Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng Kư
Phần 10
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ
giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
Khởi
giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 46
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi bảy,
bắt đầu từ hàng thứ tư. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Trung Phẩm Hạ Sanh giả, nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, hiếu dưỡng phụ
mẫu, hành thế nhân từ.
(經)中品下生者:若有善男子、善女人,孝養父母,行世仁慈。
(Kinh: Trung Phẩm
Hạ Sanh là nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân hiếu dưỡng cha mẹ, làm những chuyện
nhân từ trong thế gian).
Nay
chúng ta tiếp tục nghiên cứu ba bậc chín phẩm
văng sanh. Trong những phần trước, Thượng Phẩm
Thượng Sanh, Thượng Phẩm Trung Sanh, và Thượng
Phẩm Hạ Sanh đều đă nói rồi. Kế đó
là Trung Phẩm Thượng Sanh và Trung Phẩm Trung Sanh
cũng đă nói trong lần trước. Hôm nay, tôi nói về
Trung Phẩm Hạ Sanh.
Mỗi
phẩm văng sanh đều phải hội đủ nhân tố
văng sanh, [nhân tố] cũng là điều kiện. Trong
đoạn kinh văn vừa mới niệm, “hiếu dưỡng phụ mẫu,
hành thế nhân từ” chính là nhân tố chủ yếu
để văng sanh trong [phẩm vị] Trung Phẩm Hạ
Sanh. Nói theo kết cấu văn tự của kinh văn, câu
đầu tiên nhằm nêu bày danh xưng của Trung Phẩm
Hạ Sanh, “Trung Phẩm Hạ
Sanh giả”. Kế đó, câu thứ hai bắt đầu
giải thích phẩm này, đoạn văn từ “nhược hữu thiện nam
tử” cho đến “hành thế
nhân từ” nhằm giải thích nhân tố văng sanh.
“Thiện nam tử, thiện nữ
nhân” là tiếng để gọi người học Phật.
“Hiếu dưỡng phụ mẫu”,
“hiếu” (孝) là hiếu thuận
với cha mẹ, “dưỡng”
(養): Khi cha mẹ
c̣n sống, cơm, áo, ăn ở, các thứ cần dùng về
mặt vật chất, đều phải cung phụng cho
cha mẹ. C̣n đối với phương diện tâm lư, chuyện
ǵ cũng đều phải thuận theo tâm ư của cha mẹ.
Những chuyện ấy đều là “hiếu dưỡng”. Nói ra th́ dường như
[những điều ấy] chúng ta đều có thể làm
được, nhưng đấy chính là một phẩm
đức căn bản nhất để làm người
và tu đạo. Nói cách khác, chẳng làm tṛn hiếu đạo,
tức là làm người c̣n chưa hoàn toàn, chẳng đủ
tư cách làm người, nói ǵ đến chuyện tu đạo
chi nữa?
Đối
với văn hóa Trung Hoa, đọc lịch sử, hoặc
đọc kinh điển của Nho gia, sẽ biết: Thánh
nhân và hiền nhân thời cổ đều là đại hiếu
tử. Lịch sử ghi chép hai mươi bốn tấm
gương hiếu hạnh. Đại Thuấn là đại
hiếu tử. Trong gia đ́nh, cha, mẹ, và em trai đều
đối xử tệ bạc với ông ta. Ông ta chẳng
quan tâm người nhà đối xử với ḿnh như
thế nào, chính ḿnh cứ trọn hết hiếu đạo.
Sau đó, các đệ tử của Khổng Tử, những
bậc đại hiền trong cửa Khổng, nổi tiếng
nhất trong số đó là [các vị] Tử Lộ[1], Mẫn
Tử Khiên, Tăng Tử, đều là những bậc
đại hiếu tử hết sức nổi tiếng.
V́ thế, các Ngài đều có thành tựu nơi đạo,
hết sức có thành tựu!
Hiếu
dưỡng phụ mẫu, bất luận là nói theo pháp thế
gian của Trung Hoa (ngoại quốc cũng nói như thế),
hay pháp xuất thế gian trong kinh Phật cũng đều
là nói như thế. Ở trong đạo tràng của chúng
ta, người thọ Bồ Tát giới rất nhiều.
Trong giới Ưu Bà Tắc, nói theo kinh Phạm Vơng, người
tuân thủ giới chính là hiếu tử. Hễ phạm giới,
chẳng phải là hiếu tử. Kẻ phạm giới
sát sanh, giới trộm cắp v.v... đều chẳng phải
là hiếu tử. Đương nhiên là ư nghĩa được
nói trong kinh Phạm Vơng rất sâu, chẳng phải là hiếu
tử như người phàm thường nói. Sau khi đă
hiểu Phật pháp, hiếu tử nói theo Phật pháp không
chỉ là phải biết tận hiếu đối với
cha mẹ trong một đời này, mà chúng sanh trong quá khứ
đều là cha mẹ của chúng ta. Mở rộng ra, hiếu
đạo có phạm vi hết sức rộng răi. Ở
đây, nói “hiếu dưỡng
phụ mẫu” là nói về ḷng hiếu thông thường.
Vừa mở đầu, bèn nói “thiện
nam tử, thiện nữ nhân”, những người ấy
đối với đạo (pháp xuất thế gian)
cũng chẳng hiểu cho lắm! Quư vị bảo họ
học Phật như thế nào, họ chẳng liễu giải!
Nhưng họ có thể hiếu dưỡng phụ mẫu,
rất tuyệt diệu!
V́ sao hiếu
dưỡng phụ mẫu có thể trở thành nguyên nhân
văng sanh? Hiếu xuất phát từ bản tánh của mỗi
người chúng ta. Một vị đại hiếu tử
sẽ trọn hết hiếu đạo của chính ḿnh, tấm
ḷng hiếu thảo ấy há có cần phải học hay
chăng? Chẳng cần phải học, mà là từ trong nội
tâm bản tánh của người ấy tự động
phát ra. Quư vị thấy lịch sử thời cổ có ghi
chép: Có hiếu tử ở trên núi thấy cọp sắp
ăn thịt cha hoặc mẹ, liền dũng mănh đánh
cọp. Kết quả là cọp phải bỏ chạy.
Đó là đạo lư ǵ vậy? Cậy vào sức của
chính kẻ ấy, có thể đánh đuổi cọp hay
chăng? Khi bản tánh phát ra, kẻ ấy có thể cảm
hóa dă thú, nó sẽ tự nhiên tháo lui. V́ thế, nói đến
chỗ rốt ráo, Hiếu xuất phát từ bản tánh. Có
thể hiếu dưỡng phụ mẫu, làm một người
con có hiếu, chính là một vị đại thiện nhân
trong thế gian. Đó là cơ bản để tu đạo,
cơ sở ở chỗ này! Chưa hề nghe nói kẻ bất
hiếu có thể thành Phật! Chẳng thể nào! Nhất
định phải là hiếu tử. Do vậy, đối
với nguyên nhân thứ nhất để văng sanh, bèn liệt
kê “hiếu dưỡng phụ
mẫu”.
Cái
nhân thứ hai để văng sanh là “hành thế nhân từ”, “hành”
(行) là thực
hành. Thực hành ǵ vậy? Thực hành chuyện nhân từ
trên thế gian. “Nhân” (仁) là đối với
người khác đặc biệt có tâm đồng cảm.
Người khác gặp bất cứ chuyện ǵ đau khổ,
đều luôn nghĩ cách giúp họ giải quyết. “Từ” (慈) chính là từ bi
như nhà Phật đă nói. Đối với người
khác có ḷng từ bi, cũng là khiến cho người ta
đạt được những điều tốt
đẹp, khiến cho tâm người ta vui sướng. Nhà
Phật nói hai chữ “từ
bi”, Từ ban vui, Bi (悲) là dẹp
trừ đau khổ cho người khác. “Nhân từ” (仁慈) là nói gộp chung văn hóa
Trung Hoa và nhà Phật. Trong thế gian, hễ là những ǵ
đem lại những điều tốt đẹp cho
người khác, thấy người ta gặp các thứ vấn
đề rắc rối hoặc chuyện đau khổ,
đều mong nghĩ cách giúp họ giải quyết, thời
thời khắc khắc mong giúp đỡ người khác.
Những điều ấy đều là “nhân từ”.
Tổ
sư chú giải: Người có thể nhân từ, tự
ḿnh có thể nh́n ra. Thấy người khác cũng thế,
mà thấy chính ḿnh cũng thế, đều thấy
được. Thấy từ chỗ nào? Trước hết,
ắt phải vun bồi chính ḿnh sao cho tánh cách rất nhu
ḥa, tức là “ôn ḥa làm người”
như Nho gia đă nói. Chớ nên thấy bất cứ chuyện
ǵ cũng chẳng động ḷng mảy may! “Tánh t́nh nhu ḥa” như đă nói
là ǵ? Thấy bất cứ ai, cũng chẳng quản là
ai, có phải là người nhà của chính ḿnh, hoặc thân
nhân của chính ḿnh hay không, hay là người xa lạ? Chẳng
cần quan tâm đến những mối quan hệ ấy,
chỉ cần trông thấy người khác gặp phải
các chuyện bất hạnh, trong tâm liền nẩy sanh mối
đồng cảm với người đó. Hễ có
năng lực, bèn nghĩ cách giúp người ấy giải
quyết. Chẳng có năng lực, cũng vận dụng
đủ mọi sức lực để xem có thể giúp
đỡ hay không. Có thể nói giúp họ bèn nói, có thể lợi
dụng quan hệ quen biết bèn t́m đến những kẻ
liên hệ, giúp đỡ người ấy giải quyết
khó khăn. Thậm chí, khi chẳng thể vận dụng một
tí biện pháp nào, bèn giúp đỡ người ta bằng
cách niệm Phật, cầu Phật, Bồ Tát hộ niệm
người ấy, giúp người ấy chuyển biến
nghiệp báo. Những điều này đều có thể
làm được, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ
nào, cũng đều phải làm như vậy. Bất luận
là bất cứ ai, đều nhất loạt b́nh đẳng.
Chúng ta luôn phải dùng tâm lư ấy để đối
đăi người khác, luôn luôn dưỡng thành tâm lư nhu
ḥa, đồng cảm, thương xót. Không chỉ là đối
với người như thế, mà đối với những
động vật khác cũng là như vậy. Đối
với bất cứ động vật nào, đại
động vật hay tiểu động vật, chúng ta thấy
những động vật ấy chẳng có tri thức
ǵ. Trong quá khứ, chúng nó đă từng làm người, thậm
chí đă từng ngự trên cơi trời; về sau, do mê hoặc tạo nghiệp, bị đọa
lạc trong súc sanh đạo, đă là bất hạnh! Thế
mà loài người chúng ta lại gây thêm đau khổ cho
chúng, gia hại chúng! Giống như hiện thời, tại
những chỗ giải trí ở các nơi, đều có cái
tṛ xiên cá! Sao cứ phải làm như vậy? Chính ḿnh có thời
gian rảnh rỗi, tản bộ ngoài thiên nhiên cũng được,
cần ǵ phải xiên cá? Tạo lập sự hỷ lạc
của chính ḿnh trên nỗi đau khổ sanh tử của
động vật, hết sức tàn nhẫn! Chuyện này
quá trái nghịch ḷng nhân từ. Đương nhiên là bản
thân chúng ta chẳng thể làm chuyện ấy, hễ trông thấy
người khác làm, hăy nghĩ cách khuyên lơn người
ta. Đặc biệt gởi gắm ḷng thương xót
động vật. Thậm chí chúng ta niệm Phật, hồi
hướng cho chúng. Đấy đều là để
dưỡng thành tâm lư nhân từ cho chính ḿnh. Nhân từ
cũng không nhất định là cần bỏ ra rất
nhiều tài vật. Đương nhiên là có tiền, chúng
ta có thể làm được th́ làm. Người tu đạo
chúng ta chẳng có tiền, hăy trọn hết tấm ḷng của
chúng ta th́ cũng có thể thực hiện sự nhân từ.
Bản thân chúng ta phải thường luyện tập
điều này, dưỡng thành tấm ḷng thương
xót, gởi gắm nỗi đồng t́nh vô hạn đối
với con người và động vật. Đó là Nhân Từ!
Trung
Phẩm Hạ Sanh rất đơn giản, một là “hiếu dưỡng phụ mẫu”,
hai là “hành thế nhân từ”,
cậy vào hai điều kiện ấy. Nghĩa là người
ấy là một thiện nam tử hoặc một thiện
nữ nhân b́nh phàm, chẳng có những điều kiện
khác, nhưng người ấy tuyệt vời lắm!
Dưới đây là nói về duyên:
(Kinh)
Thử nhân mạng dục chung thời, ngộ thiện tri
thức, vị kỳ quảng thuyết A Di Đà Phật
quốc độ lạc sự, diệc thuyết Pháp Tạng
tỳ-kheo tứ thập bát nguyện.
(經)此人命欲終時,遇善知識,為其廣說阿彌陀佛國土樂事,亦說法藏比丘四十八願。
(Kinh: Người
ấy khi sắp mạng chung, gặp thiện tri thức, v́
người ấy rộng nói những chuyện vui sướng
trong cơi nước của A Di Đà Phật, cũng nói bốn
mươi tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng).
Thiện
nhân b́nh phàm ấy có thể hiếu dưỡng phụ mẫu,
làm những chuyện nhân từ, b́nh thường đều
làm như thế. Nhà Phật nói đến nhân quả, nhân
quả chẳng sai sót mảy may! Quư vị thấy trước
đó đă có nhân, “thử nhân mạng
dục chung thời”, [nghĩa là] khi người ấy
thọ mạng sắp hết. Kinh văn dạy: “Ngộ thiện tri thức” (Gặp
thiện tri thức), chuyện này chẳng dễ dàng! Một
kẻ b́nh phàm mà gặp được thiện tri thức,
chẳng dễ đâu nhé! Người b́nh phàm, bất luận
là học hành trong nhà trường cũng thế, hoặc
làm việc trong xă hội cũng thế, mong gặp thiện
tri thức đều chẳng dễ dàng! Chẳng cần
nói tới các nơi khác trên thế giới, cứ nói ngay tại
Trung Hoa. Hiện thời, ở Đài Loan, người học
Phật rất nhiều, nhưng so sánh, [sẽ thấy]
người chẳng tiếp xúc Phật pháp vẫn đông
hơn người học Phật, chứng tỏ: Người
chẳng gặp gỡ thiện tri thức rất nhiều!
Lúc b́nh thường, rất khó gặp gỡ thiện tri thức.
Tới khi lâm chung, lại càng khó khăn hơn! Khi ấy,
người đó gặp thiện tri thức.
[Trong trường hợp ấy], đương
nhiên vị thiện tri thức ấy chẳng phải là
thiện tri thức b́nh phàm, mà là người học Phật,
hiểu biết Phật pháp. Lại c̣n chẳng phải là
học Phật pháp b́nh phàm. Nếu gặp kẻ học
pháp môn b́nh phàm, họ sẽ bảo quư vị: “Quư vị sắp
mạng chung, hăy ngay lập tức nhập Định
để học công phu định lực”. Người ta
sắp chết, há c̣n có thể có công phu định lực
nổi ư? Há có thể làm được ư? Pháp môn
thông thường đương nhiên là không được
rồi! Thông thường, người tu hành đă lâu, chẳng
đoạn Hoặc, đến khi mạng chung đều
khó làm được (khó giữ vững tinh thần để
nhập Định), huống hồ người chẳng
học Phật! Đến khi lâm chung, gặp kẻ học
pháp môn b́nh thường, sẽ chẳng có tác dụng to lớn.
V́ dẫu hiểu Phật pháp nhiều đến mấy,
công phu tốt đẹp cỡ nào đi nữa, đối
với người sắp chết, quư vị bảo
người ấy dụng công, người ấy cũng
chẳng có cách nào cả, chẳng dùng sức được!
[Nếu như] vị thiện tri thức ấy là thiện
tri thức Tịnh Độ Tông, hiểu pháp môn Tịnh
Độ, rất khó có! Nếu chẳng gặp thiện
tri thức bên Tịnh Độ Tông, há người ấy (vị
thiện tri thức ấy) có thể v́ người sắp
mạng chung nói về “A Di
Đà Phật quốc độ lạc sự” (những
chuyện vui sướng trong cơi nước của A Di
Đà Phật) hay chăng? Chẳng thể nào! Từ phần
kinh văn kế tiếp, có thể xác định vị ấy
là thiện tri thức thuộc Tịnh Độ Tông.
Bất
luận pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, đều
nói tới “nhân, duyên, quả”.
Trước đă có nhân, nay mới có duyên. Có thể nói “gặp
thiện duyên chẳng dễ dàng”! Vị thiện tri thức
ấy liền “vị kỳ (thiện
nam tử, thiện nữ nhân) quảng thuyết A Di Đà
Phật quốc độ lạc sự”, [nghĩa là] sẽ
v́ người sắp mạng chung nói về các thứ vui
sướng trong cơi nước Tây Phương Cực Lạc
thế giới của A Di Đà Phật. Vừa mở
đầu, kinh A Di Đà bèn nói: “Vô
hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc”,
[nghĩa là] chẳng có hết thảy các nỗi đau khổ,
đều thuần túy là chuyện vui sướng. Vị thiện
tri thức ấy giảng từng điều vui sướng
cho người [sắp chết] ấy, khiến cho người
ấy phát tâm hoan hỷ. Đương nhiên là nói [những
điều ấy] cũng chẳng dễ dàng đâu nhé! Tuy
kinh văn nói là “quảng thuyết”
(rộng nói), nhưng đă là thiện tri thức,
đương nhiên là sẽ thấy căn khí của
người ấy (người sắp mạng chung) rất
rơ ràng, [cho nên, sẽ chọn lựa những điều thích
đáng để nói, khiến cho] người ấy đều
có thể nghe lọt tai từng câu một. V́ thế, có thể
nêu bày các sự vui sướng trong cơi nước [Cực
Lạc]. Chẳng phải là thiện tri thức, mà là kẻ
b́nh phàm giảng giải, sẽ rất khó khăn. Đó là
điều thứ nhất.
Kinh
văn dạy như thế, chúng ta đều phải hành
Bồ Tát đạo. Hễ gặp người sanh bệnh,
khi người ấy lâm chung, chúng ta hăy tận hết mọi
khả năng để nắm vững cơ duyên. Nhất
là khi gặp một người sắp mạng chung, hăy
khuyên người ấy học Phật, niệm Phật.
Đó là lúc tốt nhất, đừng bỏ lỡ! Đối
với người thọ mạng sắp chấm dứt,
đương nhiên là khó gặp gỡ, chúng ta là người
hành Bồ Tát đạo, cũng phải nắm vững
cơ duyên này. Đó là hành vi của bậc Bồ Tát. Thành tựu
một người văng sanh, công đức to lớn ngần
ấy! Thành tựu một người văng sanh, giống
như thành tựu một chúng sanh thành Phật rất nhanh
chóng! Chuyện này so với bất cứ điều thiện
nào trong thế gian cũng đều to hơn! Do mối quan
hệ này, chúng ta phải nghiên cứu kỹ càng những
chuyện vui sướng trong cơi nước của A Di
Đà Phật. Ba kinh Tịnh Độ đều nói về
những chuyện vui sướng trong thế giới Cực
Lạc; lúc b́nh thường, chúng ta đều phải rất
thông thuộc [những chuyện vui sướng ấy],
đều có thể ghi nhớ, để khi gặp người
sắp mạng chung, chúng ta sẽ có cơ hội nói với
họ. Nếu lúc b́nh thường, người ấy là một
người có thiện căn, quư vị vừa nói với
người ấy, người ấy hoàn toàn nghe lọt
tai, quư vị sẽ kết duyên khôn sánh cùng người ấy,
thành tựu người ấy, giúp cho người ấy văng
sanh. V́ vậy, lúc thường nhật, chúng ta phải
nghiên cứu kinh điển Tịnh Độ Tông cho nhiều.
Kế
đó là “diệc thuyết Pháp
Tạng tỳ-kheo tứ thập bát nguyện” (cũng nói
bốn mươi tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng).
Tỳ-kheo Pháp Tạng là A Di Đà Phật. Từ thuở
lâu xa về trước, khi Ngài phát tâm học Phật, có một
vị Phật tên là Thế Tự Tại Vương Phật.
Tỳ-kheo Pháp Tạng vốn là vương tử của một
quốc gia, có thể kế thừa ngôi vua, nhưng Ngài
không cần, Ngài phát tâm xuất gia. Lại c̣n đối
trước Thế Tự Tại Vương Phật, phát
ra bốn mươi tám đại nguyện, lỗi lạc
bậc nhất! Trong kinh Vô Lượng Thọ, đă nói
rành mạch về [nhân duyên ấy và bốn mươi tám
nguyện]. Về sau, sau khi Ngài đă thành Phật (mỗi
nguyện trong bốn mươi tám nguyện đều
viên măn; sau đấy mới thành Phật), tạo thành Tây
Phương Cực Lạc thế giới như trong hiện
thời. V́ thế, chúng ta muốn hiểu rơ bốn
mươi tám nguyện th́ xem kinh Vô Lượng Thọ là tốt
nhất. Chẳng xem kinh Vô Lượng Thọ, chẳng nhớ
được nhiều như vậy, th́ có mấy điều
sau đây chúng ta phải ghi nhớ. V́ sao?
Gặp
người sắp văng sanh, nếu người ấy c̣n
có thể nghe rơ ràng, hăy khuyên người ấy, đó là tốt
nhất. Nếu gặp kẻ b́nh phàm, thường có qua lại
với chúng ta, đều là duyên phận. Trong xă hội, bất
luận chúng ta nói chuyện với ai, cũng đều là
có duyên phận. Gặp những duyên phận ấy, chúng ta
xem nếu thời cơ thích đáng th́ khuyên người ấy
học Phật, khuyên người ấy niệm Phật.
Đó là hành vi của bậc đại Bồ Tát. Dưới
đây, tôi sẽ nêu mấy điều để mọi
người tham khảo.
Điều
thứ nhất trong bốn mươi tám nguyện. Tỳ-kheo
Pháp Tạng nói: “Trong tương
lai, khi ta thành Phật, trong cơi Phật của ta chẳng có
ba ác đạo”. Ba ác đạo là súc sanh, ngạ quỷ,
và địa ngục. Bất cứ thế giới nào
cũng đều có ba ác đạo, thế giới nào
cũng đều có lục đạo luân hồi. Nhất
là trong thế giới Sa Bà, tức nhân gian của chúng ta.
Trong xă hội hiện tại, tâm lư của kẻ b́nh phàm (tội
nghiệp ác nhất, nặng nề nhất). Quư vị
đừng thấy họ hiện thời dường
như có địa vị rất cao, rất biết ăn
nói [mà lầm], tội ác trong tâm của họ (tội nghiệp)
cũng rất nặng. V́ thế, khi thọ mạng chấm
dứt, chẳng vào trong tam đồ, sẽ đi về
đâu? Quư vị thấy ngôn ngữ, hành vi, những lời
lẽ, những chuyện họ đă làm chẳng hợp với
đạo làm người. Làm người chẳng trọn
vẹn; trong tương lai, sau khi đă chết, chẳng
vào trong tam đồ, sẽ tới chỗ nào? Hiện thời,
giết cha, giết mẹ, cướp đoạt, bắt
cóc đ̣i tiền chuộc, [người nhà của nạn
nhân] c̣n chưa đem tiền tới đă giết phăng
người ta trước! Quư vị hăy nghĩ xem: Hạng
người ấy xấu hèn đến mức độ
nào! V́ vậy, thế gian này càng về sau, ḷng người
càng xấu hèn, hiểm ác! Do đó, tam ác đạo quá phổ
biến! Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện “thế giới Cực Lạc chẳng
có ba ác đạo”. Đấy là đại nguyện thứ
nhất, đă thành tựu. V́ thế, quư vị thấy văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt
đẹp ngần nào! Căn bản là chẳng có ba ác
đạo.
Điều
thứ ba trong bốn mươi tám nguyện (nguyện thứ
ba): “Trong tương lai, trong
cơi nước của tôi, tất cả nhân dân trong cơi tôi
(bao gồm hàng đại Bồ Tát, tất cả những
kẻ văng sanh b́nh phàm đều được tính gộp
trong ấy), thân thể đều là chân kim sắc (nhất
loạt phát ra màu sắc của vàng ṛng)”. Tuyệt diệu
thay! V́ sao đều phát ra màu vàng ṛng? Màu vàng ṛng biểu thị
sự quư báu. Bản thân là vật báu. Bất luận học
[Phật] đến mức độ nào, chỉ cần
đến thế giới Cực Lạc, nhân dân sống trong
thế giới Cực Lạc đều là thân thể kim sắc.
Nh́n lại thế gian của chúng ta, người
phương Đông là da vàng, tại Âu Mỹ là da trắng.
Dân bản địa của Mỹ c̣n có da đen, da nâu, da
đỏ. Do màu sắc khác nhau, giống người da trắng
của Âu Tây cảm thấy chính ḿnh ưu việt, ngỡ
người da trắng Âu Tây là chủng tộc tốt nhất.
Măi cho đến hiện thời, nước Mỹ vẫn
có xung đột chủng tộc giữa dân da trắng và
dân da đen. Người trong thế giới Sa Bà là như
vậy, màu sắc, khu vực, ḷng người mỗi mỗi
đều khác biệt, biểu hiện thành các sắc thái
bất đồng! V́ thế, đến thế giới Cực
Lạc, hễ đến đó, đều là kim sắc.
Đây là điều thứ ba. Nguyện này của Ngài
đều viên măn [mọi người văng sanh đều là
thân kim sắc] y hệt!
Lại
nói, đối với thế gian, có rất nhiều chuyện
và t́nh huống chúng ta chẳng liễu giải, chúng ta muốn
lo liệu mọi việc tốt đẹp đều rất
khó. Chẳng hiểu rơ chân tướng, làm sao quư vị có
thể hoàn thành sự việc cho được? Vấn
đề lớn nhất chính là vấn đề sanh tử.
Chẳng thể giải quyết vấn đề sanh tử
là v́ chúng ta chẳng thấy rơ ràng! Chuyện quá khứ chẳng
hiểu rơ, chuyện vị lai cũng chẳng hiểu rơ,
thảy đều không biết. V́ sao không biết? V́ trong
tâm của chúng ta chẳng có quang minh. Nếu trong tâm chúng ta toàn
là quang minh, sẽ thấy bất cứ chuyện ǵ cũng
đều chẳng có chướng ngại, sẽ thấy
rơ ràng, rành rẽ, há có vấn đề sanh tử ư? Sở
dĩ mười phương thế giới có sanh tử
là v́ trong tâm chúng sanh có mặt hắc ám. Có mặt quang minh
và mặt hắc ám, chẳng phải thuần túy là hắc
ám. Thuần túy hắc ám, sẽ chẳng thể làm người,
mà sanh vào địa ngục. V́ thế, chúng ta làm người
bèn có một chút quang minh, nhưng có rất nhiều thứ
hắc ám. Mọi chuyện chỉ có thể thấy một
chút, phần lớn là chẳng hiểu rơ. Hiện thời,
có rất nhiều nhà đại học vấn, hễ nói đến
nhân quả ba đời, họ liền phản đối.
Kẻ phản đối nhân quả ba đời, dẫu
học vấn cao tới đâu đi nữa, nếu chúng
ta chiếu theo Phật pháp để xét, [sẽ thấy]
trong tâm kẻ ấy là một khối lộn xộn,
căn bản là một thùng sơn đen ng̣m, chẳng hiểu rơ, trong tâm chẳng tỏa ra
quang minh, chẳng thấy rơ ràng. V́ thế, khi tỳ-kheo
Pháp Tạng phát ra bốn mươi tám nguyện, nguyện
thứ mười hai là: “Trong
cơi nước của ta, trong tương lai, tất cả
nhân dân (nhân dân từ mười phương thế giới
sanh vào cơi nước ta), thảy đều là vô lượng
quang minh. Không chỉ là trên thân tỏa sáng, mà c̣n là quang minh
chẳng có hạn lượng”. Tỏa ra quang minh chẳng
có hạn lượng, có chuyện ǵ chẳng thấy rơ
ràng? V́ thế, hễ sanh vào thế giới Cực Lạc,
lập tức thoát ly lục đạo là do nhờ vào
điều này. Hễ văng sanh thế giới Cực Lạc,
bản thân sẽ là toàn thân tỏa sáng; huống hồ hoàn
cảnh trong thế giới Cực Lạc, cây cối
cũng thế, mà hoa sen cũng thế, nước cũng
thế, không chỗ nào chẳng tỏa sáng, quyết định
là chẳng có tí ti tối tăm nào! Đại nguyện ấy
cũng đă hoàn thành. V́ thế, A Di Đà theo nghĩa tiếng
Hán là Vô Lượng Quang, tuyệt vời thay! Không chỉ là
bản thân đức Phật là vô lượng quang, mà tất
cả mọi người trong thế giới Cực Lạc
cũng đều là quang minh chẳng có hạn lượng.
Đại nguyện tuyệt diệu ấy cũng đă
hoàn thành.
Trong
nguyện thứ mười ba “thọ
mạng vô lượng”. Người trong cơi nước
của Ngài muốn sống đến bao lâu liền sống
đến bấy lâu, thọ mạng chẳng có hạn lượng.
Thế gian này là sanh, lăo, bệnh, tử, khổ sở
như thế đó! Nếu nói tới thọ mạng, một
người rất thọ, giỏi lắm là sống tới
một trăm năm! Một trăm năm là đă ghê gớm
lắm rồi, nhưng một trăm năm vẫn là rất
ngắn ngủi! Đem so với thế giới Cực Lạc,
làm sao sánh bằng cho được? Thế giới Cực
Lạc là vô lượng thọ. V́ thế, ba chữ A Di
Đà được dịch sang tiếng Hán thành Vô Lượng
Quang và Vô Lượng Thọ, tất cả nhân dân cũng
là vô lượng thọ.
Nguyện
thứ mười sáu trong bốn mươi tám nguyện
là trong thế giới của Ngài, chẳng nghe thấy danh
xưng của hết thảy các tội ác. Trong thế
gian, hễ nói đến “giết,
trộm, dâm, dối”, những tội ác ấy rất
nhiều. Không chỉ là nghe nói những danh xưng ấy, há
có ngày nào chẳng có những chuyện ấy? Trong thế
giới Sa Bà, chúng ta thấy những chuyện ấy, nghe danh
xưng của các chuyện ấy. Trong thế giới Cực
Lạc th́ chẳng có, ngay cả danh xưng cũng đều
chẳng nghe nhắc tới. Chẳng nghe thấy, sẽ có
quan hệ ǵ? Người học Phật chúng ta phải hiểu
tâm pháp: Tâm chúng ta thời thời khắc khắc bị ảnh
hưởng từ bên ngoài, năng lực học tập và
năng lực bắt chước của cái tâm chúng ta mạnh
mẽ nhất. Hễ bên ngoài có chuyện ǵ tốt đẹp,
tâm chúng ta sẽ giống như máy chụp h́nh, chụp lấy
h́nh ảnh ấy. Thấy những chuyện giết, trộm,
dâm, dối bên ngoài, “máy chụp h́nh” của chúng ta cũng chụp
lấy, chụp xong sẽ biến thành h́nh ảnh của
chính ḿnh! Quư vị thấy: Chúng ta ở trong thế gian này,
mỗi ngày thấy, mỗi ngày nghe, [những chuyện đó]
đều quy vào tâm lư của chính ḿnh. Chúng ta học đạo,
một mặt xem kinh, mặt khác là trong tâm tiếp nhận
những chuyện ấy, chúng sẽ triệt tiêu lẫn
nhau. V́ thế, tu đạo trong thế gian này khó khăn
dường ấy. Đă tới thế giới Cực Lạc,
ngay cả danh xưng [của những chuyện xấu ác ấy]
cũng đều chẳng có, ngay cả nghe c̣n chẳng
nghe thấy. Đây là một đại nguyện rất
tuyệt diệu. Cũng là do hoàn cảnh trong thế giới
ấy đặc biệt tốt đẹp. Ở trong hoàn
cảnh ấy, đương nhiên là thành Phật sẽ hết
sức mau chóng.
Không thể
nói quá nhiều. Cuối cùng, tôi lại nói một điều
để tăng cường tín tâm của mọi người.
Nguyện thứ ba mươi ba trong bốn mươi tám
nguyện, tỳ-kheo Pháp Tạng đă phát nguyện như
thế này: Giả sử sau khi Ngài thành Phật, chúng sanh
trong mười phương thế giới đều
được vô lượng quang của Ngài gia bị. Sau
khi đă được quang minh của Ngài gia bị, những
chúng sanh ấy đều là thân tâm nhu nhuyễn, từ thân
đến tâm đều nhu ḥa. “Nhuyễn”
(軟) là một
người thân và tâm đều nhu ḥa, đối với
người, đối với sự, đều hết sức
ḥa hoăn (ḥa b́nh), trọn chẳng phát sanh tranh chấp với
kẻ khác. Tranh chấp với người khác, chẳng chịu
lép vế; thậm chí nổi cáu, tranh đấu cùng kẻ
khác. Tuyệt đối sẽ chẳng có những chuyện
ấy! V́ thế, nếu đă được Phật quang
gia bị, từ thân thể cho đến tâm lư đều
nhu ḥa. Chúng ta chí tâm niệm một câu Phật hiệu, bèn
được Phật quang gia bị nơi thân. Chúng ta có
thể tin tưởng: Người niệm Phật càng niệm
Phật nhiều, tâm càng nhu ḥa, càng từ thiện, sẽ đối
đăi hết thảy chúng sanh bằng tâm bi mẫn, nhất
định là tâm từ bi. Tâm nhu nhuyễn sanh khởi tâm từ
bi, điều này rất tuyệt diệu! Dùng cái tâm ấy
để học đạo, niệm Phật, sẽ nhanh
chóng nhất. Điều này đương nhiên cũng là
viên măn!
Có
rất nhiều chuyện chứng tỏ những nguyện
ấy của đức Phật là xác thực, chẳng hư
dối. Có rất nhiều vị đang hiện diện
đều đă từng trợ niệm cho người
khác, từng thấy rất nhiều thụy tướng.
Một thụy tướng trong ấy là sau khi văng sanh, thân
thể tuy đă lạnh, nhưng vẫn mềm mại, kẻ
không học Phật thường là sau khi đă chết,
thân thể bèn cứng đờ! Toàn thân mềm mại là
do được Phật quang gia bị. Thiện tri thức
nói với người ấy những
chuyện vui sướng trong quốc độ ấy. Bốn
mươi tám nguyện chính là duyên, nhân và duyên đều
thành thục. Đoạn thứ ba...
(Kinh)
Văn thử sự dĩ, tầm tức mạng chung. Thí
như tráng sĩ, khuất thân tư khoảnh, tức sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
(經)聞此事已,尋即命終。譬如壯士,屈伸臂頃,即生西方極樂世界。
(Kinh: Đă
nghe chuyện ấy rồi, ngay khi đó liền mạng
chung. Ví như trong khoảng tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền
sanh về
“Văn thử sự dĩ” (Đă
nghe chuyện này), người lâm chung sau khi nghe những
chuyện trên đây, “tầm tức
mạng chung” [nghĩa là] rất nhanh chóng bèn mạng
chung. Mạng chung th́ như thế nào? “Thí như” (譬如) là tỷ
dụ, mạng chung bèn sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới nhanh chóng như thế nào? Giống như “tráng sĩ khuất thân tư khoảnh”
(trong khoảng tráng sĩ co duỗi cánh tay), “khuất” (屈) là co lại,
“thân” (伸) là duỗi ra. Người
b́nh phàm chúng ta thường là dường như co duỗi
[cánh tay] rất chậm, “tráng
sĩ” (壯士) là
người đă luyện qua quốc thuật[2], đă
có công phu. Quư vị c̣n chưa nh́n thấy rơ, [tráng sĩ] vừa
duỗi tay ra, đă co tay lại ngay, rất nhanh chóng! Mau
hơn người b́nh thường rất nhiều. Ở
đây, kinh h́nh dung [sự văng sanh nhanh chóng] giống như
tráng sĩ, tức người có công phu, co duỗi cánh tay hết
sức nhanh chóng. Trong một khoảng thời gian ngắn
ngủi, mong manh ngần ấy, “tức
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”, lập
tức văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Trong
đoạn kinh văn này, có hai điểm ư nghĩa, tuy chẳng
nói rơ, nhưng tổ sư đă chú giải: Người ấy
do gặp thiện tri thức khai thị, lại v́ thường
nhật, người ấy chỉ là một thiện nhân
mà thôi, chẳng hiểu Phật pháp. Vừa nghe nói tới
những chuyện vui sướng trong thế giới Cực
Lạc và bốn mươi tám nguyện của tỳ-kheo
Pháp Tạng, ngay lập tức “phát
tâm hồi hướng”. Trong những phần trước
đều có hồi hướng, [ở đây], người
ấy hồi hướng. Sau khi đă phát tâm, hồi
hướng, liền văng sanh. Khi văng sanh, sẽ cảm ứng
“A Di Đà Phật lai tiếp dẫn”
(A Di Đà Phật đến tiếp dẫn), v́ trong bốn
mươi tám nguyện, có một nguyện là A Di Đà Phật
nhất định sẽ đến tiếp dẫn văng
sanh. Căn cứ vào [sự kiện] Trung Phẩm Thượng
Sanh, Trung Phẩm Trung Sanh, và Trung Phẩm Hạ Sanh đều
có Phật đến tiếp dẫn, tổ sư đă chú
giải điều này. Chúng tôi phải nói bổ sung rơ ràng!
Dưới
đây là những lợi ích sẽ đạt được
sau khi văng sanh:
(Kinh)
Kinh thất nhật dĩ, ngộ Quán Thế Âm, cập
Đại Thế Chí, văn pháp hoan hỷ, đắc Tu
Đà Hoàn, quá nhất tiểu kiếp, thành A La Hán.
(經)經七日已,遇觀世音,及大勢至。聞法歡喜,得須陀洹。過一小劫,成阿羅漢。
(Kinh: Qua bảy
ngày, gặp Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, nghe pháp hoan
hỷ, đắc Tu Đà Hoàn. Sau một tiểu kiếp,
thành A La Hán).
Đoạn
này nói đến những chuyện sau khi đă văng sanh thế
giới Cực Lạc. “Kinh thất
nhật dĩ”, sau bảy ngày, “ngộ Quán Thế Âm, cập Đại Thế Chí”,
gặp hai vị đại Bồ Tát ở Tây Phương:
Một vị là Quán Thế Âm Bồ Tát, vị kia là Đại
Thế Chí Bồ Tát. Sau khi gặp gỡ hai vị đại
Bồ Tát ấy, “văn pháp
hoan hỷ” (nghe pháp hoan hỷ), đương nhiên là
nghe hai vị đại Bồ Tát thuyết pháp. Người
văng sanh được nghe diệu pháp, đương nhiên
là càng thêm hoan hỷ. Sự hoan hỷ ấy đương
nhiên chẳng phải là sự hoan hỷ của chúng sanh
trong thế giới Sa Bà, tuyệt vời lắm! Hễ hoan
hỷ, sẽ ngay lập tức chứng quả. V́ thế,
người ấy nghe pháp hoan hỷ, bèn “đắc Tu Đà Hoàn”, tức là đắc Tiểu
Thừa Sơ Quả. Sau khi đă chứng Sơ Quả, “quá nhất tiểu kiếp”
(sau một tiểu kiếp), tiếp tục tu học, trải
qua một kiếp lâu xa như vậy, sau đấy “thành A La Hán”, [tức là] chứng
quả thứ tư trong Tiểu Thừa, trở thành A La
Hán. Thời gian trong phẩm này lâu hơn Trung Phẩm Trung
Sanh. Trung Phẩm Trung Sanh trải qua nửa tiểu kiếp,
người văng sanh trong phẩm này mất một tiểu
kiếp để thành tựu A La Hán.
Ở
đây, chúng ta phải chú ư: Thiện nam tử, thiện nữ
nhân b́nh phàm hiếu dưỡng phụ mẫu, thực hành
hạnh nhân từ thế gian, chỉ là thiện nhân b́nh
phàm, chưa học Phật pháp, chưa học pháp Tiểu
Thừa, cớ sao đến thế giới Cực Lạc
bèn chứng Sơ Quả trước, sau đấy chứng
A La Hán? Tổ sư chú giải: Phải biết “hiếu dưỡng phụ mẫu,
hành hạnh nhân từ thế gian” chính là căn bản của
việc tu đạo. Nói theo chuyện học Phật, bất
luận quư vị học Đại Thừa Phật pháp hay
Tiểu Thừa Phật pháp, đều phải làm như
thế. Chẳng phải là hiếu tử, chẳng phải
là người nhân từ, sẽ chẳng có cách nào học
đạo! Do đă hội đủ căn bản tốt
đẹp, đến Tây Phương, vừa nghe Quán Thế
Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát thuyết pháp,
ngay lập tức chứng Sơ Quả. Lại c̣n sau một
tiểu kiếp, sẽ chứng quả A La Hán. Điều
này chỉ rơ: Công phu phụ trợ của người niệm
Phật chúng ta hết sức quan trọng. Niệm Phật
là chánh công phu, nhưng hiếu dưỡng phụ mẫu, hành
hạnh nhân từ trong thế gian là trợ công phu. Chẳng
có điều này, sẽ khó khăn hơn. V́ thế, ắt
phải làm điều này.
(Kinh)
Thị danh Trung Phẩm Hạ Sanh giả.
(經)是名中品下生者。
(Kinh:
Đó gọi là Trung Phẩm Hạ Sanh).
Đây là
kết luận, tức kết luận của phần Trung
Phẩm Hạ Sanh.
(Kinh)
Thị danh Trung Bối sanh tưởng, danh đệ thập
ngũ Quán.
(經)是名中輩生想,名第十五觀。
(Kinh: Gọi
là phép quán tưởng về sự văng sanh trong bậc Trung,
gọi là phép Quán thứ mười lăm).
Phía
trên Trung Phẩm Hạ Sanh là Trung
Phẩm Thượng Sanh và Trung Phẩm Trung Sanh. Ba phẩm
ấy gộp lại, gọi là “trung
bối sanh tưởng”, gọi là phép Quán thứ mười
lăm. Lần sau, chúng tôi sẽ nói đến phép Quán thứ
mười sáu.
Tập 47
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ hai
mươi bảy, bắt đầu từ ḍng cuối
cùng. Tôi đọc trước một đoạn kinh
văn.
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Hạ Phẩm
Thượng Sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, tác chúng ác
nghiệp, tuy bất phỉ báng Phương Đẳng
kinh điển, như thử ngu nhân, đa tạo ác pháp,
vô hữu tàm quư. Mạng dục chung thời, ngộ thiện
tri thức, vị thuyết Đại Thừa thập nhị
bộ kinh thủ đề danh tự. Dĩ văn như
thị chư kinh danh cố, trừ khước thiên kiếp
cực trọng ác nghiệp. Trí giả phục giáo hiệp
chưởng xoa thủ, xưng “Nam-mô A Di Đà Phật”.
Xưng Phật danh cố, trừ ngũ thập ức kiếp
sanh tử chi tội”.
(經)佛告阿難,及韋提希:下品上生者,或有眾生,作眾惡業。雖不誹謗方等經典,如此愚人,多造惡法,無有慚愧。命欲終時,遇善知識,為說大乘十二部經首題名字。以聞如是諸經名故,除卻千劫極重惡業。智者復教合掌叉手,稱南無阿彌陀佛。稱佛名故,除五十億劫生死之罪。
(Kinh: Phật
bảo A
IV.2.2.17. Phép Quán thứ
mười sáu văng sanh Hạ Phẩm
Hôm
nay, chúng ta bắt đầu xem phần kinh văn nói về
Hạ Phẩm. Trong Hạ Phẩm, có Thượng, Trung, Hạ,
tức ba phẩm văng sanh thuộc bậc Hạ, chẳng
giống Thượng Phẩm và Trung Phẩm trong phần
trước ở chỗ nào? Thượng Phẩm và Trung
Phẩm trong phần trước đều là những
người làm lành, làm rất nhiều chuyện tốt
lành. C̣n người văng sanh trong ba phẩm thuộc bậc
Hạ chẳng làm việc thiện; trái lại, c̣n làm rất
nhiều ác nghiệp. Đă làm ác nghiệp, v́ sao lại có thể
văng sanh? Do vậy, chúng ta nghiên cứu kinh, nghiên cứu
đến chỗ này, tất yếu phải hiểu rơ:
Trong ba phần Thượng, Trung, Hạ của Hạ Phẩm,
dựa theo ác nghiệp nhẹ hay nặng để phân loại.
Ác nghiệp nhẹ hơn sẽ là Hạ Phẩm Thượng
Sanh, ác nghiệp nặng hơn sẽ là Hạ Phẩm Trung
Sanh, ác nghiệp nặng nhất sẽ là Hạ Phẩm Hạ
Sanh, phân loại như thế. Lại do nhân tố ǵ sẽ
cảm ứng thiện duyên ǵ mà có thể nhập diệt
văng sanh? Liễu giải rành rẽ những điều này,
sẽ rất hữu ích cho công phu tu tŕ thường nhật
của chúng ta. Trong các phần trước,
đă nói về nhân duyên của bậc Thượng và bậc
Trung, hôm nay nói về bậc Hạ. Sau khi đă nói xong ba phẩm
thuộc bậc Hạ, đối với chín phẩm văng
sanh, chúng ta đều có thể liễu giải đại
khái. Chúng ta sẽ biết lúc thường nhật, phải
nên tŕ danh như thế nào? Tu công phu phụ trợ như thế
nào? Phải hiểu rơ ràng, b́nh thường tu tập
như thế, đến lúc [lâm chung] trong tương lai,
nhất định sẽ có thành tựu!
Nay
xin quư vị hăy xem kinh văn:
“Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”, đức Phật
bảo hai vị là tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy,
bảo họ “Hạ Phẩm
Thượng Sanh giả”, tức là người có thể
đạt được Hạ Phẩm Thượng Sanh.
Trước hết, nêu ra danh xưng của phẩm vị
văng sanh. Kế đó, đại đoạn thứ hai nhằm
giải thích, giải thích như thế nào th́ sẽ có thể
đạt được Hạ Phẩm Thượng Sanh.
Phần này cũng giống như trong các phần trước,
trước hết, nói rơ nguyên nhân văng sanh, phải hội
đủ các điều kiện: “Hoặc hữu chúng sanh, tác chúng ác nghiệp”, [nghĩa
là] có những chúng sanh tạo tác ác nghiệp như thế
đó. “Ác nghiệp” là những
sự nghiệp có tội ác. Gây tạo ác nghiệp không chỉ
là một loại, mà có rất nhiều chủng loại,
nên nói là “chúng ác nghiệp”. Kẻ
ấy tạo rất nhiều ác nghiệp. Chúng ta biết
ác nghiệp là giết, trộm, dâm, dối v.v... Người
học Phật nói [tạo tác những ác nghiệp ấy] là
“phạm giới luật”.
Người không học Phật, căn bản là chưa hề
thọ giới, chẳng nói đến chuyện “phạm giới” được!
Nhưng tạo những chuyện ác ấy th́ chính là tạo
ác nghiệp. Bất luận là giết chúng sanh thuộc loài
người, hay giết các động vật khác, đều
coi là sát nghiệp. Sát nghiệp là một ác nghiệp rất
lớn. Trộm cắp ư? Trộm cắp
đương nhiên cũng là ác nghiệp rất lớn.
Phàm đối với những ác nghiệp
đă nói trong giới luật, hễ phạm phải, sẽ
đều là “tạo chủng
chủng ác nghiệp” (tạo đủ mọi thứ ác
nghiệp). Những chúng sanh như vậy, làm các thứ ác nghiệp
ấy, chủ yếu nhất là giết, trộm, dâm,
dối, những chuyện tổn hại người khác
và tổn hại chúng sanh.
“Tuy bất phỉ báng Phương
Đẳng kinh điển” (Tuy chẳng phỉ báng kinh
điển Phương Đẳng). “Kinh điển” là nói tới kinh điển nhà Phật.
Kinh điển Phương Đẳng là danh xưng chung của
kinh điển Đại Thừa. Kinh điển
Phương Đẳng được nói ở đây
chính là kinh điển Đại Thừa. Đối với
kinh điển Đại Thừa, có những kẻ chẳng
liễu giải, bèn buông lời phỉ báng. Nói “phỉ báng” (誹謗) nghĩa
là ǵ? Nói kinh này chẳng đúng, hoặc là đặt ra những
lời đồn đại ảnh hưởng tín tâm của
người học tập, đó là phỉ báng. Những kẻ
ác đó (những kẻ Hạ Phẩm Thượng Sanh) chẳng
phỉ báng kinh điển Phương Đẳng. Phải
biết: Tội phỉ báng kinh điển Phương
Đẳng hết sức to lớn! Hăy ngẫm xem, chúng
sanh trong thế gian sanh sanh tử tử trong lục đạo,
chẳng ĺa khỏi. V́ sao? V́ chẳng có trí huệ! Nếu muốn
thoát ly lục đạo luân hồi, phải nương cậy
Phật pháp, nương nhờ Phật pháp dạy họ
tu hành như thế nào th́ mới có thể ĺa khỏi! Phật
pháp như vậy mà quư vị phỉ báng, sẽ trở ngại
bao nhiêu chúng sanh học tập kinh điển, cũng chính
là đă trở ngại bao nhiêu người thoát ly lục
đạo luân hồi. Quư vị hăy ngẫm xem, tội lỗi
ấy lớn đến mức độ nào? Quá to tát! V́
thế, phạm tội phỉ báng kinh điển Phương
Đẳng chính là tội ác to lớn cùng cực! Những
chúng sanh ấy tuy tạo rất nhiều ác nghiệp, nhưng
họ chẳng phỉ báng kinh điển Phương
Đẳng. Cũng có lẽ họ chẳng hiểu Phật
pháp, trí huệ và giáo dục đều chưa đạt
đến tŕnh độ ấy, họ chẳng biết! Không
thể do đâu mà dấy lên phỉ báng; v́ thế, họ chẳng
phỉ báng.
Tuy kẻ
ấy chẳng phỉ báng kinh điển Phương
Đẳng, nhưng tiếp đó, [kinh văn] chép: “Như thử ngu nhân” (Kẻ
ngu như thế). Người ấy vẫn bị coi là kẻ
ngu, tức là kẻ ngu si, chẳng hiểu đạo lư. Cớ
sao nói người ấy là kẻ ngu si? V́ như trên đă
nói, người ấy đă tạo rất nhiều ác nghiệp.
V́ thế, người ấy là kẻ ngu. Hạng người
ngu như vậy “đa tạo
ác pháp”, [nghĩa là] tạo tác rất nhiều chuyện
tội ác, tức ác pháp. Ác pháp và ác nghiệp như nhau, văn
tự chỉ hơi thay đổi một chữ, nhưng
ư nghĩa như nhau, [đều có nghĩa là] tạo rất
nhiều ác nghiệp. Kẻ b́nh phàm sau khi tạo ác nghiệp,
trong tâm vẫn có đôi chút áy náy, cảm thấy xấu hổ
đối với chúng sanh bị hại. Kẻ b́nh phàm là
như vậy, nhưng kẻ ấy (kẻ ác trong Hạ Phẩm
Thượng Sanh) th́ sao? “Vô hữu
tàm quư” (Chẳng hổ thẹn). Tạo rất nhiều
ác pháp, vẫn chẳng có tâm lư hổ thẹn. Hai chữ Tàm
và Quư có chút sai khác. Tàm (慚) là ǵ?
Khi tạo những ác nghiệp ấy, không có ai biết,
chính người ấy ở trong nhà của chính ḿnh lập
kế hoạch chuẩn bị tạo ác nghiệp, chẳng
ai biết. Đă tạo ác nghiệp thành công, cũng chẳng
có bất cứ ai biết! Văn hóa Trung Hoa cũng nói, “nếu ở trong ốc lậu”, “ốc lậu” (屋漏) là ǵ? Ốc
lậu là chỗ sâu kín nhất trong căn nhà ḿnh đang ở.
Một kẻ đang ở chỗ tối tăm ấy,
ngay cả người trong nhà cũng chẳng biết. Chỗ
“ốc lậu” ấy là ǵ? Là
chỗ để thờ phụng thần minh, tổ tiên.
Chốn tối tăm thờ phụng thần minh, tổ
tiên ấy, chẳng có bất cứ kẻ nào biết tới,
nhưng có thần thánh, thần minh biết. Kẻ ấy
làm ác nghiệp ở chỗ ấy, cũng chẳng có tâm lư
hổ thẹn đối với thần minh, đó là “vô tàm”! Quư (愧) th́ sao? Đă tạo
ác nghiệp, người khác biết kẻ đó làm chuyện
xấu, công khai, bạo gan tạo ác nghiệp, cướp
đoạt đồ vật của
người khác, giết hại chúng sanh, người ta
đều biết cả! Bất luận là đối với
kẻ bị hại, hay là người khác trông thấy [kẻ
ác ấy], đối với những người ấy, kẻ
[làm ác] đó chẳng có tâm lư hổ thẹn, chẳng
có mảy may xấu hổ! Nói gộp lại th́ sao? Bất
luận là có người biết, hay không ai biết, nói
chung là hổ thẹn, nhưng hạng người ấy
khi tạo những ác nghiệp đó, chẳng có tâm hổ
thẹn. Quư vị nghĩ xem: Kẻ ấy hết sức
ngu xuẩn, mà cũng hết sức xấu hèn!
Hạng
người ấy “mạng dục
chung thời, ngộ thiện tri thức, vị thuyết Đại
Thừa thập nhị bộ kinh thủ đề danh tự”
(khi mạng sắp chấm dứt, gặp thiện tri thức,
v́ người ấy nói danh xưng của tựa đề
mười hai bộ loại trong kinh Đại Thừa).
Đây là chuyện chẳng thể nghĩ bàn! Kẻ ngu si
như vậy, tạo ác pháp nhiều ngần ấy, nhưng
tới khi kẻ ấy “mạng
dục chung thời”, tức là khi thọ mạng sắp
chấm dứt, gặp thiện tri thức, lúc b́nh thường
chẳng được gặp, vào lúc sắp chết bèn gặp
gỡ thiện tri thức. Quư vị thấy chuyện này mầu
nhiệm quá! Gặp thiện tri thức, vị thiện tri
thức ấy bèn nói cho người ấy, nói ǵ vậy?
Nói “Đại Thừa kinh
điển”, “thập nhị
bộ kinh” nghĩa là kinh điển được phân
loại thành mười hai loại lớn. Nêu ra “thủ đề danh xưng”
của những kinh ấy, “thủ
đề” (首題) là danh
xưng của những kinh ấy. Ví như nói nay chúng ta
nghiên cứu bộ Quán Kinh này, Phật Thuyết Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh là danh xưng của tựa
đề kinh. Phật Thuyết A Di Đà Kinh, Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh cũng là “thủ đề danh tự”.
Nói cho người sắp mạng chung biết danh xưng của
những kinh điển Đại Thừa ấy (tên gọi
của mỗi bộ kinh điển), nói cho người ấy
nghe. Chúng ta biết bất cứ chúng sanh nào từ vô thỉ
kiếp tới nay, mỗi đời đều tạo rất
nhiều nghiệp. Những nghiệp đă tạo ấy
có khi là ác nghiệp, có khi là thiện nghiệp, thiện nghiệp
lẫn ác nghiệp đều có. Chúng ta đừng ngỡ
kẻ nào đó suốt một đời tạo ác nghiệp
quá nhiều, chẳng có một chuyện nào là thiện!
Chúng ta chẳng thường nói như vậy hay sao?
Nhưng thường là kẻ ấy hết tuổi thọ,
chết an lành, được qua đời an lành. Cũng
có kẻ suốt đời luôn tạo thiện nghiệp,
làm đủ mọi chuyện tốt, về sau th́ sao? Chẳng
được chết an lành! Do vậy, trong tâm chúng ta cảm
thấy: Chẳng phải là nhân quả nói“thiện có báo ứng tốt
đẹp, ác sẽ có báo ứng chẳng tốt lành”
đó ư? Đấy là v́ chúng ta chỉ nh́n mấy chục
năm ngắn ngủi trong đời này của người
ấy, bỏ sót những đời trước của đời
này. V́ thế, người học Phật nhất định
phải nói tới nhân quả ba đời. Hễ nói nhân quả
ba đời, sẽ hiểu rơ ràng. Người ấy bất
luận là suốt một đời này tạo các ác nghiệp,
nhưng nói chung là trong quá khứ, người ấy đă
làm những chuyện tốt đẹp; đó chính là thiện
nghiệp! Mỗi lần then chốt trong khi sanh tử, thiện
nghiệp và ác nghiệp đều dấy lên hiện hành.
Do vậy, kẻ ngu ấy b́nh thường chẳng tạo
thiện nghiệp, chuyên tạo ác nghiệp, chỉ tới
khi thọ mạng sắp chấm dứt, gặp gỡ thiện
tri thức. Từ điểm này, chúng ta có thể liễu
giải: Trong đời quá khứ, kẻ ấy đă tạo
thiện nghiệp, chứng tỏ kẻ ấy có thiện
căn. Do tạo thiện nghiệp, nên mới có thiện
căn; v́ thế, lúc đó, người khác thấy kẻ ấy
là ác nhân, nhưng nhờ vào thiện nghiệp trong quá khứ
(thiện căn hiện thời đă chín muồi), gặp
thiện tri thức, điều này đáng quư lắm! Chúng
ta phải liễu giải điều này.
Thông
thường, chúng ta cũng nói: Người niệm Phật
ngoài công phu chánh yếu ra, tức là ngoài chuyện Tŕ Danh Niệm
Phật, c̣n có công phu phụ trợ. Công phu phụ trợ
chính là “đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện”: Chớ tạo các ác
nghiệp, đối với thiện nghiệp th́ tận hết
năng lực, năng lực có bao nhiêu bèn làm thiện nghiệp
bấy nhiêu! Làm thiện nghiệp chẳng cần hỏi
khi nào sẽ có thể đạt được lợi
ích. Đă tạo thành thiện nghiệp, công đức nhất
định tồn tại. Những thiện nghiệp
đă làm trong đời quá khứ sẽ đều dấy
lên hiện hành. Những thiện nghiệp chúng ta đă tạo
trong đời này, đương nhiên là càng có sức mạnh.
V́ thế, cần phải tạo nhiều thiện nghiệp.
Tới khi lâm chung, sẽ giảm thiểu rất nhiều
nghiệp chướng, có thể giúp cho chúng ta khi lâm chung có
thể đầy đủ chánh niệm, có thể nhất
tâm bất loạn văng sanh. Hạng người ác như vậy
nhờ vào thiện căn ấy, sẽ đều gặp thiện
tri thức. Huống hồ chúng ta thường ngày niệm
Phật, lại tận hết sức làm lành! Đến khi
lâm chung, c̣n có vấn đề chi nữa? Vị thiện
tri thức ấy liền v́ người lâm chung nói mười
hai bộ loại của kinh Đại Thừa. Khi ấy,
chẳng có cách nào nói về nội dung của kinh được,
bèn nêu ra danh xưng của kinh.
“Dĩ văn như thị chư kinh danh cố,
trừ khước thiên kiếp cực trọng ác nghiệp” (Do nghe
tên gọi của các kinh như thế, trừ được
ác nghiệp cực nặng trong ngàn kiếp). Sau khi người
lâm chung ấy được nghe danh tự của các kinh ấy,
“trừ khước” (除卻) là tiêu
trừ. Tiêu trừ bao nhiêu ác nghiệp do người ấy
đă tạo? Một ngàn kiếp! Trong thời gian một
kiếp, có bao nhiêu lần sanh tử? Người thế
gian chúng ta dẫu sống tới một trăm tuổi, một
trăm năm ấy đem so với một kiếp, sẽ
thấy nó chiếm một tỷ lệ thời gian quá ngắn
ngủi, tạm bợ! Huống hồ, ở đây nói là một
ngàn kiếp! Trong một ngàn kiếp, sanh sanh, tử tử,
có bao nhiêu lần sanh tử? Trong những lần sanh tử
ấy, những ác nghiệp cực nặng đă tạo
trong đời đời kiếp kiếp (“cực trọng” (極重) là ác nghiệp nặng nhất),
do v́ sau khi được nghe danh xưng của kinh điển
Đại Thừa, các đại ác nghiệp đă gây tạo
trong một ngàn kiếp đều bị tiêu trừ. Quư vị
xem đó, sức mạnh ấy to lớn dường nào! V́
sao nghe danh xưng của kinh có thể diệt trừ tội
ác to lớn (ác nghiệp) nhiều ngần ấy? Tổ
sư chú giải, v́ mỗi bộ kinh (ở đây, phải
chú ư) đều là kinh Đại Thừa. Trong mười
hai bộ loại của kinh Đại Thừa, bất cứ
bộ kinh điển Đại Thừa nào cũng đều
dạy về diệu lư Thật Tướng. Thật
Tướng là Chân Như bản tánh. Mỗi bộ kinh Đại
Thừa đều nhằm dạy chúng sanh hiểu rơ chính
ḿnh đều có Thật Tướng, cũng tức là
đều có Chân Như bản tánh. Trong kinh toàn giảng
đạo lư vi diệu này. Danh xưng của một bộ
kinh biểu thị nội dung của bộ kinh ấy, mà
cũng nhằm biểu hiện bản tánh của chúng sanh.
Đă
có tác dụng trọng yếu như vậy, cho nên, hễ
nhắc tới tên kinh, sẽ có công đức và sức mạnh
tiêu trừ tội ác. Từ chỗ này, chúng ta có thể biết:
Nghe hoặc thấy danh xưng của kinh Phật có công
đức to như thế, huống hồ chúng ta đọc
tụng, thọ tŕ, nghiên cứu, sẽ càng tuyệt vời
hơn! Nói ngược lại, có những kẻ phỉ
báng kinh điển Đại Thừa, tội lỗi
cũng khôn cùng! V́ như chúng ta thấy ở đây: Liễu
giải kinh có tác dụng to tát ngần ấy! Trong những
vị đang hiện diện, có vị tuổi hăy c̣n trẻ,
có vị tuổi tuy hơi cao, nhưng ngày tháng vẫn c̣n
dài, nay chúng ta đă nghe rất nhiều danh xưng của
các kinh. Không chỉ là nghe rất nhiều danh xưng, mà c̣n
nghiên cứu nội dung của rất nhiều kinh, lại
c̣n chiếu theo nội dung của kinh để tu tŕ, bản
thân chúng tôi cảm nhận: Đó chẳng phải là do thiện
căn trong hiện tại, mà là do thiện căn đă gieo
từ nhiều đời nhiều kiếp cho tới nay, [cho
nên] hiện thời chúng ta mới có thể như vậy. Kinh
có nói những kẻ tạo ác nghiệp lúc b́nh thường
chẳng được nghe, tới khi lâm chung mới nghe, thế
mà hiện thời chúng ta đă nghe! Quư vị hăy ngẫm
xem: Có thể thấy là phước báo và thiện căn của
chúng ta to hơn kẻ ấy, nếu trong tương lai
thành tựu, có thể văng sanh, chắc chắn là chẳng
thuộc vào Hạ Phẩm. Mọi người có thể
tin tưởng chuyện này, kinh văn đă nói rành rẽ,
rơ rệt. C̣n chưa đến lúc văng sanh, trong lúc b́nh thời
mà mọi người đều đă nghe danh xưng của
các kinh nhiều ngần ấy, và cũng chiếu theo lời
kinh dạy để học, để tu, trong tương
lai, sau khi văng sanh, mức độ thấp nhất sẽ
từ Trung Phẩm trở lên.
Tiếp
đó, kinh dạy: “Trí giả
phục giáo hiệp chưởng xoa thủ, xưng Nam-mô A
Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, trừ ngũ
thập ức kiếp sanh tử chi tội” (Người
trí lại dạy [người sắp mạng chung] chắp
tay trước ngực, xưng Nam-mô A Di Đà Phật. Do
xưng danh hiệu Phật, trừ tội sanh tử trong
năm mươi ức kiếp). “Trí giả” ở đây là nói tới vị thiện
tri thức trong phần trước. Thiện tri thức
đương nhiên là nói người có trí huệ. V́ thế,
gọi người ấy là “trí
giả”. Trước đó, người ấy đă nói
danh xưng tựa đề của mười hai bộ
loại kinh điển, kế đó, lại dạy kẻ
ngu (“kẻ ngu” ở đây
chính là người sắp mạng chung) hăy chắp tay
trước ngực. Chắp tay trước ngực chính
là lễ tiết tại Ấn Độ thuở đó, là
một loại lễ. Trong quá khứ, Trung Hoa cũng nói
đến chuyện “củng
thủ” (拱手). “Củng thủ” là dùng bàn tay
này ôm lấy nắm đấm của bàn tay kia, hoặc ṿng
hai tay lại, gọi là “củng
thủ”. Về sau, cách này cũng dần dần chuyển
biến. “Hiệp chưởng
xoa thủ” của Ấn Độ có giống như
cách “củng thủ” của
Trung Hoa hay không? Đă chẳng có cách nào khảo cứu! Hiện
thời, thông thường chúng ta “hiệp chưởng” (合掌, c̣n gọi là “hiệp thập” (合十) tức là chụm
mười ngón tay lại). Hiệp chưởng có ư
nghĩa là chắp hai bàn tay lại, đặt trước
ngực. Đặt nơi ngực nhằm biểu thị
cái tâm chí thành, khẩn thiết, biểu thị cái tâm chuyên
chú, chân thành tiếp nhận sự giáo hóa của đức
Phật. Người trí dạy kẻ đó chắp tay
trước ngực. Sau khi kẻ ấy đă chắp tay
trước ngực (sau khi đă học lễ tiết ấy),
người trí bèn dạy kẻ ấy “xưng” (稱), tức
là tŕ danh, “xưng” là xưng
hô sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”.
Nam-mô có nghĩa là quy y. A Di Đà là Vô Lượng Thọ và
Vô Lượng Quang, trong kinh A Di Đà cũng có nói. Dạy
kẻ ấy niệm sáu chữ đó, “Nam-mô A Di Đà Phật”. Khi lâm chung, kẻ ấy đương
nhiên sẽ xưng niệm!
Do xưng danh hiệu Phật, sau khi xưng
danh hiệu Phật, v́ duyên cớ ấy, quư vị hăy xem kế
tiếp: Trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử
đấy nhé! “Năm
mươi ức kiếp”: Trong các con số tại Ấn
Độ, có mấy cách nói, có khi coi mười vạn là một
ức, có chỗ coi một trăm vạn là một ức,
c̣n có con số càng to hơn nữa. Ở đây, Thiện
Đạo đại sư nói theo con số nhỏ nhất,
coi “mười vạn là một ức” để nói. Năm
mươi ức kiếp là năm trăm vạn kiếp.
Tạo tội sanh tử trong năm trăm vạn kiếp
cho đến nay, tội nghiệp to lớn, do v́ niệm danh
hiệu Phật (“xưng Phật
danh” chính là niệm danh hiệu Phật), thảy đều
bị tiêu diệt, diệt trừ, quư vị thấy công
đức tŕ danh to cỡ nào!
V́
sao có sức mạnh to lớn như vậy? Trong phần
trước, [đă có nói] do nghe danh xưng của kinh có thể
tiêu tội trong một ngàn kiếp. Niệm danh hiệu Phật,
tức là niệm danh hiệu A Di Đà Phật, sức mạnh
c̣n to hơn nữa! Có thể trừ đại tội sanh
tử trong năm trăm vạn kiếp. Một mặt là
v́ A Di Đà Phật trong quá khứ đă phát bốn
mươi tám đại nguyện. Trong quá khứ, Ngài đă
phát nguyện: Hễ có chúng sanh niệm danh hiệu Ngài, sẽ
có thể tiêu trừ tội nghiệp. Về sau, nhiều
đời nhiều kiếp tu hành thành Phật, trở thành
A Di Đà Phật, và cũng tạo nên Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Mặt khác, phải biết: Danh xưng của Phật là do đă trải
qua bao nhiêu thời gian tu tŕ mà có, do tụ tập bao nhiêu
công đức! Chúng ta niệm danh xưng của đức
Phật, tổ sư bảo “danh dĩ triệu đức” (dùng
danh hiệu để cảm vời đức). Ví như
chúng ta gọi một người nào đó, hễ gọi
tên họ của người đó, người đó bèn lập
tức đáp ứng. Chúng ta niệm danh xưng của A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật liền cảm ứng.
Danh có thể chiêu vời đức. Một niệm của
chúng ta có thể cảm ứng Phật, có tác dụng này. Do
mối quan hệ này, niệm một tiếng Phật hiệu,
có thể tiêu không ít tội nghiệp. Khi người ấy
lâm chung, có thể nói là trong lúc then chốt của chuyện
sanh tử, có thể nói là [người lâm chung ấy] thật
sự niệm Phật. Do thật sự niệm một câu
Phật hiệu, có thể tiêu trừ tội nghiệp sanh
tử nhiều ngần ấy. V́ thế, chúng ta có thể biết:
Nay chúng ta chỉ cần chí thành khẩn thiết niệm một
câu Phật hiệu, sẽ có thể tiêu trừ bao nhiêu tội
nghiệp, chúng ta có biết hay không? Tuy chúng ta không biết, nhưng
ở đây, kinh văn đă nói minh bạch, lẽ nào chẳng
biết? Chúng ta chí thành, khẩn thiết niệm một câu
Phật hiệu, bao nhiêu tội nghiệp sanh tử từ quá
khứ vô thỉ cho tới nay đều bị tiêu trừ
trong từng câu niệm Phật. Do vậy, bất luận
là như thế nào, cứ tận hết sức niệm
như thế, tận hết sức tạo nhiều thiện
nghiệp, niệm Phật cho nhiều th́ sự văng sanh
trong mai sau có thể nhất định nắm chắc!
Đoạn
dưới đây nói về sanh duyên khi văng sanh:
(Kinh)
Nhĩ thời bỉ Phật, tức khiển Hóa Phật,
Hóa Quán Thế Âm, Hóa Đại Thế Chí, chí hành giả tiền.
Tán ngôn: “Thiện nam tử, dĩ nhữ xưng Phật
danh cố, chư tội tiêu diệt, ngă lai nghênh nhữ”.
(經)爾時彼佛,即遣化佛,化觀世音,化大勢至,至行者前。讚言,善男子,以汝稱佛名故,諸罪消滅,我來迎汝。
(Kinh:
Lúc ấy, đức Phật đó liền sai Hóa Phật,
Hóa Quán Thế Âm, Hóa Đại Thế Chí tới trước
hành giả, khen rằng: “Này thiện nam tử! Do ông
xưng danh hiệu Phật, các tội tiêu diệt, ta đến
đón ông”).
Đoạn
này nói về cái duyên văng sanh, cảm ứng Phật đến
đón tiếp kẻ ấy. “Nhĩ
thời bỉ Phật”, “nhĩ
thời” (爾時) là khi ấy,
“bỉ Phật” (彼佛) là A Di
Đà Phật. Kẻ tạo tội nghiệp sắp mạng
chung, do nghe danh xưng của kinh, lại c̣n niệm Phật,
nên ngay trong lúc đó, A Di Đà Phật sẽ biết. Bản
thân A Di Đà Phật chẳng đến, Ngài “tức khiển hóa Phật”, “khiển” (遣) là sai phái, ngay lập
tức liền sai Ứng Hóa Phật (tức là Hóa Thân Phật,
thân do A Di Đà Phật biến hóa ra). Ngoài ra, c̣n có “Hóa Quán Thế Âm” Bồ Tát, “Hóa Đại Thế Chí” Bồ
Tát, Tây Phương Tam Thánh đều là Hóa Thân hiện đến,
“chí hành giả tiền”. Tuy [người
ấy] b́nh thường chẳng hề niệm Phật, mà
cũng chẳng nghe danh hiệu của kinh, nhưng trong khi
ấy, lại nghe danh xưng của kinh và lại đang niệm
Phật. Tuy thời gian niệm rất ngắn, người
ấy niệm một câu Phật hiệu th́ đă khá lắm
rồi, được coi là “hành
giả”. Ba vị Hóa Thân của Tam Thánh tới trước
mặt hành giả, “tán ngôn” (讚言) nghĩa
là khen ngợi rằng: “Thiện
nam tử”. Trước kia, kẻ ấy là ác nhân, là ngu
nhân, v́ đă tiêu trừ tội nghiệp cực ác, tức là
tội sanh tử, cho nên gọi kẻ ấy là thiện nam
tử, “dĩ nhữ xưng Phật
danh cố”, “dĩ” (以) là v́, [“dĩ nhữ xưng Phật danh
cố” có nghĩa là] v́ duyên cớ ông niệm danh xưng
của đức Phật, “chư
tội tiêu diệt”, các đại tội nghiệp
đều tiêu diệt, cho nên “ngă
lai nghênh nhữ”: Ta đặc biệt đến nghênh
tiếp ông.
Kinh
văn đă nói rất rơ ràng, trong các phần trước,
từ Trung Phẩm trở lên, đức Phật đều
đích thân đến nghênh tiếp, Hạ Phẩm là Hóa
Thân Phật đến nghênh tiếp, nhưng nhất định
là đều có thể văng sanh. Trong những kẻ niệm
Phật chúng ta, có người cứ nghĩ “ngoài mười vạn ức cơi
Phật” xa xôi dường ấy, muốn văng sanh th́
đến đó bằng cách nào? Nh́n vào chỗ này, chúng ta chẳng
c̣n có nỗi niềm nghi ngại ấy nữa, chớ nên hoài
nghi, đến khi thọ mạng chấm dứt, chúng ta chịu
niệm Phật, chỉ cần liên tục tŕ danh, trong tâm bất
loạn, nhất định sẽ có thể cảm ứng
Phật đến nghênh tiếp. C̣n như kinh nói “các tội tiêu diệt”, điều
ấy chẳng sai, tiêu diệt bao nhiêu tội? Tội trong
ngàn kiếp, năm mươi ức kiếp, nhưng chúng
ta sanh tử [từ vô thỉ] tới nay, há chỉ là năm
mươi ức kiếp! Ngoài năm mươi ức kiếp
ra, c̣n luân hồi trong lục đạo đă bao lâu? Ác nghiệp
đă tạo trong mỗi đời là bao nhiêu? Do vậy,
trong quá khứ, đức Phật thường bảo: “Nếu những tội nghiệp
do chúng sanh đă tạo mà có h́nh tướng, [toàn thể] hư
không cũng chẳng thể dung nạp”. Tội là vô h́nh
vô tướng, nếu nó có h́nh tướng, toàn thể thái
hư đều chẳng thể dung nạp được!
Từ tỷ dụ ấy, có thể thấy chúng ta từ
vô thỉ kiếp tới nay: “Vô
thỉ kiếp” là chẳng thể nói rơ, đến tột
cùng là có bao nhiêu kiếp, chúng ta chẳng biết rơ. Từ nhiều
kiếp tới nay, chúng ta đă tạo bao nhiêu tội nghiệp?
Ở đây, chúng ta nghiên cứu bèn biết: Dẫu công
đức niệm Phật có sức mạnh to lớn, có
thể tiêu trừ tội nghiệp, nhưng tội nghiệp
c̣n chưa tiêu vẫn nhiều hơn. Dẫu tội nghiệp
c̣n nhiều, vẫn chẳng sao cả, chỉ cần cảm
ứng Phật đến nghênh tiếp. Hễ được
nghênh tiếp, chúng ta bèn đới nghiệp văng sanh. Tội
nghiệp c̣n chưa tiêu trừ có thể mang theo, mang đến
thế giới Cực Lạc, chúng sẽ tự nhiên tiêu mất.
Dưới
đây là đoạn thứ ba:
(Kinh)
Tác thị ngữ dĩ, hành giả tức kiến Hóa Phật
quang minh, biến măn kỳ thất. Kiến dĩ hoan hỷ,
tức tiện mạng chung. Thừa bảo liên hoa, tùy Hóa
Phật hậu, sanh bảo tŕ trung.
(經)作是語已,行者即見化佛光明,遍滿其室。見已歡喜,即便命終。乘寶蓮華,隨化佛後,生寶池中。
(Kinh: Nói lời
ấy xong, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật
trọn khắp cả pḥng. Thấy rồi hoan hỷ, liền
mạng chung, ngồi hoa sen báu, theo sau Hóa Phật sanh trong ao
báu).
Đoạn
này nói về t́nh huống văng sanh. “Tác thị ngữ dĩ” (Nói lời ấy xong), Hóa
Phật, Hóa Bồ Tát nói xong lời ấy, “hành giả tức kiến Hóa Phật quang minh”, rất
nhanh chóng, hành giả lập tức thấy quang minh của
Hóa Phật, tức là quang minh của Hóa Thân Phật lập
tức tỏa ra. [Hóa Phật] vốn có quang minh, nhưng hành
giả chẳng thấy, khi ấy bèn thấy. Thấy quang
minh của Hóa Phật “biến
măn kỳ thất”, tức là toàn thể căn pḥng đều
sáng rực. Trong quá khứ, Văng Sanh Truyện có chép: Khi nhiều
người đến trợ niệm, không chỉ riêng
người văng sanh trông thấy, mà người trợ niệm
cũng thấy quang minh. Kinh đă dạy rành rẽ, hành giả
thấy quang minh đầy pḥng. “Kiến
dĩ hoan hỷ”: Sau khi trông thấy, bèn phát tâm hoan hỷ,
“tức tiện mạng chung”,
ngay lập tức, thọ mạng bèn chấm dứt. Sau
khi mạng chung, “thừa bảo
liên hoa” (ngự trên hoa sen báu): Người khác thấy
thân thể của người ấy (người mạng
chung) bất động, coi như đă qua đời,
nhưng thần thức của người ấy (người
ta thường gọi là “linh hồn”)
ngồi lên hoa sen báu do Hóa Phật đem tới. Sau khi
đă ngự lên hoa sen, “tùy Hóa
Phật hậu”, [nghĩa
là] theo sau Hóa Phật, “sanh bảo
tŕ trung” (sanh trong ao báu), sanh về ao sen bảy báu trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Văng
sanh mau chóng như thế đó! Sau khi văng sanh th́ như thế
nào?
(Kinh)
Kinh thất thất nhật, liên hoa năi phu. Đương
hoa phu thời, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, cập
Đại Thế Chí Bồ Tát, phóng đại quang minh, trụ
kỳ nhân tiền, vị thuyết thậm thâm thập nhị
bộ kinh. Văn dĩ tín giải, phát vô thượng đạo
tâm. Kinh thập tiểu kiếp, cụ Bách Pháp Minh Môn, đắc
nhập Sơ Địa.
(經)經七七日,蓮華乃敷。當華敷時,大悲觀世音菩薩,及大勢至菩薩,放大光明,住其人前,為說甚深十二部經。聞已信解,發無上道心。經十小劫,具百法明門,得入初地。
(Kinh: Trải
qua bốn mươi chín ngày, hoa sen mới nở. Khi hoa nở,
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế
Chí Bồ Tát phóng đại quang minh, ở trước
người ấy, v́ người ấy nói mười hai
bộ kinh rất sâu. Nghe xong, tin hiểu, phát vô thượng
đạo tâm, qua mười tiểu kiếp, đầy
đủ Bách Pháp Minh Môn, được nhập Sơ
Địa).
Đoạn
này nói đến lợi ích sẽ đạt được
sau khi văng sanh. Đoạn trước nói [hành giả] ngự
trên hoa sen báu. Vừa ngự trên hoa sen báu, hoa sen bèn khép lại.
V́ sao biết là hoa sen khép lại? Đoạn kinh văn này nói
“liên hoa năi phu” (hoa sen bèn nở),
“phu” (敷) là nở. Nếu trước đó chẳng
khép lại, làm sao nở ra cho được? Đối
chiếu kinh văn trước và sau, sẽ biết trong phần
trước, hoa sen đă khép lại. Sau khi đă văng sanh
trong ao bảy báu, “kinh thất
thất nhật”, tức là trải qua bảy lần bảy
bốn mươi chín ngày. Trong bốn mươi chín ngày
đó, người ấy ở trong hoa sen. Hoa sen bao phủ
[người ấy], sau bốn mươi chín ngày, “liên hoa năi phu”, [tức là] hoa
sen nở ra. “Đương
hoa phu thời”, ngay sau khi hoa sen vừa nở, “Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
Tát”, Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc đại từ
đại bi, bi tâm hết sức sâu nặng, “cập Đại Thế Chí Bồ
Tát”, Đại Thế Chí Bồ Tát biểu thị trí huệ.
Hai vị Bồ Tát ấy đồng thời “phóng đại quang minh”, chẳng
phải là quang minh b́nh phàm. Một vầng đại quang
minh phóng ra, “trụ kỳ nhân
tiền”, “trụ” (住) là dừng lại. Đại
quang minh từ hai vị Bồ Tát phát ra, dừng ở
trước hoa sen của người văng sanh, “vị thuyết thậm thâm thập
nhị bộ kinh”, một mặt phóng đại quang
minh, một mặt thuyết pháp cho người văng sanh. Nói
những pháp ǵ? Nói mười hai bộ kinh rất sâu. “Thậm thâm” (甚深): Chẳng
phải là nói nông cạn, mà là nói sâu xa, nói trọn hết những
nội dung rất thâm áo và ư nghĩa tinh vi nhất trong kinh.
Người văng sanh ấy vừa nghe hai vị đại
Bồ Tát giảng kinh rất thâm áo, “văn dĩ tín giải” (nghe xong tin hiểu), sau
khi nghe xong, bèn phát tín tâm, và cũng liễu giải ư
nghĩa của kinh. Sau khi đă tín giải, bèn “phát vô thượng đạo
tâm”, phát tâm Đại Thừa, nhất định mong
thành Phật. Sau khi đă phát vô thượng đạo tâm,
sẽ vâng theo đó để tu tŕ, tiếp tục nghe
pháp, “kinh thập tiểu kiếp”,
trải qua thời gian mười tiểu kiếp, “cụ Bách Pháp Minh Môn”. Trong
tông Duy Thức, có một bộ luận là Bách Pháp Minh Môn Luận,
giảng về danh xưng và nội dung của một trăm
pháp. V́ sao gọi là Minh Môn? Đối với một trăm
pháp ấy, nếu học thông suốt bất cứ một
pháp nào, sẽ đều từ đó có thể thông hiểu,
giác ngộ, có thể minh tâm kiến tánh. “Minh môn” (明門) có
nghĩa là mỗi pháp đều là một cái cửa to lớn
cho học nhân tiến nhập thành Phật. “Cụ” (具) là đều
hiểu rơ hoàn toàn. Trải qua thời gian mười tiểu
kiếp, hiểu rơ toàn bộ Bách Pháp Minh Môn, sau đấy “đắc nhập Sơ Địa”,
tiến lên Sơ Địa. Trước khi “đăng địa” (chứng
vào địa vị Sơ Địa), có ba mươi
địa vị của bậc hiền nhân, gọi là Tam
Hiền Vị. Tu viên măn ba mươi địa vị hiền
nhân th́ mới có thể chứng lên Sơ Địa.
Người
b́nh phàm tu Tam Hiền vị phải trải qua một đại
A-tăng-kỳ kiếp mới đạt lên Sơ Địa.
Hạ Phẩm Thượng Sanh chỉ cần sau khi văng
sanh, trải qua mười tiểu kiếp, sẽ hiểu
Bách Pháp Minh Môn, sẽ nhập Sơ Địa. Đối
chiếu với các phần trước, [sẽ thấy]:
Người Trung Phẩm Hạ Sanh sau bảy ngày hoa sen nở,
để thành A La Hán phải trải qua một tiểu kiếp.
Hạ Phẩm Thượng Sanh là bảy lần bảy bốn
mươi chín ngày hoa sen mới nở, trải qua mười
tiểu kiếp, dự vào Sơ Địa, tốn thời
gian lâu hơn phẩm trước. Tuy thấy là lâu,
nhưng trải qua mười tiểu kiếp bèn lên Sơ
Địa vẫn là hết sức nhanh chóng [so với tu tập
trong các thế giới khác].
(Kinh)
Thị danh Hạ Phẩm Thượng Sanh giả.
(經)是名下品上生者。
(Kinh: Đó gọi
là Hạ Phẩm Thượng Sanh)
Đoạn
kinh văn này nhằm kết luận, hôm nay, tôi giảng
đến đây bèn ngưng.
Tập 48
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi tám,
hàng cuối cùng. Tôi đọc trước một đoạn
ngắn:
(Kinh) Phật
cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Hạ Phẩm Trung Sanh giả,
hoặc hữu chúng sanh, hủy phạm Ngũ Giới, Bát Giới,
cập Cụ Túc Giới. như thử ngu nhân, thâu Tăng-kỳ
vật, đạo hiện tiền Tăng vật, bất
tịnh thuyết pháp, vô hữu tàm quư, dĩ chư ác nghiệp
nhi tự trang nghiêm. Như thử tội nhân, dĩ ác nghiệp
cố, ưng đọa địa ngục. Mạng dục
chung thời, địa ngục chúng hỏa, nhất thời
câu chí. Ngộ thiện tri thức, dĩ đại từ
bi, tức vị tán thuyết A Di Đà Phật thập lực
oai đức, quảng tán bỉ Phật quang minh thần lực.
Diệc tán Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải
Thoát Tri Kiến. Thử nhân văn dĩ, trừ bát thập
ức kiếp sanh tử chi tội. Địa ngục mănh
hỏa, hóa vi thanh lương phong”.
(經)佛告阿難,及韋提希:下品中生者,或有眾生,毀犯五戒、八戒,及具足戒。如此愚人,偷僧祇物,盜現前僧物,不淨說法,無有慚愧,以諸惡業而自莊嚴。如此罪人,以惡業故,應墮地獄。命欲終時,地獄眾火,一時俱至。遇善知識,以大慈悲,即為讚說阿彌陀佛十力威德,廣讚彼佛光明神力。亦讚戒、定、慧、解脫、解脫知見。此人聞已,除八十億劫生死之罪。地獄猛火,化為清涼風。
(Kinh: Đức
Phật bảo ngài A Nan và bà Vi Đề Hy: “Hạ Phẩm
Trung Sanh là nếu có chúng sanh hủy phạm năm giới,
tám giới, và Cụ Túc Giới. Kẻ ngu như thế, trộm
vật của Tăng-kỳ, ăn trộm vật của
hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, chẳng
hề hổ thẹn. Dùng các ác nghiệp để tự
trang nghiêm. Tội nhân như thế, do v́ ác nghiệp,
đáng đọa địa ngục. Khi mạng sắp hết,
các thứ lửa trong địa ngục cùng lúc ùa tới.
Gặp thiện tri thức, v́ ḷng đại từ bi, liền
v́ người ấy khen ngợi, giảng nói oai đức
nơi mười lực của A Di Đà Phật, ca ngợi
rộng răi quang minh và thần lực của đức Phật
ấy. Cũng ca ngợi Giới, Định, Huệ, Giải
Thoát, Giải Thoát Tri Kiến. Người ấy nghe xong, trừ
tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Lửa
dữ địa ngục hóa thành gió mát lành”).
Đối với ba
bậc chín phẩm văng sanh, nay nói đến Hạ Bối
Trung Phẩm. Nói xong phẩm này, hăy c̣n một phẩm cuối
cùng nữa, [nói xong phẩm ấy] th́ toàn bộ phần chánh
văn của Thập Lục Quán Kinh đă được
nói xong. Hạ Phẩm Trung Sanh và Hạ Phẩm Thượng
Sanh giống nhau, cũng là chúng sanh tạo ác nghiệp. Nói
theo Lư, chúng sanh tạo ác nghiệp chẳng thể văng sanh,
nhưng trong đời quá khứ, người ấy có thiện
căn. Đối với bất cứ chúng sanh nào, quư vị
đừng thấy người ấy suốt một
đời này chẳng làm chuyện ǵ tốt đẹp, nhưng
trong đời quá khứ, cũng có lẽ người ấy
đă làm chẳng ít chuyện tốt đẹp! Đó là thiện
căn. V́ có thiện căn, đến khi lâm chung, sẽ gặp
thiện tri thức, giống như Hạ Phẩm Thượng
Sanh đă nói trong lần trước. Trong phẩm vị
[được thảo luận] hôm nay, người tạo
ác nghiệp có hai loại: Một loại là người tại
gia học Phật, loại kia là người xuất gia học
Phật.
“Phật cáo A Nan, cập Vi Đề
Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân
Vi Đề Hy, “Hạ Phẩm
Trung Sanh giả”: Trước hết nêu ra danh xưng của
phẩm vị văng sanh. “Hoặc
hữu chúng sanh”, đức Phật chẳng chỉ rơ
đích xác là một người nào đó, [mà nói] hoặc là
có một hạng chúng sanh như vậy. “Hủy phạm Ngũ Giới, Bát Giới”, “hủy” (毀) là phá hủy giới,
“phạm” (犯) là phạm giới,
hủy phạm những giới nào? Ngũ Giới và Bát Giới;
người tại gia học Phật thường thọ
Ngũ Giới. Bát Giới là Bát Quan Trai Giới. Đấy
là hai loại giới mà tại gia cư sĩ dễ hủy
phạm. Ở đây, nói tới hai hạng người hủy
phạm các giới ấy, “cập
Cụ Túc Giới”, chính là nói tới người xuất
gia. Người xuất gia đă thọ Cụ Túc Giới
của tỳ-kheo hoặc tỳ-kheo-ni mà lại hủy phạm.
Câu “hoặc hữu chúng sanh”
chỉ hai loại chúng sanh ấy. Trước hết, [kinh
văn] chỉ ra hạng chúng sanh nào thuộc loại Hạ
Phẩm Trung Sanh.
Người
hủy giới đương nhiên chẳng có trí huệ.
V́ thế nói: “Như thử ngu
nhân”, loại người ngu si ấy chẳng hiểu
nhân quả. Kẻ ngu si phạm giới tạo các tội nghiệp,
có những tội nghiệp nào? Có rất nhiều, có khi
đến mấy thứ. Kế đó, nêu ra mấy loại
khá nghiêm trọng:
Một
là phạm vào tội trộm cắp, “thâu Tăng-kỳ vật”, Tăng là tăng chúng,
Tăng-kỳ là chúng xuất gia ḥa hợp trong một đạo
tràng (các vị thường trụ). Trộm cắp vật
phẩm của tăng chúng thường trụ trong đạo
tràng, đương nhiên là tội lỗi rất lớn.
Lại
c̣n “đạo hiện tiền
Tăng vật” (trộm vật của hiện tiền
Tăng). Điều này có ǵ khác với “Tăng-kỳ vật”? “Tăng-kỳ
vật” là [những vật dụng] sử dụng chung
cho toàn thể đạo tràng, tức những tài vật mà
chúng thường trụ cùng sử dụng chung. Chẳng hạn
như pḥng xá để sử dụng chung trong đạo
tràng, c̣n có những tài sản khác như các thiết bị
lắp đặt trong chùa miếu v.v… Chúng đều là những
vật dụng để mười phương tăng
chúng cùng sử dụng trong đạo tràng. Trộm cắp
những thứ ấy, đương nhiên là phạm tội
to lớn. “Đạo hiện
tiền Tăng vật” là đối với một vị
tăng chúng xuất gia nào đó, trộm cắp tài vật
thuộc quyền tư hữu cá nhân của vị ấy. Bất
luận là trộm cắp vật phẩm sử dụng
chung của chúng thường trụ, hay vật phẩm thuộc
quyền tư hữu cá nhân, đều phạm vào tội
trộm cắp.
C̣n có những
kẻ học Phật có thể thuyết pháp, thuyết pháp
th́ phải nên thuyết pháp rất thanh tịnh. Thanh tịnh
thuyết pháp là ǵ? Dựa theo kinh văn (chiếu theo ư
nghĩa của Phật) để nói, khiến cho người
ta đạt được những điều tốt
đẹp. “Bất tịnh
thuyết pháp” chẳng phải là như vậy, mong mỏi
nói ra pháp ấy, bản thân sẽ được tiếng
tăm tốt đẹp và lợi ích. Nói cách khác, v́ cầu
danh cầu lợi mà nói pháp, sẽ gọi là “bất tịnh thuyết pháp”,
có toan tính mong mỏi khác. Bất tịnh thuyết pháp giống
như báng pháp, hủy hoại Phật pháp, cho nên cũng phạm
tội. Ngoài những chuyện ấy ra, c̣n có những chuyện
khác nữa, chẳng cần phải nói cặn kẽ.
Hễ là
trộm cắp, bất tịnh thuyết pháp, phạm đủ
mọi tội nghiệp khác “vô
hữu tàm quư”, bản
thân kẻ ấy chẳng có tâm hổ thẹn. Nói “chẳng có tâm hổ thẹn”,
th́ “vô tàm” là làm chuyện xấu,
tuy chẳng có ai thấy, chính kẻ đó tạo tội,
trong tâm sẽ cảm thấy có đôi chút áy náy. Thông thường,
người làm chuyện bất hảo, trong tâm luôn cảm
thấy áy náy, nhưng kẻ ấy (kẻ ác phạm giới
đang nói ở đây) chẳng có tâm lư ấy, cho nên gọi
là “vô tàm”. “Vô quư” là đă làm
ra tội nghiệp, người khác đă biết, tạo
tội ngay trước mặt mọi người, bản
thân kẻ ấy cũng chẳng cảm thấy áy náy, thẹn
thùng chi hết. Đó là “vô hữu
tàm quư”.
“Dĩ chư ác nghiệp nhi tự trang
nghiêm”,
kẻ ngu si như vậy tạo những tội nghiệp
ấy, vẫn chẳng cảm thấy hổ thẹn, “dĩ” (以) là dùng, giống
như cầm lấy những ác nghiệp (lấy rất
nhiều ác nghiệp, những ác nghiệp ấy do chính ḿnh
tạo thành), dùng các ác nghiệp do chính bản thân kẻ
đó gây tạo để tự trang nghiêm. “Trang nghiêm” (莊嚴) nghĩa
là trang sức. Một người thật sự tu đạo
th́ phải trang nghiêm, trang nghiêm như thế nào? Phước
đức trang nghiêm, làm đủ mọi công đức tốt
đẹp và chuyện từ thiện, dùng công đức
để trang nghiêm; nhưng kẻ ngu ở đây lại
trái ngược, kẻ ấy tạo đủ mọi tội
ác để trang nghiêm. Người khác hễ nói đến
kẻ ấy, chỉ biết kẻ ấy là một gă thân
đầy tội nghiệp. Đó là sự trang nghiêm của
kẻ ấy.
“Như thử tội nhân”, tội
nhân như vậy, “dĩ ác nghiệp
cố”, v́ kẻ ấy có nhiều ác nghiệp ngần ấy,
“ưng đọa địa
ngục”, đáng phải đọa nhập địa
ngục. Đây là nói về cái nhân gây tạo ác nghiệp; hễ
có nhân, tất nhiên là có quả. Trong phần trước
đă nói người ấy hủy giới, tức là hủy
phạm Ngũ Giới, Bát Giới và Cụ Túc Giới, [phạm
những tội] nghiêm trọng như trộm cắp, bất
tịnh thuyết pháp, nhất là bất tịnh thuyết
pháp hết sức ác! Chuyện ấy giống như phá hoại
Phật pháp. Do tạo các thứ tội nghiệp ấy,
sau khi thọ mạng chấm dứt, đáng phải đọa
lạc trong địa ngục. Chiếu theo ác nghiệp của
hạng người ấy, đáng phải nên đọa
địa ngục!
“Mạng dục chung thời”:
Khi thọ mạng của kẻ ấy sắp chấm dứt.
“Địa ngục chúng hỏa,
nhất thời câu chí” (Các thứ lửa trong địa
ngục cùng lúc ùa tới): Địa ngục là một trong
tam đồ. Đọa nhập bất cứ địa
ngục nào, theo thường lệ, đều có một vầng
lửa đến thiêu đốt. Chữ “chúng hỏa” biểu thị lửa rất mănh liệt.
Các thứ lửa cùng lúc ùa tới, đồng thời hiện
ra, nguy hiểm lắm thay! Khi ấy, tùy thuộc thiện
căn trong quá khứ của người ấy, nếu thiện
căn phát hiện, đang trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, “ngộ thiện tri thức”,
gặp thiện tri thức. Thiện tri thức “dĩ đại từ bi”,
phát tâm đại từ bi, “tức
vị tán thuyết A Di Đà Phật thập lực oai
đức, quảng tán bỉ Phật quang minh thần lực”:
“Tán” (讚) là
tán thán, “thuyết” (說) là nói rơ. Ngay lập
tức v́ kẻ sắp đọa địa ngục nói rơ
A Di Đà Phật (giáo chủ của Tây Phương Cực
Lạc thế giới) có mười thứ oai đức
mạnh mẽ (xin xem biểu đồ bài giảng).
IV.2.2.17.1. Thập Lực của
Phật
“Thập lực của Phật”:
Bậc đă thành Phật có mười thứ đại
oai lực.
1) Thứ
nhất, tri giác xứ phi xứ: Đừng hiểu “xứ” (處) là nơi chốn, mà
phải hiểu là “đạo
lư”. Sức mạnh thứ nhất của đức Phật
là biết trong vạn sự vạn vật, vật nào có
đạo lư, [điều đó được gọi là] “giác xứ” (覺處), sự việc nào chẳng có
đạo lư, [điều đó gọi là] “phi xứ” (非處). “Giác xứ” là chuyện có
đạo lư, chuyện chẳng có đạo lư là “phi xứ”, đức Phật
đều hết sức liễu giải. Kẻ b́nh phàm như
chúng ta thoạt nh́n dường như cũng biết những
chuyện nào có đạo lư, những chuyện nào chẳng
có đạo lư; nói thật ra, chúng ta hoàn toàn không biết! Nếu
thật sự biết, trong toàn thể thế gian từ
xưa tới nay, sẽ chẳng có tranh chấp đúng sai
rối ren giữa con người với nhau. Từ xưa
tới nay, loài người tranh đoạt lẫn nhau, [là
v́ cứ ngỡ] những điều tranh đoạt đều
có đạo lư. Nếu thật sự hiểu đạo
lư, có ai mà chẳng chung sống với nhau được?
Nói chung, chúng sanh phàm phu chẳng có ai thật sự hiểu
đạo lư, chẳng phân định rơ ràng! C̣n đức
Phật th́ hoàn toàn hiểu biết. Thập Lực của
đức Phật hoàn toàn nói theo phương diện trí huệ.
Nói thông thường, mười lực của đức
Phật chính là mười thứ trí huệ.
2) Thứ
hai, tri tam thế nghiệp báo: “Tam
thế nghiệp báo” chỉ hết thảy chúng sanh, bao
gồm lục đạo (thiên, nhân, súc sanh, địa ngục,
ngạ quỷ v.v…). Đối với nhân quả ba đời
của tất cả các loại chúng sanh, trong quá khứ, hiện
tại, và vị lai, đă tạo những nghiệp ǵ?
Tương lai sẽ phải hứng chịu quả báo
như thế nào? Đức Phật đều thấy rơ
ràng, minh bạch; đó là sức đại trí của Phật.
Có ai trong chúng ta hiểu được? Không chỉ là chính
ḿnh chẳng hiểu, trong kinh, đức Phật đă dạy
rơ ràng, vậy mà vẫn chẳng chịu tin tưởng. Chẳng
chịu tin tưởng là do trí huệ của chính ḿnh
chưa đạt đến. Tuy học Phật nhưng chẳng
thể hiểu rơ nhân quả ba đời, chẳng tin nhân
quả ba đời, như thế th́ sẽ chẳng có
cách nào học Phật. Học Phật, quan trọng nhất
là phải tin tưởng nhân quả ba đời th́ mới
chẳng phạm giới, mới chẳng tạo ác nghiệp.
Sau đấy, mới có thể từng bước học
Phật rất tốt đẹp. Từ xưa tới nay,
người học Phật rất nhiều, có phải là ai
nấy đều thành tựu hay không? Chẳng thể nói
như vậy được! Vấn đề là ai chịu
tin tưởng nhân quả, ai có thể tin sâu nhân quả, người
ấy sẽ có thể thành tựu. Chẳng thể tin sâu nhân
quả, sẽ chẳng thể thành tựu. Then chốt ở
ngay tại chỗ này! Đức Phật là bậc đă
thành tựu, đối với hết thảy nhân quả
ba đời của chúng sanh, Ngài đều hiểu rành rẽ,
rơ ràng.
3)
Thứ ba, tri chư Thiền giải thoát tam-muội: “Thiền” là Thiền Định.
Người tu hành tu loại công phu Thiền Định
nào? Đạt được loại Thiền Định
nào? Đức Phật đều biết. “Giải thoát” là tám món giải thoát (trong phần
trước đă có nói rồi); người khác không biết,
đức Phật biết. Tam-muội là đại định,
nhập công phu Thiền Định. Ví như chúng ta niệm
Phật, niệm Phật đến mức đắc nhất
tâm bất loạn, gọi là Niệm Phật tam-muội. Rất
nhiều người niệm Phật đă nhiều
năm, chính ḿnh có đắc nhất tâm bất loạn hay
không? Chính ḿnh chẳng biết có đắc nhất tâm bất
loạn hay không? Đức Phật biết. Đức Phật
đối với các Thiền giải thoát tam-muội có thể
biết rơ ràng, rành mạch. Trí lực ấy chính là loại
lực thứ ba của đức Phật.
4)
Thứ tư, tri chư căn thắng liệt: “Căn” (根) là căn tánh. V́ sao
nói là “biết căn tánh”? Biết
người ấy có thiện căn hay không? Là thiện
căn như thế nào? Nếu chẳng có thiện căn,
những kẻ b́nh phàm chúng ta thường nói là “liệt căn tánh” (劣根性, căn
tánh kém cỏi), kẻ đó rất bất hảo, sanh ra
đă thích tạo ác nghiệp. Đó là “liệt căn tánh”. Căn tánh của mỗi
người là thắng hay liệt? Là tốt hay chẳng tốt?
Đức Phật đều biết. Do căn tánh có thắng
và liệt, trong tương lai, tŕnh độ học Phật
của người ấy sẽ là chứng đại quả
hay chứng tiểu quả? Đức Phật thảy
đều biết.
5)
Thứ năm, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng
tri giải (biết các thứ tri giải của hết thảy
chúng sanh): Nói đến “tri giải”
(知解) th́ bất
cứ chúng sanh nào đối với mọi chuyện trong
thế gian biết được bao nhiêu? Có thể liễu
giải bao nhiêu? Mỗi người có năng lực khác biệt.
Trong bất cứ xă hội nào, năng lực lư giải của
mỗi người đối đạo lư của các sự
vật chẳng giống nhau. Năng lực lư giải của
mỗi cá nhân đến mức độ nào, đức Phật
đều biết. “Hết thảy
chúng sanh” không chỉ là chúng sanh thuộc nhân loại, mà
các chúng sanh thuộc súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ,
thiên đạo v.v… đều được bao gồm
trong ấy. Tâm lư và năng lực lư giải của họ
đến mức độ nào, đức Phật thảy
đều biết.
6)
Thứ sáu, tri chủng chủng giới: “Giới” (界) là cảnh
giới. Kẻ ấy tu đạo đến tŕnh độ
nào? Phàm phu có cảnh giới của phàm phu, người học
Tiểu Thừa chứng đắc quả vị ǵ?
Người học Đại Thừa chứng đắc
quả vị ǵ? Ai có cảnh giới nấy! Thông thường,
kẻ chẳng phải là người học Phật,
đọc sách vở thế gian, đối với
phương diện làm người cũng có tu dưỡng,
kẻ ấy có cảnh giới như thế nào, bọn
chúng sanh phàm phu chúng ta rất khó biết được,
nhưng đức Phật hoàn toàn biết.
7)
Thứ bảy, tri nhất thiết chí sở đạo: “Chí” (至) là đạt tới. “Chí sở đạo” (至所道): Tu đạo đă đạt
tới mức độ nào? Dùng chuyện chứng quả
để nói, người ấy đă chứng đắc
quả vị ǵ? Ví như nói đến loài người
chúng ta, một vị chánh nhân quân tử b́nh phàm, Nho gia nói “thủ trụ nhân luân” (ǵn giữ
nhân luân, Ngũ Luân), có thể nương theo Ngũ Luân
để hành tŕ, suốt một đời người ấy
là con người đúng nghĩa, có thể tuân giữ
thường đạo Ngũ Luân. Trong đời sau,
người ấy vẫn có thể làm người, sanh
trong loài người. Nếu tu Thập Thiện Nghiệp,
sau khi thọ mạng kết thúc, người ấy sẽ
thăng thiên. Đức Phật vừa nh́n bèn hiểu rơ
ngay. Bọn chúng sanh phàm phu chúng ta chẳng biết! Dẫu
học Phật nhiều năm, hiểu đôi chút Phật
pháp, đừng tưởng “hễ là người niệm
Phật trong tương lai đều có thể văng sanh. Phàm
là người học các pháp môn khác đều có thể chứng
quả, chúng ta vẫn chẳng có sức trí huệ ấy”.
Chẳng thể nói như thế, trong ấy c̣n có đủ
mọi nhân tố khác nhau tồn tại. Cùng học một
pháp môn như nhau, kẻ học không tốt đẹp
cũng rất nhiều, ngay cả bản
thân chúng ta c̣n chẳng biết, huống hồ biết
đến người khác! Đức Phật biết, biết
hết thảy “chí sở
đạo”. Biết rành rẽ, rơ ràng!
8)
Thứ tám, tri Thiên Nhăn vô ngại: Thiên Nhăn là Thiên Nhăn Thông.
Thiên Nhăn của đức Phật chẳng giống Thiên
Nhăn của kẻ khác. Thiên Nhăn của đức Phật có
trí lực vô ngại, có thể thấy hết thảy các t́nh
huống sanh tử của chúng sanh, cũng như thiện
nghiệp và ác nghiệp, có chướng ngại, không
chướng ngại v.v… Đức Phật đều thấy
rơ ràng, rành rẽ. Kẻ b́nh phàm như chúng ta chẳng có năng
lực ấy.
9)
Thứ chín, tri túc mạng vô ngại: Đức Phật biết
túc mạng của hết thảy chúng sanh. Túc mạng (宿命) là đời
quá khứ. Đời quá khứ c̣n có quá khứ của
đời quá khứ. Phàm nhân chúng ta chỉ biết đời
này, nhưng trong đời này, cũng chỉ nhớ chuyện
trước mắt. Năm tháng xa xôi, có những chuyện
cũng quên bẵng, huống hồ đời trước?
Càng không biết! Đó là Bồ Tát hành Bồ Tát đạo,
c̣n bị mê khi cách ấm, chuyện kiếp trước
cũng chẳng biết. Nhưng đức Phật biết,
do Túc Mạng Thông mà đức Phật biết hết thảy
mọi chuyện trong từng đời trước: Đời
nào ở trong đường nào, làm chuyện ǵ, đức
Phật hoàn toàn biết.
10)
Thứ mười, tri vĩnh đoạn tập khí: Bọn
chúng sanh chúng ta đều có Hoặc. Khởi Hoặc tạo
nghiệp, mê hoặc, điên đảo là “Hoặc” (惑). Nếu tu hành, phải
đoạn Hoặc. Sau khi đă đoạn Kiến Hoặc
và Tư Hoặc, hăy c̣n có tập khí (tập khí c̣n sót lại).
Đức Phật đối với hết thảy chúng
sanh “có phải là đă đoạn Hoặc hay không? Có phải
là đă đoạn tập khí hay không?” đức Phật
hoàn toàn biết. Vĩnh viễn đoạn tập khí th́ sẽ
thành công. Đối với chuyện chúng sanh đoạn Hoặc
như thế nào, đoạn những tập khí c̣n sót lại
như thế nào, đức Phật liễu giải toàn bộ.
Đấy
là mười thứ đại trí lực của A Di
Đà Phật. Đă có mười thứ đại trí lực
ấy, bèn có oai đức lực. Thiện tri thức nói
cho người sắp đọa địa ngục biết
mười loại trí lực ấy, lại c̣n “quảng tán bỉ Phật quang
minh thần lực”, [nghĩa là] lại c̣n tán thán rộng
đức Phật ấy, [tức tán thán] A Di Đà Phật
(A Di Đà Phật là vô lượng quang), tán thán vô lượng
quang minh của A Di Đà Phật. Quang minh có thể hiển
lộ năng lực thần kỳ chẳng thể
nghĩ bàn. V́ sao phải tán thán năng lực thần kỳ
ấy? V́ người ấy đă thấy các thứ lửa
trong địa ngục đều ùa tới, chẳng phải
là năng lực b́nh phàm có thể cứu văn được!
V́ thế, phải nói A Di Đà Phật có mười loại
sức mạnh to lớn, lại c̣n nói thần lực của
quang minh cho tội nhân nghe, ngơ hầu trước hết làm
cho tâm lư của người ấy b́nh ổn.
“Diệc tán Giới, Định,
Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến”, tiếp đó,
tán thán Giới. “Giới” (戒) chỉ Phật giới,
Phật giới thanh tịnh nhất. V́ có những giới
ấy, không chỉ là ba nghiệp thân, khẩu, ư của
đức Phật chẳng có tội nghiệp, mà hết
thảy các lầm lỗi đều chẳng có. Lại tán
thán định lực của Phật. “Định” là nói trong tâm đức Phật chẳng
có tí xíu vọng niệm nào! Dấy lên ư niệm đều
là ư niệm thanh tịnh, chẳng có lúc nào không ở trong
Định. Lại nói Huệ, nói đến trí huệ của
Phật. Trí huệ của Phật viên măn nhất, quang minh
nhất. Lũ b́nh phàm chúng ta nói đến chuyện “khai trí huệ”, nhưng phàm
phu mê hoặc, điên đảo, trí huệ ở chỗ
nào? Học Phật khai trí huệ, mở ra một tia ánh
sáng, tuyệt vời thay! Trông thấy bản tánh! Khai một
chút trí huệ, bèn có thể được hưởng thụ
to lớn, sẽ chẳng luân hồi trong lục đạo.
Thế mà toàn thể trí huệ của Phật là viên măn rốt
ráo. Lại nói đến “giải
thoát”. Thân tâm (thân thể và tâm lư) của Phật hết
thảy đều chẳng có vướng mắc, c̣n bọn
phàm phu chúng ta giống như bị dây thừng trói chặt,
chẳng được tự do. Kẻ b́nh phàm chẳng biết,
[cứ biện bác]: “Quư vị tự ḿnh hoạt động
mà! Cớ sao chẳng thể tự do?” Thật ra, bọn
phàm phu chúng ta rất đáng thương! Há có tự do ǵ
đâu? Điều quan trọng nhất là sanh tử chẳng
được tự do. Ngoài ra, đối với công việc
và cuộc sống của chúng ta trong nhân gian này, quư vị sống
trong hoàn cảnh nào? Chúng ta có tự do ǵ? Để ra khỏi
nước, c̣n phải hoàn thành đủ thứ thủ tục,
c̣n phải có đủ thứ điều kiện, chỗ
nào có thể đến, chỗ nào bị hạn chế chẳng
thể đến, đều là chẳng tự do. Đức
Phật th́ hết thảy đều tự do, chẳng có bất
cứ trói buộc nào! Lại c̣n có Giải Thoát Tri Kiến,
[nghĩa là] đối với chính ḿnh đă hoàn toàn giải
thoát, liễu giải toàn bộ, hết thảy được
đại tự tại, hoàn toàn liễu giải. Đó là
Giải Thoát Tri Kiến. Năm thứ ấy được
gọi bằng danh từ Phật học là Ngũ Phần
Pháp Thân (năm phần Pháp Thân). Năm thứ ấy đều
là Pháp Thân của Phật. Pháp Thân của Phật nói tách ra sẽ
có năm ư nghĩa, tức năm phần Pháp Thân. Vị thiện
tri thức ấy lại c̣n tán thán năm phần Pháp Thân của
A Di Đà Phật, cũng đều nói cho người sắp
đọa địa ngục biết.
“Thử nhân văn dĩ”: Sau
khi người sắp đọa địa ngục nghe vị
thiện tri thức ấy nói về oai đức của thập
lực, thần lực của quang minh, cùng với năm
phần Pháp Thân của A Di Đà Phật như trên đây,“trừ bát thập ức kiếp
sanh tử chi tội”, “trừ”
(除) là diệt
trừ, diệt trừ tội sanh tử của người
ấy từ tám mươi ức kiếp cho tới nay. Một
kỳ sanh mạng của đời người chúng ta là
vài chục năm, dài nhất là sống tới một
trăm tuổi! Thời gian một trăm năm ngắn
ngủi ngần ấy! Từng đời tích lũy lại,
thời gian có tới tám mươi ức kiếp, sanh mạng
trong quá tŕnh dài lâu như vậy đă tạo bao nhiêu tội
nghiệp? Tội nghiệp sanh tử đấy nhé! Trong
khi ấy, nghe thiện tri thức giảng về oai đức,
thần lực v.v… của đức Phật, người
ấy lập tức diệt trừ những tội nghiệp
đó. “Địa ngục mănh
hỏa” vốn là các thứ lửa trong địa ngục,
các thứ lửa mạnh mẽ cùng lúc kéo đến, khi ấy,
sẽ “hóa vi thanh lương
phong”, lửa dữ biến
thành một luồng gió mát lành. V́ sao có thể chuyển biến
to lớn như thế? Công đức của đức Phật
có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn!
Xem
Quán Kinh tới đây, hăy ngẫm xem! Công khóa sớm tối
chúng ta niệm A Di Đà Phật. Thông thường, hễ
có thời gian rảnh rỗi, trong tâm bèn nghĩ đến
A Di Đà Phật, niệm Phật, nhớ Phật. Niệm
một câu Phật hiệu chính là “nghe đạo”. Chúng ta dùng cái tâm chí thành để
niệm một câu Phật hiệu, có thể tiêu trừ tội
sanh tử trong tám mươi ức kiếp y hệt, có sức
mạnh to lớn ngần ấy! Do vậy, chúng ta gắng
hết sức niệm Phật cho nhiều, niệm một
câu Phật hiệu bèn có công đức của một câu Phật
hiệu. Có lẽ, quư vị sẽ hỏi: “Chúng ta niệm
Phật nhiều ngần ấy, v́ sao c̣n có khá nhiều
chướng ngại?” Trong phẩm Phổ Hiền Bồ
Tát Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm đă nói rành rẽ:
Từ vô thỉ kiếp tới nay, bọn chúng ta luôn tạo
nghiệp. Nếu tội nghiệp có h́nh tướng, tận
cùng hư không đều chẳng có cách nào dung nạp. Có thể
thấy là chúng ta tạo tội nghiệp quá ư là nhiều.
So sánh giữa tám mươi ức kiếp và “từ vô thỉ kiếp”, vẫn
chẳng thấm vào đâu! V́ thế, chúng ta niệm một
câu Phật hiệu, mặc dầu có thể tiêu khá nhiều
tội nghiệp, chúng ta hăy c̣n có nhiều tội nghiệp
chẳng tiêu hơn nữa. Do mối quan hệ này, chúng ta
phải dấy lên tín tâm, dấy lên nguyện lực, tận
lực niệm như vậy, niệm rất tự nhiên, tội
nghiệp sẽ có thể tiêu trừ, giảm khinh mỗi
ngày. Nếu chẳng tiêu trừ được, chúng ta vẫn
có thể đới nghiệp văng sanh, sẽ chẳng có vấn
đề ǵ! Thoạt nh́n, mọi người đều
có thiện căn, như người ngu trong kinh này khi mạng
chung mới gặp gỡ thiện tri thức, c̣n mọi
người chúng ta hiện thời đang lúc tuổi trẻ,
ngày tháng c̣n dài, nay đă có cơ hội tiếp xúc Phật
pháp, học pháp môn Tịnh Độ. Thiện căn ấy
chẳng phải là tiểu thiện căn, mà đại
thiện căn rất to. Có thiện căn to tát ngần ấy,
nếu một mực tinh tấn tu tập tiến lên, trong
tương lai, văng sanh nhất định là chẳng có vấn
đề ǵ! Trên đây là nói về nguyên nhân văng sanh, phần
kinh văn tiếp theo đây sẽ nói về cái duyên văng
sanh.
(Kinh)
Xuy chư thiên hoa, hoa thượng giai hữu Hóa Phật, Bồ
Tát, nghênh tiếp thử nhân.
(經)吹諸天華。華上皆有化佛菩薩,迎接此人。
(Kinh:
Thổi các hoa trời, trên hoa đều có Hóa Phật, Bồ Tát, nghênh tiếp người
ấy).
“Xuy chư thiên hoa”: Nói tới
gió trong mát được biến hóa ra [như đă nói
trong đoạn trước] thổi hoa trời từ cơi
trời rơi xuống. “Hoa
thượng giai hữu Hóa Phật, Bồ Tát”: Trên mỗi hoa, đều có
biến hóa Phật và biến hóa Bồ Tát, “Phật” chỉ A Di Đà Phật, “Bồ Tát” là Quán Thế Âm Bồ
Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát và c̣n có rất nhiều
vị Bồ Tát nữa, đều là thân biến hóa. Những
vị Hóa Phật, Hóa Bồ Tát ấy đến “nghênh tiếp thử nhân”,
đều đến nghênh tiếp người sắp
đọa địa ngục ấy. Người ấy
không chỉ chẳng đọa địa ngục, mà c̣n có
những vị Hóa Phật đến nghênh tiếp người
ấy về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Dưới đây là đoạn thứ ba, nói về sự
chánh thức văng sanh.
(Kinh)
Như nhất niệm khoảnh, tức đắc văng sanh
thất bảo tŕ trung liên hoa chi nội.
(經)如一念頃,即得往生七寶池中蓮華之內。
(Kinh:
Như trong khoảng một niệm, liền được
văng sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu).
Đoạn
này nói thời gian văng sanh hết sức mau chóng. “Như nhất niệm khoảnh”,
dường như trong khoảng một niệm. Thời
gian dấy một niệm nhanh ngần ấy. Chúng ta dấy
lên một niệm, thậm chí chính ḿnh c̣n chưa cảm thấy,
gần như là đă dấy thêm mấy niệm nữa rồi,
nhanh chóng như vậy đó! Trong khoảng một niệm,
“tức đắc văng sanh”,
người ấy có thể văng sanh. Văng sanh nơi đâu? “Thất bảo tŕ trung liên hoa chi
nội” (Trong
hoa sen nơi ao bảy báu): Văng sanh trong ao sen bảy báu
của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong
ao bảy báu có rất nhiều hoa sen, [người ấy]
sanh trong hoa sen. Kinh văn rất vắn tắt, hễ sanh
vào trong hoa sen, hoa sen liền bao phủ người ấy.
(Kinh)
Kinh ư lục kiếp, liên hoa năi phu. Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí, dĩ phạm âm thanh, an ủy bỉ nhân, vị
thuyết Đại Thừa thậm thâm kinh điển. Văn
thử pháp dĩ, ứng thời tức phát vô thượng
đạo tâm.
(經)經於六劫,蓮華乃敷。觀世音、大勢至,以梵音聲,安慰彼人,為說大乘甚深經典。聞此法已,應時即發無上道心。
(Kinh:
Trải qua sáu kiếp, hoa sen mới
nở. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng Phạm
âm an ủi người đó, v́ người đó nói kinh
điển Đại Thừa rất sâu. Nghe pháp ấy rồi,
ngay lập tức phát vô thượng đạo tâm).
“Kinh ư lục kiếp”:
Người văng sanh ấy trải qua thời gian sáu kiếp
dài ngần ấy, “liên hoa năi
phu”, hoa sen bèn nở. Khi hoa sen nở, người ấy
chẳng thấy Phật, mà thấy “Quán Thế Âm, Đại Thế Chí” Bồ Tát. Hai
vị đại Bồ Tát ấy “dĩ phạm âm thanh”, “phạm
âm thanh” là âm thanh thanh tịnh của Phạm Thiên trong thế
gian này. Nói đến âm nhạc, âm nhạc trong nhân gian dẫu
hay đến đâu đi nữa, vẫn chẳng thể
sánh bằng phạm âm. Đó là [âm thanh] thanh tịnh nhất,
đẹp đẽ nhất! Hai vị đại Bồ
Tát dùng âm thanh đẹp đẽ giống như phạm
âm thanh để “an ủy bỉ
nhân”. Không chỉ là an ủi kẻ đó, lại c̣n “vị thuyết Đại Thừa
thậm thâm kinh điển”, v́ người ấy giảng
kinh điển Đại Thừa rất sâu. “Văn thử pháp dĩ”, sau
khi người ấy nghe đạo lư trong kinh điển
Đại Thừa rất sâu, “ứng
thời”, ngay lập tức, vào đúng lúc ấy “tức phát vô thượng đạo
tâm”, phát vô thượng đạo tâm chính là cái tâm nhất
định mong cầu thành Phật, phát tâm thành Phật.
Hạ
Phẩm Trung Sanh và Hạ Phẩm Thượng Sanh c̣n có chỗ
khác biệt, quư vị có thể đối chiếu để
thấy: Hạ Phẩm Thượng Sanh là sau khi văng sanh bốn
mươi chín ngày, hoa sen mới nở, tức là trải
qua bốn mươi chín ngày hoa sen bèn nở. Hạ Phẩm
Trung Sanh phải trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở.
Thời gian lâu hơn bốn mươi chín ngày quá nhiều.
Lại nữa, Hạ Phẩm Thượng Sanh phải sau
mười tiểu kiếp mới trọn đủ Bách
Pháp Minh Môn, nhưng Hạ Phẩm Trung Sanh chẳng trọn
đủ Bách Pháp Minh Môn, chỉ nói “nghe pháp xong, phát vô
thượng đạo tâm”. Trong phẩm trước, [kinh
văn có nói] sau bốn mươi chín ngày, sau khi hoa sen nở,
nghe hai vị Bồ Tát thuyết pháp, [hành giả] liền
phát vô thượng đạo tâm. Ở đây, là trải
qua sáu kiếp mới phát vô thượng đạo tâm, đấy
là chỗ khác biệt đôi chút. Phải biết: Thời
gian sáu kiếp tuy dài, nhưng ở trong hoa sen c̣n tốt đẹp
hơn ở trong hoàng cung của nhân gian rất nhiều.
Đừng nói là hoàng cung chẳng sánh bằng hoa sen, ngay cả
thiên cung trên cơi trời cũng chẳng sánh bằng hoa sen.
Do vậy, tuy hoa sen sáu kiếp mới nở, nhưng ở
trong ấy, hết sức hưởng thụ, hết sức
sung sướng. Chúng ta phải liễu giải điều
này.
(Kinh)
Thị danh Hạ Phẩm Trung Sanh giả.
(經)是名下品中生者。
(Kinh:
Đó gọi là Hạ Phẩm Trung Sanh).
Sau
khi đă nói nhân duyên văng sanh và lợi ích sẽ đạt
được sau khi văng sanh như trên đây, bèn dùng câu
trên đây để kết luận. Đó là Hạ Phẩm
Trung Sanh. Hôm nay tôi nói đến chỗ này.
Tập 49
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, bắt đầu từ
hàng thứ hai ở cuối trang hai mươi chín. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Hạ Phẩm Hạ
Sanh giả, hoặc hữu chúng sanh, tác bất thiện nghiệp,
Ngũ Nghịch, Thập Ác, cụ chư bất thiện.
Như thử ngu nhân, dĩ ác nghiệp cố, ưng đọa
ác đạo, kinh lịch đa kiếp, thọ khổ vô
cùng. Như thử ngu nhân, lâm mạng chung thời, ngộ
thiện tri thức, chủng chủng an ủy, vị thuyết
diệu pháp, giáo linh niệm Phật. Bỉ nhân khổ bức,
bất hoàng niệm Phật. Thiện hữu cáo ngôn: - Nhữ
nhược bất năng niệm bỉ Phật giả, ưng
xưng Vô Lượng Thọ Phật. Như thị chí tâm,
linh thanh bất tuyệt, cụ túc thập niệm, xưng
Nam-mô A Di Đà Phật. Xưng Phật danh cố, ư niệm
niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sanh tử
chi tội”.
(經)佛告阿難,及韋提希:下品下生者,或有眾生,作不善業,五逆十惡,具諸不善。如此愚人,以惡業故,應墮惡道,經歷多劫,受苦無窮。如此愚人,臨命終時,遇善知識,種種安慰,為說妙法,教令念佛。彼人苦逼,不遑念佛。善友告言:汝若不能念彼佛者,應稱無量壽佛。如是至心,令聲不絕,具足十念,稱南無阿彌陀佛。稱佛名故,於念念中,除八十億劫生死之罪。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan và bà Vi Đề Hy: “Hạ
Phẩm Hạ Sanh là nếu có chúng sanh, tạo nghiệp chẳng
lành, Ngũ Nghịch, Thập Ác, đủ các điều bất
thiện. Kẻ ngu như thế, do v́ ác nghiệp, đáng
đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp, chịu
khổ vô cùng. Kẻ ngu như thế, khi lâm chung, gặp thiện
tri thức an ủi mọi lẽ, nói diệu pháp cho người
ấy, truyền bảo niệm Phật. Người
đó bị sự khổ bức bách, chẳng rảnh rang
để niệm Phật. Bạn lành bảo rằng: ‘Nếu
ngươi không thể niệm đức Phật ấy,
hăy nên xưng danh Vô Lượng Thọ Phật’. Chí tâm
như thế, khiến cho tiếng niệm chẳng dứt,
trọn đủ mười niệm, xưng Nam-mô A Di
Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật, trong mỗi niệm,
trừ tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp”).
Hôm nay, nói về Hạ
Phẩm Hạ Sanh. Sau khi nói xong phần Hạ Phẩm Hạ
Sanh, coi như đă giảng xong mười sáu phép Quán trong
Quán Kinh. Ở đây, phải đặc biệt chú ư: Thông
thường, chúng ta học Tiểu Bổn Di Đà Kinh, tức
Phật Thuyết A Di Đà Kinh, bộ kinh ấy chuyên dạy
về Tŕ Danh Niệm Phật, mà phần trước của
Thập Lục Quán Kinh chủ yếu là nói về Quán Tưởng
Niệm Phật. Quán Tưởng Niệm Phật phải
có trí huệ rất cao, năng lực lư giải rất mạnh,
lại c̣n phải hội đủ các điều kiện
th́ mới có thể dùng công phu ấy. C̣n đối với
kẻ b́nh phàm, rất khó sử dụng Quán Tưởng Niệm
Phật. V́ lẽ này, sau khi Thập Lục Quán Kinh nói xong
phép Quán thứ mười ba, chẳng nói về cách Quán
Tưởng Niệm Phật nữa, bắt đầu từ
phép Quán thứ mười bốn, đối với ba phép
Quán mười bốn, mười lăm và mười sáu,
giảng giải phương pháp văng sanh trong ba bậc chín
phẩm. Ba bậc chín phẩm là bậc Thượng có ba
phẩm, tức Thượng Phẩm, Trung Phẩm, và Hạ
Phẩm. Bậc Trung cũng chia thành ba phẩm Thượng,
Trung, Hạ, cho đến phép Quán thứ mười sáu nói
về ba phẩm thuộc bậc Hạ. Trong các phần
trước đă nói về Hạ Phẩm Thượng
Sanh và Hạ Phẩm Trung Sanh; hôm nay, tôi sẽ nói về Hạ
Phẩm Hạ Sanh.
Chúng
tôi vừa mới đọc kinh văn, mọi người
cũng đă thấy: Người Hạ Phẩm Hạ
Sanh là chúng sanh tạo ác nghiệp hết sức nhiều, nhưng
khi mạng chung, gặp thiện tri thức, kết quả
là người ấy có thể văng sanh. Đúng là chuyện
phi phàm! Sau khi chúng ta liễu giải sự thật này, hăy
đặc biệt nghĩ: Chúng ta tu pháp môn Tŕ Danh Niệm
Phật, chỉ cần dựa theo phương pháp để
tu tŕ, trong một đời này, tuyệt đối có thể
thành tựu văng sanh. Một mai, thành tựu văng sanh, vấn
đề to lớn là sanh tử luân hồi trong lục
đạo từ nhiều đời nhiều kiếp
đến nay đă được giải quyết hoàn
toàn. V́ vậy, có thể thấy pháp môn này quá trọng yếu!
Trong kinh cũng có nói: “Thân
người khó được, Phật pháp khó nghe”. Chúng
ta đă được làm thân người, cũng
được nghe Phật pháp, đặc biệt là nghe
pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật có thể thành tựu ngay trong
đời này. Hăy ngẫm xem! Nhân duyên này chẳng phải
là ngẫu nhiên, ắt cũng là do từ nhiều đời
nhiều kiếp đến nay gieo thiện căn th́ mới
có thể nghe pháp môn thuần túy tốt đẹp này. Sau
khi liễu giải tầm quan trọng của pháp môn này,
chúng ta ở trong nhân gian, hăy ngẫm xem, bất luận gặp
phải bất cứ vấn đề khó khăn nào, đều
cảm thấy chẳng liên quan, chẳng khẩn yếu! Vấn
đề dẫu khó khăn cách mấy, vẫn chẳng thể
sánh bằng vấn đề sanh tử. Vấn đề
sanh tử đă được giải quyết, há c̣n có những
vấn đề to lớn nào khác nữa ư? Do vậy,
trong hằng ngày, chúng ta gặp gỡ, bất luận trong
phương diện công việc, hoặc phương diện
sự vụ b́nh thường, khi tiếp xúc, qua lại
cùng người khác, chuyện đắc ư hay chuyện trái
ư, đều chẳng thể tốt đẹp bằng
pháp môn Niệm Phật. Sau khi chúng ta đă học pháp môn này,
ngàn muôn phần đừng bị ảnh hưởng bởi
chuyện tốt hay chuyện xấu trong thế gian. Thuận
cảnh trong thế gian cố nhiên chẳng ảnh hưởng
chúng ta tu pháp môn này. Đối với nghịch cảnh, dẫu
là hoàn cảnh bất hảo đến mấy đi nữa,
cũng chẳng bị ảnh hưởng. Đối với
điều này, khi chúng ta nghiên cứu Hạ Phẩm Hạ
Sanh, phải đặc biệt có nhận thức này!
Hăy
xem kinh văn: “Phật cáo A Nan,
cập Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả
A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. Hai vị này là bậc
đương cơ của Thập Lục Quán Kinh. “Hạ Phẩm Hạ Sanh giả”,
trước hết nêu ra danh xưng của phẩm này. “Hoặc hữu chúng sanh, tác bất
thiện nghiệp” (Nếu có chúng sanh tạo nghiệp bất
thiện): Người Hạ Phẩm Hạ Sanh là hạng
người nào? Loại chúng sanh này tạo nghiệp bất
thiện, tức là chúng sanh tạo ác nghiệp. Nếu tu
pháp môn b́nh thường, kẻ ấy chẳng có nhân cách của
một người b́nh phàm, chẳng đáng gọi là “một
người kiện toàn”. Kẻ gây tạo nghiệp bất
thiện tức là tạo ác nghiệp, tạo những ác
nghiệp ǵ? Gây lộn hoặc chửi bới người
khác, trộm cắp, cướp đoạt, đều là
những ác nghiệp. “Ngũ
Nghịch, Thập Ác”, Ngũ Nghịch là năm thứ
đại nghịch bất đạo. Chẳng cần nói
chi tiết về Ngũ Nghịch, chỉ nói những chuyện
chúng ta dễ hiểu: Giết cha hay mẹ của chính ḿnh.
Đấy đều là chuyện đại nghịch bất
đạo. Hoặc giết người đă chứng quả
vị La Hán, đấy cũng là đại nghịch. Lại
c̣n có kẻ làm thân Phật chảy máu. Thuở Thích Ca Mâu Ni
Phật tại thế, có chúng sanh ác độc từ trên
núi đẩy một tảng đá lớn xuống, mong sẽ
đè chết đức Phật. Bậc đă thành Phật
có c̣n gặp phải tai nạn ấy hay chăng? Bị hộ
pháp Vi Đà Bồ Tát ở trong hư không dùng chày kim cang
ngăn đỡ, chỉ rớt một miếng đá nhỏ
văng trúng chân đức Phật, chảy máu. Đó là “xuất Phật thân huyết”,
cũng là một tội ác lớn. Nay Thích Ca Mâu Ni Phật
chẳng tại thế (không trụ trong thế gian này), giả
sử có chúng sanh hủy hoại Phật pháp, hủy hoại
tượng Phật, trong tâm ôm giữ ư niệm tội ác,
đều là phạm tội to lớn giống hệt,
đều là đại nghịch bất đạo. Phạm
loại đại tội ấy, đáng sợ thay! Có nhân,
ắt có quả! Chẳng thể nào không đọa địa
ngục. Đọa địa ngục ǵ vậy? Địa
ngục có rất nhiều loại, loại khổ nhất
gọi là A Tỳ địa ngục. Phạm tội Ngũ
Nghịch, tất nhiên đọa vào A Tỳ địa ngục.
Thập Ác là mười loại ác nghiệp, thân tạo giết,
trộm, dâm, miệng tạo bốn thứ ác nghiệp
như vọng ngữ v.v… Ư có ba thứ ác nghiệp là tham,
sân, si. “Cụ chư bất thiện”
(Trọn đủ các điều bất thiện), “cụ” (具) là nói gộp chung, tất
cả tội ác đều tạo (“cụ” là hoàn toàn). Mọi thứ đại tội
nghiệp thuộc về Ngũ Nghịch, Thập Ác đều
tạo, c̣n có những tội nghiệp nhỏ hơn
cũng đều tạo, th́ gọi là “cụ chư bất thiện”.
“Như thử ngu nhân”, “như thử” (如此) là giống
như vậy, kẻ không điều ác nào chẳng làm như
thế, đương nhiên là kẻ ngu. Người có trí huệ
có dám tạo ác nghiệp hay chăng? “Dĩ ác nghiệp cố”, v́ tạo ác nghiệp
nhiều ngần ấy, do nhân duyên ấy, “ưng đọa ác đạo”, đáng phải nên
đọa lạc trong ác đạo. Ác đạo nặng
nhất chính là địa ngục đạo. “Kinh lịch đa kiếp, thọ
khổ vô cùng” (Trải qua nhiều kiếp, chịu khổ
vô cùng), hễ đọa địa ngục th́ kinh khủng
lắm! Thọ mạng trong địa ngục dài nhất,
thọ mạng trong nhân gian ngắn ngủi. Ngắn ngủi
vài chục năm, hoặc một trăm năm, qua đi rất
nhanh. Trên cơi trời, thọ mạng trong Dục Giới Thiên
dài hơn nhân gian, Sắc Giới Thiên dài hơn nữa,
nhưng hễ đọa địa ngục, thọ mạng
sẽ dài khôn cùng! Ở trong ấy, có thọ mạng dài ngần
ấy để làm ǵ? Chẳng phải là để hưởng
thụ, mà là để chịu khổ. Địa ngục
rất khổ! Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện có nói đủ mọi t́nh huống khổ sở
trong cơi địa ngục, quá đáng sợ! V́ thế, một
mai tạo đại tội Ngũ Nghịch, tất nhiên là
phải đọa trong địa ngục. Hễ đọa
vào địa ngục, sẽ “kinh
lịch đa kiếp” (trải qua nhiều kiếp). Thọ
mạng của chúng ta trong nhân gian là vài chục năm, chốc
lát sẽ qua đi, đọa vào địa ngục sẽ
là “nhiều kiếp”, có thể
thấy lâu dài cỡ nào! Trong địa ngục, kinh văn
h́nh dung: “Thọ khổ vô cùng”,
nghĩa là đau khổ không chịu nổi. Chịu không nổi
sẽ chết, nhưng sau khi đă chết, gió nóng trong
địa ngục vừa thổi qua, sẽ sống lại,
giống như h́nh pháp của quốc gia vào thời cổ,
dùng h́nh cụ để trừng trị tội nhân. Để
lấy khẩu cung, dùng trượng đánh cho đến
hôn mê; sau đó, dùng nước xối lên để kẻ ấy
tỉnh lại. Trong địa ngục, hứng chịu mọi
nỗi khổ, bị đủ mọi dụng cụ hành
h́nh giáng xuống thân. Chịu không nổi bèn chết, đă
chết rồi sống lại. Chịu tội như vậy,
trải qua nhiều kiếp, mới có thể thoát ra. Sau khi
thoát ra, hoàn toàn chẳng phải là ngay lập tức sanh vào
cơi trời hoặc nhân gian. Hoàn toàn chẳng được
tiện nghi như vậy! Từ địa ngục thoát
ra, do hăy c̣n có tội báo chưa giải quyết xong, chẳng
sanh vào quỷ đạo, sẽ sanh trong súc sanh đạo,
vẫn là thọ báo trong tam đồ. Sau khi đă thọ
báo xong, mới sanh vào nhân gian, hoặc sanh vào những
đường khác. Hăy ngẫm xem, hễ đọa vào địa
ngục, khi nào mới có thể thoát ly hoàn cảnh đau khổ
ấy? Nghĩ đến đây, đáng sợ quá!
Chúng
ta thấy trong kinh văn có nói: Kẻ ngu tạo ác nghiệp
nhiều như thế, nhất định là sẽ đọa
địa ngục, sẽ trải qua nhiều kiếp chịu
khổ vô cùng. Nhưng chúng ta hăy ngẫm xem: Hiện thời,
tất cả mọi người chúng ta đều học
đạo, cũng chẳng thể tạo những ác nghiệp
ấy, nhưng chúng ta thấy chúng sanh trong thời đại
này, bất luận chỗ nào trong nước hay ngoài nước,
đều có hạng chúng sanh [tạo] tội ác ấy. Xét
theo phương diện báo chí và truyền thông tại
Đài Loan, chuyện giết cha, giết mẹ rất nhiều!
Tuy chúng ta chẳng tạo ác nghiệp, nhưng các vị phải
liễu giải: Phật pháp là tâm pháp. Khi đă hiểu tâm
pháp, sẽ biết những chuyện ấy hết sức
nguy hiểm. Duy Thức Học đă nói rơ ràng: Những việc
chúng ta mắt thấy, tai nghe, dường như chuyện
đó chẳng dính dáng đến ta. Lấy ngay chuyện “giết
cha, giết mẹ” để nói, vốn là kẻ khác tạo
ác nghiệp, chúng ta do xem TV hay đọc báo chí mà thấy,
hoặc tai nghe chuyện đó. Sự thật ấy sẽ
nhờ vào Nhĩ Thức hoặc Nhăn Thức truyền tới
thức thứ tám, tàng trữ trong thức thứ tám, trở
thành một chủng tử trong thức thứ tám của
chính chúng ta. Chủng tử ác nghiệp ấy trong
tương lai, khi gặp bao nhiêu duyên phận, nhân duyên hội
đủ (chủng tử là nhân), nó sẽ từ thức thứ
tám dấy lên hiện hành, sẽ biến thành [ác nghiệp]
của chính ḿnh.
Người
học giáo dục sẽ biết, [giáo dục] vốn là mô
phỏng. Mô phỏng th́ trước hết phải hấp
thụ từ kẻ khác, ấn tượng in vào trong ư thức
của chính ḿnh; sau đấy, lại từ tâm lư của
chính ḿnh biểu hiện ra. Đấy là mô phỏng người
ta. Sau khi đă mô phỏng cho đến khi biểu hiện
thành hành vi của chính ḿnh, chẳng phải là chính ḿnh th́ là
ai vậy? V́ thế, đừng nghĩ “nay chúng ta đang học
Phật, nay chúng ta chẳng tạo tác những chuyện ấy”.
Nếu chúng ta chẳng học pháp môn Niệm Phật cầu
đới nghiệp văng sanh thế giới Cực Lạc,
học Phật ở trong thế gian này, chúng ta tiến tới
một bước sẽ bị hoàn cảnh ác nghiệp
đầy dẫy kéo tuột về sau, lùi lại mấy
bước! Chúng ta thời thời khắc khắc tiếp
xúc hoàn cảnh xấu hèn và chúng sanh tạo ác nghiệp ở
bên ngoài. Chúng ta chẳng có tâm lư học theo, nhưng tự
nhiên giống như một cái máy chụp h́nh ở trong tâm
chúng ta, tự nhiên chụp [hoàn cảnh bên ngoài] đưa
vào trong tâm. Sau khi đă “chụp h́nh” rồi, trong
tương lai, nhân duyên hội đủ, chính ḿnh sẽ biểu
diễn, đáng sợ ngần ấy! Chúng ta học Phật,
cố nhiên phải khuyên bảo người khác học Phật,
quan trọng nhất là chính ḿnh phải luôn đề cao cảnh
giác. Trong hiện thời, chẳng học pháp môn Niệm Phật,
chẳng học Tŕ Danh Niệm Phật, chẳng cầu đới
nghiệp văng sanh ngay trong đời này, hễ chuyển thế
sanh sang đời sau, t́nh huống xấu hèn đến mức
độ nào, bản thân chúng ta chẳng dám tưởng
tượng!
“Như thử ngu nhân, lâm mạng
chung thời, ngộ thiện tri thức”: Kẻ ngu si ấy,
tạo lắm ác nghiệp ngần ấy, đến khi thọ
mạng chấm dứt, tức là sắp chết, nào ngờ
gặp thiện tri thức. Vị thiện tri thức ấy
thông hiểu Phật pháp, “chủng
chủng an ủy, vị thuyết diệu pháp”,
[nghĩa là] vị thiện tri thức ấy dùng đủ
mọi phương pháp để an ủi kẻ ngu (mọi
người chúng ta đều học Bồ Tát đạo,
thông hiểu Phật pháp, khuyên người khác học Phật,
đều là thiện tri thức). Vị thiện tri thức
ấy chẳng v́ kẻ ngu ấy đă tạo đủ mọi
ác nghiệp trong đời trước mà ghét bỏ kẻ
ấy. Tới lúc đó, thấy kẻ ấy sắp chết,
bèn phát tâm từ bi, dùng đủ mọi phương pháp
để an ủi kẻ đó. Trước hết, khiến
cho cái tâm người ấy an định, “vị thuyết diệu pháp”, [nghĩa là] v́ kẻ
ấy nói diệu pháp của đức Phật. Tới khi
một người sắp chết th́ bất cứ đạo
lư nào trong thế gian, bất cứ loại học vấn
thế gian nào dẫu hay ho cách mấy đi nữa, cũng
đều vô dụng. Dẫu là một nhà đại học
vấn trên thế giới đi nữa, tới khi ấy,
cũng đều vô dụng. Dẫu có tiền bạc th́
đến khi ấy cũng chẳng mua được [mạng
sống], cũng chẳng có cách nào! Chỉ có Phật pháp,
Phật pháp là diệu pháp. Sau khi đă v́ người ấy
nói diệu pháp, “giáo linh niệm
Phật” [nghĩa là thiện tri thức] dạy người
ấy hăy ngay lập tức niệm Phật. Quư vị hăy
xem phần văn tự ở đây, phải hiểu diệu
pháp, dựa trên diệu pháp để niệm Phật. Hiểu
đạo lư niệm Phật chính là mức độ rất
cao!
“Thử nhân khổ bức, bất
hoàng niệm Phật”: Kẻ ngu tạo ác nghiệp ấy,
bị đau khổ bức bách, nỗi khổ ngày càng dồn
đến gần, chẳng kịp niệm Phật. “Bất hoàng” (不遑) là chẳng
có lúc rảnh rang, xảy đến chẳng kịp trở
tay! Nói cách khác, cũng chẳng có cách nào niệm Phật. Chẳng
kịp niệm Phật th́ khi ấy phải làm sao? Đă hiểu
đạo lư, nhưng niệm Phật chẳng kịp. Quư
vị có thể suy ra mà biết! Do vậy, nghiên cứu kinh
văn th́ phải “tùy văn nhập Quán”. Đối với
t́nh huống đă nói trong kinh văn, kẻ tạo ác nghiệp
khi lâm chung hứng chịu đau khổ, dẫu có thiện
tri thức chỉ dạy, nhưng chẳng niệm Phật
được, nơi cửa ải sanh tử ấy, có thể
nói là khổ sở rất khó tưởng tượng
được!
“Thiện hữu cáo ngôn: Nhữ nhược
bất năng niệm bỉ Phật giả, ưng xưng
Vô Lượng Thọ Phật”. “Thiện hữu” (善友) là thiện tri thức bảo
kẻ ngu: “Nếu ngươi không thể niệm đức
Phật ấy, nếu ngươi chẳng thể hiểu
đạo lư như đă nói trên đây để niệm
Phật, hăy nên xưng Vô Lượng Thọ Phật”.
Xưng (稱) là
xưng danh. Coi như là trong tâm chẳng thể định,
chẳng có cách nào niệm Phật như vậy. Hễ miệng
c̣n có thể động, chẳng quản trong tâm loạn
đến cỡ nào, đau khổ như thế nào, nay
ngươi chỉ cần nghe lời ta, miệng
ngươi gắng gượng phát ra tiếng niệm Vô
Lượng Thọ Phật. Vô Lượng Thọ Phật
là A Di Đà Phật (dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô
Lượng Thọ Phật, tiếng Ấn Độ là A
Di Đà Phật). “Ưng xưng”
(Hăy nên xưng niệm): “Xưng”
(稱) là dùng
miệng phát ra âm thanh, [thốt ra] âm thanh từng chữ một,
niệm chẳng ngừng, dạy người ấy cách thức
như vậy. Tuy trong tâm chẳng niệm được,
trước hết, hăy dùng miệng để phát ra âm thanh
ḥng niệm như vậy. “Như
thử chí tâm, linh thanh bất tuyệt”: Chí tâm như vậy,
dùng âm thanh dẫn phát tâm lư người ấy (cái tâm vốn
loạn). Từ miệng gắng gượng phát ra âm thanh
từng chữ, dẫn dắt tâm lư đang khổ sở của
người ấy, nhất tâm cầu cứu, cầu A Di
Đà Phật tới cứu kẻ ấy, khiến cho âm
thanh xưng niệm Phật hiệu chẳng dứt. Chớ
nên đoạn dứt, âm thanh vẫn một mực ǵn giữ
măi. “Cụ túc thập niệm,
xưng Nam-mô A Di Đà Phật” (Đầy đủ
mười niệm, xưng Nam-mô A Di Đà Phật). Mười
niệm là ǵ? Mười niệm là mười hơi. Một
hơi niệm chừng bấy nhiêu nhiêu câu Phật hiệu,
niệm mười hơi gọi là “thập niệm”. Mười hơi ấy đều
là kêu gọi. “Xưng” (稱) là hô hoán. Một kẻ
đang đau khổ, tuyệt vọng, sẽ phát ra tiếng
hô hoán, hô hoán Nam-mô A Di Đà Phật. Tiếp tục niệm
chẳng ngừng, niệm suốt mười hơi!
“Xưng Phật danh cố, ư
niệm niệm trung, trừ bát thập ức kiếp sanh
tử chi tội”, do nguyên nhân xưng danh hiệu Phật,
khi niệm mỗi câu Phật hiệu, sẽ trừ diệt
tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Thời gian tám mươi ức kiếp rất
dài! Thời gian một kiếp dài cỡ nào? Từ một cho
đến mười, đến trăm, đến ngàn, lại
tăng đến tám mươi ức, hăy ngẫm xem, thời
gian ấy dài cỡ nào? Nói theo chúng sanh trong nhân đạo,
cổ nhân bảo: “Nhân sanh thất
thập cổ lai hy” (Người sống đến bảy
mươi tuổi xưa nay hiếm). Nếu coi như tuổi
thọ là một trăm năm, một đời là một
trăm năm, mười đời mới là một ngàn
năm, một trăm đời mới là một vạn
năm, một vạn năm đem so với một kiếp,
nhỏ bé đến nỗi đáng thương! Kẻ ấy
đời đời kiếp kiếp tạo ác nghiệp,
tội nghiệp sanh tử đă gây tạo, tích lũy trong
tám mươi ức kiếp dài lâu như vậy, do niệm
một câu Phật hiệu, khiến cho
những tội nghiệp sanh tử đă tạo trong quăng
thời gian dài ngần ấy lập tức trừ diệt.
Hăy ngẫm xem, danh hiệu A Di Đà Phật chẳng thể
nghĩ bàn như thế đó!
Đoạn
này nói về cái nhân văng sanh của chúng sanh ấy (nguyên nhân văng
sanh), chúng ta phải đặc biệt chú ư: V́ sao chúng sanh
ác nghiệp như vậy có thể văng sanh? Điều quan
trọng nhất là: Khi kẻ ấy lâm chung, có thể gặp
thiện tri thức. Chẳng gặp thiện tri thức,
nhất định sẽ đọa vào địa ngục
A Tỳ! V́ sao có thể gặp thiện tri thức? Bất
cứ chúng sanh nào, chẳng cần biết đời này
đă tạo tội ác như thế nào, trong đời
trước, ít nhiều th́ cũng đă làm những việc
thiện, gieo các thiện căn. Thiện căn lớn nhất,
quan trọng nhất chính là nghe Phật pháp. Trong phần
trước, tôi đă nói: Trong hiện thời, chúng ta ở
trong thế gian này, thấy nghe những tội Ngũ Nghịch
sát hại cha mẹ, những ấn tượng ấy gieo
vào ruộng tám thức, biến thành chủng tử của
chính ḿnh. Đấy là một phương diện chẳng
tốt lành. Nói ngược lại, những phương diện
tốt lành như nghe Phật pháp, thậm chí chỉ nghe một
câu danh hiệu Phật, cũng in vào trong ruộng tám thức,
biến thành chủng tử của chính ḿnh. Chủng tử
ấy chính là thiện căn. Kẻ ngu ấy trong đời
quá khứ tất nhiên là đă nghe Phật pháp, nhất là
nghe danh hiệu A Di Đà Phật. V́ thế, trong khi sanh tử
then chốt này, sẽ gặp gỡ thiện tri thức. Nếu
chẳng có mảy may nhân duyên với Phật pháp, sẽ chẳng
thể gặp gỡ. Nói theo phương diện này, chúng
ta hành Bồ Tát đạo, hăy truyền bá Phật hiệu
và Phật pháp cho nhiều, bất luận kẻ khác tin
tưởng hay không, đều khiến cho kẻ khác gieo
trồng thiện căn, sẽ đều là công đức
vô lượng.
C̣n
một tầng [ư nghĩa] nữa chúng ta phải chú ư: Đừng
nghĩ [do thấy] chúng sanh ác nghiệp như vậy, lâm
chung gặp gỡ thiện tri thức bèn có thể văng sanh,
[bèn tưởng rằng kẻ ác nào lúc lâm chung cũng có
cơ hội văng sanh như vậy], kẻ b́nh phàm chẳng
thể chắc ăn như thế đâu nhé! Nói theo người
b́nh phàm, tỷ lệ ấy đă ít ỏi lại càng ít ỏi
hơn! Hăy xem những kẻ tạo ác trong hiện thời,
khi lâm chung đều có thể gặp thiện tri thức
hay không? Đều có thể văng sanh hay không? Nếu đúng
là như vậy, mọi người cứ tạo ác nghiệp
thoải mái, dẫu sao đến khi lâm chung, sẽ có thiện
tri thức tới nhắc nhở. [Trên thực tế],
cơ hội ấy quá ít! Chúng ta niệm Phật đă nhiều
năm, vẫn chẳng dám tạo ác nghiệp, mà tận tâm
tận lực tạo thiện nghiệp, vẫn chỉ sợ
rằng trong tương lai, đến lúc lâm chung, chẳng
có ai tới giúp chúng ta trợ niệm, sợ hăi chính ḿnh
không thể chánh niệm phân minh, huống hồ kẻ tạo
ác nghiệp! Có thể nào dự đoán sẵn là ắt sẽ
có thiện tri thức đến [giúp đỡ] hay không? Chẳng
thể đoan quyết điều đó được! Bản
thân chúng ta nhất định phải khéo cảnh giác. Tổ
sư khai thị: Thường ngày, hăy đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành. Đó chính là trợ
công phu, phải đặc biệt chú trọng. Chánh công phu
là niệm một câu danh hiệu A Di Đà Phật, như vậy
th́ mới ổn thỏa.
Dưới
đây là đoạn thứ hai:
(Kinh)
Mạng chung chi thời, kiến kim liên hoa, do như nhật
luân, trụ kỳ nhân tiền.
(經)命終之時,見金蓮華,猶如日輪,住其人前。
(Kinh:
Khi mạng chung, thấy hoa sen vàng như vầng mặt trời,
ở trước người ấy).
“Mạng chung chi thời”: Khi kẻ ngu ấy mạng
chung, c̣n chưa tắt thở, “kiến
kim liên hoa”, trông thấy hoa sen vàng, tức hoa sen kim sắc.
“Do như nhật luân”, sáng rực
rỡ như vầng thái dương to lớn, “trụ kỳ nhân tiền” (ở
trước người ấy), dừng ngay trước mặt
người sắp văng sanh. Đoạn thứ hai này nói về
duyên, đoạn thứ nhất trong phần trên là nhân. [Do
cái nhân ấy] cảm ứng cái duyên này, cảm ứng hoa
sen kim sắc đến tiếp dẫn người ấy.
Dưới
đây là đoạn thứ ba:
(Kinh)
Như nhất niệm khoảnh, tức đắc văng sanh
Cực Lạc thế giới.
(經)如一念頃,即得往生極樂世界。
(Kinh: Như
trong khoảng một niệm, liền được sanh về
thế giới Cực Lạc).
Đây
là đoạn thứ ba, hai đoạn trước nói về
nhân và duyên đầy đủ, đoạn thứ ba nói về
sự chánh thức văng sanh. Văng sanh nhanh chóng, nhanh chóng cỡ
nào? “Như nhất niệm khoảnh”
(Như trong khoảng một niệm), chúng ta dấy lên một
niệm nhanh lắm! Khi một người sơ ư, sẽ
dấy lên vài niệm mà vẫn chưa biết. Thời gian
vừa mới dấy lên một niệm ngắn ngủi nhất,
nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi, tạm
bợ ấy, chữ “khoảnh”
(頃) chỉ
thời gian. Trong thời gian ngắn ngủi như một
niệm, “tức đắc
văng sanh Cực Lạc thế giới”, bèn sanh về thế
giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức
cơi Phật xa xôi ngần ấy, văng sanh thế giới Cực
Lạc! Đó là sự chánh thức văng sanh.
Đọc
kinh văn đến đây, nghiên cứu bộ kinh này, [sẽ
thấy] văng sanh chẳng có vấn đề ǵ, văng sanh rất
tốt đẹp! Văng sanh rất thuận lợi! Nếu
dùng kinh khác để đối chiếu, [sẽ thấy] có
một vấn đề, tổ sư cũng có chú giải.
Lấy ngay ba kinh Tịnh Độ để nói, trong
đó có kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà Phật khi làm
tỳ-kheo Pháp Tạng, đă đối trước Thế
Tự Tại Vương Phật, phát ra bốn mươi
tám đại nguyện. Trong ấy, Ngài có nói chúng sanh từ
mười phương thế giới muốn sanh về
thế giới Cực Lạc, chỉ cần niệm danh
hiệu A Di Đà Phật, đức Phật sẽ đều
nghênh tiếp người ấy sanh về thế giới
Cực Lạc. Nhưng có một điều: Chúng sanh tạo
tội Ngũ Nghịch chẳng được bao gồm
trong ấy! Nói cách khác, trong bốn mươi tám nguyện
của kinh Vô Lượng Thọ, hễ là chúng sanh tạo
tội Ngũ Nghịch, sẽ không thể văng sanh. Trong bộ
kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật này, tức Thập Lục
Quán Kinh, lại nói chúng sanh tạo tội Ngũ Nghịch cũng
có thể văng sanh. Đấy chẳng phải là một vấn
đề ư?
Tổ
sư giải thích: Trong bốn mươi tám nguyện, nói “chúng
sanh Ngũ Nghịch không thể văng sanh” nhằm ư nghĩa cảnh
cáo, nhằm dạy chúng sanh chớ nên tạo ác nghiệp, nhằm
đề pḥng chuyện chưa xảy ra. Phàm là đối
với những chúng sanh chưa tạo ác nghiệp, răn
nhắc họ chớ nên tạo loại tội nghiệp ấy!
Đấy là dự pḥng trước, có tác dụng ngăn
ngừa. Quán Kinh nói tới kẻ đă tạo tội Ngũ
Nghịch, tức là đă trót tạo, đức Phật từ
bi, A Di Đà Phật từ bi như thế đó! Thấy
chúng sanh khổ sở như vậy, chỉ cần họ
xưng hô danh hiệu Phật, Ngài vẫn đến tiếp
dẫn. Đấy là đạo lư ǵ? Nói tỷ dụ! Giống
như cha mẹ dạy con thơ chớ nên làm chuyện xấu,
chớ nên chạy lung tung bên ngoài. “Nếu con làm chuyện xấu,
sẽ chẳng cho con về nhà!” Đó là cảnh cáo trước.
Lỡ như con thơ làm chuyện xấu, quả nhiên, nó
chẳng dám về nhà. Khi nó chẳng dám về nhà, cha mẹ
sẽ lo âu: “Đứa nhỏ này đi đâu rồi?” Tuy
nó làm chuyện xấu, lại bồn chồn mong sao trông thấy
nó ngay lập tức! Hy vọng nó sẽ trở về nhà
thật mau! Đó là tâm lư của cha mẹ. Thích Ca Mâu Ni Phật
cũng thế, mà A Di Đà Phật cũng thế, bất
cứ vị Phật nào đối với chúng sanh cũng
đều có tâm lư giống như cha mẹ đối với
con cái. Trước là cảnh cáo để ngăn ngừa
con phạm lỗi, dạy con đừng nên làm chuyện xấu.
Nếu làm chuyện xấu, nó vẫn là con cái của chính
ḿnh, vẫn nghĩ cách giúp nó sửa lỗi, hướng
thiện, quay đầu là bờ. Dựa vào điều này
để suy nghĩ, chúng ta có thể thấy đức Phật
rất từ bi!
Nhưng
chúng ta phải chú ư: Tuy đức Phật từ bi dường
ấy, chúng ta vẫn phải khuyên bảo những kẻ
b́nh phàm, ngàn muôn phần chớ nên tạo ác nghiệp, đừng
ôm giữ tâm lư cầu may, cứ nghĩ “chúng ta tạo ác
nghiệp th́ Phật giống như cha mẹ luôn quan tâm
chúng ta. Trong tương lai, tất nhiên là vẫn có thể
chiếu cố chúng ta”. Tuy nói chẳng sai, kẻ ấy khi
lâm chung gặp gỡ thiện tri thức [nhắc nhở, sẽ
xưng danh văng sanh], nhưng nếu chẳng gặp thiện
tri thức th́ sao? Gặp thiện tri thức, chính ḿnh c̣n phải
nghe lọt tai nữa. Nếu nghiệp chướng quá sâu,
chẳng gặp thiện tri thức, hoặc gặp thiện
tri thức mà vẫn chẳng nghe theo, vẫn là không xong mất
rồi! Sẽ giống như đứa trẻ đă làm chuyện
xấu, tuy cha mẹ ở nhà vẫn mong con trở về, nó
một mực lạc lối, chẳng quay về, vẫn
là chẳng có cách nào cả! Do vậy, tuy Phật chẳng bỏ
bất cứ chúng sanh ác nghiệp nào, nhưng hễ tạo
một loại ác nghiệp, sẽ là một loại chướng
ngại. Có những chướng ngại ấy, đối
với chuyện văng sanh sẽ đều là những vấn
đề rắc rối. Do vậy, chính ḿnh chẳng tạo
ác nghiệp vẫn tốt hơn. Chẳng tạo ác nghiệp,
văng sanh mới chẳng bị chướng ngại. Chúng ta
nhất định phải đặc biệt chú ư điều
này!
(Kinh)
Ư liên hoa trung, măn thập nhị đại kiếp, liên
hoa phương khai, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí,
dĩ đại bi âm thanh, vị kỳ quảng thuyết
chư pháp Thật Tướng, trừ diệt tội pháp,
văn dĩ hoan hỷ, ứng thời tức phát Bồ
Đề chi tâm.
(經)於蓮華中,滿十二大劫,蓮華方開。觀世音、大勢至,以大悲音聲,為其廣說諸法實相,除滅罪法。聞已歡喜,應時即發菩提之心。
(Kinh: Ở
trong hoa sen, măn mười hai đại kiếp, hoa sen mới
nở. Quán Thế Âm và Đại Thế Chí dùng âm thanh
đại bi v́ người ấy rộng nói Thật
Tướng của các pháp và pháp trừ diệt tội.
Nghe xong hoan hỷ, ngay lập tức phát Bồ Đề
tâm).
Đây là
đoạn thứ tư. Đoạn này nói về điều
tốt lành, lợi ích sẽ đạt được sau
khi văng sanh. Sau khi văng sanh, người ấy ở trong hoa sen, “ư
liên hoa trung”, hễ văng sanh bèn sanh trong hoa sen. Hoa sen khép lại,
ở ngay trong hoa sen ấy, “măn
thập nhị đại kiếp” (măn mười hai
đại kiếp), dài hơn người Hạ Phẩm
Trung Sanh. Người Hạ Phẩm Trung Sanh trải qua sáu
kiếp, hoa sen mới nở, thời gian [để hoa sen
nở của Hạ Phẩm Hạ Sanh] dài gấp đôi, mười
hai đại kiếp! “Liên hoa phương khai” (Hoa sen
mới nở): Sau khi hoa sen nở, trông thấy hai vị đại
Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ
Tát. Hai vị Bồ Tát ấy “dĩ
đại bi âm thanh, vị kỳ quảng thuyết chư
pháp Thật Tướng” (dùng âm thanh đại bi để
rộng nói Thật Tướng của các pháp), “dĩ” (以) là dùng. Dùng âm thanh đại
bi, v́ người ấy nói phổ biến, rộng răi Thật
Tướng của các pháp, dạy người ấy minh
tâm kiến tánh. Thật Tướng là bản tánh. Nói Thật
Tướng của các pháp khiến cho người ấy
thật sự hiểu rơ tâm pháp. “Trừ
diệt tội pháp”, nghe Thật Tướng của các
pháp chính là pháp trừ diệt tội, có thể tiêu diệt
tất cả tội nghiệp. Sau khi người ấy
nghe xong, “văn dĩ hoan hỷ”
[nghĩa là] nghe Thật Tướng của các pháp là pháp trừ
diệt tội, người ấy phát tâm hoan hỷ, “ứng thời tức phát Bồ
Đề chi tâm”, “ứng thời”
(應時) là lập
tức, sau khi đă nghe, khi sanh ḷng hoan hỷ, bèn phát tâm, phát
tâm ǵ? Phát tâm Bồ Đề, giác ngộ, tức là đại
tâm thành Phật, bèn phát đại tâm ấy.
Dưới
đây là một câu tiểu kết:
(Kinh)
Thị danh Hạ Phẩm Hạ Sanh giả.
(經)是名下品下生者。
(Kinh: Đó gọi
là Hạ Phẩm Hạ Sanh).
Câu
này kết luận phần Hạ Phẩm Hạ Sanh.
Kế
đó là hai câu nữa.
(Kinh)
Thị danh Hạ Bối sanh tưởng, danh đệ thập
lục Quán.
(經)是名下輩生想,名第十六觀。
(Kinh: Đó gọi
là tưởng sanh trong bậc Hạ, gọi là phép Quán thứ
mười sáu).
Hai
câu sau này: Đó gọi là bậc Hạ. Ba bậc có chín phẩm.
Ba bậc là bậc Thượng, bậc Trung, bậc Hạ.
“Hạ Bối Sanh tưởng”
bao gồm Hạ Phẩm Thượng Sanh, Hạ Phẩm
Trung Sanh, và Hạ Phẩm Hạ Sanh. Ba phẩm này gộp lại
gọi là phép Quán thứ mười sáu.
Nói
đến đây, chúng ta phải liễu giải Tŕ Danh Niệm
Phật đôi chút. Chúng ta thường nghe thiện tri thức
nói: “Pháp môn Niệm Phật thích
hợp khắp ba căn”. “Thích
hợp khắp ba căn” là nói tới loại niệm Phật
nào? Nói thông thường, niệm Phật có bốn loại
phương pháp: Tŕ Danh Niệm Phật, Quán Tượng Niệm
Phật tức quán tượng Phật, Quán Tưởng Niệm
Phật chính là các môn quán tưởng trong phần trước
của Thập Lục Quán Kinh, và Thật Tướng Niệm
Phật. Thật Tướng Niệm Phật chẳng cần
nói tới. Đó là cảnh giới niệm Phật cao nhất,
chúng ta chẳng thể làm được. Quán Tượng Niệm
Phật cũng chẳng đơn giản. Quán Tưởng
Niệm Phật chính là như trong phần trước chúng
tôi đă nói về nhật quán, thủy quán, măi cho đến
quán Tây Phương Tam Thánh, đều chẳng dễ dàng.
Nó có tŕnh tự nhất định, tuyệt đối chẳng
phải là chúng sanh trong hiện thời [mà ḥng tu tập]. Mọi
người trong xă hội bận bịu dường ấy,
ai có chuyện của người nấy. Lại c̣n hoàn cảnh
xă hội xấu hèn như thế, chúng ta tu [pháp quán tưởng
ấy] sao được? Chẳng làm được! Lại
chẳng có thiện tri thức thật sự chỉ dạy,
bản thân chúng ta chẳng có cách nào vận dụng công phu.
Chính ḿnh tu mù luyện đui, hễ tu, tất nhiên là hỏng
bét mất rồi. V́ thế, chúng ta chẳng tu Quán Tưởng
Niệm Phật được, mọi người
cũng chẳng cần phải tu theo. Quan trọng nhất
là Tŕ Danh Niệm Phật. Không chỉ là kinh Tiểu Bổn
A Di Đà Phật chuyên giảng [pháp môn ấy], kinh này nói
đến cuối cùng cũng là Tŕ Danh Niệm Phật.
Chúng ta nghiên cứu kinh Phật giống như thưởng
thức thơ ca trong thế gian. Thơ có những ư vượt
ngoài ngôn từ. Cách quán tưởng nói trong phần trước
của bộ Thập Lục Quán Kinh này khá lắm, tốt
lắm! Chúng ta chẳng làm được! Nói đến cuối
cùng, chỉ có Tŕ Danh Niệm Phật. Người căn
khí thượng đẳng không hành quán tưởng, mà tŕ
danh niệm Phật, [do] người ấy trí huệ cao,
công phu càng mau chóng. Chúng ta là những kẻ trí huệ chẳng
đến nơi, tŕ danh niệm Phật vẫn có thành tựu
giống y hệt. Đối với người thuộc
ba loại căn khí Thượng, Trung, Hạ, [tŕ danh niệm
Phật] thích hợp khắp ba căn; tŕ danh niệm Phật
bất luận thượng, trung, hạ căn đều
có thể thành tựu. “Thích hợp
khắp ba căn” chuyên môn nói về Tŕ Danh Niệm Phật.
Chúng ta liễu giải điều này: Tổ sư và thiện
tri thức đều dạy chúng ta thật thà niệm Phật.
Thật thà niệm Phật là [chuyên tŕ niệm] một câu Phật
hiệu, tức Tŕ Danh Niệm Phật. Bất luận
người ta nói pháp môn khác hay ho tới cỡ nào, chúng ta
chẳng vứt bỏ một câu Phật hiệu, cứ thật
thà một mực niệm miết, nhất định sẽ
đạt thành tựu. Hôm nay, tôi giảng đến chỗ
này bèn ngưng.
Tập 50
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu!
Giảng
đă hơn một năm, hôm nay có thể giảng viên măn
bộ kinh này, Thời gian giảng dài như thế đó! Hôm
nay, trước khi bắt đầu giảng, tôi sẽ nhắc
lại đôi chút kinh văn trong các phần trước, rồi
mới giảng phần kinh văn của ngày hôm nay. Bộ
kinh này là một kinh rất trọng yếu trong ba kinh Tịnh
Độ. Kinh văn vừa khởi đầu, có nói phu
nhân Vi Đề Hy và quốc vương gặp chuyện thái
tử đại nghịch bất đạo muốn sát hại
cha mẹ. Sau đấy, [nỗi bi thương của phu
nhân] dẫn khởi Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp cho bà
ta. Phu nhân Vi Đề Hy liền thưa: Chúng con ở trong thế
gian này quá khổ năo, con cái do chính ḿnh nuôi dạy xấu hèn
như thế đó! Nghĩ ra, tâm lư của phàm nhân chẳng
đều chẳng có ǵ là tốt đẹp. V́ thế, bà ta
thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật dạy bảo một chỗ
thanh tịnh nhất, chẳng thấy hoàn cảnh xấu
hèn như vậy nữa! Thích Ca Mâu Ni Phật liền nói về
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau khi đức
Phật nói đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, phu nhân Vi Đề Hy thỉnh cầu: “Làm như
thế nào th́ mới có thể đến đó?” Đức
Phật dạy bà ta: Trước hết, phải chuẩn
bị tâm lư thanh tịnh, bằng cách tu ba thứ tịnh
nghiệp để làm chánh nhân văng sanh thế giới Cực
Lạc. Tiếp đó, đức Phật dạy phương
pháp Quán Tưởng Niệm Phật, gồm có tất cả
mười sáu phép Quán. V́ thế, bộ kinh này c̣n gọi là
Thập Lục Quán Kinh.
Phần
trước của Thập Lục Quán Kinh nói về phép
Quán Tưởng Niệm Phật, dùng công phu nhập Định,
có thể trong khi quán tưởng trông thấy hoàn cảnh của
Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, trong
tương lai có thể văng sanh. Kẻ b́nh phàm chẳng thể
tu các phép Quán ấy được; v́ thế, sau khi nói xong
phép Quán thứ mười ba, ba phép Quán kế đó là các
phép Quán thứ mười bốn, thứ mười
lăm và thứ mười sáu bèn dùng phương pháp khác.
Dùng phương pháp ǵ vậy? Chính là phương pháp ba bậc
chín phẩm văng sanh. Ba bậc chín phẩm là:
1)
Bậc Thượng có ba phẩm, tức là người thuộc
căn khí thượng đẳng, làm các thứ công đức.
Dùng công đức ấy hồi hướng phát nguyện
ḥng được văng sanh.
2) Bậc
Trung cũng có ba phẩm, cũng làm rất nhiều chuyện
công đức, cũng hồi hướng phát nguyện
văng sanh.
3) Cho
đến ba phẩm trong bậc Hạ. Kẻ thuộc bậc
Hạ làm rất nhiều chuyện ác, tạo rất nhiều
ác nghiệp, làm chuyện xấu rất nhiều, nhất
là Hạ Phẩm Hạ Sanh, đại tội Ngũ Nghịch
Thập Ác cũng đều tạo.
Do vậy,
ba phép Quán thứ mười bốn, mười lăm, và
mười sáu đều là niệm Phật văng sanh. Hai bậc
Thượng và Trung là hồi hướng, bậc Hạ
thuần túy là tŕ danh niệm Phật văng sanh. Chúng ta liễu
giải t́nh h́nh đại khái trong phần trước như
thế.
Cách
quán tưởng trong phần trước cũng vậy,
cho đến phép Niệm Phật cuối cùng cũng vậy,
đều nói về chuyện văng sanh. Ở Đài Trung,
chúng ta học pháp môn Tịnh Độ với ân sư Tuyết
công, đây là pháp môn đặc biệt. Pháp môn thông thường
th́ Thiền gia tham Thiền, Mật Tông tŕ chú, Thiên Thai Tông
tu Chỉ Quán, Duy Thức Tông tu Duy Thức Quán v.v… đều
là các pháp môn thông thường. Trong pháp môn thông thường,
nhất định phải đoạn sạch sành sanh Kiến
Tư Hoặc th́ mới có thể thoát ly lục đạo
luân hồi. Nếu có một tí Kiến Tư Hoặc c̣n
chưa đoạn sạch, sẽ chẳng thể thoát ly lục
đạo luân hồi, chẳng thể liễu sanh tử. Pháp
môn Tịnh Độ Tông đặc biệt, quư vị có thể
niệm Phật, niệm đến mức nhất tâm bất
loạn, cũng đoạn trừ Kiến Tư Hoặc,
đương nhiên là càng tốt hơn! Chẳng niệm
đến mức nhất tâm bất loạn, chẳng đoạn
Kiến Tư Hoặc cũng được, đó là đới
nghiệp văng sanh. Trong một đời này, chúng ta đă tạo
chẳng ít chuyện xấu; dẫu đời này chúng ta chẳng
làm chuyện xấu nào, nhưng đời trước cũng
đă từng tạo rất nhiều ác nghiệp. Chỉ cần
có ác nghiệp tồn tại, chẳng đoạn sạch
Hoặc, sẽ chẳng thể liễu sanh tử. Nhưng
trong pháp môn Niệm Phật, chẳng đoạn sạch
[Hoặc] chẳng sao cả. Thậm chí chẳng đoạn
một phẩm Hoặc nào cũng chẳng sao, đới
nghiệp văng sanh, cậy vào Phật hiệu A Di Đà Phật
để mang nghiệp sang thế giới Cực Lạc.
Hễ đến nơi đó, tất nhiên là sẽ có thể
đoạn. Đây là pháp môn đặc biệt. Chúng ta hăy
nhớ lại những ư nghĩa chánh yếu của bộ
kinh này đă được nói trong phần trước;
sau đấy, xem phần kinh văn hôm nay. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn.
IV.2.3. Kết luận về
lợi ích thù thắng
(Kinh)
Thuyết thị ngữ thời, Vi Đề Hy, dữ
ngũ bách thị nữ, văn Phật sở thuyết, ứng
thời tức kiến Cực Lạc thế giới quảng
trường chi tướng, đắc kiến Phật
thân, cập nhị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, thán vị tằng
hữu, hoát nhiên đại ngộ, đăi Vô Sanh Nhẫn. Ngũ
bách thị nữ, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề tâm, nguyện sanh bỉ quốc. Thế Tôn tất
kư, giai đương văng sanh, sanh bỉ quốc dĩ, hoạch
đắc Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Vô
lượng chư thiên, phát vô thượng đạo tâm.
(經)說是語時,韋提希,與五百侍女,聞佛所說,應時即見極樂世界廣長之相。得見佛身,及二菩薩。心生歡喜,歎未曾有。豁然大悟,逮無生忍。五百侍女,發阿耨多羅三藐三菩提心,願生彼國。世尊悉記,皆當往生。生彼國已,獲得諸佛現前三昧。無量諸天,發無上道心。
(Kinh: Nói lời
ấy xong, Vi Đề Hy và năm trăm thị nữ, nghe
lời Phật dạy, ngay lập tức thấy tướng
rộng lớn của thế giới Cực Lạc,
được thấy thân Phật và
hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỷ, khen ngợi là chưa
từng có, hoát nhiên đại ngộ, đạt đến
Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sanh về cơi ấy.
Đức Thế Tôn thọ kư họ đều được
văng sanh. Đă sanh về cơi ấy, đạt
được Chư Phật Hiện Tiền tam-muội.
Vô lượng chư thiên phát vô thượng đạo tâm).
Thông
thường, kinh Phật được chia thành ba phần
lớn: Phần thứ nhất là Tự Phần, phần
thứ hai là Chánh Tông Phần, phần giữa này là quan trọng
nhất. Chánh Tông Phần của Thập Lục Quán Kinh có
ba phần: Trước hết, nói về ba thứ tịnh
nghiệp, tức là điều kiện ắt phải trọn
đủ để văng sanh. Tiếp đó, phần thứ
hai là mười sáu phép Quán, tổng cộng mười sáu
phép Quán. Cuối cùng nói đến lợi ích và những
điều tốt đẹp đạt được từ
mười sáu phép Quán. Đoạn vừa mới niệm
chính là phần thứ ba của Chánh Tông Phần, nói đến
lợi ích sẽ đạt được do nghiên cứu
bộ kinh này và vận dụng công phu.
“Thuyết thị ngữ thời”:
Khi Thích Ca Mâu Ni Phật nói những lời này, nói những lời
ǵ? Chính là ba thứ tịnh nghiệp cùng với mười
sáu phép Quán. Khi giảng xong mười sáu phép Quán, “Vi Đề Hy dữ ngũ bách thị
nữ” (bà Vi Đề Hy và năm trăm nàng hầu), Vi
Đề Hy là phu nhân của quốc vương. Tuy gặp
cảnh ngộ đứa con hại bà, nhưng c̣n có
năm trăm thị nữ tùy tùng cùng nghe đức Phật
giảng giải phương pháp và đạo lư. “Văn Phật sở thuyết”:
Sau khi họ nghe đức Phật giảng sự lư, “ứng thời tức kiến thế
giới Cực Lạc quảng trường chi tướng”, “ứng thời” (應時) là ngay lập
tức, lúc ấy, phu nhân Vi Đề Hy cùng với năm
trăm thị nữ chính mắt trông thấy tướng
rộng lớn của thế giới Cực Lạc.
Tướng ấy rộng như thế nào? Lớn như
thế nào? Từ kinh văn trong các phần trước,
chúng ta có thể tưởng tượng từng gốc
cây, từng phiến lá trong thế giới Cực Lạc.
Hăy ngẫm xem: Một phiến lá trong thế giới Cực
Lạc c̣n to hơn quả địa cầu, huống hồ
một cái cây sẽ to cỡ nào? Hoa sen trong ao bảy báu, mỗi
cánh hoa to cỡ nào? V́ thế, do nghiên cứu kinh văn trong
phần trước, chúng ta đă biết, tâm chúng ta dựa
theo kinh văn để suy tưởng, [ắt sẽ nhận
ra]: Thế giới Cực Lạc quá to lớn! Toàn thể
quả địa cầu bỏ trong một cánh của một
đóa sen nhỏ trong thế giới Cực Lạc vẫn
chẳng thấy đâu cả! Thế giới này quá nhỏ
bé! Phu nhân Vi Đề Hy cùng với năm trăm thị nữ
trông thấy tướng rộng lớn của thế giới
Cực Lạc. Đấy là hoàn cảnh y báo. “Đắc kiến Phật thân”:
Trông thấy A Di Đà Phật. Trong phần trước,
phu nhân Vi Đề Hy cũng thấy A Di Đà Phật,
nhưng đấy là do sức của Thích Ca Mâu Ni Phật,
cậy vào sức của đức Phật khiến cho phu
nhân Vi Đề Hy trông thấy. Khi ấy, sau khi phu nhân Vi
Đề Hy nghe đức Phật giảng xong mười
sáu phép Quán, bà ta vừa nghe vừa dụng công. Đấy
là bậc trí huệ thượng đẳng. Do đó, vừa
nghe xong, công phu cũng đạt được, tự
ḿnh trông thấy đại thân (Báo Thân) của A Di Đà Phật,
“cập nhị Bồ Tát”, c̣n có hai vị Bồ Tát, tức
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, “tâm sanh hoan hỷ”. Phu nhân Vi
Đề Hy và năm trăm thị nữ sanh tâm hoan hỷ,
“thán vị tằng hữu”
[nghĩa là] cảm thán “trước nay chưa hề thấy
hoàn cảnh tốt đẹp ngần ấy!” chưa hề
thấy A Di Đà Phật và hai vị Bồ Tát như vậy.
Ngay khi đó, “hoát nhiên đại
ngộ”, tâm hoàn toàn lănh ngộ Lư, thật sự đại
triệt đại ngộ. “Đăi
Vô Sanh Nhẫn” là đạt được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Trong phần trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo
bà ta hăy khéo nghe, khéo học, học thành công bèn có thể
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Quả nhiên, nghe xong mười
sáu phép Quán, bà ta đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đoạn
này nói: Phu nhân Vi Đề Hy đă đắc Vô Sanh Nhẫn.
Trong
đoạn kinh văn này, chúng ta phải chú ư: Phu nhân Vi
Đề Hy và năm trăm thị nữ có thể thấy
thế giới Cực Lạc, thấy A Di Đà Phật
cùng với hai vị đại Bồ Tát là v́ đạo lư
nào vậy? V́ sao bọn phàm nhân chúng ta chẳng thấy?
Lũ phàm phu tầm thường chúng ta suốt ngày từ
sáng đến tối trong tâm suy nghĩ chẳng ngoài những
chuyện ta và người trong thế gian, hoặc là [so
đo] kẻ này có lỗi với ta, hoặc chuyện thị
phi giữa ta và người khác, hoặc tham cầu vật
dụng trong thế gian, tiền tài, quyền lực, địa
vị v.v… Tư tưởng trong tâm kẻ b́nh phàm chẳng
suy tưởng ra ngoài những chuyện ấy. Nói theo Phật
pháp, những chuyện ấy đều là pháp sanh diệt.
Đại hoàng đế thời cổ hoặc đại
tổng thống trong hiện thời, có quyền lực và
vị trí rất cao. Lúc chưa đạt được
th́ mong đạt được. Sau khi đă đạt
được, lại sợ mất đi, sợ bị người
khác đoạt mất. [Suy nghĩ] chẳng ngoài những
chuyện ấy. Tư tưởng và tâm lư của mỗi
người dùng hết vào những thứ ấy, làm cách
nào cũng chẳng trông thấy cảnh giới rất tốt
đẹp nào khác! Bởi lẽ, phu nhân Vi Đề Hy bị
những nỗi đả kích ấy, con ruột của
chính ḿnh toan sát hại ḿnh, bị đả kích lớn nhất,
cũng nghĩ hết thảy mọi chuyện trong thế
gian đều là giả, đều chẳng đáng tin cậy!
V́ thế, bà ta có thể tập trung tinh thần, có thể
có đủ định lực để chuyên tâm nhất
trí nghe đức Phật giảng pháp. Kết quả là sau
khi nghe xong, bà ta có thể chính mắt thấy thế giới
Cực Lạc. Do vậy, chúng ta cũng có thể biết:
Một người mong thành tựu trong tu đạo,
tư tưởng nhất định phải đơn
thuần hóa, chớ nên quá phức tạp, mong thứ này, muốn
thứ kia, tham luyến đủ thứ lợi ích trong thế
gian! Danh và lợi đều chẳng cần nữa! Càng
tham luyến danh lợi thế gian, càng chẳng có cách nào
trông thấy cảnh giới thanh tịnh, cảnh giới tốt
đẹp. Đấy là một nguyên nhân. Người tu
đạo nhất định phải tận hết sức
trừ bỏ, đào thải những tư tưởng phức
tạp, phải chuyên tâm! Trước khi giảng mười
sáu phép Quán, trước hết, đức Phật dạy
ba thứ tịnh nghiệp, phải thanh tịnh!
“Hoát nhiên đại ngộ,
đăi Vô Sanh Nhẫn”: Cái tâm của bọn phàm nhân chúng
ta chẳng rỗng rang, tâm toàn là bế tắc. V́ sao bế
tắc? Toàn là bị tư tưởng phức tạp trong
thế gian khiến cho tâm linh bế tắc. Bà ta vừa
nghe đức Phật giảng pháp, tâm linh rộng mở,
rỗng rang, ngộ ǵ? Ngộ tâm tánh mà chính ḿnh vốn sẵn
có, ngộ hết thảy các pháp trong thế gian thoắt
sanh thoắt diệt. Sau khi đă sanh liền diệt, thiên
nhiên cũng thế, mà nhân gian cũng thế, hết thảy
mọi chuyện đều là sanh sanh diệt diệt vô
thường. Có sanh, tất nhiên có diệt. Đấy là
đạo lư nhất định. Đắc Vô Sanh Nhẫn,
sẽ biết hết thảy các pháp trong thế gian đều
là pháp sanh diệt, đều là giả. Vô Sanh Pháp là bất
sanh, bất diệt. Tuy chúng ta ở trong thế gian sanh diệt,
nếu thấy rơ ràng, có thể trực tiếp liễu giải,
chứng cảnh giới Vô Sanh (bất sanh, bất diệt),
sẽ có thể giải thoát sanh tử luân hồi, thoát ly lục
đạo luân hồi. Đó gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Kế
đó, “ngũ bách thị nữ”
(năm trăm nàng hầu) bèn “phát
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm”. A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là tiếng Phạn,
là danh xưng trong tiếng Cổ Ấn Độ, dịch
nghĩa sang tiếng Hán là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, cũng chính là Phật. [“Phát
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm”]
chính là phát tâm thành Phật. “Nguyện
sanh bỉ quốc”, sau
khi đă phát tâm thành Phật, ở ngay trong thế gian này tu
tập, tu thành Phật th́ tốt lắm chứ! [Thế nhưng]
chúng ta tu trong thế gian này quá khó khăn, ắt phải
phát nguyện sanh về cơi kia (tức thế giới Cực
Lạc). Đến thế giới Cực Lạc để
tu hành, [sẽ thành tựu] hết sức mau chóng. Do vậy,
phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc. “Thế Tôn tất kư, giai
đương văng sanh”: Thích Ca Mâu Ni Phật bèn thọ kư
cho năm trăm thị nữ, thọ kư mỗi người
trong bọn họ sẽ đều văng sanh. Trong tương
lai, khi thọ mạng đă hết, sẽ đều có thể
sanh về thế giới Cực Lạc. “Sanh bỉ quốc dĩ”: Sau khi đă sanh vào thế
giới Cực Lạc, “hoạch
đắc Chư Phật Hiện Tiền tam-muội”,
đều có thể ở trước chư Phật, chủ
yếu là ở trước Thích Ca Mâu Ni Phật, ngay lập
tức chứng đắc tam-muội (tức đại
định). “Vô lượng
chư thiên, phát vô thượng đạo tâm”: Ngoài
năm trăm thị nữ phát tâm thành Phật ra, c̣n có vô
lượng chư thiên. Vô lượng chư thiên đến
đây như thế nào? Khi Thích Ca Mâu Ni Phật đến
vương cung để thuyết pháp cho phu nhân Vi Đề
Hy, c̣n có vô lượng chư thiên theo đến nghe pháp.
Nghe [đức Phật giảng giải] đến lúc ấy,
trông thấy phu nhân Vi Đề Hy đích thân nh́n thấy thế
giới Cực Lạc, cũng như đắc Vô Sanh Nhẫn.
Lại thấy năm trăm thị nữ đều phát tâm
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mong sanh về thế
giới Cực Lạc. V́ thế, vô lượng chư
thiên (“vô lượng” là số
lượng quá nhiều, chẳng biết rơ số) đồng
thời đều phát vô thượng đạo tâm,
cũng là cái tâm thành Phật. Đoạn này nói về sự
lợi ích đạt được do học bộ kinh
này
IV.3. Lưu Thông Phần
Ba
phần lớn của Chánh Tông Phần đă nói xong, phần
kế đó chính là Lưu Thông Phần của bộ kinh
này. Phía trước là Tự Phần, chính giữa là Chánh
Tông Phần, phần sau là Lưu Thông Phần. Lưu Thông Phần:
“Lưu” (流) là giống như
nước chảy xuôi gịng; Thông (通) là thông đạt. Đây là nói tỷ dụ.
Đức Phật giảng pháp, không chỉ là khiến cho
người ngay trong thuở đó đạt được
những điều tốt đẹp, mà c̣n khiến cho mọi
người ở các nơi trong đời sau đều
đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Do
vậy, phải truyền bá Phật pháp, điều ấy
được gọi là “lưu
thông”. Dưới đây sẽ nói về Lưu Thông Phần,
Phần (分) là bộ
phận, [Lưu Thông Phần nghĩa là] bộ phận
lưu thông này!
Lưu
Thông Phần của bộ kinh này khá đặc biệt một
chút, gồm hai bộ phận: Một bộ phận do Thích
Ca Mâu Ni Phật nói trong vương cung; bộ phận kia là
sau khi đă giảng trong vương cung xong, đức Phật
trở về núi Linh Thứu, cũng là Linh Sơn. Sau khi
đă về tới Linh Sơn, tôn giả A Nan là người
đă theo Thích Ca Mâu Ni Phật đến vương cung, bèn
nhắc lại pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng
trong vương cung một lượt. Do vậy, phần
thứ hai của Lưu Thông Phần (phần tối hậu)
được nói tại Linh Sơn.
Trước
hết, nói đến Lưu Thông Phần tại hoàng cung:
(Kinh)
Nhĩ thời A Nan, tức tùng tọa khởi, bạch Phật
ngôn: “Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh? Thử
pháp chi yếu, đương vân hà thọ tŕ?” Phật cáo
A Nan: “Thử kinh danh Quán Cực Lạc Quốc Độ,
Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát,
Đại Thế Chí Bồ Tát. Diệc danh Tịnh Trừ
Nghiệp Chướng, Sanh Chư Phật Tiền. Nhữ
đương thọ tŕ, vô linh vong thất”.
(經)爾時阿難,即從座起,白佛言:世尊,當何名此經?此法之要,當云何受持?佛告阿難:此經名觀極樂國土,無量壽佛,觀世音菩薩,大勢至菩薩。亦名淨除業障,生諸佛前。汝當受持,無令忘失。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
bạch với Phật rằng: “Bạch đức Thế
Tôn! Nên đặt tên kinh này là ǵ? Hăy nên thọ tŕ chỗ trọng
yếu trong pháp này như thế nào?” Đức Phật bảo
A Nan: “Kinh này gọi là Quán Cực Lạc Quốc Độ,
Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát. Cũng gọi là Tịnh Trừ Nghiệp
Chướng, Sanh Chư Phật Tiền. Ông hăy nên thọ
tŕ, đừng để quên mất”).
“Nhĩ thời”, ngay sau
lúc vừa nói trên đây, “A Nan tức
tùng ṭa khởi”: Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, “bạch Phật
ngôn”, thưa bẩm cùng Phật, hỏi Phật. “Thế Tôn”: Thế Tôn là một
hiệu của Thích Ca Mâu Ni
Phật.
“Đương hà danh thử
kinh?” Tôn giả A Nan hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, bộ
kinh này phải đặt tên là ǵ? Ngoài ra, c̣n hỏi “thử pháp chi yếu” tức
mười sáu phương pháp Quán, “đương vân hà thọ tŕ?” Hăy nên học tập
như thế nào? “Phật cáo A
Nan”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan: “Thử kinh danh Quán Cực Lạc
Quốc Độ, Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế
Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát”, danh xưng
này khá dài, dựa theo ư nghĩa được giảng trong
kinh. Trước hết là quán cơi nước Cực Lạc,
v́ mười sáu phép Quán khởi đầu bằng quán hoàn
cảnh của Tây Phương Cực Lạc thế giới.
V́ thế nói là “quán tưởng
Cực Lạc quốc độ”. Kế đó, quán Tây
Phương Tam Thánh, tức Vô Lượng Thọ Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát. Đấy
là danh xưng do Thích Ca Mâu Ni Phật đặt cho bộ
kinh này. Ngoài danh xưng ấy ra, “diệc
danh Tịnh Trừ Nghiệp Chướng, Sanh Chư Phật
Tiền”, lại c̣n có thể gọi là Tịnh Trừ Nghiệp
Chướng, Sanh Chư Phật Tiền. V́ muốn văng sanh
thế giới Cực Lạc để thấy Tây
Phương Tam Thánh, ắt phải diệt trừ rất
nhiều tội nghiệp và chướng ngại của
chính ḿnh. Bộ kinh này trừ nghiệp chướng, dùng
các thứ tịnh nghiệp do chính ḿnh đă tu để diệt
trừ rất nhiều tội nghiệp chướng ngại
của chính ḿnh. Nếu là như vậy th́ sẽ có thể
sanh trước chư Phật. Đấy là danh xưng thứ
hai.
“Nhữ đương thọ
tŕ, vô linh vong thất” (Ông hăy nên thọ tŕ, chớ để
quên mất). Trả lời câu hỏi “thọ tŕ như thế nào” của tôn giả A
Nan. Quư vị chớ nên quên bẵng, hăy chiếu theo
phương pháp đă được nghe để học.
“Thọ” (受) là tiếp nhận, “tŕ” (持) là chớ nên quên bẵng, phải một mực
tu tập. Đấy là lời đáp cho câu hỏi thứ
hai.
Dưới
đây là lợi ích do thọ tŕ.
(Kinh)
Hành thử tam muội giả, hiện thân đắc kiến
Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị đại
sĩ. Nhược thiện nam tử, cập thiện nữ
nhân, đản văn Phật danh, nhị Bồ Tát danh, trừ
vô lượng kiếp sanh tử chi tội, hà huống ức
niệm! Nhược niệm Phật giả,
đương tri thử nhân, tắc thị nhân trung Phân
Đà Lợi hoa, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế
Chí Bồ Tát, vị kỳ thắng hữu, đương
tọa đạo tràng, sanh chư Phật gia.
(經)行此三昧者,現身得見無量壽佛,及二大士。若善男子,及善女人,但聞佛名,二菩薩名,除無量劫生死之罪,何況憶念。若念佛者,當知此人,則是人中分陀利華。觀世音菩薩,大勢至菩薩,為其勝友。當坐道場,生諸佛家。
(Kinh: Người
hành tam-muội này, nơi thân hiện tại được
thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị đại
sĩ. Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhân chỉ
nghe danh hiệu Phật và danh hiệu hai vị Bồ Tát, sẽ
trừ tội sanh tử trong vô lượng
kiếp, huống hồ ức niệm! Nếu là người
niệm Phật, hăy nên biết người ấy là hoa sen
trắng trong loài người. Quán Thế Âm Bồ Tát
và Đại Thế Chí Bồ Tát là bạn thù thắng của
người ấy, sẽ ngồi đạo tràng, sanh trong
nhà chư Phật).
Đoạn
này nói đến những điều tốt đẹp do tu
tam-muội. Tu phương pháp Quán Tưởng Niệm Phật,
đương nhiên là đắc tam-muội. “Hành thử tam-muội giả”,
chiếu theo như thế để tu hành, “hiện thân đắc kiến Vô Lượng Thọ
Phật, cập nhị đại sĩ”, nơi thân hiện
tại có thể trông thấy A Di Đà Phật, và đại
Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí trong thế giới
Cực Lạc. Có lợi ích như vậy đó! Trông thấy
đức Phật và hai vị đại Bồ Tát lại
có lợi ích ǵ? Nay chúng ta niệm Phật, rất khó bảo
đảm chẳng thoái chuyển. Niệm tới, niệm
lui, hễ gặp chuyện chẳng vừa ư, chuyện chẳng
thoải mái, trong tâm liền biến chuyển, ngă ḷng. Niệm
Phật đă lâu như thế, cớ sao vẫn gặp những
chuyện chẳng vừa ư ấy? Chẳng đủ tín
tâm, chẳng đủ nguyện lực. Thật sự thấy
A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế
Chí Bồ Tát, tuyệt diệu thay! Tín tâm sẽ tuyệt
đối chẳng lui sụt! Bất quá, ở đây,
chúng ta mừng rỡ, may mắn là có tổ sư Ấn
Quang (tổ Ấn Quang là Đại Thế Chí Bồ Tát tái
lai). Chúng ta gián tiếp, chẳng trực tiếp gặp tổ
sư Ấn Quang. Thầy chúng ta đă trực tiếp gặp
gỡ tổ sư Ấn Quang, là đệ tử của tổ
sư Ấn Quang. Chúng ta có tín tâm kiên cố đối với
pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật, đấy là chỗ
đáng mừng rỡ, may mắn của chúng ta. Hành Niệm
Phật tam-muội, nơi thân hiện tại có thể thấy
Phật, Bồ Tát. Công phu tốt đẹp sẽ ngay lập
tức trông thấy.
“Nhược thiện nam tử,
cập thiện nữ nhân”, bất luận nam chúng hoặc
nữ chúng, “đản văn
Phật danh, nhị Bồ Tát danh”, chỉ cần nghe danh
hiệu A Di Đà Phật và danh hiệu của hai vị Bồ
Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, “trừ vô lượng kiếp sanh tử chi tội”,
có thể diệt trừ tội sanh tử trong vô lượng
kiếp. Thời gian vô lượng kiếp quá dài, chúng ta suốt
một đời dốc sức làm chuyện tội ác, mỗi
tội ác là một phen sanh tử. Đời đời kiếp
kiếp tạo tác, tích lũy, tạo tội nghiệp trong
thời gian vô lượng kiếp dài lâu như vậy, quư
vị chỉ cần nghe danh xưng của Phật và danh xưng
của hai vị Bồ Tát, sẽ có thể diệt trừ
tội nghiệp. “Hà huống ức
niệm” (Huống chi ức niệm). Chúng ta ức Phật,
niệm Phật, kể cả Quán Tưởng Niệm Phật
trong phần trước cùng với Tŕ Danh Niệm Phật,
sẽ có công hiệu chẳng thể nghĩ bàn! Ở
đây, chúng ta phải liễu giải “ức niệm”! Mười ba phép Quán đầu
tiên trong mười sáu phép Quán đều phải dựa
theo phương pháp nhất định, c̣n phải có thiện
tri thức chỉ dạy th́ mới có thể vận dụng
công phu. Chúng ta là hạng người căn khí bậc trung,
sống trong thời đại công thương nghiệp
hiện thời, mọi người công việc rất bận
bịu, há có thời gian nhiều ngần ấy để
ngồi một chỗ nhập Định quán tưởng?
Đó là chuyện chẳng thể làm được! Hễ
có đôi chút sai sót, sẽ chẳng thể quán được,
mà c̣n bị hại, chúng ta chẳng có cách nào. Không chỉ là
hiện thời chẳng làm được, mà ngay trong thuở
ấy, cũng rất khó khăn. Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật
nói ba phép Quán thứ mười bốn, mười lăm,
và mười sáu nhằm dạy mọi người tu Tŕ
Danh Niệm Phật. Nhất là trong phép Quán thứ mười
sáu, kẻ văng sanh đều là kẻ tạo ác nghiệp,
đều là trong lúc lâm chung, gặp gỡ thiện tri thức
chỉ dạy người ấy pháp môn Niệm Phật, tức
Tŕ Danh Niệm Phật. Mỗi một câu niệm Phật
diệt trừ bao nhiêu là tội! Từ chỗ này, có thể
thấy Tŕ Danh Niệm Phật, tức tŕ một câu danh hiệu
A Di Đà Phật, đích xác là có sức công hiệu chẳng
thể nghĩ bàn. Chúng ta liễu giải tầng [ư
nghĩa] này. Bất luận chúng ta là căn khí như thế
nào (giả sử chúng ta là căn khí thượng đẳng
đi nữa! Thật ra, chẳng phải vậy). Giả
thiết chúng ta là căn khí thượng đẳng, nếu
tu theo những [pháp quán tưởng] trên đây, vẫn phải
hao công tốn sức mới có thể tu tập tốt
đẹp được. Nếu chúng ta chẳng tu
phương pháp ấy, chỉ có Tŕ Danh Niệm Phật, sẽ
thong dong cỡ nào! Học càng nhanh chóng hơn! Người
căn khí hạ đẳng có thể tu tập tốt
đẹp, người căn khí thượng đẳng
tu hành càng tốt hơn, càng mau chóng hơn! Chúng ta nghiên cứu
mười sáu phép Quán cho đến hiện thời đă
có thể lănh ngộ đạo lư này. V́ thế, cuối
cùng, tổ sư bảo: Bổn ư của Thích Ca Mâu Ni Phật
là dạy chúng ta thật thà học Tŕ Danh Niệm Phật.
Niệm danh hiệu A Di Đà Phật đáng tin cậy nhất,
mà hiệu quả cũng tốt nhất.
“Nhược niệm Phật giả”,
nếu là người chịu niệm Phật, “đương tri thử nhân, tắc
thị nhân trung Phân Đà Lợi hoa”: Một người
chịu niệm Phật, lại c̣n có thể thật thà tŕ
danh niệm Phật, hăy nên biết người ấy là hoa
Phân Đà Lợi trong loài người! Phân Đà Lợi Hoa (Pundarīka pushpa) là từ ngữ
Ấn Độ, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Bạch
Sắc Liên Hoa. Hoa sen có các thứ màu sắc, hoa sen trắng
là loại hoa sen đẹp nhất, dùng chuyện này để
h́nh dung người ấy. Mỗi người chúng ta học
Phật cũng chẳng dễ dàng. Hăy ngẫm xem, người
trên toàn thể thế giới đông đảo ngần ấy,
người học Phật chẳng thấm vào đâu!
Trong những người học Phật, người có thể
học Niệm Phật lại chẳng thấm vào đâu!
Thật sự có thể hiểu ưu điểm của
pháp Niệm Phật, chịu thật thà niệm Phật, đức
Phật nói người ấy là hoa Phân Đà Lợi trong
loài người, là bậc tối thượng đẳng
trong loài người, là người có thiện căn nhất.
Người thông minh nhất mới bằng ḷng niệm Phật,
đạt được lợi ích cũng là lớn nhất.
V́ sao lớn nhất? Học pháp môn b́nh thường, chứng
quả La Hán (Tiểu Thừa), phải trải qua bảy
phen sanh tử trong cơi trời và nhân gian mới có thể
thành tựu, mới có thể thoát ly lục đạo luân
hồi. Thành một vị Phật, phải mất ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, đó là thời gian có tính kể cũng
chẳng biết rơ số! Học pháp môn Niệm Phật,
có thể đới nghiệp văng sanh trong một đời
này. Hễ văng sanh thế giới Cực Lạc, sẽ có
thể thành Phật rất nhanh, mau chóng như thế
đó! Ưu điểm cũng đặc biệt. Nếu
có thể [hành tŕ] như vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật nói
[người ấy] chính là hoa Phân Đà Lợi trong loài người,
khó có nhất!
Sau
khi đă sanh vào thế giới Cực Lạc, “Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát” hai vị đại Bồ Tát ấy
“vị kỳ thắng hữu”
[nghĩa là] làm bạn bè của người văng sanh. Thắng
hữu (勝友, bạn
bè thù thắng) lỗi lạc thay! Trong thế gian này, chúng
ta mong có được một vị chánh nhân quân tử làm
bạn bè cũng rất khó có. Hiện thời, t́m một vị
chánh nhân quân tử làm bằng hữu, chẳng dễ ǵ t́m
được! Huống hồ gặp gỡ hai vị
đại Bồ Tát ấy. Hai vị đại Bồ Tát ấy
đều là Đẳng Giác Bồ Tát, giống như
đă thành Phật, cùng các Ngài làm bạn bè, thù thắng
dường ấy! “Đương
tọa đạo tràng” (Sẽ ngồi đạo tràng),
trong tương lai, nhất định là có thể thành Phật.
Tuy c̣n chưa thành Phật, nhưng hễ sanh vào thế giới
Cực Lạc, sẽ giống như “sanh chư Phật gia”, [nghĩa là] đă sanh vào
nhà của Phật. Đấy là đại lợi ích khôn
sánh!
Trong
đoạn thứ ba, đức Phật bảo ngài A Nan thọ
tŕ như thế nào:
(Kinh)
Phật cáo A Nan, nhữ hảo tŕ thị ngữ. Tŕ thị
ngữ giả, tức thị tŕ Vô Lượng Thọ Phật
danh.
(經)佛告阿難,汝好持是語。持是語者,即是持無量壽佛名。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài A Nan: “Ông hăy khéo tŕ lời
này! Tŕ lời này chính là tŕ danh hiệu Vô Lượng Thọ
Phật”).
“Phật cáo A Nan, nhữ hảo
tŕ thị ngữ”, đức Phật bảo tôn giả
A Nan, ông hăy khéo tŕ. “Tŕ” (持) là chấp tŕ, như
một người tay cầm thứ ǵ đó chẳng
buông! Đă được nghe phương pháp như vậy,
đối với lời Phật dạy, quư vị hăy khéo
ǵn giữ, chớ nên buông bỏ. “Tŕ thị ngữ giả”, làm theo đúng như ngôn
ngữ và pháp trên đây, “tức
thị tŕ Vô Lượng Thọ Phật danh”, sẽ giống như chấp
tŕ danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật (A Di Đà Phật).
Lại
giải thích hai câu này đôi chút, v́ sao “tŕ thị ngữ giả” chính là tŕ danh hiệu Vô
Lượng Thọ Phật? Những lời giảng dạy
trong phần trước nhằm dạy chúng ta
phương pháp Niệm Phật. Niệm Phật [trong phần
trước] bao gồm quán tưởng, hồi hướng,
phát nguyện văng sanh, cho đến cuối cùng là pháp Tŕ
Danh, đều là nói về phương pháp. Chúng ta đă hiểu
phương pháp trong phần trước. Trong ấy, quan
trọng nhất là lư luận và đạo lư. Đạo lư
“tâm này làm Phật, tâm này là Phật”
cao khôn cùng! Hoàn toàn nói theo tâm pháp. Đă hiểu đạo
lư, hiểu rơ sự thật, đối với một câu
danh hiệu A Di Đà Phật, hễ chúng ta thọ tŕ, toàn bộ
đạo lư đều được bao gồm trong ấy.
Nếu chẳng phải vậy, chúng ta nghiên cứu kinh
để làm ǵ? Tŕ Danh Niệm Phật là được rồi!
Nghiên cứu kinh để hiểu chuyện; sau khi đă hiểu
đạo lư, hễ một câu Phật hiệu dấy lên,
phân lượng sẽ khác hẳn! Sức công hiệu to lớn
khôn cùng! Ví như chúng ta có phiền năo, mà chẳng hiểu
đạo lư, chúng ta niệm Phật, phiền năo đưa
tới, Phật hiệu chẳng thể chèn ép được!
Đă hiểu đạo lư, hiểu Phật hiệu có sức
mạnh to lớn dường ấy (sức mạnh chẳng
thể nghĩ bàn). Vừa dấy lên Phật hiệu, phiền
năo dẫu nhiều đến mấy đều lập tức
bị giằn xuống. Hiểu đạo lư trong kinh sẽ
có lợi ích to tát ngần ấy! V́ thế, sau khi chúng ta
đă hiểu những lời này, sẽ biết “tŕ thị ngữ giả, tức
thị tŕ Vô Lượng Thọ Phật danh”, chúng ta tŕ
một câu danh hiệu, tất cả đạo lư đều
được bao gồm trong ấy. Ư nghĩa là như vậy.
Đức Phật bảo tôn giả A Nan tŕ những lời
ấy, cũng nhằm dạy chúng ta là những kẻ học
bộ kinh này phải chấp tŕ, thông hiểu lư ấy
như vậy.
Trong
đoạn kinh văn dưới đây, các vị đệ
tử Phật nghe lời ấy rồi, đều phát tâm
hoan hỷ.
(Kinh)
Phật thuyết thị ngữ thời, tôn giả Mục
Kiền Liên, tôn giả A Nan, cập Vi Đề Hy đẳng,
văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ.
(經)佛說此語時,尊者目犍連,尊者阿難,及韋提希等,聞佛所說,皆大歡喜。
(Kinh:
Khi đức Phật nói lời ấy, tôn giả Mục
Kiền Liên, tôn giả A Nan và Vi Đề Hy v.v… nghe lời
đức Phật dạy đều đại hoan hỷ).
Trong
Tự Phần ở đằng trước, [kinh văn]
đă nói: Khi phu nhân Vi Đề Hy bị con trai giam kín, hai vị
tôn giả ấy theo đức Phật đến thuyết
pháp cho họ (tức phu nhân và các thị nữ), cho nên khi
nói tới Lưu Thông Phần, cũng nhắc tới hai vị
ấy. “Phật thuyết thử
ngữ thời”, khi Thích Ca Mâu Ni Phật nói những lời
ấy, “tôn giả Mục Kiền
Liên, tôn giả A Nan, cập Vi Đề Hy đẳng”: Hai vị tôn giả Mục Kiền
Liên và A Nan cùng với phu nhân Vi Đề Hy, chữ “đẳng” (等) bao gồm những
người khác. “Văn Phật
sở thuyết”, nghe pháp do đức Phật đă nói “giai đại hoan hỷ”, ai
nấy đều phát tâm đại hoan hỷ.
Đoạn
trên đây là lưu thông trong vương cung, trong đoạn
sau đây:
(Kinh)
Nhĩ thời Thế Tôn, túc bộ hư không, hoàn Kỳ Xà Quật sơn. Nhĩ thời A Nan,
quảng vị đại chúng, thuyết như thượng
sự. Vô lượng chư thiên, long, dạ-xoa, văn Phật
sở thuyết, giai đại hoan hỷ, lễ Phật nhi
thoái.
(經)爾時世尊,足步虛空,還耆闍崛山。爾時阿難,廣為大眾,說如上事。無量諸天、龍、夜叉,聞佛所說,皆大歡喜,禮佛而退。
(Kinh:
Khi ấy, đức Thế Tôn liền bước lên
hư không, trở về núi Kỳ Xà Quật. Lúc đó, ngài A Nan rộng v́ đại chúng nói
chuyện trên đây. Vô lượng chư thiên, rồng, dạ-xoa
nghe lời Phật dạy đều đại hoan hỷ,
lễ Phật lui ra).
Đây
là phần lưu thông tại núi Kỳ Xà Quật, là đoạn
cuối cùng. Trong Tự Phần ở đằng trước,
có nói đức Phật từ núi Kỳ Xà Quật biến
mất, xuất hiện trong vương cung. Ngài đến
như thế, chẳng có mảy may h́nh tích, nay trở về
núi Kỳ Xà Quật. “Nhĩ thời
Thế Tôn, túc bộ hư không”, “túc” (足) là chân, “bộ hư không” là đi lên hư
không. Chúng ta đi th́ nhất định phải đi trên
mặt đất; đức Phật có thần thông, lúc ấy,
Ngài từ hư không trung trở về. “Hoàn Kỳ Xà Quật sơn”, núi Kỳ Xà Quật là
núi Linh Thứu, trở lại đạo tràng trên núi. “Nhĩ thời A Nan, quảng vị
đại chúng”, lúc ấy,
tôn giả A Nan bèn v́ các đệ tử Phật ở Linh
Sơn, đem mười sáu phép Quán do đức Phật
đă giảng trong vương cung, “thuyết như thượng sự”, thuật lại
toàn thể những chuyện trên đây. Tôn giả A Nan lỗi
lạc thay! Nói một mực từ đầu đến
cuối. Sau khi Ngài đă nói xong, “vô
lượng chư thiên, long, dạ-xoa”, vô lượng
chư thiên, long, dạ-xoa v.v… ở trên núi Kỳ Xà Quật,
“văn Phật sở thuyết”
(nghe lời đức Phật dạy), v́ sao [kinh chép] là
nghe lời đức Phật nói? Những điều tôn
giả A Nan đă nói, đều là lời Phật dạy. Đại
chúng ở núi Kỳ Xà Quật [nghe ngài A Nan trùng tuyên]
cũng giống như nghe chính đức Phật nói, nên
[kinh chép] là “văn Phật sở
thuyết”. “Giai đại hoan
hỷ”, mọi người lại đều hết sức
hoan hỷ. Sau đấy, “lễ
Phật nhi thoái”, mọi người đều tuân theo
lễ tiết lạy Phật. Sau khi lạy xong, giải tán.
Sau khi đă lui về, mọi người đều chiếu
theo pháp môn này để học.
Chúng
ta học bộ kinh này cũng phải phát tâm hoan hỷ; v́
sao phát tâm hoan hỷ? Tôi nghĩ các vị đều có cùng cảm
tưởng: Chúng ta có được pháp này, giả sử
có người đến khuyên quư vị: “Chẳng cần
học pháp này, ta để cho ngươi làm đại hoàng
đế, hoặc là cho ngươi làm đại tổng
thống suốt đời, chẳng cần đến
pháp môn này”. Ta thà nguyện học pháp môn này, chẳng muốn
làm đại tổng thống. V́ sao? Đại tổng thống
cũng thế, mà làm hoàng đế cũng thế, tới
khi thọ mạng chấm dứt, đáng phải chết
như thế nào liền chết ngắc như thế ấy!
Đời mỗi người chúng ta chẳng thể giải
quyết vấn đề sanh tử! Có được pháp
môn này, đối với vấn đề chẳng thể
giải quyết từ vô thỉ kiếp đến nay, sẽ
có thể giải quyết trong trong thời gian thọ mạng
ngắn ngủi này, loại danh lợi kia há có thể sánh bằng
ư? Do vậy, chúng ta có được pháp “khó được,
khó gặp” như vậy, lẽ nào chẳng phát tâm hoan hỷ?
V́ thế, mọi người chúng ta đều phải phát
tâm hoan hỷ, một câu danh hiệu A Di Đà Phật ngàn
muôn phần chớ nên buông bỏ, vẫn cứ một mực
niệm xuyên suốt! Bộ kinh này giảng đến
đây là viên măn!
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư
hết
Hồi
Hướng
Nếu việc chuyển
ngữ thô vụng đem lại phần nào lợi ích cho các
liên hữu kiên định tín tâm, miên mật hành tŕ diệu
pháp Tịnh Độ, đều xin hồi hướng công
đức này lên lịch đại quá văng tổ tiên, sư
trưởng, phụ mẫu, các vị oán thân thiện tri
thức, mười phương pháp giới chúng sanh đều
cùng được thân tâm an lạc, giảm thiểu nghiệp
chướng, cùng nhau hội ngộ nơi cơi Cực Lạc.
Si ám phàm
ngu Như Ḥa kính bạch.
[1] Tử Lộ (524-480), tên thật là
Trọng Do, tên tự là Tử Lộ, c̣n gọi là Quư
Lộ, quê ở đất Biện, nước Lỗ,
được xếp vào hàng Thập Triết trong các môn
đệ của Khổng Tử. Trong các học tṛ, ông theo
hầu Khổng Tử lâu nhất. Ông là người trung
hậu, chánh trực, can đảm, hiếu học,
nổi danh là hiếu tử. Tuy vậy, Khổng Tử
vẫn thường quở ông hành xử quá bộc
trực, thiếu suy nghĩ chu đáo. Ông từng làm gia
thần cho Quư Tôn Hoàn nước Lỗ, rồi làm gia
thần cho Khổng Khôi. Khi công tử Cơ Khoái Hội
đem quân tấn công giành ngôi của con trai chính ḿnh là Vệ
Xuất Công (Cơ Triếp), bức hiếp Khổng Khôi,
Tử Lộ đă xông vào cung cứu chủ. Trong khi
chiến đấu, ông bị địch quân đâm trúng
mũ, khiến dây buộc mũ bị đứt, Tử
Lộ ngưng chiến đấu, khom ḿnh, buộc dây
mũ cho ngay ngắn, kết quả là bị quân phản loạn
giết chết, băm vụn làm mắm. Nghe tin, Khổng
Tử khóc ̣a, sai học tṛ vứt hết các thứ dưa,
mắm trong nhà, rồi buồn bă qua đời không lâu sau
đó.
[2] Quốc Thuật (國術) là một loại thể dục vận
động nhằm mục đích cường thân kiện
thể của Trung Hoa, bao gồm quyền thuật, sử
dụng các loại khí giới. Hiểu theo nghĩa rộng,
Quốc Thuật chính là các thứ vơ thuật cổ truyền
của Trung Hoa.