do vậy, bèn tập hợp những ý nghĩa trọng yếu đề xướng Tịnh Độ xưa nay, tạo thành một cuốn sách, chia làm ba thiên. Thiên đầu là tập hợp sao lục, biên tập những lời dạy từ tướng lưỡi rộng dài [của đức Phật], hơi tóm gọn một chút, để làm bậc thang nhập môn đầu tiên cho hàng sơ cơ. Thiên giữa gồm những phần trích lục những lời khai thị thiết yếu nhất, viên đốn nhất [trích] từ sách Long Thư Tịnh Độ Văn, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát, và [ngữ lục của] các đại sư Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Ưu Đàm, Thiên Như[34], Liên Trì, Hám Sơn, Ngẫu Ích, Triệt Lưu, Tỉnh Am, Triệt Ngộ, và gần đây nhất là cư sĩ Bành Nhị Lâm, ngõ hầu [người đọc] từ cạn tiến đến sâu, lãnh ngộ đại lược chỉ thú của pháp môn Tịnh Độ. Thiên cuối cùng tập hợp những ghi chép về nghi thức Niệm Phật, những kinh chú Tịnh Độ trong khóa tụng hằng ngày và các bài văn hồi hướng để dùng làm nghi thức cho khóa tụng sáng tối. Cuối cùng là phần Phụ Lục về nhân duyên ứng hóa của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát và Đa Đa Ha Bồ Tát để nêu bật pháp môn Tịnh Độ khế hợp thời cơ sâu xa. Họ tính ấn hành lưu thông để biếu những ai có cùng chí hướng trong khắp cõi xem đọc; do vậy, bèn đặt tựa đề là Tịnh Độ Tập Yếu, và lược thuật nguyên do của pháp môn Tịnh Độ ngõ hầu người đọc lẫn người nghe đều cùng sanh chánh tín, cùng tu Tịnh nghiệp, để có thể cùng sanh về Tịnh Độ, cùng chứng Vô Sanh, để rồi cùng thành Chánh Giác!

 

13. Lời tựa cho bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ

(năm Dân Quốc 18 - 1929)

 

      Lịch Sử tường thuật những chuyện thanh bình hay loạn lạc, hiền hay ngu xưa nay. Cảm Ứng là những chứng nghiệm về sự được - mất, tốt - xấu xưa nay. Lịch sử nhiều quá, ai có thể đọc trọn khắp từng chuyện cho được! Vì thế, đặc biệt chọn lấy những sự tích cảm ứng rõ ràng nhất ghi lại hết để cống hiến cho những người cùng hàng, hòng làm tấm gương “cách vật, trí tri, thành tâm, chánh ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” ngõ hầu tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, thiên hạ sẽ thái bình, nhân dân sẽ yên vui. Phải biết: Nói đến cảm ứng chính là nói đến nhân quả vậy. Tu nhân như thế nào sẽ được quả như thế ấy như trồng dưa được dưa, gieo đậu được đậu. Nếu muốn tránh khỏi quả ác, ắt phải tu nhân lành; nếu tạo ác nhân, quyết khó thể được thiện quả! Tôi thường nói: “Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân thế gian xuất thế gian bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh”.

Nếu không có nhân quả, thiện sẽ không có gì để khuyên, ác không có gì để phạt, há còn bàn đến chuyện “làm sáng tỏ Minh Đức để đạt đến chí thiện, đoạn Phiền Hoặc, chứng Bồ Đề” nữa ư? Do những ai biết có nhân quả ắt sẽ hướng lành, lánh dữ, sửa lỗi hướng thiện, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, ngõ hầu được dự vào bậc thánh, mong lên được cõi Cực Lạc. Bậc thượng bèn yên vui mà làm, bậc trung bèn vì lợi mà làm, bậc hạ bèn miễn cưỡng làm, đều cùng trừ khử được vật dục để tỏ lộ lương tri, thoát đường mê, lên bờ giác. Do vậy, biết thánh hiền, Phật, Bồ Tát tham dự, giúp đỡ cho đạo sanh thành, dưỡng dục, xét từ cội nguồn đến kết thúc chẳng ngoài hai chữ “nhân quả”; đấy là căn cứ lớn lao khiến cho thiên hạ xưa nay thanh bình hay loạn lạc, vững vàng hay nguy ngập và [để được] yên thân, giác ngộ cõi đời, siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu muốn vãn hồi thế đạo, lòng người, mà bỏ đi việc đề xướng nhân quả báo ứng, dẫu cho người ấy học thức, đạo đức, thần thông, trí huệ ngang bằng thánh hiền, Phật, Bồ Tát vẫn chẳng làm gì được, huống là những kẻ kém cỏi hơn ư?

Người đời thường tưởng nhân quả diệt mất không dấu vết, thường hay coi thường, chẳng chịu suy xét sâu xa. Đối với những thứ [nhân quả] rõ ràng dễ thấy, có thể có những thứ nhân quả khác xen lẫn vào khiến cho khó thấy được sự báo ứng; phàm phu mắt thịt chẳng biết nguyên do, bèn bảo “thiện ác đều rỗng không, chẳng có nhân quả”. Do vậy, cậy vào thiên kiến của chính mình, cho là đích xác không lầm lẫn, coi lời của thánh hiền, Phật, Bồ Tát đều là hoang đường, vô căn cứ, chẳng đáng noi theo! Từ đấy, phô phang tà kiến của chính mình, lầm lạc khoe khoang là bậc thông gia, lập ra những nghị luận tự lầm, lầm người. Do một đồn thành nhiều, biến đổi tận gốc càng thêm tệ hại đến nỗi ào ạt biến thành những thảm kịch “phế kinh điển, phế luân thường, bỏ lòng hiếu, mặc kệ lòng hổ thẹn, tranh thành, đoạt đất, tàn sát lẫn nhau” mỗi mỗi đều diễn ra, đến nỗi thiên tai nhân họa giáng xuống hằng ngày, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống. Xét đến cội nguồn, nói chung là do chẳng biết nhân quả báo ứng mà ra!

Năm Dân Quốc 13 (1924), vùng Giang - Chiết đánh nhau, cư sĩ Ngụy Mai Tôn tản cư sang Thượng Hải, nghĩ cách muốn dứt sát kiếp để chấm dứt họa loạn cho tương lai. Tôi khuyên ông ta nên đọc khắp hai mươi bốn bộ sử, chọn lấy những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng nhất, chép thành một bộ sách để làm gương răn mình cho các giới trong thiên hạ đời sau. Ông Mai Tôn rất hoan hỷ, từng nhiều lần thương lượng biện pháp, nhưng vì tuổi già, tinh thần chẳng đủ, lại không có sức thỉnh người khác chịu nhọc nhằn thay cho [chính mình] nên đành buồn bã bỏ dở giữa chừng. May sao, tháng Chín năm Dân Quốc thứ 16 (1927), cư sĩ Nhiếp Vân Đài thỉnh được cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh biên tập, vâng lệnh của thái phu nhân cung cấp chi dụng. Đến tháng Tám năm nay hoàn thành bản thảo, gặp đúng dịp ông Nhiếp Vân Đài dưỡng bệnh tại Lô Sơn, tôi bèn vượt quyền tiếm phận, lo toan những chuyện trình bày, ấn hành v.v… Do thỏa lòng mong mỏi của tôi, ông Nhiếp Vân Đài bèn vui vẻ giảo định và gom góp tiền bạc để khắc in rộng rãi. Lần đầu in hai vạn bộ; nay lại dùng loại giấy in báo, in một bản với kiểu chữ Tứ Hiệu Tự[35] để mong cho giới thanh niên học sinh đều mua đọc được. Hai loại sách này mỗi thứ đều cho đánh máy thành ba bản, tận hết sức chắc cũng in được mấy chục vạn bộ, khiến cho người đời đều biết nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai! Do vậy sẽ giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, ngõ hầu thiên hạ thái bình, nhân dân yên vui sẽ trở thành sự thật, chứ không phải chỉ là niềm hy vọng xuông!

 

14. Lời tựa sách Cảm Ứng Thiên Trực Giảng

(năm Dân Quốc 17 - 1928)

 

      Con người tánh vốn lành, do đối cảnh chạm duyên nhưng chẳng ra sức kiểm điểm, xem xét, cho nên khởi lên các chấp trước tốt - xấu, đủ mọi thứ tình kiến khiến bản tánh bị mai một, đều luôn là như thế. Do vậy, những vị thánh nhân thời cổ vị nào cũng để lại ngôn giáo, mong cho con người hành theo để trở lại [thuần thiện như] thuở ban đầu. Những lời dạy ấy tuy nhiều, nhưng chẳng ngoài “cách vật trí tri, làm sáng tỏ Minh Đức, ở yên nơi sự tốt lành tột cùng” mà thôi.

Trong chữ “cách vật” vừa nói đó, “cách” () giống như “cách đấu” (格鬬: trừ khử, chiến đấu), giống như một người chống lại muôn người; “vật” () là phiền não, vọng tưởng, mà cũng là cái được gọi là “nhân dục” (lòng ham muốn của con người) trong cõi đời. Chiến đấu với lòng nhân dục vọng tưởng phiền não, ắt một phen phải đầy đủ ý chí chẳng khiếp nhược thì mới có hiệu quả thật sự. Nếu không, tâm bị chuyển theo vật, làm sao trừ khử vật cho được? “Trí” () có nghĩa có là thúc đẩy, mở rộng đến cùng cực. “Tri” () chính là lương tri “yêu thương cha mẹ, kính trọng anh” sẵn có của chúng ta, chứ không phải do dạy dỗ, do học hành rồi mới có. Nhưng thường nhân trong xử sự thường ngày, nếu chẳng phản tỉnh, soi xét, kiểm điểm, thì từ đấy sẽ bị vật chuyển, chắc là lương tri “yêu thương cha mẹ, kính trọng anh” ấy cũng bị mất đi, còn mong chi thúc đẩy lương tri ấy đến cùng cực để đối phó khắp vạn sự, hàm dưỡng tự tâm nữa ư? Do vậy, thánh nhân muốn con người làm sáng tỏ Minh Đức, ở yên nơi chỗ tốt lành tột cùng, bèn dạy con người chỗ thực hiện đầu tiên chính là trước hết phải khởi sự từ cách vật trí tri. Công phu vừa nói ấy mầu nhiệm không chi hơn được!

Nhưng muốn cho thường nhân y theo đó tu trì, phải có khuôn phép đã hoàn chỉnh thì mới dễ được lợi ích. Ngũ Kinh, Tứ Thư đều là những khuôn phép đã hoàn chỉnh, nhưng do lời lẽ mênh mông, lại còn rải rác trong các sách, chẳng được tập hợp lại chia theo từng loại, hơi khó để bắt chước theo. Kẻ chưa đọc nhiều sách càng chẳng thể nhờ vào đâu để vâng theo những khuôn mẫu ấy. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên thâu tóm những lý lẽ tột cùng “thuận theo [chánh đạo] thì tốt lành, trái nghịch thì xấu, phước thiện, họa dâm”, thốt ra lời nghị luận rung trời rúng đất, mắt nhìn vào, tâm kinh hãi: “Thế nào là thiện? Thế nào là ác? Kẻ làm lành sẽ đắc thiện báo nào? Kẻ làm ác sẽ mắc ác báo nào?” đều thấy rõ cội nguồn sáng tỏ như xem ngọn lửa, nhưng kẻ ngu chẳng chịu làm lành, cứ mặc tình làm ác! Ấy là vì cái tâm tự tư tự lợi xui khiến như thế. Nay biết: Kẻ tự tư tự lợi đâm ra sẽ đánh mất lợi ích lớn lao, mắc họa ương lớn lao, há dám chẳng gắng sức lương thiện để mong họa diệt, phước nhóm ư? Do vậy, bèn nói rằng: Sách này tạo lợi ích cho con người cũng sâu xa lắm. Vì thế, bậc Đại Nho thời cổ phần nhiều đều ngầm tu tập theo sách này.

Đời Thanh, ông Bành Ngưng Chỉ ở Trường Châu phụng hành sách này từ bé, đến lúc vinh hiển đậu kỳ thi Đình, đạt đến địa vị Thượng Thư rồi, vẫn hằng ngày đọc sách này, lại còn đem tặng người khác, ghi tựa đề là Nguyên Tể Tất Độc Thư (sách phải đọc của Trạng Nguyên, Tể Tướng). Lại còn giải thích rằng: “Chẳng có nghĩa là đọc sách này liền có thể làm Trạng Nguyên, Tể Tướng, mà nghĩa là Trạng Nguyên, Tể Tướng nhất quyết không thể không đọc sách này!” Sự nêu tỏ ý nghĩa ấy có thể nói là thấu triệt đến tột bậc! Nhưng “người nhân thấy là nhân, kẻ trí thấy là trí”, đều tùy theo tánh chất của từng người. Sách này luận đến tột cùng thì chỉ có thể thành tiên. Nếu dùng đại Bồ Đề tâm để thực hành sẽ có thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, đoạn Tam Hoặc, chứng Pháp Thân, viên mãn phước huệ, thành tựu Phật đạo; huống hồ cứ khăng khăng nơi những quả báo nhỏ nhoi trong cõi trời người như thành tiên ư?

Sách này được chú giải rất nhiều, chỉ có bản Tiên Chú của Nguyên Hòa Huệ Đống[36] đời Thanh tinh xác, sâu xa, rộng rãi, thông suốt nhất, tiếc rằng nếu chẳng phải là hạng học rộng sẽ không thể đọc nổi! Kế đến là bộ Vựng Biên quả thật là bản hay nhất để người nhã, kẻ tục đều cùng xem được, nhưng đàn bà, trẻ nít không thông thạo chữ nghĩa lắm thì vẫn khó thể lãnh hội được. Chỉ có mỗi một cuốn Trực Giảng là có thể lợi ích trọn khắp, lời văn tuy nông cạn, dễ hiểu, nhưng từ ngữ thật hay đẹp, giản dị nhưng không thô thiển, dễ cảm động con người nhất. Cư sĩ Hương Đào bỏ ra một ngàn đồng ấn hành để lưu thông rộng khắp. Cũng có những người cùng chí hướng đều giúp sức, nguyện cho cuốn sách này được [phổ biến] trọn khắp vũ trụ, ngõ hầu người người tu Thập Thiện, nhà nhà tôn sùng hiếu đễ. Biết họa - phước chỉ do con người tự chuốc lấy, thiện hay ác đều có báo ứng thì có ai còn chịu làm ác để chuốc họa nữa đây? Phong tục ấy vừa được lưu hành thì điều thiện sẽ có thiện báo: Lễ nghĩa, nhân nhượng sẽ hưng thịnh, can qua vĩnh viễn chấm dứt, nhân dân yên vui, thiên hạ thái bình. Nguyện những ai có tài lực hay trí lực hoặc in rộng rãi sách này để lưu truyền, hoặc thuyết pháp để giảng diễn khiến cho những kẻ chưa đánh mất bản tánh sẽ càng thêm thuần chân, kẻ đã mất bản tánh sẽ mau khôi phục cái tánh ban đầu. Hành vi ấy có công đức há thể diễn tả được ư?

 

15. Lời tựa sách Sức Chung Tân Lương

(năm Dân Quốc 19 - 1930)

 

      Con người cùng một cái tâm này, tâm cùng một lý này, chúng sanh và Phật chẳng hai, phàm - thánh như một. Do Phật rốt ráo ngộ được tâm này nên triệt chứng Niết Bàn, chúng sanh do rốt ráo mê cái tâm này nên luân hồi sanh tử dài lâu. Nghĩ lại từ vô thủy đến nay, bọn chúng sanh ta và đức Thích Ca Thế Tôn cùng là phàm phu, cùng chịu nỗi khổ sanh tử dữ dội. Đức Thế Tôn do tự phát khởi hùng tâm, trọn đủ sức đại hùng mãnh, tu ròng Giới - Định - Huệ, nên đoạn trọn vẹn Tam Hoặc, hai thứ Tử (Biến Dịch và Phần Đoạn) vĩnh viễn mất, an trụ trong Tam Đức bí tạng, phổ độ quần manh thuộc chín giới. Luận về thời kiếp, dù có dùng hết số vi trần trong một cõi nước cũng chẳng thể tính toán được! Luận về pháp môn thì cạn hết biển mực vẫn khó chép được!

Trong thời kiếp ấy, ban sự pháp hóa này, bọn chúng sanh ta há chẳng nghe pháp tu hành, muốn chứng được tâm này trong một đời hay sao? Chỉ vì Phiền Hoặc sâu dầy, không sức nào đoạn trừ được, hễ thọ sanh lần nữa lại bị mê mất. Cũng như do chưa gặp được pháp cậy vào Phật từ lực để vãng sanh ngay trong đời này, hoặc do tu pháp này, nhưng tự lực mỏng yếu, không người giúp đỡ, hoặc tuy tự lực sung túc nhưng lâm chung bị quyến thuộc lắm cách phá hoại! Do đấy, trải cả kiếp dài lâu, luân hồi sanh tử. Dẫu được Phật giáo hóa, vẫn y như cũ uổng mang cái tâm chẳng khác gì tâm Phật, nhưng chẳng thể chứng được quả chân thường giống như đức Phật! Trên đã cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới phụ bạc tánh linh của chính mình. Mỗi phen nghĩ đến, ngũ tạng[37] như lửa đốt.

Nay may được nghe đức Như Lai vì thương xót chúng sanh thuở mạt kiếp không có sức đoạn Hoặc, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ để hết thảy dù thánh hay phàm đều cùng trong đời này vãng sanh Tây Phương: Kẻ đã đoạn Hoặc sẽ cao đăng Bổ Xứ, kẻ vẫn còn đầy dẫy phiền não cũng dự vào dòng thánh. Thật là một pháp môn đặc biệt trong suốt cả một đời giáo hóa của đức Như Lai; thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều thâu tóm. Trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát còn chẳng thể vượt ra ngoài [pháp môn] này được; dưới là phàm phu Ngũ Nghịch Thập Ác cũng có thể dự vào trong số ấy. Vì thế, [pháp môn này] được mười phương cùng khen ngợi, chín giới cùng tuân hành. Huống hồ bọn phàm phu chúng ta bỏ đi pháp này thì lấy đâu để nhờ cậy?

Gần đây, đời đã loạn đến cùng cực, thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Người có chánh tri kiến đều biết thế giới này là nơi không yên ổn, Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là quê nhà ta sẵn có. Do vậy, tính kế trở về nhà, cùng tu Tịnh nghiệp. Lại sợ khi lâm chung tự lực mỏng yếu, không ai phụ trợ, và bị quyến thuộc vô tri phá hoại chánh niệm đến nỗi vẫn lưu lại trong thế giới này, chẳng được vãng sanh. Do vậy, mọi người đề xướng chuyện trợ niệm hòng phụ trợ kẻ lâm chung. Như các hội Phật Học ở Thiệu Hưng, Dư Diêu, Vân Nam, Thượng Hải hoặc soạn định chương trình, hoặc xiển dương sự lợi - hại, đều nhằm mong sao người mạng chung chắc chắn được sanh về Tây Phương mới thôi! Tâm ấy, chuyện ấy thật đáng khâm phục!

Cư sĩ Lý Viên Tịnh vẫn sợ [những chương trình ấy] quá giản lược, rất có thể người ta chẳng lưu ý, bèn tuyển chọn những điểm hay nhất của chương trình các nơi và các ngôn luận, lại còn chọn lọc những bài văn nêu rõ lẽ lợi - hại lúc lâm chung của xưa nay và những câu chuyện vãng sanh do được trợ niệm gần đây, biên soạn thành bốn thiên. Thiên đầu tiên là Sức Chung Chương Trình (chương trình trợ niệm cho kẻ lâm chung), thiên thứ hai là Sức Chung Ngôn Luận (những bàn luận về việc trợ niệm cho kẻ lâm chung), thiên thứ ba là Dự Tri Lợi Hại (biết sẵn những điều lợi - hại), thiên thứ tư là Sức Chung Thật Hiệu (hiệu quả thật sự do trợ niệm lúc lâm chung), đặt tên [cho cả tập sách] là Sức Chung Tân Lương (những hướng dẫn về việc trợ niệm khi lâm chung), xin Quang viết lời tựa.

Quang đã ở vào tuổi bảy mươi, học chẳng thành được gì, trộm sợ một hơi thở ra không hít vào được sẽ lại bị luân hồi trong sáu nẻo thì khổ chẳng thể nào tưởng tượng được! Do vậy bèn giấu tung tích, ẩn dật lâu dài, chuyên tu Tịnh nghiệp, ngõ hầu chẳng đến nỗi thường luôn khuyên người khác mà ngược lại chính mình chẳng có phần, khiến cho kẻ vô tri do đấy sẽ báng pháp rồi đọa ác đạo. Trước lúc bế quan, nhận được thư của ông ta, lòng khôn ngăn cảm động, bèn nêu đại lược đại ý của pháp môn Tịnh Độ và lợi ích của sự trợ niệm, mong sao những người học Phật trong cõi đời ai nấy đều chú ý, ngõ hầu thỏa thích lớn lao bản hoài phổ độ chúng sanh của đức Như Lai cũng như nhằm để làm chín muồi cái nhân thù thắng đã được vun bồi từ nhiều kiếp!

 

16. Lời tựa bộ Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục

(năm Dân Quốc 18 - 1929)

 

      Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn; vì thế, phân thân trong các cõi nhiều như số vi trần, tùy loại hiện hình, tầm thanh cứu khổ độ thoát chúng sanh, nhưng đối với thế giới Sa Bà, Ngài lại càng nghĩ thương xót trọn khắp, tha thiết, cứu vớt chẳng sót. Huống chi trong những năm gần đây, nhân dân hằng ngày gặp cảnh hoạn nạn, dù muốn trốn tránh quả thật cũng không có chỗ nào để lánh mình được, mà cũng chẳng có cách nào trốn lánh được; bởi thế đạo nhân tâm gần đây đã bại hoại đến cùng cực! Ngay như đại ân sanh thành, nuôi dạy của cha mẹ, vẫn cứ công khai đề xướng bỏ đi lòng hiếu và coi giết hại cha mẹ là chuyện đại nghĩa diệt thân! Người dân sống trong cõi đời này chẳng đáng thương ư? Do vậy, phàm những ai có chánh tri kiến không ai chẳng nghiên cứu Phật học, tu trì Tịnh nghiệp để cầu thoát lìa đời ác Ngũ Trược này, mau được dự vào Liên Trì Hải Hội, ngõ hầu vĩnh viễn lìa mọi sự khổ, chỉ hưởng các sự vui.

Trong thời thế này, Quán Thế Âm Bồ Tát đặc biệt dấy lên lòng đại từ Vô Duyên, vận lòng đại bi Đồng Thể, trong đủ mọi khổ nạn, rủ lòng nghĩ nhớ, bảo vệ, che chở. Xưng hồng danh của Ngài gặp dữ sẽ hóa lành, gặp nạn lại trở thành điều may mắn, làm sao kể xiết? Những sự tích Bồ Tát cảm ứng đã được ghi chép thấy rải rác khắp các sách. Những sách chuyên ghi chép thì có bộ Quán Âm Từ Lâm Tập của ngài Hoằng Tán, Quán Âm Trì Nghiệm Ký của ông Châu Khắc Phục[38], Quán Âm Linh Cảm Lục của ông Vưu Tích Âm, Quán Âm Bổn Tích Tụng của ông Hứa Chỉ Tịnh, Quán Âm Linh Nghiệm Kỷ của ông Nhiếp Vân Đài, đều là những sách do được thấy nghe rồi bèn ghi lại.

Cư sĩ Lý Viên Tịnh lại tổng hợp từ tất cả các sách [nói trên] soạn [thành một tác phẩm], đặt tên là Tân Biên Quán Âm Linh Cảm Lục, có thể gọi là tập hợp tất cả những chuyện linh cảm của đức Quán Âm, là chỗ y cứ cho hết thảy những người tín phụng, trì niệm. Tuy nhiên, cần phải biết vì sao đức Quán Âm có thể linh cảm như thế? Ấy là vì Ngài xoay được Tánh Nghe để nghe nơi tự tánh và chiếu soi Ngũ Uẩn đều không. Đọc bộ sách này rồi, có thể chí thành khẩn thiết niệm hồng danh của Quán Âm Đại Sĩ, niệm đến khi niệm cực tình vong thì bản thể của hết thảy phiền não ác nghiệp đều là không, ngó lại hết thảy cảnh duyên sướng - khổ đều là chẳng thể được! Trong cái “chẳng thể được” ấy, chẳng ngại gì hưng lòng Từ, vận lòng Bi, tùy cơ tiếp dẫn, lấy tâm của đức Quán Âm làm tâm mình, lấy sự nghiệp của đức Quán Âm làm sự nghiệp của mình, làm cho khắp hết thảy chúng sanh đang chịu khổ cùng được gội ân trạch của đức Quán Thế Âm để rồi trong đời vị lai sẽ cùng hành đạo Quán Thế Âm xoay vần cứu độ vậy!

 

17. Lời tựa cho Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục

(năm Dân Quốc 18 - 1929)

 

      Địa Tạng Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tuy đã chứng cùng tột pháp tánh từ lâu, nhưng vẫn chẳng trụ Tịch Quang, chẳng chứng Phật quả, do lòng đại từ bi tùy loại hiện thân độ thoát hữu tình trọn khắp các cõi nước nhiều như số vi trần. Ngài lại còn thường ở trong chốn u minh nhằm cứu bạt chúng sanh tội khổ cực nặng trong địa ngục. Do Bồ Tát xưa kia từng phát đại nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề; địa ngục chưa trống không, thề chẳng thành Phật). Ấy là vì tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh của Phật chẳng hai; do mê muội nên đối với chân thường lầm sanh mê hoặc, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm đến nỗi luân hồi lục đạo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Lúc sanh vào trời người thì ít, khi đọa tam đồ lại nhiều! Bồ Tát riêng rủ lòng từ mẫn, nhiều cách cứu vớt, mong sao chúng sanh sẽ bỏ vọng về với chân, trừ mê, được ngộ, để khôi phục lại Chân Như Phật Tánh sẵn có mới thôi. Ví như bảo châu Ma Ni[39] vô giá, rớt trong nhà xí, kẻ ngu coi như đồ dơ, chẳng thèm mến tiếc! Người trí biết là bảo châu vô giá, vào nhà xí nhặt lấy, gột trừ phân dơ, dùng nước thơm gột rửa, treo trên tràng cao, tỏa sáng chiếu trời soi đất, mưa ra khắp đủ mọi thứ báu. Tâm tánh của chúng sanh cũng giống như vậy, tuy còn mê muội tạo nghiệp, đọa lạc trong ác đạo, nhưng Chân Như Phật Tánh sẵn có vẫn trạm tịch thường hằng, bất sanh, bất diệt, trọn chẳng có tướng biến đổi, tổn thất. Vì thế, bất luận kẻ nghiệp nặng tội sâu đến đâu, tâm Bồ Tát trọn chẳng có một niệm vứt bỏ, đối với chúng sanh khổ sở nhất càng riêng rủ lòng thương xót hơn, gấp gáp muốn độ thoát hơn.

Cư sĩ Lý Viên Tịnh cảm lòng từ bi của Bồ Tát, tiếc cho chúng sanh mê muội, do vậy bèn dùng thể văn Bạch Thoại, biên soạn trình bày những chuyện thuộc về mặt Bổn lẫn mặt Tích của Bồ Tát. Lại sao lục mười tám chương sự tích cảm ứng của Ngài từ Tục Tạng của Nhật Bản, cho ấn hành lưu thông, mong sao hết thảy hữu tình đều biết Bồ Tát từ vô lượng kiếp đến nay khởi lòng Từ, vận lòng Bi, ngõ hầu hết thảy chúng sanh được thoát khỏi sanh tử, chứng được Phật tánh vốn có. Từ đấy, chúng sanh đều quy mạng, cung kính, cúng dường, xưng niệm hồng danh để được nương cậy, được thoát khỏi cõi Ngũ Trược này, sanh sang cõi sen chín phẩm kia, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, lấy tâm Bồ Tát làm tâm của chính mình, lấy sự nghiệp của Bồ Tát làm sự nghiệp của chính mình, ngõ hầu chẳng cô phụ sự giáo hóa của đức Phật, chẳng phụ bạc tánh linh của chính mình mà thôi. Do vậy, tôi bèn viết duyên khởi để thưa với những bậc thông sáng mai sau vậy.

 

18. Lời tựa sách Quán Âm Cảm Ứng Khóa

 

      Tâm Quán Thế Âm Bồ Tát nghĩ thương chúng sanh, chẳng thể dùng ngôn ngữ để hình dung được! Dẫu lấy trời đất, cha mẹ, vẫn chưa đủ để sánh ví chút phần! Làm cho kẻ thiện căn chưa gieo, chưa chín muồi, chưa độ thoát, liền gieo, liền chín muồi, liền độ thoát. Nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Ví như mặt trời rạng rỡ giữa ban ngày, muôn vật đều được chiếu tỏ. Xuân về trên lãnh thổ vua Vũ, trăm loài thảo mộc đều được sanh thành. Có cảm liền thông, không chuyện mưu cầu gì chẳng ứng. Ấy là vì Bồ Tát vô tâm, lấy tâm chúng sanh làm tâm [của chính Ngài], nên hễ khắp pháp giới cảm, liền ứng khắp pháp giới, đều đáp ứng tâm niệm của họ trọn chẳng sai biệt. Quán Âm Cảm Ứng Khóa[40] là phương tiện mầu nhiệm lớn lao thuận theo thói đời để bói tốt - xấu ngõ hầu cùng gieo thiện căn. Phàm những người xem bói đều phải xưng niệm danh hiệu Bồ Tát. Như trẻ nhỏ bị bệnh chẳng chịu uống thuốc, bèn bôi thuốc lên vú, thì trẻ nhỏ không uống thuốc mà vẫn uống thuốc[41]. Danh hiệu của Bồ Tát như Phản Hồn Hương, nếu được thấy nghe, túc nghiệp tự tiêu, túc thiện (sự lành trong đời trước) sẽ tự sanh, dần dần cho đến trên là noi theo chí hướng, sự nghiệp của đức Quán Âm, rốt ráo tự lợi - lợi tha nơi vô ký. Sách này do cư sĩ Từ Tích Dư và phu nhân tìm được cổ bản thuộc đời Minh trước kia, đem in thạch ấn một ngàn quyển để kết Tịnh duyên. Tôi bèn lược thuật ý nghĩa Bồ Tát hành lòng Từ như vậy đó.

 

19. Lời tựa cho bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục

(năm Dân Quốc 22 - 1933)

 

      Pháp môn Tịnh Độ rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Hết thảy các pháp môn không pháp nào chẳng lưu xuất từ pháp giới này, hết thảy các hạnh môn không môn nào chẳng trở về pháp giới này. Người thiên tư thông minh thường vì [tưởng lầm pháp này] sự giản dị, lý tầm thường nên chẳng bỏ công xét kỹ, chẳng những chính mình không tu tập, lại còn thốt lời bàn luận, ngăn trở, phá hoại, bài xích người khác tu trì, nhằm tỏ vẻ chính mình cao minh. Điều này đúng là “biến quán lục hợp nhi bất kiến lai mao” (thấy trọn vũ trụ nhưng chẳng thấy được sợi lông nơi khóe mắt), biết trọn các pháp nhưng chẳng biết chính mình thế trí biện thông, tự coi mình Tông - Giáo đều thông, đức Phật gọi [kẻ ấy] là kẻ đáng thương xót! Họ chẳng nghĩ chỗ quy tông của kinh Hoa Nghiêm là cầu sanh Tịnh Độ. Văn Thù, Phổ Hiền thảy đều phát nguyện vãng sanh. Những vị ấy là người như thế nào, chuyện ấy là chuyện như thế nào? Dẫu bọn ta có hiểu được chút giáo nghĩa, nhưng Phiền Hoặc chưa đoạn, sanh tử chưa giải quyết xong, hễ trải qua một phen biến đổi sanh sang kiếp sau, há có thể chẳng mê mất được ư? Chén bát chưa nung, gặp mưa liền rã. Nguyên do đức Như Lai đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ này là nhằm làm cho thượng thánh hạ phàm đều cùng thoát được sanh tử ngay trong đời này. Huống chi hai vị Đại Sĩ kia thành Phật đã lâu, thị hiện thuộc địa vị Đẳng Giác, lấy thân làm gương cho kẻ khác phát nguyện cầu sanh; ta là hạng người nào mà dám chống đối các vị ấy?

Nghĩ kỹ như thế, chắc chắn sẽ nhanh nhảu thay đổi, tuân theo giáo huấn phổ độ thánh - phàm của đức Như Lai, noi theo Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Viễn Công, Trí Giả, Thiện Đạo, Vĩnh Minh v.v… các vị đại Bồ Tát, Tổ Sư mà nhất trí tiến hành, dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngõ hầu viên mãn Phật quả, làm bậc đại trượng phu rốt ráo. Ai chịu cam lòng nhường đại lợi ích này cho người khác, rồi tự mình ở yên trong nhà lửa tam giới, thường bị thiêu đốt vậy thay? Từ khi đại pháp được truyền sang phương Đông, người đích thân chứng được tam-muội, đắc đạo, vãng sanh trong hiện đời và kẻ đầy dẫy Phiền Hoặc cậy vào Phật từ lực được đới nghiệp vãng sanh kể sao cho xiết?

Trong thời Càn Long đời Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh sai cháu trai là Hy Tốc tập hợp, sao lục những câu chuyện vãng sanh Tịnh Độ, đầu tiên thuật chuyện Phật Di Đà nhằm chỉ rõ đấng giáo chủ lập ra pháp môn này. Kế đến là Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v… nhằm tỏ rõ thánh chúng xiển dương pháp môn này. Tiếp đó là tỳ-kheo tăng ni, vua chúa, quan lại, thường dân, nữ nhân, các loài vật vãng sanh, nhằm kể ra tứ chúng vãng sanh Tịnh Độ, tổng cộng hơn năm trăm người, đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Đấy chính là bộ Sơ Biên. Trong số ấy, dù thánh hay phàm, dù trí hay ngu, đều cùng vào trong biển đại thệ nguyện của đức Như Lai, rồi dần dần chứng được sự vui sướng trong cõi Thường Tịch Quang. Nhìn từ chỗ này, biết pháp môn Tịnh Độ dường như biển cả dung nạp khắp mọi dòng chảy, cũng giống như thái hư bao hàm khắp vạn tượng. Chúng sanh trọn khắp pháp giới không một ai chẳng được nhiếp vào đây! Các pháp trong khắp cả pháp giới đều do pháp môn này mà đắc Thật Tế, bởi nó là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, là đạo tổng trì trọng yếu của tam thế chư Phật.

Đến cuối niên hiệu Đạo Quang, cư sĩ Liên Quy Hồ Đĩnh tập hợp [hành trạng của] những vị vãng sanh sau thời Càn Long được hơn một trăm mấy chục người, [soạn thành sách] đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tục Biên. Vào đời Hàm Phong - Đồng Trị, giặc giã tràn lan, người đề xướng ít ỏi, gần như quạnh quẽ. Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống, phàm những ai có con mắt thông suốt, mang lòng cứu đời, không ai chẳng đề xướng nhân quả báo ứng và pháp tín nguyện niệm Phật. Người có chánh tri kiến, không ai chẳng thuận theo chiều gió. Vì thế, trong mấy chục năm qua, lại tập hợp được [chuyện vãng sanh của] hơn hai trăm người nữa, đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên. Bản thảo này do thầy Đức Sâm biên tập, nay đã sắp chữ xong. Vì thế, tôi thuật duyên khởi.

Khi xưa không có thuyền máy, xe lửa, bưu cục, tòa báo, tuy từng địa phương ở sát cạnh nhau nhưng thường chẳng hay biết, cho nên thời cổ pháp đạo hưng thạnh lớn lao, nhưng số người vãng sanh được ghi chép lại trong một ngàn mấy trăm năm chỉ được mấy trăm người mà thôi! Một là vì thiếu ghi chép, hai là vì sách vở xưa thất lạc. Nếu mọi chuyện đều tiện lợi như ngày nay, dẫu cả mấy chục vạn vẫn là chưa nhiều. Người đọc chớ nên đem xưa để luận nay, nghĩ chưa chắc đã đều là chuyện thật; mà cũng đừng dùng nay luận xưa, cho là pháp [khi xưa] chẳng hưng thịnh lớn lao! Hãy thử nghĩ ngài Thiện Đạo ở Trường An, ngài Thiếu Khang tại Tân Định, tiếng niệm Phật vang khắp nẻo đường, những người vãng sanh đương nhiên chẳng phải chỉ có trăm ngàn vạn ức! Nay thì xa cách ngàn dặm, sáng vừa gởi đi, tối đã đến, lại thêm bưu điện, báo chí; vì thế, tuy ngoài ngàn dặm thảy đều biết được liền. Nhưng vẫn còn nhiều người [vãng sanh] chưa được ghi chép, nếu mỗi chuyện đều chép, quả thật còn nhiều hơn thế nữa! Nguyện người trong khắp cõi đời, ai nấy đều lấy giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành làm nền tảng, lấy “thật sự vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để tu trì, thì sống sẽ là bầu bạn của thánh hiền, thác sẽ vào cõi nước của Như Lai, lợi ích ấy nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể nào biết được! Nguyện khắp những ai thấy nghe đều gắng công!

 

20. Lời tựa cho sách Trùng Đính Tây Phương Công Cứ

(năm Dân Quốc 19 - 1930)

 

      Sách Tây Phương Công Cứ lưu truyền trong cõi đời đã lâu; tuyển chọn sao lục những ngôn luận hoặc tỉ mỉ hoặc giản lược khác nhau. Có bản xếp kinh Di Đà, chú Vãng Sanh vào đầu sách, cũng có bản chẳng chép. Nhưng bên trong có in hình Tam Thánh, đài sen chín phẩm, trên đài sen có những vòng tròn để người [niệm Phật] chấm vào đấy hòng ghi nhớ số [câu đã niệm] thì [các bản in] đều giống nhau. Đa số các bản in, với mỗi đài sen thuộc chín phẩm đều vẽ một tượng Phật. Tiếp đó, chọn lọc những khai thị thiết yếu xưa nay và những sự tích rõ ràng, ngõ hầu người đọc sanh lòng tín nguyện quyết định, chắc chắn nhờ vào đó để vãng sanh. Dụng ý sâu đậm, chu đáo làm sao, nhưng do niệm xong, hoặc [do người niệm] đã khuất, bèn đốt đi, thật cảm thấy mắc lỗi hủy hoại kinh tượng. Một cuốn sách tốt đẹp lợi người rốt cuộc bị phó cho ngọn lửa, chẳng những uổng phí một món vật quý báu, lại còn chẳng thể lợi lạc rộng khắp. Nếu giữ lại để truyền cho đời sau thì do khuyên chấm đen đúa, lem luốc, khó gợi hứng thú cho người đọc được. Suy đi nghĩ lại, thật khó thể nào thích hợp!

      Bạn tôi là Dật Nhân sắp xếp nội dung sách lại theo một thứ tự khác: Đầu tiên là kinh, chú, nghi thức niệm Phật. Kế đến liệt kê các khai thị rõ ràng, rộng rãi, giản dị, gần gũi từ xưa đến nay, rồi lại chú trọng đến cách thức trợ niệm khi lâm chung, ngõ hầu chẳng đến nỗi công lao [niệm Phật] sắp thành công lại bị quyến thuộc vô tri phá hoại. Tiếp đó là những giải thích đại lược về Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Tứ Đế, Tứ Liệu Giản và một trăm bài ca tụng Phật hiệu để cho người sơ phát tâm biết đại lược ý nghĩa. Tu chỉnh thành một bản hòng giữ lại đọc vĩnh viễn. Cách thức dùng chín phẩm [đài sen] để ghi nhớ số [câu đã niệm] được in riêng thành một quyển, kèm theo cuốn chánh để giúp hành giả nhớ số rồi thiêu đi trong tương lai. Cách này rất hay, bèn cho ấn hành để biếu tặng rộng rãi, mong sao hết thảy những người cùng hàng đều được vãng sanh.

Phải biết lợi ích của [pháp môn] Tịnh Độ nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể biết được! Do vậy, trong hội Hoa Nghiêm, những vị [Bồ Tát] sau khi đã chứng Đẳng Giác vẫn dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh. Trong Quán Kinh, [kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác] lúc sắp đọa A Tỳ, niệm chưa đủ mười tiếng liền dự vào chín phẩm, quả thật có thể nói là mười phương tam thế hết thảy Như Lai, trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, không vị nào chẳng bắt đầu bằng pháp này và đến cuối cùng quy kết về pháp này! Nguyện khắp những người cùng hàng ai nấy đều sanh chánh tín.

 

21. Lời tựa cho bộ Phổ Đà Lạc Già Tân Chí

(năm Dân Quốc 20 - 1931)

 

      Hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian, đều do thời tiết nhân duyên mà phát khởi. Vì thế, cổ đức nói: “Thời tiết nhược chí, kỳ lý tự chương” (Nếu đến thời tiết, lý sẽ tự được tỏ rõ), thật là đúng lắm! Quang vì tầm thường, kém cỏi, trăm chuyện chẳng làm được một chuyện nào, ăn bám chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà ba mươi hai năm. Trước kia đọc Phổ Đà Chí, thấy những điều được ghi chép đều là chuyện đạo tràng hưng - suy và những chuyện tầm thường giống như vậy; còn đối với sự lý Bổn - Tích trong các kiếp xưa của Quán Âm Đại Sĩ và nhân duyên cảm ứng nơi phương này thảy đều thiếu sót, sơ sài, khôn ngăn người ta phải thở dài!

Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ba vị cư sĩ Vương Thái Thần, Châu Hiếu Hoài, Trần Tích Châu tới núi thăm viếng. Ông Vương và ông Châu nói: “Phổ Đà là thánh địa đạo tràng của Quán Âm Đại Sĩ, trong nước lẫn ngoài nước đều kính ngưỡng, cớ sao dẹp bỏ giảng tòa đã lâu, nỡ để cho pháp đạo tịch mịch vậy? Xin thầy hãy phát tâm giảng kinh, chúng con sẽ lo liệu chi dụng đầy đủ”. Quang viện cớ kém cỏi cực lực chối từ. Ông Tích Châu liền nói: “Bộ Sơn Chí chưa được tu chỉnh đã lâu, bản in đã mờ mịt rồi, nếu thầy chịu sửa chữa, con sẽ cho khắc in”. Quang nói:

- Chuyện ấy nào phải dễ dàng! Nếu theo như lệ cũ thì bậc văn nhân mới có thể làm được. Nếu đem sự tu chứng về mặt Bổn lẫn mặt Tích của Đại Sĩ trong những kiếp xưa và sự tích cảm ứng nơi phương này mỗi mỗi đều lược thuật những nét chánh yếu khiến cho người đọc đều biết ân Đại Sĩ trọn khắp các cõi nước số lượng nhiều như cát, lòng Từ cứu vớt không ngằn mé; từ đấy phát khởi chánh tín, thân lẫn tâm đều quy y thì gần là được hưởng phước trong cõi trời người, xa là chứng quả Bồ Đề. Nếu không đọc trọn khắp Đại Tạng, tham khảo trọn khắp các sách sẽ không thể [làm được]. Nếu chẳng tỏ rõ các sự lý cảm ứng về mặt Bổn lẫn mặt Tích của Đại Sĩ sẽ trở thành bỏ chủ trọng khách, bỏ gốc lấy ngọn, có khác gì những sơn kinh thủy chí[42] tầm thường đâu? Làm sao có thể tỏ rõ Phổ Đà chính là đạo tràng ứng hóa của Đại Sĩ, lại làm sao có thể tỏ rõ Đại Sĩ chính là cha mẹ đại từ bi của chúng sanh trong pháp giới, có nhân duyên sâu đậm nhất đối với chúng sanh cõi Sa Bà? Nhưng Quang do túc nghiệp, đến nỗi tâm không hiểu biết, mắt gần như lòa, vẫn cần phải sám hối một hai năm, đợi khi nghiệp tiêu trí rạng, chướng hết, mắt sáng, sẽ chẳng tiếc thân mạng, gắng sức thành tựu. Nếu như nghiệp nặng, chẳng thể cảm ứng, trừ khử được nghiệp chướng, thì sẽ qua Giang Tây, cầu cư sĩ Lê Đoan Phủ thay tôi lo liệu công việc này. Vị ấy học thông suốt cả Nho lẫn Thích, văn chương hơn người, ắt sẽ có thể nêu tỏ tấm lòng, sự tích từ bi của Đại Sĩ được!

Năm sau, cư sĩ Từ Úy Như đem Văn Sao ấn hành, khiến cho những người không suy xét tường tận, tưởng lầm Quang là tri thức, từ đấy thư từ qua lại, hằng ngày chẳng rảnh rỗi! Giữa Xuân năm Dân Quốc thứ tám (1919), ông Đoan Phủ quy Tây, cái tâm đã phát trước kia rốt cuộc trở thành lời nói xuông! Mùa Xuân năm Dân Quốc 11 (1922), Tri Sự[43] huyện Định Hải là ông Đào Tại Đông lên núi, nói: “Sơn Chí lưu thông sẽ khiến cho người ta do tin tưởng, đổi dữ hướng lành, bỏ vọng về với chân, quả thật là nhiệm vụ trọng yếu căn bản để vãn hồi thế đạo nhân tâm, hãy nên gấp rút sửa chữa, tu chỉnh”. Do ông Đào tâm hộ pháp tha thiết, lòng cứu thế ân cần, Quang liền cậy chủ nhân hai chùa Phổ Tế, Pháp Vũ khẩn khoản thỉnh ông Đào đích thân đảm nhiệm chuyện ấy. Ông Đào do việc công chẳng rảnh rỗi, bèn ủy thác một vị hương thân trong vùng là ông Vương Nhã Tam đảm nhiệm. Hết thảy sự việc cần thiết thì bên ngoài có ông Đào, trong núi có [hòa thượng] Khai Như đã về hưu[44] châm chước lo liệu. Do không rảnh rỗi nên Quang trọn chẳng hề hỏi đến. Năm sau, ông Đào được thăng chức lên huyện Hàng, nhưng vẫn thư từ qua lại, bàn soạn, lo liệu mọi sự. Nếu chẳng phải là do đời trước đã nhận sự phó chúc của Đại Sĩ, há có thể được như thế chăng?

Thoạt đầu vừa bàn bạc về chuyện tu chỉnh Sơn Chí xong, chưa đầy một tháng, cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh ở Bành Trạch tỉnh Giang Tây đến thăm, vừa gặp mặt đã trở thành bạn thiết. Quang thuật lại nỗi niềm trước kia, rồi đem chuyện soạn Đại Sĩ Tụng gởi gắm, ông ta liền nhận lời. Nếu không phải là Đại Sĩ thầm rủ lòng gia hộ, há có dịp gặp gỡ như vậy hay chăng? Ông Hứa bèn tra duyệt, sưu tập trong khắp kinh tạng và các sách vở, mất cả hai năm mới hoàn thành bản thảo, soạn ra lời văn ca tụng gần đến hai vạn chữ, lại còn chú thích ý nghĩa liền ngay sau đó để người đọc đều biết rõ nguyên do. Lại còn trích lục các kinh để làm chứng cớ rõ ràng. Lời văn ca tụng gồm ba quyển, kinh văn trích dẫn để làm chứng gồm một quyển, tổng cộng hơn ba trăm bảy mươi trang, gởi tới [Phổ Đà] vào đầu Hạ. Ý nghĩa bài tụng đã được trình bày trong lời tựa của ông Hứa, ở đây không nhắc lại nữa.

Thoạt đầu, Quang muốn đặt cuốn này vào đầu bộ Sơn Chí, nay vì số quyển quá nhiều, bèn cho lưu hành riêng ngõ hầu được lưu truyền rộng khắp trong thiên hạ đời sau. Nếu in chung với Sơn Chí sẽ khó thể lưu hành rộng rãi được! (Về sau, ông Đào thấy tụng văn cao trỗi, tuyệt diệu, bảo phải đặt vào đầu bộ Sơn Chí, bèn lược bớt lời chú thích và các dẫn chứng từ kinh điển, chỉ sao lục chánh văn, gộp chung thành một quyển, đặt tên là Bổn Tích Môn, tức quyển thứ nhất [của bộ Sơn Chí]). Nhưng Đại Sĩ từ vô lượng kiếp đến nay, phân thân trong các cõi nước số nhiều như vi trần, cảm ứng dù Bổn hay Tích nếu không phải là đức Phật sẽ chẳng thể biết được! Mấy quyển tụng ấy bất quá là một hạt bụi trong đại địa, là một giọt nước trong biển cả, để kẻ chẳng biết đến lòng đại từ bi sâu xa của Đại Sĩ sẽ tạm biết đại khái! Từ đấy sẽ thẹn thùng, xấu hổ, hào khí bừng bừng nói:

- Cái tâm của chúng ta và tâm Đại Sĩ không hai, không khác, nhưng Đại Sĩ viên thành Phật đạo đã trải kiếp lâu xa, lại do Bi tâm vô tận chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện hình trong chín giới, hiện khắp các sắc thân độ thoát chúng sanh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay luân hồi sáu nẻo, những kẻ được nhờ ơn Bồ Tát đích thân dẹp khổ ban vui, chẳng biết là bao nhiêu? Mãi cho đến ngày nay, ta vẫn còn là phàm phu, trên đã phụ bạc ân sâu Đại Sĩ cứu vớt, dưới ruồng rẫy Phật Tánh sẵn có của chính mình. Lặng im suy nghĩ, há chẳng thẹn đến chết ư? Ngài đã là trượng phu, ta cũng thế, chẳng nên tự khinh rồi lùi bước, thua sụt.

Do vậy, chuyển phàm tình để dõi theo dấu thánh, đánh đổ lòng ham muốn xằng bậy của chính mình để khôi phục lễ nghĩa, dứt lòng tà, giữ lòng thành, sốt sắng làm các điều lành thế gian, kiêm tu Tịnh nghiệp. Lâu ngày chầy tháng sẽ cùng được biến đổi. Bậc thượng sẽ liền có thể đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử ngay trong đời này; bậc hạ đến khi lâm chung, sẽ nương vào Phật từ lực, vãng sanh Tây Phương. Được như thế thì ai nấy đều giữ vẹn lễ nghĩa, ai nấy biết nhân quả, tự nhiên can qua vĩnh viễn dứt, nhân họa vĩnh viễn diệt, mưa nắng đúng thời, quyến thuộc trời thường giáng xuống. Nhiệm vụ căn bản trọng yếu để vãn hồi thế đạo nhân tâm như ông Đào đã nói có phải là đấy hay chăng? Nguyện cho người thấy, kẻ nghe đều cùng phát tâm ngưỡng mộ Đại Sĩ, gắng sức tu tập, may mắn vô cùng! Tán rằng:

      Quán Âm thệ nguyện diệu nan tư,

      Phó cảm ứng cơ bất thất thời,

      Cứu khổ tầm thanh từ hấp thiết,

      Hiện thân thuyết pháp nguyệt ấn trì,

      Trần sát quốc trung hàm sự tế,

      Sa Bà giới nội cánh thùy từ,

      Thâm ân cùng kiếp mạc năng tán,

      Ký mẫn quần manh phổ hộ trì.

      (Quán Âm thệ nguyện diệu khôn lường,

      Cảm ứng tùy cơ há trễ tràng,

      Cứu khổ tầm thanh: từ hút sắt[45],

      Hiện thân thuyết pháp: nước in trăng,

      Cứu vớt muôn sự trần sát cõi

      Sa Bà càng nặng tấm lòng Từ,

      Ân sâu hết kiếp khen sao trọn,

      Che chở quần manh khắp xót thương)

 

22. Lời tựa cho bản tu chỉnh Thanh Lương Sơn Chí

(năm Dân Quốc 22 - 1933)

 

      Văn Thù Bồ Tát đạo chứng Nhất Chân, đức vượt trỗi Thập Địa, nhập bí tạng Tam Đức, thường trụ trong Tịch Quang, nhưng do lòng cứu khổ ân cần, niệm độ sanh thiết tha, nên chẳng lìa cõi Tịch Quang, hiện thân trong các cõi nhiều như số vi trần, đủ mọi phương tiện độ thoát chúng sanh. Ngài là thầy của bảy đức Phật, là mẹ của các Bồ Tát, đấy vẫn là những sự thuộc về Tích Môn. Luận về Bổn Địa, nếu chẳng phải là đức Phật sẽ không thể biết được. Dù trọn hết các cõi nhiều như số vi trần trong một cõi nước, không cõi nào Ngài chẳng trụ, nhưng phàm phu chướng nặng không cách nào biết được diệu dụng, chiêm ngưỡng pháp phạm (khuôn mẫu về đạo pháp)! Vì thế, chẳng thể không vì kẻ sơ cơ bày ra một cuộc đất ứng hóa để họ có chỗ hướng về hòng gieo thiện căn xuất thế. Do vậy, từ xưa đến nay, Ngài cùng với một vạn Bồ Tát thường trụ tại núi báu Thanh Lương, diễn thuyết đạo Nhất Thật, đồng thời thị hiện đủ mọi thứ biến hóa thần dị chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho kẻ thiện căn chín muồi liền chứng chân thường, kẻ chưa chín muồi do đó sẽ được tăng trưởng.

Phải biết: Bồ Tát chẳng dấy niệm mà tùy cơ thị hiện thuyết pháp, trọn chẳng khác biệt gì! Như vầng trăng giữa trời, in bóng trong các chỗ có nước. Chẳng những sông to rạch lớn mỗi nơi đều hiện một vầng trăng, ngay cả một chước[46], một giọt cũng đều hiện một vầng trăng. Vầng trăng trong sông rạch, một người nhìn vào chỉ thấy một vầng trăng; trăm ngàn vạn người ở trăm ngàn vạn nơi nhìn vào, ai nấy cũng đều thấy một vầng trăng. Nếu con người đi qua phía Đông, trăng cũng theo sang Đông. Nếu ai đi sang Tây, trăng cũng theo sang Tây. Nếu con người đứng yên, trăng cũng bất động. Sắc pháp trong thế gian còn hay khéo như thế, huống là bậc Bồ Tát triệt ngộ duy tâm, viên chứng tự tánh, vận lòng Bi đồng thể, khởi lòng Từ vô duyên ư? Sợ những kẻ câu nệ hẹp hòi thấy tất cả những chuyện thần diệu trong Sơn Chí sẽ ôm lòng ngờ vực, cho nên mới bày tỏ căn cội. Hiểu được điều này thì đọc khắp kinh điển Đại Thừa sẽ chẳng đến nỗi kinh nghi, sợ hãi, chẳng uổng công đọc bộ Sơn Chí này để làm phương tiện dẫn đường! Bộ Sơn Chí cũ được pháp sư Trấn Trừng[47] tu chỉnh vào thời Vạn Lịch nhà Minh nói chung rất hay, nhưng trong ấy có những lỗi chưa khảo cứu tường tận. Lúc ấy, [các vị] Hám Sơn, Tử Bách, Diệu Phong đều là bạn thiết, chẳng những có quan hệ lớn lao với núi này, mà thật ra còn có quan hệ lớn lao với Phật pháp, thế đạo, [nhưng trong Sơn Chí] đều chẳng thuật truyện các Ngài! Dưới thời Khang Hy đời Thanh, lại có người tu chỉnh, trọn chẳng tham khảo rộng khắp, đối với những phần văn tự quan hệ lớn lao lại mặc tình cắt xén; do vậy, chẳng được lưu truyền. Nay y theo bộ Sơn Chí đời Minh, khảo cứu, hiệu đính, bổ túc, tu chỉnh đại lược mà thôi! Mùa Xuân năm ngoái, một đệ tử là Lý Viên Tịnh nói:

- Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng, bốn đại Bồ Tát quả thật là chỗ nương cậy cho hết thảy chúng sanh. Thầy ở tại Phổ Đà từng thỉnh cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh soạn Quán Âm Bổn Tích Tụng, nêu rõ ân sâu đức nặng của ngài Quán Âm thật là chu đáo! Thầy lại còn sửa chữa bản Phổ Đà Chí do ông Vương Nhã Tam đã tu chỉnh, sao chẳng đem Sơn Chí của Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa tu chỉnh đúng theo lệ ấy? Huống chi Thanh Lương Chí không thỉnh ở đâu được, nhưng thể tài còn khá, chứ Nga Mi Chí thì chỉ chú trọng đến thế núi, vẫn chẳng chú trọng nêu tỏ đạo của ngài Phổ Hiền. Cửu Hoa Chí càng đau lòng đáng than hơn nữa! Đang trong lúc thế đạo, lòng người suy yếu đến cùng cực này, cố nhiên càng phải khăng khắng sửa chữa cho lưu thông hòng làm căn cứ vãn hồi vậy!

Do vậy, bèn quên mình hèn tệ, gắng sức theo đuổi, bèn thỉnh ông Hứa Chỉ Tịnh trình bày những nét chánh, còn việc tu chỉnh, sửa chữa do Quang đảm nhiệm. Việc giảo chánh, đối chiếu do thầy Đức Sâm lo. Nay đã hoàn thành bản thảo, dẫu chưa thể nêu tỏ lớn lao, nhưng cũng bổ túc không ít. Đối với những chuyện gần đây, do thân chẳng ở nơi ấy, lại tuổi đã “sáng không bảo đảm được chiều”, cũng chẳng dám cậy người hỏi dò. Sợ chưa tập hợp được [đầy đủ tài liệu] mà người đã mất, đến nỗi trở thành chuyện nói xuông. Vì thế để lại những chuyện gần đây cho bậc thông suốt đời sau [tu chỉnh]!

Nhớ năm Quang Tự 13 (1887) khi trước, tại núi Hồng Loa, xin nghỉ phép đi triều bái Ngũ Đài (tức tên khác của Thanh Lương), muốn thỉnh Thanh Lương Sơn Chí, tới xưởng lưu ly ở kinh đô, hỏi khắp các tiệm bán sách cũ, chỉ tìm được một bộ, do vậy bèn mua về. Nay cho ấn hành lưu thông để người đời sau dễ tìm được hầu cởi gỡ mối tiếc nuối của chính mình thì may mắn nào hơn! Ngũ Đài tuy là đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát, nhưng chưa hề thấy khi niệm [danh hiệu] Bồ Tát bèn cất lên lời tán tụng. Mùa Hạ năm nay, một vị sư ở Hoa Nghiêm Lãnh là Tĩnh Thê xin tôi viết một bài tán để nghi thức niệm tụng được đầy đủ, bèn ghép thành tám câu gởi cho thầy ấy. Tán rằng:

      Văn Thù Bồ Tát đức nan lượng,

      Cửu thành Long Chủng Thượng pháp vương

      (Long Chủng Thượng Phật chính là danh hiệu khi ngài Văn Thù thành Phật trong một đời thuộc quá khứ. Long Chủng Thượng Tôn Vương trong Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh lại là một đức Phật khác, chẳng thể lầm lẫn dùng làm dẫn chứng được!)

      Nhân mẫn chúng sanh mê tự tánh,

      Đặc phụ Thích Ca chấn huyền cương,

      Vi thất Phật sư thể mạc trắc,

      Tác Bồ Tát mẫu dụng vô phương,

      Thường trụ Tịch Quang ứng chúng cảm,

      Vạn xuyên nhất nguyệt ảnh hàm chương

      (Văn Thù Bồ Tát đức khôn lường,

      Quá khứ thành Phật Long Chủng Thượng,

      Do thương chúng sanh mê tự tánh,

      Riêng giúp Thích Ca mở đạo huyền,

      Thầy bảy vị Phật thể khôn thấu,

      Mẹ chư Bồ Tát dụng khôn ngằn,

      Thường trụ Tịch Quang ứng mọi cảm,

      Muôn sông trăng hiện bóng muôn gương)

 

23. Lời tựa bản tu chỉnh Nga Mi Sơn Chí

(năm Dân Quốc 23 - 1934)

 

      Phổ Hiền Bồ Tát đạo chứng Nhất Chân, đức viên mãn Lưỡng Túc[48], trụ cõi Tịch Quang, nhưng hưng khởi lòng Từ, vận dụng lòng Bi, phù tá đấng Thiện Thệ dùng quả để tu nhân. Trọn đủ toàn thể của đức Giá Na[49], thị hiện thuộc địa vị Bổ Xứ, kết quy đại nghĩa Hoa Nghiêm chỉ về Tây Phương. Tuy trọn hết mười phương pháp giới, nhưng không nơi nào chẳng trụ trong chân cảnh. Hòn núi Đại Quang Minh này thật ra là đạo tràng ứng hóa vậy. Xét đến ý nghĩa đặt tên thì chính là vì Phật quang hiện trong ban ngày, thánh đăng xuất hiện trong đêm, xưa nay vẫn thường chẳng hề ẩn diệt cho đến tận đời vị lai hòng khơi gợi quần sanh. Do vậy, núi báu Nga Mi[50] này còn gọi là Đại Quang Minh. Một tên đặt theo hình thế [của núi], tên kia đặt theo thánh tích, cố nhiên chẳng có nhân duyên gì khác, nhưng những kẻ không biết đến đức tướng của Bồ Tát, cứ muốn dựa vào lời kinh để làm bằng chứng rất thuyết phục, bèn lầm lạc dẫn [câu kinh trong] phẩm Bồ Tát Trụ Xứ của kinh Hoa Nghiêm: “Phương Tây Nam có chỗ tên là Quang Minh Sơn, từ xưa đến nay các vị Bồ Tát trụ ở trong đó, hiện đang có vị Bồ Tát tên là Hiền Thắng và các vị Bồ Tát quyến thuộc ba ngàn người cùng thường trụ trong ấy để diễn thuyết pháp”.

Đức Như Lai ở bên Thiên Trúc, thành Đẳng Chánh Giác tại nước Ma Kiệt Đề, giảng kinh Hoa Nghiêm lần lượt tại bảy chỗ, [tổng cộng] chín hội. Hội đầu tiên được nói tại Bồ Đề Tràng. Hội thứ hai, hội thứ bảy, hội thứ tám đều giảng trong điện Phổ Quang Minh. Điện này cũng nằm trong Bồ Đề Tràng. Phẩm Bồ Tát Trụ Xứ là một phẩm được giảng trong hội thứ bảy. Trước hết, nói đến bốn phương Đông, Nam, Tây, Bắc, rồi đến bốn phương bàng Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc. Thứ tự của các phương vị rạch ròi chẳng loạn. Những kẻ ấy thấy có ba chữ “Quang Minh Sơn” liền tưởng [ngọn núi ở] phía Tây Nam [được nói trong kinh Hoa Nghiêm] ấy chính là Nga Mi của nước Chấn Đán (Trung Hoa), [vì Nga Mi] nằm ở phía Tây Nam Trung Quốc. [Đối với câu kinh] “nay có Bồ Tát tên là Hiền Thắng”, bèn lầm lạc chú thích rằng: “Tức là Phổ Hiền”. Đức Phổ Hiền còn có tên là Biến Cát, chưa hề thấy Ngài còn có tên là Hiền Thắng! Viện dẫn kinh nhưng trái nghịch kinh sâu xa, ấy là muốn làm cho người khác sanh lòng tin lại ngược ngạo khiến cho người ta dấy lòng nghi!

Chẳng biết: Dẫu [vận dụng] trí huệ của Như Lai hết cả kiếp cũng chẳng thể nói hết đức tướng của ngài Phổ Hiền! Trong tám mươi mốt quyển của bộ kinh Hoa Nghiêm, thần thông, trí huệ, đức tướng, đạo đức, công nghiệp của Phổ Hiền Bồ Tát được phô diễn rõ ràng đến hơn mười quyển! Nếu bỏ công nghiên cứu một chút, há chịu dẫn giải sai lầm! Giống như chỗ Luân Vương ngụ chính là vương đô (kinh thành), chỗ được quang minh chiếu đến sẽ trọn chẳng tối tăm. Do vậy, trong bộ Sơn Chí hiện tại, đặc biệt lập ra một môn gọi là Bồ Tát Thánh Tích. Trong môn ấy, chia thành sáu chương:

1) Một là Thích Danh, [tức phần] giải thích đại lược ý nghĩa danh hiệu Phổ Hiền.

2) Hai là Tu Chứng: Trích lục hai kinh Bi Hoa và Lăng Nghiêm để chỉ rõ nhân địa và công phu tu chứng của Bồ Tát. Theo kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới[51] thì Bồ Tát thành Phật đã lâu, bổn địa của Ngài nếu chẳng phải là Phật sẽ không thể biết được.

3) Ba là Đức Tướng: Trích dẫn đại lược [những đoạn] kinh Hoa Nghiêm xưng tán Bồ Tát thần thông đạo lực chẳng thể nghĩ bàn.

4) Bốn là Pháp Yếu: Nêu đại lược những pháp trọng yếu do Bồ Tát đã nói, nhưng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc, khuyên Thiện Tài và khắp Hoa Tạng hải chúng nhất trí tiến hành hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ngõ hầu viên mãn Phật Quả, đấy chính là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, biết một quyển kinh này rộng mở pháp môn Tịnh Độ, quả thật là pháp môn Tổng Trì thành thủy thành chung để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, phàm lẫn thánh đều cùng nhiếp thọ, hành nhân đời Mạt đều nên y chỉ. Vì thế, sao lục toàn văn để mong [mọi người] cùng chứng Liên Bang.

5) Năm là Lợi Hành: Trích lục kinh Pháp Hoa, kinh Quán Phổ Hiền Hành Pháp[52] để nêu đại lược những chuyện Bồ Tát bảo vệ, che chở hành nhân.

      6) Sáu là Ứng Hóa: Chỉ rõ Bồ Tát chứng trọn cùng pháp giới, tùy loại hiện thân trong mười phương pháp giới, nên dùng thân nào để độ được bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Vì vậy, mười phương pháp giới [chỗ nào] cũng đều có thể là đạo tràng của Bồ Tát; nhưng Ngài muốn cho chúng sanh có chỗ để gieo lòng thành nên mới đặc biệt thị hiện ứng hóa ở núi Nga Mi. Phải biết: Bồ Tát ứng hóa gồm có Phổ và Chuyên. Phổ là đại chúng đều được đích thân trông thấy, Chuyên là chỉ có chính mình tự hiểu rõ trong tâm. Ví như hiện tướng trên chót mây, mọi người đều cùng thấy; [Bồ Tát hiện] tướng đứng với viên quang trùm thân, dẫu có rất nhiều người cùng đứng sát bên nhau nhưng mỗi người mỗi thấy thân [Bồ Tát hiện cho] chính mình, chẳng thấy thân [hiện cho] người khác. Đối với hai điều này, đủ biết Bồ Tát thần thông ứng hiện không ngằn mé; phàm phu, Nhị Thừa chẳng thể suy lường được! Đã có những nghĩa chẳng thể nghĩ bàn như thế, cần gì cứ phải lầm lạc dẫn kinh văn để tự vu báng, trở thành trò cười cho người khác ư?

Những điều được chép trong bộ Sơn Chí cũ sai lạc rất nhiều. Như với truyện Thiên Tuế Bảo Chưởng[53] trong quyển hai, nơi phần Nêu Tỏ Ý Nghĩa Các Kinh đã nói: Trước năm Quý Hợi (63) thuộc niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán, [Thiên Tuế Bảo Chưởng] đã trụ tại núi này, Bồ Công thấy dấu chân nai giống như hoa sen, liền theo đường tắt đến hỏi chuyện ngài Bảo Chưởng. Ngài Bảo Chưởng dạy [Bồ công] qua Lạc Dương hỏi đạo với hai vị sư Ma Đằng và Pháp Lan. Năm Giáp Tý, Bồ Công qua Lạc Dương, yết kiến hai vị Sư. [Người biên soạn Sơn Chí] chẳng biết Giáp Tý (64) chính là năm thứ bảy đời Hán Minh Đế (58-75), [năm ấy, vua] mới sai Thái Âm, Tần Cảnh, Vương Tuân v.v… sang Tây Vực tìm kiếm Phật pháp. Đến năm Đinh Mão (67), tức năm thứ mười [đời Hán Minh Đế], hai vị Sư mới theo những người ấy đến Lạc Dương. Theo truyện Bảo Chưởng trong Truyền Đăng Lục, ngài Bảo Chưởng đến Trung Quốc vào năm Kiến An hai mươi bốn (219) đời Hiến Đế (196-220) nhà Đông Hán. Vào thời Ngụy - Tấn, Sư vào đất Thục lễ đức Phổ Hiền, ở lại chùa Đại Từ. Trong bản Sơn Chí cũ, truyện này chỉ bỏ đi một câu “Đông Hán, Hiến Đế…”, sao chẳng lấy điều này để chứng tỏ sự sai ngoa trong phần trên? Cả hai cảnh ấy đều còn mà vẫn chẳng thể nói ai đúng, ai sai được ư?

Trí Giả đại sư cả đời chẳng đến Tây Thục, mà [bản Sơn Chí cũ] cũng lập truyện. Lại còn nói đại sư với tôn giả Mậu Chân, Tôn Chân Nhân, đấu cờ vây trên bàn cờ khắc trên tảng đá dưới chân ngọn Hô Ứng. Lại còn dựng Hô Ứng Am để ở, đều dùng tiếng hô, tiếng đáp trong khi đấu cờ vây để đặt tên cho ngọn núi và am! Kẻ đặt ra thuyết này chẳng những không biết gì về ngài Trí Giả, mà còn hoàn toàn chẳng thông Phật pháp. Ngài Trí Giả cả đời đem thân phụng sự pháp, làm gương mẫu cho hàng hậu học, làm sao có thể hằng ngày cùng với ông tăng, đạo sĩ nhàn tản thường làm chuyện phạm giới cấm nhà Phật, vui chơi, đánh mất chí hướng cho được?

Ngài Huyền Trang sanh vào năm Giáp Tý, tức năm Nhân Thọ thứ tư (604) đời Tùy Văn Đế. Anh Ngài là Tiệp pháp sư cho Ngài đi xuất gia, sống tại chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương. Năm 15 tuổi, do nhà Tùy sụp đổ, bèn đến Trường An, khi ấy nhà Đường mới thành lập, vẫn còn nhiều chuyện chưa thể giải quyết xong, chưa rảnh rỗi để hoằng pháp được. Ngài cùng với anh qua Thành Đô cầu học, chẳng bao lâu, tiếng tăm lan xa. Năm Vũ Đức thứ năm (622), thọ giới Cụ Túc ở Thành Đô. Sư tính lên kinh đô để mong nghe được những điều chưa từng nghe. Bị anh giữ lại, Sư bèn lén ra đi, theo đường Tam Hiệp đến Hán Dương, tới Tương Châu, theo đuổi chuyện cầu học, hoằng pháp. Sau đó đến Trường An, muốn theo gót các vị Pháp Hiển, Trí Nghiêm, bèn kết bạn, dâng sớ xin qua Tây Vực để cầu những kinh chưa có [tại Trung Hoa]. Thuở ấy, cõi đời mới thái bình, Trung Hoa và ngoại quốc còn chưa qua lại, nên vua xuống chiếu không chuẩn tấu. Mọi người đều ngã lòng, riêng Sư chẳng khuất phục, vào tháng Tám năm Trinh Quán thứ ba (629) bèn lén ra đi, suốt cả mười bảy năm mới trở về Trung Quốc. Đến Vu Điền[54], Sư liền sai người dâng biểu lên Đường Thái Tông. Thái Tông ưu ái xuống chiếu đáp lời, lại còn hạ lệnh cho các quan chức có trách nhiệm dọc theo đường đi đều phải hộ vệ, đưa đón. Sư nghe vua muốn hỏi tội xứ Liêu Tân, sợ trùng trình sẽ chẳng gặp được [nhà vua] bèn lên đường đi suốt ngày đêm. Từ Lưu Sa đến Sa Châu, đều do đường Cam Túc mà đến, vua sắc các quan chức có trách nhiệm phải chuẩn bị nghi trượng nghênh tiếp. Đột nhiên Sư đã đến Tây Tào của kinh thành, vị quan chịu trách nhiệm nơi đó không biết xoay trở ra sao! (Do căn cứ theo hành trình mà chuẩn bị nghi trượng, nhưng vì Sư đi suốt ngày đêm nên mới đón hụt). Từ đấy, hằng ngày Sư lo phiên dịch. Sự nghiệp chưa hoàn tất đã tịch, lẽ nào có chuyện Ngài còn trở sang Tây Vực, đến động Cửu Lão núi Nga Mi, gặp đức Thánh nói kệ, truyền dạy kinh ư? Chỉ vì đời đã xa, người đã khuất, qua bao lượt biển dâu, sách vở thất lạc, thiếu chứng cứ đến nỗi đem chuyện sai lầm truyền tụng sai lầm, không cách nào khảo cứu để sửa cho đúng được, nên mới thành ra như thế!

Vào cuối đời Minh, ông Hồ Thế An[55] thích đi chơi núi, tuy tin Phật, nhưng chẳng lắng lòng nghiên cứu. Vì vậy, thâu thập rộng rãi những sáng tác nghệ thuật, biên tập thành bộ sách Dịch Nga Lại, thật ra [Dịch Nga Lại] chính là công trình sưu tập văn học[56] cho bộ Sơn Chí của Tưởng Hổ Thần đời Thanh. Hổ Thần tự cho là bộ Dịch Nga Lại [đã thâu thập hết những trước tác] chẳng sót một chữ nào, nhưng những gì ông ta sao lục chẳng ngoài mô tả những ngọn núi chót vót, vách núi đẹp tót vời, tình huống gió mây biến chuyển, chùa chiền hưng thịnh hay suy sụp mà thôi! Còn đối với nguyên do đức Phổ Hiền khởi lòng Từ, vận lòng Bi và tại sao tứ chúng cạn lòng thành tận lòng kính thì vẫn chưa thể hình dung được chút nào; huống hồ là quang cảnh rạng ngời nơi bổn địa của Bồ Tát, tâm tứ chúng khế hợp biển giác thì làm sao có thể hình dung cho được?

Thêm nữa, núi này xưa kia có [quán, miếu của] Đạo Giáo. Từ khi đại pháp hưng thịnh, họ lần lượt trở về với lẽ chân. Quả sáng diệt yêu quái, chói ngời dựng chùa nơi ngọn núi Trung Ương. Bọn khoác áo lông (đạo sĩ) cảm đức, lũ đội mão vàng trở thành Tăng sĩ mặc áo thâm. Từ đấy, nhất trí tiến hành, quy y Tam Bảo, Đạo giáo mất tăm mất tích đã hơn một ngàn năm. Đối với những chuyện về đức Phổ Hiền và bậc cao tăng thuở trước đã có kinh truyện để khảo chứng mà bộ Sơn Chí cũ vẫn còn [ghi chép] lắm [điều] sai ngoa, huống hồ là những sự thực về Đạo Giáo vốn bị tuyệt tích đã lâu, há lại chẳng thể sai ngoa được ư? Hoàng Đế[57] đến núi Không Động, hỏi đạo với Quảng Thành Tử[58], [như đã] chép trong thiên Tại Hựu sách Trang Tử thì làm sao lại có thể đến núi Nga Mi hỏi đạo nơi Thiên Hoàng chân nhân cho được?

Thiên Hoàng chân nhân chính là Quảng Thành Tử! Hoàng Đế là người có trách nhiệm với thiên hạ, đâu thể nào sánh với tăng sĩ hay đạo sĩ nhàn tản, tùy ý vân du! Đã đến Không Động hai lần, ắt có sở ngộ. Dẫu cho Quảng Thành Tử dời sang sống tại Nga Mi, lẽ nào Hoàng Đế lại tới Nga Mi? Huống chi đường sang đất Thục gian nan, đến nay vẫn còn nghe tiếng than vang dậy. Trong thời Hoàng Đế, chẳng lẽ không khó khăn hơn hiện thời trăm ngàn lần ư? Vì thế, biết những điều ghi chép ấy đều là bịa đặt. Dẫu cho cực đích xác đi nữa, cũng chẳng liên quan khẩn yếu, bởi những pháp được nói ấy đều là pháp thuộc về Nhân thừa và Thiên thừa trong Phật pháp. Đạo giáo ở Nga Mi đã tuyệt tích từ lâu, sao lại còn lập riêng pháp ấy để đến nỗi đời sau bị phân vân đôi đường, chẳng biết theo ngả nào? Bởi thế, đem những chuyện ghi chép ấy bỏ đi gần hết, hòng giương cao Phật nhật thích hợp khắp ba căn, chắc cũng được Thiên Hoàng chân nhân tán thành, chấp thuận!

Quang là một ông Tăng tầm thường, sao dám dối xưng là bậc thông gia hòng tu chỉnh [bốn bộ] Sơn Chí của Tứ Đại Danh Sơn! Nhưng do ở đậu núi Phổ Đà hơn ba mươi năm; năm Dân Quốc 11 (1922), Tri Sự huyện Định Hải là ông Đào Tại Đông đề xướng tu chỉnh bộ Phổ Đà Sơn Chí, thỉnh bậc túc nho trong vùng là tiên sinh Vương Nhã Tam chủ trì việc ấy. Đối với đạo Nho, có thể xưng tụng ông Vương là bậc bác lãm, nhưng đối với đạo Phật ông ta chưa hề nắm được đường lối. [Ông ta] tu chỉnh Sơn Chí xong, bậc kỳ túc trong núi sai Quang sửa chữa lại. Gần đây, Quang do khắc in các sách trọn chẳng được rảnh rỗi. Đến năm Dân Quốc 19 (1930), yểm quan tại thành Tô Châu, mới in ra sách, thì một đệ tử là Lý Viên Tịnh, nhiệt tâm làm chuyện công ích, nói: “Phổ Đà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa là Tứ Đại Danh Sơn của Trung Quốc, thầy đã sửa đổi bộ Phổ Đà Sơn chí thỏa đáng rồi đem ấn hành, nhưng ba bộ Sơn Chí của Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa cũng chớ nên mặc kệ không quan tâm đến!”

Do vậy, đặc biệt cầu thỉnh người trước kia đã soạn Quán Âm Bổn Tích Cảm Ứng Tụng, Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ, và Phật Học Cứu Kiếp Biên là một đệ tử quy y ở Bành Trạch tỉnh Giang Tây tức cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh soạn cương yếu. Quang chỉ đảm nhiệm việc cắt xén cho thỏa đáng và ấn hành, còn việc giảo chánh đưa về cho vị hiện đang ở nơi xa lãnh nhiệm vụ Trụ Trì chùa Thọ Lượng ở Cám Châu là pháp sư Đức Sâm và cư sĩ Trần Vô Ngã. Thanh Lương Chí đã in thành sách vào năm ngoái. Nga Mi Chí chẳng bao lâu nữa cũng sẽ cho ấn hành. Cửu Hoa Chí chắc là trong khoảng từ Xuân sang Hạ năm sau sẽ in ra được. Bốn bộ Sơn Chí cũ chỉ có Thanh Lương Chí là hay nhất, kế đến là Phổ Đà Chí, Nga Mi Chí lại kém hơn nữa, Cửu Hoa Chí đứng hạng bét. Ấy là vì ba bộ Sơn Chí đều do hạng Nho sĩ chẳng thông hiểu Phật học sửa chữa, mới đến nỗi mua rương trả lại ngọc[59], kính trọng lính hầu, khinh mạn chủ nhân, chỉ dốc sức [miêu tả] hình thế núi non huyễn vọng, chẳng hình dung được chỗ Bồ Tát khởi lòng Từ, vận lòng Bi cứu khổ, ban vui. Chú trọng đến núi, chẳng chú trọng vào Phật, làm việc điên đảo. Tuy có Sơn Chí nhưng chẳng thể làm cho người thấy, kẻ nghe tăng trưởng thiện căn, gieo nhân Bồ Đề. Đấy là chỗ ngụ ý sâu xa của bộ Sơn Chí hiện thời, nên tôi trình bày đại lược ý ấy. Nhưng vì chẳng phải là người đích thân trải qua cảnh sắc nơi ấy, nên chẳng thể hỏi han tường tận được, chỉ dựa theo bộ Sơn Chí cũ và các kinh truyện để tra cứu, điều chỉnh. Đối với những bậc danh đức gần đây và những kiến trúc mới đều nhất loạt chẳng ghi thêm vào, để khỏi vướng lỗi sót tên bậc danh đức, bị chê bai “ghi tên một vị để sót cả vạn”. Người sáng mắt hiểu biết ắt sẽ lượng thứ cho!

 

24. Lời tựa tu chỉnh Cửu Hoa Sơn Chí

(năm Dân Quốc 26 - 1937)

 

      Chân Như Phật Tánh, chúng sanh và Phật đồng thể, tại phàm chẳng giảm, nơi thánh không tăng. Dẫu Tánh Đức tuy đồng, Tu Đức khác biệt, nên đến nỗi chúng sanh và Phật khác xa, khổ - vui khác biệt vời vợi! Chư Phật vì thuận tánh tu hành, do đấy bỏ vọng về chân, trái trần hợp giác, đoạn sạch Phiền Hoặc, triệt chứng Chân Như Phật Tánh sẵn có trong chính cái tâm này. Vì thế, được yên trụ trong Tịch Quang, vĩnh viễn hưởng pháp lạc Niết Bàn thường trụ. Chúng sanh vì nghịch tánh mà tu, do vậy mê chân đuổi theo vọng, trái giác hiệp trần, khởi Hoặc tạo nghiệp, hoàn toàn bị mê nơi Chân Như Phật Tánh sẵn có trong chính cái tâm này. Do vậy, thường trụ trong Sa Bà, luôn chịu nỗi khổ huyễn vọng luân hồi trong sáu nẻo. Do chư Phật thấy chúng sanh về tâm thể thì đồng nhưng tâm tướng lại khác, nên thương xót khôn ngằn, chẳng nài khổ nhọc, phát hoằng thệ nguyện độ thoát chúng sanh, bởi coi hết thảy chúng sanh đều là Phật vậy! Vì thế, kinh Phạm Võng nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. Lại nói: “Ông là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành. Thường tin được như vậy thì giới phẩm đã trọn đủ”. Bởi lẽ, nếu đã tin chính mình là Phật trong tương lai, chắc chắn sẽ chẳng chịu tùy thuận phàm tình tạo nghiệp sanh tử, chắc chắn lập tức tin nhận lời Phật dạy, tu đạo Bồ Đề.

Có kẻ mê muội cạn, túc căn sâu xa, vừa nghe lời Phật dạy, liền được liễu ngộ, tin nhận phụng hành. Có những kẻ mê muội sâu xa, túc căn nông cạn, vừa nghe lời Phật dạy, liền ngược ngạo sanh lòng phỉ báng, hoặc còn hủy diệt cho hết sạch chẳng còn sót gì, bởi họ coi Phật là chúng sanh vậy! Dùng cái tâm chúng sanh tham - sân - si của chính mình để suy lường tâm Phật, cho những gì Ngài đã nói đều là những lời dối trá nhằm lừa bịp ngu phu ngu phụ tuân phụng giáo pháp của Phật, hoàn toàn chẳng chân thật, chẳng thể tin cậy được! Nếu tin theo sẽ vĩnh viễn đi vào nẻo mê, không cách gì thoát ra được. Đối với loại chúng sanh ấy, tâm chư Phật trọn chẳng có một niệm vứt bỏ, càng sanh lòng xót thương yêu tiếc gấp bội. Như kẻ mắc bệnh cuồng, đánh chửi cha mẹ, cha mẹ chẳng trị tội mà lòng càng thêm thương xót, biết hắn đã mất bản tâm rồi! Nếu lành bệnh cuồng sẽ tự chẳng mắc lỗi ấy.

Nếu là kẻ mê cực sâu, từ kiếp này sang kiếp khác cũng khó tỉnh ngộ, cho nên chư Phật thệ nguyện “độ thoát chúng sanh đến hết đời vị lai”, những vị Bồ Tát đã chứng Pháp Thân không vị nào chẳng đều như vậy. Những kẻ do tự tư tự lợi bèn báng Phật nếu biết được nghĩa này há chẳng thẹn đến chết ư? Kẻ mê cạn, túc căn sâu xưa nay chẳng thiếu người. Nay nêu lên những trường hợp đặc sắc nhất, như Thừa Tướng Trương Thương Anh đời Tống, cư sĩ Chung Đại Lãng thời Minh.

Thương Anh thoạt đầu chẳng biết đến Phật pháp, do đến chơi một ngôi chùa, thấy kinh Phật trang nghiêm thù thắng, giận dữ nói: “Sách của người Hồ lại được trang nghiêm như vậy, sách của bậc thánh nước ta vẫn chưa thể sánh bằng”. Tối đến, cầm bút, rên rỉ, không viết được một bài nào. Phu nhân là Hướng Thị khá tin Phật, thấy vậy bèn hỏi chồng rên rỉ về chuyện gì. Ông đáp: “Ta định viết bài luận [chứng minh] không có Phật”. Phu nhân nói: “Đã là không có Phật, cần gì phải luận nữa! Mà ông đã từng đọc kinh Phật chưa vậy?” Đáp: “Ta đời nào chịu đọc loại kinh ấy!” Phu nhân nói: “Đã chưa đọc kinh của người ta thì dựa vào ý nghĩa nào để luận định đây!” Ông bèn thôi. Sau đấy, ở chỗ bạn đồng liêu, thấy trên bàn có cuốn kinh Duy Ma Cật bèn ngẫu nhiên mở ra xem, cảm thấy từ lý cao siêu, tuyệt diệu, nhân đấy bèn thỉnh về đọc cho hết. Chưa được quá nửa, bèn sanh lòng hối hận, ngộ đạo lớn lao, phát nguyện hết báo thân này hoằng dương pháp hóa. Đối với Giáo lẫn Tông thảy đều tâm đắc, soạn cuốn Hộ Pháp Luận cực lực tán dương, [luận ấy] được đưa vào Đại Tạng. Ông ta vào triều làm Thừa Tướng đời Tống Huy Tông, lúc ấy hạn hán đã lâu, ngay đêm đó trời liền đổ mưa ngọt lai láng, Huy Tông viết hai chữ to “Thương Lâm” thưởng cho ông. Ấy là lấy ý nghĩa trong thiên Thuyết Mạng của sách Thương Thư: “Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm vũ” (Như gặp năm bị hạn hán to, dùng ngươi như được trận mưa dầm) để khen ngợi vậy.

Chung Đại Lãng[60] người trấn Mộc Độc, Tô Châu, cha mẹ cầu đảo Quán Âm sanh được ông. Thuở nhỏ theo cha mẹ lễ tụng, nhưng đến khi đi học, nghe được cái học của đạo Nho bèn lấy việc hoằng dương đạo Nho làm trách nhiệm của chính mình. Do vậy, chẳng những không lễ tụng mà còn tự tiện viết văn báng Phật. Về sau, đọc bài tựa cuốn Tự Tri Lục của Liên Trì đại sư mới biết hổ thẹn, chẳng còn báng Phật nữa. Đọc Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh, ông liền phát tâm học Phật làm cư sĩ, rồi nghiên cứu các sách của Thiên Thai và Thiền Tông, mỗi mỗi đều có sở đắc, bèn lễ môn nhân[61] của Hám Sơn đại sư xin xuất gia, pháp danh là Trí Húc, tự là Ngẫu Ích. Giới hạnh trong sạch như băng tuyết, kiến địa sáng tỏ như nhật nguyệt, nhưng Ngài chú trọng một pháp Tịnh Độ. Do chúng sanh đời Mạt chẳng nương theo Phật lực, quyết khó thể liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Cả đời hoằng pháp, chẳng làm Trụ Trì, [do] thường ngụ tại chùa Linh Phong ở núi Bắc Thiên Mục nên người đời sau thường gọi ngài là Linh Phong, chứ thật ra Ngài chẳng phải là chủ nhân của Linh Phong!

Như bọn Hàn, Âu báng Phật, chỉ căn cứ theo những hành vi luân thường gần gũi của đạo Nho và lấy lễ nhạc, hình phạt, sự cai trị để luận, trọn chẳng dẫn kinh văn nhà Phật để luận. Do vậy, biết những lời chê bai của bọn họ đều là chưa thấy màu sắc đã bàn luận mù quáng. Họ Hàn (Hàn Dũ) do gặp được thiền sư Đại Điên[62], họ Âu (Âu Dương Tu) do gặp được đại sư Minh Giáo[63] mới hơi biết về Phật, nên chẳng thể hoằng dương như họ Trương, họ Chung được! Nhưng những ông Châu, Trình, Trương, Châu đời Tống là người tiếp nhận được đạo tâm truyền của Khổng Mạnh xét về nguồn gốc đều do học Phật mà được. Ông Châu Mậu Thúc người cực thuần hậu, trọn chẳng báng Phật một chữ. Hai ông Trình, họ Trương và họ Châu[64] thì ngấm ngầm khâm phục, ngoài mặt chống đối, họ lấy những ý nghĩa sâu thẳm trong kinh Phật để giải thích kinh điển đạo Nho, sợ người đời sau bảo những gì họ nói đều phát xuất từ kinh Phật bèn cực lực báng bổ thật sự, thật lý “nhân quả ba đời, luân hồi sáu nẻo” do đức Phật đã nói, cho là Phật bịa chuyện để làm căn cứ gạt gẫm ngu phu, ngu phụ tin thờ giáo pháp của Phật, chứ thật sự không hề có chuyện ấy!

Từ đấy trở đi, phàm là nhà Nho đều chẳng dám nói đến nhân quả, sợ bị người khác công kích là dị đoan. Phàm bọn Lý Học đều lén lút xem kinh Phật để tự hùng, nhưng đều cực lực báng Phật để tự củng cố [địa vị, danh tiếng], đến nỗi càng lúc càng đi xuống, cho nên mới diễn ra thảm kịch tai họa liên miên, dân không lẽ sống! Nếu như mọi người đều đề xướng nhân quả sẽ hoàn toàn chẳng đến nỗi cùng cực như thế này. Nhân quả là phương tiện lớn lao để thánh nhân trị thiên hạ, để chư Phật độ chúng sanh. Bỏ nhân quả đi sẽ không thể lập ra cách nào khác được! Nay đời loạn đến cùng cực, mong cõi đời yên ổn, mà nếu vẫn chẳng lấy nhân quả làm gốc thì cái họa mai sau sẽ còn thê thảm kịch liệt hơn nữa!

Cửu Hoa Sơn là đạo tràng ứng hóa của Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát trong vô lượng kiếp trước đã chứng Pháp Thân từ lâu, đã thành Phật đạo, nhưng chẳng ở địa vị Phật. Do phát nguyện “độ hết chúng sanh mới chứng Bồ Đề, địa ngục chưa trống thề chẳng thành Phật”, tâm xót thương chúng sanh chịu nỗi khổ sanh tử sâu đậm, thiết tha không cách nào diễn tả được! Vì thế, khi đức Phật vì mẹ thuyết pháp trên cung trời Đao Lợi, mười phương thế giới chư Phật, Bồ Tát, thiên long bát bộ đều đến dự hội, dẫu dùng Phật nhãn vẫn chẳng thể tính biết được! Những vị Phật, Bồ Tát ấy đều do ngài Địa Tạng giáo hóa nên mới đắc đạo quả, nhưng ngài Địa Tạng vẫn hiện thân dưới hình thức Thanh Văn. Ngoài việc hiện đủ mọi loại thân để thuyết pháp trong mười phương thế giới ra, Ngài lại thường trụ trong chốn u minh khổ sở tột bậc để cứu độ. Mười phương chư Phật, Bồ Tát không vị nào chẳng tán thán tấm lòng sâu thẳm “hưng lòng Từ, vận lòng Bi” của Ngài. Đại sư Ngẫu Ích vừa đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện liền phát đại Bồ Đề tâm, do đức Địa Tạng là thầy của chư Phật, là mẹ của các Bồ Tát vẫn còn miệt mài chuyên chú độ bọn ta, nếu [bọn ta] chẳng coi “ta và người cùng thoát sanh tử” là chí hướng, sự nghiệp thì cô phụ từ ân cũng lớn lắm thay!

Bồ Tát thị hiện giáng sanh tại nước Tân La vào đời Đường (Trước thời Đường Cao Tông, vốn có ba nước Cao Câu Ly, Tân La, Bách Tế riêng biệt. Đường Cao Tông diệt Cao Câu Ly, đất đai của Bách Tế đều gộp vào nước Tân La, hợp thành một nước. Thời Ngũ Đại, Vương Kiến kế thừa [nước Tân La], đặt quốc hiệu là Cao Ly. Từ đầu đời Minh đến nay, đặt tên nước là Triều Tiên. Người ta thường cho Tân La chính là Tiêm La[65], thật lầm vậy), dòng dõi nhà vua, họ Kim, tên Kiều Giác, đến năm Vĩnh Huy thứ tư (653) đời Đường Cao Tông, Sư đến núi Cửu Hoa, sự khổ hạnh tu tập của Ngài trong cõi đời không ai hơn được. Thức giả coi Ngài là Địa Tạng thị hiện, xin coi chi tiết trong Sơn Chí, ở đây không cần phải viết nhiều.

Nhưng những kẻ câu nệ, hẹp hòi, chẳng biết hành trạng phân thân ứng hóa trong cõi nước nhiều như số vi trần của Bồ Tát, thường nói vị Địa Tạng này chẳng phải là Địa Tạng trong kinh [Địa Tạng Bồ Tát] Bổn Nguyện. Nếu vậy thì cũng có thể nói Bố Đại Hòa Thượng chẳng phải là Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Bồ Tát hay sao? Núi này kể từ khi được Bồ Tát kiến lập đạo tràng trở đi, sau nhiều năm tháng sâu xa, bao lượt đổi thay, đến nỗi sách vở thất truyền. Đến thời Gia Tĩnh nhà Minh, mới biên tập Sơn Chí. Từ thời Vạn Lịch, Sùng Trinh [nhà Minh] cho đến Khang Hy, Càn Long, Quang Tự nhà Thanh, trải qua sáu lần [biên soạn Sơn Chí] đều do triều đình chủ trì, do Nho sĩ biên tập. Đối với lòng hoằng từ đại bi của Bồ Tát, ý nghĩa tinh diệu của pháp môn đều chưa nêu tỏ được, nên chẳng khác gì những sơn kinh thủy chí tầm thường, thật đã mất đi ý nghĩa của một đạo tràng vì nước cầu an, vì dân chúc phước nơi danh sơn, nhưng cũng không có câu chữ nào hủy báng Phật pháp. Bộ Sơn Chí thời Quang Tự, khi Châu Sơn Môn tu chỉnh đã đưa thêm vào rất nhiều lời văn hủy báng hòng phô phang tri kiến cao minh của chính mình, buộc Tăng chúng bỏ tiền, nhưng bản thảo vẫn giữ tại công đường nơi huyện lỵ, không cho phép khắc in, tôi chẳng biết ý ông ta như thế nào!

Do ông Lý Viên Tịnh xin tu chỉnh, tôi bèn cậy cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh xem xét, hiệu đính, nhờ thầy Đức Sâm biên tập. Sách đã hoàn thành (hết thảy nhân duyên thành tựu, trong lời bạt của thầy Đức Sâm nơi quyển cuối đã nêu cặn kẽ, ở đây không nhắc lại nữa). Do vậy, trình bày đại lược lòng đại từ bi sâu xa của Bồ Tát hòng người thấy kẻ nghe ai nấy đều sanh chánh tín, ngõ hầu cậy vào từ lực của Bồ Tát thoát khỏi nỗi khổ huyễn vọng, được sự vui rốt ráo. Nhân đó, bèn tán rằng:

      Đại Sĩ thệ nguyện bất khả trắc,

      Vận bi châu biến trần sát quốc,

      Chúng sanh tận hậu thệ phương hưu,

      Địa ngục không thời nguyện thỉ tức,

      Thọ hóa đa thành vô thượng đạo,

      Tự thân do thị Thanh Văn tích,

      Chỉ duyên sanh Phật tánh duy nhất,

      Dục linh đồng hoạch Cứu Cánh Tức.

      (Đại Sĩ thệ nguyện há thể lường,

      Lòng bi trọn khắp cõi vô ương,

      Chúng sanh độ hết mới xong thệ,

      Địa ngục trống rồi nguyện mới thôi.

      Giáo hóa nhiều người thành Phật đạo,

      Tự thân vẫn hiện tướng Thanh Văn,

      Chúng sanh và Phật tánh vốn một,

      Cùng muốn ta người chứng Pháp Vương)

 

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên

Quyển Hạ, phần 1 hết

 

     

     



[1] Châu Dịch tức kinh Dịch. Người Trung Hoa tin kinh Dịch đã có từ đời Hạ, Châu Văn Vương chỉ chỉnh lý, biên soạn, hoàn thiện; do đó kinh Dịch được lưu hành hiện thời thường gọi là Châu Dịch để phân biệt với Liên Sơn Dịch của nhà Hạ và Quy Tàng Dịch của nhà Thương.

[2] Cơ Tử chính là chú của vua Trụ, giữ chức Thái Sư, được phong ở đất Cơ, nên gọi là Cơ Tử. Do thấy Trụ Vương sử dụng đũa bằng ngà, mâm vàng, chén ngọc, xa xỉ quá mức, nên hết lời can gián, bị Trụ Vương giam vào ngục. Khi Châu Vũ Vương diệt nhà Thương, Cơ Tử được thả, những lời nghị luận của ông về đạo trị nước với Châu Vũ Vương được ghi trong thiên Hồng Phạm của sách Thượng Thư (kinh Thư). Hồng Phạm có nghĩa là khuôn mẫu lớn lao, thiên Ngũ Hành Chí trong sách Hán Thư giảng: “Vua Vũ trị hồng thủy (lụt lớn), được ban Lạc Thư, [trong ấy] trình bày pháp này, tức là Hồng Phạm vậy”. Trong thiên sách Hồng Phạm, Cơ Tử bảo Châu Vũ Vương do vua Vũ trị thủy có công, Thượng Đế bèn ban cho Hồng Phạm Cửu Trù (chín mối đại pháp). Ngoài những quan điểm về Ngũ Hành, thiên sách này còn trình bày những đại pháp trị dân hết sức độc đáo như Chánh Trực, Cang Khắc (chế ngự dân chúng bằng biện pháp cứng rắn), Nhu Khắc (cai trị dân bằng biện pháp mềm dẻo).

[3] Do hai chữ này thời cổ đọc âm gần giống nhau nên thường dùng lẫn cho nhau theo lối Giả Tá.

[4] Tông là điều được đề cao bởi một bộ kinh, “quy tông” là giáo pháp tối hậu của một bộ kinh. Nói cách khác, “quy tông” là pháp chánh yếu của một bộ kinh, những điều khác được nói trong bộ kinh ấy chỉ nhằm dẫn dắt về pháp chánh yếu ấy.

[5] Phương Đẳng (Vaipulya), đôi khi còn dịch âm là Tỳ Phật Lược, Tỳ Phú La, Bạt Phật Lục, Bùi Phì La, Vi Đầu Ly, hoặc dịch nghĩa là Phương Quảng, Quảng Đại, Quảng Giải, Vô Tỷ… là một trong mười hai thể loại trong cách phân chia hệ thống kinh Phật. Những danh từ này đều nhằm diễn tả ý nghĩa “những kinh này nội dung sâu rộng thăm thẳm”. Theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, thời Phương Đẳng bao gồm những kinh được nói sau thời Bát Nhã và A Hàm, không những văn từ rộng sâu, giáo nghĩa rộng lớn, mà huyền nghĩa còn trùng trùng, nhằm dẫn dắt thính chúng từ Chân Không đi vào Diệu Hữu, thấy được cảnh giới vô thượng bất khả tư nghì của chư Pháp Thân Bồ Tát và chư Phật.

[6] Linh Thứu (Grdhrakūta) dịch âm là Kỳ Xà Quật, thường gọi tắt là Linh Sơn, Thứu Nhạc, hoặc Thứu Phong, nằm về phía Đông Bắc kinh đô Vương Xá của nước Magadha. Do núi có hình giống đầu chim Thứu (kên kên), trong núi lại có nhiều giống chim ấy nên thành tên. Tại tinh xá nơi núi này, Phật đã giảng rất nhiều bộ kinh Đại Thừa.

[7] Có hai cách hiểu chữ Chánh Biến Tri:

1) Chánh Biến Tri (Samyak-sambuddha), còn được dịch âm là Tam Miệu Tam Phật Đà, hoặc dịch nghĩa là Chánh Biến Giác, Chánh Chân Đạo, Chánh Đẳng Giác, Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc Chánh Đẳng Giác Giả, là một trong mười hiệu của đức Phật. Danh hiệu này hàm nghĩa vị giác ngộ hiểu biết chân chánh trọn khắp hết thảy các pháp.

2) Danh từ Tam Miệu Tam Bồ Đề (Samyaksambodhi) cũng được phiên dịch là Chánh Biến Tri hay Chánh Biến Tri Đạo, chỉ cho sự chứng ngộ do hiểu biết chân chánh trọn khắp bản thể của hết thảy các pháp.

Dựa theo mạch văn ở đây, chữ Chánh Biến Tri phải hiểu theo nghĩa thứ hai.

[8] Tức một trăm bốn mươi mốt điều nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh.

[9] Sư thừa: Quan hệ truyền thừa giữa thầy và trò.

[10] Ân võng cực: Đại ân của cha mẹ. Chữ này xuất phát từ bài thơ Lục Nga trong thiên Tiểu Nhã kinh Thi: “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã, súc ngã, trưởng ngã, dục ngã, cố ngã, phúc ngã, xuất nhập phục ngã, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực” (cha sanh ra ta, mẹ nuôi nấng ta, vỗ về nuôi nấng, nuôi dạy lớn khôn, chăm nom, che chở, ra vào uốn nắn, muốn báo đức ấy, lồng lộng trời cao, khôn bề sánh ví!). Chín chữ “sanh, cúc, phủ, súc, trưởng, dục, cố, phúc, phục” thường được gọi là “cù lao cửu tự” (chín chữ cù lao).

[11] Cù lao: Ân cha mẹ, đây cũng là chữ xuất phát từ phần đầu bài thơ Lục Nga trong kinh Thi: “Lục lục giả nga, phi nga y hao, ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao. Lục lục giả nga, phi nga y úy, ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao” (cỏ nga xum xuê, không phải cỏ nga, cũng là cỏ hao, xót thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn; cỏ nga xum xuê, chẳng phải cỏ nga, cũng là cỏ úy; xót thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn).

[12] Đây là một điển tích dựa theo câu chuyện trong sách Vật Do Như Thử. Theo đó, con quạ thấy mẹ nó đã già yếu không kiếm ăn nổi bèn tha mồi mớm cho quạ mẹ. “Trọn tấm lòng riêng của quạ” tức là trọn hết tấm lòng hiếu thảo vậy.

[13] Tứ Hoằng chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

[14] Dục ở đây là lòng ham muốn, ý nói chư Phật, Bồ Tát dùng lợi để dẫn dụ con người do lòng ham lợi sẽ thực hành Phật pháp, rồi dần dần dẫn họ nhập đạo, thể ngộ Phật trí. Chẳng hạn, các kinh Đại Thừa thường nói rất nhiều đến những phước báo hiện tiền do trì tụng, thọ trì kinh, chú, lễ bái, cúng dường, tùy hỷ v.v…

[15] Ba chướng: Tam Chướng (Trīnyāvaranāni) có nhiều cách giải thích. Phổ biến nhất là cách giảng dựa theo kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật Danh Kinh (quyển 1), Phát Trí Luận, Thành Thật Luận, Đại Trí Độ Luận, Tỳ Bà Sa Luận và Câu Xá Luận. Theo những kinh luận ấy, Tam Chướng là Phiền Não Chướng (Kleśāvarana), Nghiệp Chướng (Karmāvarana) và Dị Thục Chướng (Vipākāvarana). Phiền Não Chướng là ba thứ phiền não tham - sân - si sẵn có trong tánh thức. Nghiệp Chướng chính là nghiệp Ngũ Vô Gián hoặc những nghiệp bất thiện do thân - khẩu - ý gây nên. Dị Thục Chướng còn gọi Báo Chướng hoặc Quả Báo Chướng, tức là quả báo của Nghiệp Chướng và Phiền Não Chướng. Theo Du Già Đại Thừa Đại Giáo Vương Kinh, quyển 5, thì Tam Chướng lại là Ngã Mạn Trọng Chướng, Tật Đố Trọng Chướng (ganh ghét) và Tham Dục Trọng Chướng (theo cách giải thích này thì ba chướng ấy chỉ tương ứng với Phiền Não Chướng mà thôi). Còn rất nhiều cách giải thích khác, nhưng sợ quá rườm rà nên không dẫn vào đây.

[16] Nguyên văn “Y Huấn”, đây chính là tên của một thiên sách trong sách Thượng Thư, ghi lại nội dung bài giáo huấn của Y Doãn. Trong năm Thái Giáp nguyên niên, trong lễ tế tiên vương vào tháng Chạp, Y Doãn đã ban lời giáo huấn này cho vua cùng bá quan. Trong bài giáo huấn ấy có nhắc đến trăm điều tốt lành do thuận theo đạo trời nên thường được văn học nhắc đến với từ ngữ “Y Huấn chi bách tường”. Y Doãn (1648-1549 trước Công Nguyên) tên thật là Chí, Doãn có nghĩa là Hữu Tể Tướng; do kính trọng nên không gọi tên mà gọi bằng chức vụ. Y Doãn vốn là nô lệ bồi giá của Sân thị (khi xưa, cô dâu về nhà chồng thường mang theo nô lệ, những nô lệ ấy được gọi là “nô lệ bồi giá”), giữ nhiệm vụ nấu ăn. Khi Sân thị được gả cho vua Thành Thang (Thương Thang), Y Doãn nhân cơ hội dâng cơm cho Thương Thang liền phân tích tình thế thiên hạ, rất được Thương Thang tán thưởng, bèn xóa bỏ thân phận nô lệ cho Y Doãn, phong cho ông ta làm Tể Tướng. Năm 1600 trước Công Nguyên, với sự phù tá của Y Doãn, Thương Thang diệt nhà Hạ, thành lập nhà Thương. Y Doãn tận lực chỉnh đốn chính thể, hiểu cặn kẽ dân tình nên nhà Thương lúc ấy rất cường thịnh. Khi Thành Thang mất, con là Thái Giáp kế vị, vốn là kẻ bất tài, hôn ám, nên trong giỗ đầu của tiên vương, Y Doãn đã nêu lên bài huấn dụ này để răn nhắc đương kim hoàng thượng. Do Y Doãn dùng đủ mọi biện pháp cứng rắn lẫn mềm dẻo uốn nắn nhà vua, Thái Giáp nổi giận, đày Y Doãn sang đất Đồng ba năm (có sách chép là bảy năm). Về sau, Thái Giáp hối hận, rước về, và tuân theo lời chỉ dạy của Y Doãn, bèn trở thành một bậc minh quân.

[17] Đại Hùng (Mahā-vīra), có nghĩa là vĩ đại, anh hùng, là một trong những đức hiệu của đức Phật. Do đức Phật có đại trí lực, hàng phục ma chướng không ngăn ngại, run sợ nên được tôn xưng là Đại Hùng.

[18] Cùng tử: Đứa con nghèo đói.

[19] Tỳ Ni (Vinaya): Giới luật.

[20] Trích từ thành ngữ “thận độc khâm ảnh”: Ý nói dè dặt, cẩn thận, dẫu chỉ có một mình vẫn cẩn thận, nghiêm cẩn, chẳng làm chuyện gì để thẹn với ngay cả bóng vạt áo của chính mình.

[21] Vô Dư ở đây là Vô Dư Niết Bàn (Nirupadhiśesa-Nirvāna). Đôi khi còn được dịch là Vô Dư Y Niết Bàn. Có nghĩa là đoạn sạch phiền não, diệt hết những dị thục khổ quả do Ngũ Uẩn tạo thành, chứng Niết Bàn rốt ráo không còn vướng mắc vào đâu nữa.

[22] Theo kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, trong quá khứ vô lượng kiếp, đức Quán Thế Âm đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng do nguyện lực độ sanh nên luôn thị hiện thân phận Bồ Tát hòng phù tá hết thảy Như Lai độ sanh.

[23] Vô Tận Ý Bồ Tát (Aksayamatir Bodhisattvah), còn được phiên âm là A Sai Mạt Bồ Tát, hoặc dịch nghĩa là Vô Tận Huệ, Vô Lượng Ý, còn có tên là Vô Tận Kim Cang, hay Định Huệ Kim Cang, là một trong mười sáu vị đại Bồ Tát của Hiền Kiếp. Do Bồ Tát quán hết thảy nhân duyên quả báo đều vô tận bèn phát tâm cầu chứng công đức vô tận của chư Phật nên được danh xưng này. Theo hội A Sai Mạt trong kinh Đại Tập, Bồ Tát hiện đang trụ trong cõi nước Bất Thuấn của đức Phổ Hiền Như Lai ở phương Đông.

[24] Thư Cừ Mông Tốn (368-433) là người sáng lập triều đại Bắc Lương vào thời Nam Bắc Triều cuối đời Tấn, thuộc sắc dân Hung Nô. Thoạt đầu Mông Tốn ủng hộ Lữ Quang ly khai nhà Diêu Tần, lập ra nhà Hậu Lương; sau đó, lại chống Lữ Quang, chiếm lãnh miền Cô Tạng, tự xưng là Tây Vương. Về sau, Mông Tốn diệt nhà Hậu Lương, khống chế đường giao thông Tây Vực, trở thành vua một nước hùng mạnh. Thư Cừ Mông Tốn rất tôn sùng Phật giáo, từng thỉnh ngài Đàm Vô Sấm dịch kinh Phương Đẳng, Niết Bàn v.v… Em họ Mông Tốn là Thư Cừ Kinh Thanh (?-464) là một cư sĩ học rộng, từng sang Vu Điền học tiếng Phạn, thông thạo Phạn Văn. Chính Kinh Thanh đã đích thân thỉnh ngài Đàm Vô Sấm đến đất Lương và chính ông ta đã dịch các bộ Thiền Yếu Bí Mật Trị Bệnh Kinh, Bát Quan Trai Giới Kinh, Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Kinh v.v…

[25] Đàm Vô Sấm (385-433), tên Phạn ngữ là Dharma-raksa, đôi khi còn phiên là Đàm Ma La Thức, Đàm Ma Sám, Đàm Mô Sấm, Đàm La Vô Sấm, dịch nghĩa là Pháp Phong. Ngài xuất thân từ dòng Bà La Môn tại Trung Ấn Độ, thoạt đầu tu học Tiểu Thừa. Sau gặp được Bạch Đầu thiền sư truyền thụ kinh Đại Niết Bàn bèn phát tâm học Đại Thừa. Năm hai mươi tuổi Sư đã thông thạo các kinh Đại Thừa, kiêm hiểu Mật chú nên được gọi là Đại Chú Sư. Sau Sư mang kinh Đại Bát Niết Bàn, Bồ Tát Giới Kinh, Bồ Tát Giới Bổn v.v… sang Kế Tân, đến nước Quy Tư. Do thấy hai xứ này sùng trọng Tiểu Thừa, bèn sang Đôn Hoàng. Năm Huyền Thỉ nguyên niên (412) nhà Bắc Lương, Hà Tây Vương Thư Cừ Mông Tốn sai Thư Cừ Kinh Thanh cung thỉnh Sư đến Cô Tạng để Sư học tiếng Hán trong vòng ba năm, rồi bắt đầu phiên dịch kinh Đại Bát Niết Bàn, hai vị Huệ Tung và Đạo Lãng giữ nhiệm vụ Bút Thọ. Do kinh Niết Bàn Sư mang theo chưa trọn vẹn, Sư bèn trở về Vu Điền, tìm được một phần cuối kinh ấy, mang về Cô Tạng tiếp tục dịch. Nhận lời thỉnh của Huệ Tung và Đạo Lãng, Sư chủ trì công việc phiên dịch các kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Kim Quang Minh Kinh, Bi Hoa Kinh, Bồ Tát Địa Trì Kinh, Bồ Tát Giới Bổn… Do Thái Võ Đế nhà Bắc Ngụy nghe tin Sư thông thạo phương thuật, bèn sai sứ sang thỉnh, Thư Cừ Mông Tốn sợ Sư sẽ sang đất Ngụy, liền giả vờ sai Sư sang Tây Vực tìm kiếm phần sau kinh Niết Bàn (phần này về sau được ngài Nhã Na Bạt Đà La dịch tiếp vào đời Đường), rồi ngầm sai thích khách giết chết Sư giữa đường. Bản kinh Đại Bát Niết Bàn của Sư được gọi là Bắc Bản Niết Bàn để phân biệt với bản dịch Nê Hoàn Kinh của ngài Pháp Hiển dịch (thường gọi là Nam Bản Niết Bàn Kinh).

[26] Bổn Tích: Bổn thường được hiểu là chánh nhân, chánh vị của chư Phật, Bồ Tát. Tích là phương tiện quyền biến thị hiện. Chẳng hạn, đức Quán Thế Âm Bồ Tát là Phật (như vậy về mặt Bổn ngài là một vị Phật, đã thành Phật từ vô lượng kiếp), nhưng vì lòng từ bi thị hiện thân Bồ Tát (đấy là Tích). Hoặc có thể hiểu ngài là một vị Bồ Tát (Bổn), nhưng lại hiện vô số ứng thân nhằm hóa độ mọi loài chúng sanh (đấy là Tích).

[27] Xa Ma Tha (Śamatha) có nghĩa là Chỉ (ngưng dứt), Tịch Tĩnh, hay Năng Diệt, là một trong bảy tên của Thiền Định. Do chú trọng đến tác dụng lắng đọng tâm không bị ngoại cảnh lay động khiến tâm được tịch tĩnh, nên gọi là Chỉ, hàm nghĩa ngưng dứt mọi tán loạn.

Tam Ma là gọi tắt của Tam Ma Địa (Samādhi), hay còn được phiên âm là Tam Muội hay Tam Ma Đề. Dịch nghĩa là Đẳng Trì, Chánh Định, Định Ý v.v… tức là xa lìa hết thảy lao chao, hôn trầm, chuyên tâm nơi một cảnh.

[28] Hư Không Tạng (Ākāśa-garbha) có nghĩa là phước trí hai tạng đều vô lượng, rộng lớn như hư không, không có ngằn mé. Ngài lưu xuất vô lượng pháp bảo, thí khắp cho người cầu muốn, lợi lạc chúng sanh. Ngài được đặc biệt tôn sùng trong Mật giáo và Thiên Đài Tông Nhật Bản. Đông Mật Chân Ngôn Tông Cao Dã Sơn phái của Nhật Bản còn lưu truyền câu chuyện tổ sư Không Hải nhờ trì chú của Hư Không Tạng Bồ Tát mà trí huệ mở mang, sang Trung Hoa học Mật với ngài Huệ Quả, lãnh hội được tinh nghĩa của Mật giáo chỉ trong vài ba năm, trở thành Sơ Tổ Mật Tông Nhật Bản. Trong kinh Đại Tập có hai pháp hội chuyên giảng về Hư Không Tạng Bồ Tát. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát dạy về pháp Viên Thông quán Không Đại.

[29] Triệu Pháp Sư chính là ngài Tăng Triệu (384-414), môn nhân nổi tiếng nhất của đại sư Cưu Ma La Thập. Sư là con nhà nghèo, phải chép sách thuê để kiếm sống. Do vậy, thông hiểu kinh sử rất sâu. Thoạt đầu, Sư hâm mộ thuyết Lão Trang, sau do đọc kinh Duy Ma Cật bèn cảm ngộ, đi xuất gia. Ngài thông hiểu kinh Phương Đẳng, thanh danh lẫy lừng miền Bắc Trung Hoa. Nghe pháp sư Cưu Ma La Thập đến đất Lương, bèn xin theo học, được ngài Cưu Ma La Thập khen là bậc kỳ tài. Đến khi Diêu Tần diệt nhà Lương, Sư bèn theo ngài La Thập sang Trường An. Tuân sắc lệnh của Diêu Hưng, Tăng Triệu cùng với Tăng Duệ lo phù tá ngài La Thập phiên dịch kinh điển. Do vậy, giải ngộ càng sâu, được tôn xưng là bậc Giải Không Đệ Nhất. Năm Hoằng Thỉ thứ sáu (404), khi ngài La Thập dịch xong bộ Đại Phẩm Bát Nhã, Sư soạn cuốn Bát Nhã Vô Tri Luận trình lên, được hai vị La Thập và Huệ Viễn nồng nhiệt tán thán. Sau đó, Sư còn soạn Phá Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn Vô Danh Luận, Chú Duy Ma Cật Kinh v.v… Tiếc là Sư mất rất sớm, chỉ thọ được 31 tuổi. Những bài luận của Sư được thâu thập thành cuốn Triệu Luận.

[30] Trụ tích: Còn gọi là “quải tích”. Khi một vị pháp sư trụ ở tại nơi đâu thì gọi là trụ tích tại nơi đó. Tích ở đây là tích trượng.

[31] Bạch Hào Tướng (Ūrna-laksana): Đôi khi còn dịch là hào tướng, hào mi, bạch mao tướng, mi gian bạch hào tướng, bạch hào trang nghiêm tướng, mi gian bạch hào nhuyễn bạch đâu-la-miên tướng v.v…là một trong ba mươi hai tướng của đức Như Lai. Đấy chính là một sợi lông trắng trong ngần, sáng ngời như ngọc lưu ly, thường tỏa quang minh, nằm giữa hai chân mày, cuộn tròn lại, quấn quanh theo chiều bên phải, nếu kéo dài ra sẽ dài đến một tầm (Tầm là đơn vị đo lường thời cổ, có chiều dài bằng khoảng cách giữa hai cánh tay giang thẳng ra hai bên). Theo kinh Vô Thượng Y, quyển Hạ, tướng này do lúc tu nhân Phật thường tán thán mỗi khi thấy có chúng sanh nào tu tập Giới - Định - Huệ. Theo kinh Quán Phật Tam Muội Hải thì quang minh tỏa ra từ tướng bạch hào có công năng trừ được tội lỗi trong trăm ức na-do-tha hằng sa kiếp sanh tử, nên là tướng thù thắng nhất trong vô lượng tướng của đức Phật.

[32] Nhất Hạnh: Có nghĩa là chuyên chú nơi một sự, là một từ ngữ đặc biệt chỉ hạnh Niệm Phật. Do vậy, Niệm Phật tam-muội còn gọi là Nhất Hạnh tam-muội.

[33] Xin đừng hiểu lầm chữ “thời tiết” ở đây là weather, mà có nghĩa là thời thế, đúng dịp, đúng lúc nhân duyên chín muồi, các duyên hội đủ, như trong thành ngữ “nhân duyên thời tiết” thường được dùng trong kinh sách.

[34] Thiên Như Duy Tắc (không rõ năm sanh -1354), là một vị cao tăng thuộc tông Lâm Tế sống vào thời Nguyên, xuống tóc từ nhỏ tại Hòa Sơn, về sau qua Thiên Mục, đắc pháp với ngài Trung Phong Minh Bản, được nối pháp của ngài Trung Phong. Sư cực lực hoằng dương Thiền Tông nhưng chuyên tu Tịnh nghiệp, được vua ban danh hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Huệ Đại Biện Thiền Sư. Sư chú thích kinh Lăng Nghiêm đồng thời tổng hợp, chín tác phẩm chú giải đã có từ thời Đường và Tống, tạo thành bộ Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải 20 quyển, lại soạn bộ Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ 10 quyển. Để xiển minh giáo nghĩa Tịnh Độ, Sư soạn bộ Tịnh Độ Hoặc Vấn nhằm phá trừ những nghi vấn về Tịnh Độ, sách tấn người học tu tập Tịnh nghiệp. Ngoài ra, Sư còn để lại những tác phẩm như Ngữ Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết v.v…

[35] Một kiểu chữ cỡ lớn vừa phải, tương đương với font chữ size 24 trong Microsoft Word.

[36] Huệ Đống (1697-1758), tự Định Vũ, hiệu Tùng Nhai, là một nhà kinh học gia (chuyên gia nghiên cứu kinh truyện) đời Thanh, người huyện Nguyên Hòa (nay là Ngô Huyện, Tô Châu), tỉnh Giang Tô, nên thường được gọi là Nguyên Hòa Huệ Đống. Ông nội Huệ Đống là một nhà nghiên cứu kinh Dịch rất nổi tiếng thời ấy, cha Huệ Đống cũng là một nhà nghiên cứu cổ thư rất nổi tiếng. Ông chống đối cách giải thích kinh điển theo quan điểm Tống Nho, chủ trương để hiểu cổ thư phải đọc thẳng vào kinh điển, đừng dựa dẫm theo cách giải thích xuyên tạc, thiên kiến của Tống Nho.

[37] Nguyên văn “ngũ nội”, tức là một danh xưng khác của Ngũ Tạng, tức tim, gan, lá lách, phổi, thận.

[38] Quán Âm Từ Lâm Tập được ngài Hoằng Tán biên soạn vào năm Khang Hy thứ bảy (1668), được đưa vào tập 149 của Vạn Tục Tạng, gồm ba quyển. Quyển Thượng trích lục những kinh điển trọng yếu về bổn địa của ngài Quán Âm như Bi Hoa, Quán Thế Âm Đại Thế Chí Thọ Ký, Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni v.v… Quyển Trung và Hạ chép 154 câu chuyện cảm ứng ở Ấn Độ và Trung Hoa từ đời Tấn đến đầu đời Thanh.

Quán Âm Kinh Trì Nghiệm Ký gồm hai quyển do Châu Khắc Phục soạn vào năm Thuận Trị 16 (1659), còn có tên là Quán Thế Âm Kinh Chú Trì Nghiệm Ký, được xếp vào tập 134 của Vạn Tục Tạng. Nội dung bao gồm 118 câu chuyện cảm ứng do trì chú Đại Bi, xưng danh hiệu Ngài hay tụng trì phẩm Phổ Môn v.v… Cuối sách lại còn chép các bài kinh như Quán Thế Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni (do ngài Bất Không dịch), Bạch Y Đại Bi Ngũ Ấn Tâm Đà La Ni Kinh, Lễ Quán Âm Văn và một chương sách giải trừ những điều ngoa truyền về đức Quán Âm.

[39] Ma Ni (Mani) gọi đủ là Chân Đà Ma Ni (Cintāmani), còn được phiên âm là Chấn Đà Mạt Ni, dịch nghĩa là Như Ý Bảo Châu, Như Ý Châu, hoặc Như Ý Ma Ni, Vô Giá Bảo, đều có nghĩa là một viên ngọc quý có thể thỏa mãn mọi ước vọng. Kinh luận chép có nhiều loại Ma Ni, chẳng hạn như Đại Tỳ Bà Sa Luận nói có 102 loại Ma Ni như Quang Minh Ma Ni, Thanh Thủy Ma Ni, Phương Đẳng Ma Ni, Nguyệt Tràng Ma Ni, Diệu Tạng Ma Ni, Đại Đăng Ma Ni v.v… Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh nêu tên của bốn mươi bảy loại Ma Ni như Tỳ Lăng Già Ma Ni, Phạm Thiên Quang Tràng Ma Ni v.v… Pháp tướng Thiên Thủ Thiên Nhãn của đức Quán Âm cũng cầm hai viên Ma Ni: Nhật Tinh Ma Ni và Nguyệt Tinh Ma Ni.

[40] Quán Âm Cảm Ứng Khóa là tên gọi khác của Quán Âm Linh Thiêm, tức Xăm Quán Âm.

[41] Đây là một ví dụ được nói trong kinh Niết Bàn nhằm diễn tả phương tiện độ sanh thiện xảo của hàng đại Bồ Tát.

[42] Sơn kinh thủy chí: những sách ghi chép về đặc điểm, lịch sử sông, núi.

[43] Vào đầu thời Dân Quốc, chánh quyền đổi chức vụ Tri Châu, Tri Huyện thành Tri Sự, nhưng chức trách vẫn là người đứng đầu ngành hành chánh một huyện.

[44] Nguyên văn là “thoái cư”, tức là đã từng làm Trụ Trì, rồi nại cớ tuổi già xin thôi, không làm Trụ Trì nữa.

[45] Từ hút sắt: Nam châm hút sắt.

[46] Chước: Là một đơn vị đo lường thời cổ rất bé, bằng một phần trăm của một Thăng. Do Thăng thay đổi tùy theo thời đại nên ta có thể tạm hiểu Chước chừng bằng 10ml.

[47] Trấn Trừng (1547-1617) là một vị danh tăng thuộc tông Hoa Nghiêm, pháp tự Không Ấn, thông minh từ nhỏ. Năm mười lăm tuổi xin xuất gia với Dẫn Công chùa Quảng Ứng ở Tây Sơn, chỉ ba năm sau được Bổn Sư hứa khả cho thọ Cụ Túc, chuyên học Tánh Tướng Tông và kinh Hoa Nghiêm hơn mười năm. Sau Sư tham yết ngài Tiếu Nham được ấn khả Thiền chỉ. Năm Vạn Lịch thứ 10 (1582), Sư cùng ngài Hám Sơn Đức Thanh lập hội Vô Già tại Ngũ Đài, rồi ngồi nhìn vách suốt ba năm tại Tử Hà Lan Nhã mà đại ngộ. Năm Vạn Lịch 24 (1596), Sư tu chỉnh Thanh Lương Chí, rồi cùng bạn là Tuyết Phong sáng lập Sư Tử Quật tại Ngũ Đài, dựng Vạn Phật Lưu Ly Tháp, giảng kinh Hoa Nghiêm, thính chúng rất đông, được Từ Thánh Thái Hậu ban tặng Đại Tạng Kinh. Tuân sắc chỉ của Thái Hậu, Sư giảng bộ Lăng Nghiêm Chánh Quán do chính mình soạn tại chùa Thiên Phật ở Bắc Kinh, rồi giảng các kinh khác ở chùa Từ Ân. Ngoài các bộ sách kể trên, Sư còn để lại Kim Cang Kinh Chánh Nhãn, Bát Nhã Chiếu Chân Luận, cũng như những bài giảng về Nhân Minh, Khởi Tín Luận, Nhiếp Luận, Vĩnh Gia Tập Chư Giải v.v…Khi Sư mất, chính ngài Hám Sơn viết lời minh đề trên tháp và còn chép bài minh ấy vào bộ Mộng Du Tập.

[48] Trí huệ lẫn phước đức đều trọn vẹn.

[49] Xá Na, tức Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), Pháp Thân Phật.

[50] Núi Nga Mi thuộc huyện Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên, còn có những tên gọi khác là Quang Minh Sơn, hay Hư Linh Đỗng Thiên. Đây là một nhánh của rặng Dân Sơn. Thế núi chập chùng, trông xa như một cái cầu vồng, quanh co đến hơn tám trăm cây số. Cao nhất là ba ngọn chính: Đại Nga, Trung Nga và Tiểu Nga. Từ chân núi lên đến đỉnh có hơn 70 ngôi chùa, đạo tràng Thánh Thọ Vạn Niên Tự được coi là đạo tràng trung tâm. Chùa này được khởi công xây từ đời Tấn do Bồ Ông thấy Phổ Hiền Bồ Tát hiển hiện, bèn dựng Bạch Thủy Phổ Hiền Tự. Chùa này được đổi tên thành Vạn Niên Tự vào đời Vạn Lịch nhà Minh, trong chùa có đúc tượng Phật bằng đồng, được coi là văn vật trân quý của Phật giáo Trung Hoa. Những chùa rất nổi tiếng khác tại đây là Phục Hổ Tự, Báo Quốc Tự, Thanh Âm Các, Tiên Phong Tự, Kim Đảnh Tự, Quang Tướng Tự v.v…

[51] Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh do ngài Thật Xoa Nan Đà (652-710) dịch vào đời Đường, còn có tên là Đại Phương Quảng Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh, hoặc gọi tắt là Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh. Theo kinh chép, khi đức Phật vừa thành Chánh Giác dưới gốc Bồ Đề tại nước Ma Kiệt Đề thì Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ba Xà Ba Đề, Thích Phạm Hộ Thế, thiên long bát bộ v.v… các vị thánh giả cùng nhóm đến, đức Phật muốn cho đại chúng hiểu rõ sức oai thần Thiền Định bí mật cực sâu của chư Phật liền nhập Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Tam Muội. Khi ấy, trong mỗi tướng của ba mươi hai tướng đều hiện ra vô lượng cõi Phật trong mười phương, trong mỗi tướng hảo của tám mươi tướng hảo lại hiện ra đủ mọi phương tiện tu hành của đức Như Lai khi còn tu hạnh Bồ Tát. Vì thế, Đức Tạng Bồ Tát bèn hỏi Phổ Hiền Bồ Tát về danh nghĩa, cách chứng nhập cũng như phước đức, nhân duyên của tam-muội này. Phổ Hiền Bồ Tát bèn giảng cặn kẽ từng điều một. Kinh này chính là bản dịch khác của pháp hội Hoa Nghiêm được giảng tại Phổ Quang Minh giảng đường.

[52] Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh do ngài Đàm Ma Mật Đa (Dharmamitra) dịch vào đời Lưu Tống, còn có tên là Xuất Thâm Công Đức Kinh, thường được gọi tắt là Phổ Hiền Quán Kinh. Theo kinh chép, sau khi đức Phật nói kinh Pháp Hoa, đã giảng kinh này tại Đại Lâm Tinh Xá trong nước Tỳ Xá Ly, rồi tuyên cáo ba tháng nữa Phật sẽ nhập Niết Bàn. Các vị đệ tử như A Nan liền thưa hỏi Phật nhập diệt rồi thì nên tu hành như thế nào cũng như các pháp nghĩa Đại Thừa quan trọng, đức Phật bèn dạy phương pháp quán tưởng đức tướng của ngài Phổ Hiền, cách sám hối để diệt tội nơi lục căn và công đức do sám hối. Kinh này được tông Thiên Thai coi là phần kết thúc của kinh Pháp Hoa, do vậy cùng với Vô Lượng Nghĩa và kinh Pháp Hoa hợp thành Pháp Hoa Tam Bộ.

[53] Ngài Bảo Chưởng (?-657) là người Trung Ấn Độ, được cõi đời xưng tụng là Bảo Chưởng Thiên Tuế Hòa Thượng (vị Hòa Thượng tay báu ngàn tuổi). Theo truyền thuyết, lúc ngài sanh ra tay trái nắm chặt mãi đến bảy tuổi mới mở ra, nên có tên là Bảo Chưởng. Ngài đến Trung Hoa vào thời Ngụy - Tấn, vào đất Thục (Tứ Xuyên) tham lễ Phổ Hiền. Sư thường nhịn ăn, hằng ngày tụng kinh Bát Nhã đến hơn một ngàn quyển. Một bữa, đột nhiên bảo đại chúng: “Ta nguyện trụ thế một ngàn năm, nay đã sáu trăm hai mươi sáu năm rồi!” Vì thế, có danh xưng là Thiên Tuế. Sư từng tham phỏng Ngũ Đài, Lô Sơn v.v… Không lâu sau gặp Đạt Ma sang Trung Hoa bèn đến hỏi đạo, được khai ngộ. Từ năm Trinh Quán 15 (641), Sư ở lại chùa Bảo Nghiêm tại Bồ Giang, chơi thân với Lãng Thiền Sư, thường sai một con chó trắng đưa thư, Lãng sư sai con vượn xanh đưa thư đáp lời. Sư thị tịch năm Hiển Khánh thứ hai.

[54] Vu Điền (Kustana, Khotan), còn có tên là Hòa Điền, là một vương quốc cổ thuộc Tây Vực, thuộc vùng trũng Tarim, nằm trong miền Tây xứ Tân Cương ngày nay, có quan hệ rất lớn đối với Phật giáo Đại Thừa. Kustana có nghĩa là Địa Nhũ (sữa đất). Trung Hoa đã biết đến xứ này từ thời Tây Hán. Đời Hán Minh Đế, năm Vĩnh Bình 16 (73), Ban Siêu từng đem quân tấn công Vu Điền, vua Vu Điền chấp nhận trở thành chư hầu nhà Hán. Theo Đại Đường Tây Vực Ký quyển 20, xứ này quá nửa là lũng cát, nhưng khí hậu ôn hòa, có nhiều bảo ngọc, sản vật phong phú, dân chúng hòa hoãn, sùng mộ Phật pháp. Từ Ấn Độ vào Trung Hoa, phần lớn phải đi qua xứ này nên tại đây giữ được rất nhiều kinh Phật. Vào năm Thái Khang thứ bảy (286) đời Tây Tấn, ngài Kỳ Đa Mật Tề là người Vu Điền đã dịch Quang Tán Bát Nhã tại đây. Ngài Chi Pháp Lãnh cũng tìm được bộ Lục Thập Hoa Nghiêm tại xứ này. Cũng tại Vu Điền, vào thời Bắc Lương, ngài Đàm Vô Sấm cầu được kinh Đại Bát Niết Bàn, Thư Cừ Kinh Thanh tìm được Thiền Pháp Yếu Giải, Thiền Tông Bí Yếu Trị Bệnh Kinh; vào thời Tiêu Tề, ngài Pháp Hiến tìm đưọc Quán Thế Âm Sám Hối Trừ Tội Chú Kinh. Vào thời Lương (548), ngài Cầu Na Bạt Đà người xứ Vu Điền mang kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã từ Vu Điền đến Trung Hoa. Đến đời Đường, ngài Thật Xoa Nan Đà là người xứ Vu Điền đã mang Bát Thập Hoa Nghiêm sang Đông Thổ. Đến thế kỷ thứ 9, vương triều Karakhanids (sử Tàu gọi là Mặc Hãn vương triều) tấn công, chiếm đóng Vu Điền, buộc dân chúng cải theo đạo Hồi, đạo Phật dần dần suy vong, ngôn ngữ bị cải biến theo giọng của các sắc dân Đột Quyết (Turkic). Sau khi vương triều Mặc Hãn bị diệt vong, Vu Điền lần lượt rơi vào ách thống trị của Tây Liêu, Mông Cổ, rồi bị Càn Long nhà Thanh diệt quốc, biến Vu Điền thành một châu huyện của Trung Hoa (năm 1759). Đến đời Quang Tự, Vu Điền bị đổi tên thành huyện Hòa Điền, trực thuộc Khang Châu.

[55] Hồ Thế An (không rõ năm sinh-1663), tự là Xử Tĩnh, biệt hiệu Cúc Đàm, người huyện Khai Tỉnh, Tứ Xuyên, đỗ Tiến Sĩ năm đầu Sùng Trinh (1628) đời Minh, đến thời Thuận Trị làm quan đến chức Vũ Anh Điện Đại Học Sĩ, kiêm Binh Bộ Thượng Thư, tước Thái Tử Thái Bảo và Thái Tử Thái Phó. Ông thích du sơn ngoạn thủy, trước tác rất nhiều tác phẩm ca ngợi cản núi sông xinh đẹp, nổi tiếng nhất là bộ Tú Nham Tập (11 quyển). Những tác phẩm nổi tiếng khác là Đại Dịch Tắc Thông, Hễ Thiếp Tổng Văn, Dị Ngư Đồ Tán Tiên, Dị Ngư Đồ Tán Bổ v.v… Những tác phẩm này đều được đưa vào bộ Tứ Khố Toàn Thư.

[56] Nguyên văn là “quyền dư”: Quyền Dư là tên một bài thơ trong phần Tần Phong (dân ca đất Tần) thuộc thiên Quốc Phong trong kinh Thi. Về sau, Quyền Dư được dùng như một từ ngữ chỉ công việc thu thập những sáng tác dân gian. Hiện thời, đa phần tăng nhân ở Nga Mi vẫn tin bộ Nga Mi Sơn Chí được biên soạn dựa trên bộ Dịch Nga Lại do Hồ Thế An (tuy tác giả thật sự của bộ Dịch Nga Lại là Tưởng Hổ Thần) biên tập vào thời Vạn Lịch nhà Minh.

[57] Hoàng Đế là một vị thánh quân thời cổ theo huyền sử Trung Hoa. Vua họ Công Tôn (có thuyết nói là họ Cơ), tên là Hiên Viên, hiệu là Hiên Viên Thị, hoặc Hữu Hùng Thị, là con của Thiếu Điển, họ Công Tôn, đóng đô tại gò Hiên Viên thuộc Trịnh Châu (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Mẹ Hoàng Đế thấy tia sáng Bắc Cực bèn có thai, rồi sanh ra ông. Hoàng Đế dẹp yên các bộ tộc đối kháng, được tôn làm Cộng Chủ, tức vua Trung Nguyên. Kẻ thù đáng gờm nhất của ông ta là Si Vưu, vua của bộ tộc Cửu Lê ở phía Đông. Sau ba năm giao tranh dai dẳng, cuối cùng Hoàng Đế đánh bại được Si Vưu tại cánh đồng Trác Lộc (thuộc địa phận Hà Nam), thống nhất Trung Nguyên. Tuy thế, theo các sử gia, thời ấy vẫn chưa thể nào có một chế độ quân chủ trung ương tập quyền như thời Hán sau này, Cộng Chủ chỉ là thủ lãnh tối cao của tù trưởng các bộ tộc. Do đất của bộ tộc Cửu Lê nằm trong lưu vực sông Dương Tử và phía Nam Hoàng Hà, không thuộc địa bàn cai trị của Hoàng Đế, sau khi đánh bại tộc Cửu Lê, vua phải lo tổ chức guồng máy cai trị cũng như khai khẩn tại phía vùng đất mới, phải tốn rất nhiều thời gian và sức lực để giữ yên dân tình, hầu như không thể nào có thời gian rảnh rỗi để trèo đèo lặn suối sang tận núi Nga Mi ở phía Tây để gặp Quảng Thành Tử hỏi đạo! Đường vào đất Thục (Tứ Xuyên) còn hiểm trở hơn nữa. Ngay đến thời Hán Cao Tổ, khi bị Sở Bá Vương Hạng Vũ phong cho đất Ba Thục (Tứ Xuyên), đường vào Tứ Xuyên vẫn còn rất hiểm trở đến nỗi khi Trương Lương lập kế nghi binh, cho đốt sạn đạo, Hạng Vũ bèn an tâm ngủ say trên chiến thắng, cho rằng Lưu Bang không còn đường nào khác để thoát ra khỏi Ba Thục được. Tới thời An Lộc Sơn làm phản, vua tôi nhà Đường phải chạy vào Tứ Xuyên, đường vào đất Thục vẫn còn rất hiểm trở đến nỗi thi nhân thời ấy than thở “đường vào đất Thục cheo leo tận trời thẳm”.

[58] Quảng Thành Tử được nhắc đến đầu tiên trong thiên Tại Hựu của Trang Tử. Theo đó, Quảng Thành Tử đang tu tại núi Không Động, Hoàng Đế đến hỏi đạo hai lần. Quảng Thành Tử dạy về thuyết Tinh - Khí - Thần, chú trọng tu dưỡng nội tâm. Có thể đây là một câu chuyện ngụ ngôn do Trang Tử đặt ra nhằm trình bày quan điểm triết học của chính ông vì Trang Tử rất nổi tiếng về những câu chuyện ngụ ngôn, đến nỗi người Hán thường gọi những chuyện bịa đặt nhằm gởi gắm ý riêng là “Trang Tử ngụ ngôn”; nhưng Đạo Giáo bèn vịn vào đó, đặt ra rất nhiều thuyết để khẳng định Quảng Thành Tử chính là do Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử) hóa thân. Họ còn soạn ra Thái Thượng Lão Quân Khai Thiên Kinh để làm căn cứ chứng minh cho câu chuyện này và tôn xưng Không Động Sơn là Đạo Giáo Đệ Nhất Sơn. Điều đáng nói là thuyết Tinh - Khí - Thần là một thuyết được lập ra rất trễ sau khi Đạo Giáo đã phát triển; ngay cả thời Trương Lăng sáng lập Ngũ Đấu Mễ đạo (tiền thân của Đạo Giáo), cũng chưa thấy nói đến khái niệm Tinh - Khí - Thần! Nếu Quảng Thành Tử thật sự là Thái Thượng Lão Quân, sao Đạo Đức Kinh không hề nhắc đến Tinh - Khí - Thần? Đến thời Minh, qua sự miêu tả của Hứa Trọng Lâm trong Phong Thần Diễn Nghĩa, Quảng Thành Tử là thủ lãnh của mười hai vị Kim Tiên thuộc phe Xiển Giáo, sống tại Đào Nguyên thuộc Cửu Tiên Sơn, khiến cho bọn đạo sĩ càng thêm sùng bái vị tiên này.

[59] Nguyên văn “mãi độc hoàn châu” là một thành ngữ ngụ ý chỉ chú trọng bề ngoài không trọng thực chất.

[60] Tổ Ngẫu Ích tên thật là Chung Tế Minh, sau khi đọc cuốn Tự Tri Lục và Trúc Song Tùy Bút của tổ Liên Trì, Ngài tự biết trước kia mình đã sai trái, bèn đốt hết những bài văn báng Phật. Năm 20 tuổi, do đọc kinh Địa Tạng Bản Nguyện bèn phát chí xuất gia, đến năm 23 tuổi, tự phát ra 48 nguyện, tự xưng là Đại Lãng Ưu Bà Tắc. Do vậy, đa số sách vở khi viết về giai đoạn trước khi Ngài xuất gia đều gọi là ngài là cư sĩ Chung Đại Lãng.

[61] Tổ Trí Húc xin xuất gia với ngài Tuyết Lãnh, đệ tử của đại sư Hám Sơn.

[62] Đại Điên Bảo Thông (732-824), người xứ Dĩnh Châu, họ Trần, pháp hiệu Bảo Thông, tự đặt hiệu là Đại Điên Hòa Thượng. Trong niên hiệu Đại Lịch, Sư theo học với ngài Dược Sơn Duy Nghiễm, rồi qua Nam Nhạc tham yết ngài Thạch Đầu Hy Thiên, đại ngộ tông chỉ, được nối pháp Tào Khê. Sư dựng Linh Sơn thiền viện tại dưới rặng Tây U ở Triều Châu, ra vào thường có cọp đi theo, môn nhân hơn ngàn người. Lúc ấy, Đường Hiến Tông thờ phụng xá-lợi trong cung, cảm được xá-lợi phóng quang, quần thần dâng biểu chúc mừng, riêng Hàn Dũ lại dâng sớ can vua đừng mê tín đạo Phật, đòi đốt kinh Phật, dẹp chùa, đuổi Tăng về làm dân. Vua tức giận, đày Hàn Dũ đi Triều Châu. Tới Triều Châu, nghe danh Đại Điên, Hàn Dũ bèn mời tới, giữ lại hơn mười ngày, định dùng lời lẽ đánh bại Sư. Rốt cuộc, Hàn Dũ hết sức khâm phục Sư, thường lui tới hỏi đạo, tà kiến báng Phật cũng giảm dần. Sư từng tự chép kinh Kim Cang một ngàn năm trăm biến, chép Pháp Hoa, Duy Ma mỗi kinh ba mươi bộ. Trước thuật gồm hai bộ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Thích Nghĩa và Kim Cang Kinh Thích Nghĩa. Tháp Sư được dựng bên chùa. Cuối đời Đường, giặc giã phá tháp, thấy xương sọ đã tiêu hết, chỉ còn lưỡi vẫn tươi nhuận như khi còn sống, bèn chôn đàng hoàng, gọi là Ế Thiệt Trủng (mồ chôn lưỡi). Đến niên hiệu Chí Đạo đời Tống, người trong vùng lại đào lên, chỉ thấy lưỡi vẫn còn, bèn chồng đá dựng tháp, đặt tên là Thiệt Kính Tháp (Tháp gương lưỡi).

[63] Minh Giáo Đại Sư chính là ngài Khế Tung (1007-1072), một vị cao tăng thuộc tông Vân Môn sống vào đời Tống, quê ở Đàm Tân, Đằng Châu (nay là huyện Đằng tỉnh Quảng Tây), tự Trọng Linh, hiệu Tiềm Tử. Sư xuất gia năm bảy tuổi, mười ba tuổi được thế phát, thọ giới, mười chín tuổi đi tham học khắp nơi, đầu thường đội tượng Quán Âm, mỗi ngày trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát mười vạn câu. Về sau, Sư đắc pháp nơi thiền sư Hiểu Tông thuộc tông Tào Động. Sư đọc trọn khắp các kinh điển, sách vở, rất giỏi văn chương, thường nhấn mạnh thuyết “Nho - Phật nhất trí”. Khi Âu Dương Tu cực lực bài xích đạo Phật, dùng những lời lẽ báng Phật để mê hoặc Tống Nhân Tông, Sư soạn Phụ Giáo Biên dâng lên vua, vua đọc xong hết sức khâm phục, sai Hàn Kỳ đưa cho Âu Dương Tu coi, họ Âu kinh ngạc, nói: “Không ngờ trong Tăng chúng có được người như thế?” bèn xin Hàn Kỳ cho gặp mặt. Khi gặp Sư, Âu Dương Tu cật vấn suốt cả ngày, bị Sư hoàn toàn khuất phục, từ đó không báng Phật nữa. Ngoài bộ luận Phụ Giáo Biên nổi tiếng ra, Sư còn trước tác những cuốn Truyền Pháp Chánh Tông Định Tổ Đồ, Truyền Pháp Chánh Tông Ký v.v… Những trước tác của Sư được Tống Nhân Tông hết sức ngưỡng mộ, hạ lệnh đưa vào Đại Tạng, ban tặng cho Sư ca-sa tía và ban hiệu là Minh Giáo đại sư. Sau khi Sư thị tịch tại chùa Linh Ẩn vào năm Hy Ninh thứ năm (1072), môn nhân thâu thập những ngữ lục của Sư soạn thành bộ Đàm Tân Văn Tập, 20 quyển

[64] Hai ông Trình là anh em Trình Di, Trình Hạo, Trương là Trương Tải, Châu là Châu Hy, đều là những nhà sáng lập ra Lý Học. Mậu Thúc là tên tự của Châu Đôn Di, cũng là một nhà Lý Học.

[65] Tân La (Silla) là một trong ba vương quốc cổ thuộc lãnh thổ Đại Hàn hiện thời, còn Tiêm La là gọi tắt từ chữ Tiêm La Hộc (tức tên gọi gộp chung của hai vương quốc Siam và Lwo), một vương quốc cổ tại Thái Lan. Trong ba nước cổ của Đại Hàn, Cao Câu Ly (Koguryo) lớn nhất, tồn tại từ năm 37 trước Công Nguyên cho đến năm 668. Địa phận nước này bao gồm vùng Đông Bắc Trung Hoa (gần trọn vùng Mãn Châu hiện thời) và ¾ bán đảo Triều Tiên (Joseon). Quốc gia này do Đông Minh Thánh Thái Vương Cao Châu Mông (Jumong) sáng lập. Bách Tế (Baekje) khá nhỏ, nằm ở vùng Tây Nam của bán đảo Triều Tiên, tồn tại từ năm 18 trước Công Nguyên đến năm 660 thì bị Tân La liên minh với nhà Đường thôn tính tiêu diệt. Theo truyền thuyết, Bách Tế được sáng lập bởi Ôn Tộ (Onjo), con thứ của Châu Mông, sau khi bị anh dòng đích là Lưu Ly Vương (Yuri) đàn áp phải trốn khỏi Cao Câu Ly. Ôn Tộ đặt quốc đô tại Úy Lễ Thành (Wiryeseong, nay thuộc phụ cận Seoul). Tân La (57 trước Công Nguyên đến 935) nhỏ nhất, nằm ở Đông Nam Hàn quốc hiện thời. Theo truyền thuyết, vua sáng lập Tân La là Hách Cư Thế (Hyeokgeose) vốn là thần nhân từ trên trời cưỡi bạch mã xuống nhân gian, đóng đô tại Kim Thành (Geumseong, nay là Khánh Sơn - Gyongsan), xưng quốc hiệu là Từ La Phạt (Seora-beol). Vào thời kỳ đầu, ba bộ tộc lớn là họ Phác (Pak), họ Tích (Seok) và họ Kim tranh giành quyền cai trị Từ La Phạt. Đến năm 356, Nại Hốt Vương (Naemul) họ Kim giành được uy quyền tuyệt đối, trở thành hoàng gia vĩnh viễn của Từ La Phạt. Như vậy, ngài Kim Kiều Giác là hậu duệ của Nại Hốt Vương. Đến năm 503, mới chánh thức đổi tên vương quốc Từ La Phạt thành Tân La. Khi nhà Đường diệt Bách Tế và Cao Câu Ly, Tân La thừa cơ chiếm trọn bán đảo Triều Tiên, trở thành một vương quốc hùng mạnh. Đến năm 780, khi Huệ Cung Vương (Hyegong) chết, trong triều đình xảy ra chuyện tranh giành ngôi vua, vương quốc Tân La lâm vào cảnh quân phiệt cát cứ. Cho đến năm 901, Tân La bị chia thành ba mảnh nhỏ: Tân La, Hậu Bách Tế và Hậu Cao Câu Ly. Sử gọi là Hậu Tam Quốc thời đại. Về sau, Vương Kiến (Wang Geon) xứ Hậu Cao Câu Ly đánh bại hoàng tộc ba nước, thống nhất sơn hà, đổi tên nước thành Cao Ly (Goryeo).