| |
Chương IX: Đệ Cửu Yếu
Niệm Phật Phải An Nhẫn Các Chướng
Duyên
Khải
Đề:
Cửa rồng tăm
cá vượt
Đỉnh nhạn bóng chim qua
Khách đi nghìn dặm biệt sơn hà
Đường tu gian khổ
Chướng ngại trải hằng sa
Nghịch thuận duyên ma khảo
Thương ghét nợ oan gia
Khá thương kham nhẫn cõi Ta Bà
Khổ vui bao quản
Vinh nhục tợ sương hoa
Nhẫn nại bền lòng tinh tiến mãi
Ác vàng thỏ bạc
Năm tháng sẽ dần dà...
Mục A. Nói
Lược Về Các Duyên Khảo
Tiết 62
Vài Nguyên Nhân Của Các Chướng Duyên
Các bậc tiền
bối trong làng tu thường bảo: "Khi phát nguyện làm những công đức rộng lớn, hay
tu hành, thường gặp nhiều chướng duyên khảo đảo thử thách." Người xuất gia có
bốn giai đoạn mà chướng duyên thường phát hiện là: khi cạo tóc vào chùa, lúc thọ
giới, khi học kinh điển nhứt là kinh Đại Thừa, và lúc gác bỏ mọi việc để tịnh
tu. Có nhiều vị đã gieo sẵn duyên lành, hoặc do sức cố gắng tinh tấn nên dễ dàng
vượt qua ba giai đoạn trước, bước sang mức thứ tư. Nhưng đến khi tu hành tiến
lên trình độ khá cao, tất khó tránh khỏi chướng duyên phát hiện. Như Hư Vân
thượng nhơn, một cao tăng cận đại, trong khi tinh tấn dụng công tham thiền,
nghiệp chướng bỗng phát hiện làm cho ngài bị đui, điếc và câm trong ba tuần
nhựt. Duyệt qua truyện cũ, bút giả nhớ một vị họ Tô, cất am riêng ở chỗ thanh
vắng tham thiền, đem một người theo giúp việc. Ban sơ ông tập ngồi từ một, hai
giờ rồi lần lần tăng tiến có thể ba ngày đêm ở luôn trong định. Một độ nọ, Tô cư
sĩ thiền định luôn hai mươi mốt ngày không ăn uống. Người tùy cận thấy ông ngồi
quá lâu, đến gần dò xem thì hơi thở ra vào đã tuyệt, không còn thoi thóp như mấy
lần trước. Y không biết đó là trạng thái sâu mầu của thiền định, lầm tưởng cư sĩ
đã chết, liền đem ông đi chôn sống luôn.
Lại có một vị
tăng tu Tịnh Độ, niệm Phật mỗi ngày đêm đến mười muôn câu. Do công đức niệm
Phật, chỗ đất của sư đi đều hóa ra sắc vàng ròng. Một hôm có người nạn dân đến
xin tá túc. Sư nhìn người ấy rồi nói riêng với thị giả: "Gã này có tướng đạo
tặc, ngươi nên cho y ăn no rồi hãy bảo ra khỏi nơi đây." Ông đạo nhỏ vì lòng
thương xót, thấy người kia nài nỉ mãi, lưu luyến chưa nỡ đuổi. Quả nhiên ít hôm
sau, người ấy nửa đêm lén vào phòng sư, bẻ gãy chân tay giết ông chết, trộm một
ít đồ trong am rồi bỏ đi luôn.
Hai trường
hợp trên cổ đức bình luận cho là sức định nghiệp không thể tránh khỏi. Người tu
có ba chướng là: phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng, mà sức nghiệp
chướng lại nặng nề nguy hiểm hơn hai thứ kia. Nhưng tại sao khi chưa tu thì
chẳng có chi, đến lúc tu hành càng cao lại thường gặp nhiều chướng nạn? - Đó
cũng bởi chúng ta là phàm phu thời mạt pháp, cố nhiên phần đông chướng duyên đều
nặng. Nếu chúng ta nghiệp nhẹ, tất đã sanh vào thời tượng pháp hoặc chánh pháp
rồi. Nhưng không phải do tu hành nên phát sanh chướng nạn, mà đó là sức chuyển
nghiệp, chuyển quả báo nặng thành quả báo nhẹ, chuyển quả báo đời sau thành quả
báo hiện tại. Giả sử ta có mười phần nghiệp chướng, do công đức tu nên tiêu trừ
được bảy phần, còn phát hiện ra ba phần. Và đáng lẽ quả báo ấy đến sau mới trả,
nhưng nhờ sức tu niệm, nên chỉ chịu quả nhẹ trong kiếp này để mau được giải
thoát.
Như Giới Hiền
luận sư tiền kiếp là một vị quốc vương đem binh đi đánh dẹp các nơi, tạo nghiệp
sát quá nhiều, đáng lẽ đến đời này sau khi hưởng phước thừa rồi chết, sẽ phải bị
đọa vào địa ngục. Nhưng nhờ Luận Sư chí tâm tu hành và hoằng dương Phật pháp,
nên mỗi ngày ông bị một cơn bịnh trạng như có nhiều lưỡi gươm vô hình đâm chém
trong thân. Như thế trải qua hai năm bịnh mới dứt. Do duyên đó mà luận sư tiêu
được nghiệp địa ngục, sanh lên cõi Đâu Suất Đà Thiên. Lại như ông Ngô Mao tiền
nhân cũng tạo nghiệp sát, đáng lẽ phải đọa làm heo bảy kiếp cho người giết.
Nhưng nhờ ông trường trai niệm Phật, nên khi thọ số mãn, bị giặc đâm bảy dao trả
nghiệp xong một lần, rồi được vãng sanh về Cực Lạc. Nói tóm lại, lời tục gọi đó
là trạng thái “dồn nghiệp”.
Tuy nhiên,
không phải mỗi người tu đều bị trả quả. Có người càng tu càng có điểm tốt, càng
được an thuận, không bị trở ngại chi. Đó là do vị ấy những kiếp về trước không
tạo nghiệp chi quá nặng, hoặc đã từng tu niệm và có nhiều căn lành. Nhưng luận
theo phần đông, đại khái nếu không gặp những chướng ngại lớn, cũng vấp phải
những chướng ngại nhỏ. Ngoài những trở ngại của ngoại duyên, lại còn có ba
nguyên nhân phát sanh chướng nghiệp:
1. Cứ theo
tông Pháp Tướng, trong tạng thức của ta có chứa lẫn lộn những nghiệp chủng lành
dữ. Khi niệm Phật hay tham thiền, ta huân tập hạt giống công đức vô lậu vào, tất
các nghiệp chủng kia phải phát hiện. Ví như một khu rừng rậm nhiều thú, nếu có
dân cư đến khai hoang, tất cây cối bị đốn, các loài thú đều chạy ra. Cảnh tướng
và phiền não chướng duyên do nghiệp chủng phát hiện cũng thế. Đây gọi là sức
phản ứng của chủng tử nghiệp.
2. Có những
vị tu hành chẳng am tường giáo lý, không hiểu những tướng của nội tâm và ngoại
cảnh đều như huyễn, chưa phát minh thế nào là chân và vọng, nên nhận định sai
lầm. Do đó đối với cảnh duyên trong ngoài sanh niệm tham chấp, vui mừng, thương
lo, sợ hãi, mà tự gây chướng nạn cho mình.
3. Lại ví như
người theo họa đồ đi tìm mỏ vàng, đường sá phải trải qua non cao, vực thẳm, đồng
vắng, rừng sâu, bước hành trình tất phải nhiều công phu và gian lao khổ nhọc.
Nếu người ấy không vững lòng, không biết tùy sức tùy hoàn cảnh mà nhẫn nại uyển
chuyển, tất phải thối lui. Hoặc có khi bỏ cuộc ghé vào một cảnh tạm nào đó, hay
chết giữa đường. Lộ trình tu tập cũng thế, hành giả tuy y theo kinh giáo mà thật
hành, song nếu không biết tùy sức tùy hoàn cảnh nhẫn nại uyển chuyển, sự lập chí
không bền lâu, tất sẽ thất bại. Chướng nạn đó cũng do chính mình gây ra.
Trên đây là
đại lược một ít nguyên nhân của các điều chướng ngại.
Tiết 63
Các Duyên Ma Khảo
Những duyên
nghiệp khảo đảo gây chướng ngại cho người tu, có rất nhiều chi tiết sai biệt.
Nay chỉ xin tóm tắt đại cương qua sáu điểm:
1. Nội Khảo:
- Có người trong lúc tu tập, bỗng khởi lên những tâm niệm tham lam, giận hờn,
dục nhiễm, ganh ghét, khinh mạn, nghi ngờ, hoặc si mê dễ hôn trầm buồn ngủ.
Những tâm niệm ấy đôi khi phát hiện rất mãnh liệt, gặp duyên sự nhỏ cũng dễ sanh
cau có bực mình. Nhiều lúc trong giấc mơ, lại thấy các tướng thiện ác biến
chuyển. Trong đây những tình tiết chi ly không thể tả hết được. Gặp cảnh này,
hành giả phải ý thức đó là do công năng tu hành nên nghiệp tướng phát hiện. Ngay
lúc ấy, nên giác ngộ các nghiệp tướng đều như huyễn, nêu cao chánh niệm, tự
nhiên những tướng ấy sẽ lần lượt tiêu tan. Nếu không nhận thức rõ ràng, tất bị
nó xoay chuyển làm cho thối đọa. Tiên đức bảo: "Chẳng sợ nghiệp khởi sớm, chỉ e
giác ngộ chậm," chính là điểm này. Có người đang lúc dụng công, bỗng phát sanh
tán loạn, mỏi nhọc khó cưỡng nỗi. Ngay khi ấy, nên đứng lên lễ Phật đi kinh
hành, hoặc tạm xả lui ra ngoài đọc một vài trang sách, sửa năm ba cành hoa, chờ
cho thanh tĩnh sẽ trở vào niệm Phật lại. Nếu không ý thức, cứ cưỡng ép cầu cho
mau nhứt tâm, thì càng cố gắng lại càng loạn. Đây là sự uyển chuyển trong lúc
dụng công, ví như thế giặc quá mạnh tợ nước tràn, người chủ soái phải tùy cơ,
nên cố thủ chớ không nên ra đánh. Có vị tu hành, khi niệm Phật bỗng thấy cô tịch
như bản đàn độc điệu dễ sanh buồn chán, thì không ngại gì phụ thêm trì chú, quán
tưởng, hoặc tụng kinh.
Nhân tiện,
xin thuật ra đây một việc để cho các bạn đồng tu thêm phần nhận thức. Có một nữ
Phật tử đến chỗ bút giả buồn khóc, thưa thật rằng: mỗi khi cô niệm Phật tụng
kinh độ vài mươi phút là ngủ gục lúc nào không hay, có khi tiểu tiện ngay trước
bàn Phật. Do đó cô sợ tội bỏ luôn không dám tụng niệm. Bút giả khuyên cô nên
chuyên sám hối trong một thời gian. Quả nhiên ít lâu sau cô dứt hẳn nghiệp tướng
ấy, lại nằm mơ thấy nhiều vỏ ốc, đập mỗi vỏ ốc ra thấy một hạt sen. Cô này
nghiệp si nặng, vỏ ốc là hiện tướng của nghiệp si, đập vỏ ốc thấy hạt sen là phá
si mê mà thành tựu nhân lành giác ngộ vãng sanh về cõi Phật.
Lại có một vị
sa di trần thuật lại rằng: Cứ ít đêm chú nằm mơ, thấy ba bốn mươi người cầm dao
gậy đến đánh chém. Chú thay đổi trì Đại Bi rồi Chuẩn Đề chân ngôn đều không
thành tựu, vì mỗi lần tụng độ ít biến là nhức đầu cả ngày, uống thuốc cũng không
khỏi. Biết mình nghiệp nặng, chú phát nguyện lạy Tam Thiên Phật để sám hối.
Nhưng khi lên chùa lễ Phật thì thấy một người tướng mạo cao lớn hung dữ đến xô
té không cho lạy. Do đó chú đến buồn khóc bảo: Có tội thì sám hối tu hành, nhưng
sám hối tu hành không được, chẳng biết phải làm sao? Bút giả nghe xong suy nghĩ,
biết vị này nghiệp sát nặng, mà chú Đại Bi cùng Chuẩn Đề có sức phá nghiệp khá
mạnh, và tâm nguyện lạy Tam Thiên Phật là điều nguyện rộng lớn. Đây là lỗi ở chỗ
chỉ biết cầu riêng phần mình mà không cầu cho các vong oan trái, và cách dụng
công phá nghiệp không khéo uyển chuyển. Ví như người yếu bị bịnh phong nặng,
đáng lẽ phải dùng các vị thuốc nhẹ như Phòng Phong, Kinh Giới lần lượt tiêu trừ,
mà trái lại vì muốn cho mau lành, dùng đến các vị thuốc mạnh như Mã Tiền, Bã Đậu
để khu phong, tất con bịnh bị hành hạ chịu không nổi. Do đó bút giả khuyên chú
mỗi đêm nên thử lạy Tiểu Sám Hối theo Kinh Pháp Hoa, rồi quì tụng Vãng Sanh hăm
mốt biến, đoạn niệm Phật độ năm trăm câu để cầu tiêu tội, và nguyện cho các mối
tiền oan được mau siêu thoát. Cứ hành trì như thế trong một thời gian, nếu thấy
yên ổn, có thể lần lượt tăng thêm. Chú sa di y theo lời, quả nhiên trạng thái ấy
dứt tuyệt.
Trên đây là
những nghiệp tướng khảo đảo bên trong, nếu không biết giác ngộ uyển chuyển phá
trừ, tất sẽ thành ra chướng nạn.
2. Ngoại
Khảo: - Đây là những chướng cảnh bên ngoài làm duyên khó khăn thối đọa cho hành
giả. Chứng cảnh đó là sự nóng bức, ồn ào, uế tạp, hoặc chỗ quá rét lạnh hay
nhiều trùng, kiến, muỗi mòng. Gặp cảnh này cũng nên uyển chuyển, đừng chấp theo
hình thức, chỉ cầu được an tâm. Chẳng hạn như ở cảnh quá nóng bức, chẳng ngại gì
mặc áo tràng mỏng lễ Phật, rồi ra ngồi chỗ mát mà trì niệm, đến khi xong lại trở
vào bàn Phật phát nguyện hồi hướng. Hoặc gặp chỗ nhiều muỗi, có thể ngồi trong
màn thưa mà niệm Phật. Như ở miền Bắc Trung Hoa vì thời tiết quá lạnh, các sư
khi lên chánh điện tụng kinh, cũng phải mang giày vớ và đội mũ cẩn thận. Có hàng
Phật tử vì nhà nghèo, làm lụng vất vả, đi sớm về khuya, hoặc nợ nần thiếu hụt,
rách rưới đói lạnh, vợ yếu con đau, không có chỗ thờ cúng trang nghiêm. Trong
hoàn cảnh ấy sự tu tập thật ra rất khó, phải có sự nhẫn nại cố gắng như bà lão
ăn xin niệm Phật, mới có thể thành công. Hoặc có người vì nhiều chướng nghiệp,
lúc không tu thì thôi, khi sắp vào bàn Phật lại nhức đầu, chóng mặt sanh đủ
chứng bịnh, hay có khách viếng thăm và nhiều việc bất thường xảy đến. Gặp những
cảnh như thế, phải cố gắng và khéo uyển chuyển tìm phương tu hành. Sự cố gắng
uyển chuyển tùy trường hợp sai biệt mà ứng dụng không thể nói ra hết được. Nên
nhớ gặp hoàn cảnh bất đắc dĩ, phải chú trọng phần tâm đừng câu nệ phần tướng mới
có thể dung thông. Cõi Ta Bà ác trược vẫn nhiều khổ lụy, nếu không có sức cố
gắng kham nhẫn, tất sự tu hành khó mong thành tựu.
3. Nghịch
Khảo: - Trên đường đạo, nhiều khi hành giả bị nghịch cảnh làm cho trở ngại. Có
người bị cha mẹ anh em hay vợ chồng con cái ngăn trở hoặc phá hoại không cho tu.
Có vị thân mang cố tật đau yếu mãi không lành. Có kẻ bị oan gia luôn theo đuổi
tìm cách mưu hại. Có người bị vu oan giá họa, khiến cho ngồi tù chịu tra khảo
hoặc lưu đày. Có vị bị sự tranh đua ganh ghét, hoặc bêu rao nhiều tiếng xấu xa,
làm cho khó an, khó nhẫn. Điều sau này lại thường xảy ra nhiều nhứt. Những cảnh
ngộ như thế đều do sức nghiệp. Lời xưa từng nói: "Hữu bất ngu chi dự, hữu cầu
toàn chi hủy." Câu trên hàm ý nghĩa: Có những tiếng khen, những vinh dự bất ngờ,
không đáng khen mà được khen; và có những sự kiện thật ra không đáng khinh chê,
lại diễn thành cảnh khinh hủy chê bai trọn vẹn. Để chứng minh điểm này, bút giả
xin thuật một vài việc nhỏ:
Trước đây vào
thời Pháp thuộc, có một vị hòa thượng được triều đình Huế ban cho bằng Tăng
Cang, và phong tặng hiệu chùa là Sắc Tứ. Do đó đi đâu hòa thượng đều có xe ngựa
và bê son, tích trượng theo hầu, thậm chí lúc lên xuống đò cũng có người võng.
Một tên du đãng thấy thế bất mãn chưởi thề, rồi tuyên ngôn để đến ngày Rằm tháng
Bảy sẽ lên chùa xài mắng hòa thượng một trận trước mặt các tín đồ. Đến ngày ấy,
tên du đãng sau khi uống rượu xong, ở trần vắt áo lên chùa, gặp dịp một người
Phật tử đem con quy nhờ hòa thượng chú nguyện thả nơi ao sen. Thấy quang cảnh
ấy, y bỗng cảm động, trở về kêu đồng bọn lên chùa quy y, rồi từ đó đi đâu cũng
khen hòa thượng là bậc hiền lành đạo đức. Cho đến việc hầu hạ võng giá, y cũng
nói là do thầy mình có phước.
Lại câu
chuyện xảy ra cách đây không lâu, có hai Phật tử ở xa đến viếng thăm một vị
thượng tọa đồng hương đã từng quen thân từ trước. Khi đến chùa thì vị thượng tọa
vừa đi khỏi cách đó độ mười lăm phút. Hai người gạn hỏi, ông thị giả nói thầy
vừa đi khỏi; hỏi mấy vị khác, họ không biết bảo là mới thấy thầy ở đây. Chỉ một
chút đó mà hai Phật tử ấy sanh lòng nghi ngờ vị thượng tọa không muốn tiếp mình,
từ biệt luôn không đến chùa, rồi đi đâu cũng chê bai vị thượng tọa nọ gồm những
điều không đức hạnh.
Thật ra, cung
cách của vị hòa thượng trên không đáng khen mà được khen. Và hành động vô tâm
của vị thượng tọa kể sau không có gì đáng chê, lại bị hiểu lầm khinh hủy. Thế
gian cho đó là điều may rủi, thuyết nhân quả nhà Phật nhận định là lúc nghiệp
duyên tội phước hiện ra. Cổ thi có câu:
Vẻ chi ăn
uống sự thường.
Cũng là tiền định khá thương lọ là.
Một việc nhỏ
đã như thế, thì tất cả các nghịch cảnh khác đều do túc nghiệp, hoặc hiện nghiệp
xui khiến. Khi gặp những cảnh này hành giả chỉ nên ẩn nhẫn sám hối, chớ buồn
phiền oán trách mà thối thất đạo tâm.
4. Thuận
Khảo: - Có người không gặp cảnh nghịch mà lại gặp cảnh thuận, như cầu gì được
nấy, nhưng sự thành công đều thuộc duyên ràng buộc chớ không phải giải thoát. Có
vị khi phát tâm muốn yên tu bỗng cảnh danh lợi sắc thanh chợt đến, hoặc nhiều
người thương mến muốn theo phụng sự gần bên. Thí dụ như người xuất gia khi phát
tâm tu, bỗng có kẻ đến thỉnh làm tọa chủ một ngôi chùa lớn; hoặc như người tại
gia thì có thơ mời làm tổng, bộ trưởng, hay một cuộc làm ăn mau phát tài. Đây là
những cảnh thuận theo duyên đời quyến rũ người tu, rồi dẫn lần đến các sự phiền
toái khác làm mất đạo niệm. Người ta chết vì lửa thì ít, mà chết vì nước lại
nhiều, nên trên đường tu cảnh thuận thật ra đáng sợ hơn cảnh nghịch. Cảnh nghịch
đôi khi làm cho hành giả tỉnh ngộ dễ thoát ly niệm tham nhiễm, hoặc phẫn chí lo
tu hành. Còn cảnh thuận làm cho người âm thầm thối đạo lúc nào không hay, khi
bừng tỉnh mới thấy mình đã lăn xa xuống dốc. Người xưa nói: "Việc thuận tốt được
ba. Mê lụy người đến già." Lời này đáng gọi là một tiếng chuông cảnh tỉnh. Thế
nên duyên thử thách của sự thuận khảo rất vi tế, người tu cần phải lưu ý.
5. Minh Khảo:
- Đây là sự thử thách rõ ràng trước mắt mà không tự tỉnh ngộ. Chẳng hạn như một
vị tài đức không bao nhiêu, nhưng được người bưng bợ khen là nhiều đức hạnh, tài
năng, có phước lớn, rồi sanh ra tự kiêu tự đắc, khinh thường mọi người, làm
những điều càn dở, kết cuộc bị thảm bại. Hoặc một vị có đủ khả năng tiến cao
trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác gàn trở, như bảo ăn chay sẽ bị bịnh, niệm Phật,
trì chú nhiều sẽ bị đổ nghiệp, gặp nhiều việc không lành, rồi sanh ra e dè lo
sợ, thối thất đạo tâm. Hoặc có những cảnh tự mình biết nếu tiến hành dễ rước lấy
sự lỗi lầm thất bại, nhưng vì tham vọng hay tự ái, vẫn đeo đuổi theo. Hoặc đối
với các duyên bên ngoài, tuy biết đó là giả huyễn nhưng không buông bỏ được, rồi
tự chuốc lấy sự buồn khổ vào tâm.
Như có một vị
sư đổ ra nhiều công của mướn thợ chẻ đá, thợ mộc, thợ hồ, xây cất một cảnh chùa
to trên núi. Khi ngôi tự viện vừa hoàn thành, thì sư cũng vừa kiệt sức mang bịnh
nặng. Lúc sắp chết, ông sai đệ tử võng đi quanh chùa rờ từ viên đá buồn khóc
tiếc than!
Lại trước đây
có một tăng sĩ địa vị trong đạo khá cao, tánh tình chân thật rộng rãi ưa bố thí,
nhưng vấp phải một khuyết điểm là hay tự đắc, tự kiêu. Vài chánh khách thấy được
chỗ đó, đem một nhà tướng sĩ đến giả vờ thăm chơi, rồi thuận tiện nhìn qua khen
sư nhiều phước tướng, tất được vô số người ủng hộ, danh vọng càng thành đạt tiến
cao. Ông ấy lại nói thêm, nếu sư thích hoạt động, sẽ thành một tay lãnh tụ, và
như ở ngoài đời có thể làm đến tổng thống. Sư nghe xong tuy khiêm nhường đôi
tiếng, nhưng lộ vẻ cực kỳ hoan hỷ. Nhân đó, các chánh khách than vãn thời thế,
thương dân chúng khổ não, vận nước suy đồi, rồi dần dà thuyết phục lôi cuốn sư
vào một cuộc vận động chánh trị. Và cũng bởi đó, sư bị tai nạn trong một thời
gian khá lâu.
Thế nên kẻ dễ
dãi nhẹ dạ thường hay bị phỉnh gạt. Khi chưa diệt được tham vọng dễ bị người
khác dùng tiền tài, sắc đẹp hoặc danh vị cuốn lôi. Cho đến nếu còn tánh nóng nảy
khí khái, tất dễ bị người khích động, gánh vác lấy những việc phiền phức vào
thân. Đây là những cạm bẫy của đời mà cũng là của đạo, xin nêu ra để khuyên nhắc
cùng nhau, nếu không dè dặt những điểm đó, sẽ vương vào vòng chướng nghiệp. Đối
với những duyên thử thách như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt, và
sanh lòng quả quyết tiến theo đường lối hợp đạo mới có thể thắng nó được.
6. Ám Khảo: -
Điều này chỉ cho sự thử thách trong âm thầm không lộ liễu, hành giả nếu chẳng
khéo lưu tâm, tất khó hay biết. Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia
kế lần sa sút, làm điều chi thất bại việc ấy, sanh lòng lo lắng chán nản, trễ bỏ
sự tu. Có vị công việc lại âm thầm tiến triển thuận tiện rồi ham mê đeo đuổi
theo lợi lộc mà quên lãng đường lối tu hành. Có kẻ trước tiên siêng năng tụng
niệm, nhưng vì thiếu sự kiểm điểm, phiền não ở nội tâm mỗi ngày tăng thêm một
ít, lần lượt sanh ra biếng trễ, có khi đôi ba tháng hay một vài năm không niệm
Phật được một câu. Có người tuy sự sống vẫn điều hòa đầy đủ, nhưng vì thời cuộc
bên ngoài biến chuyển, thân thế nhà cửa nay đổi mai dời, tâm mãi hoang mang
hướng ngoại, bất giác quên bỏ sự trì niệm hồi nào không hay.
Trên đây đều
là ảnh hưởng diễn biến của nghiệp thiện ác, nhưng nó có sức thầm lôi cuốn hành
giả làm cho bê trễ sự tu trì, nên gọi là "khảo". Khi mới tu, ai cũng có một điểm
hảo tâm, nhưng lần lượt bị những duyên nghiệp trong ngoài, một trăm người đã rớt
hết chín mươi chín. Lời xưa nói: "Tu hành nhứt niên Phật tại tiền, nhị niên Phật
tại tây thiên, tam niên vấn Phật yếu tiền." Câu này có ý nghĩa: sự tu hành năm
đầu Phật như ở trước mặt, năm thứ hai Phật đã về Tây, sang năm thứ ba ai muốn
hỏi đến Phật hay bảo niệm Phật, phải trả tiền mới chịu nói tới, hoặc niệm quá ít
câu. Lời ngụ ngôn này cũng chỉ vào những điểm ở trên, hành giả cần phải lưu tâm
chú ý.
Mục B.
Phương Thức Hóa Giải Chướng Duyên
Tiết 64
Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức
Khi mới vào
chùa, bút giả nghe được một truyền thuyết bao hàm ẩn ý, mà không biết có đúng
với nguyên ngữ chăng, và phát xuất từ đâu? Câu ấy là: "Phật cao nhứt xích, ma
cao nhứt trượng, Phật cao nhứt trượng, ma cao quá trượng đầu, Phật cao siêu quá
trượng đầu, ma quy hàng Phật." Ý nghĩa câu này là: "Phật cao một thước, ma cao
một trượng. Phật cao một trượng, ma cao khỏi đầu trượng; nếu Phật cao vượt khỏi
đầu trượng nữa, ma sẽ quy hàng Phật." Suy gẫm theo câu trên, người tu phải làm
sao cho ông Phật của mình cao hơn con ma, nếu chẳng thế tất bị ma chướng đánh
đổ. Cho nên trong làng tu, những kẻ bị thối bại không nên đổ cho hoàn cảnh, hoặc
phiền trách ai, chỉ trách tại ông Phật của mình thua con ma mà thôi. Nếu cố gắng
giữ vững chí nguyện, ma chướng sẽ tiêu trừ. Vì biết trên đường tu có nhiều
chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm phương châm tiến
đạo cho hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh
và Vô Sở Cầu Hạnh.
1. Sao gọi là
Báo Oan Hạnh? - Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáu nẻo, mỗi đời đều
gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ việc nhỏ đến việc lớn, có thể nói là vô
lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tu tập tiêu trừ một
phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đền trả. Như người thường
đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sát sanh. Người bị nhiều tiếng
thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo
nghiệp hủy báng. Người bị nghèo khổ thiếu hụt, do kiếp trước không có lòng xót
thương tu hạnh bố thí. Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói
buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh. Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ,
do kiếp trước không hoan hỷ kết duyên với mọi người. Những nghiệp như thế vô
lượng vô biên, ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu
đền trả, không nên oán trách buồn phiền. Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có ăn
uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát và nghiệp ái
là nặng nhứt. Cổ đức đã than: "Bể nghiệp mênh mang, khó đoạn không chi hơn ái
dục. Cõi trần man mác, dễ phạm duy chỉ có sát sanh!"
- Bút giả
từng nghe một Phật tử Bắc Việt thuật lại câu chuyện, vì lâu quá chỉ nhớ phần đại
khái, quên mất tên họ địa chỉ của người trong cuộc. Phật tử ấy nói: "Có một vị
sư nguyên là thầy giáo, vì tỉnh ngộ cảnh thế phù du, nên lên tịnh tu trên núi.
Trải một thời gian, vị sư được chư thần mách bảo rằng: ‘Ông có duyên nợ mười
chín năm với một cô tên họ là thế, nay tuy đã tu hành không nên kết duyên chồng
vợ, nhưng phải xuống núi dạy dỗ giác ngộ cô kia, trả xong mối nợ tiền khiên đúng
như thời hạn ấy, rồi trở lên núi tu hành mới có thể thành công’. Vị sư y lời
xuống núi, quả nhiên gặp một cô tên họ đúng như chư thần đã bảo, cảm mến đeo
đuổi. Sư khuyên nhủ dạy đạo cho cô, trả xong y theo thời hạn rồi lên núi. Lúc
lâm biệt cô ấy vẫn còn quyến luyến khóc lóc." Đây là sự trả nợ nần về nghiệp ái.
Nơi truyện
Quần Tiên, nhân tiết Trung Thu, chàng văn sĩ Vân Tiêu lên núi chơi. Trong đêm
Rằm, chàng mục kích chư tiên nương mây cỡi hạc giáng xuống một tòa thạch bàn,
bày tiệc trái ngon rượu quý, vừa đàn ngâm hát rằng:
Đêm Thu một
khắc một chầy
Vầng trăng khéo rọi cảnh này sơn âm!
Nghiêng bầu hỏi bạn đồng tâm
Hằng Nga khuất bóng biết tìm nơi đâu?
Bên tiên nữ
có một nàng tên là Thái Loan, sắc đẹp dịu dàng, ca ngâm hay nhất, làm cho Vân
Tiêu tuy ẩn bóng rình nghe, cũng bàng hoàng xúc động. Giây lát sau, một vị lão
tiên uống rượu xong, ca rằng:
Hữu duyên
tương hội tại tiên đàn
Ưng đắc Vân Tiêu giá Thái Loan!
Nghe hai câu
ấy, Vân Tiêu phải chường mặt ra dự vào đàn tiên. Chư tiên bảo Thái Loan tiên nữ
còn trần duyên với Vân Tiêu mười ba năm, truyền đồng tử đem sổ ra xóa bỏ tiên
tịch. Và sau mười ba năm sống với Vân Tiêu, trần duyên đã mãn, Thái Loan dùng
phép ẩn thân bay về non tu lại. Cho nên chư tiên vẫn còn ở trong vòng nhân duyên
kiếp quả.
Về nghiệp
sát, như Sư Tử tôn giả bên Ấn Độ và Thần Quang nhị tổ ở Trung Hoa tuy đều đắc
đạo, nhưng ngày kết liễu vẫn phải an nhiên chịu chém để đền nợ mạng. Lại như
ngài Mục Kiền Liên tuy đắc quả A La Hán, thần thông bậc nhất trong hàng Thanh
Văn, nhưng vì muốn trả túc nghiệp, nên để bọn hung đồ dùng đá gậy liệng đánh cho
đến chết, thi hài lại bị vùi trong hầm phẩn. Đức Phật thấy thế thương xót, sai
đệ tử đem thây Ngài lên tắm rửa sạch sẽ, xoa ướp dầu thơm, rồi đem đi trà tỳ
thâu lấy xá lợi. Và như thái tử nước An Tức xuất gia tu hành đắc đạo, dùng Túc
Mạng Trí thấy mình còn nghiệp trái sát sanh, nên ba phen chuyển kiếp đến xứ Lạc
Dương ở Trung Hoa trả nợ mạng ba lần. Kiếp sau rốt, ngài là sa môn An Thế Cao.
Cho nên trên
đường tu đâu biết ai là toàn vẹn, ta không nên tự mãn mà khinh thường người. Bởi
nghiệp trái của chúng sanh rất nhiều, có khi đền trả hết lớp này lại đến lớp
khác. Nhiều vị xem dường rảnh rang không oan trái, nhưng chưa hẳn là không có,
chỉ vì chưa đến thời tiết nhân duyên đền trả đó thôi. Muốn dứt oan khiên ta phải
an nhẫn sám hối và cố gắng tu hành để diệt trừ. Thi sĩ Nguyễn Du có lẽ đã tin
sâu về thuyết nghiệp báo và sự cải tạo nhân quả của nhà Phật, nên mới có câu:
Đã mang lấy
nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Có trời mà cũng có ta...
Lời này đã
được nhiều bậc thức giả công nhận.
2. Thế nào là
Tùy Duyên Hạnh? - Đây là nói sự an phận tùy duyên của người tu cảnh nào sống
theo cảnh ấy. Như cảnh giàu sang tùy theo giàu sang, cảnh nghèo hèn tùy theo
nghèo hèn, cảnh man rợ tùy theo man rợ, cảnh hoạn nạn tùy theo hoạn nạn, cho đến
cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi... cũng đều như thế. An phận tùy
duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căng, nghèo hèn hoạn nạn mà không
buồn rầu đổi chí. Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn,
chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến nản buồn?
Khi xưa, đức
Khổng Tử và đồ đệ bị giặc vây giữa nước Trần, nước Thái, thầy trò tuyệt lương đã
bảy ngày, song Ngài vẫn khảy đàn tươi cười. Tử Cống hỏi: "Tại sao gặp hoàn cảnh
sống chết không định ngày, mà phu tử hãy còn vui cười được?" Ngài đáp: "Việc gì
ta đã cố gắng làm hết sức ta mà xảy ra như vậy, là mạng trời, buồn rầu thương
khóc nào có ích chi?" Như đức Khổng Tử có thể gọi là bậc thánh tri mạng, luôn
luôn bình tĩnh sáng suốt, không bị bối rối đổi thay trước mọi hoàn cảnh. Người
tu nên như thế, phải xem ruộng vườn, nhà cửa, quyến thuộc, tài sản đều là duyên
giả tạm, không vì nó mà quyến luyến bận tâm, mới có thể tiến lên đường giải
thoát.
3. Sao gọi là
Xứng Pháp Hạnh? - "Pháp" đây là Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm
Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp
Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ
cũng thế, tâm lúc nào cũng trụ nơi câu niệm Phật. Cổ đức bảo: "Nếu tạm thời
không trụ nơi chánh định, tức đồng như người đã chết." Bởi không trụ được nơi
chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp
thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm
Phật, thì tâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm thông với Phật, chắc chắn sẽ
được vãng sanh.
4. Thế nào là
Vô Sở Cầu Hạnh? - Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch không mong cầu điều chi.
Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để
mong cầu? Vả lại pháp thế gian đều tương đối, trong họa có phước, trong phước có
họa, nên người trí vẫn bình thản, ở cảnh thạnh suy họa phước đều không động tâm.
Thí dụ: một tăng sĩ khi ẩn tu nơi am tranh vắng vẻ, sự sống hẩm hiu, ít người
thăm viếng, duyên đời tuy suy nhưng đạo lại thạnh. Ít lâu sau, nếu có người đạo
tâm hay biết tới cúng dường, lần lần lập nên chùa lớn, tăng chúng tập trung về
đông đảo, chừng ấy phước duyên tuy thạnh nhưng phần giải thoát lại suy, bởi vị
ấy mắc bận tâm lo ứng phó công việc bên ngoài. Lẽ họa phước ẩn nương nhau cũng
như thế. Cho nên tâm hạnh của người tu là không cầu việc ác, hay cầu làm chúng
sanh, cũng không cầu điều thiện, hoặc cầu thành Phật. Có người hỏi: "Nếu niệm
Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm
sao tu tiến?" Đáp: "Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất." Vì
thế Kinh Pháp Hoa nói: "Giả sử có vô số bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến hàng
Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được
thật trí của Phật." Về sự vãng sanh, thì lối cầu của người tu là cầu mà không
cầu, không cầu mà cầu. Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì
chiếu soi, hình đi, lại lặng yên rỗng suốt. Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào
vọng tưởng, không thấy biết tìm cầu nào khác gì gỗ đá vô tri!" Nói rộng ra, hạnh
Vô Sở Cầu đây gồm cả ba môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện vậy.
Nếu người tu
giữ theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi
chướng duyên.
Tiết 65
Cách Giữ Vững Tâm Không Thối Chuyển
Trong luận
Niệm Phật Bảo Vương Tam Muội có thuyết minh về Thập Bất Cầu Hạnh, nghĩa là mười
hạnh không cầu, để phá mười điều chướng ngại lớn. Mười điều chướng ngại này gồm
nhiếp tất cả chướng ngại. Cho nên nếu nắm vững mười hạnh không cầu đây, thì tất
cả chướng ngại đều phải tiêu tan. Mười hạnh ấy là:
1. Thân không
cầu không bịnh. Thân không đau bịnh thì tham dục dễ sanh. Tham dục sanh thì phá
giới thối đạo.
2. Cuộc đời
không cầu không hoạn nạn. Đời không hoạn nạn, thì kiêu xa dễ khởi. Khi lòng kiêu
mạn xa hoa khởi lên, sẽ khinh dễ đè lấn tất cả mọi người.
3. Tu tâm
không cầu không chướng ngại, tâm không chướng ngại thì sự học sẽ vượt bậc. Học
vượt bậc tất có lỗi chưa được cho là mình đã được, đã thông suốt.
4. Lập hạnh
không cầu không bị ma chướng. Hạnh không ma chướng thì sức thệ nguyện không bền
chắc. Nguyện không bền chắc sẽ có lỗi chưa chứng cho là mình đã chứng.
5. Mưu sự
không cầu dễ thành tựu. Sự dễ thành tựu thì sanh niệm khinh lờn. Niệm khinh lờn
sanh, tất mang lỗi tự đắc cho rằng mình đủ đức hạnh tài năng.
6. Giao hảo
không cầu mình được lợi ích. Mình được ích lợi thì hư mất đạo nghĩa. Đạo nghĩa
hư mất, tất chỉ thấy lỗi của người.
7. Đối với
người không cầu được sự thuận thảo. Người thuận thảo thì mình dễ tự kiêu. Và
lòng đã kiêu căn, tất chỉ thấy phần phải của mình.
8. Làm ơn
không cầu báo đáp. Cầu báo đáp thì lòng có chỗ tính toan. Đã có tính toan tất sẽ
ham lợi khoe danh.
9. Thấy lợi
không cầu mình được phần. Cầu được phần thì lòng si nổi động. Khi lòng si nổi
dậy, tất sẽ bị mối lợi nhơ làm tiêu hủy thanh danh.
10. Bị oan ức
không cầu biện minh. Cầu biện minh thì lòng nhơn ngã còn chưa dứt. Tâm nhơn ngã
thị phi chưa dứt, tất mối oán hận sẽ từ đó nảy sanh ra nhiều.
Suy qua các
điểm trên, ta thấy cuộc đời đầy nỗi chướng ngại, mà có thể khái quát lại trong
10 điều:
1. Thân đau
bịnh
2. Gặp hoạn nạn
3. Sự tu học bị ngăn trở
4. Khi lập hạnh ma chướng phá
5. Mưu sự thất bại
6. Bạn bè phản phúc lãnh đạm
7. Nhiều kẻ chống đối
8. Làm ơn mắc oán
9. Người mưu chiếm lợi danh
10. Chịu nỗi oan ức
Trong mười
điều này, luận Bảo Vương Tam Muội đã dùng mười hạnh không cầu để phá trừ. Thế
thì trong phước có họa, trong họa có phước, trong thông có ngại, trong ngại có
thông. Vì hiểu lẽ này nên các bậc tu hành khi xưa đã dùng "sự chướng ngại làm
duyên tiến đạo." Tiên đức có bảo: "Vô nhơn kiến xúc, đạo quả nan thành!" Câu này
có nghĩa: "Nếu không bị người làm xúc não, tất đạo quả của mình khó thành tựu."
Bởi sự khinh hủy chưởi mắng, giá họa vu oan, và mọi chướng ngại khác là "cái mức
để đo lường đạo lực của người tu." Nếu gặp những chướng duyên đó mà vẫn nhẫn nại
an nhiên được, tất chứng tỏ người ấy đã tu tiến đến mức khá cao. Bằng chẳng thế,
làm sao đo lường được mức tu tiến của mình? Thật ra không phải người tu mong cầu
sự chướng ngại, mà vì đường đạo đầy nỗi bất trắc khó khăn, nên cần luôn luôn
cảnh giác đặt mình trước mọi nỗi chướng duyên, để khi lâm cảnh vẫn an nhiên
không rối động. Diệu Hiệp đại sư bảo: "Mười hạnh trên, duy người trí huệ hùng
tâm mới áp dụng nổi. Nếu biết xét soi giác ngộ, giữ vững mười điều này, thì tuy
vào cảnh giới ma không bị ma làm thối chuyển. Dù cho ở trong cảnh sắc thinh,
danh lợi, thương ghét, thị phi, thạnh suy, đắc thất... vẫn được an nhiên."
Cho nên nếu
không biết, thì tất cả sự tốt đẹp thuận lợi có thể thành duyên chướng đạo. Như
xét thấu tất cả bịnh khổ cùng ma chướng đều giả dối không căn, tất nó cũng không
làm chi được. Đối với mười điều trên, lối xử dụng của bậc trí lực là:
1. Lấy bịnh
khổ làm thuốc hay.
2. Lấy hoạn nạn làm giải thoát.
3. Lấy chướng ngại làm tiêu dao.
4. Lấy các ma làm bạn pháp.
5. Lấy việc khó làm an vui.
6. Lấy bạn xấu làm giúp đỡ.
7. Lấy kẻ nghịch làm vườn hoa.
8. Lấy sự quên việc thi ân như quên bỏ chiếc dép rách.
9. Lấy thanh đạm làm giàu sang.
10. Lấy sự oan ức làm duyên tiến đạo.
Xem đây suy
rõ sự hay dở, đắc thất vẫn tùy tâm. Thế nên, người mới tu rất sợ chướng duyên,
bậc tu lâu có khi lại muốn thử đương đầu với chướng cảnh. Xin thuật ra đây một
đôi chuyện để làm tỷ lệ:
Thuở xưa,
ngài Thần Quang sau khi đắc pháp với tổ Đạt Ma, liền khuất thân đi làm mướn, như
bửa củi, giã gạo hoặc gác cửa cho người. Có kẻ đến hỏi: "Ngài là bậc kế truyền
Tổ vị, sao lại thấp mình đi làm những việc tầm thường như thế?" Ngài đáp: "Ta
muốn hàng phục cái tâm của ta, chẳng phải chỗ ông biết!"
Lại một vị
tiên là Lưu Trường Sanh sau khi luyện đơn thành, xuất thần bay lên chỗ bà Diêu
Trì Kim Mẫu, thấy chư tiên nữ dung sắc cực kỳ xinh đẹp khó tả, khó họa, ông liền
động tâm. Kim Mẫu quở rằng: "Ngươi tuy thành đạo, mà niệm sắc ái chưa tiêu, làm
sao xứng đáng liệt vào hàng tiên phẩm?" Trường Sanh hổ thẹn, trở xuống cõi nhân
gian, dùng phép điểm đá hóa vàng, vào chỗ lầu xanh mướn năm bảy cô dâm nữ đẹp
nhất, cùng nhau chung sống. Trong hai năm trời ông nằm gần các cô dâm nữ lõa thể
để luyện trừ niệm sắc dục. Khi xét thấy mình tâm đã bất động, ông bảo các cô ấy
làm bánh, rồi để bánh trên bụng vận lửa đơn điền nướng chín, đem đãi các cô, nói
đạo khai ngộ cho, xong mới cỡi mây bay đi.
Để so sánh về
các hạnh tu, xin kể tiếp thêm vài chuyện:
- Một sư cô
nọ muốn dứt trừ lỗi lầm, nguyện kiết thất và tịnh khẩu trong ba tháng. Buổi
chiều kia, cô đang ngồi bên cửa sổ, lần chuỗi niệm Phật. Có ông đạo trông thấy
liền nói chuyện với người bạn, bảo cô nhiều nghiệp, nhiều tánh xấu. Cô nghe nóng
giận đỏ mặt, nhưng vẫn làm thinh tiếp tục niệm Phật. Giây lát ông đạo bảo: "Tôi
rình thấy cô này lấy một ông ở bên hàng xóm." Cô giận quá, nhịn không được nói
lớn tiếng lên: "Huynh nói tôi lấy ai phải xác nhận lại, chớ tôi không chịu bỏ
qua vụ này đâu?" Ông đạo cả cười đáp: "Đó là tôi cố ý thử cô mà thôi. Cô đã
nguyện tịnh khẩu sao lại còn nói chuyện? Vả lại tịnh khẩu là cốt để tịnh tâm, mà
cô tịnh tâm không được, thì tịnh khẩu có ích gì?" Sư cô ấy nghe xong chợt tỉnh
ngộ, hổ thẹn làm thinh.
- Một độ nọ
bút giả về Phật Học Viện Huệ Nghiêm, gặp ngài tọa chủ chùa Thuyền Lâm. Trong khi
đàm đạo ngài thuật chuyện rằng: "Trước kia ở ngoài Trung có một vị sư tu thiền
khá công phu, mỗi lần có thể ngồi lâu đến sáu bảy giờ. Có lẽ muốn dứt trừ nhiễm
duyên, sư thường lẩn tránh người nữ, thậm chí cô nào đến viếng chùa rồi về, ông
cũng xách nước quét rửa chỗ ngồi của cô ấy. Thời gian sau, sư đến ở trọ chùa
Thập Tháp tại Bình Định. Một buổi sáng, đang khi tọa thiền trong liêu, sư bỗng
la lên rồi chạy ra ngoài. Hòa thượng Thập Tháp hỏi lý do, sư đáp: "Tôi đang tham
thiền bỗng thấy một người nữ xinh đẹp đến ôm cổ." Nói xong, chiều lại sư mệt mỏi
nằm bịnh, gọi hòa thượng Thập Tháp vào bảo: "Ngài phải làm sao cưới gấp cho tôi
một cô vợ, bằng không bắt đầu từ chiều nay tôi sẽ tuyệt thực cho đến chết?" Cụ
Thập Tháp cho gọi một bà Phật tử tín cẩn đến bàn luận, bà ấy bảo: "Để con về gọi
đứa tớ gái của con, bảo nó giả vờ chịu đỡ để dẫn dụ sư ăn uống cho mạnh rồi sẽ
hay." Sáng hôm sau, hòa thượng đưa cô tớ gái vào và bảo: "Tôi đã bàn định xong,
có cô này ưng chịu làm vợ của Ngài đây." Sư nghe nói mở mắt ra nhìn, nắm tay cô
tớ gái vuốt ve một hồi rồi tắt hơi."
Trong hai
đoạn trên, ta thấy sư cô nọ muốn phá phiền não, song chỉ theo hình thức mà thôi.
Còn ngài Thần Quang biết tất cả phiền não đều không, và cội gốc do nơi tâm chấp
ngã, nên mới giả làm kẻ thấp hèn chịu người sai mắng, để xem tâm nhơn ngã thị
phi còn động chăng đặng dứt trừ. Và Lưu Trường Sanh muốn diệt niệm sắc ái, dám
dõng mãnh đi ngay đến chỗ nữ sắc mà quán phá. Vị sư kia bởi chưa hiểu sắc là
không, quá kiêng sợ nữ sắc, trong tâm còn chấp ngại hình thức, kết cuộc lại bị
loại sắc ma làm hại. Nhớ lại hồi năm 1960 có các Phật tử đem tờ báo Tiếng Chuông
đến, chỉ hình nhà sư Nhật Bản bắt tay một kỷ nữ lõa thể, chỉ còn mặc chiếc quần
nhỏ, và phê bình là lối tu tân thời trái với đạo lý. Bút giả đã giải thích: "Chớ
hiểu lầm, đó là lối nghiệm tâm của các thiền sư Nhật Bản, để xem mình đối với nữ
sắc còn động chăng? Nếu chưa được như như bất động, họ sẽ trở về tu lại. Vị sư
này cũng đã thiền định đến mức khá cao rồi, mới dám làm như thế."
Để kết luận,
bậc trí lực chẳng những không ngại chướng duyên, mà còn mượn chướng duyên để tu
tiến. Các vị ấy không còn chấp nê hình thức, vì hình thức chỉ là phương tiện mà
nội tâm mới là cứu cánh.
Mục C.
Những Gương Về Sự An Nhẫn
Tiết 66 Sự
An Nhẫn Của Cư Sĩ Tiền Vạn Dật
Tiền Vạn Dật,
tự là Dực Sơn, quê ở Thường Thục, trấn Mai Lý, người đời nhà Thanh bên Trung
Hoa. Buổi thiếu thời, Vạn Dật theo gia nghiệp, chuyên bán rượu. Sau ông đổi
nghề, giới sát tu tịnh nghiệp, hết sức sửa đổi lỗi lầm trước. Vạn Dật chỉ có một
trai, chẳng may bị bịnh lao, niệm Phật mà qua đời. Người láng giềng chê cười,
bảo tại lo tu hành nên con chết. Ông nghe nói mỉm cười, vẫn an nhiên thờ Phật
như cũ.
Một đêm, lửa
bén cháy nhà, Vạn Dật chắp tay ngửa mặt trên hư không vái rằng: "Nghiệp con
nặng, đáng chịu thiêu hủy gia sản, nguyện xin đừng tổn thương đến những nhà gần
bên." Sau khi lửa tắt, chỉ có nhà ông tiêu ra tro, các gia cư gần đó đều không
sao cả. Cố gắng lo chỗ ở tạm xong, Vạn Dật lại khuyên mẹ là Ngô Thị trường trai
niệm Phật, bà mẹ y theo lời. Tiếp theo ông cũng tự ăn chay trường, nhưng vì tập
quán cũ hãy còn, thường hay uống rượu. Nhưng nhờ có người thân thích là cư sĩ Tạ
Phụng Ngô khuyên can, ông cố gắng lần dứt trừ được.
Mùa Xuân năm
Đạo Quang thứ hai mươi hai, vợ đau chết, Vạn Dật vẫn sống trong cảnh lẻ loi.
Nhiều người khuyên nên tục huyền, ông cự tuyệt và bảo: "Đã có con mà bị chết
sớm, tái thú nữa để làm gì? Vả lại chí tôi ở nơi xuất tục, có phải khăng khăng
trong sự nối dõi đâu!" Mùa Hạ năm ấy, ông đau bịnh lạc huyết, chí thoát trần
càng thiết, vẫn cố gắng gia công niệm Phật. Đến đầu tháng bảy, bịnh ông thêm
nặng, ăn vào liền mửa ra. Phụng Ngô sang viếng thăm, nhân an ủi bảo cho biết:
“Cổ đức đã có một vị nhịn ăn để cầu thấy Phật”. Vạn Dật nghe nói, mừng rỡ bảo:
"Nếu có việc rất tiện lợi như thế, tôi sẽ gắng sức làm theo." Liền hôm sau, ông
tắm gội sạch sẽ, đến trước bàn Phật niệm hương phát nguyện giữ thanh trai trong
bảy ngày, xuất tiền mua vật mạng phóng sanh, để cầu về Tịnh Độ. Kế đó, ngày đêm
ông niệm Phật không dứt, lúc khát chỉ ăn trái dưa mà thôi. Có người hỏi: "Suốt
đêm không ngủ như thế, có mệt mỏi chăng?" Vạn Dật đáp: "Nhờ không ngủ mới niệm
Phật được nhiều. Khi tôi không bịnh thì chẳng được an nhàn. Nay nhân lúc bịnh
được rảnh rang, phải gắng sức, có mệt nhọc gì đâu!"
Bảy ngày vừa
mãn, bởi tuyệt cốc nên kiệt sức, thần thức ông hôn loạn. Người nhà cho ăn chút
cháo loãng, liền buồn dạ no hơi, hôn loạn càng thêm. Vạn Dật cả sợ, chắp tay để
trên gối, bảo đốt ngón tay cúng dường Phật. Phụng Ngô nói: "Lúc này mà anh phát
được tâm nguyện ấy, thì cũng đồng như đã đốt ngón tay rồi. Thôi chi bằng rũ sạch
muôn duyên, nhứt tâm cầu về Cực Lạc là hơn!" Ông nghe nói liền nhắm mắt niệm
Phật, ban sơ như còn gắng gượng, kế đó nhờ dùng sức dõng mãnh, nên thần chí lần
lần an định. Duyên may, lại nhờ mười mấy người bạn đồng đạo hay tin đến trợ
niệm, nên ngày đêm trong nhà ông tiếng niệm Phật nối nhau không dứt.
Đến chiều bữa
mùng mười, Vạn Dật tự nói thấy một vị đi lại trước đầu giường, bảo cả dưa và
trái cây đều chớ ăn, hỏi thì xưng là sứ giả ở thượng giới. Qua ngày hôm sau, ông
bỗng thấy Tây Phương Tam Thánh tướng tốt quang minh hiện đứng giữa hư không
trước mặt. Ông muốn vượt lên ngồi vào kim đài, chợt nghe tiếng bảo: "Thân ngươi
còn chưa sạch!" Kế đó các tướng đều ẩn mất. Vạn Dật liền bảo nấu nước thơm để
mình tắm gội. Tắm xong, Tam Thánh hiện ra như trước. Ông gọi người nhà lại nói:
"Tôi đã dạo chơi Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, mình ngồi trên một đài hoa, vui
không thể tả!" Lại tự chỉ thân mình nói: "Đây không phải thân tôi."
Sáng sớm ngày
mười hai, Vạn Dật từ biệt mẹ và thưa rằng: "Phật cùng chư Thánh chúng đã đến đầy
nhà." Nói xong, liền chắp tay niệm Phật mà qua đời. Lúc bấy giờ, ông được ba
mươi bảy tuổi.
- Như cư sĩ
Tiền Vạn Dật: gặp cảnh nghịch mà sơ tâm không thối, bị bịnh khổ nhưng chánh niệm
vẫn bền. Kết cuộc duyên trần rũ sạch, cảnh tịnh hiện bày, nhiệm mầu điểm ứng đài
vàng, thanh thoát thân chơi cõi ngọc, phẩm vị cao quyết chẳng còn nghi. Ôi! Nhẫn
nại mạnh mẽ đến thế ư!
Sự An Nhẫn
Của Cư Sĩ Phó Xuân Phố
Phó Xuyên, tự
Xuân Phố, người thời Trung Hoa Dân Quốc, quê ở xã Đông Quách, huyện Thanh Giang,
tỉnh Giang Tây. Thuở bé ông mồ côi cha sớm, mẹ là Nhiếp thái phu nhơn thủ tiết,
chịu khổ nuôi dưỡng, khuyến khích học hành cho đến lúc nên người.
Xuân Phố từng
nhậm các chức sự như: huấn khoa viên tại huyện thự Thanh Giang, cảnh sát trưởng
nơi trấn Chu Đàm, và hiệu trưởng Nghĩa Vụ học hiệu ở Chương Thọ. Ông là người
thông minh mẫn tiệp, hằng tham dự các công vụ. Mỗi khi có việc chi khó khăn,
hàng quan thân thường mời đến nhờ giúp ý kiến giải quyết.
Nhiếp thái
phu nhơn từ lâu đã thờ kính Quán Thế Âm Bồ Tát, và niệm Phật trường trai.
Năm Dân Quốc
thứ mười bảy, thái phu nhơn nhiễm bịnh, ông phát nguyện triều Phổ Đà lễ Đại Sĩ,
nhờ đó không thuốc mà bịnh tự lành. Tháng Chín năm Dân Quốc thứ hai mươi (1931),
Xuân Phố mới đến Phổ Đà để hoàn nguyện. Khi ông chí thành lễ động Phạm Âm, cảm
đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân tướng mặc áo trắng, tay cầm tịnh bình và cành
dương liễu. Ông lại cầu Bồ Tát gia bị cho biết đời trước, thấy tiền thân mình là
một vị tăng tu hạnh đầu đà, y phục thô sơ lam lũ.
Do duyên sự
đó, Xuân Phố tỉnh ngộ, biết việc luân hồi không phải hư huyễn, chí xuất trần
càng tha thiết. Ông nhờ Nguyệt Tịnh pháp sư giới thiệu cho tham yết ngài Ấn
Quang và Đức Sum pháp sư nơi chùa Báo Quốc tại tỉnh Tô Châu, mới nghe được pháp
yếu của tông Tịnh Độ. Sau khi ấy, ở Hoằng Hóa Xã xuất bản kinh sách chi cũng đều
có tặng cho. Nhờ đó sự tin hiểu về Phật pháp của ông càng thâm thúy. Lúc bấy giờ
Xuân Phố mới quyết định tiến thẳng lên đường đạo, quy y thọ giới Ưu Bà Tắc với
Đức Sum pháp sư, được pháp hiệu là Thiền Xuyên, tự Hàng Tây.
Sau khi vào
đạo, cư sĩ tín nguyện sâu thiết, tinh tấn niệm Phật không biếng trễ. Năm Dân
Quốc thứ hai mươi hai, ông được mời làm chủ giảng ở Niệm Phật Lâm tại Lộc Giang,
dẫn dắt khuyến dụ người tu tiến rất nhiều. Cư sĩ thể chất vốn yếu, thường hay
đau bịnh, lại vì tánh tình liêm khiết nên gia đạo vẫn nghèo, lắm lúc bị nợ nần
thiếu hụt. Bởi hàn vi nên tình đời thường sơ bạc, gia dĩ nghiệp chướng phát
hiện, tiếng thị phi chịu cũng rất nhiều. Ông hằng muốn xuất gia, nhưng vì số vận
mãi long đong, nên cơ duyên chưa thuận tiện. Tuy quanh mình gia lụy buộc ràng,
nhưng bởi chí nguyện chán cõi trược cầu vãng sanh tha thiết, sớm hôm cư sĩ vẫn
tinh tấn lễ niệm, dù đau bịnh cũng gắng gượng, không khi nào sơ sót.
Mùa Xuân năm
Dân Quốc thứ hai mươi bảy (1938), cư sĩ mộng thấy đức Quán Thế Âm hiện thân, bảo
cho biết quy kỳ vào hạ tuần tháng Bảy. Đến rằm Trung Nguơn, sau hội Vu Lan Bồn,
cư sĩ ngã bịnh, song vẫn nhứt tâm niệm Phật, hầu như quên bịnh khổ, uống ăn.
Ngày hai mươi sáu bịnh trở nặng, người nhà thương khóc, cư sĩ cười bảo: "Tôi sẽ
vãng sanh vào ngày vía đức Địa Tạng, hãy nên vui mừng, đừng bi lụy." Đến ngày
ấy, cư sĩ lại ghế ngồi kiết dà, kiết ấn Di Đà định, nhìn chăm chú tượng Phật,
rồi an nhiên qua đời. Lúc đó, gương mặt ông bỗng sáng rạng rỡ hơn lúc sanh bình,
thân thể lần lần lạnh, chỉ có đỉnh đầu còn nóng.
Sau khi cư sĩ
vãng sanh, vị tọa chủ chùa Thông Tuệ và Đại Nhân pháp sư đồng đến lo liệu cho
việc nhập khám, nhục thân của cư sĩ vẫn ngồi thẳng như lúc bình thời. Trước ngày
ấy gió mưa rất lớn, nhưng vào nửa đêm đến khi đốt lửa làm lễ trà tỳ, trời bỗng
sáng tạnh, hương lạ bay ngào ngạt, không phải mùi trầm đàn cũng không phải mùi
hoa lan. Từ nóc khám, một đạo bạch quang phóng lên hư không, rồi bay thẳng về
Tây. Lúc ấy vào tiết sơ Thu, khí hậu viêm nhiệt, cư sĩ chết đã ba ngày mà thây
không hôi, lại phóng mùi thơm và ánh quang minh, nên ai nấy đều khen lạ. Bấy giờ
cư sĩ đã bốn mươi tám tuổi.
-
Thời mạt pháp người niệm Phật nhiều, mà thành công ít, bởi vì không nguyện thiết
tin sâu. Luận về tư cách bậc trượng phu, thầy Mạnh Tử bảo: "Giàu sang không làm
cho kiêu dâm, nghèo hèn không làm cho đổi chí, uy vũ không làm cho khuất phục."
Pháp thế gian còn như thế, huống là người theo Phật pháp tu Tịnh Độ cầu siêu
phàm nhập thánh ư? Như cư sĩ Phó Xuân Phố: nhà nghèo, thân bịnh, gia lụy, mà vẫn
nhẫn nại lướt qua, chuyên tâm niệm Phật, ngàn tiếng khen chê chẳng quản, trăm
điều mài bẻ không sờn. Nhờ đó đến khi lâm chung biết ngày giờ trước, điềm lạ
hiện bày. Như thế đủ thấy môn Tịnh Độ là bi nguyện triệt để của Như Lai, nếu
chịu quyết tâm, không ai chẳng lên thuyền giải thoát. Xem gương cư sĩ xong, bỗng
cảm khái tự hỏi: tánh linh nguyên cũng vẫn đồng, siêu đọa bởi sao sai khác, khúc
điệu Cao Sơn vang lại đó, lắng nghe Lưu Thủy mấy ai đây? Nên viết ra khuyên
người mà cũng để nhắc mình vậy.
|