Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng Kư
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ giảng:
Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
Địa
điểm: Đài Trung Liên Xă
Khởi giảng
từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Giới thiệu sơ lược
về cư sĩ Từ Tỉnh Dân
Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân, tên thật là Tự
Minh, một biệu hiệu khác là Tự Dân, sanh năm 1928
tại huyện Lô Giang, tỉnh An Huy. Cụ theo học giảng
kinh với lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam tại Đài Trung,
những bạn cùng khóa ấy về sau đều trở
thành những vị giảng sư tích cực và nổi danh
của Tịnh Tông như ḥa thượng Tịnh Không, nữ
cư sĩ Lư Khán Trị, lăo cư sĩ Châu Gia Lân v.v… Cụ
đặc biệt tâm đắc chủ trương hoằng
dương Nho học theo cách nh́n của nhà Phật. Sau khi
cụ Lư văng sanh, cụ Từ đă kế tục di chí của
thầy, hoằng dương không mệt mỏi suốt
hai mươi năm. Cụ đă hoạt động hoằng
pháp tại Đài Trung Liên Xă suốt ba mươi năm, giữ
chức Bí Thư của Đài Trung Đồ Thư Quán măi
cho đến năm 1993 mới xin nghỉ. Cụ cũng là
người giữ vai tṛ biên tập viên chính yếu và tổng
phát hành của tờ tạp chí Phật học Minh Luân. Cụ
thường được ḥa thượng Tịnh Không mời
đến diễn giảng trong các khóa bồi huấn dành cho
các pháp sư và giảng sư của Tịnh Tông Học Hội.
Tập 1
I. Lược thuyết nhân duyên
(giới thiệu đại lược nhân duyên)
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu! Hôm nay, chúng tôi bắt
đầu cùng mọi người nghiên cứu Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Hôm nay là buổi giảng
đầu tiên. Trước hết, xin mọi người
xem phần một của đề cương bài giảng.
Trong biểu đồ, điều thứ nhất là “I. Lược thuyết nhân duyên”.
Chúng ta làm bất cứ chuyện ǵ cũng đều có
nhân duyên. Vạn pháp sanh từ nhân duyên; nhà Phật cũng vậy,
tổ chức một pháp hội, giảng một bộ
kinh, đều có nhân duyên. Nhân duyên nếu nói cặn kẽ,
sẽ rất tốn thời gian; ở đây, chỉ là
nói tóm tắt.
Tuần
trước, chúng ta vừa giảng viên măn bộ Phật
Thuyết A Di Đà Kinh. Trong phần Lưu Thông của bộ
kinh ấy, đă nói rất rơ ràng: Từ khi Thích Ca Mâu Ni Phật
thuyết pháp, măi cho đến hiện thời, thế giới
Sa Bà của chúng ta là thế giới ǵ? Là ngũ trược
ác thế. “Ngũ trược
ác thế” chẳng cần phải nói tường tận;
chúng ta nh́n vào thời đại hiện tại, trên thế
giới này, bất luận trong nước hay ngoài nước,
đối với tâm lư của nhân loại trên toàn cầu, nghiên cứu, quan sát tỉ mỉ
đôi chút, sẽ cảm thấy ḷng người hiện
thời toàn là ô trược, chẳng có một người
nào tâm thanh tịnh! Trong thời đại rất ô trược
như vậy, tâm mọi người đều chẳng
thanh tịnh dường ấy. Giữa con người với
nhau, lại c̣n là “ngươi
tranh, ta đoạt”, tạo thành trạng huống hiện
thời, chúng ta sống trong thời đại này, có ǵ là tự
do tự tại? Chẳng thể nói được! Từ
nội tâm cho đến hoàn cảnh bên ngoài, nơi nơi
đều tạo cho chúng ta cảm xúc tầng tầng áp bức,
chẳng có tự do thật sự; c̣n ǵ nữa đâu!
Điều căn bản nhất là loài người chúng
ta, tuy thế gian này chẳng tốt đẹp, mọi
người vẫn cứ hy vọng sống lâu hơn một
chút, nhưng chẳng thể được! Dẫu sống
đến một trăm tuổi, hoặc một trăm
hai mươi tuổi, thậm chí sống đến hai
trăm tuổi (hiện thời, t́m chẳng ra kẻ sống
đến hai trăm tuổi), rốt cuộc, vẫn phải
chết. Đó chính là vấn đề sanh tử. Có phải
chết rồi là hết chuyện hay chăng? Chẳng hết
chuyện! Sau khi đă chết, sẽ lại chuyển thế,
chuyển tới đường nào? Chẳng dám nói [dứt
khoát]. Trong thời đại hiện tại, tâm địa
mọi người xấu xa dường ấy; tuy tâm
địa chúng ta chẳng xấu xa, nhưng chịu ảnh
hưởng từ mọi người, tâm sẽ tự
nhiên bị nhiễm ô theo! Trong tương lai, chuyển sang
đời khác, có ai nắm chắc đời sau [chính ḿnh]
vẫn sanh trong nhân gian hay không? Người trong xă hội
hiện thời dưới t́nh huống như vậy, chắc
chắn sẽ đọa trong tam đồ, mong sanh trong
nhân gian sẽ là chuyện chẳng thể nắm chắc,
chỉ c̣n cách là ắt phải học Phật.
I.1. Kiên định tín tâm
Phật
là ǵ? Phật là một loại giác ngộ. Bất cứ loại
học vấn nào trong thế gian cũng đều chẳng
rốt ráo, chỉ có học vấn của nhà Phật mới
là triệt để rốt ráo, nó có thể giải quyết
vấn đề sanh tử. Đầu tiên, chúng ta phải
hiểu rơ (khi giảng kinh A Di Đà, trong khi giảng chánh
kinh, chúng tôi đă nói nhiều lần): Tuy học Phật có
thể liễu sanh tử, nhưng Phật pháp nhiều ngần
ấy, nếu học theo các pháp môn thông thường, sẽ
chẳng kịp! Mong liễu sanh tử, giải thoát lục
đạo luân hồi bằng pháp môn thông thường, tuyệt
đối là chẳng thể làm được trong một
đời này! Nay chúng ta học các pháp môn b́nh thường,
sẽ cần phải có thời gian khá dài, chẳng thể
giải quyết vấn đề thực tế. Chúng ta
mong giải quyết vấn đề ngay trong một đời
này, ắt phải học Tịnh Độ Tông, tu pháp môn
Niệm Phật. Từ quá khứ cho đến hiện thời,
khá nhiều liên hữu ở Đài Trung đă chịu ân
giáo hóa của lăo ân sư Tuyết Công (Lư Bỉnh Nam), bao
nhiêu vị lăo liên hữu đă văng sanh! Đă có những chứng
minh thực tiễn, [chứng tỏ] chỉ có tu pháp môn Tịnh
Độ th́ mới có thể thành tựu ngay trong một
đời. [Do vậy], trước hết là phải có tín
tâm đối với pháp môn này!
Cũng
có lẽ chúng ta sẽ nghĩ như thế này: “Chúng ta ở
Đài Trung đă nghe lăo ân sư Tuyết Công giảng dạy
mấy chục năm rồi. Thầy giảng kinh, thuyết
pháp ở nơi đây, đă giảng về các pháp môn b́nh
thường rất rành rẽ, rơ rệt, mà đối với
pháp môn đặc biệt, cũng giảng rành mạch,
đương nhiên là chúng ta có tín tâm”. Tín tâm
đương nhiên là có, nhưng sợ rằng cái tín tâm
đă có ấy chẳng thể chịu nổi khảo nghiệm!
Khảo nghiệm ǵ vậy? Tôi nêu ra một chuyện để
quư vị tham khảo. Trước khi thầy chúng ta văng
sanh mấy năm, có một nhà Phật học từ ngoại
quốc trở về (pháp Niệm Phật vốn thuộc
loại pháp môn đặc biệt. Căn cơ và năng lực
của chúng ta quá mỏng, chẳng thể đoạn Hoặc.
Xét theo pháp môn thông thường, [để liễu thoát] th́
nhất định là phải đoạn Hoặc. Đoạn
hết Kiến Tư Hoặc th́ mới có thể liễu
sanh tử, nhưng pháp môn đặc biệt chẳng cần
đoạn Hoặc, chỉ cần đới nghiệp
văng sanh là có thể liễu sanh tử. Tới thế giới
Cực Lạc là có thể liễu thoát), nhà Phật học
ấy đưa ra ư kiến phản đối chuyện “đới nghiệp văng sanh”.
Ông ta bảo: “Trong kinh luận Tịnh Độ, chẳng
có chuyện ấy, đới nghiệp văng sanh là giả!”
Quư vị nghĩ xem! Cách nói ấy được truyền
bá th́ có thể nói là toàn thể pháp môn Tịnh Độ
Tông đă bị sổ toẹt hết sạch! Tịnh
Độ Tông có thể thành tựu ngay trong một đời,
điều đặc biệt nhất chính là đới
nghiệp văng sanh. Chẳng thể đới nghiệp văng
sanh, chỉ có thể từ từ tiêu trừ tất cả
tội nghiệp, đoạn trừ Kiến Tư Hoặc
từng tầng một, tới khi nào mới có thể
đoạn hết? Tu theo pháp Tiểu Thừa, từ Sơ
Quả đến Tứ Quả, qua lại trong cơi trời
và nhân gian, tu tập như thế phải mất bảy
lượt sanh tử. Đối với Đại Thừa
Phật pháp, để thành Phật càng phải lâu xa
hơn! Từ đoạn Kiến Hoặc cho tới khi
thành Phật, phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp; đó là [xét theo] pháp môn thông thường! Trong thời
đại hiện tại, người tu theo pháp môn thông
thường, chẳng có một ai có thể thành tựu.
Nói theo kiểu ông ta, hỏng bét! Toàn thể pháp môn đặc
biệt đều chẳng c̣n nữa!
May mắn là thầy
chúng ta đă dùng thời gian nhiều năm để phá trừ
tà thuyết ấy, khiến cho các liên hữu ở Đài
Trung ổn định tín tâm, chẳng tin theo cách nói của
gă ấy! Hắn ta chủ trương “tiêu nghiệp văng sanh”, chẳng phải là “đới nghiệp văng sanh”.
“Tiêu nghiệp” có nghĩa là
tội nghiệp đă tạo từ vô thỉ tới nay,
tiêu trừ từng tầng một, tiêu hết sạch rồi
mới văng sanh. Lư này nói chẳng suông! Thầy chúng ta dẫn
chứng lư luận từ kinh văn và lư luận của lịch
đại tổ sư để bác bỏ, đả phá
tà thuyết ấy. Lăo nhân gia quá từ bi! Tâm mọi người
đă ổn định rồi, lăo nhân gia mới văng sanh. Nếu
như chúng ta gặp phải t́nh huống ấy, mà thầy
chẳng c̣n tại thế để nói rơ ḥng kiên định
tín tâm của chúng ta, phá trừ tà thuyết, tín tâm của
chúng ta sẽ chẳng dám bảo đảm! Người ta
từ ngoại quốc trở về, lại c̣n lănh đạo
một tiểu tổ chuyên môn tra cứu kinh văn của
kinh điển Tịnh Độ, sau đấy mới
công bố “học thuyết” đó, quư vị nghĩ xem!
Chúng ta được thầy chỉ bảo như vậy
mới ổn định [tín tâm], chuyện ấy mới
giải quyết xong xuôi!
Thầy chúng ta văng
sanh đến nay đă là năm năm. Trong năm năm
qua, chúng ta hăy nghĩ xem, đừng chỉ nh́n riêng trong
vùng Đài Trung, hăy nh́n ra t́nh huống bên ngoài: Các thứ tà
thuyết trong học vấn thế gian mỗi ngày một rất
nhiều, đối với nhà Phật th́ sao? Mỗi tông có
cách giảng giải riêng. Nếu chúng ta nay nghe pháp này, ít lâu
sau lại nghe pháp khác. Nghe pháp bên Thiền Tông, Thiền Tông
có phương pháp của Thiền Tông. Nghiên cứu giáo lư
th́ họ cũng có cách nói theo kiểu nghiên cứu. Mật
Tông lại có cách nói của Mật Tông. Các tông có
phương pháp tu hành riêng của mỗi tông. Mỗi tông
nêu ra lư luận và phương pháp đều hay, đều
là thành tựu rất nhanh chóng, nhưng chúng ta nghe thấy
êm tai lắm, rốt cuộc phải làm
sao? Nhất là trong hiện thời, có những kẻ nói:
“Quư vị chẳng cần chờ đến khi mạng
chung mới văng sanh, nay tôi dạy quư vị dạy một
pháp ngay lập tức có hiệu quả rất tốt
đẹp. Tôi sẽ hiển thị cho quư vị thấy”.
Chúng ta ngẫm xem: Gặp phải cách nói ấy, tín tâm
của chúng ta đối với pháp môn Niệm Phật có bị
dao động hay chăng? Đó là một tầng.
Lại xét đến
vấn đề nơi hành vi của con người: Do có
rất nhiều người tu đạo làm những chuyện
này nọ, hoặc trong cách cư xử giữa con người
với nhau, xét theo các khía cạnh, đều có những chỗ
chẳng đúng pháp, cũng gây ảnh hưởng đến tín tâm tu đạo của
chúng ta. Do có các thứ hiện tượng ấy, sau khi thầy
chúng ta đă ĺa khỏi thế giới Sa Bà, lại nh́n ra
t́nh huống bên ngoài, chúng tôi cảm thấy: Chúng ta vẫn
phải tăng cường kiên định tín tâm.
Trong các thí dụ
như tôi vừa mới nhắc tới, nếu như có kẻ
nói: “Hăy ngay lập tức đưa ra thành quả cho các vị
xem thử”. Đối với điều này, tôi vẫn phải
giải thích đôi chút. Kẻ nói kiểu ấy chẳng phải
là người học Phật thuần chánh! Người học
Phật thuần chánh, bất luận thuộc tông phái nào,
đều ăn nói đúng quy củ, chẳng thể nói
năng như vậy. Phàm là những cách nói giống như
thế, chẳng phù hợp kinh điển, chẳng phải
là Phật pháp thuần túy, chẳng biết là từ đâu
ra, chúng ta chẳng bàn tới. Phải hiểu rơ điều
này! Lại c̣n như thế nào nữa? Chúng ta biết là phải
có tín tâm, nhưng tín tâm được kiến lập
như thế nào? Sau khi đă kiến lập, vẫn phải
thường xuyên vun bồi. Sau khi tín tâm đă bén rễ vững
chắc, sẽ sanh ra sức mạnh. Do vậy, có Ngũ
Căn, Ngũ Lực, những thứ này đều ắt
cần phải có. Muốn cho tín tâm có căn cội rất
sâu, cũng như có sức mạnh rất lớn, phải
cậy vào đâu? Cậy vào hiểu lư, [tức là] thông hiểu
Phật lư. Chẳng thông hiểu Phật lư, sẽ chẳng
có sức mạnh, chẳng có căn cội!
Lư phát xuất từ
chỗ nào? Đương nhiên là phải hiểu rơ Phật
lư trong các pháp môn thông thường, và cũng phải hiểu
rơ lư đặc biệt trong Tịnh Độ Tông. Về
cơ bản, lư được nói trong Tịnh Độ
Tông và lư trong pháp môn thông thường chẳng khác nhau, đều
nhằm hiển lộ bản tánh sẵn có của chúng ta.
Đó là Chân Ngă. Chân Ngă chẳng có sanh tử, chẳng có hết
thảy các hiện tượng hư giả. Cái Ngă thật
sự chính là tự do tự tại lớn nhất. Hết
thảy Phật lư đều nhằm dạy chúng ta hiển
lộ Chân Ngă. Ngoài điều này ra, Tịnh Độ Tông
có phương pháp đặc biệt [để hiển lộ
Chân Ngă]. Dùng ba kinh Tịnh Độ để nói, một bộ
là Đại A Di Đà Kinh, cũng chính là Phật Thuyết
Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Bộ kinh này nói trong lúc
tu nhân, A Di Đà Phật đă phát nguyện như thế
nào, sau đó tu hành như thế nào. Cuối cùng, dạy
chúng ta: Muốn văng sanh thế giới Cực Lạc, phải
tu hành như thế nào? Phải thực hiện các việc
phụng sự, phải tu các thứ phước báo. Một
bộ nữa là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, tức Tiểu
Bổn A Di Đà Kinh, phương pháp là tŕ danh niệm Phật.
Kế đó là bộ Quán Kinh mà hiện thời chúng ta sắp
bắt đầu nghiên cứu. Quán Kinh dạy chúng ta dùng
phương pháp tu Quán, trong phần cuối cùng của kinh
cũng có phương pháp Tŕ Danh, giảng giải hết sức
hoàn thiện: Từ hạng căn khí tối thượng
tu Quán, cho đến cuối cùng nói về Tŕ Danh, toàn bộ
[các pháp tu tập thích hợp mọi căn cơ] đều
có. Đấy là xét theo khía cạnh phương pháp.
Nếu
nói theo phương diện lư luận, trong ba kinh Tịnh
Độ, chỉ có Quán Kinh. Bộ kinh này giảng những
điều ǵ? Đối với hết thảy Đại
Thừa Phật pháp, hễ nói đến Lư, đều nói:
“Hết thảy chỉ do tâm tạo”.
Bất cứ một pháp môn nào, hoặc một pháp nào,
đều do tự tâm của chúng sanh tạo ra. Lũ phàm
phu chúng ta mê hoặc, điên đảo, nên tạo thành thế
giới ngũ trược ác thế trong hiện tại.
Đấy là một thế giới sanh sanh diệt diệt,
sanh tử chẳng ngừng. Bọn phàm phu chúng ta đă tạo
ra thế giới ấy. Sau khi chúng ta đă hiểu rơ tâm
tánh của chính ḿnh, chúng ta có thể tạo ra một thế
giới, tạo ra thế giới như thế nào? A Di
Đà Phật tạo ra Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chúng ta có thể tạo giống hệt như vậy.
Phải hiểu rơ lư này! Chỉ cần tâm chúng ta hiểu rơ
phương pháp, hiểu rơ đạo lư, chúng ta có thể dựa
theo lư tưởng của chính ḿnh để tạo ra hết
thảy các thế giới. Chúng ta liễu sanh tử, thành
Phật, đều cậy vào lư luận này! Bất luận
là tông nào, ngay như Thiền Tông nói đến chỗ cao tột
nhất th́ cũng là đại nguyên tắc này! Hoa Nghiêm
Tông lấy kinh Hoa Nghiêm làm chủ, có một bài kệ: “Nhược nhân dục liễu
tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới
tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nếu ai muốn rơ
biết, ba đời hết thảy Phật, nên quán tánh
pháp giới, đều chỉ do tâm tạo). Kinh Hoa Nghiêm
nói như vậy, chẳng có lư ǵ cao hơn nữa! Nhưng
Lư được giảng trong bộ Quán Kinh này hoàn toàn nhất
trí với lư ấy. Trong phần sau, khi giảng đến
kinh văn, quư vị sẽ tự nhiên nhận biết. V́
thế, hễ nói đến các pháp môn thông thường,
Thiền Tông, Mật Tông, Duy Thức, Thiên Thai, hay Hoa Nghiêm,
lư trong bất luận tông nào cũng đều chẳng thể
vượt ra ngoài lư luận của Quán Kinh!
Đă
hiểu rơ lư luận, lại c̣n có phương pháp đặc
thù, sau khi đă thông hiểu, tín tâm của chúng ta chắc chắn
được kiên định. Trong thí dụ tôi vừa mới
nêu, kẻ đ̣i đưa ra thành quả ngay lập tức,
chính là kẻ chẳng hiểu Phật pháp mà cứ nói bừa,
đương nhiên là chẳng đáng cho chúng ta bận tâm!
Đối với các lư luận thuộc các tông phái chân chánh
trong nhà Phật, chúng ta phải phân định rành mạch:
Bất cứ lư luận của tông nào, bất cứ
phương pháp của tông nào, đều thuộc trong phạm
vi lư luận và phương pháp như chúng tôi vừa nói. Sau
khi đă hiểu rơ lư luận, đối với
phương pháp tu tập tŕ danh niệm Phật của
chúng ta, bất cứ sức mạnh nào cũng đều
chẳng thể lôi kéo khiến cho chúng ta thoái chuyển!
Đấy chính là nhân duyên trọng yếu để chúng ta
khởi sự nghiên cứu bộ kinh này, t́m hiểu lư này,
ḥng kiên định tín tâm. Sau khi tín tâm đă kiên định,
nguyện lực mới mạnh mẽ, mới có thể
phát nguyện. Sau đấy lại tŕ danh, phương pháp
tu tập mới chẳng bị thoái chuyển, ba tư
lương Tín, Nguyện, Hạnh mới có thể trông cậy!
I.2. Hoằng truyền tịnh pháp
Sau
khi chúng ta đă trọn đủ tín tâm, trên đường
tu hành, có thể nói là chính ḿnh đă nắm chắc. Sau khi
đă nắm chắc, phải hiểu rơ Tịnh Độ
Tông là Đại Thừa Phật pháp. Riêng chính ḿnh đă
đạt được lợi ích, vẫn chưa đủ,
vẫn phải làm cho tất cả mọi người
trong thiên hạ, thậm chí tất cả chúng sanh, đều
được hưởng lợi ích. V́ thế, phải
nói điều thứ hai cùng quư vị: Phải hoằng
truyền Tịnh pháp! Chúng ta phải hoằng dương
pháp môn Tịnh Độ. Để hoằng dương
pháp môn Tịnh Độ, Lư đương nhiên là trọng
yếu. Như tôi vừa mới nói, Lư được giảng
trong bộ Quán Kinh hết sức thấu triệt. Chúng ta
đă hiểu rơ Lư, không chỉ là như chúng tôi vừa mới
nói, tà tri tà kiến bên ngoài chẳng thể ảnh hưởng
chúng ta, chúng ta c̣n phải tiến thêm một bước nữa:
Căn cứ trên những lư luận ấy để truyền
bá, ḥng chuyển biến t́nh huống thế gian trong hiện
thời, tức là phải hoằng truyền Tịnh pháp.
Hoằng truyền Tịnh pháp th́ nhất định phải
hiểu lư luận được giảng trong bộ kinh
này.
Hoằng
truyền pháp môn Tịnh Độ có ư nghĩa hết sức
rộng răi. Nói theo phương diện “liễu sanh tử”:
Phàm là người tu đạo, nếu người ấy
quyết tâm liễu sanh tử ngay trong một đời
này, chúng ta truyền cho họ pháp môn này, ngay lập tức,
họ sẽ đạt được lợi ích. C̣n
như đối với người hiện thời vẫn
chưa tiếp xúc Phật pháp, chúng ta truyền bá pháp môn
này, họ sẽ dựa trên học lư của pháp môn Tịnh
Độ để xem xét tất cả các thứ học
vấn trong thế gian. Khoa học cũng thế, mà triết
học cũng thế, đối với hết thảy học
vấn, đều có thể thấy thấu suốt. V́
sao? V́ bất luận loại học vấn nào trong thế
gian, bất luận môn triết học cao nhất nào, khi
nói đến rốt ráo, cũng đều chẳng thể
nói thấu triệt ngần ấy. V́ thế, khi quư vị
đă hiểu rơ pháp này, sẽ có thể nắm vững tất
cả học thuyết xưa nay trong thế gian, đều
có thể thấy rơ ràng, rành rẽ, mà cũng có thể phá
trừ hết thảy các tà thuyết trong thế gian. Đối
với ḷng người trong thế gian, đều có
năng lực chuyển biến, đều có thể khiến
cho họ từ các học thuyết mà hiểu rơ học thuật
nào là tốt đẹp, học thuật nào chẳng tốt
đẹp, đều có thể nói rơ và chuyển biến
được. Chúng ta thấy hết thảy các học
thuyết trên thế giới hiện thời đều nhằm
dạy chúng sanh truy cầu nơi danh, nơi lợi,
tăng thêm tâm lư tham cầu cho con người, toàn là tranh
quyền đoạt lợi! Chẳng có một loại học
vấn nào khiến cho quư vị tận hết sức thoái
thác danh lợi, nhường cho người khác, hoặc dạy
quư vị đừng tham lam. Trong các học thuyết trên thế
gian hiện thời, chẳng hề có tư tưởng ấy.
Nếu
quư vị chạy theo những học thuyết trong thế
gian hiện thời, chỉ có ngày càng đọa lạc,
tuyệt đối chẳng có lợi ích. Tuy trước mắt
tranh giành với kẻ khác, chính ḿnh c̣n có một chút năng
lực để giành phần thắng. Chúng ta có thể
tranh đoạt tiền tài, cũng như tranh đoạt
quyền lực, nhưng [những thứ đó] quá hữu
hạn, quá ít ỏi! Dù quư vị giành được ngôi vị
Tổng Thống nước Mỹ đi nữa! Lại là
như thế nào? Làm được mấy năm, chẳng
thể làm thêm nữa! Dẫu nói quá lên là quư vị có thể
làm măi, giống như đại hoàng đế thuở
xưa, làm suốt đời rồi vẫn có lúc phải
thôi, vẫn phải chết mà! Sau khi đă chết, mọi
thứ kể như thôi rồi! Tạo một thân đầy
tội nghiệp, có ư nghĩa ǵ chăng? V́ vậy, suy
nghĩ như thế, quư vị thấy học thuyết thế
gian nếu suy xét cặn kẽ, rốt cuộc là ǵ? Chúng cổ
vũ, khích lệ người ta truy cầu những ǵ?
Không ǵ chẳng nhằm miệt mài nơi sanh tử,
bươn bả trong tam đồ! V́ thế, chúng ta truyền
bá lư luận và phương pháp của pháp môn Tịnh Độ,
ngơ hầu tâm lư của người đời sẽ dần
dần chuyển biến, đối với tất cả
mọi người đều có lợi ích.
Nói
theo Phật pháp, sẽ có biệt nghiệp và cộng nghiệp;
tạo nghiệp bèn có thiện nghiệp và ác nghiệp. Nghiệp
do cá nhân chúng ta đă tạo là biệt nghiệp, tức là
nghiệp thiện hay ác cá biệt, c̣n nghiệp lực do
toàn thể mọi người trong xă hội hoặc
người trên toàn thể thế giới cùng tạo th́ là
cộng nghiệp. Đối với cộng nghiệp trong
hiện thời, mọi người hăy ngẫm xem! Cộng
nghiệp toàn là hướng tới địa ngục, súc
sanh, ngạ quỷ đạo. Đă tạo nghiệp th́ nó
bèn có sức mạnh, chẳng thể nào không đi theo nó!
Cái được gọi là Nghiệp, chính là một thứ
thói quen. Chúng ta làm chuyện ǵ đó, lần thứ nhất
chẳng quen, lần thứ hai bèn quen. Lấy kẻ trộm
vặt để nói, lần thứ nhất lấy trộm
đồ của người khác, tim đập th́nh thịch,
cảm thấy hết sức miễn cưỡng, rất
sợ bị người ta phát hiện, thộp cổ. Lần
thứ hai, an tâm, trong ḷng rất ổn định, chẳng
có nỗi bất an như vậy. Trộm tới lần thứ
ba, khi ăn trộm, chủ nhân có mặt tại đó, kẻ
đó to gan lớn mật trộm lấy, chủ nhân hỏi
kẻ đó v́ sao lấy cắp đồ đạc. Khi
đó, nó chẳng ăn trộm nữa, mà từ trộm biến
thành cướp đoạt, chẳng c̣n quan tâm nữa!
Thói quen do từng
bước dưỡng thành. Sau khi đă dưỡng thành,
chính ḿnh mong chuyển biến, cũng chẳng thể chuyển
biến được! Sở dĩ chúng sanh vào trong tam
đồ, là do nghiệp lực tạo thành sức mạnh,
tự nhiên lôi họ vào trong tam đồ. Chúng ta phải
làm cho người hiện thời hiểu biết đạo
lư này, biết nghiệp lực lợi hại, khiến cho
họ mau chóng thay đổi nghiệp lực, mỗi cá
nhân biến đổi biệt nghiệp của chính họ.
Ai nấy đều có thể thay đổi biệt nghiệp,
sẽ biến đổi cộng nghiệp. Do đó, chúng
ta hoằng truyền pháp môn này, vừa có lợi cho người
tu đạo, mà cũng có lợi cho ḷng người trong xă
hội. Do tâm lư biến đổi, cho nên tiến hơn
bước nữa là đối với Phật pháp cũng
có thể nghe lọt tai. Nếu tâm lư chẳng trải qua một
phen biến đổi như vậy, cứ nghĩ thế
gian nhấn mạnh chuyện tranh quyền đoạt lợi
là đúng, nhấn mạnh sự hưởng thụ vật
chất là đúng, quư vị giảng Phật pháp cho họ,
họ nghe chẳng lọt tai, chẳng thể cứu văn
được! Trước hết, họ phải nhận
biết: Tranh quyền đoạt lợi chẳng đúng.
Đă có nhận thức như vậy, sau đấy lại
giảng giải Phật pháp cho họ, họ sẽ nghe lọt
tai, tâm lư có thể tiếp nhận. Hễ tiếp nhận,
ngay lập tức bèn có thể trực tiếp tu tập
đại pháp liễu sanh tử, có thể liễu sanh tử
ngay trong một đời này. V́ vậy, nhân duyên thứ hai
là mong hoằng truyền Tịnh pháp. Hoằng truyền pháp
môn này, đối với người tu đạo và kẻ
chẳng tu đạo đều có công đức chẳng
thể nghĩ bàn. Chúng tôi giảng bộ kinh này để
mọi người có cùng một nhận thức. Đó là
nhân duyên thứ hai.
I.3. Khi mạng chung chẳng có
chướng ngại
Nói
đến điều thứ ba là “lâm chung chẳng có
chướng ngại”. Nay chúng ta đối với Tín, Hạnh,
Nguyện, cần phải đạt đến bất
thoái, lại c̣n tận hết sức ḿnh để hoằng
dương pháp môn này, đó chính là “hóa độ chúng sanh”.
Trong tương lai, khi lâm chung, có ai là chẳng mạng
chung? Kẻ chẳng học Phật, chẳng học pháp
môn đặc biệt, tới khi lâm chung sẽ khổ lắm!
Tiền đồ mờ mịt, chẳng biết sẽ
đi về đâu, đến cửa ải sanh tử, sẽ
đi theo đường nào? Họ cảm thấy mờ
mịt. Nhưng tu tŕ pháp môn đặc biệt, điều
quan trọng nhất là hiểu rơ lư. Lúc b́nh thời, chính
ḿnh đă có tu dưỡng, lại c̣n dùng lư luận để
khuyến hóa kẻ khác. Đă có những công đức ấy,
sẽ tự nhiên chẳng có chướng ngại. Tới
khi lâm chung, do đă có phước đức, xét theo
phương diện trí huệ, do lư luận cũng đă
hiểu rơ, cho nên sẽ tuyệt đối chẳng có
chướng ngại!
Khi
lâm chung, chướng ngại do đâu mà có? Chính là v́ chẳng
hiểu Lư! Điều này có mối quan hệ với sự
chẳng hiểu Lư. B́nh thời, chuyện chẳng hiểu
rơ Lư không tỏ lộ rơ rệt, chứ đến cửa ải
sanh tử, trong tâm vừa kinh hoảng, vừa nghi hoặc;
đă thế, b́nh thời cũng chẳng có công phu ǵ, càng
thêm hỏng bét! Tới khi ấy, ai cũng chẳng có cách
nào giúp được, cho dù có người trợ niệm
bên cạnh. Phải biết Trợ là giúp, vẫn phải cậy
vào chính ḿnh làm chủ. Chính ḿnh có thể làm chủ, người
khác ở bên cạnh trợ niệm th́ mới có thể
giúp cho quư vị một phần sức mạnh! Nếu
chính ḿnh chẳng thể làm chủ, người khác ở
bên cạnh trợ niệm [vẫn rất khó giúp đỡ].
Phải biết: Có rất nhiều người b́nh thường
niệm Phật, về sau, tới khi sắp lâm chung, thân thể
có bệnh, bảo họ niệm Phật, họ chẳng
chịu niệm. V́ sao? Chính là v́ chẳng hiểu Lư, cũng
trở thành chướng ngại. Tập khí từ vô thỉ
đến nay (khi thầy Lư c̣n tại thế có nói, khi con
người sắp chết, các chủng tử sanh tử từ
trong tám thức điền đều dấy lên), giống
như quay xổ số, quay tới, quay lui, rốt cuộc
số nào ra trước? Khi đó, trong tâm phiền muộn,
bối rối hơn lúc nào hết, đấy là lúc then chốt
trong sanh tử mà! Do vậy, chúng ta có thể nghiên cứu bộ
kinh này, hiểu lư này, hiểu những phương pháp này,
phân định Sự và Lư rành rẽ. Lúc b́nh thời, chúng
ta c̣n tự ḿnh làm như vậy, và cũng khuyên người
khác làm như vậy, tức là có huệ, có phước, tới
khi lâm chung, sẽ chẳng có hiện tượng [kinh hoảng,
thất thố] ấy, nhất định là có thể
chánh niệm phân minh, có thể nhất tâm bất loạn.
Do vậy, lâm chung chẳng có chướng ngại. Đấy
là nhân duyên thứ ba khiến cho chúng tôi giảng bộ kinh
này.
Trên
đây, chúng tôi đă nói xong nhân duyên [v́ sao] phải nghiên cứu
bộ kinh này. Hạng mục lớn thứ hai tiếp theo
đây chính là phần Ngũ Trùng Huyền Nghĩa.
II. Ngũ Trùng Huyền Nghĩa
Tại
Trung Hoa, hễ giảng giải hoặc chú giải kinh Phật:
1) Một là
như trong học phái Hoa Nghiêm Tông: Trước khi [giảng
giải] kinh văn, đem những điểm trọng yếu
nhất trong kinh văn chia thành mười điều
để nói, gọi là Thập Huyền Môn (十玄門).
2) Hai là như
Thiên Thai Tông, khi nghiên cứu kinh Pháp Hoa, đă nêu ra những
ư nghĩa trọng yếu nhất trong kinh văn của
kinh Pháp Hoa, chia thành năm điều để nói, gọi
là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (五重玄義).
Lịch đại
cao tăng và các vị tại gia cư sĩ giảng kinh,
đều chẳng ra ngoài hai cách thức chánh yếu ấy.
Cũng có vị chẳng chọn dùng hai cách thức ấy,
tùy thuộc mỗi cá nhân làm như thế nào, chỉ giảng
đại ư trước khi bước vào kinh văn th́
cũng được!
Nay chúng tôi dựa
theo Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của tông Thiên Thai để
giới thiệu đơn giản cùng mọi người,
chẳng thể nói tỉ mỉ. Bộ Quán Kinh này
được Thiên Thai Tông Trí Giả đại sư chú
giải. Sau đó, tới đời Tống, có Tri Lễ
đại sư soạn Diệu Tông Sao. Diệu Tông Sao là
chú thích lời chú giải của Trí Giả đại
sư. Tác phẩm ấy có tên là Phật Thuyết Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Diệu Tông Sao. Nếu dựa
theo phần Ngũ Trùng Huyền Nghĩa trong sách Diệu
Tông Sao để giảng, tối thiểu phải mất
mấy tháng th́ mới có thể giảng giải t́nh h́nh
đại khái. Đạo tràng của chúng ta chẳng thể
giảng theo cách thức như vậy, chúng tôi tối
đa là giới thiệu [phần này] qua một hai buổi
giảng, tiếp đó bèn bắt đầu giảng vào
kinh văn.
Ngũ
Trùng Huyền Nghĩa: Ngũ Trùng (五重) là chia thành
năm môn, cũng chính là năm điều; Huyền
Nghĩa (玄義) là nghĩa lư rất thâm áo, ư nói đạo lư rất
sâu trong kinh văn. Trước hết, nêu ra năm điều
để giới thiệu. Nay chúng ta bắt đầu xem
xét Ngũ Trùng Huyền Nghĩa.
II.1. Thích Danh
Đây
là tầng thứ nhất trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa,
cũng là điều thứ nhất, tức Thích Danh. Thích
(釋) là giải thích, Danh (名) là danh xưng của
bộ kinh này. Trước hết, giải thích đề mục
của bộ kinh này, tức là Phật Thuyết Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh. Xét theo cách thức giảng
giải thông thường, kinh đề (經題, tên kinh) có đề mục đặc
biệt (Biệt Đề, 別題) và đề mục
thông thường (Thông Đề, 通題). Đề mục thông thường
là Kinh (經), tức là chữ
Kinh trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh. Bất luận bộ kinh nào cũng đều có chữ
Kinh này. Ví như Hoa Nghiêm Kinh, Lăng Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh đều có chữ Kinh, đó là tên
gọi chung. “Biệt” (別) là đặc
biệt, nói riêng về tên gọi của bộ kinh này.
II.1.1.1 Biệt Đề, Phật
Danh
xưng của bộ kinh này có mấy chữ là Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經). Trước hết,
nói đến chữ Phật. Phật cũng có hai ư
nghĩa Thông và Biệt:
1) Thông (通) là nói chung. Chữ
Phật trong tiếng Ấn Độ là Phật Đà Da
(Buddhaya), nói đơn giản là Phật, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Giác. Phật là ǵ? Phật là bậc
giác ngộ. Đó là Thông.
2) Biệt là
đặc biệt nói đến Thích Ca Mâu Ni Phật.
“Phật Thuyết” nghĩa là Thích Ca Mâu Ni Phật nói
pháp môn này, bộ kinh này. Chữ Phật có hai tầng ư
nghĩa Thông và Biệt.
Chúng
ta xét theo ư nghĩa Thông, tức là xét theo ư nghĩa Giác. Phàm
những vị đă thành Phật, đều là giác; bất
giác sẽ chẳng thể thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật
là giác, A Di Đà Phật là giác, Đông Phương Dược
Sư Phật là giác, bất cứ vị Phật nào
cũng đều là giác. Giác là ǵ? Nay chúng ta đều
chưa thành Phật, đều là phàm phu, đều là bất
giác. Mọi người bất giác, làm sao hiểu ư
nghĩa của giác cho được? V́ thế, đức
Phật thuyết pháp rất thiện xảo, có rất nhiều
phương tiện, khiến cho bọn phàm phu bất giác
chúng ta có thể hiểu ư nghĩa Giác. Ngài dùng phương
pháp so sánh để chúng ta hiểu rơ, lại c̣n chia thành tầng
lớp cho chúng ta thông hiểu.
Cái
Giác thứ nhất là Tự Giác. Chúng ta chẳng biết Tự
Giác là ǵ, hiện thời mọi người đừng
tưởng chúng ta đều hiểu Tự Giác. Phải
biết: Các vị hiểu Tự Giác là do nghe thầy chúng
ta giảng kinh, nghe đă mấy chục năm, mới biết
Tự Giác là ǵ? Nếu chúng ta chưa từng nghe kinh, chẳng
tiếp xúc Phật pháp, vừa nghe nói đến Giác, [sẽ
ngơ ngác] “Giác là ǵ?” Cũng có người c̣n tưởng
là đang ngủ tỉnh giấc, bèn gọi là Giác, sai lệch
quá xa! Chữ Giác trong Tự Giác chỉ điều ǵ?
Trước tiên, nói theo phía lũ phàm phu mê hoặc, điên
đảo trong thế gian. Lũ phàm phu chúng ta ở trong
cơi đời, bất luận là người có học hay
thất học, đều là bất giác. Người có học
bất luận đọc bao nhiêu sách vở, là nhà khoa học
cỡ lớn trên thế giới như ông Ái Nhân Tư Thản
(Einstein), hoặc các nhà vật lư hiện thời, là những
tiến sĩ khoa học hay triết học từng đoạt
giải Nặc Bối Nhĩ (Nobel), đều là mê hoặc,
điên đảo, chẳng hiểu Giác. Những chính khách
đắc thời trên chánh trường, thắng bao nhiêu
người, giành được vị trí tối cao, tranh
cử thành công, vẫn là mê hoặc, điên đảo, bất
giác! V́ sao? Những bậc đại học vấn, có sự
nghiệp to tát ấy, đều coi tiền tài, danh lợi,
của cải, địa vị trong thế gian là thật
sự tồn tại, chấp trước chúng là chân thật,
chẳng giả tí nào. Đó là bất giác.
Phật pháp nói vạn
pháp trong pháp thế gian đều là nhân duyên, nhân duyên luôn biến
động, sanh đó rồi diệt đó. Lũ chúng sanh
phàm phu như bọn chúng ta, ai có thể giác ngộ điều
này? Nếu quư vị giác ngộ, tuyệt đối sẽ
chẳng tranh danh đoạt lợi cùng kẻ khác, tức
là kẻ tu đạo mà vẫn chẳng buông xuống
được th́ vẫn chưa phải là Tự Giác. V́
sao chẳng thể buông xuống? Chẳng thể buông danh
xuống, chẳng thể buông lợi xuống th́ chính ḿnh vẫn
chưa tự giác. Tự giác là ǵ? Chuyển biến toàn thể
tri kiến thế gian, phá trừ toàn thể mê hoặc,
điên đảo, chẳng c̣n là tri kiến phàm phu nữa!
Tự Giác như vậy là đối ứng với phàm phu
mà nói. Phàm phu hoàn toàn bất giác, Phật là tự giác. Tự
giác là giác ǵ vậy? Giác ngộ hết thảy các pháp thế
gian đều là sanh sanh, diệt diệt, chẳng có một
pháp nào là chân thật. Chẳng chấp trước các giả
pháp ấy, tự ḿnh hướng về nội tâm và tự
tánh của chính ḿnh để truy cầu. Sau đấy, do
chẳng chấp trước giả pháp, chân pháp bèn hiển
lộ, chính ḿnh đă giác, đó là Tự Giác. Giác ǵ vậy?
Giác ngộ chính ḿnh có Chân Như bản tánh. Tự Giác là thấy
rơ ràng hết thảy, tất cả phàm phu chẳng làm
được điều này. Chẳng làm được
sẽ không hiểu ư nghĩa của Tự Giác. Chỉ có từ
bất giác hiển lộ Tự Giác. Đó là tầng thứ
nhất: Phật là Tự Giác. Tự Giác là đối ứng
với phàm phu mà nói.
Tiếp
đó là Giác Tha. Sau khi đă tự giác, c̣n phải khuyến
hóa những kẻ b́nh phàm; điều này gọi là “độ chúng sanh”. Đây là
nói với kẻ Nhị Thừa. Người học Tiểu
Thừa chẳng chịu độ chúng sanh; Giác Tha là khiến
cho tất cả mọi người đều có thể
giác ngộ. Thực hiện Tự Giác và Giác Tha hết sức
viên măn, thực hiện hết sức triệt để,
đến cuối cùng thành Phật, bèn là Giác Hạnh Viên
Măn. Giác Hạnh Viên Măn là hai đằng Tự Giác và Giác Tha
đều thực hiện hết sức viên măn. Khi ấy
bèn thành Phật. Phàm hết thảy những vị đă
thành Phật đều có đủ ba ư nghĩa này; Thích Ca
Mâu Ni Phật đă trọn đủ ba ư nghĩa này. Hôm
nay, tôi đă nói rơ ràng chữ Phật. Nếu nói đơn
giản hơn đôi chút, th́ Tự Giác chẳng giống
như phàm phu, do nói đối ứng với phàm phu. Giác Tha
là chẳng giống Nhị Thừa, Giác Hạnh Viên Măn là chẳng
giống hết thảy các vị Bồ Tát. Nói tới ba ư
nghĩa ấy là được rồi, hôm nay tôi chỉ
nói đến chỗ này.
Tập 2
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu. Hôm nay, xin quư vị hăy xem đề
cương bài giảng. Trong buổi giảng trước,
đă nói phần thứ nhất là Lược Thuyết
Nhân Duyên. Phần thứ hai là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa,
tầng thứ nhất [trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa] là
Thích Danh, nhằm giải thích đề mục của bộ
kinh này. Trong đề mục của kinh, có Biệt Đề
và Thông Đề. Phần Biệt Đề là Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật, trong buổi trước,
tôi đă giảng chữ Phật. Hiểu theo ư nghĩa
thông thường, chỉ cần đă thành Phật, bất
cứ vị Phật nào cũng đều như nhau: Tự
Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Măn. [Hiểu theo] ư nghĩa đặc
biệt th́ [chữ Phật] chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, là
đấng Thích Tôn. Bộ kinh này do Thích Ca Mâu Ni Phật nói
ra. Hôm nay, chúng tôi giảng tiếp chữ Thuyết trong Phật
Thuyết.
II.1.1.2. Biệt Đề, Thuyết
Chữ
Thuyết (說), nói thông thường là nói năng; nhưng đối
với chữ Thuyết trong bộ kinh do đức Phật
đă thuyết này, cần phải giải thích đôi chút.
Cổ đại đức giải thích chữ Thuyết
này có nghĩa là “duyệt sở
hoài” (悅所懷). “Duyệt
sở hoài” là ǵ? Duyệt (悅) là hỷ duyệt
(喜悅), [nghĩa là]
trong tâm rất vui thỏa. Vui thỏa điều ǵ? “Sở hoài” [nghĩa là] đức
Phật nói ra những điều thường ấp ủ
trong tâm nên rất vui thỏa. Ngài ấp ủ trong ḷng những
ǵ? Chính là đạo lư và phương pháp tu tŕ trong bộ
kinh này, đối với chúng sanh, [đạo lư và
phương pháp tu tŕ ấy] có tầm lợi ích hết sức
trọng yếu. Tuy là hết sức trọng yếu hữu
ích đối với chúng sanh, nhưng chưa đến
nhân duyên, sẽ chẳng có cách nào nói được! Nhất
định là phải có nhân duyên trọn đủ th́ mới
có thể nói ra!
Nói theo cách hiện
thời cho dễ hiểu: Ví như tổ chức một
buổi diễn giảng ở bên ngoài, cũng cần phải
có bao nhiêu điều kiện. Các điều kiện đều
trọn đủ th́ mới có thể tổ chức diễn
giảng thành công. Điều kiện chẳng trọn
đủ, chẳng có cách nào diễn giảng! Giảng học
hoặc diễn giảng thông thường c̣n cần có
điều kiện; pháp môn trọng yếu trong Phật
pháp mà nếu chẳng trọn đủ các điều kiện,
đức Phật sẽ chẳng có cách nào nói được!
V́ thế, khi đức Phật giảng bộ kinh này, các
thứ nhân duyên đă đều chín muồi th́ mới có thể
giảng. Tâm đức Phật hết sức từ bi,
Ngài có thể nói ra pháp môn này, khiến cho tất cả thính
chúng đều đạt được lợi ích, tâm
đức Phật hết sức vui sướng. Dựa
trên ư nghĩa này để giải thích chữ Thuyết,
nên bảo là “duyệt sở
hoài”: Trong tâm đức Phật hết sức vui sướng,
vui sướng v́ có thể nói pháp môn này, khiến cho người
nghe đều có thể đạt được lợi
ích. Đó là ư nghĩa của chữ Thuyết.
II.1.1.3. Biệt Đề, Quán
Kế
đó, xem tới chữ Quán (觀). Quán ở
đây đặc biệt trọng yếu, v́ bộ kinh này
có tên là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, do nội dung
trong ấy bao gồm mười sáu phép Quán, nên c̣n gọi
là Thập Lục Quán Kinh. Nếu nói đơn giản th́ gọi
là Quán Kinh. Do vậy, chữ Quán này quan trọng. Ở
đây, trước hết nói về chữ Quán. Nói đến
Quán, hiểu theo ư nghĩa văn tự th́ là “quan sát” (觀察). Đối với
chuyện ǵ đó, chúng ta bỏ công quan sát th́ gọi là Quán.
Ngoài quan sát ra, c̣n phải vận dụng tâm tư, tưởng
tượng sự vật đă được quan sát th́
cũng gọi là Quán. Đó là “quan
sát, tưởng tượng”.
Nếu nói cụ
thể hơn, quư vị quan sát điều ǵ? Lại tưởng
tượng điều ǵ? Tiếp đó, bèn nói là “dĩ tâm duyên chi” (dùng tâm để
duyên theo). “Dĩ tâm duyên chi”
(以心緣之) là ǵ? “Dĩ tâm” là nói người tu Quán pháp dùng cái tâm của
chính ḿnh. “Duyên” là tiếp
xúc, nói theo danh từ nhà Phật, sẽ là “phan duyên” (攀緣). Chữ “chi” (之) biểu thị cảnh giới được
quán. Chẳng hạn như nói quán Phật, quán A Di Đà Phật,
dùng cái tâm chúng ta tiếp xúc A Di Đà Phật, đặt
tâm nơi A Di Đà Phật th́ gọi là “dĩ tâm duyên chi”. Đấy là giải thích ư
nghĩa của chữ Quán.
Đối
với phương pháp để quán th́ chính là hai câu
được viết trong dấu ngoặc [trong đề
cương bài giảng]: “Nhất
Tâm Tam Quán, Tam Trí thật tại nhất tâm trung đắc”
(Nhất Tâm Tam Quán, Tam Trí thật sự là từ nhất
tâm mà đạt được). Đây chính là lư luận Phật
học của tông Thiên Thai, hết sức trọng yếu.
Có nói ra, cũng hết sức khó hiểu. Tuy phương
pháp của tông Thiên Thai khó hiểu, Quán Kinh có một bản
chú giải trọng yếu, tức là bản chú giải của
Thiên Thai Tông Trí Giả đại sư. Bản chú giải
của Trí Giả đại sư dùng học lư của tông
Thiên Thai Tông để giải thích. Bất quá, ở
đây, tôi phải nói rơ: Pháp môn Chỉ Quán của tông Thiên
Thai Tông thuần túy là pháp môn phổ biến. Dùng
phương pháp Chỉ Quán để giải thích Quán Kinh của
Tịnh Độ Tông th́ học lư vẫn giống như hệt,
nhưng phương pháp dụng công khác nhau! Chúng ta phải
phân biệt điều này!
Phương pháp
dụng công có ǵ khác biệt? Tông Thiên Thai cũng nói đến
Nhất Tâm Tam Quán, nhưng Tam Quán được nói thuần
túy theo tông Thiên Thai chính là hoàn toàn dùng sức của chính ḿnh
(Tự Lực) để đoạn Kiến Tư Hoặc,
đoạn Trần Sa Hoặc, đoạn Căn Bản Vô
Minh, [tức là] dùng pháp môn Chỉ Quán để đoạn
Hoặc theo từng tầng một. Trong Quán Kinh của Tịnh
Độ Tông, nói theo lư th́ Nhất Tâm Tam Quán vẫn giống
y hệt, nhưng vận dụng pháp Quán bèn có đối
tượng để quán, tức là trong ấy có đối
tượng của mười sáu phép Quán. Do đó, chẳng
giống Nhất Tâm Tam Quán của tông Thiên Thai, [bởi lẽ],
đây là pháp môn đặc biệt!
Tôi
lại phải giới thiệu cùng mọi người Nhất
Tâm Tam Quán là ǵ. Trước khi nói tới Nhất Tâm Tam Quán
(一心三觀); trước hết,
phải giải thích Thứ Đệ Tam Quán (次第三觀). Thứ Đệ
Tam Quán là ǵ? Chúng ta làm bất cứ chuyện ǵ, hoặc là
nghiên cứu bất cứ loại học vấn nào, đều
phải tiến hành từng bước một, có thứ tự.
Nếu quư vị chẳng lần lượt nghiên cứu
theo thứ tự, sẽ chẳng thể nghiên cứu
được. Nói đến pháp Quán th́ cũng như vậy,
nếu trước đó, chẳng hiểu rơ Thứ Đệ
Tam Quán, sẽ chẳng hiểu Nhất Tâm Tam Quán! Nay trước
hết, tôi sẽ thưa rơ cùng quư vị Thứ Đệ
Tam Quán là ǵ.
II.1.1.3.1. Không Quán
Bước
đầu tiên trong Thứ Đệ Tam Quán là tu Không Quán (空觀). Tu Không Quán
như thế nào? Bọn phàm phu chúng ta đều là chấp
trước dữ dội, coi những thứ ở ngoài
thân thể của chính ḿnh, hết thảy những ǵ mắt
thấy, những âm thanh tai nghe được, hết thảy
mọi thứ, cho đến núi, sông, đại địa,
thảy đều chấp trước, đều coi những
thứ ấy là thật sự tồn tại, chấp
trước chúng là thật sự có. Ví như địa cầu,
ai nấy đều nghĩ địa cầu là một thứ
có thật, thân thể của chúng ta cũng là thân thể rất
thật, cuộc sống này hết sức hiện thực.
Chúng ta sống trong xă hội từ bé đến già, từ
thuở bé đi học cho đến trong tương lai, học
vấn thành tựu, ra làm việc trong xă hội, đạt
được tiền của, tiếng tăm, quyền lực,
địa vị; đối với những thứ ấy,
chẳng có ai không coi chúng là những thứ chân thật. Nếu
có ai bảo chúng là giả, chẳng thật sự tồn tại,
mọi người đều phản đối: Rơ ràng là
rất hiện thực, giả làm sao được? Chẳng
thừa nhận chúng là giả, coi những thứ ấy
đều là thật sự tồn tại. Đấy chính
là tri kiến phàm phu. Phàm phu có sanh tử; sống sống,
chết chết chính là phàm phu. Chấp trước những
thứ ấy chẳng chịu buông xuống, coi chúng là thật,
ngỡ giả là thật!
Ngỡ giả
là thật th́ sẽ chẳng đạt được cái
thật sự. Lấy ngay thân người chúng ta để
nói, coi thân người là Chân Ngă, đối với những
thứ khác như Chân Như bản tánh (Chân Ngă thật sự),
Đại Ngă bèn mê hoặc. Chính ḿnh chẳng thông hiểu,
coi giả là thật, đối với Chân Ngă bị mê hoặc,
chẳng thể thọ dụng. Đó là phàm phu. Khi tu Không
Quán, sẽ thấy thấu suốt những thứ giả
dối ấy, phải thừa nhận những thứ ấy
đều là giả, sau đấy, quư vị mới có thể
thấy những thứ hư giả ấy là Không. Sau khi hết
thảy các thứ hư giả đều là không rồi,
cái chân thật mới hiển lộ. Đă vứt bỏ Giả
Ngă th́ Chân Ngă mới hiển lộ. Nguyên tắc trọng yếu
của Không Quán là như vậy.
Để
thấy hết thảy các giả pháp đều là Không, chẳng
đơn giản! Trước hết, phải phân tích từ
học lư. Một học lư đơn giản, mà cũng là
một học lư rất quan trọng, chính là điều
được dạy trong kinh Phật: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị
không” (Các pháp do nhân duyên sanh ra, ta nói chúng chính là không). Hết
thảy các pháp đều là các hiện tượng do nhân
duyên ḥa hợp mà có. Lấy ngay thân thể loài người
chúng ta để nói, thân thể chúng ta cũng chẳng phải
là bỗng dưng mà có! Chúng ta sanh vào nhân gian,
đương nhiên là thức thứ tám vốn sẵn có,
nói thông tục là “linh hồn”.
Linh hồn đến nhân gian, khi đến đây, chỉ
là một linh hồn, chẳng có thân thể, phải đầu
thai, nương gá thai mẹ, cậy vào cha mẹ làm duyên, cộng
thêm linh hồn của chính ḿnh làm nhân. Đă có nhân và có duyên,
sau đấy, ở trong thai mẹ mới dần dần
h́nh thành một đứa bé. Đứa bé ở trong thân mẹ
hấp thụ các chất dinh dưỡng (vẫn là nhân
duyên), dần dần trưởng thành, sau đấy mới
lọt ḷng mẹ. Sau khi đă được sanh ra, bé tí tẹo
như thế, chính ḿnh chẳng thể sống sót, phải
cậy vào cha mẹ nuôi nấng mới dần dần khôn lớn.
Sau khi đă lớn lên, c̣n phải được giáo dục
th́ mới có năng lực phân biệt sự lư. Lại nói
đến thân thể ấy, vẫn phải tiếp tục
cậy vào nước uống và thức ăn bên ngoài, phải
bổ sung hằng ngày. Nếu chẳng được bổ
sung, thân thể của chúng ta sẽ chẳng thể tồn
tại. Có thể thấy thân thể này, sanh mạng này là
giả, do nhân duyên ḥa hợp. Bất cứ duyên nào biến
động, thân thể của chúng ta nhẹ th́ sanh bệnh,
nghiêm trọng bèn tử vong. Nh́n từ nhân duyên, nhân duyên chuyển
biến trong mọi lúc. Các bộ phận vật chất
nơi thân thể như nước, hơi ấm, thức
ăn, thực phẩm, những thứ ấy được
hấp thụ vào trong thân thể của chúng ta; có các thành
phần mang theo chất calcium bổ sung cho xương, luôn
bổ sung. Hễ thiếu thốn một nguyên tố nào,
thân thể sẽ có vấn đề. Có thể thấy là
thân thể luôn biến động, đó là Giả Pháp.
Đối
lập với nó, Chân Ngă là ǵ? Chân Ngă chẳng giống
như vậy! Chân Ngă bất biến. Chân Ngă là Chân Như bản
tánh. Trong phần Biện Thể được nói trong
đoạn sau, Thật Tướng chính là Chân Ngă. Thật
Tướng vĩnh hằng chẳng biến hóa. Giả Ngă
biến đổi, nhưng bản thân chúng ta chẳng nhận
biết. Từng phút, từng giây, trong bất cứ thời
gian ngắn ngủi như một cái khảy ngón tay, thân thể
luôn biến hóa. Phàm phu một mực biến hóa đến
chết mới thôi. Sau khi đă tử vong, vẫn biến
hóa! Chân Ngă th́ sao? Chẳng có chết, bất sanh, bất diệt,
tồn tại vĩnh hằng. V́ thế, có tử, có sanh;
đó là biến. Biến hóa, có sanh có tử chính là một
loại khổ năo, một loại thống khổ. Khi thân
thể chúng ta mắc phải bất cứ bệnh ǵ, có
đau khổ hay không? Rất đau khổ! Chúng ta và
người nhà chia ly, có đau khổ hay không? Đó
cũng là một nỗi thống khổ. Chân Ngă chẳng có
những sự biến hóa ấy. Chân Ngă là Chân Như bản
tánh, vĩnh cửu bất biến, tồn tại vĩnh cửu.
Nh́n từ khía cạnh này, phàm những ǵ biến hóa chẳng
ngừng, có nhân duyên ḥa hợp với nhau, lại c̣n thời
thời khắc khắc biến hóa, sanh diệt chẳng ngừng,
đều là giả pháp.
Không
chỉ thân thể là như vậy, ở ngoài thân thể,
cái được mọi người công nhận là chân thật
nhất là đại địa cũng giống hệt
như thế! Đại địa có sanh mạng giống
hệt như thân thể chúng ta. Những người nghiên
cứu khoa học đă biết: Địa cầu vào thuở
ban sơ, bao nhiêu ức năm trước có t́nh huống
như thế nào, cho đến sau này, địa cầu mới
dần dần có sinh vật, dần dần lại có thêm
động vật. Chúng ta là động vật bậc cao,
con người xuất hiện hết sức muộn màng.
Trong tương lai, địa cầu đến tuổi
lăo niên, lại là một trạng huống khác. Hiện thời,
địa cầu vẫn đang biến hóa, kể cả
khí quyển. Con người chính là nhân tố phá hoại “xú khí tằng” (tầng khí
ozone). Kết quả sau khi bị phá hoại là khí hậu mất
cân bằng: Hoặc là rất lâu trời không mưa, tức
là bị hạn hán; hoặc có nơi đổ mưa, chẳng
mưa th́ thôi, hễ mưa bèn dồn hết nước lại,
lại biến thành nạn lụt. Đó là địa cầu
biến hóa. Tại Trung Hoa, vào thời đại Nghiêu Thuấn
xa xưa, mưa ḥa, gió thuận, chẳng phải như
t́nh trạng hiện thời. Địa cầu luôn biến
đổi. Đó là xét theo phương diện các tầng
khí thuộc khí quyển.
Bản thân địa
cầu lại có núi lửa. Thí dụ như tại Nhật
Bản, núi lửa bùng nổ, Phi Luật Tân cũng có núi lửa
bùng nổ. V́ sao núi lửa bùng nổ? Bản thân địa
cầu biến đổi! Khi nó vận động, dung
nham từ miệng núi lửa trào ra. Lại c̣n có núi lở,
động đất, những thứ ấy đều
là biến động. V́ sao nó biến động? Khi bản
thân địa cầu đang chuyển biến, hễ
hơi bị bên ngoài quấy nhiễu, góc độ [chuyển
động] của bản thân [địa cầu] biến
thành chẳng tự nhiên như vậy, tốc độ biến
động lớn hơn đôi chút, hoặc là nhanh hơn
một chút, góc độ sẽ hơi bị chẳng thông
thuận, bản thân nó liền biến đổi. V́ thế,
kinh Phật bảo là: “Vạn
pháp vô thường”.
Xét tới lănh thổ
quốc gia (bản đồ), mỗi quốc gia có biên giới.
Đây là quốc gia của ta, kia là quốc gia của bọn
họ, phân chia rành mạch, toàn là giả lập! Kinh Phật
bảo “quốc độ nguy
thúy” (國土危脆, cơi nước
mong manh). Lănh thổ của mỗi quốc gia đều hết
sức nguy hiểm, mà cũng hết sức mong manh, chẳng
phải là kiên cố, vững vàng, không ǵ phá hoại
được, đều là tạm thời duy tŕ hiện
trạng mà thôi. Chúng đều là pháp nhân duyên.
Duyên có rất
nhiều loại, bất cứ duyên nào hễ biến động,
sẽ dẫn đến toàn thể đều bị biến
động. V́ thế, phải hiểu rơ tầng [ư
nghĩa] này. Sau khi đă hiểu rơ tầng này, chúng ta chớ
nên chấp trước, đừng nên coi những sự vật
do nhân duyên sanh ra là chân thật. Chẳng chấp trước,
chúng ta sẽ chẳng bị khốn đốn bởi giả
pháp, sẽ có cái nh́n trí huệ, tức là Quán Không: Thấy hết
thảy giả pháp đều là Không. Sau khi đă thấy
là Không th́ mới đạt được chân tướng,
thấy được Chân Ngă, mới có đại trí huệ
thật sự hiển lộ, như vậy th́ mới có thể
liễu sanh tử. Đó là Lư ắt cần phải hiểu
rơ khi hành Không Quán.
Chúng
ta niệm Phật, v́ sao phải thông hiểu Lư này? Chẳng
phải là chúng ta thường nói [như thế này] hay sao?
“Niệm Phật chẳng thể dụng công được.
B́nh thường th́ vẫn có thể thong thả niệm. Hễ
gặp chuyện trái ư, hoặc gặp chuyện rất vui
thích, chẳng thể niệm Phật hiệu nữa”.
Đó là v́ chẳng hiểu rơ pháp nhân duyên! Vui thích ư? V́ sao
quư vị vui thích? V́ “phát tài”, kiếm được một
món tiền lớn, hoặc được lên chức, v́ những
chuyện đó mà vui thích ư? Chẳng hiểu rơ “tài”
cũng là thứ giả, chức vị được
thăng tấn càng là thứ giả trất hơn, chẳng
đáng để vui thích! Chẳng hiểu rơ những thứ
ấy là giả trất. Hễ vui thích bèn quên bẵng Phật
hiệu, bị giả pháp dẫn đi mất rồi! Lại
nói đến lúc phiền năo, trong ḷng buồn bực, chẳng
ngoài chuyện bị kẻ khác lừa mất tiền tài,
[tức là] “phá tài”, hoặc là mất chức, chẳng giữ
được quyền lực, địa vị, những
điều ấy đều dẫn tới phiền năo. Chỉ
cần hiểu rơ những thứ ấy chẳng đáng
để hao tâm tổn trí, chẳng đáng để phiền
năo, chúng ta sẽ chẳng bị khốn đốn bởi
chúng nó. Chẳng bị khốn đốn bởi chúng nó, Phật
hiệu sẽ chẳng bị ảnh hưởng, sẽ
có thể niệm măi. V́ thế, thông hiểu lư này rất trọng
yếu. Đó là lư do hành Không Quán, ắt phải hiểu rơ
đạo lư.
Không
Quán là thấy thấu suốt hết thảy các giả
pháp đều là Không, chẳng chấp trước giả
pháp, bèn khai trí huệ. Khai trí huệ ǵ vậy? Chính là đoạn
trừ Kiến Tư Hoặc. Đoạn trừ Kiến
Tư Hoặc bèn khai Nhất Thiết Trí.
Như
La Hán chứng đắc quả La Hán, tức là đă chứng
đắc Nhất Thiết Trí (一切智). Nhất Thiết
Trí là bất cứ thứ ǵ hư giả trong thế gian
(những thứ do nhân duyên ḥa hợp) đều chẳng
thể dẫn dụ Ngài. Ngài vừa nh́n bèn thấy thấu
suốt, trọn chẳng bị chúng vây khốn, trí huệ
đă khai phát, được gọi là Nhất Thiết
Trí. Đấy chính là trí huệ được thành tựu
bởi Không Quán. Nay chúng ta chẳng đạt đến
tŕnh độ ấy, nhưng thông hiểu Lư rất quan trọng.
Phải biết: Hiện nay là thời kỳ Mạt Pháp, nhất
là trong hiện thời, ở bên ngoài có rất nhiều kẻ
tà tri tà kiến. Bọn chúng diễn giảng bên ngoài, có bao
nhiêu kẻ nghe theo! Bọn chúng thật sự chẳng có thần
thông ǵ hết, nhưng giả vờ có thần thông, cho nên
gạt gẫm rất nhiều người. Bọn chúng
cũng bảo chính ḿnh đang giảng nói Phật pháp! Chúng
ta thông hiểu Lư, sẽ chẳng bị bọn chúng lừa
gạt. Quư vị nói có thần thông chi đó ư? Trong nhà
Phật, đối với thần thông, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă bảo các vị đại đệ tử, người
thật sự có thần thông cũng chẳng cho phép tỏ
lộ, hiển thị thần thông, đức Phật tuyệt
đối cấm ngặt, chẳng cho phép.
Thần thông chẳng
đáng tin cậy! Đừng nói là giả, dẫu là thật,
cũng là thần thông của ngoại đạo, chẳng
phải thần thông chân chánh trong nhà Phật, chẳng
đáng tin cậy! Hiểu rơ đạo lư này, đối với
thần thông, ngoại trừ Lậu Tận Thông (đoạn
phiền năo mới là Lậu Tận Thông, mới là Phật
gia), c̣n những thứ khác như Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ
Thông, Túc MạngThông, Thần Túc Thông, Tha Tâm Thông đều
chẳng đáng tin! Ngoại đạo Ấn Độ
cũng có thần thông. Hiện thời, có rất nhiều
người nói họ học thần thông từ ngoại
quốc, đừng nghe theo họ! Cái chúng ta cần học
là Lậu Tận Thông. Lậu Tận Thông là ǵ? Hết thảy
những thứ thuộc ngoại giới chẳng thể
dẫn dụ, thời thời khắc khắc phải học
tập sao cho phiền năo mỗi ngày một giảm nhẹ,
chẳng bị phiền năo vây khốn. Đừng nói là thần
thông, dẫu là hai mươi tám tầng trời, chúng ta
đă thông hiểu Lư này th́ cũng chẳng bị dụ dỗ,
mê hoặc. Tiểu Thừa chứng đắc quả La
Hán, cũng chẳng lên cơi trời. V́ thế, thông hiểu
lư này, tâm chúng ta có thể định, niệm Phật bằng
tín tâm kiên định. Bất luận hiện thời kẻ
bên ngoài nói như thế nào đi nữa, quư vị vừa
nghe bèn biết là kẻ đó đang nói điều ǵ, ngay
lập tức biện định kẻ đó là chánh hay
tà, ngay lập tức phân biệt được kẻ
đó là tà ma ngoại đạo, tuyệt đối chẳng
bị gă đó lừa phỉnh! V́ thế, thông hiểu lư
này đặc biệt trọng yếu.
II.1.1.3.2. Giả Quán
Sau
khi đă thành tựu Không Quán, chứng đắc Nhất
Thiết Trí, chính ḿnh đă giải quyết xong sanh tử,
Phật pháp lấy từ bi làm hoài băo: Bản thân chúng ta
đă giải quyết xong sanh tử, nhưng hăy c̣n có nhiều
chúng sanh dường ấy đang luân hồi trong lục
đạo. V́ thế, phải độ chúng sanh. Chẳng
độ chúng sanh tức là chẳng có tâm từ bi, chẳng
đúng! Muốn độ chúng sanh th́ phải tu Giả Quán
(假觀). Trong phần
trước, chúng tôi đă nói: Khi tu Không Quán, phải thông hiểu
giả pháp, chớ nên chấp trước giả pháp;
nhưng khi muốn độ chúng sanh, vẫn phải tu Giả
Quán. Lại phải từ Không Quán thoát ra, vẫn phải
thông hiểu vạn sự vạn vật trong thế gian.
Tuy chúng là giả, cũng đều là nhân duyên. Phải
thông hiểu đó là nhân ǵ? Duyên ǵ? Thông hiểu bất cứ
sự vật được h́nh thành như thế nào?
Trong tương lai, nó sẽ diệt mất như thế
nào? Quư vị thông hiểu những điều này, thảy
đều phải biết. Học vấn thế gian và những
đạo lư được giảng trong kinh Phật, quư vị
đều phải hiểu rơ. Tuy những thứ ấy
đều là pháp nhân duyên, là giả, nhưng quư vị phải
học. Làm như vậy, dùng công phu ấy tức là tu Giả
Quán.
Giả
Quán, trong quan niệm Phật pháp, rơ ràng chỉ là một
danh từ, là giả. Ví như nói Ngă, rơ ràng Ngă ấy chính là
giả, nhưng v́ sao vẫn phải nói tới Ngă? Tuy là giả,
nhưng trong khi nói năng, hoặc viết lách, quư vị chẳng
dùng Ngă sẽ không được. Chẳng dùng Ngă th́ quư vị
sẽ chẳng thể thốt lên lời, chẳng có cách
nào trao đổi ư kiến cùng kẻ khác, vẫn phải
dùng danh từ giả tướng! Các thứ danh tướng
như “nhân, ngă” đều phải thông hiểu. Triết học,
khoa học, văn học, các thứ học thuyết của
thế gian, học lư trong Tam Tạng của nhà Phật
đều phải thông hiểu. Chẳng thông hiểu những
thứ học vấn ấy, sẽ chẳng có cách nào hóa
độ chúng sanh! Do vậy, v́ độ chúng sanh mà phải
tu Giả Quán. Tu Giả Quán nhằm phá trừ Trần Sa Hoặc.
Chúng ta do mê hoặc, điên đảo, nên mới chẳng
thông hiểu pháp nhân duyên trong thế gian, chẳng hạn
như: Địa cầu h́nh thành như thế nào? Trong
tương lai sẽ biến đổi như thế nào?
Sau khi đă biến đổi, kết quả sẽ là
như thế nào? Chúng ta đều không biết, ắt phải
là người chuyên môn nghiên cứu ngành khoa học địa
cầu mới biết. Tuy họ biết, nhưng cũng
chẳng rốt ráo! V́ thế, ắt phải dùng Phật
pháp để nghiên cứu, nghiên cứu đạo lư thành,
trụ, hoại, không của địa cầu theo từng
tầng một. Thông hiểu một đạo lư, sẽ trừ
một phần mê hoặc nơi kiến giải. Hoặc (惑) có bao nhiêu thứ? Nhiều
như trần sa (cát, bụi)! Tu Giả Quán nhằm trừ
khử Trần Sa Hoặc. V́ thế, đă thành tựu Không
Quán, lại phải tiếp tục tu Giả Quán, học
[Giả Quán] để hóa độ chúng sanh. Tu Giả Quán
thành công, sẽ chứng trí huệ ǵ? Chính là Đạo Chủng
Trí (道種智). Đạo Chủng
Trí là trí huệ do hàng Bồ Tát đạt được.
Hết thảy học vấn thế gian đều thông hiểu,
Ngài độ chúng sanh, đối với bất cứ
chúng sanh thuộc loại căn khí nào, biết họ học
vấn như thế nào, Ngài sẽ vận dụng loại
học vấn nào [thích hợp] để dẫn dắt họ
học Phật. Đấy chính là Đạo Chủng Trí.
II.1.1.3.3. Trung Quán
Tu
Giả Quán thành công, đă biết là Không, lại biết là
Giả, sau đấy, sẽ học Trung Quán (中觀). Trung Quán là
Trung Đạo, dung hợp cả hai đằng Không và Giả,
tức là chẳng trụ Không, chẳng trụ Giả. Hai
đằng đều có thể vận dụng. Đó là
Trung Quán. Tu Trung Quán sẽ chứng quả là Nhất Thiết
Chủng Trí (一切種智). Nhất Thiết
Chủng Trí bao gồm cả [sở chứng của] Không
Quán lẫn Giả Quán, [tức là bao gồm cả] Nhất
Thiết Trí đạt được từ Không Quán và
Đạo Chủng Trí đạt được từ Giả
Quán. Nhất Thiết Trí đạt được từ
Không Quán trong phần trước chẳng triệt để,
Đạo Chủng Trí đạt được từ Giả
Quán cũng chẳng triệt để. Nhất Thiết Chủng
Trí được chứng bởi Trung Quán là triệt để
nhất, cho nên gọi là Nhất Thiết Chủng Trí.
Thứ
Đệ Tam Quán như đă được nhắc đến
trong phần trước chính là: Trước hết, tu
Không Quán, sau đấy tu Giả Quán. Tu Giả Quán thành công
rồi lại tu Trung Quán. Từng bước một theo thứ
tự. Sau khi đă hiểu rơ Thứ Đệ Tam Quán, bây
giờ, xin quư vị hăy xét tới Nhất Tâm Tam Quán.
II.1.1.3.4. Nhất Tâm Tam Quán
Nhất
Tâm Tam Quán là ǵ? Là tu tập cùng một lần, vận dụng
công phu Tam Quán Không, Giả, Trung cùng một lúc. Nhất tâm
bèn trọn đủ Tam Quán Không, Giả, Trung, chẳng cần
phải trải qua từng bước một, viên dung nhất,
nhanh chóng nhất, nên gọi là Nhất Tâm Tam Quán. Trí
được chứng do vận dụng Nhất Tâm Tam
Quán sẽ được gọi là Tam Trí. Tam Trí chính là Nhất
Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng
Trí đă nói trong phần trước. Thật ra, Tam Trí là
trong Nhất Tâm Tam Quán đồng thời đắc Tam
Trí, cho nên gọi là Nhất Tâm Tam Quán. Đối với
tŕnh độ của chúng ta [mà bàn đến] Nhất Tâm
Tam Quán th́ vẫn là quá sớm! Đối với Không Quán,
trong hiện thời, chúng ta c̣n chưa thể buông thế
gian xuống đưọc! Không Quán mà c̣n chưa làm
được, huống hồ Giả Quán và Trung Quán! Nay
nói đến Nhất Tâm Tam Quán, chúng ta đúng là chẳng
có cách nào làm được. Bất quá, nhắc đến
để thông hiểu Lư mà thôi. Nói là Nhất Tâm Tam Quán, tức
là như tôi vừa mới nói, chính là thực hiện Tam
Quán ngay trong một lần. Thực hiện như thế
nào? Ví như khi nhập Không Quán, chỉ cần khởi lên
Không Quán th́ Giả Quán và Trung Quán đều ở ngay trong
Không Quán; một thứ Không, hết thảy đều
Không. Nếu khởi lên Giả Quán th́ Không Quán cũng thế,
mà Trung Quán cũng thế, hết thảy đều là Giả
Quán, đều viên dung trong Giả Quán. Nếu dấy khởi
Trung Quán th́ Không Quán cũng thế, mà Giả Quán cũng thế,
cũng là viên dung trong Trung Quán. Các vị tổ sư thời
cổ nói là: “Một thứ
không, hết thảy đều không. Một thứ giả,
hết thảy đều giả. Một thứ trung, hết
thảy đều trung”. Đấy chính là Nhất Tâm
Tam Quán.
Hiểu
rơ chữ Quán này, biết có Thứ Đệ Tam Quán và Nhất
Tâm Tam Quán, đều là sử dụng phương pháp Quán.
Trong phần kinh văn ở phía sau, khi nói đến mười
sáu phép Quán, bất luận là thực hiện phép Quán nào,
đều chẳng ĺa khỏi phương pháp Tam Quán.
II.1.1.4. Biệt Đề, Vô
Lượng Thọ Phật
Lại
nói tới Vô Lượng Thọ Phật. Danh xưng trong tiếng
Ấn Độ (thời cổ gọi xứ này là Thiên
Trúc) sẽ là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Vô Lượng Thọ Phật.
Quán Kinh lấy Vô Lượng Thọ Phật là đối
tượng để quán. Chúng ta là người dụng
công tu Quán, bèn gọi là Năng Quán (能觀), tức là tâm
chúng ta có thể quan sát, quán tưởng, nên gọi là
Năng Quán. Đối tượng để chúng ta quán (Sở
Quán, 所觀) là ǵ? Chính là Vô
Lượng Thọ Phật. Vô Lượng Thọ Phật
là cảnh giới sở quán. Dùng Vô Lượng Thọ Phật
làm đối tượng hoặc cảnh giới để
quán, sẽ chẳng phải là pháp môn thông thường! Nhất
Tâm Tam Quán và Thứ Đệ Tam Quán được nói trong
phần trước chính là cách quán của tông Thiên Thai; bộ
kinh này dùng Vô Lượng Thọ Phật, tức A Di Đà
Phật, để làm cảnh giới quán tưởng, nên
là một pháp môn đặc thù!
Pháp môn thông
thường dùng sức của chính ḿnh để quán Kiến
Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc từng tầng
một, phá trừ từng tầng một, đă quán trọn
hết toàn bộ th́ mới thành công. C̣n pháp môn đặc
thù th́ sao? Có một đối tượng để phỏng
theo, quán thành công hết sức mau chóng, có thể giúp chúng ta
dễ định tâm. Đă có một khuôn mẫu, phỏng
theo khuôn mẫu ấy để quán tưởng, sẽ hết
sức nhanh chóng. Pháp môn thông thường chẳng có đối
tượng để phỏng theo. Giống như chúng ta
viết chữ hoặc vẽ vời. Trước khi viết
chữ, phải có bảng chữ làm mẫu th́ mới có thể
mô phỏng. Vẽ vời th́ cũng phải trước hết
là phỏng theo cách vẽ của người khác như thế
nào, sẽ học được cách vẽ nhanh chóng! Chẳng
có một đối tượng để mô phỏng, vừa
khởi đầu quư vị liền tự vẽ! Vẽ
đến khi nào th́ mới vẽ đẹp được?
Hiệu quả quá chậm! Ở đây, chúng ta nói đến
Quán Kinh, tức là quán Vô Lượng Thọ Phật. Vô
Lượng Thọ Phật là cảnh để chúng ta
quán; trong tâm chúng ta dùng cảnh ấy để duyên theo, tâm
chúng ta đặt nơi A Di Đà Phật. Tiếp xúc A Di
Đà Phật, tâm chẳng ĺa khỏi A Di Đà Phật, tâm
đặt nơi Phật, chẳng cần cố ư đoạn
Kiến Tư Hoặc và Trần Sa Hoặc mà tự nhiên tâm
của quư vị hợp cùng Phật, tâm chính là Phật, chẳng
thể nghĩ bàn! Hay khéo là ở chỗ này!
Biệt
Đề của kinh, tức là đề mục đặc
biệt của kinh này, Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Phật đă nói xong!
Tôi
lại giải thích đôi chút về học lư trong cách
đặt tên kinh Phật. Tên gọi của hết thảy
các kinh Phật có bảy phương pháp để đặt
tên. Chẳng hạn như dùng nhân (tên người) để
đặt tên là một cách, dùng pháp để đặt
tên là một cách nữa, dùng tỷ dụ để đặt
tên là một cách. Đó là ba cách. Lại c̣n có nhân và pháp, pháp
và tỷ dụ, nhân và tỷ dụ là ba cách nữa, hợp
thành sáu loại. Lại gộp toàn bộ nhân, pháp, và dụ
với nhau thành một loại, nên có tất cả bảy
loại [đặt tên kinh]. Nói đơn giản, Phật
trong bộ kinh này là Thích Ca Mâu Ni Phật cùng với Vô Lượng
Thọ Phật đều là danh tự của Nhân, chữ
Quán là Pháp. Gộp chung Nhân và Pháp để định ra
danh xưng cho bộ kinh này.
II.1.2. Thông Đề, Kinh
Thông
Đề chính là chữ Kinh trong danh xưng của hết
thảy các bộ kinh Phật, chẳng hạn như Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Bất luận
đức Phật giảng bộ kinh nào, đều có chữ
Kinh này, đó là đề mục thông thường. Đối
với kinh tại Trung Hoa, Nho gia có Ngũ Kinh và Thập Tam
Kinh[1],
cũng gọi là Kinh. Đó là ư nghĩa
xét theo tiếng Hán. Trong tiếng Ấn Độ (tiếng
Phạn) bèn gọi là Tu Đa La (Sūtra), dịch
sang nghĩa
tiếng Hán là Khế Kinh (契經). Khế Kinh là ǵ? Khế (契) là rất phù hợp,
phù hợp như thế nào? Bất cứ bộ kinh Phật
nào cũng đều một mực khế hợp chân lư do
đức Phật đă nói, lại c̣n như thế nào? Khế
hợp căn cơ của chúng sanh! Chúng sanh thuộc
căn cơ nào? Tâm lư như thế nào? Bộ kinh này đều
nói ra, đặc biệt phù hợp với điều mong cầu
trong tâm chúng sanh. Họ nghe xong sẽ hết sức vui
thích. Đó là Khế Kinh, tức là vừa khế hợp Phật
lư, vừa khế hợp căn cơ của chúng sanh. Do vậy
gọi là Kinh, hay c̣n gọi là Khế Kinh.
Phần
đề mục của bộ kinh này đă được
nói xong, quư vị hăy nghĩ xem: Đối với đề
mục của một bộ kinh phải tốn nhiều thời
gian mới giảng xong. V́ sao? Phải hiểu rơ: Trong học
vấn của nhà Phật, hết thảy các bộ kinh Phật
chẳng đơn giản, chẳng giống như những
bài văn hay các quyển sách do kẻ b́nh phàm soạn ra, tùy
tiện đặt cho một cái tựa là được rồi.
Há [danh xưng của kinh Phật] đơn giản dường
ấy? Đề mục của một bộ kinh Phật
bao hàm nội dung và ư nghĩa chánh yếu trong bộ kinh ấy.
Người hiện thời nói tới khoa học, quư vị
nghiên cứu bất cứ một môn khoa học nào, hễ
đem so sánh với kinh Phật, đều là “tiểu vu kiến đại vu”
(thầy bùa tay mơ gặp đại phù thủy). Khoa học
do người hiện thời nghiên cứu đúng là một
phần nhỏ của kinh Phật, là một phần quá
ư nhỏ bé! Do vậy, phải hiểu rơ: Nhất định
là phải có phần nào nhận thức kinh Phật, học
vấn trong kinh Phật chẳng đơn giản đâu
nhé! Chớ nên nghĩ là nó quá đơn giản! Sau đấy,
khi chúng ta nghiên cứu, mới dùng tấm ḷng thành khẩn,
cung kính để t́m ṭi th́ mới có sở đắc. Nếu
chúng ta nghĩ [kinh Phật] rất đơn giản, vừa
xem liền hiểu rơ, hễ có tâm lư ấy, dẫu cho xem từ
đầu đến cuối, mỗi chữ đều nhận
biết, cũng đều xem trọn, vẫn là chẳng
đạt được ǵ hết! Phật pháp huyền
diệu ở chỗ này. V́ thế, Ấn Quang đại
sư đă bảo: “Phật
pháp phải từ cung kính mà cầu”. Quư vị chẳng
cầu th́ thôi, hễ cầu th́ phải cung kính mà cầu.
Đề mục là như vậy, mà mỗi chữ, mỗi
câu trong kinh văn cũng đều chẳng đơn giản.
Hiện thời, ở bên ngoài, lũ tà ma ngoại đạo
mạo nhận họ cũng giảng Phật pháp. Quư vị
bảo bọn họ giảng giải đề mục, hoặc
bảo họ giảng bất cứ chữ nào trong kinh
văn, hễ họ giảng giải, bèn nói đến
“pháp ở ngoài tâm”, nói đến chuyện quỷ thần,
[nghĩa lư trong kinh Phật] chẳng phải là chuyện
như vậy!
Do
vậy, nay chúng ta nghiên cứu, ắt phải hiểu rơ
đạo lư này, đặc biệt là trong thời đại
hiện tại, tà ma ngoại đạo đông lúc nhúc. [Có
thấu hiểu đạo lư] th́ chúng ta mới chẳng bị
lừa, mới có tri kiến của chính ḿnh. À! Hôm nay tôi giảng
đến chỗ này mà thôi!
Tập 3
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu! Hôm nay xin mời quư vị xem tiếp đề
cương bài giảng, trong buổi trước tôi đă
nói phần đề mục của kinh trong Ngũ Trùng Huyền
Nghĩa.
II.2. Biện Thể
Hôm nay, tôi bắt
đầu nói về phần Biện Thể (辨體). Biện Thể là chỉ ra chủ
thể của bộ kinh này là ǵ? Chủ thể của bộ
kinh này là hai chữ Thật Tướng (實相). Chúng ta phải
hiểu: Thật Tướng hoàn toàn chẳng phải là một
thứ ǵ thật sự hiện hữu, có thể lấy
ra cho mọi người thấy, chẳng phải là nói
theo kiểu đó. Rốt cuộc, Thật Tướng là
ǵ? Trước hết, phải hiểu rơ Tướng. Những
tướng do lũ b́nh phàm chúng ta trông thấy, đều
chẳng phải là Thật Tướng. Những cái trông thấy
đều chẳng phải là Thật Tướng th́
đó là tướng ǵ? Toàn là giả tướng! Những
ǵ chúng ta thấy, kể cả thân thể của chính ḿnh,
nhà cửa, toàn thể đại địa… hết thảy
mọi thứ, cho đến các tinh cầu trong hư không,
những tướng mà chúng ta có thể trông thấy có phải
là Thật Tướng hay không? Tôi mượn dùng hai câu kinh
Kim Cang để mọi người tham khảo. Kinh Kim
Cang dạy: “Phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng”. Như tôi vừa
mới nói, từ thân thể cho đến hết thảy
những thứ trên đại địa mà ta tiếp xúc
hoặc trông thấy, ngay cả đại địa, cho
đến tất cả các tinh cầu trong hư không,
đều là “có h́nh tướng”.
Những cái có h́nh tướng ấy có phải là thật sự
tồn tại hay không? Kinh Kim Cang nói rất rơ ràng: “Đều là hư vọng”,
thảy đều là tướng hư vọng! V́ sao những
thứ ấy đều là tướng hư vọng? V́ hết
thảy các tướng ấy đều do nhân duyên ḥa hợp
mà hiển hiện. Đă là do nhân duyên ḥa hợp, hễ nhân
duyên tách ĺa, tướng ấy có c̣n nữa chăng? Chẳng
tồn tại! Đó là một tướng do nhân duyên ḥa hợp
mà tạm thời hiển hiện. Chúng ta ngỡ đại
địa tồn tại rất thật; thật ra, đại
địa thời thời khắc khắc luôn biến hóa,
thành, trụ, hoại, không, trải qua những giai đoạn
ấy, có thể thấy nó chẳng phải là vĩnh cửu
bất biến. Phàm những thứ ǵ có thể biến
đổi th́ đều là giả tướng.
Thật
Tướng bất biến, vĩnh hằng bất biến.
Nói theo phương diện thời gian, nó là bất biến;
nói theo phương diện không gian, sẽ là “không đâu chẳng tồn tại”.
Quư vị nói lấy nó cho quư vị xem thử, phần thể
tích có thể lấy được sẽ là quá nhỏ. Dẫu
lấy cả địa cầu cho quư vị xem, vẫn là
quá nhỏ! Địa cầu có ngằn hạn, Thật
Tướng chẳng có ngằn hạn, không nơi nào chẳng
tồn tại, bất cứ nơi đâu cũng đều
là Thật Tướng. Nói như vậy, cớ sao chúng ta
chẳng thông hiểu? V́ sao chẳng thấy được?
Do tâm lượng của bọn phàm phu chúng ta quá nhỏ, chỉ
thấy chút ít, hết sức hữu hạn. Tâm lượng
của chúng ta chẳng mở rộng, cho nên chỉ có thể
thấy những thứ hư giả, chẳng thấy Thật
Tướng rộng lớn vô biên, vĩnh hằng, bất
biến. V́ sao chẳng trông thấy? V́ bọn phàm phu chúng ta
có Kiến Tư Hoặc, các thứ tâm lư mê hoặc, điên
đảo, đè ép, khiến cho tâm lượng của ta
quá nhỏ hẹp, cho nên chẳng thấy! Muốn đạt
được Thật Tướng, trước hết,
chúng ta phải thừa nhận hết thảy các tướng
đều là hư giả, cũng là như kinh Kim Cang
đă dạy: “Phàm những ǵ
có h́nh tướng đều là hư vọng”. Do cái tâm
của chúng ta hư vọng, chấp trước, cho nên chẳng
nh́n thấu suốt những tướng hư vọng ấy,
chẳng thấy tướng hư vọng là hư vọng,
lại ngược ngạo coi tướng hư vọng
là chân thật. Do coi hư vọng là chân thật, cho nên chẳng
thấy Thật Tướng chân thật. V́ thế, muốn
thấu hiểu Thật Tướng, ắt là phải ĺa khỏi
hết thảy các tướng hư vọng.
Để
ĺa khỏi tướng hư vọng, trước hết,
phải chuyển biến cái tâm hư vọng, phân biệt
của chính ḿnh. Tâm hư vọng là ǵ? Cái tâm ấy chẳng
phải là lư trí, hễ gặp hoặc thấy thứ ǵ bèn
chấp trước thứ ấy, xử sự theo t́nh cảm.
Chúng ta gặp mặt bất cứ một người nào,
gặp mặt lần đầu c̣n thấy xa lạ; gặp
lần thứ hai bèn thành quen thuộc. Sau khi đă quen thuộc,
biến thành bạn bè. Sau khi đă biến thành bạn bè,
h́nh ảnh của kẻ đó bèn tạo thành một tướng
trong tâm chúng ta, chúng ta chấp trước giả tướng
ấy! Rất nhiều lư tánh chân thật đă bị các giả
tướng che lấp, rất nhiều chuyện là như
vậy. Chúng ta làm bất cứ chuyện ǵ trong xă hội,
giao tiếp với người khác, đều bị cái
tâm hư vọng [chi phối] mà chấp trước, giữ
lấy tướng, nhận giả, chẳng nhận thật.
Nếu quư vị “nhận giả, chẳng nhận thật”,
sẽ chẳng nhận biết cái chân thật của chính
ḿnh. Đạo lư ở chỗ này! Trước hết là phải
thông hiểu, phải phá trừ tâm lư chấp trước của
chính ḿnh. Bộ kinh này giảng về Thật Tướng,
khiến cho chúng ta hiểu rơ Thật Tướng.
Trong
kinh văn, đă giảng về Thật Tướng rất
nhiều. Nay tôi xin quư vị hăy xem những điều
được ghi trong đề cương bài giảng.
Nói đến Thật Tướng:
1) Điều thứ
nhất, Thật Tướng là “bất
sanh, bất diệt”. V́ sao bất sanh, bất diệt?
Tôi vừa mới giới thiệu cùng quư vị: Thật
Tướng là vĩnh hằng bất biến, chẳng có
biến hóa, chẳng giống những thứ có thành, trụ,
hoại, không. Phàm những thứ có sanh mạng, như hoa,
cỏ, cây cối trên đại địa, mùa Xuân nẩy
mầm đâm lộc, mùa Thu điêu tàn, tới tiết
Đông bèn khô héo. Đó là có sanh, có diệt. Sanh mạng của
loài người chúng ta cũng giống như thế. Một
đứa trẻ được sanh ra từ thân thể mẹ,
dần dần trưởng thành. Sau khi đă trưởng
thành, vẫn dần dần chuyển biến, biến thành
già nua. Tới cuối cùng, sẽ có lúc diệt mất. V́ thế,
con người có sanh, lăo, bệnh, tử. Có sanh, ắt có
diệt; những tướng biến hóa này đều rất
nhỏ, nhưng lúc nào cũng là “hễ có sanh, bèn có diệt”.
Thật Tướng chẳng có khi nào diệt. Nếu là chẳng
có lúc nào diệt, há có lúc nào sanh? Nó tồn tại vĩnh hằng,
nên bảo là “bất sanh, bất
diệt”. Chúng ta học Phật nhằm mục đích
giải quyết vấn đề sanh diệt, cũng
như giải quyết vấn đề sanh tử. Giải
quyết vấn đề sanh diệt như thế nào? Phải
thông hiểu Thật Tướng. Chúng ta vốn chẳng biết
Thật Tướng, chấp trước giả tướng,
chấp trước thân thể giả tạm, ngỡ nó là
chính ḿnh. Có thể nắm chắc thân thể này hay không? Chẳng
thể nắm chắc! Trong tương lai, thân thể này
nhất định sẽ tử vong. Muốn giải quyết
vấn đề sanh tử, phải nhận thức, thông
hiểu Thật Tướng. Thật Tướng là Chân Ngă
thật sự. Thân thể này là Giả Ngă. Giả Ngă bèn có
sanh, có tử, Chân Ngă há có sanh, có tử? Do vậy, hiểu
rơ Thật Tướng, sẽ có thể giải quyết vấn
đề sanh tử, có thể bất sanh, bất diệt.
Ư nghĩa thứ nhất là nói đến sự bất sanh
bất diệt. Thật Tướng bất sanh bất diệt,
c̣n gọi là Vô Sanh.
2) Thứ hai, Thật
Tướng không chỉ là bất sanh bất diệt, mà c̣n
là “vạn đức vạn
năng”. Vạn đức: Thật Tướng bao hàm hết
thảy các đức. Vạn năng: Tất cả các
năng lực đều ở trong Thật Tướng.
Cũng có thể nói Thật Tướng đại diện
cho hết thảy các năng lực. Nó c̣n gọi là Phật
Tánh. Đă thành Phật th́ điều ǵ cũng đều
làm được! Phàm phu há có thể sánh bằng Phật
đức? Bất cứ phàm phu nào, dẫu là kẻ rất
có đạo đức, [đức hạnh] của kẻ
ấy vẫn quá nhỏ. Đức hạnh chân thật là
nói đến Thật Tướng. Dùng chữ Vạn để
h́nh dung Thật Tướng, Vạn chẳng phải là một
con số đếm được, chẳng phải là từ
một, đến mười, đến trăm, đến
ngàn, đến vạn. Vạn là sự biểu thị, biểu
thị sự toàn năng, hoàn thiện, vô cùng, vô tận.
Đức là vô cùng vô tận, Năng cũng là vô cùng vô tận.
Những Đức và Năng ấy đều là Thật
Tướng.
3)
Ư nghĩa thứ ba, phải hiểu rơ Thật Tướng
bất sanh bất diệt, vạn đức vạn
năng ở nơi đâu? “Nhân
nhân bổn cụ” (Ai nấy đều sẵn có). Ai nấy
vốn sẵn có. Tôi có Thật Tướng, quư vị có Thật
Tướng, kẻ khác có Thật Tướng. Bất luận
ai cũng đều có Thật Tướng bất sanh, bất
diệt, vạn đức, vạn năng. V́ sao chúng ta phải
hiểu rơ điều này? Đă hiểu rơ th́ mới biết
chúng ta vốn chẳng biết Chân Ngă, luôn [có tầm nh́n] rất
hẹp nhỏ, ngỡ sanh mạng mấy chục năm ngắn
ngủi trong thế gian là Ngă, [tức là] coi Giả Ngă là
Chân Ngă, cho nên có sanh tử. Đă thấu hiểu bất
sanh, bất diệt, vạn đức, vạn năng th́
chuyện ǵ cũng đều có thể làm được,
chuyện ǵ cũng đều hiểu rơ, đấy mới
là Chân Ngă, mỗi người chúng ta đều có. Sau khi
đă thông hiểu Chân Ngă, tu đạo để làm ǵ? Tu
đạo nhằm hiển thị Chân Ngă. Chúng ta vốn chẳng
biết [chính ḿnh] có Chân Ngă; nay học Phật, kinh Phật
dạy chúng ta có Chân Ngă, có Thật Tướng. Sau đấy
lại dạy chúng ta dùng phương pháp ǵ để đạt
được Thật Tướng, chứng đắc Thật
Tướng.
4)
Câu cuối cùng là “duy Phật chứng
tri” (chỉ có Phật chứng biết). Tuy mỗi
người chúng ta đều sẵn có Thật Tướng,
nhưng chúng ta đều chẳng hiểu rơ. V́ sao? V́ mỗi
người chúng ta đều ngỡ giả là thật, mê
hoặc đối với Chân Ngă chân thật, chẳng nhận
biết! Người thật sự thông hiểu chỉ có
Phật. Chỉ có sau khi đă thành Phật th́ mới có thể
triệt để hiểu rơ Thật Tướng. Chỉ
có Phật mới có thể chứng minh Ngài biết Thật
Tướng! Nay chúng ta đều là dựa theo kinh văn mới
biết là có Thật Tướng. Để thông hiểu Thật
Tướng, phải nghiêm túc dụng công tu tŕ. Bước
công phu đầu tiên là liễu sanh tử, thoát khỏi lục
đạo luân hồi, cuối cùng là thành Phật, sẽ
triệt để hiểu rơ Thật Tướng. Nay chúng
ta không biết, chỉ có đức Phật biết. Nay
chúng ta tuy vẫn chưa chứng, vẫn chưa hiểu rơ
Thật Tướng, nhưng t́m hiểu danh từ này từ
kinh văn th́ cũng có lợi. Có lợi ở chỗ nào?
Trước hết,
chúng ta ở trên thế gian sẽ chẳng giống những
kẻ b́nh phàm, họ chuyên môn dùng đủ mọi thủ
đoạn để truy cầu những thứ hư giả.
Những thứ hư giả ấy chẳng ngoài tài vật,
tiền bạc, chẳng ngoài tranh đoạt quyền lực,
hoặc địa vị chính trị, chúng ta chẳng cần
những thứ hư giả ấy! Hiểu rơ Thật
Tướng của chính ḿnh hoàn toàn đầy đủ,
quá giàu có! Địa vị trong thế gian, dẫu quư vị
làm được như Tần Thủy Hoàng, tiêu diệt tất
cả các quốc gia trong bốn biển, trở thành một
vị đại hoàng đế, thống nhất thiên hạ,
có ích ǵ đâu? Bất quá là sau chừng đó năm, chính
ḿnh sẽ chết ngắc. Đă chết rồi, những
thứ ấy c̣n có thể mang theo hay không? Suy nghĩ như
thế, chúng ta chẳng cần phải tranh giành những thứ
đó với người khác. Chúng ta đi theo con đường
cầu Thật Tướng, lúc nào, chỗ nào, tâm địa
cũng đều an ổn, đều thỏa măn. Kẻ
thật sự bần cùng là kẻ chẳng hiểu rơ Thật
Tướng, chẳng hiểu rơ chính ḿnh có Thật Tướng,
nghĩ trọn đủ mọi cách để làm chuyện
thương thiên hại lư, tổn người, lợi
ḿnh, những thứ giành giật được không ǵ chẳng
là danh lợi hư giả. Đă nắm được
trong tay, sẽ ngay lập tức tiêu mất. Có ích chi
đâu? Đó chính là kẻ bần cùng, thật sự
đáng thương, chẳng hiểu đạo! Do vậy,
sau khi đă hiểu rơ, chúng ta chẳng giống kẻ b́nh
phàm, trong tâm sung măn, sống cuộc đời hết thảy
an định, hết thảy đều thỏa măn. V́ sao?
Trong Thật Tướng thứ ǵ cũng có. Đó là một
tầng [ư nghĩa].
Thêm một tầng
nữa, nay chúng ta học Phật, niệm Phật. Niệm
Phật mà hiểu Thật Tướng, cái tâm của chúng
ta vốn là vô cùng, vô tận, chẳng có ngằn mé, mở rộng
ra ngoài, vạn pháp đều ở trong tâm chúng ta. Nếu
có những kẻ hỏi: “Chúng ta niệm Phật, niệm
đến lúc mạng chung, đối với thế giới
Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật,
chúng ta đến đó bằng cách nào?” Đây là chẳng
hiểu rơ đạo lư! [Nếu đă] hiểu rơ chúng ta vốn
có Thật Tướng, chúng ta niệm Phật đạt
đến nhất tâm bất loạn, ở trong Định
sẽ nhận biết: Tịnh Độ ở ngoài vạn
ức cơi Phật cũng bất quá ở trong Thật
Tướng. Văng sanh quá dễ dàng ! V́ thế, đă hiểu
rơ Thật Tướng, chúng ta tu đạo, niệm Phật,
tín tâm tuyệt đối chẳng bị thoái chuyển. Bất
luận kẻ nào nói pháp môn ǵ, chúng ta cũng đều chẳng
tin tưởng. Chiếu theo phương pháp ấy để
hành, chúng ta chẳng cần truy cầu những thứ mà
người thế gian theo đuổi, tuyệt diệu
thay! Đó là người hữu đạo.
Những điều
được nói trong bộ kinh này nhằm làm cho chúng ta hiểu
rơ bản thân mỗi người trong bọn chúng ta đều
có Thật Tướng. Nói cách khác, khiến cho chúng ta biết
có Thật Tướng, dạy chúng ta t́m lại Chân Ngă chân
thật. Đă t́m được Chân Ngă, thứ ǵ cũng
đều có, bất sanh, bất diệt, vạn đức,
vạn năng, toàn bộ đều trọn đủ. Suy
nghĩ như vậy, chúng ta học Phật phải hiểu
rơ: Trong thời đại hiện tại, tà thuyết rất
nhiều. Rêu rao những tà thuyết thế gian c̣n chưa
thỏa sức, những kẻ tà tri tà kiến c̣n giả mạo
Phật pháp để đi nói khắp nơi. Những
điều bọn họ đă nói không ǵ chẳng phải
là chuyện thần bí, quỷ quái, khiến cho quư vị thoạt
nghe, cảm thấy rất hiếm lạ, rất mới mẻ,
bèn học theo họ. [V́ thế], một điều rất
quan trọng là chúng ta phải học hiểu chú giải của
tổ sư! Hiểu rơ Thể là Thật Tướng, chúng
ta học bộ kinh này, những điều kinh dạy sẽ
khiến cho chúng ta đối với hết thảy đều
hiểu rơ Thật Tướng. Đấy mới là ư
nghĩa chân thật do đức Phật đă nói. Ngoài việc
hiểu rơ Thật Tướng ra, chúng ta c̣n thường
hướng theo Thật Tướng để truy cầu
ḥng lănh ngộ. Nếu chẳng phải là như vậy,
truy cầu nơi khác để mong lănh ngộ th́ là tà ma,
thường gọi là ngoại đạo! Ngoại đạo
chẳng hiểu rơ Thật Tướng, thường cầu
cạnh từ bên ngoài, cầu thần, cầu quỷ, cầu
những thứ giả trất. Hiện thời, ở bên
ngoài có những kẻ giả mạo là người nhà Phật
để thuyết pháp, thật ra đều là ma thuyết.
Chúng nó nói những chuyện thuộc về ma pháp. Làm thế
nào để phân biệt Phật và ma? Bọn chúng ăn nói
chẳng khế hợp Thật Tướng, bảo mọi
người hăy hướng ra ngoài cầu t́m những thứ
giả trất, đó là ma thuyết. Dạy mọi người
hăy thâu hồi cái tâm, hướng vào trong nội tâm của
chính ḿnh để cầu Thật Tướng; đấy
là Phật thuyết, là Phật pháp. Thể là Thật Tướng,
đă nói xong!
II.3. Minh Tông
Tiếp
đó là nói đến Minh Tông (明宗). Minh (明) là hiểu rơ, [Minh Tông] là hiểu rơ tông chỉ, tông
chỉ ǵ vậy? Tông chỉ của bộ kinh này là nói về
chuyện tu Quán, tu pháp Quán nào? Tu cái tâm của chúng ta, dùng tâm
để tu diệu quán. Diệu quán là ǵ? Trong phần
trước, khi luận về đề mục của Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, nói đến
chữ Quán, đă nói [quán tưởng] gồm có Thứ
Đệ Tam Quán và Nhất Tâm Tam Quán. Nhằm hiểu rơ Nhất
Tâm Tam Quán, cho nên trước đó phải nói tới Thứ
Đệ Tam Quán.
Trong
phần trước, tôi đă nhắc tới Tam Quán Không,
Giả, Trung; trong nhất tâm có trọn đủ Tam Quán. [Nhất
Tâm Tam Quán là] dụng công đồng thời, chẳng phải
theo thứ tự [như trong Thứ Đệ Tam Quán. Thứ
Đệ Tam Quán th́ phải là]: Trước hết là quán
Không, đă thành tựu bèn lại quán Giả. Giả đă
thành tựu, lại quán Trung. Chẳng phải là như vậy!
Nhất Tâm Tam Quán chẳng cần tuân theo thứ tự.
Quán một thứ bèn là quán hết thảy. Tam Quán
được quán cùng một lúc, bèn gọi là Nhất Tâm
Tam Quán, hay khéo thay! Người căn khí thông minh nhất,
nói theo Tạng, Thông, Biệt, Viên của tông Thiên Thai, th́ là
người có căn khí Viên Giáo. V́ sao căn khí Viên Giáo là
người thông minh nhất? Do trong đời quá khứ
đă học Phật, cũng chẳng biết họ đă
học bao nhiêu đời, thông hiểu Phật lư hết sức
thấu triệt, công phu cũng hết sức tốt đẹp,
đời này tiếp tục học Phật. V́ thế,
người ấy “nghe một,
ngộ cả trăm”, ngộ hết sức nhanh chóng, sức
lănh ngộ hết sức mạnh mẽ. Đó là người
thuộc căn khí Viên Giáo. Người ấy có thể tu
diệu quán, có thể cảm Tịnh Độ. Người
ấy sử dụng Nhất Tâm Tam Quán khác với [cách sử
dụng trong] pháp môn thông thường.
Trong
pháp môn thông thường, tu Nhất Tâm Tam Quán bèn dùng sức
của chính ḿnh để trừ sạch sành sanh Kiến
Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc từng tầng
một. Tới cuối cùng, trừ khử chẳng c̣n sót
chút Hoặc nào, bèn thành Phật. Đó là dùng sức của
chính ḿnh, là tự lực! Tịnh Độ Tông chẳng giống
như vậy, Tịnh Độ Tông phải dùng một
đối tượng, cậy vào việc quán tưởng,
mô phỏng đối tượng ấy, ḥng cảm vời
Tịnh Độ. Rất nhiều người học nghệ
thuật đă biết: Học vẽ cũng thế, mà học
viết chữ (học thư pháp) cũng thế, cần
phải có đối tượng để mô phỏng. Nói
theo phía người học vẽ, nếu trước hết
chẳng có bản vẽ mẫu cho quư vị học, cứ
chính ḿnh vẽ suông, sẽ vẽ chẳng được!
Nếu là viết chữ mà chẳng có bảng chữ mẫu
để quư vị phỏng theo, cũng chẳng học
được!
Phép Quán trong Tịnh
Độ Tông có hiệu quả tốt đẹp nhất!
Trước hết, dạy quư vị quán mặt trời lặn,
sau đó là quán từng bước, cuối cùng là quán A Di
Đà Phật. Dạy quư vị dùng phương pháp ấy,
quán thành công, sẽ có thể cảm ứng Tịnh Độ;
Tịnh Độ ở đây chính là Tây Phương Cực
Lạc thế giới Tịnh Độ. Trong khi chúng ta
nghiên cứu kinh Di Đà, tôi đă có nói về Tây
Phương Tịnh Độ. Thế giới Cực Lạc
bao gồm bốn loại Tịnh Độ. Thô thiển,
b́nh phàm nhất là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, Tịnh
Độ rốt ráo nhất là Thường Tịch Quang Tịnh
Độ. Người đă thành Phật ngự trong
Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Nói đến
chuyện “có thể cảm vời
Tịnh Độ” th́ chính là có thể cảm ứng bốn
loại Tịnh Độ. Nói cách khác, dùng phương pháp
này không chỉ có thể văng sanh cơi Phàm Thánh Đồng
Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Trên cơi Phàm Thánh Đồng Cư, c̣n có cơi Phương Tiện
Hữu Dư, cơi Thật Báo Trang Nghiêm, và Thường Tịch
Quang Tịnh Độ, đều có thể cảm ứng.
Chỗ trọng yếu nhất trong tông chỉ là ở ngay
chỗ này, bộ kinh này nói đến những chuyện ấy!
II.4. Luận Dụng
Luận
Dụng (論用) là nói đến tác dụng
của bộ kinh này, chuyện này cũng rất trọng yếu.
Nói đến tác dụng của bộ kinh này, xét theo chú giải
của các vị tổ sư: “Dụng”
(用) có nghĩa là có sức mạnh và
công dụng. Tức là xét theo sức mạnh của bộ
kinh này, đối với phương pháp trong kinh này, dùng
Quán sẽ có thể diệt tất cả tội ác. Mặt
khác là nói đến Dụng, nó có thể phát sanh hết thảy
những thiện sự. Nói đơn giản là “sanh thiện, diệt ác”, sanh ra hết thảy các
điều thiện, diệt tất cả các chuyện ác.
Đấy là Lực Dụng của bộ kinh này, có sức
mạnh, có công dụng lớn lao!
Nếu
chúng ta hỏi: Sanh thiện là sanh điều thiện ǵ? Diệt
ác là diệt điều ác ǵ? Chư vị xem đề
cương bài giảng, trong ấy đă nói rơ: “Năng linh Ngũ Nghịch tội
diệt”, [nghĩa là] có
thể khiến cho đại tội Ngũ Nghịch tiêu
diệt. Tội Ngũ Nghịch là ǵ? Tội nghịch có
năm thứ, chẳng cần phải nói chi tiết. Ví
như giết cha mẹ, làm đức Phật bị
thương tích, đều là tội đại nghịch.
[Sở dĩ có] bộ kinh này là do trong thời Thích Ca Mâu Ni
Phật, có một vị quốc vương, thái tử của
vị vua ấy bất hảo, muốn làm vua ngay lập tức,
toan sát hại phụ vương. Ông ta vẫn c̣n đang
làm thái tử, c̣n chưa làm vua! Vốn là phải chờ sau
khi phụ vương đă chết th́ mới có thể kế
vị; ông ta chờ chẳng nổi, làm như thế nào?
Muốn làm vua ngay lập tức, mà cha chưa chết, làm
thế nào đây? Nghĩ cách bắt giữ cha để
sát hại. Giết cha là đă tạo thành một tội trạng
lớn trong tội Ngũ Nghịch. Hăy ngẫm xem! Con
người chúng ta do đâu mà có? Chẳng có cha mẹ, làm
sao chúng ta có sanh mạng cho được? Cố nhiên, nói
đến sanh mạng trước khi đầu thai th́ bản
thân chúng ta có thức thứ tám, có linh hồn của chính
ḿnh, nhưng chẳng có cha mẹ làm duyên, linh hồn của
chúng ta nương gá vào đâu? Linh hồn ấy dật dờ
khắp chốn, làm sao có thể trở thành người
cho được? Do vậy, có cha mẹ th́ mới có thân
thể chúng ta, mới có sanh mạng. Sau khi được
sanh ra, là một đứa trẻ bé tẹo, chẳng thể
làm ǵ, vẫn phải khiến cho cha mẹ từ ái tốn
bao nhiêu tâm huyết, hao tổn bao nhiêu sức lực tinh thần,
từ từ chăm bẵm, săn sóc, mới trưởng
thành, ân đức ấy vĩ đại thay! Nghiễm
nhiên toan sát hại cha mẹ, tội ấy có to lớn hay
chăng? Phạm tội đó, mắc phải kết quả,
quư vị vẫn chưa biết ư? Tội ấy chẳng
thể nào không đọa địa ngục! Năm thứ
tội nghịch đều phải đọa địa
ngục. Có thể biết là do kinh này, tu pháp môn này, ngay cả
tội đọa địa ngục cũng đều có
thể trừ diệt, hăy nghĩ xem! Tác dụng của
kinh to lớn ngần ấy!
Chúng
ta biết vào thời cổ, bất luận là ai nghe thấy
chuyện có kẻ giết cha mẹ, trong tâm đều chấn
động khôn cùng! Ai nghe chuyện đó mà không bàng hoàng, chua
xót? Nhưng nh́n vào thời đại này, nếu quư vị
để ư xem báo, hoặc coi tin tức trên TV, sát hại
cha mẹ là chuyện thường thấy, chẳng hiếm hoi ǵ, thường xuyên xảy ra!
Thường là một đứa thiếu niên bất
lương ṿi tiền cha mẹ, cha mẹ không cho nó tiền,
nó bèn sát hại cha mẹ. Hoặc là cha mẹ mắng nó mấy
câu, nó liền dấy lên ư niệm giết cha mẹ! Hăy
nghĩ xem! V́ sao thời đại này có kẻ nhẫn
tâm làm chuyện đại nghịch bất đạo?
Phong khí thời đại là như vậy. Trong thời
đại Mạt Pháp, ḷng người trở thành hung ác
đă đến mức ấy, nghiễm nhiên gây tạo tội
ác. Đă tạo tội ác mà mong
trong tương lai chẳng đọa địa ngục,
có được hay không? Hăy nghĩ xem! Trong thế gian này,
nếu chẳng học Phật, không học pháp môn đặc
biệt là pháp môn Niệm Phật, mà mong liễu sanh tử,
mong chẳng đọa tam đồ, chẳng có cách nào hết!
Chỉ có tu pháp môn này! Pháp này có thể diệt tội ấy.
Tuy nói như vậy,
nhưng tu pháp này đâu có đơn giản như thế.
Trước hết là phải chuyển biến tâm lư. Nếu
hỏi v́ sao kẻ đó muốn sát hại cha mẹ? V́
trong tâm kẻ đó, tâm tham quá nặng, tâm sân hận quá nặng!
C̣n có những kẻ ngu si nhất, Phật pháp gọi tham,
sân, si là Căn Bản phiền năo. Một kẻ có Căn Bản
phiền năo nặng nề, sẽ có thể phạm trọng
tội Ngũ Nghịch. Nhưng trong thời đại hiện
nay, kẻ tham, sân, si nặng nề rất đông. C̣n
chưa kể là nền giáo dục trong thế gian hiện
thời luôn cổ vũ, khích lệ người ta tăng
thêm tham, sân, si! Vốn đă tham, sân, si nghiêm trọng, thế
mà giáo dục vẫn cứ cổ vũ, khích lệ con
người hăy tận hết sức tham lam, tận hết
sức sân hận, tận hết sức ngu si. Phong khí giáo dục
là như vậy, kẻ b́nh phàm cũng là như vậy. Quư
vị ngẫm xem, thế giới này tương lai sẽ
đi đến nông nỗi nào? Từng bước một
đẩy chúng sanh vào trong tam đồ! Chẳng học Phật,
chẳng học pháp môn Niệm Phật đặc biệt,
sẽ nguy hiểm dường ấy!
Lại
nói đến “sanh thiện”,
th́ sanh những điều thiện nào? “Văng sanh Tịnh Độ”. Trong thế giới Sa
Bà, chúng ta sanh những điều thiện ǵ, đều là
“thiện có thiện báo”.
Trong phần trước, nói đến tội ác, tội
Ngũ Nghịch đọa địa ngục là khổ báo
lớn nhất. Sanh thiện th́ đương nhiên là đạt
được phước báo. Chúng ta ngẫm xem, ở
trong thế giới Sa Bà, bất cứ phước báo nào
cũng sẽ hưởng hết. Phước báo lớn
nhất là sanh lên trời, sanh lên Dục Giới Thiên,
phước báo ấy tuyệt vời lắm! Muốn ǵ có
nấy, nhưng có ư nghĩa ǵ đâu? Vẫn ở trong sanh
tử! “Sanh thiện” là có thể
văng sanh Tịnh Độ, đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Tác dụng “sanh thiện” của bộ
kinh này là làm cho chúng ta văng sanh, tốt đẹp hơn bất
cứ thiện nghiệp hoặc phước báo nào trên thế
giới! Bất cứ thiện nghiệp, phước báo
nào, cũng đều chẳng sánh bằng văng sanh Tịnh
Độ!
Về
phương diện “diệt
ác”, lại phải nói bổ sung. Chúng ta xem kinh phải
hiểu rơ: Bộ kinh này dạy tu Quán có thể diệt trọng
tội Ngũ Nghịch, văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Văng sanh vào chỗ nào trong thế giới Cực
Lạc? Đương nhiên là văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư. Người học Phật phạm tội (ai nấy
đều có tội nghiệp, nhưng chẳng đến
nỗi là đại tội Ngũ Nghịch). Tội
Ngũ Nghịch mà c̣n có thể diệt, có thể văng sanh,
nhưng chúng ta vẫn chưa đến mức độ
nghiêm trọng như vậy, tội nghiệp nhẹ ít, vặt
vănh, chẳng đến nỗi là trọng tội Ngũ
Nghịch, cậy vào một câu Phật hiệu, lẽ nào
chẳng thể văng sanh ư? Sau khi chúng ta đă thông hiểu,
bèn an tâm, chỉ cần chúng ta chịu một mực thọ
tŕ một câu Phật hiệu, nhất định là sẽ
nắm chắc văng sanh! Đời quá khứ, chúng ta đă
tạo các ác nghiệp nào? Chúng ta không biết, nhưng tội
nghiệp đă tạo trong đời này th́ vẫn chưa
đến nỗi phạm tội Ngũ Nghịch. Tội [nặng
nề như thế] ấy mà có thể chuyển, lẽ
nào tội thông thường chẳng thể chuyển?
[Điều này] có thể khiến cho chúng ta tăng tấn
tín tâm!
II.5. Phán Giáo
Cuối
cùng nói tới Phán Giáo. Phán Giáo (判教) là nói bộ
kinh này thuộc về giáo nào? Chiếu theo cách nói thông
thường của người nghiên cứu Giáo, Tam Tạng
mười hai bộ có Tiểu Thừa (bao gồm Trung Thừa
trong đó), Thanh Văn Thừa là Tiểu Thừa; có Đại
Thừa, Đại Thừa là Bồ Tát Thừa, tức là
pháp môn tu tập của hàng Bồ Tát. Tiểu Thừa chẳng
thể thành Phật, họ có thể liễu thoát sanh tử
trong lục đạo, nhưng nếu muốn thành Phật,
vẫn phải chuyển sang học Đại Thừa th́
mới được. Bộ kinh này là kinh điển
Đại Thừa. Trong kinh Đại Thừa, lại chia
ra hai loại là Tiệm và Đốn. Tiệm (漸) là dần dần, khai ngộ từng bước một.
Bộ kinh này là Đốn (頓), Đốn là
viên đốn, thuộc loại pháp môn viên đốn trong
Viên Giáo, chẳng cần phải theo từng bước một
như trong Tiệm Giáo, có thành tựu rất nhanh chóng. Kinh
này thuộc loại Đại Thừa Đốn Giáo. Nếu
hỏi v́ sao bộ kinh này là Đốn Giáo ư? V́ bộ
kinh này do Thích Ca Mâu Ni Phật chuyên giảng cho phu nhân Vi
Đề Hy là mẹ của Thái Tử [A Xà Thế]. Phu nhân
Vi Đề Hy vừa nghe đức Phật giảng pháp
môn này xong, bèn chiếu theo pháp môn này để dụng công
tu tŕ, đắc Nhẫn ngay trong đời này. Đắc
môn Nhẫn nào vậy? Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Vô Sanh Pháp Nhẫn
là địa vị rất cao. Học pháp Đại Thừa,
sau khi đă đạt đến Thập Tín, bèn học Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
đó là Tam Hiền vị. Tam Hiền vị phải mất
một A-tăng-kỳ kiếp th́ mới có thể tu viên
măn. Sau khi đă tu viên măn, bèn tiếp tục tu th́ mới có
thể “đăng địa”,
tức là dự vào hàng Địa Thượng Bồ Tát (từ
Sơ Địa trở lên). Địa Thượng Bồ
Tát mới có thể đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trước
kia đạt đến Địa Thượng Bồ
Tát, phải tu hành một A-tăng-kỳ kiếp. Phu nhân Vi
Đề Hy đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn ngay trong một
đời, bà thuộc vào địa vị Sơ Địa.
[V́ thế], nói theo phương diện phán giáo, kinh này là
Viên Đốn Giáo.
Chẳng
nói Ngũ Trùng Huyền Nghĩa rất cặn kẽ, thế
mà cũng tốn chẳng ít thời gian, kể như là
đă nói xong. Hôm nay, nói đến đây là ngừng. Lần
sau có thể nói đến người phiên dịch bộ
kinh này. Nói xong người dịch kinh, sẽ có thể
chánh thức giảng giải kinh văn.
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng
Kư, phần 1 hết
[1] Thập Tam Kinh là mười ba bộ sách chính yếu bắt buộc phải học của Nho sĩ, bao gồm Châu Dịch, Thượng Thư, Thi Kinh, Châu Lễ, Nghi Lễ, Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Nhĩ Nhă và Mạnh Tử. Thập Tam Kinh được quy định hoàn chỉnh vào đời Minh.