Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 2

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân ()

Địa điểm: Đài Trung Liên Xă

Khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

 

Tập 4

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu. Trước hết, xin quư vị mở xem kinh bổn, mở trang thứ nhất. Tôi đọc trước hai hàng kinh văn mở đầu như sau: “Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ đại tỳ-kheo chúng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử nhi vi Thượng Thủ” (Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ngự tại thành Vương Xá, ở trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị đại tỳ-kheo, một ngàn hai trăm năm mươi vị nhóm họp, Bồ Tát ba vạn hai ngàn. Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử làm Thượng Thủ).

          Sau khi đă đọc kinh văn, lại xin quư vị hăy mở t́m trong đề cương bài giảng lần trước, trang thứ nhất đă nói xong, hăy lật sang trang thứ hai. Trước hết, nói đến người phiên dịch. Sau khi nói xong người phiên dịch, sẽ chánh thức bắt đầu giảng giải kinh văn.

 

III. Dịch nhân (người dịch)

 

          Lưu Tống Tây Vực Tam Tạng pháp sư Cương Lương Da Xá dịch.

          劉宋西域三藏法師良耶舍譯

          (Đời Lưu Tống, Tam Tạng pháp sư Cương Lương Da Xá người xứ Tây Vực dịch).

 

          “Dịch nhân” (譯人) là người phiên dịch. Người phiên dịch bộ kinh này là ai? Chúng ta biết nguyên văn kinh Phật chép bằng tiếng Phạn của Ấn Độ cổ đại, cũng là tiếng Ấn Độ. Sau khi kinh văn được truyền đến Trung Hoa, phải qua phiên dịch văn tự, dịch sang tiếng Hán. Phiên dịch vào thời cổ chẳng giống như chúng ta hiện thời: Từ ngôn ngữ ngoại quốc dịch sang tiếng Hán, ai hiểu tiếng Hán và ngoại ngữ đều có thể phiên dịch ngoại ngữ, cá nhân có thể phiên dịch. Kinh Phật chẳng đơn giản như vậy. Vào thuở đó, phiên dịch một bộ kinh Phật chẳng phải chỉ là một người! Đương nhiên, điều quan trọng nhất là phải hiểu tiếng Phạn, lại c̣n phải thông hiểu kinh Phật. Dịch giả từ ngoại quốc tới, là những vị xuất gia đến từ Ấn Độ, hoặc từ những nước ở phía Tây Bắc Trung Hoa, hoặc Tây Vực, cũng hiểu tiếng Hán. Ngoài ra, c̣n có những vị có học thức tại Trung Hoa, đang làm việc trong triều đ́nh thuở ấy, họ hết sức thông thạo văn chương Trung Hoa. Lại c̣n có các vị cao tăng xuất gia người Hoa. [Tất cả những người ấy] hợp lại, cùng nhau nghiên cứu, dịch thành một bộ kinh. Sau khi đă dịch ra, nói chung là một bộ kinh chẳng thể ghi hết tên của tất cả mọi người, cho nên chỉ nêu tên một vị đại diện, tức là vị giữ vai tṛ trọng yếu nhất. Người tham dự phiên dịch bộ kinh này rất nhiều, nhưng chỉ nêu tên vị pháp sư xuất gia đến từ Tây Vực, nay tôi sẽ giới thiệu vị pháp sư này.

          Người dịch bản kinh này sống vào thời đại Lưu Tống. Chúng ta biết Trung Hoa có Đường, Tống (đời Đường, đời Tống), nhà Lưu Tống chẳng phải là triều đại Tống (tức Triệu Tống) sau nhà Đường. Lịch sử Trung Hoa rất lâu, Phật pháp được truyền vào [Trung Hoa] dưới đời Hán. Sau nhà Hán là thời Tam Quốc (Tào Ngụy, Tây Thục, Đông Ngô). Sau thời Tam Quốc là nhà Tấn, sau nhà Tấn, [vương triều cai trị] bèn chia thành hai bộ phận là Nam Bắc (tức Nam Bắc Triều) [gồm nhiều triều đại tồn tại song song]. Xuất hiện sau nhà Đông Tấn chính là các triều đại Tống, Tề, Lương, Trần, thuộc về Nam Triều. Lưu Tống ở đây chính là nhà Tống trong năm triều đại Tống, Tề, Lương, Trần. V́ sao thêm vào chữ Lưu? “Lưu” là Lưu Dụ (劉裕), [Lưu Tống] là triều đại do Lưu Dụ khai quốc[1].

          Vị pháp sư này từ đâu đến? Ngài đến từ Tây Vực. Nay chúng ta biết rơ Tây Vực vào thuở ấy, chính là từ vùng Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc của Trung Hoa Đại Lục hiện thời trở về phía Tây, cho đến tận Ấn Độ, thảy đều gọi chung là Tây Vực. Thuở ấy, khu vực này có rất nhiều quốc gia. Những quốc gia ấy được gọi chung là Tây Vực. Vị pháp sư này rốt cuộc là người thuộc quốc gia nào? Chẳng có cách nào để tra cứu! Vào thời cổ, phiên dịch kinh Phật chẳng phải là bất cứ ai cũng đều có thể phiên dịch. Trong phần trên đă nói, nhất định phải thông đạt Tam Tạng. Tam Tạng là ǵ? Trong cả bộ Đại Tạng Kinh, kinh Phật thuộc về Kinh Tạng, lại c̣n có Luận Tạng (Luận là giải thích kinh văn; cũng có khi chỉ giải thích Phật lư cũng được gọi là Luận), cùng với giới luật do đức Phật chế định, gọi là Luật Tạng. Tam Tạng Kinh, Luật, Luận hết sức nhiều. Vị pháp sư tinh thông Kinh, Luật, Luận Tam Tạng được gọi là “Tam Tạng pháp sư”. Bất luận người học Phật hay không đều biết đời Đường có một vị là Huyền Trang đại sư, thường được gọi là Đường Tam Tạng. [Ngài có danh xưng là] Đường Tam Tạng v́ Ngài tinh thông Tam Tạng [và sống vào đời Đường]. Ngoại trừ ngài Huyền Trang tinh thông Tam Tạng ra, c̣n có rất nhiều vị đại pháp sư tinh thông Tam Tạng. Vị Tam Tạng pháp sư này có tên là Cương Lương Da Xá. Cương Lương Da Xá (Kalayasas)[2] là phiên âm từ tiếng ngoại quốc, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thời Xưng (時稱). Trong niên hiệu Nguyên Gia nhà Lưu Tống (triều đại nhà Tống do Lưu Dụ sáng lập), Ngài phiên dịch bộ kinh này tại Dương Châu.

          Chúng ta biết: Vào thời cổ, phiên dịch một bộ kinh là một chuyện thận trọng như thế đó, ắt phải là người tinh thông Tam Tạng th́ mới có thể chủ tŕ việc phiên dịch. Lại c̣n chẳng phải là do một người phiên dịch, mà là có rất nhiều người tham dự. Hiện thời, có những kẻ do thấy có rất nhiều người chẳng đọc hiểu Tạng Kinh (Tạng Kinh toàn dùng thể loại Văn Ngôn để viết), họ đă nghĩ tới chuyện t́m người dịch Tạng Kinh từ Văn Ngôn sang văn Bạch Thoại. Hiện thời, có chẳng ít người chủ trương như vậy. Chúng ta phải hỏi: “Người phiên dịch có tinh thông Tam Tạng hay không?” Nếu chẳng tinh thông Tam Tạng, muốn dịch một bộ kinh [từ thể loại Văn Ngôn] sang văn Bạch Thoại, chẳng biết sẽ dịch bộ kinh ấy thành t́nh trạng như thế nào? Đừng nói là chẳng tinh thông Tam Tạng, cũng có thể nói là [những kẻ ấy] chẳng thông hiểu văn tự Văn Ngôn trong bộ kinh đó! Thật sự thông hiểu văn tự của một bộ kinh, người ấy sẽ chẳng dám dịch sang văn Bạch Thoại. V́ sao nói như vậy? Trong văn chương Văn Ngôn, một chữ bao hàm rất nhiều ư nghĩa, trọn chẳng thể nói là từ một câu viết bằng Văn Ngôn mà có thể thay thế bằng một câu văn Bạch Thoại, thay thế chẳng được! Thậm chí từ một câu theo thể loại Văn Ngôn, t́m vài câu theo lối Bạch Thoại để diễn đạt vẫn chẳng được, uổng công phí sức! Chúng ta quản chẳng được chuyện người ta dịch kinh Phật từ Văn Ngôn sang Bạch Thoại, nhưng chúng ta chớ nên xem kinh văn đă dịch sang văn Bạch Thoại. Kinh văn bằng Bạch Thoại thoạt nh́n th́ dễ hiểu, nhưng chẳng phải là ư nghĩa do đức Phật đă giảng, chớ nên xem! Muốn xem, hăy nên xem nguyên bản trong Tạng Kinh. Xem không hiểu, đă có chú giải của tổ sư đại đức. Nếu vẫn xem không hiểu, đọc nguyên bản kinh văn cũng đỡ hiểu lầm hơn xem văn Bạch Thoại rất nhiều. Mọi người phải hiểu rơ điều này! Hiện thời, ở bên ngoài, kinh điển được dịch sang văn Bạch Thoại rất nhiều, không được đâu! Chúng ta chớ nên xem những văn bản ấy.

 

IV. Ba phần của kinh văn (Tự, Chánh, Lưu Thông)

         

Trong văn tự của mỗi bộ kinh, đều chia thành ba bộ phận. Ba bộ phận ǵ vậy? Bộ phận đầu tiên được gọi là Tự Phần, ví như hiện thời có rất nhiều người viết sách, tự ḿnh viết một bài tựa, hoặc cậy người khác viết lời tựa. Đó gọi là Tự (). “Tự” trong kinh Phật chẳng phải là một phần khác biệt, mà thuộc ngay trong kinh văn. Vừa mở đầu, bèn có bộ phận này, gọi là Tự Phần (序分). Tự Phần nhằm nói lên điều ǵ? Chính là nêu nhân duyên khiến cho Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh này, [tức là lư do] v́ sao giảng bộ kinh này. Sau Tự Phần, kế đó là chánh thức giảng giải những đạo lư trong bộ kinh này, [phần này] gọi là Chánh Tông Phần. Đến cuối Chánh Tông Phần, khi sắp kết thúc, đạo lư trong bộ kinh này đă được nói xong xuôi, phương pháp tu hành cũng có, đức Phật sẽ dạy người nghe phải chiếu theo lư đó và phương pháp ấy để tu hành. Bộ phận mang tính chất dặn ḍ ấy được gọi là Lưu Thông Phần. Bất cứ bộ kinh nào cũng đều có ba bộ phận này. Người Hoa viết văn, viết một quyển sách cũng giống như thế! Chương pháp (章法: kết cấu và mạch lạc hành văn) hết sức nghiêm mật, có quy củ nhất định. Nhưng kinh Phật vào thời kỳ đầu, tức là khi mới vừa truyền đến Trung Hoa, thuở đó, người giảng kinh đều chẳng giới thiệu rơ ràng: Tự Phần là ǵ? Chánh Tông Phần là ǵ? Lưu Thông Phần là ǵ? Chẳng giới thiệu như vậy. Giống như người ta thường nói là văn chương chẳng có chương pháp, chẳng nêu rơ kết cấu khởi, thừa, chuyển, hợp[3], chỉ là từ đầu đến cuối, chiếu theo từng câu trong văn tự mà tŕnh bày ư nghĩa là được rồi!

          Từ khi nào, [giảng giải] kinh Phật bắt đầu có ba phần? Tại phương Bắc, vào thời Ngũ Hồ Loạn Hoa[4], cũng tức là sau đời Tấn, tại vùng Trường An của tỉnh Thiểm Tây có nước Tần. Nước Tần này chẳng phải là nước Tần của Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng họ Doanh[5], nên triều đại Tần ấy gọi là Doanh Tần. Nước Tần ở đây là nước Tần về sau của Phù Kiên. Mọi người đọc lịch sử đều biết Phù Kiên chuẩn bị [tấn công] xuống phương Nam. Ông ta mang quân tấn công Đông Tấn thuộc Nam Triều, kết quả là vừa giao tranh bèn thua trận. Trận đánh ấy được gọi là “Ph́ Thủy chi chiến” (cuộc chiến nơi sông Ph́[6]), rất nổi tiếng. Vào thời Phù Kiên, kinh đô [nước Phù Tần] là một giải Trường An hiện thời. Ông ta thỉnh pháp sư giảng kinh, pháp sư bèn cứ chiếu theo kinh văn để giảng liên tục [chẳng phân tích cấu trúc]. Vua Tần bèn nói: “Trong văn hóa Trung Hoa của chúng tôi…” (Thật ra, vua Tần là người Hồ. Phù Tần là một quốc gia được kiến lập bởi Ngũ Hồ. Tuy là người Hồ, nhà vua ưa chuộng văn hóa Trung Hoa, tự cho ḿnh là người Hoa. Hiện thời, khác hẳn! Cố nhiên là người ngoại quốc khinh thường văn hóa Trung Hoa, mà ngay cả người Trung Hoa cũng coi thường văn hóa Trung Hoa. Khi đó, người Hồ coi trọng văn hóa Trung Hoa và cũng đọc sách của Trung Hoa). Vua Tần nói: “Đối với văn tự của Trung Hoa, bất cứ quyển sách nào, bất cứ một bài văn nào, cũng đều có chương pháp, đều có kết cấu. Văn tự của một bộ kinh Phật hay dường ấy, chẳng thể nói là không có chương pháp. Mở đầu như thế nào? Danh xưng là ǵ? Chính giữa là ǵ? Sau đó lại là ǵ? Phải nên có văn pháp, phân chia rành mạch, rơ rệt”. Người giảng kinh khi đó, do thuở đầu [việc nghiên cứu] kinh Phật [tại Trung Hoa] chưa có Khoa Phán (Khoa () là khoa học, Phán là phán biệt (判別), tức là phân định ư nghĩa và kết cấu), cho nên khi vua Tần hỏi như thế, người giảng kinh chẳng thể đáp được!

          Thuở đó, có một vị pháp sư tên là pháp sư Đạo An. Chúng ta biết về sau có rất nhiều vị [pháp sư] trùng tên. Chẳng hạn như ở Đài Loan cũng có một vị pháp sư tên là Đạo An; vị lăo pháp sư này đă văng sanh. Tại Đài Loan, vị lăo pháp sư này cũng khá nổi tiếng. Thuở ấy, pháp sư Đạo An[7] ở Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc, nghe chuyện này. Vua Tần hỏi như thế, đích xác là người giảng kinh phải nên chú ư. Văn tự trong kinh văn hay như thế, phải nên có kết cấu, phải nêu ra rơ ràng. Ngài liền bắt tay vào nghiên cứu. Sau đấy, Ngài nghiên cứu thấy: Bất luận là một bộ kinh lớn cũng thế, mà một kinh nhỏ ngắn củn cũng thế, đều có Tự Phần ở trước, chính giữa là Chánh Tông Phần, sau đó là Lưu Thông Phần. Sau khi Ngài nghiên cứu, hiểu rơ văn tự, phát hiện [kinh nào] cũng đều có ba bộ phận ấy. Sau đấy, Ngài tự ḿnh giảng kinh, chánh thức công bố: Bất cứ bộ kinh nào cũng đều có ba bộ phận ấy. Dẫu Ngài giảng kinh hoặc chú giải kinh, đều chia [thành ba phần] như vậy, các vị cao tăng đại đức thuở đó vẫn giữ thái độ hoài nghi: “Có phải là có ba bộ phận đó hay không?” Mọi người vẫn hoài nghi. Về sau, kinh luận được truyền sang Trung Hoa ngày càng nhiều. Có một bộ luận tên là Phật Địa Luận (Buddhabhūmi Sūtra Śāstra). Sau khi Luận Tạng Phật Địa Luận được truyền đến Trung Hoa, bộ luận ấy do Thân Quang Bồ Tát người Ấn Độ soạn. Tại Ấn Độ, Thân Quang Bồ Tát rất có địa vị. Ngài đă dựa trên các bộ đại kinh để soạn ra Phật Địa Luận. Trong Phật Địa Luận có nói mỗi bộ kinh đều có ba bộ phận: Bộ phận đầu tiên là đức Phật nói nhân duyên của bộ kinh ấy, do nhân duyên ǵ mới nói bộ kinh ấy. Phần trung gian là chánh thức nói về lư luận và phương pháp, phần cuối cùng giảng về cách y giáo phụng hành, tức là nương theo đạo lư và phương pháp do đức Phật đă giảng để phụng hành. Trong bộ luận ấy, đă nói rơ: Mỗi bộ kinh đều có ba bộ phận ấy. Một bộ Phật Địa Luận được truyền sang Trung Hoa, mọi người đều biết, đem so với phát hiện “một bộ kinh có ba phần” của pháp sư Đạo An hoàn toàn phù hợp. Từ đấy trở đi, tại Trung Hoa, bất luận là giảng kinh trong chốn tùng lâm cũng thế, mà cao tăng đại đức chú giải kinh sách cũng vậy: Xét theo phương diện Khoa Phán, đều chia thành ba bộ phận ấy. Đó là nói đến nguyên do của ba phần trong kinh văn.

 

IV.1. Tự Phần (Chứng Tín, Phát Khởi)

 

          Bắt đầu xem Tự Phần. Trong Tự Phần, chia thành hai phần: Phần đầu gọi là Chứng Tín Tự, phần sau gọi là Phát Khởi Tự. Chứng Tín Tự là ǵ? Chứng Tín Tự nhằm ghi chép nhân duyên giảng kinh, chứng minh bộ kinh này do chính đức Phật nói, tuyệt đối có thể tin tưởng. Phát Khởi Tự nhằm nói bộ kinh này do nhân duyên ǵ mà phát khởi. Trong Tự Phần, có hai phần này.

 

IV.1.1. Chứng Tín Tự (Thông Tự), Lục Thành Tựu

 

          Trước hết, giới thiệu Chứng Tín Tự (證信序). Như trong đề cương bài giảng có ghi, trong Chứng Tín Tự có Lục Thành Tựu (六成就), tức là sáu loại điều kiện. Đầy đủ sáu loại điều kiện th́ bộ kinh này mới có thể thuận lợi khai giảng. Lục Thành Tựu: Thứ nhất là Tín Thành Tựu, thứ hai là Văn Thành Tựu, tiếp đó là Thời Thành Tựu, Chủ Thành Tựu, Địa Thành Tựu, và Chúng Thành Tựu. Phối hợp với kinh văn (đoạn kinh vừa niệm trên đây) để xem: Tín là hai chữ Như Thị, Văn là “ngă văn”, Thời là “nhất thời”, Chủ là nói đến Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài giảng bộ kinh này, lấy Ngài làm chủ. Địa là “bộ kinh này được giảng ở chỗ nào”: Thành Vương Xá, núi Kỳ Xà Quật. Chúng [Thành Tựu] là thính chúng đang hiện diện, đại tỳ-kheo chúng là một ngàn hai trăm năm mươi vị, Bồ Tát là ba vạn hai ngàn vị; vừa khéo ứng với đoạn kinh văn mở đầu. Lục Thành Tựu chính là Chứng Tín Tự, c̣n gọi là Thông Tự (通序).

V́ sao gọi là Thông Tự? Theo như Đại Trí Độ Luận (Đại Trí Độ Luận là một bộ đại luận) đă nói, khi Thích Ca Mâu Ni Phật sắp diệt độ (chẳng c̣n trụ trên thế gian này nữa, sắp ĺa khỏi), tôn giả A Nan thỉnh vấn đức Phật: “Sau khi đức Phật chẳng c̣n tại thế, trong tương lai, hàng đệ tử chúng con dùng văn tự để ghi chép những pháp môn do đức Phật đă giảng thuở tại thế, để mở đầu mỗi bộ kinh, phải dùng những câu chữ nào để đặt trước kinh văn?” Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Hăy nên ghi chép ‘như thị ngă văn, nhất thời, Phật ở nơi nào, đại chúng dự hội v.v…” (tức là đoạn kinh văn này), đức Phật bảo ngài A Nan: “Để mở đầu, đều phải nên ghi chép như thế”. Sau khi đă nói xong, đức Phật lại nhấn mạnh lần nữa: Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ông phải ghi chép một bộ kinh [theo cách thức] như vậy, mà trong thời quá khứ, các kinh do bất cứ vị Phật nào đă nói, cũng đều phải ghi chép như thế. Do vậy, phần này lại gọi là Thông Tự.

 

          (Kinh) Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ đại tỳ-kheo chúng, thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử nhi vi Thượng Thủ.

          ()如是我聞,一時,佛在王舍城,耆闍崛山中,與大比丘眾,千二百五十人俱。菩薩三萬二千,文殊師利法王子而為上首。

(Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ngự tại thành Vương Xá, ở trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị đại tỳ-kheo, một ngàn hai trăm năm mươi vị nhóm họp, Bồ Tát ba vạn hai ngàn. Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử làm Thượng Thủ).

 

          Bây giờ chúng ta xem kinh văn, mỗi chữ đều có ư nghĩa trọng yếu. Từ Tự Phần cho đến Lưu Thông Phần đều hết sức trọng yếu. Trước hết, hăy xem phần Tín [Thành Tựu], bao gồm hai chữ Như Thị.

Như là ǵ? Như () bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Dựa theo chú giải của tổ sư, tôi giới thiệu hai ư nghĩa:

1) Ư nghĩa thứ nhất, Như: Bất cứ chúng sanh nào cũng đều có Chân Như bản tánh. V́ sao gọi là Chân Như (真如)? Trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa đă nói ở phần trước, khi giảng về kinh thể (bản thể của kinh), đă có giới thiệu. “Như” là nói tới Thật Tướng. Bất cứ pháp nào cũng đều có bản thể, chúng sanh có bản thể. “Bản thể” là nói tới bản tánh. Tánh là Thể, Như là nói tới bản thể. Bản thể từ xưa đến nay, cho đến tận vị lai, là vĩnh hằng, bất biến, cũng chẳng có ǵ khác biệt. Từ đầu đến cuối, bản tánh là tánh vốn như vậy. Chúng sanh mê hoặc, điên đảo trong lục đạo, có kẻ ở trên cơi trời, có người ở trong nhân gian, có kẻ ở trong tam đồ, bất luận là ở trong đường nào, Chân Như bản tánh chẳng biến hóa. Chẳng thể nói bản tánh của chúng sanh trong địa ngục và bản tánh của chúng sanh trên thiên đường bất đồng, chẳng có chuyện đó! Không chỉ là bản tánh của chúng sanh trong địa ngục và bản tánh của chúng sanh trên thiên đường hoàn toàn như nhau, mà cũng c̣n hoàn toàn giống như bản tánh của bất cứ một vị Phật nào! Điều này được gọi là Như. Đức Phật giảng kinh, giảng đạo lư, đều nhằm dạy người ta tin tưởng mỗi cá nhân đều có Chân Như bản tánh. Chiếu theo Lư này để nói, hoàn toàn phù hợp Lư này, đó là Thị ().

Đối với hai chữ Như Thị, đức Phật giảng bất cứ bộ kinh nào, không ǵ chẳng nhằm khiến cho người nghe thông hiểu “chính ḿnh và Phật có Thật Tướng hoàn toàn giống hệt như nhau”, đó cũng là bản tánh. Nhằm nói rơ đạo lư này, cho nên lấy hai chữ Như Thị đặt ở đầu kinh văn. V́ thế, vừa nh́n, bèn thấy [kinh Phật] khác hẳn những kinh được nói bởi bất cứ ngoại đạo nào! Ngoại đạo chẳng hiểu rơ bản tánh của chính ḿnh, cầu đạo ngoài tâm, cho nên mới gọi là “ngoại đạo”. Chúng ta thấy phía trước kinh Phật có câu “như thị ngă văn”, chứng tỏ kinh ấy thuộc về nhà Phật, là kinh Phật. Đó là Chứng Tín Tự, bắt đầu bằng hai chữ Như Thị.

2) Sau khi đă t́m hiểu ư nghĩa này, lại giới thiệu một ư nghĩa nữa. Đức Phật giảng mỗi bộ kinh đều có nhân duyên nhất định. Chúng sanh đang hiện diện nơi ấy để nghe giảng, trong tâm họ có nhu cầu, đều hy vọng đạt được Phật lư tốt đẹp. Đức Phật là bậc tuyệt diệu, trong tâm chúng sanh có những mong mỏi ǵ, đức Phật đều biết. Sau khi đă hiểu rơ những chuyện mong mỏi trong tâm chúng sanh, Ngài sẽ thuận theo ư nghĩ trong tâm chúng sanh mà nói ra một pháp môn nhằm hóa độ chúng sanh. Đức Phật nói pháp môn ấy, phù hợp khít khao hy vọng của chúng sanh. “Như” là phù hợp khít khao ư nguyện trong tâm chúng sanh. Trong tâm chúng sanh có ư nguyện ǵ, đức Phật nói ra, hoàn toàn phù hợp ư nguyện của chúng sanh, đó gọi là Như. Khi đức Phật nói, bất luận nói như thế nào, chúng sanh đang hiện diện nghe giảng, [đều là] nghe đức Phật nói rơ ràng, rành mạch, chúng sanh trong khi ấy nghe rơ ràng, rành mạch, cũng chẳng hiểu lầm tí nào! Đức Phật và chúng sanh trong pháp hội ấy, bất luận là đức Phật nói, bất luận là chúng sanh nghe, thật sự là “sư tư đạo hợp tương ứng” (thầy tṛ hợp đạo tương ứng). Nghe rành mạch, dạy rành mạch. Đó là Thị. V́ thế, trong phương diện Tín của bộ kinh này, đức Phật đă dựa theo tâm lư của chúng sanh, giảng rơ ràng, rành rẽ, chúng sanh nghe rơ ràng, rành rẽ. Đó là Như Thị.

          Chúng ta lại t́m hiểu đôi chút, những điều chúng sanh mong mỏi trong tâm có nhiều thứ khác nhau. Cùng [hiện diện] trong một đạo tràng như nhau, nghe đức Phật giảng một bộ kinh, tâm người nghe bất đồng, căn cơ bất đồng, có người thích hợp học pháp Đại Thừa, có kẻ thích hợp học pháp Tiểu Thừa, mỗi người khác nhau. Tuy tâm lư mỗi người mỗi khác, lời đức Phật giảng đều có thể thích ứng nhu cầu trong tâm mỗi người. Đức Phật giảng pháp Đại Thừa, người nghe thuộc căn cơ học pháp Đại Thừa; giảng pháp Tiểu Thừa, người nghe là căn cơ học pháp Tiểu Thừa. Đức Phật nói tới những nỗi đau khổ mà chúng sanh trong thế gian phải hứng chịu, những khổ báo ấy đều là thực tại. Đối với những nỗi khổ do đức Phật đă nói, có chúng sanh nào trong thế giới Sa Bà có thể phủ nhận những điều ấy chẳng phải là khổ? Khổ đúng là khổ. Nếu nói đến vui, đức Phật bảo niềm vui trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là chân lạc. Nói đến thanh tịnh, Tây Phương Cực Lạc thế giới là một thế giới thanh tịnh. Ngài nói thế giới Sa Bà là ô uế, là một thế giới ô uế. Mỗi câu do đức Phật đă nói đều là “như Lư”, đúng như chân lư, hết thảy những lời Ngài đă nói đều đúng như chân lư. Thêm vào một chữ Thị, nhằm hoàn toàn khẳng định, hăy nên tin tưởng lời ấy. Như Thị bao hàm nhiều ư nghĩa như thế đó!

          Trong kinh văn có nói “ngă văn”. Phật pháp vốn dạy chớ nên chấp trước Ngă, Ngă là giả, nhưng người b́nh phàm trong thế gian nói năng, viết lách, nếu chẳng nói đến Ngă, sẽ chẳng có cách nào nói được. V́ thế, thuận theo cách nói của người thế tục, ngơ hầu nói và nghe đều thuận tiện, bèn giả nói một cái Ngă. Chữ Ngă ở đây là nói tới ai? Chính là nói tới tôn giả A Nan. Chúng ta biết tôn giả A Nan là tùng đệ (從弟: em họ)[8] của đức Phật. Ngài là con của một người chú đức Phật. Vị tôn giả này thân cận đức Phật một thời gian dài. Sau khi đức Phật diệt độ, kinh Phật đều do Ngài ghi chép lại. Chữ Ngă ở đây chỉ tôn giả A Nan. “Ngă văn” là tôn giả A Nan nói: Chính tôi nghe từ đức Phật! Ư nghĩa này nhằm chứng tỏ đích thân tôn giả A Nan đă nghe bộ kinh này từ chỗ đức Phật, chẳng phải là gián tiếp nghe từ nơi khác, đáng tin!

          Vẫn phải bổ sung đôi chút về “ngă văn”. Tôi vừa mới nói “tôn giả A Nan ghi chép lại”, chẳng phải là đơn giản như vậy. Chẳng phải là một ḿnh Ngài ghi chép. Thuở ấy, ghi chép kinh Phật là do những vị đại đệ tử của đức Phật [thực hiện], là những vị giống như tôn giả Đại Ca Diếp. Những vị đại đệ tử ấy đều rất lỗi lạc! Mọi người mở cuộc họp, nhóm lại, rất nhiều đại chúng tụ hội cùng một chỗ. Vốn [đại chúng] chẳng chấp thuận cho ngài A Nan tham gia, một mực đợi cho đến sau khi ngài A Nan thật sự chứng quả A La Hán, mới lại mời Ngài tham gia, cử Ngài nhắc lại những ư nghĩa do chính miệng đức Phật đă nói. V́ Ngài có trí nhớ hết sức tốt, [những bộ kinh luận do] Ngài đọc ra để đại chúng dự hội chứng minh đức Phật có nói như thế hay không. Đại chúng hiện diện đều chứng minh, tán thành, câu nói ấy mới được ghi chép lại. Mỗi bộ kinh đều do tôn giả A Nan chính miệng thuật lại, mọi người chứng minh xong mới được chép lại, thận trọng dường ấy! Chúng ta phải hiểu kinh văn được ghi chép như thế đó.

          “Nhất thời” là nói tới lúc đức Phật giảng bộ kinh này. V́ sao không ghi chép là năm nào, tháng nào, ngày nào đó, giờ nào đó? V́ thời gian là giả pháp, thời gian là một thứ giả huyễn. Đă thế, cách tính một năm của Ấn Độ trong thuở ấy chẳng giống lịch pháp Trung Hoa, nhưng lịch pháp Trung Hoa cổ đại và hiện đại lại khác nhau, chẳng bằng kinh văn nói “nhất thời”, hàm ư: Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật nói bộ kinh này, vào chính lúc đó. Chúng ta có cách nh́n như vậy!

          Chủ [Thành Tựu] là Phật. Vị chủ giảng là đức Phật. Chữ “Phật” [ở đây] chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải là vị Phật nào khác.

Địa [Thành Tựu] (Xứ Thành Tựu) là nơi chốn. Bộ kinh này được nói ở nơi đâu? “Tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung”. Thành Vương Xá và núi Kỳ Xà Quật là hai nơi, đều ở trong cùng một nước. Tại Ấn Độ, vào thuở ấy, đều thuộc về nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Vương thành được gọi là thành Vương Xá (Rāja-gṛha), ở ngay dưới chân núi. Núi Kỳ Xà Quật (Gṛdhrakūṭa) là ở trên núi. Khi ấy, đức Phật dẫn rất nhiều đệ tử sống trên núi. Đức Phật thuyết pháp tại nơi ấy, đại bộ phận đệ tử là đệ tử xuất gia. Có lúc đức Phật cũng ngự đến thành Vương Xá, đến thành Vương Xá nhằm giáo hóa dân chúng b́nh phàm. Ở trong núi Kỳ Xà Quật, giáo hóa người xuất gia là chủ yếu. Đó là hai nơi.

          Danh xưng thành Vương Xá bắt nguồn như thế nào? Bất luận tại Trung Hoa hay ngoại quốc, phàm là những nơi có lịch sử nổi tiếng, đều có rất nhiều truyền thuyết cổ đại. Thành Vương Xá cũng có rất nhiều truyền thuyết. Ở đây, chẳng cần phải nói nhiều, chỉ nêu ra một ư nghĩa trong ấy. Thời cổ, có một nơi mà dân chúng sống trong thành xây nhà thường bị hỏa hoạn. Nhà cửa xây xong bèn bị lửa đốt trụi; sau đấy, người trong thành cảm thấy nơi ấy chẳng tốt, đi t́m nơi khác, t́m đến chỗ thành Vương Xá [hiện thời]. Nơi ấy, phía sau có núi Kỳ Xà Quật. Núi Kỳ Xà Quật gồm năm ṭa núi cao. Phong cảnh trên núi hết sức tốt đẹp. Xây thành gần núi. Xây xong, xây cất nhà cửa trong ấy cho quốc vương cư trụ, nên gọi là Vương Xá Thành, nhà cửa để vua ở được gọi là Vương Xá. Vây quanh là nhà của các vị đại thần và dân chúng. Nơi ấy, phủ khắp mặt đất là hoa, cỏ, cây cối, phong cảnh hết sức ưu mỹ. Khi xây xong thành ấy, từ đó trở đi, chẳng có hỏa tai, thành ấy được gọi là thành Vương Xá. Trong thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, thành ấy là ṭa đại thành lớn nhất Ấn Độ.

          Núi Kỳ Xà Quật, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Linh Thứu Sơn. Núi có h́nh dạng giống như chim Linh Thứu (靈鷲: chim kên kên), gọi tắt là Linh Sơn. Mọi người đều biết [điển tích] “Linh Sơn nhất hội” của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa ngay tại Linh Sơn, tức là giảng tại núi Kỳ Xà Quật. Về sau, Ngài truyền y bát cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Chánh pháp nhăn tàng truyền Tổ Sư Thiền cũng là “Linh Sơn nhất hội”. “Niêm hoa thị chúng” (拈花示眾: cầm cành hoa dạy đại chúng) cũng ở trên núi này. Tiếng Ấn Độ gọi là “Kỳ Xà Quật sơn”, nghĩa tiếng Hán gọi tắt là Linh Sơn.

          “Chúng” () là đại chúng dự hội. “Dữ đại tỳ-kheo chúng” (Cùng với các vị đại tỳ-kheo), nghĩa là Thích Ca Mâu Ni Phật và các vị đại tỳ-kheo. “Đại tỳ-kheo chúng” chỉ những vị xuất gia, có tất cả “nhất thiên nhị bách ngũ thập nhân câu” (một ngàn hai trăm năm mươi người cùng hợp lại), đều nghe đức Phật giảng pháp tại đó. Một ngàn hai trăm năm mươi vị ấy, khi giảng kinh A Di Đà, tôi đă giới thiệu, chẳng cần phải nói tường tận. C̣n có “Bồ Tát tam vạn nhị thiên” (Bồ Tát ba vạn hai ngàn vị), đông ngần ấy! Bồ Tát lấy ai làm Thượng Thủ? Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là “pháp vương tử”, tức là vị Bồ Tát lớn nhất trong các vị Bồ Tát. Phật là đấng Pháp Vương. Ngài Văn Thù Sư Lợi có thể trực tiếp gánh vác pháp của đấng Pháp Vương, hoằng dương phổ biến khắp nơi, nên là “pháp vương tử”. Ngài là “thượng thủ” của chúng sanh trong pháp hội này, mà cũng là thủ tọa của hội chúng.     

Trên đây là Chứng Tín Tự, c̣n gọi là Thông Tự; từ mấy điều này, chứng tỏ bộ kinh này là của Phật gia. Tiếp theo đây, sẽ bắt đầu nói về Phát Khởi Tự, tức là nhân duyên phát khởi của bộ kinh này, lần sau lại nói.

 

Tập 5

         

Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, và các đồng học tham dự buổi giảng hôm nay. Bây giờ, xin mời các vị mở kinh bổn, trang thứ nhất, bắt đầu từ hàng thứ ba. Trước hết, đọc kinh văn một lượt:

 

          (Kinh) Nhĩ thời Vương Xá đại thành, hữu nhất Thái Tử, danh A Xà Thế, tùy thuận Điều Đạt ác hữu chi giáo, thâu chấp phụ vương Tần Bà Sa La, u bế trí ư thất trùng thất nội, chế chư quần thần, nhất bất đắc văng.

()爾時王舍大城,有一太子,名阿闍世。隨順調達惡友之教,收執父王頻婆娑羅,幽閉置於七重室內,制諸群臣,一不得往。

(Kinh: Khi ấy, trong đại thành Vương Xá, có một Thái Tử tên là A Xà Thế, tùy thuận lời dạy của bạn ác là Điều Đạt, bắt giam phụ vương Tần Bà Sa La, nhốt kín sau bảy tầng cửa, cấm các quần thần, không ai được đến đó).

 

IV.1.2. Phát Khởi Tự (Biệt Tự) - nghịch sự phát khởi

 

          Bắt đầu nghiên cứu từ chỗ này. Phần kinh văn vừa mới đọc, nói theo Khoa Phán, vẫn là Tự Phần. Theo thông lệ, một bộ kinh có ba bộ phận: Tự Phần, Chánh Tông Phần, và Lưu Thông Phần. Trong Tự Phần, có Chứng Tín Tự nhằm chứng minh bộ kinh này là do đức Phật giảng, cần phải tin sâu; nói thông thường là sáu thứ thành tựu, trong lần trước, tôi đă nói rồi. Đoạn kinh văn vừa mới niệm chính là Phát Khởi Tự. Chứng Tín Tự c̣n gọi là Thông Tự, Phát Khởi Tự c̣n gọi là Biệt Tự. Thông Tự là những điều kiện cần phải hội đủ của bất cứ một bộ kinh nào, Biệt Tự là nhân duyên phát khởi, các kinh khác nhau. Đoạn kinh niệm khi mới bắt đầu [buổi giảng hôm nay] là Biệt Tự, chính là nhân duyên phát khởi của bộ kinh này.

          Trước hết, chúng ta t́m hiểu văn tự đôi chút. “Nhĩ thời” (爾時) là nói tới lúc nào? Nói tới những điều được nêu trong phần Chứng Tín Tự trước đó: [“Nhĩ thời”] là lúc Thích Ca Mâu Ni Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị đại tỳ-kheo, c̣n có các vị đại Bồ Tát nhóm họp. Khi đó, trong “Vương Xá đại thành” (Vương Xá đại thành là trong thành thị. Núi Kỳ Xà Quật là ở trên núi. Đức Phật và hàng đệ tử xuất gia giảng kinh, phần lớn là giảng trên núi. Có lúc Ngài cũng đến thành thị để giảng cho người trong thành).

“Hữu nhất Thái Tử, danh A Xà Thế”, có một vị Thái Tử tên gọi là A Xà Thế. Chữ Xà () có hai cách đọc, một là A Đồ (âm đọc giống như chữ Đốc, ) Thế, hai là A Xà (âm Xà, ) Thế. Đối với núi Kỳ Xà Quật trong phần trước, đọc là âm Đốc chẳng sao (tức là đọc thành Kỳ Đồ Quật), chứ với tên người th́ thường đọc là Xà. Nhưng c̣n có cách nói khác: Tại Ấn Độ giống như ở Trung Hoa, tại Trung Hoa có giọng Bắc B́nh (giọng Bắc Kinh), tức khẩu âm phương Bắc, và cũng có khẩu âm phương Nam. Những nơi khác nhau, sẽ có cách nói và ngữ âm khác nhau. Chữ Xà này, ở Trung Ấn Độ đọc là Đốc, Bắc Ấn Độ đọc là Xà. Có lúc đọc theo cả hai kiểu đều được. Tra trong kinh sách [sẽ thấy] cũng có nói theo mấy kiểu. Chiếu theo âm đọc trong nguyên văn, sẽ gồm rất nhiều chữ. Đời Đường, có một quyển sách tên là Nhất Thiết Kinh Dịch Âm (cách phiên âm trong hết thảy các kinh)[9], trong đó, A Xà Thế (Ajātaśatru) được phiên âm thành A Xà Đa Thiết Đốt Lộ, sáu chữ, nay chúng ta đơn giản hóa thành A Đồ Thế hoặc A Xà Thế đều được.

“Tùy thuận Điều Đạt ác hữu chi giáo” (Tùy thuận lời dạy của bạn ác Điều Đạt), “tùy thuận” (隨順) là nghe lời. Điều Đạt là cách phiên âm trong bộ kinh này, một cách phiên âm khác là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), thật ra là cùng một người. Kinh văn nói “Điều Đạt ác hữu”. Hai chữ “ác hữu” (惡友) hoàn toàn chẳng phải nói đến những bạn bè xấu ác của Điều Đạt, mà “ác hữu” là để h́nh dung Điều Đạt, Điều Đạt là bạn ác! Sau khi bị ông ta xúi giục, A Xà Thế “thâu chấp phụ vương Tần Bà Sa La”, [nghĩa là] A Xà Thế liền bắt giữ phụ vương của ḿnh (bản thân ông ta là Thái Tử. Thái Tử có thể kế thừa ngôi vua. Hiện thời, ông ta c̣n chưa nối ngôi làm quốc vương, nghe theo lời bạn ác, tức bạn bè chẳng tốt, nghe lời hắn), phụ vương tên là Tần Bà Sa La (Bimbisara), “thâu chấp” (收執) là bắt giữ. Sau khi đă bắt giữ th́ sao? “U bế trí ư thất trùng thất nội” (Giam kín trong nhà sau bảy lớp cửa), “u” () là rất sâu. “U bế” (幽閉): Nhốt ở nơi rất sâu, ở trong “thất trùng thất nội”, tức là từng tầng một, giam trong một căn nhà có bảy tầng cửa. “Chế chư quần thần, nhất bất đắc văng” (Cấm ngặt quần thần, không ai được đến đó), “chế” () là ngăn cấm. Cấm ngặt thần tử trong triều, nhất loạt chẳng cho phép đến nơi đó. Trước hết, hăy đọc hiểu văn tự trong đoạn này có ư nghĩa như vậy đó.

          Nhốt phụ vương lại, không cho phép bất cứ ai đến thăm, lại c̣n nhốt trong nhà có bảy lớp cửa. Đó là muốn cho cha ḿnh phải chết đói dần dần, có ư nghĩa giết cha. V́ sao? Sau khi cha ông ta đă bị giết, chính ḿnh có thể chánh thức làm vua. Thật ra, sau khi ông ta bắt giữ phụ vương, đă làm vua trên thực tế. V́ sao phải làm như vậy? Do bạn ác là Điều Đạt xúi giục. Mỗi người bọn họ đều có mưu toan riêng. Điều Đạt bảo ông ta giết cha là có dụng ư, ông ta bèn nghe lời Điều Đạt! (Một người có tâm tham sẽ kinh khủng lắm).         

Đại thành Vương Xá lớn đến cỡ nào? Thuở ấy, tại Trung Ấn Độ, có thể nói đây là một ngôi thành lớn bậc nhất. Khi ấy, nước Ma Kiệt Đà (c̣n gọi là nước Ma Già Đà, thường gọi là “Ma Kiệt Đà quốc”, phiên âm hơi khác nhau), kinh đô là thành Vương Xá. To cỡ nào? Thông thường, theo các bản chú giải cổ, cư dân có đến chín ức người, số lượng ấy quá lớn! Hiện thời, tại Trung Hoa Đại Lục cũng chưa tới mười một ức dân cư, thành Vương Xá có chín ức. Con số này tính theo cách nào? Tại Ấn Độ thuở ấy, “Ức” có tới mấy cách nói [khác nhau], tối thiểu là có bốn cách tính. Kinh văn cũng nói bốn loại:

1) Một loại là coi mười vạn là một Ức, mười vạn dễ hiểu. Đơn vị, mười, trăm, ngàn, vạn, mười vạn, mười vạn là Ức. Đó là một cách.

2) Theo cách nói thứ hai, một trăm vạn là một Ức.

3) Cách nói thứ ba, một ngàn vạn là một Ức.

4) Cách nói thứ tư, một vạn vạn là một Ức.

Nay chúng ta chọn phương thức tính toán coi Ức là một vạn vạn. Dân số ở Trung Hoa Đại Lục tính theo kiểu một vạn vạn là một Ức. Mười một ức dân cư quá đông! Cư dân trong thành Vương Xá là chín ức, nếu tính theo kiểu “một vạn vạn là một ức”, sẽ lớn khôn cùng, hết sức chẳng tương xứng! Nếu tính “một ngàn vạn là một ức”, con số cũng quá to. Kinh điển tính Ức theo nhiều cách khác nhau, kinh Hoa Nghiêm coi một ngàn vạn là một ức, Đại Trí Độ Luận coi mười vạn là một ức. Cổ nhân chú giải kinh này, quá nửa trích dẫn cách nói trong Đại Trí Độ Luận. Chúng tôi cũng theo cách nói của Đại Trí Độ Luận, coi mười vạn là một ức, “chín ức” là chín mươi vạn người. Vào thời đó, chín mươi vạn người sẽ là đại thành. Thành phố Đài Trung c̣n chưa đến chín mươi vạn, chúng ta chọn con số ít nhất để nói. Nếu chọn lựa chiết trung, coi một trăm vạn là Ức, cũng là khá nhiều! Chín ức là chín trăm vạn người, chẳng thể xác định! Đây chỉ là giới thiệu con số, ḥng t́m hiểu đôi chút. Bất luận là chín mươi vạn hoặc chín trăm vạn, thành ấy đích xác là rất to. Ngoài ṭa đại thành ấy c̣n có quốc gia.

          Làm quốc vương một nước lớn như vậy, rất có quyền uy, quá tốt đẹp! Do vậy, Điều Đạt vừa xúi giục, Thái Tử ngay lập tức làm theo, bắt giam cha ḿnh, để chính ḿnh lên làm quốc vương. Làm vua th́ cứ làm, v́ sao phải giết cha? Từ xưa đến nay đều là như vậy, phụ vương có thần tử cũ của phụ vương; chính ḿnh làm quốc vương, sử dụng toàn là người mới của chính ḿnh. Nếu chẳng giết chết cha, lỡ cha thoát ra, c̣n có những thần tử cũ nhất loạt ra tay, chính ḿnh lại bị lật đổ. Nhất định là phải sau khi đă giết chết phụ thân, chính ḿnh mới ổn thỏa, vững vàng. Quư vị nghĩ xem, mục đích của ông ta là muốn cho cha chết đói, muốn giết cha!

          Trong đề cương bài giảng đă phát ra ngày hôm nay, đầu tiên là nói tới “nghịch sự phát khởi”. Nghịch sự (逆事) là tội giết cha, giết mẹ trong Ngũ Nghịch đại tội. Giết cha là một tội lớn trong Ngũ Nghịch. Lấy chuyện giết cha để làm Phát Khởi Tự cho bộ kinh này, v́ lẽ nào? Đặc biệt lắm! Trong các bộ kinh khác, đều chẳng có t́nh h́nh này. V́ sao dùng chuyện ấy để phát khởi? Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh này, được gọi là Quán Kinh, Quán Kinh dạy người ta quán từng bước. Khi đă quán thành công, có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói chung, kẻ b́nh phàm cảm thấy thế giới này cũng rất tốt đẹp! Cần ǵ phải đến Tây Phương Cực Lạc thế giới? Lại nói: “Học Phật th́ cứ ở trong thế giới này, chiếu theo Phật pháp để học, cũng có thể thành Phật. Cần ǵ phải đến thế giới Cực Lạc?” Vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật, đă có những kẻ nghĩ như vậy; cho đến thời Mạt Pháp hiện tại, kẻ nghĩ như vậy càng nhiều hơn. V́ thế, đức Phật dùng chuyện ngỗ nghịch để khiến cho chúng ta biết: Học Phật trong thế gian này muốn có thành tựu (đừng nói là thành Phật. Quư vị mong ĺa khỏi lục đạo luân hồi, giải quyết vấn đề sanh tử cũng chẳng dễ dàng), trọn chẳng phải là có thể làm được trong một đời này, ắt phải đến Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          Muốn tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, trước hết phải hiểu rơ thế giới Sa Bà là thế giới ǵ? Quư vị thấy đó, con cái do chính ḿnh nuôi nấng, v́ tham cầu quyền lợi, tham cầu ngôi vua, nó nhẫn tâm sát hại cha, những kẻ khác chẳng cần nói nữa! Quư vị ngẫm xem! Thế giới này xấu xa, hèn kém đến mức độ nào? Hoàn cảnh xấu xa, hèn kém như thế, ḷng người bại hoại như thế, mong tu đạo trong cơi này, khi tu hành tiến tới trước một bước, hoàn cảnh xấu ác sẽ lôi chúng ta lui lại hai bước! Do vậy, dạy chúng ta phải hiểu rơ t́nh huống ấy, nhận biết thế gian này hết sức xấu xa, hèn kém, ắt phải ĺa khỏi thế gian này, đến thế giới Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm.

          Tới cơi kia, tu hành hết sức mau chóng! Trong thế giới ấy, chẳng có ba ác đạo; địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là ba loại ác đạo. V́ sao trong cơi kia chẳng có ba ác đạo? Phàm những ai sanh về đó, đều là người niệm Phật. Người niệm Phật nguyện lực phù hợp với A Di Đà Phật th́ mới có thể đến sống trong hoàn cảnh ấy. Thế giới của chúng ta có ba ác đạo, chẳng cần đợi đến sau khi chết sẽ đọa lạc trong tam đồ. Rất nhiều kẻ c̣n đang sống sờ sờ, mà tâm họ đă ở ngay trong tam đồ. Tu đạo trong thế giới này quá khó khăn! Do vậy, dùng chuyện thuộc đại tội ác Ngũ Nghịch để làm Phát Khởi Tự cho bộ kinh này, ḥng khiến cho chúng ta là người học Tịnh Độ Tông sẽ nhàm ĺa, sẽ chán ngán, ghét bỏ thế gian này, sẽ phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc. V́ thế, trong đề cương bài giảng, sau chữ “nghịch sự phát khởi” có ghi “chương cực ác” (彰極惡), [nghĩa là] phô bày chuyện đại ác cùng cực ấy, khiến cho mọi người đều hiểu rơ. Sau khi đă hiểu rơ, “linh yếm khí” (令厭棄: khiến cho chán bỏ), dạy người học Phật đừng nên tham luyến thế gian này. Tham luyến thế gian này, sẽ chẳng thể văng sanh, nhất định là phải nhàm bỏ thế giới này th́ mới có thể văng sanh thế giới kia. Do có dụng ư này, cho nên mới dùng chuyện này để làm Phát Khởi Tự.

          Chúng ta học Phật, bất luận là người sơ học, hay người đă học lâu năm, điều quan trọng nhất là phải hiểu rơ nhân quả. Nhân quả chẳng phải là nói đến nhân quả trong một thời gian ngắn ngủi trước mắt. Nhất định là phải nói tới nhân quả ba đời. Nhân quả ba đời: Đối với bất cứ chúng sanh nào, đời này là đời hiện tại. Trước đời này là đời trước, trước đời trước lại có đời trước nữa, tức đời quá khứ. Bất cứ đời nào, thọ mạng của chúng sanh đều là [có hạn lượng] nhất định. Sau khi đă chết, sẽ lại chuyển sang đời khác, tức đời vị lai. Quá khứ, hiện tại, vị lai là “tam thế”. Kẻ b́nh phàm phủ định đời quá khứ, họ cũng phủ định đời vị lai, chỉ thừa nhận sanh mạng trong khoảng thời gian ngắn ngủi vài chục năm; đó là tà tri tà kiến. Có tà kiến ấy, học Phật sẽ chẳng có cách nào học được, chẳng thể nhập môn. Do vậy, học Phật th́ ắt là phải có quan niệm “tam thế”. Đă có quan niệm tam thế, sau đấy mới có thể hướng tới Phật pháp nghiên cứu. Trước hết, chúng ta phải hiểu rơ chuyện này. Đối với bất luận kẻ sơ học hay người tu lâu, đều phải nghiên cứu tam thế nhân quả.

          Nếu nghiên cứu tam thế nhân quả, sẽ tin tưởng có tam thế nhân quả. V́ chúng ta học Phật nhằm giải quyết vấn đề sanh sanh tử tử từ vô thỉ tới nay. Để giải quyết vấn đề sanh tử, ắt phải t́m ṭi, hiểu rơ đường hướng của nó. Người ta thường nói: Sanh mạng của loài người chúng ta giống như con sông lớn Trường Giang, nguồn xa, ḍng dài. Nếu dùng Trường Giang và Hoàng Hà để nói, muốn giải quyết vấn đề lũ lụt của Trường Giang và Hoàng Hà, nhất định là phải nghiên cứu tận nơi bắt nguồn của Trường Giang và Hoàng Hà, chúng có những chi lưu chảy qua những nơi nào, trong tương lai sẽ hợp lưu ở nơi đâu để tuôn ra biển. Phải hiểu rơ toàn bộ, sau đấy, quư vị mới có thể thật sự điều ḥa sông ng̣i. Nếu nói quư vị chỉ nh́n một đoạn trung du của Hoàng Hà, hoặc một đoạn trung du của Trường Giang, không cần biết đến thượng du, ta chẳng quan tâm tới nó, hạ du chảy đến nơi nào, ta cũng mặc kệ, chỉ quan tâm đoạn sông này. Quư vị nghiên cứu kiểu đó, làm thế nào cũng chẳng có cách nào giải quyết vấn đề lũ lụt! Nói theo tỷ dụ ấy, chúng ta mong giải quyết vấn đề sanh tử, mà chẳng quan tâm tới quá khứ, cũng như bất cần vị lai (phủ định quá khứ lẫn vị lai), ta chỉ thừa nhận đời này, làm sao có thể giải quyết vấn đề sanh tử cho được? Ngay cả những hiện tượng sự thật như chính ḿnh do đâu mà có, trong tương lai sẽ ra đi như thế nào, đều chẳng khảo sát rơ ràng! Giống như bác sĩ chữa bệnh, vẫn chưa biết rơ bệnh trạng, làm sao có thể ra toa cắt thuốc cho được? Làm sao có thể trị liệu được? Đúng là chuyện chẳng thể làm được! Do đó, muốn giải quyết vấn đề sanh tử, ắt phải hiểu rơ chuyện sanh tử của mỗi người chúng ta. Chuyện quá khứ, hiện tại, vị lai, hiểu càng nhiều càng tốt. Biết càng nhiều, quư vị càng nắm được nhiều tài liệu. Quư vị nghiên cứu bất cứ loại học vấn nào, trong tay nắm giữ tài liệu càng nhiều càng tốt! Chẳng giới hạn trong một thời gian hay không gian nào! Đối với vấn đề sanh tử của chính ḿnh, chúng ta nắm giữ tài liệu càng nhiều, càng dễ giải quyết vấn đề sanh tử của chính ḿnh. Dựa trên các lư do này, chúng ta phải đổ công dốc sức nơi tam thế nhân quả. Môn học vấn này chẳng phải là như những kẻ b́nh phàm đă nói. Có những kẻ phản đối nhân quả, cố ư bảo nhân quả là chuyện rất nông cạn!

          Chính ḿnh đối với nhân quả có thể hiểu rơ hết thảy, chẳng cần đắc Túc Mạng Thông. Do đâu mà có Túc Mạng Thông? Túc Mạng Thông là do nhập Định mà có, hiểu rơ toàn bộ học vấn và kinh văn, tri kiến đều giống như nhau. Dưới đây, sẽ nói tới tiền nhân của Thái Tử, tức là những chuyện trong quá khứ. Nhất định là phải chẳng có thành kiến đối với tam thế nhân quả th́ mới thể tiến nhập t́nh huống được nói sau đây!

 

IV.1.2.1. A Xà Thế

 

          Bây giờ hăy nh́n vào đề cương bài giảng. Thái Tử A Xà Thế, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vị Sanh Oán (未生怨), [nghĩa là] khi c̣n chưa sanh ra, đă mang nỗi oán hận. Có thể thấy là người trong thế gian này mong có con cái mà chẳng hiểu nhân quả. Nếu hiểu nhân quả, quan hệ giữa cha và con, một là quan hệ ân, tức báo ân; một là quan hệ oán, tức báo oán. Người thế gian chúng ta bất quá là ân ân oán oán. Chẳng có ân oán, sẽ không thể ở cùng một chỗ! Vị Sanh Oán là c̣n chưa sanh ra mà đă kết oán. Một ư nghĩa khác nữa là Chiết Chỉ (折指), tức là ngón tay găy một đốt (lóng). V́ sao gọi là Vị Sanh Oán, lại c̣n gọi là Chiết Chỉ? Theo chú giải của tổ sư thời cổ, phụ vương của ông ta vốn chẳng có con cái, nghĩ “ta có một quốc gia to lớn như vậy. Trong tương lai, sau khi đă chết, chẳng có con cái, quốc gia sẽ giao cho ai kế thừa?” Đi khắp nơi cầu thần, thần cũng chẳng thể ban cho nhà vua một đứa con! Về sau, có một người thầy bói xem tướng, tâu với lăo vương: “Ở trong núi nọ, có một người tu thần tiên (người Ấn Độ tu thần tiên rất đông. Trung Hoa cũng có kẻ tu thần tiên), chẳng bao lâu sẽ qua đời, xả mạng. Sau khi tiên nhân mạng chung, trong tương lai, sẽ chuyển sanh vào nhà Ngài, làm con của bệ hạ”. Quốc vương nghe nói rất vui thích, hỏi thầy bói: “Vị tiên nhân ấy c̣n phải bao lâu nữa mới chết?” Thầy tướng nói: “C̣n phải ba năm nữa!” Quốc vương nói: “Úi chào! Thời gian ba năm quá dài”. Khi một người mong cầu thứ ǵ, ước sao cầu được ngay lập tức! Nhà vua cảm thấy thời gian quá dài, ngay lập tức, sai sứ giả lên núi t́m. Quả nhiên có một vị tiên nhân ở đấy, [sứ giả] liền đem ư của nhà vua nói với người ấy: “Ba năm nữa, ông sẽ chết, sẽ làm Thái Tử trong hoàng cung. Nay lăo vương đợi chẳng kịp, chẳng cần chờ ba năm, bây giờ, hăy chết ngay lập tức đi thôi!” Chết làm sao được? Tiên nhân bảo: “Thọ mạng của ta đáng nên sống ba năm nữa, ta sẽ sống ba năm. Ngươi kêu ta chết bây giờ, ta chẳng làm được!” Sứ giả quay về, tâu lên lăo vương. Lăo vương phán: “Chuyện ấy chẳng do hắn [quyết định]! Ta là quốc vương một nước, ta muốn làm như thế nào th́ làm như thế ấy! Ngươi lại sai người đến bảo hắn, hắn nhận lời là tốt nhất. Nếu chẳng nhận lời, cứ giết phứt hắn đi. Sau khi đă giết chết, đương nhiên là hắn sẽ chuyển thế”. Lại sai người đến, tiên nhân vẫn chẳng nhận lời. Người phụng mạng đến [khuyên dụ] lần thứ hai bèn làm theo lệnh vua, muốn giết chết tiên nhân. Tiên nhân chẳng có cách nào, bèn nói: “Nay ngươi hạ lệnh kết thúc sanh mạng của ta trước thời gian. Trong tương lai, ta chuyển thế làm Thái Tử của ngươi, ta cũng sẽ dùng phương thức này, hạ lệnh giết hại ngươi!” Sau khi nói xong, [tiên nhân] bị sứ giả giết chết. Sau khi bị giết, quả nhiên chuyển thế, chuyển sanh vào nhà quốc vương. Lúc đó, bên kia vừa giết, bên này, phu nhân của quốc vương bèn cấn thai!

          Người hiểu rơ nhân quả sẽ được thọ dụng rất lớn. Tỷ như nói tới vị quốc vương ấy, đă được người khác cho biết, sau ba năm, tiên nhân sẽ chuyển thế, sanh vào nhà quốc vương, [tiên nhân] có chạy thoát đi đâu hay không? Thoát chẳng được! [Thế mà] nhà vua chẳng chờ được! Do chờ chẳng nổi, bèn tạo nghiệp sát nhân! Do vậy, chúng ta là người hiểu nhân quả, sẽ thản nhiên, chẳng cần phải cưỡng cầu. Chuyện đáng tới bèn tới, chuyện chẳng tới th́ cưỡng cầu cũng chẳng được! Nhà vua chẳng hiểu đạo lư này bèn kết oán. Phu nhân hoài thai, quốc vương rất vui sướng, mời thầy tướng số đến xem: “Xin coi thử phu nhân mang thai là nam hay nữ?” Thầy tướng số xem thấy là nam. Quả nhiên là tuyệt diệu quá! Sẽ có người thừa kế, quốc vương hết sức hoan hỷ. Thầy tướng số ngay lập tức tâu với vua: “Bệ hạ đừng vội mừng. Đứa trẻ này sanh ra cố nhiên là Thái Tử của bệ hạ, là con trai. Trong tương lai, nó sẽ gây hại cho cha mẹ, rất bất lợi!” Quốc vương nói: “Có hại chi đâu! Nhiều lắm là ta đem tất cả hết thảy mọi thứ trong nước nhường cho nó, mục đích sanh ra nó là để cho nó kế thừa ngôi vua, chẳng hại chi cả”. Thầy tướng số nói: “Không chỉ là như vậy! Bệ hạ trao quyền vị cho nó, trong tương lai, nó c̣n muốn lấy mạng của bệ hạ, chuyện ấy chẳng tránh được đâu!” Nói như vậy, nhà vua sanh ḷng kinh hoảng, trong tâm sợ hăi, chẳng cần đứa nhỏ này nữa. Chẳng dám nói với thầy tướng số, mà cũng chẳng dám nói với bất cứ ai, bí mật thương lượng với phu nhân, họ muốn chết già trong tương lai. Chẳng cần đến thai nhi này nữa, làm như thế nào đây? Sanh th́ vẫn phải sanh, trong tương lai, khi đă sanh ra, nghĩ cách cho nó từ trên cao ngă xuống, vừa sanh ra đă bị ngă chết, ai biết? Thương lượng xong xuôi, đến khi sanh nở, phu nhân cố ư đến chỗ cao để sanh nở, quả nhiên đứa bé rớt xuống, úi trời! Nhưng mạng Thái Tử chẳng đáng chết, rớt xuống mà chẳng chết! Chỉ là ngón tay bị găy một lóng ở ngón út. V́ thế, cũng gọi là Chiết Chỉ.

          Do tên gọi ấy chẳng dễ nghe, sau khi lớn lên, người trong cung đ́nh lại đặt cho ông ta một tên nữa, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thiện Kiến (善見: Thiện là rất tốt, Kiến là chữ Kiến trong “tri kiến”). Thiện Kiến có nghĩa là người rất thông minh, thấy rất nhiều sự việc, vừa trông thấy bèn hiểu ngay. Thái Tử cũng đích xác là như vậy! Đầu óc suy nghĩ rất mẫn tiệp, rất nhanh chóng, v́ kiếp trước, ông ta đă học đạo thần tiên. Do vậy, hết sức thông minh. V́ thế, có tên gọi khác là Thiện Kiến.

 

IV.1.2.2. Điều Đạt

 

          Lại xem tới Điều Đạt. Một cách phiên âm khác là Đề Bà Đạt Đa (mọi người quen thuộc với tên gọi này hơn). Ông ta là tùng đệ (em họ) của Thích Ca Mâu Ni Phật; cùng ông nội, khác cha mẹ th́ gọi là “tùng đệ” (從弟). Điều Đạt hết sức ganh tỵ đức Phật, tạo rất nhiều chuyện tội ác hết sức to lớn. Ông ta là em họ đức Phật, tức là con ai? Là con của Hộc Phạn Vương (Dhotodana), ông ta cũng là anh của tôn giả A Nan. Chúng ta biết: Tôn giả A Nan theo Thích Ca Mâu Ni Phật để học Phật, học rất khá. Vị này là người hết sức thông minh, có trí nhớ tốt nhất, nghe bất cứ pháp ǵ cũng đều vĩnh viễn chẳng quên mất. Kinh điển Phật giáo đều do Ngài đọc thuộc ḷng ra, sau đấy mới được ghi chép lại. Điều Đạt là anh của tôn giả A Nan; nói cách khác, tôn giả A Nan và Điều Đạt đều là con của Hộc Phạn Vương. Hộc Phạn Vương là anh em của Tịnh Phạn Vương (Śuddhodana). Anh em Tịnh Phạn Vương gồm bảy người, Hộc Phạn Vương là một trong số đó. Ông ta (Điều Đạt) và đức Phật có quan hệ anh em họ.

          Điều Đạt là phiên âm từ tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thiên Nhiệt (天熱: hai chữ Nhiệt Thiên đảo ngược lại sẽ là Thiên Nhiệt). Có thuyết nói ông ta sanh nhằm lúc khí trời rất nóng. Có thuyết nói khi ông ta sanh ra, chư thiên đều cảm thấy nóng bức. Trong nhân gian, vào mùa Hè, chúng ta cảm thấy nóng bức, trên cơi trời v́ sao mà cảm thấy nóng bức? Khí hậu trên cơi trời tốt nhất, nhưng khi Điều Đạt sanh ra, ngay cả người trên cơi trời cũng đều cảm thấy nóng bức, có thể thấy là người này chẳng phải là thiện nhân. V́ thế, có tên là Điều Đạt.

          Sau khi đă trưởng thành, ông ta cũng xuất gia học đạo, học đến mức độ nào? Ông ta hết sức thông minh, học Phật pháp rất nhiều. Ngoài Phật pháp ra, tại Ấn Độ vào thuở đó, có kinh điển của Bà La Môn giáo, ông ta đều ghi nhớ, học rất ư là nhiều. Sau đó, ông ta xin Thích Ca Mâu Ni Phật dạy thần thông. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo: “Ông chẳng cần học thần thông vội, trước hết hăy tu Quán”. Quán ǵ? Quán pháp thế gian, quán vạn sự vạn vật trong thế gian. Tu Vô Thường Quán: Bất cứ sự vật nào trong thế gian cũng đều chẳng tồn tại vĩnh hằng, đều là sanh sanh diệt diệt. Phật pháp thường nói “vạn pháp vô thường”. Nói tóm lại, ông phải thật sự thể nghiệm, chuyển biến cảnh giới, phải dùng công phu, hành Vô Thường Quán. Đức Phật bảo ông ta: “Ông hăy tu Vô Thường Quán”, đó là hảo ư của đức Phật. Đức Phật biết ông chẳng thể học thần thông. Học thần thông sẽ có hại cho bản thân ông ta trong tương lai, nhưng ông ta đâu có nghe! Đức Phật dạy ông ta học Vô Thường Quán, ông ta không học. Đức Phật không dạy ông ta thần thông, nhưng đức Phật c̣n có rất nhiều đại đệ tử. Ông ta t́m đến những vị đại đệ tử ấy. Đại đệ tử của đức Phật có rất nhiều vị có thần thông, như tôn giả Mục Kiền Liên là vị có thần thông [bậc nhất]; nhưng những vị đại đệ tử ấy đều chẳng dạy ông ta thần thông, cũng là do đều biết sau khi ông ta học thần thông, trong tương lai, sẽ chẳng biết sử dụng vào chỗ chánh đáng! Cuối cùng, làm như thế nào? Ông ta là anh ngài A Nan, A Nan có thần thông. Tuy có thần thông, nhưng [ngài A Nan] chẳng có Tha Tâm Thông, chẳng biết chuyện vị lai của Điều Đạt, mà cũng chẳng hiểu tâm lư ông ta. Họ lại là anh em, có t́nh cảm anh em. Anh đă yêu cầu, ngài A Nan liền nói cho ông ta biết phương pháp.

          Sau khi đă được dạy, ông ta bèn lên núi, chiếu theo phương pháp ấy để tu tập, kết quả là tu thành công. Các thứ thần thông như Thần Túc Thông v.v… đều học được. Sau khi học hiểu, ông ta bèn ganh tỵ. Theo chú giải kinh văn, đức Phật thành Phật có ba mươi hai tướng. Điều Đạt có bản lănh rất lớn, ông ta có ba mươi tướng, đức Phật có ba mươi hai tướng, [tức là] ông ta chỉ ít hơn hai tướng, lỗi lạc lắm! Ông ta chỉ kém Phật có hai tướng, [cứ tưởng] tiến thêm bước nữa là có thể thành Phật. Tự ḿnh cảm thấy ta vừa có thần thông, vừa có tướng hảo, tuyệt vời quá! Ông ta thấy đức Phật đến chỗ quốc vương, được quốc vương tôn kính, cúng dường đủ thứ, trong tâm [Điều Đạt] chẳng buông xuống được, tâm tham dấy lên! Đức Phật có thể được cúng dường như vậy, ta cũng có bản lănh ấy, vừa có thần thông, vừa có tướng hảo, gần như là sắp thành Phật, ta cũng phải nên có những thứ cúng dường ấy. Ông ta dấy lên chủ ư, tới thuyết phục Thái Tử A Xà Thế, dùng thần thông để thuyết phục Thái Tử. Thuyết phục như thế nào? Đương nhiên là dùng rất nhiều thần thông, nói cho Thái Tử động tâm. Sau khi đă thuyết phục thành công, Thái Tử nhận lời, phụ vương dùng lễ vật cúng dường đức Phật như thế nào, Thái Tử cũng dùng những thứ giống hệt như vậy để cúng dường Điều Đạt.

          Vừa được cúng dường, trong tâm bèn dấy lên kiêu ngạo. Có một lần, Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong đại pháp hội, rất nhiều người đến nghe đức Phật giảng pháp, ông ta đi tới bảo đức Phật: “Lăo nhân gia đă già rồi, hăy nên nghỉ hưu. Hăy giao những thính chúng này cho tôi! Tôi chịu cực thay cho Ngài, tôi ra lănh chúng.” Thích Ca Mâu Ni Phật quở trách ông ta một chập. Điều Đạt chẳng đạt được mục đích, bèn xúc xiểm Thái Tử, bảo Thái Tử: “Ngài tới khi nào mới làm quốc vương? Chẳng thà ngay bây giờ giết quách quốc vương đi, c̣n thần th́ sao? Thần cũng chờ không nổi! Thần sẽ giết Thích Ca Mâu Ni Phật. Thần làm tân Phật, Ngài làm tân vương. Hai người chúng ta như vậy, một là tôn giáo, một là chánh trị, chúng ta hợp tác với nhau”. Thái Tử vừa nghe nói phải giết cha, cảm thấy làm chuyện này chẳng được. Thái Tử chẳng tin lời ông ta nói. Điều Đạt nói: “Điện hạ chẳng tin hả? Thần nói cho điện hạ nghe nhé. V́ sao điện hạ bị gọi là Vị Sanh Oán? V́ sao ngón tay của điện hạ bị găy?” Bèn đem nguyên nhân trong quá khứ, nói từng chuyện cho Thái Tử nghe. Vừa bị xúc xiểm, Thái Tử bèn động tâm. “Tùy thuận Điều Đạt ác hữu chi giáo” là như thế đó.

 

IV.1.2.3. Tham tâm thoái đạo

 

          Đă nói xong nhân duyên. Các vị thấy trong đề cương bài giảng, điều kế tiếp là “tham tâm thoái đạo”. Chúng ta bất luận là ai, chớ nên có tâm tham! Như Điều Đạt đă đạt tới mức độ đắc Ngũ Thông, kết quả ra sao? Phải hiểu rơ “chúng sanh vốn có tâm tham”, bất cứ chúng sanh nào cũng đều vốn sẵn có tham, sân, si, Điều Đạt cũng chẳng phải là ngoại lệ. “Đắc nhi tri túc giả thiểu” (Người đă đạt được mà biết đủ th́ ít), tâm tham là dù đă đạt được vẫn chẳng tri túc, vĩnh viễn chẳng biết đủ! “Đắc nhi tăng tham giả đa” (Kẻ đă đạt được mà ḷng tham tăng thêm th́ nhiều): Sau khi đă có được, [vẫn mong có thêm] càng nhiều càng tốt, kẻ b́nh phàm đều là như vậy!

         Cổ nhân có một tỷ dụ, trong Tứ Thiếp Sớ, tức bản chú giải [Quán Kinh] của Thiện Đạo đại sư có viết: “Dĩ trượng đả ác cẩu tỵ” (Dùng gậy đập mũi chó dữ). Có một người dùng gậy chống để đập vào mũi một con chó dữ, “chuyển tăng cẩu ác” (khiến chó dữ hơn). Chẳng đập vào mũi con chó đó th́ thôi. Vừa đập vào mũi nó, chó càng nổi tánh hung dữ hơn! Điều này tỷ dụ ǵ? “Lợi dưỡng dụ trượng”, nghĩa là danh tiếng, lợi dưỡng ví như cái gậy đó. “Tham tâm dụ cẩu tỵ”: Tâm tham ví như cái mũi của con chó dữ. Càng dùng lợi dưỡng để cung phụng, bồi dưỡng cái tâm tham, tâm tham vĩnh viễn chẳng đủ, càng tham nhiều hơn! Điều Đạt bị hại là do đạt được lợi dưỡng từ Thái Tử. “Điều Đạt đắc lợi”, do được hưởng nhiều quá nên mới “bối đạo khởi ác” (nghịch đạo, dấy ḷng làm ác). Càng về sau, càng tạo tội ác khôn cùng! Ông ta muốn hại Phật, c̣n phá sự ḥa hợp của Tăng đoàn, kết quả là “sanh hăm địa ngục” (生陷地獄), tức là đọa hăm trong địa ngục ngay trong khi c̣n sống!

          Thấy những nhân duyên ấy, nhân quả và tâm tham, hăy ngẫm xem thế gian này là ǵ? Thời kỳ Mạt Pháp trong thế gian này càng dữ dội. Hiện thời, chúng ta chẳng học Tịnh Độ, chẳng cầu văng sanh thế giới Cực Lạc, mong thành tựu ngay trong đời này nơi thế gian này, đừng nằm mơ! Đó là chuyện chẳng thể thực hiện được! Ngày nay, mong thành tựu liễu sanh thoát tử ngay trong đời này, chỉ có học pháp môn Tịnh Độ. Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này th́ ngừng!

 

Tập 6

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, các vị đồng học trong giảng ṭa, xin mọi người mở kinh bổn, trang thứ nhất. Xem từ hai chữ cuối ở phần sau trong hàng thứ tư. Trước hết, đọc kinh văn một lượt.

 

        (Kinh) Quốc thái phu nhân, danh Vi Đề Hy, cung kính đại vương, tháo dục thanh tịnh, dĩ tô mật ḥa sao, dụng đồ kỳ thân, chư anh lạc trung, thịnh bồ đào tương, mật dĩ thượng vương. Nhĩ thời đại vương, thực sao ẩm tương, cầu thủy thấu khẩu. Thấu khẩu tất dĩ, hiệp chưởng cung kính, hướng Kỳ Xà Quật sơn, dao lễ Thế Tôn, nhi tác thị ngôn: “Đại Mục Kiền Liên, thị ngô thân hữu, nguyện hưng từ bi, thọ ngă bát giới”. Thời Mục Kiền Liên, như ưng chuẩn phi, tật chí vương sở. Nhật nhật như thị, thọ vương bát giới. Thế Tôn diệc khiển tôn giả Phú Lâu Na, vị vương thuyết pháp. Như thị thời gian, kinh tam thất nhật, vương thực sao mật, đắc văn pháp cố, nhan sắc ḥa duyệt.

()國太夫人,名韋提希。恭敬大王,澡浴清淨,以酥蜜和,用塗其身。諸瓔珞中,盛蒲萄漿,密以上王。爾時大王,食飲漿,求水漱口。漱口畢已,合掌恭敬,向耆闍崛山,遙禮世尊,而作是言:大目犍連,是吾親友,願興慈悲,授我八戒。時目犍連,如鷹隼飛,疾至王所。日日如是,授王八戒。世尊亦遣尊者富樓那,為王說法。如是時間,經三七日,王食蜜,得聞法故,顏色和悅。

(Kinh: Quốc thái phu nhân tên là Vi Đề Hy, cung kính đại vương, tắm gội thanh tịnh, lấy tô mật ḥa với bột rang để bôi lên thân. Trong các chuỗi ngọc, đựng nước nho, ngầm dâng lên vua. Lúc bấy giờ, đại vương, ăn bột rang, uống nước ép, xin nước sức miệng. Súc miệng xong xuôi, chắp tay cung kính, hướng về núi Kỳ Xà Quật, bái vọng đức Thế Tôn, bạch như thế này: “Ngài Đại Mục Kiền Liên là thân hữu của con, nguyện dấy ḷng từ bi, truyền cho con Bát Quan Trai Giới”. Khi ấy, ngài Mục Kiền Liên như chim ưng, chim cắt bay liệng, nhanh chóng đến chỗ nhà vua, mỗi ngày đều như thế, truyền Bát Quan Trai Giới cho nhà vua. Đức Thế Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp cho nhà vua. Hằng ngày như thế, trải qua hai mươi mốt ngày, vua do ăn bột rang và mật, được nghe pháp, nên vẻ mặt ôn ḥa, vui sướng).

 

          Lần trước đă nói: Em họ đức Phật là Điều Đạt xúi giục Thái Tử A Xà Thế giết cha, c̣n chính ông ta sẽ giết hại Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai người bọn họ giao ước: Một người làm tân quốc vương, một người làm tân Phật. Do đó, hai người bèn chia nhau tạo đại tội Ngũ Nghịch. Thái Tử A Xà Thế làm theo ư của Điều Đạt, nhốt chặt phụ vương!

          C̣n Đề Bà Đạt Đa (tức là Điều Đạt) hăm hại Phật như thế nào? Ông ta bảo Thái Tử A Xà Thế thả năm trăm con voi. Ấn Độ có rất nhiều voi, thả voi tấn công Thích Ca Mâu Ni Phật, mong giết chết Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Định, nhập từ bi đại định. Trong khi nhập Định, Ngài duỗi năm ngón tay phải, năm trăm con voi bèn thấy là năm con mănh sư (猛獅: sư tử hung bạo) hiện ra. Sư tử là vua các loài thú; năm trăm con voi thấy năm con sư tử hiện ra, bèn ngay lập tức quỳ xuống. Không chỉ là chẳng sát hại Thích Ca Mâu Ni Phật, mà ngược lại, hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật quỳ lạy. Sau đấy, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo các đệ tử: “Ngón tay của ta há có sư tử? Chỉ bất quá là ngón tay mà thôi!” Đức Phật dùng ḷng từ bi, duỗi ngón tay, trong mắt voi thấy là sư tử. V́ thế, có thể thấy là sức mạnh tà ác to cỡ nào, chẳng thể chống nổi từ bi. Hễ tâm từ bi phát ra, có thể vượt trỗi hết thảy sức mạnh tà ác. Đó là một chuyện. Sau đó, Điều Đạt vẫn chưa từ bỏ ư định. Có một lần, ông ta nghĩ cách dùng thuốc độc rất mạnh giấu trong móng tay của chính ḿnh, chuẩn bị đến chỗ đức Phật để lễ bái Phật. Chúng ta biết lạy Phật th́ thông thường dùng hai bàn tay ôm chân đức Phật. Ông ta nghĩ khi hai tay ôm chân đức Phật, sẽ thừa cơ hội trút thuốc độc giấu trong móng tay ra, mong hạ độc giết chết Thích Ca Mâu Ni Phật. Dụng tâm này hết sức độc dữ! Ông ta c̣n chưa đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đang đi nửa đường, đất ngay lập tức nứt ra, cả người liền sụp xuống đất. Kinh Phật nói là ông ta đọa trong địa ngục ngay trong khi c̣n sống. Địa ngục Hỏa Triệt là kết quả của ông ta.

          Nói tới chỗ này, tổ sư tông Thiên Thai có chú giải một điều rất quan trọng. Tổ sư rất sợ người học kinh chúng ta thấy chỗ này, sẽ nẩy sanh thái độ nghiêm khắc chỉ trích Điều Đạt và Thái Tử A Xà Thế, ngỡ họ sai trái. Ngài bèn chú giải, chú giải như thế nào? Những người ấy đều chẳng phải là phàm nhân, mà đều là bậc đại quyền thị hiện. Nói là “đại quyền thị hiện” (大權示現), nghĩa là họ đều là bậc đại Bồ Tát biểu diễn cho phàm phu chúng sanh trông thấy. Chẳng biểu diễn như vậy, phàm phu chúng sanh chẳng thấy nhân quả rơ rệt như thế! Lại nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, có rất nhiều phương pháp. Chẳng hạn như khi giảng bộ kinh này, chẳng phải là chỉ dùng miệng để giảng, mà c̣n sắp đặt chu đáo các thứ sự thật, ḥng khiến cho người nghe pháp trông thấy rơ ràng, tăng thêm ấn tượng cho họ, khiến họ nghe xong, [có cảm nhận] hết sức sâu xa. Do vậy, khởi đầu bằng phần Phát Khởi Tự có nghịch tử, có Điều Đạt là đồ chúng đại nghịch bất đạo ([những hành vi, biểu hiện của] đồ chúng theo học với Thích Ca Mâu Ni Phật đều là một thứ phương tiện thị hiện hết sức thiện xảo để thuyết pháp của đức Phật), chúng ta phải t́m hiểu tầng [ư nghĩa] này. Hai điểm trên đây nhằm bổ sung cho lần giảng trước.

          Hôm nay, bắt đầu bằng đoạn kinh văn này. “Quốc thái phu nhân” là nói tới thái phu nhân, bà ta vốn là phu nhân của quốc vương. Do Thái Tử đă giam kín phụ vương, chính ḿnh làm tân vương, bản thân quốc vương có phu nhân. Mẹ của tân vương bèn được gọi là thái phu nhân (太夫人). Quốc thái phu tên là Vi Đề Hy. Vi Đề Hy (Vaidehi) cũng là phiên âm từ tiếng Ấn Độ, ư nghĩa theo tiếng Hán là Tư Duy. Tư Duy là ǵ? Một người rất giỏi sử dụng năng lực tư duy, có nghĩa là sức tư duy, suy xét của bà ta rất mạnh, cũng có nghĩa là hễ gặp bất cứ chuyện ǵ, bà đều suy nghĩ rất chu đáo. Tiếng Ấn Độ là Vi Đề Hy.

          Bà ta “cung kính đại vương”, cổ nhân đọc chữ Đại () trong “đại vương” là Thái (), [lư do là v́] về sau, người ta nghĩ chữ Đại chẳng đủ tôn kính, thêm một chấm nữa ở phía dưới, cho nên mới có chữ Thái. Thật ra, vào thời cổ, chữ Đại là chữ Thái, âm đọc cũng là Thái. Hiện thời, do có chữ Thái riêng biệt, nên thường đọc là Đại, chẳng đọc là Thái. Thậm chí có người đọc thành Đăi (), chúng tôi không đọc là Đăi, chúng tôi đọc theo cách đọc hiện thời [là Đại]. Chữ Đại Vương chỉ chồng của phu nhân Vi Đề Hy, vốn là quốc vương. Bà ta hết sức cung kính nhà vua. Trung Hoa vào thời cổ cũng giống như thế, bất luận là b́nh dân cũng thế, mà người có địa vị cũng thế. Vợ chồng “tương kính” (相敬), tức là cung kính lẫn nhau. Chẳng giống như vợ chồng hiện thời, đem chữ Yêu đặt ra trước. Ví như tại Đại Lục hiện thời, vợ chồng gọi nhau, chồng gọi vợ là “thái thái”, vợ gọi chồng là “tiên sinh”, đều là nói đến người mến yêu, người yêu, coi Yêu là tiền đề. Thời cổ th́ nói đến chuyện tôn kính lẫn nhau. Phu nhân Vi Đề Hy đối với chồng bà ta, cũng chính là đại vương, hết sức cung kính. Trong sự cung kính, đương nhiên là có bao gồm t́nh cảm vợ chồng trong đó.

          Lúc đó, đại vương bị đứa con không ra ǵ giam cầm, chẳng cho ăn, cho nên bà nghĩ cách đưa thứ ǵ đó cho đại vương ḥng duy tŕ cuộc sống. Quốc thái phu nhân nghĩ: Xét theo t́nh h́nh này, chẳng đầy vài ngày, đại vương sẽ chết đói trong đó. Bà ta suy nghĩ rất nhanh, bất luận ai cũng chẳng được phép vào, đương nhiên bất luận là ai cũng chẳng thể đem thức ăn vào. Nếu bản thân bà ta công khai mang thức ăn vào, do cửa nẻo nơi đó bị cấm đoán nghiêm ngặt, phải trải qua kiểm tra, [lính gác] cũng sẽ chẳng cho bà đem vào. Làm như thế nào đây? Bà ta đă nghĩ ra cách. Dưới đây là cách thức của bà.

          “Tháo dục thanh tịnh” (Tắm gội thanh tịnh), trước hết, bà tắm gội sạch sẽ, “tháo dục” (澡浴) là tắm rửa, rửa ráy chân tay v.v… rửa rất thanh tịnh. Sau đấy mới “dĩ tô mật” (dùng tô[10] và mật) bôi lên thân ḿnh. Tô và mật có đặc tánh dính, có thể dán dính thứ khác, sau đấy mới “ḥa sao” (ḥa với bột rang). Chữ Sao () theo chú giải thời cổ, có thuyết nói là dùng bột ḿ để làm, có thuyết nói là dùng gạo để làm. Chú giải khác nhau, nhưng nói chung, chẳng ngoài hai thứ trên đây. “Sao” là chất khô, đem trộn với mật, sau đấy dán lên người. “Dụng đồ kỳ thân” (Dùng bôi lên thân), tức là dùng tô mật trộn “sao”, sau đấy trét lên thân. Trét lên thân, nó sẽ dính sát vào người, sau đấy mới mặc quần áo vào, phương pháp này hết sức hay! “Chư anh lạc trung” (Trong các chuỗi ngọc), anh lạc (瓔珞) làm bằng ngọc thạch. Thuở ấy, tại Ấn Độ, hễ là quư tộc, hoặc thuộc vương tộc, nhất là đồ trang sức của phụ nữ, đeo giắt trên thân rất nhiều! Trong [mỗi hạt] anh lạc có bọng rỗng, hai đầu trống không. Đă có bọng rỗng, bà ta nghĩ ra một cách. Bà nghĩ lăo vương chỉ ăn bột rang khô và tô mật, khát nước th́ làm cách nào? “Thịnh bồ đào tương” (Đựng nước nho ép), “bồ đào tương” (葡萄漿) là nước trái nho. Nước nho là chất lỏng, chứa trong hạt anh lạc. Trước đó, đă dùng sáp bịt kín một đầu hạt anh lạc, sau đấy, đổ nước nho vào; đổ xong, dùng sáp bịt nốt đầu kia. Trên thân bà ta đeo rất nhiều anh lạc, mỗi hạt trong chuỗi anh lạc đều đựng nước nho, đem khoác trên thân. Trên thân, dưới lớp y phục, có bột rang trộn mật, anh lạc đeo trên người toàn là đựng nước nho, “mật dĩ thượng vương” (ngầm dâng lên vua) như vậy. Bà ta là quốc thái phu nhân, tân vương tuy căn dặn chẳng cho bất cứ ai tiến vào, nhưng quốc thái phu nhân có thể vào. Bà ta chẳng nói muốn đem thức ăn hay đồ uống vào, những vệ sĩ canh giữ mỗi tầng cửa đều cho bà ta vào. Vào bên trong, liền tháo anh lạc và quần áo ra, ngầm dâng lên vua, rất bí mật dâng cho quốc vương ăn bột rang, sau đó uống nước ép.

          Quốc thái phu nhân đă vào bên trong (từng tầng một, từng nút chặn đều vượt qua), vào đến bên trong, bèn lấy thức ăn giấu trong thân thể ra. “Nhĩ thời đại vương”, [nghĩa là] ngay trong lúc ấy, quốc vương đang bị giam cầm, “thực sao ẩm tương”, [nghĩa là] ăn tô mật và bột rang, ăn xong lại uống nước nho. Ăn no và cũng uống đủ, sau đấy mới “cầu thủy thấu khẩu”, [tức là] bảo quốc thái phu nhân t́m chút nước để súc miệng. “Thấu khẩu tất dĩ”: [Nghĩa là] sau khi đă súc miệng xong, “hiệp chưởng cung kính”, lễ tiết thường dùng nhất là chắp tay, rất cung kính chắp tay, “hướng Kỳ Xà Quật sơn” (hướng về núi Kỳ Xà Quật) là nơi Phật thuyết pháp, tức Linh Sơn. “Dao lễ Thế Tôn”: Hướng về núi Kỳ Xà Quật ở nơi xa lễ Phật, Thế Tôn là Phật. “Nhi tác thị ngôn” (Mà nói như thế này): Sau đấy, thưa cùng đức Phật.

          “Đại Mục Kiền Liên”: Tôn giả Đại Mục Kiền Liên là đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, thần thông bậc nhất, là vị có thần thông nhất trong các đệ tử của đức Phật. Câu “thị ngô thân hữu” (là thân hữu của tôi) có hai cách giải thích:

          1) Cách giải thích thứ nhất, trước khi tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia là người trong gia tộc của quốc vương, là một thân thích khác [của nhà vua]. Nói “thân” () ở đây có nghĩa là họ có quan hệ thân thích. Sau khi tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia, theo học với Thích Ca Mâu Ni Phật. Thông thường, quốc vương cũng theo học Phật với Thích Ca Mâu Ni Phật, họ là đồng môn, biến thành đồng môn. Chí đồng đạo hợp là Hữu (). Đấy là cách giải thích thứ nhất, Thân là thân thích, Hữu là bè bạn.

2) C̣n có cách giải thích thứ hai, chữ Thân trong Thân Hữu là thân cận, Hữu là đạo hữu. Đạo hữu này chẳng phải là đạo hữu thông thường, mà là người rất gần gũi, là đạo hữu thường thân cận. Đó là cách giải thích thứ hai.

Tuy có cách giải thích sau, nhưng cách giải thích trước là do tổ sư thời cổ chú giải, đương nhiên là các Ngài có căn cứ, chúng ta bèn tuân theo cách giải thích trước, tức là “tôn giả Đại Mục Kiền Liên đă là thân thích của tôi, lại cũng là đồng tu đạo hữu trong tu đạo”, mối quan hệ này chẳng tầm thường!

          “Nguyện hưng từ bi”: Hy vọng tôn giả Đại Mục Kiền Liên dấy ḷng từ bi, phát khởi tâm từ bi, “thọ ngă bát giới”, [nghĩa là] truyền dạy tám giới điều cho tôi. Thông thường, những ai thọ Bồ Tát Giới đều biết: Khi thọ Bồ Tát Giới, phải tŕ Bát Quan Trai Giới, “bát giới” chỉ Bát Quan Trai Giới. Lăo vương sau khi ăn bột rang, uống nước trái cây ép xong, bèn nghĩ: Tuy chẳng chết đói, nhưng ở nơi đây chẳng phải là chỗ an toàn. Nghĩ đến [t́nh cảnh] sanh mạng sẽ gặp nguy hiểm bất cứ lúc nào; đă ở trong cảnh ngộ ấy, phải nhanh chóng thọ Bát Giới, tức là thọ Bát Quan Trai Giới. Đă thọ Bát Quan Trai Giới, học Phật bèn đắc đạo, sẽ chẳng sợ nữa! Chết cũng chẳng sợ, có dụng ư này!

          Trong kinh văn có nói đến chuyện “cầu thủy thấu khẩu” (xin nước súc miệng). Vốn là chúng ta ăn cơm xong, chà răng, súc miệng là chuyện b́nh thường; v́ sao trong kinh phải đặc biệt nhắc tới? Có ư nghĩa đặc biệt! Trước khi lễ Phật, ba nghiệp thân khẩu ư đều phải thanh tịnh. Do vậy, vừa mới ăn xong thứ ǵ đó, bèn súc miệng, nhằm biểu thị khẩu nghiệp thanh tịnh; sau đấy chắp tay, tức là thân nghiệp thanh tịnh. Khẩu nghiệp và thân nghiệp phát xuất từ tâm địa, nhất tâm cung kính, tức là ư nghiệp thanh tịnh. “Súc miệng” biểu thị ba nghiệp thanh tịnh, như vậy th́ mới nói là “cung kính lễ Phật”.

 

IV.1.2.4. Tám giới

 

          Lăo vương cầu tôn giả Đại Mục Kiền Liên trao truyền Bát Quan Trai Giới. Bát Quan Trai Giới là ǵ? Đương nhiên là những vị lăo Bồ Tát đă thọ Bồ Tát Giới đang hiện diện ở đây đều biết, nhưng do có những vị chưa thọ Bồ Tát Giới, cho nên chúng tôi nói đôi chút. Xin các vị xem đề cương bài giảng, Bát Giới chính là Bát Quan Trai Giới, “bát giới” trong kinh văn chính là Bát Quan Trai Giới. Chữ Quan () trong Bát Quan Trai Giới hiểu như thế nào? Quan là “đóng chặt cửa lại”. Đóng cửa để làm ǵ? Nhằm tránh khỏi bị lũ trộm vặt hoặc cường đạo bên ngoài tiến vào, có dụng ư này! Khi thọ giới, chữ Quan trong Bát Quan hàm nghĩa “ngăn đóng hết thảy chuyện tà ác”. Hết thảy những chuyện tội ác đều bị đóng lấp, chẳng để cho bất cứ chuyện tội ác nào phát sanh th́ gọi là Quan.

          Trai giới: Trai () là giữ tâm trong sạch, Giới () là giới điều. Trước hết, nói về Giới th́ Giới có tám điều. Năm điều đầu chính là Ngũ Giới mà chúng ta thường thọ, nhưng phải đem “không tà dâm” trong Ngũ Giới sửa thành “chẳng dâm”. C̣n có “không tự nghe, xem ca múa”. Trong ngày giữ Bát Quan Trai Giới, từ sáng sớm đến khuya, bất luận là có chuyện ǵ hay không, chẳng thể ca hát. Dẫu là những bài hát tốt lành cũng chớ nên hát, càng chẳng thể nhảy múa. Chính ḿnh chẳng ca, chẳng múa, mà cũng chẳng đến nơi khác nghe kẻ khác ca hát, hoặc xem người ta nhảy múa. Chính ḿnh chẳng thể ca múa, cũng chẳng thể ra ngoài nghe người khác biểu diễn. Đấy là một điều. Lại c̣n “bất đồ hương, hoa man” (chẳng bôi hương, đeo tràng hoa), “đồ hương” (塗香) là ǵ? Thuở ấy, tập tục Ấn Độ là trên thân ḿnh luôn đeo đồ trang sức, bôi một ít hương liệu thơm tho. “Hoa man” (華鬘) là phong tục của Ấn Độ, dùng dây kết thật nhiều hoa, kết xong bèn gọi là Man (: tràng, chuỗi). Dùng hoa xâu lại để trang điểm chính ḿnh, khoác trên thân, hoặc đội lên đầu, gọi là Hoa Man. Khiến cho toàn thân của chính ḿnh vừa là hoa, vừa là hương, người b́nh thường làm như vậy. Người giữ tám giới chẳng được phép! Vừa chẳng thể bôi hương, mà cũng chẳng thể đeo hoa man. C̣n có “bất tọa cao quảng đại sàng” (chẳng ngồi giường to, cao, rộng), “bất tọa” bao gồm ư nghĩa “chẳng nằm”. Bất luận ngồi hay ngủ, chẳng thể sử dụng giường vừa cao, diện tích vừa rộng, vừa lớn! Chẳng thể dùng giường to cao lớn, v́ những kẻ có tiền bèn trang hoàng giường nằm rất đẹp đẽ, rất lộng lẫy, vừa cao, vừa rộng. Chẳng thể sử dụng cái giường cao rộng ấy. Gộp chung lại th́ có tất cả tám điều, gọi là Bát Giới.

          Giới luật gồm tám điều, Trai (giữ tâm trong sạch) là một điều, “bất trung quá thực” (chẳng ăn sau giữa trưa), nói thông thường sẽ là “quá Ngọ chẳng ăn”. Thời cổ không có đồng hồ, lấy ánh nắng mặt trời làm tiêu chuẩn: Dùng gậy trúc cắm thẳng để xem bóng nắng. Bóng mặt trời đă xế th́ là “quá trung” (vượt quá giữa trưa). Chớ nên [ăn] sau giữa trưa, nói theo hiện thời, đừng ăn sau giữa trưa chính là quá mười hai giờ trưa, ăn cơm trước mười hai giờ trưa, gọi là Ngọ Trai. Sau mười hai giờ trưa, chẳng thể ăn ǵ nữa, đó gọi là “bất quá trung thực”, điều này được coi là Trai.

          Bát Quan Trai Giới có khi nói là tám điều, có khi nói là chín điều. Cách tính như thế nào? Có một cách nói, trong Tiểu Thừa có một phái gộp hai điều cuối trong tám giới, tức là “chẳng đeo tràng hoa, bôi hương”“không ngồi giường lớn cao rộng” thành một điều, nội dung tương tự, trang nghiêm y hệt! Tính ra con số sẽ là bảy giới, cộng thêm một điều về Trai là “chẳng ăn quá trưa” bèn thành Bát Quan Trai Giới, hợp thành con số tám. Nếu chẳng nói như vậy, tám giới là tám điều giới, lại ghép thêm một điều về Trai vào, sẽ thành chín điều. Do vậy, phía sau Trai điều “chẳng ăn quá trưa”, có nói rơ: “Giới bát trai ngoại, giới thất trai nội”, [nghĩa là] nếu tính giới là tám điều th́ Trai được tính riêng. Nếu giới gồm bảy điều, tính gộp Trai điều vào trong ấy. Tám điều giới biến thành bảy điều, Tiểu Thừa có một tông phái tên là Câu Xá Tông nói theo kiểu ấy. Một tông khác là Thành Thật Tông nói có tám điều; nói theo kiểu Đại Thừa th́ cũng là tám điều, hơi khác nhau đôi chút.

          Đối với năm giới trong ấy, tôi nói rơ đôi chút. Chúng ta biết tại gia học Phật, đầu tiên là Quy Y. Có khi trong lúc quy y, đồng thời thọ Ngũ Giới. Có người sau khi quy y một thời gian, nhận thấy chính ḿnh có thể giữ năm giới mới thọ Ngũ Giới. Điều thứ nhất trong tại gia Ngũ Giới là không sát sanh, thứ hai là không trộm cắp (chẳng trộm cắp đồ vật của người khác), thứ ba là giới tà dâm, thứ tư là không vọng ngữ (chẳng nói dối), thứ năm là không uống rượu, tổng cộng năm điều. Trong năm điều, đặc biệt phải nói tới giới điều “chẳng tà dâm”, v́ người tại gia thọ Ngũ Giới, bất luận là nam hay là nữ, sau khi đă kết hôn, giữ Ngũ Giới là giới “chẳng tà dâm” mà thôi! Vợ chồng v́ phải nối ḍng truyền giống, chẳng ngăn cấm chánh dâm. Bất quá, mỗi tháng cũng có những ngày đặc thù, vợ chồng phải kiêng chánh dâm (chẳng phải là thường xuyên), c̣n thông thường là phải kiêng tà dâm. Bát Quan Trai Giới th́ không chỉ là chẳng tà dâm, mà c̣n là trực tiếp kiêng hành dâm. Là tại gia cư sĩ, bất luận là nam hay nữ cư sĩ, tuy kết hôn, trong ngày thọ tŕ Bát Quan Trai Giới đều kiêng hành dâm, không chỉ là tà dâm! Phải đặc biệt nói rơ điều này!

          V́ sao quốc vương bị giam cần bèn nghĩ đến chuyện thọ giới? Đối với giới, người b́nh thường chẳng thông hiểu, nghĩ giữ giới rất phiền phức, rất khó tiếp nhận: Điều này chẳng thể làm, điều kia chẳng thể làm. Thật ra, người hiểu biết Phật pháp bèn biết: Giới là một loại pháp thanh lương. Giữ giới tốt đẹp, trong tâm là một bầu thanh lương. Thanh lương sẽ có thể trừ khử phiền năo. Đối với chữ Phiền () trong phiền năo, hễ hiểu biết phương pháp tạo chữ trong tiếng Hán sẽ biết: Bên trái là Hỏa (), bên phải là chữ Hiệt (). “Hiệt” là ǵ? Chữ Hiệt là chữ tượng h́nh, Hiệt chính là đầu người. Quư vị chiếu theo chữ tượng h́nh để vẽ ra, hoặc chiếu theo lối chữ Triện để viết, sẽ [thấy chữ Hiệt] là đầu người. V́ thế, trong tâm hễ phiền muộn, trên đầu bốc đầy lửa! Nói thông thường là đầu bốc lửa. Giữ giới nhằm trừ năo hỏa, khiến cho hỏa khí chẳng c̣n, chẳng có phiền năo. Giáng trừ từng tầng phiền năo, trong tâm có thể đạt được một bầu thanh lương.

          Hiểu Lư của giới, khi giữ giới, sẽ là một loại hưởng thụ. Do đó, phương pháp trong Phật pháp rất nhiều, gộp chung lại, chẳng ngoài ba chữ Giới, Định, Huệ. Giới () là giữ giới, công phu tŕ giới tốt đẹp, có thể giúp chúng ta nhập Định. Nhập Định bèn có công năng định lực, có thể khai phát trí huệ. Chúng ta vốn có trí huệ ấy; tuy vốn sẵn có, nhưng tâm phàm phu suốt ngày từ sáng đến tối rối bời, hành vi cũng chẳng ước thúc, cho nên chẳng có Định. Chẳng có Định, trí huệ sẵn có bèn bị phong kín, chẳng thể phát huy tác dụng, há có trí huệ trong ấy? V́ thế, ba chữ trọng yếu nhất trong học Phật là “tŕ Giới, đắc Định, khai Huệ”. Chúng ta hiểu rơ Giới hết sức trọng yếu. Chúng ta đă học Phật, có thể tŕ Bát Quan Trai Giới, đương nhiên là tốt đẹp. Chẳng thể thọ Bát Quan Trai Giới, tŕ Ngũ Giới cũng tốt, đặc biệt là xét theo phương diện tâm lư, khi thường giữ Ngũ Giới, hoặc khi thọ Bát Quan Trai Giới, trong tâm càng thanh tịnh. Trong khi giữ giới, nội tâm là một bầu thanh tịnh, ngay trong khi ấy chính là một loại hưởng thụ lớn nhất!

          Chúng ta c̣n phải hiểu rơ một điều: Chúng sanh từ vô thỉ kiếp tới nay, tạo thiện nghiệp và ác nghiệp rất nhiều. Tạo bất cứ nghiệp ǵ, nó cũng đều biến thành chủng tử của sanh tử, là cái nhân của sanh tử. Trừ sanh tử ra, c̣n có những thứ khác kèm theo. Chẳng hạn như chúng ta sống trong thế gian, đủ mọi cảnh ngộ đều là do đă gieo nhân trong quá khứ. Nhưng để nhân biến thành quả, nếu chỉ có ḿnh nhân, nó sẽ chẳng thể biến thành quả, trong ấy c̣n phải có các thứ duyên. Duyên có rất nhiều thứ, trong chốc lát, chẳng có cách nào nói nhiều như vậy được, chỉ cần biết có các loại duyên là được rồi. Đă có nhân và có duyên, sau đấy, chúng ḥa hợp với nhau th́ mới có thể kết thành quả. Nếu chỉ có nhân, chẳng có duyên trọn đủ, sẽ không thể kết thành quả! Ví như các vật dụng chạy bằng điện, điện là do công ty điện lực truyền tải, vẫn là phải có duyên. Nếu muốn dùng quạt điện cho mát, phải có quạt điện. Muốn sử dụng đèn điện để chiếu sáng, phải có đèn ống (đèn néon, đèn tube). Những thứ ấy đều là duyên. Chẳng có những thứ ấy, sẽ chẳng có gió, mà cũng chẳng có ánh sáng. Chúng ta là người sống trong thế gian, giống như hiện thời vừa bị thiên tai vừa bị nhân họa, đủ mọi vụ án giết chóc hung tợn, bị kẻ khác trộm cắp, cướp đoạt, những chuyện ấy đều là do nhân duyên ḥa hợp. Giả sử nói: Trong khi chúng ta đang tŕ giới, đoạn tuyệt những duyên ấy. Lấy việc giữ giới chẳng sát sanh để nói, tŕ giới sát sanh thanh tịnh, tất cả các sát nghiệp trong thiên hạ chẳng dính dáng đến ta, bất luận là trong quá khứ đă gieo rất nhiều cái nhân sát nghiệp, hiện thời duyên đă tuyệt, chẳng tiếp tục có điện truyền tới nữa. V́ thế, những tai nạn ấy chẳng dính líu ǵ đến chúng ta. Từ điều này, có thể chiêm nghiệm, lănh hội rất nhiều điều. Nếu tŕ giới luật càng thanh tịnh, tuy chúng ta vẫn ở trong ngũ trược ác thế, [thế mà] có thể đạt được thanh tịnh, b́nh an, trong phương diện tu đạo bèn có thể tinh tấn tu đạo. Có những điều tốt đẹp ấy.

 

IV.1.2.5. Ư nghĩa của việc tŕ tám giới

 

          Chúng ta hăy xem dụng ư của việc tŕ Bát Quan Trai Giới hoặc Ngũ Giới. Các thứ giới rất nhiều, v́ sao quốc vương mong thọ tŕ Bát Quan Trai Giới? Bát Quan Trai Giới chính là người tại gia tŕ giới xuất gia. Tŕ giới xuất gia hết sức thanh tịnh, [sẽ có] lợi ích hết sức to lớn! Xin các vị xem đề cương bài giảng, phần “ư nghĩa tŕ tám giới”. Tŕ tám giới “dụng tâm khởi hạnh cực tế, cực cấp” (dụng tâm, khởi hạnh, tột bậc vi tế, tột bậc gấp rút). Nói theo phía quốc vương, nhà vua mong cầu tŕ tám giới, tức là Bát Quan Trai Giới. Nói theo phía cái tâm tŕ giới của chính ḿnh, th́ hết sức vi tế. Bất cứ chuyện ǵ dứt bặt tội ác trong thế gian đều phải tŕ sạch làu, hết sức triệt để, tột bậc kín nhiệm. Nếu nói đến thời cơ tŕ Bát Quan Trai Giới, th́ cũng là hết sức khẩn cấp. Thường là trong khi hết sức nguy cấp, phải tŕ Bát Quan Trai Giới.

          Chúng ta đều biết, đức Phật thường nói: “Mạng người trong hơi thở”, một người bất luận tuổi tác đă già cũng thế, mà chưa già cũng thế, ai có thể bảo đảm: Trước mắt, chính ḿnh thở ra một hơi, hơi kế tiếp sẽ hít vào được chăng? Chẳng dám nói! Một hơi chẳng hít vào được, thọ mạng trong đời này đă xong rồi. Thọ Bát Quan Trai Giới là thọ trong t́nh trạng hết sức khẩn cấp. Đă là hết sức kín nhiệm, lại hết sức khẩn cấp, thời gian để kẻ tại gia chúng ta tŕ giới chẳng thể quá dài. Nếu quá dài, sẽ chẳng tŕ tốt đẹp; v́ thế, “duy hạn nhất nhật, nhất dạ” (chỉ hạn định một ngày, một đêm). Chỉ có thể thọ trong thời gian một ngày! Một ngày một đêm là ǵ? Là từ sáng sớm hôm nay thọ giới trở đi, măi cho đến lúc b́nh minh ngày mai, tự nhiên có thể coi là giới thể của Bát Quan Trai Giới đă hoàn thành. Đến ngày mai, quư vị cảm thấy chưa đủ, vẫn phải thọ giới lại. Nếu chẳng thọ lại, giới đă thọ trong ngày hôm nay đă hoàn thành, chỉ hạn định trong một ngày một đêm.

          Khi thọ Bát Quan Trai Giới, vị thầy truyền giới hỏi từng điều một. Đầu tiên là hỏi về chuyện không sát sanh: “Này Phật tử! Có thể như chư Phật không sát sanh hay chăng?” (Giống như chư Phật chẳng sát sanh như vậy, quư vị có thể thọ tŕ hay không?). Người thọ giới thưa: “Có thể tŕ”, điều ấy bèn hoàn thành. Tiếp đó, lại hỏi [các giới] chẳng trộm, chẳng dâm... tổng cộng tám điều. Mỗi điều đều phải nói “như chư Phật”; v́ sao phải nói là“như chư Phật”? Nói thật ra, bọn phàm phu chúng ta tŕ giới nói chung là chẳng đủ triệt để, Phật là toàn bộ hết thảy phiền năo vô minh đều chẳng có, sạch làu làu, thật sự thanh tịnh. Quư vị thọ Bát Quan Trai Giới là mong thanh tịnh như chư Phật. V́ thế, “dẫn Phật vi chứng” (dẫn Phật làm chứng). Đối với mỗi điều, đều bảo quư vị ǵn giữ giống như Phật vậy! V́ sao? “Dĩ Phật tập tận cố”, [nghĩa là] do đức Phật đă trừ hết sạch hết thảy các tập khí (“tập khí” là nói tới những chuyện phải đoạn trừ để giữ giới), hoàn toàn chẳng có. V́ thế, thọ Bát Quan Trai Giới, phải dẫn Phật làm chứng. Trong t́nh huống ấy, sanh mạng của lăo vương khó giữ nổi trong sớm tối, hết sức nguy cấp! Trong trạng huống khẩn cấp ấy, nhà vua thỉnh cầu tôn giả Mục Kiền Liên truyền trao Bát Quan Trai Giới. Bát Quan Trai Giới đă là dẫn Phật làm chứng, công đức như thế nào? “Công đức siêu quá nhân thiên, Nhị Thừa” (Công đức vượt trỗi người, trời và Nhị Thừa). Không chỉ là vượt trỗi kẻ b́nh phàm, mà c̣n vượt trỗi chư thiên trên cơi trời, cũng vượt trỗi Nhị Thừa, tức là Tiểu Thừa và Trung Thừa. Tŕ Bát Quan Trai Giới một ngày có công đức to lớn như vậy!

          Xin quư vị lại xem kinh văn. Quốc vương hướng vọng về phía đức Thế Tôn thỉnh cầu như vậy, thỉnh cầu tôn giả Mục Kiền Liên đến truyền giới. Đức Phật và tôn giả Mục Kiền Liên đều có thần thông. Khi ấy, đức Phật cũng biết, bèn bảo tôn giả Mục Kiền Liên hăy đến. “Thời Mục Kiền Liên, như ưng chuẩn phi”, nghĩa là khi đó, tôn giả Mục Kiền Liên giống như chim ưng, chim chuẩn (Ưng () là chim ưng, Chuẩn ()[11] cũng là một loại ưng) bay lượn trên trời. “Tật chí vương sở” (Nhanh chóng tới chỗ vua), “tật” () là nhanh chóng, hết sức mau lẹ, rất nhanh chóng đến chỗ quốc vương bị giam trong căn nhà có bảy lớp cửa. [Kinh nói là] “như ưng chuẩn phi”, thật ra, tôn giả Mục Kiền Liên bay nhanh hơn chim ưng, chim cắt rất nhiều. Bất quá, ở đây chẳng có cách nào để h́nh dung, đành mượn loài ưng, loài cắt là những loài chim bay nhanh nhất để h́nh dung. Tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng thần thông bay nhanh hơn chim ưng, chim cắt, lập tức đến chỗ quốc vương đang bị giam cầm. Sau khi đă đến, liền truyền giới. Hằng ngày đều truyền giới, “nhật nhật như thị” (ngày nào cũng như thế). Thọ giới hôm nay, đến ngày mai, giới thể đă hoàn thành, lại phải thọ giới. Ngày mai lại đến, hằng ngày đều là như vậy. Tôn giả Mục Kiền Liên đều bay tới chỗ đó để “thọ vương bát giới”, tức là truyền dạy Bát Quan Trai Giới cho nhà vua.

          “Thế Tôn” là Thích Ca Mâu Ni Phật, “diệc khiển tôn giả Phú Lâu Na, vị vương thuyết pháp” (cũng sai tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp cho nhà vua): Đồng thời, Thích Ca Mâu Ni Phật lại sai tôn giả Phú Lâu Na (ngài Phú Lâu Na (Pūrna) tên là Măn Từ Tử (Maitrayani-putra)[12], thuyết pháp hết sức hay) đến giảng Phật pháp cho lăo vương. Tôn giả Phú Lâu Na cũng có thần thông; nếu không, làm sao Ngài vào được? “Như thị” (Như thế), một vị là ngài Mục Kiền Liên, vị kia là Phú Lâu Na, hai vị tôn giả như vậy đến đó mỗi ngày, một vị truyền giới cho nhà vua, một vị thuyết pháp. “Thời gian kinh tam thất nhật” nghĩa là trải qua ba lần bảy tức hai mươi mốt ngày! “Vương thực sao mật, đắc văn pháp cố, nhan sắc ḥa duyệt”, [nghĩa là] lăo vương do ăn bột rang và mật, lại có thể nghe Phật pháp, không chỉ chẳng chết đói, ngược lại vẻ mặt hết sức b́nh thản, vui sướng. Đến đây là thôi, chuyện Thái Tử muốn giết cha đă nói xong. Sau đó sẽ là chuyện Thái Tử toan giết mẹ, tôi sẽ giảng tiếp trong lần sau.

 

Tập 7

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu! Xin mở kinh bổn trang thứ hai, bắt đầu từ hàng thứ hai ở phía dưới. Trước hết là niệm kinh văn.

 

        (Kinh) Thời A Xà Thế, vấn thủ môn giả: “Phụ vương kim giả, do tồn tại da?” Thời thủ môn nhân bạch ngôn: “Đại vương! Quốc thái phu nhân, thân đồ sao mật, anh lạc thịnh tương, tŕ dụng thượng vương. Sa-môn Mục Liên, cập Phú Lâu Na, tùng không nhi lai, vị vương thuyết pháp, bất khả cấm chế!”

()時阿闍世,問守門者:父王今者,猶存在耶?時守門人白言:大王,國太夫人,身塗蜜,瓔珞盛漿,持用上王。沙門目連,及富樓那,從空而來,為王說法,不可禁制。

(Kinh: Khi ấy, A Xà Thế hỏi người canh cửa: “Nay phụ vương vẫn c̣n sống ư?” Lúc đó, kẻ giữ cửa tâu rằng: “Tâu đại vương, quốc thái phu nhân, thân bôi bột rang và mật, chuỗi đeo đựng nước trái cây ép, đem dâng lên vua. Sa-môn Mục Liên và Phú Lâu Na từ trên hư không hiện tới, thuyết pháp cho nhà vua, chẳng thể ngăn cấm”).

 

          “Thời” (Khi ấy) là vào lúc nào? “A Xà Thế vấn thủ môn giả” (A Xà Thế hỏi người canh cửa), ông ta biết đă qua ba lần bảy ngày, tức hai mươi mốt ngày như đă nói trên đây. Ông ta nghĩ: Đă qua hai mươi mốt ngày, lâu như thế, cha ḿnh nhất định đă chết đói trong đó. Do vậy, vào lúc ấy, ông ta đến xem thử. Trước hết, hỏi kẻ “thủ môn”, tức là người canh cửa: “Phụ vương kim giả do tồn tại da?” nghĩa là phụ vương (chỉ lăo vương) nay vẫn c̣n sống ư? Câu này mang ư nghĩa hỏi xem đă chết hay chưa? Câu hỏi có ư nghĩa ấy.

          “Thời thủ môn nhân bạch ngôn” (Khi đó, kẻ giữ cửa thưa rằng), “Bạch” () là người dưới thưa tŕnh với người trên, có ư nghĩa “bẩm báo”. “Đại vương”, lúc đó, A Xà Thế đă làm quốc vương, nên gọi ông ta là “đại vương”. Trên đây, ông ta đă hỏi: “Nay phụ vương vẫn c̣n sống hay không?” V́ nói theo lẽ thông thường, một người bảy ngày chẳng ăn ǵ, sẽ chẳng thể cầm cự được. Sau bảy ngày, nói chung là không thể sống nổi! Đă sau hai mươi mốt ngày, chẳng biết phụ vương đă chết hay chưa? Trong tâm đại vương mong vua cha lẽ ra là đă chết, cho nên mới hỏi lời ấy. Người canh cửa biết vua cha chưa chết, v́ sao chưa chết? Cần phải nói ra đạo lư. Do nguyên nhân nào? “Quốc thái phu nhân” là mẹ của đại vương, nay trở thành thái phu nhân, bà ta “thân đồ sao mật” (thân bôi bột rang và mật), trong phần trước đă nói rồi, dùng bột rang ḥa mật trét lên thân thể. Sau đấy, “anh lạc thịnh tương”, [nghĩa là] chuỗi anh lạc đựng nước nho, “tŕ dụng thượng vương” (đem dâng lên vua), đem đồ ăn, thức uống vào dâng cho lăo vương, tức là phụ vương của Ngài, khiến cho ông ấy không đến nỗi chết đói. C̣n có “sa-môn Mục Liên cập Phú Lâu Na”, tức là đệ tử Phật, tôn giả Mục Kiền Liên lại c̣n có tôn giả Phú Lâu Na, hai vị ấy “tùng không nhi lai”, tức là từ trên hư không mà tới nơi đây, “vị vương thuyết pháp”, nghĩa là thuyết pháp cho phụ vương của Ngài. Câu kế đó là “bất khả cấm chế”, “cấm” () là như trong phần trước, vua đă căn dặn cấm ngặt bất cứ kẻ nào tiến vào. “Chế” () là khống chế, chẳng cho phép bất cứ kẻ nào vào. Nhưng người canh cửa thưa: Một người là quốc thái phu nhân, chẳng có cách nào cấm đoán, ngăn chặn, hai người khác là hai vị sa-môn, các Ngài từ hư không tiến đến, cũng chẳng có cách nào cấm đoán, ngăn chặn.

          Kinh văn trước sau đều có sự tương ứng, “trước sau tương ứng” là như thế nào? Trong phần trước, vương tử A Xà Thế “chế chư quần thần, nhất bất đắc văng” (ngăn cấm quần thần, chẳng có ai được phép đến đó). Vua đă căn dặn quần thần trong triều đ́nh, các vị thần tử lớn nhỏ, bất luận kẻ nào cũng đều chẳng thể tiến vào, nhưng chẳng nhắc tới quốc thái phu nhân. V́ thế, người giữ cửa nói quốc thái phu nhân muốn tiến vào, do đại vương chẳng căn dặn, người giữ cửa chẳng chịu trách nhiệm. Mặt khác, những sa-môn từ hư không bay đến, ông ta cũng chẳng có cách nào ngăn cấm, nên cũng chẳng có trách nhiệm đối với chuyện ấy. Nếu chẳng nói rơ như vậy, kẻ giữ cửa chẳng thể thoái thác trách nhiệm được! Người giữ cửa nói “chẳng thể cấm chế”, hai chuyện ấy có ư nghĩa tương ứng với phần trước.

          Hai chữ “sa-môn” (Śramaṇa) là tiếng Ấn Độ được phiên âm, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Cần Tức (勤息: Cần trong cần lao (勤勞: siêng năng, nhọc nhằn), Tức trong Diệt Tức (息滅: diệt mất). Theo chú giải thông thường, Sa-môn là người tu hành. Tu hành như thế nào? [“Cần” là] siêng tu Giới, Định, Huệ, tu Giới, tu Định, sau đấy khai trí huệ. “Tức” là diệt trừ tham, sân, si. Làm một vị sa-môn, ư nghĩa chủ yếu là siêng tu Giới, Định, Huệ, nhắm tới mục đích diệt dứt tham, sân, si. Ở đây, “sa-môn” là nói tới hai vị tôn giả Mục Liên và Phú Lâu Na, các Ngài đều là đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai vị đại đệ tử này, tôn giả Mục Liên là bậc thần thông đệ nhất, Ngài tới truyền trao Bát Quan Trai Giới cho lăo vương; tôn giả Phú Lâu Na là vị thuyết pháp bậc nhất. Ngài thuyết pháp có phương tiện hết sức thiện xảo. Hễ Ngài thuyết pháp, người nghe bèn dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Hai vị ấy đến, một vị truyền Bát Quan Trai Giới cho lăo vương, một vị giảng đạo lư Phật pháp cho lăo vương nghe. Ở trong ấy, lăo vương vừa có cái để ăn, vừa có Phật pháp, cho nên trải qua thời gian dài như vậy mà vẫn c̣n sống!

          Kẻ giữ cửa tâu tŕnh như thế xong, tiếp đó, quốc vương liền nói.

 

(Kinh) Thời A Xà Thế văn thử ngữ dĩ, nộ kỳ mẫu viết: “Ngă mẫu thị tặc, dữ tặc vi bạn. Sa-môn ác nhân, huyễn hoặc chú thuật, linh thử ác vương, đa nhật bất tử”. Tức chấp lợi kiếm, dục hại kỳ mẫu.

()時阿闍世,聞此語已,怒其母曰:我母是賊,與賊為伴。沙門惡人,幻惑咒術,令此惡王,多日不死。即執利劍,欲害其母。

(Kinh: Khi ấy, A Xà Thế nghe lời ấy, giận mẹ nói: “Mẹ ta là giặc, kết bè đảng với giặc. Sa-môn là kẻ ác, chú thuật huyễn hoặc, khiến cho ác vương đă nhiều ngày chẳng chết”. Liền cầm gươm bén, toan hại mẹ ḿnh).

 

Nhà vua khởi lên ư niệm tội ác, toan giết hại mẹ ḿnh. “Thời A Xà Thế, văn thử ngữ đă”, [nghĩa là] lúc đó, vua A Xà Thế nghe kẻ canh cửa vừa tâu, đương nhiên là kẻ canh cửa chẳng có trách nhiệm. Vua chẳng có cách nào trừng phạt kẻ canh cửa, cho nên bực tức. “Nộ kỳ mẫu viết” (Giận mẹ bèn nói). “Nộ” () là nổi cáu, phẫn nộ; phẫn nộ v́ ai? Phẫn nộ với mẹ ḿnh. Đă phẫn nộ bèn chửi mẹ: “Ngă mẫu thị tặc” (Mẹ ta là giặc). V́ sao gọi mẹ ḿnh là giặc? Tiếp đó liền nói: “Dữ tặc vi bạn” (Kết bè đảng với giặc). Dù bà ta chẳng phải là giặc, cũng coi như là giặc, v́ bầu bạn với giặc. Kết bạn với giặc như thế nào? Chữ “tặc” () tiếp đó nhằm chỉ phụ vương. V́ phụ vương của ông ta làm quốc vương, ông ta giam cầm cha, nhằm mục đích muốn cho cha chết đói trong đó. Một ngày chưa chết th́ là lăo tặc, đă già khú mà chẳng chết! Chẳng phải là hiện thời cũng có rất nhiều người nói như vậy ư? Già khọm mà chưa chết, tức là lăo tặc! Chửi cha ḿnh là giặc, v́ sao cũng coi mẹ như giặc? Mẹ mỗi ngày mang đồ ăn, thức uống cho cha, đó là kết bạn với giặc. Hai người ấy (cha và mẹ) đều bị ông ta coi là giặc!

          Tiếp đó nói: “Sa-môn ác nhân” (Sa-môn là kẻ ác), hăy suy nghĩ câu này. Trong phần trước, chúng ta đă hiểu rơ: Sa-môn là người chuyên tu Giới, tu Định, tu Huệ. Hết thảy tội ác của chúng sanh phàm phu do đâu mà có? Đều là từ tham, sân, si; nhưng sa-môn chuyên dứt diệt tham, sân, si. Tiêu diệt tham, sân, si là người tốt lành, vĩ đại nhất. Ông ta ngược ngạo bảo sa-môn là “ác nhân”, chẳng được rồi! Vừa thốt lời ấy khỏi miệng, tội lỗi khôn cùng! Chúng ta xem kinh A Di Đà, thấy tôn giả Ngưu Ty (Kiều Phạm Ba Đề) do trong đời quá khứ, thấy một vị lăo nhân tu hành đang tụng kinh, trong miệng chẳng c̣n răng, khi người ấy đang [trệu trạo] niệm từng câu, bèn giễu cợt vị lăo tu hành ấy giống như trâu đang nhơi cỏ. Đó vẫn là vô tâm chọc ghẹo, kết quả là phải chịu ác báo bao nhiêu đời! Hậu quả đáng sợ lắm! Vua tự ḿnh chửi sa-môn là kẻ ác, như hai vị tôn giả Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na là những bậc lỗi lạc. Ông ta chửi các Ngài là ác nhân, hăy tưởng tượng xem, tội lỗi ấy to đến cỡ nào! V́ sao bảo sa-môn là ác nhân? “Huyễn hoặc chú thuật”, ư nói hai vị sa-môn chẳng biết dùng huyễn pháp ǵ, dùng phương thuật và chú thuật ǵ để dụ dỗ, mê hoặc người ta. Do những thứ ấy, “linh thử ác vương, đa nhật bất tử” [nghĩa là] khiến cho gă ác vương như thế, đă nhiều ngày vẫn chẳng chết, đáng kinh hăi quá! Chửi cha ḿnh là ác vương!

          Nói lời ấy xong, “tức chấp lợi kiếm, dục hại kỳ mẫu” (liền cầm gươm bén, toan hại mẹ ḿnh); vồ lấy thanh gươm rất sắc bén, mong một kiếm giết mẹ chết tươi! Quư vị hăy xem đoạn này, chửi cha mẹ là giặc, lại chửi sa-môn là ác nhân, lại chửi phụ vương là ác vương; sau đấy, chộp lấy một thanh gươm bén, toan tự ḿnh giết chết mẹ. Đấy là tạo khẩu nghiệp, tạo thân nghiệp, tạo ư nghiệp; ba nghiệp thân khẩu ư đều tạo nghiệp tội ác cực đại! Vào lúc đó, trong đoạn kinh văn kế tiếp có cho biết:

 

          (Kinh) Thời hữu nhất thần, danh viết Nguyệt Quang, thông minh đa trí, cập dữ Kỳ Bà, vị vương tác lễ, bạch ngôn: “Đại vương! Thần văn Tỳ Đà Luận Kinh thuyết, kiếp sơ dĩ lai, hữu chư ác vương, tham quốc vị cố, sát hại kỳ phụ nhất vạn bát thiên. Vị tằng văn hữu vô đạo hại mẫu. Vương kim vị thử sát nghịch chi sự, ô Sát-lợi chủng, thần bất nhẫn văn. Thị Chiên Đà La, ngă đẳng bất nghi phục trụ ư thử!”

        ()時有一臣,名曰月光,聰明多智,及與耆婆,為王作禮。白言:大王,臣聞毗陀論經說,劫初以來,有諸惡王,貪國位故,殺害其父,一萬八千。未曾聞有無道害母。王今為此殺逆之事,汙剎利種,臣不忍聞。是旃陀羅,我等不宜復住於此。

(Kinh: Khi ấy, có một người bầy tôi tên là Nguyệt Quang thông minh, lắm trí huệ, cùng với Kỳ Bà, hướng về vua làm lễ, tâu rằng: “Tâu đại vương! Thần nghe kinh luận Tỳ Đà có nói, từ kiếp ban sơ đến nay, có các vua ác v́ tham ngôi vua, giết hại cha ḿnh có đến một vạn tám ngàn kẻ. Chưa từng nghe nói có kẻ nào vô đạo hại mẹ. Nay bệ hạ làm chuyện giết chóc ngỗ nghịch này, khiến ḍng Sát-đế-lợi bị ô uế. Thần chẳng nỡ nghe. Đó là [hành vi của] Chiên Đà La, bọn thần không nên ở chỗ này nữa”).

 

          “Thời hữu nhất thần, danh viết Nguyệt Quang, thông minh đa trí, cập dữ Kỳ Bà” (Khi ấy, có một người bầy tôi tên là Nguyệt Quang thông minh, lắm trí huệ, cùng với Kỳ Bà): Lúc đó, có hai vị đại thần ra mặt khuyên can nhà vua chớ nên giết hại mẹ. Một vị tên là Nguyệt Quang (Candraprabhā). V́ sao tên là Nguyệt Quang? V́ người này hết sức thông minh, có rất nhiều trí huệ. Vị kia là Kỳ Bà (Jīvaka). Kỳ Bà là anh em của vua A Xà Thế. Có tổ sư chú giải ngài Kỳ Bà là em vua A Xà Thế, cũng có vị chú giải ông ta là anh; có hai cách nói như vậy. Có một bộ kinh tên là Nại Nữ Kỳ Bà Kinh (奈女耆婆經), theo bộ kinh ấy, tuổi của Kỳ Bà phải lớn hơn vua A Xà Thế đến mười tuổi.

          Kỳ Bà lớn hơn vua A Xà Thế mười tuổi, v́ sao chẳng làm Thái Tử? Trong ấy có nhân duyên: V́ Kỳ Bà chẳng phải là do đại phu nhân của quốc vương sanh ra. Mẹ của Kỳ Bà là ai? Mẹ của Kỳ Bà tên là Nại Nữ (奈女), Nại () là tên một loài cây. Tại Ấn Độ, vào thuở ấy, có một tiểu quốc. Tiểu quốc ấy có một người ngoại đạo, là ngoại đạo tu phạm hạnh. Ông ta có một hoa viên lớn, trong đó, có rất nhiều cây Nại. Trong những cây Nại ấy, có một cây nh́n rất lạ lùng. Về sau, [từ cây đó] sanh ra một người con gái (Nại Nữ Kỳ Bà Kinh nói cây sanh ra một người con gái). Người con gái ấy trưởng thành, hết sức xinh đẹp, tuổi vừa mười lăm, tiếng đồn khắp cơi Ấn Độ. Rất nhiều vị quốc vương của các đại quốc đều biết, đều tới tiểu quốc ấy, muốn cưới cô gái đó làm vương phi. Về sau, có tất cả bảy vị quốc vương đồng thời đến cầu hôn. Cha cô ta là Phạm Chí, tức người tu đạo, liền nói rơ sự thật: “Đứa con gái này chẳng phải là con gái của ta. Nó từ cây Nại sanh ra”. Sau đấy, dựng một ṭa lầu cao, bảo: “Ai có thể lên được lầu này, đứa con gái Nại Nữ này sẽ thuộc về người đó”. Về sau, cha của vua A Xà Thế lên ngôi lầu ấy trước; do đó, cưới [Nại Nữ] làm vương phi. Lúc đó, vua chẳng cưới bà ta về nước ḿnh, mà thành thân ngay trong tiểu quốc đó. Sau này, sanh nở một đứa con, đứa con ấy được đặt tên là Kỳ Bà. Sau khi được sanh ra, đến năm lên tám, Kỳ Bà mới đến chỗ phụ vương. Khi ấy, phụ vương và đại phu nhân vẫn chưa có con, bèn lập Kỳ Bà làm Thái Tử. Nhưng hai năm sau, sanh ra vua A Xà Thế, vị đại phu nhân của quốc vương được nhắc tới trong phần trước hạ sanh Thái Tử thật sự. Sau khi đứa bé ấy được sanh ra, Kỳ Bà đă mười tuổi, rất hiểu chuyện. Ông ta biết mẹ ruột của ḿnh chẳng phải là đại phu nhân, bèn nhường ngôi Thái Tử cho A Xà Thế được sanh sau, chẳng làm Thái Tử nữa. Có một đoạn nhân duyên như vậy. Ông ta không làm Thái Tử, nhưng là một y sĩ nổi tiếng, y thuật hết sức cao minh. Hai chữ Kỳ Bà dịch sang nghĩa tiếng Hán là Cố Hoạt (固活: Cố là chữ Cố trong Kiên Cố (堅固), Hoạt là chữ hoạt trong Hoạt Mạng (活命: sống sót). V́ sao gọi là Cố Hoạt? Phàm bất luận kẻ nào, mắc phải tuyệt chứng[13] cũng thế, hoặc mắc bệnh ǵ cũng thế, chỉ cần ông ta trị liệu, tất nhiên sẽ đều được cứu sống. V́ thế, ông ta có tên là Cố Hoạt.

 

IV.1.2.6. Tỳ Đà

 

Khi ấy, hai vị đại thần này đều hết sức lừng danh trong nước. Nguyệt Quang tuyệt diệu lắm, vừa thông minh, lại vừa lắm trí huệ. Kỳ Bà th́ sao? Đă là anh của Thái Tử, y thuật lại hết sức cao minh. Do vậy, trong nước, ai nấy đều kính nể hai vị đại thần này. Thuở ấy, hai vị đại thần này nghe đại vương toan sát hại mẫu thân, vội chạy đến: “Vị vương tác lễ” (Làm lễ đối với vua). Khi hai người ấy muốn khuyến cáo nhà vua, trước hết, phải hướng về vua hành lễ. Hành lễ xong, bèn nói, “bạch ngôn” (白言) là thưa bẩm, trước hết nói: “Đại vương”, thưa thốt với nhà vua, hai vị thần tử bèn nói: “Thần văn Tỳ Đà Luận Kinh thuyết”, [nghĩa là] chúng tôi có nghe kinh luận Tỳ Đà nói.  

Đối với chữ Tỳ Đà Luận, xin các vị xem đề cương bài giảng. Hai chữ Tỳ Đà (Vedas) c̣n đọc là Vi Đà, phiên âm theo lối mới[14] là Phệ Đà (吠陀), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Minh Trí (明智), [tức là] dạy người ta phát khởi trí huệ. Đó là kinh điển ǵ vậy? Chính là kinh điển rất trọng yếu của hàng Bà La Môn. Tỳ Đà Luận của Bà La Môn phân lượng rất nhiều, tổng cộng có một ngàn hai trăm sáu mươi sáu loại, bao hàm hết sức nhiều ư nghĩa. V́ sao nêu lên kinh điển Bà La Môn? V́ trong thuở ấy, các nước tại Ấn Độ chẳng chú trọng ghi chép lịch sử cho lắm. Điều này chẳng giống Trung Hoa. Tại Trung Hoa, sau khi đă có văn tự, luôn chú trọng ghi chép lịch sử. Do vậy, tại Trung Hoa, có rất nhiều người nói: “Lục kinh giai sử dă”. [Ư nói], Nho gia có sáu kinh[15], những điều được ghi chép trong ấy đều là lịch sử. Ở Ấn Độ, chẳng phải là như vậy, Ấn Độ tương phản với chúng ta. Họ chú trọng giảng giải đạo lư, phàm những ǵ thuộc về lịch sử đều chẳng chú trọng cho mấy. V́ vậy, nếu nói đến lịch sử, chỉ có cách dựa theo ngoại đạo Bà La Môn để nói, truy t́m sự thật trong thời cổ từ kinh điển. V́ thế, hai vị đại thần ấy đem kinh điển Tỳ Đà Luận của Bà La Môn ra bàn. Cũng giống như người Trung Hoa biện luận cùng kẻ khác, hễ nói đến đạo lư, đạo lư dựa theo kinh điển [để lập luận] th́ sẽ có trọng lượng. Lư lẽ do chính ḿnh tự nói sẽ chẳng có sức mạnh cho mấy. Nêu ra kinh điển Bà La Môn để bênh vực chủ trương của chính ḿnh.

          [Hai vị đại thần nói]: Chúng tôi nghe từ kinh Tỳ Đà Luận mà biết, “kiếp sơ dĩ lai” (từ kiếp ban sơ cho tới nay). Nói “kiếp sơ” (劫初) là kiểu nói của Ấn Độ, Trung Hoa thường nói là: “Tùng khai thiên tịch địa dĩ lai” (Từ lúc mở trời, tách đất tới nay). Nói theo ghi chép trong lịch sử Trung Hoa, vào thời viễn cổ, t́m được một người gọi là Bàn Cổ Thị (盤古氏)[16]. Trong thời cổ, ông ta đă tách biệt trời và đất. Mỗi dân tộc đều có một thời đại thần thoại, “kiếp sơ” cũng có ư nghĩa gần giống ư nghĩa này. Từ lúc dựng trời mở đất măi cho đến khi đó, hữu chư ác vương” (có các vua ác), có rất nhiều rất nhiều quốc vương rất xấu xa, đớn hèn, họ “tham quốc vị cố” (do tham ngôi vua), v́ tham cầu muốn làm quốc vương, tham lam ngôi vua mà “sát hại kỳ phụ”, tức là giết hại cha ruột. Từ thuở kiếp sơ cho đến khi hai vị đại thần ấy bàn luận, có tất cả bao nhiêu gă vua ác giết hại cha ḿnh? Có “nhất vạn bát thiên. Vị tằng văn hữu vô đạo hại mẫu” (một vạn tám ngàn kẻ. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ). Chưa hề nghe nói! Trong kinh luận Tỳ Đà, chưa hề nói có quốc vương nào vô đạo đến mức toan sát hạt mẹ ḿnh! Chẳng có chuyện ấy.

Điều này có nghĩa là: Từ xưa tới nay, có những gă quốc vương xấu xa, đớn hèn, giết cha để đoạt ngôi vị quốc vương. Kẻ giết cha chẳng có chi lạ, tổng cộng là có đến một vạn tám ngàn đứa, nhưng chẳng có đứa nào giết mẹ. Xét ra, câu này có nghĩa là giết cha là chuyện c̣n có thể du di được, chứ giết mẹ là tội đại nghịch bất đạo nhất! Nhưng điều này hoàn toàn chẳng phải là nói “có thể giết cha” đâu nhé! Chỉ là so sánh giữa hai đằng, giết mẹ là chuyện chẳng thể tha thứ nhất! Chuyện này nói như thế nào? Tại Trung Hoa, vào thời Tam Quốc, cũng có một câu chuyện nhỏ. Cuối đời nhà Hán, con Tào Tháo là Tào Phi soán vị[17], trở thành Ngụy Văn Đế của nước Ngụy. Thuở ấy, cũng không nói chuyện đạo đức. Có một vị văn nhân tên là Nguyễn Tịch. Nguyễn Tịch (阮籍) là một văn nhân trong nhóm Trúc Lâm Thất Hiền[18]. Khi ông ta làm quan tư pháp trong triều đ́nh của Ngụy Văn Đế, có một hôm nghe nói có kẻ giết cha, thuở ấy, giết cha cũng là chuyện đại nghịch bất đạo. Nguyễn Tịch sau khi nghe xong, bèn nói: “T́nh h́nh giết cha c̣n có thể tạm dung; nếu giết mẹ, sẽ là chuyện chẳng thể dung thứ nhất”. Ngụy Văn Đế nghe nói vậy, bèn hỏi: “Giết cha là đại nghịch, đại ác, v́ sao c̣n có thể dung thứ được?” Nguyễn Tịch liền tâu: “Nhân loại vào thời cổ là xă hội mẫu hệ. Người thời ấy sống cùng với cầm thú một chỗ. Do chẳng có chế độ hôn nhân, kẻ b́nh phàm chỉ biết có mẹ, chẳng biết có cha. Giống như loài thú, chỉ thuần túy biết có mẹ, chẳng biết có cha. V́ thế, nói c̣n có trường hợp giết cha, c̣n như giết mẹ th́ dường như chưa hề nghe nói tới. Nếu hỏi v́ sao có thể giết cha mà chẳng thể giết mẹ ư? Giết cha th́ trong loài cầm thú có những trường hợp như vậy. Nếu loài người mà giết cha th́ giống hệt như cầm thú, chẳng thể gọi là người. Nếu giết mẹ, ngay cả cầm thú cũng chẳng bằng! Chẳng hề nghe nói cầm thú giết mẹ!” Dựa theo thí dụ như vậy để nói, cho nên Nguyễn Tịch trả lời Ngụy Văn Đế: Từ xưa tới nay, chưa từng có ai giết mẹ. Giết cha th́ trong lịch sử c̣n có những tiền lệ, v́ tham cầu quyền vị, tham cầu ngôi vua, c̣n có những trường hợp ấy. Nhưng giết mẹ th́ không chỉ là nhân loại chẳng có, ngay cả loài súc sanh cũng chẳng có! Nếu nhân loại giết mẹ, th́ nói cách khác, ngay cả súc sanh cũng chẳng bằng. V́ thế, trong đoạn kinh văn này, hai vị đại thần nói giết hại cha th́ có lắm kẻ như vậy, chưa từng nghe nói có kẻ nào giết mẹ! Câu kinh văn này chứa đựng ư nghĩa rất sâu xa, ḥng bảo cho vua A Xà Thế biết: Nếu ngươi thật sự muốn giết mẹ, ngay cả súc sanh cũng chẳng bằng đâu nhé! Ư nghĩa ở chỗ này! Dùng lời lẽ nêu sự lợi hại để cho đại vương biết: “Vương kim vi thử sát nghịch chi sự” (Nay vua làm chuyện giết chóc, đại nghịch ấy), nay nhà vua làm chuyện đại nghịch ấy (“vi thử” là làm loại chuyện như thế này). “Nghịch” () là đại nghịch, không chỉ là muốn giết cha, mà c̣n toan giết mẹ. Giết cha đă chẳng phải là người, mà giống như súc sanh. Nhà vua tiến thêm bước nữa, muốn giết mẹ, [thế th́] ngay cả súc sanh cũng chẳng bằng! Có ư nghĩa như vậy đó! Nay nhà vua nghiễm nhiên làm chuyện ấy. “Ô sát-lợi chủng”, “ô” () là ô nhiễm, bại hoại, tức là bại hoại ḍng giống Sát-lợi.

 

IV.1.2.6. Tứ tánh

 

          Xă hội Ấn Độ thuở ấy có bốn đại chủng tánh (Cattāro-varṇa). Xin quư vị xem đề cương bài giảng. Trong xă hội Ấn Độ chia thành bốn chủng tánh, giống như trong xă hội có bốn loại giai cấp:

1) Một loại là Bà La Môn (婆羅門: Brāhmaṇa). Bà La Môn là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “tịnh hạnh giả” (淨行者), là giai cấp tu hành, nhấn mạnh đạo đức. Hết thảy các hành vi đều hết sức thanh tịnh, cao thượng, cũng được người trong toàn thể xă hội tôn kính.

2) Loại thứ hai là Sát-đế-lợi (剎帝利, Kṣatriya). Sát-đế-lợi là chủng tánh của vua, là chủng tánh của quốc vương, giống như chế độ quân chủ thế tập phong kiến tại Trung Hoa vào thời cổ. Nói là “vương chủng”, tức là từ thế hệ này sang thế hệ khác, hễ thuộc về chủng tộc quốc vương đều có thể kế thừa vương vị. Sát-đế-lợi là vương giả, sanh ra là con em trong gia đ́nh vương giả. Đó là một chủng tánh.

3) Kế đó là Phệ Xá (吠舍: Vaiśya). Phệ Xá là chủng tánh “thương cổ” (商賈), tức là thương nhân, từ tổ tiên măi cho đến con cháu các đời sau đều là những người làm nghề kinh doanh buôn bán.

4) Loại thứ tư là Thủ Đà (首陀: Sūdra). Thủ Đà là nô lệ, cũng là nông dân. V́ sao nông dân gọi là Nô Lệ? Trong bốn đại chủng tánh, địa vị của nông dân thuộc loại thứ tư. Họ giống như nô lệ làm lụng cho người khác. V́ thế, gọi là nô lệ.

Giai cấp phân chia rất rơ ràng. Con em thuộc chủng tánh nào sẽ thuộc về chủng tánh đó, chẳng thể lẫn lộn. Bà La Môn là Bà La Môn, Sát-đế-lợi là Sát-đế-lợi, Phệ Xá là Phệ Xá, Thủ Đà là Thủ Đà, chẳng thể hoán chuyển cho nhau! Phệ Xá biến thành Thủ Đà, Thủ Đà biến thành Phệ Xá, là chuyện chẳng thể nào có! Giai cấp rất nghiêm ngặt, giới hạn rành mạch. Đấy là tứ đại chủng tánh.

 

IV.1.2.7. Chiên Đà La

 

          Ngoài bốn chủng tánh ra, c̣n có một loại gọi là Chiên Đà La (旃陀羅: Caṇḍāla). Chiên Đà La là ǵ? Dịch sang nghĩa tiếng Hán là Nghiêm Xí (嚴幟). Nghiêm Xí có nghĩa là dùng chuyện tạo tác ác nghiệp để trang hoàng cho thân phận của họ. Kẻ ấy vừa thấy liền [tạo ấn tượng] là kẻ đại diện cho người ác. Hạng người này ở ngoài bốn chủng tánh, mà cũng thấp hơn bốn chủng tánh, hạng người ấy gọi là Chiên Đà La. Họ làm nghề ǵ? Đồ tể. Đồ tể chuyên môn gây tạo sát nghiệp. Kẻ làm đồ tể là người tạo tội nghiệp. Cho nên đến nơi đâu, nhất là đến đô thị, chính ḿnh phải báo hiệu. Báo hiệu ǵ vậy? Trước hết là lắc chuông, rồi gơ một khối gỗ, tự ḿnh nêu rơ thân phận. Nêu rơ chính ḿnh là một kẻ tạo ác nghiệp, gọi là Chiên Đà La. Vừa rung chuông, vừa gơ vào một khúc gỗ, nhằm nhắc nhở kẻ khác chú ư, người ác đến đó! Khiến cho người khác biết rơ kẻ đó chính là đồ tể. Kẻ tạo tội ác ở dưới bốn chủng tánh, bị người ta khinh thường nhất. Hạng người ấy gọi là Chiên Đà La.

          Sau khi đă t́m hiểu thân phận của hạng người này, lại xem tiếp lời hai vị đại thần đă nói: “Đại vương! Hôm nay bệ hạ làm chuyện sát nghịch này” (“Sát” là giết hại, “nghịch” là chuyện đại nghịch giết cha, giết mẹ). Sau khi nhà vua đă làm ra chuyện ấy, sẽ ô uế ḍng dơi Sát-lợi. Ḍng Sát-lợi là vương gia. Trừ Bà La Môn ra, được tôn kính nhất là Sát-đế-lợi. Nhà vua làm như vậy chính là phá hỏng chủng tánh Sát-đế-lợi, khiến cho toàn thể vương chủng bị ô nhiễm. V́ thế, “thần bất nhẫn văn” (thần chẳng nỡ nghe). Nói “thần chẳng nỡ nghe” là ǵ? Đại vương muốn giết cha, giết mẹ, rơ ràng là chính mắt có thể trông thấy, nh́n thấy, nhưng hiện thời nghe c̣n chẳng nỡ nghe. Nghe mà c̣n chẳng nỡ ḷng nào nghe, há dám chính mắt trông thấy ư? Đă chẳng nỡ chính mắt trông thấy, đại vương tạo đại ác nghiệp này, ô uế vương chủng, chẳng xứng đáng thuộc về ḍng dơi vương gia. Tuy thân phận là quốc vương, nhưng xét theo phương diện nhân cách, chẳng xứng đáng! Đừng nói là Sát-đế-lợi, ngay cả thương nhân hoặc nô lệ đều chẳng bằng! “Thị Chiên Đà La”: Chỉ có thể sánh ví như Chiên Đà La (hạng người chuyên môn làm đồ tể, tạo tội, gây ác nghiệp). Đó là nói theo bốn đại chủng tánh tại Ấn Độ vào thời ấy.

          T́nh huống thời cổ và hiện thời khác nhau. Khi chúng ta nghiên cứu, phải phân định thời đại rơ ràng. Ấn Độ hiện thời đương nhiên chẳng phải là như vậy. Ấn Độ hiện thời là xă hội công thương nghiệp. Giới thương cổ đương nhiên là phải cao minh hơn vương chủng. Hiện thời làm nông dân cũng chẳng giống như thời cổ, quan hệ thời đại bất đồng. Vào thuở ấy là như vậy. Sau khi họ đă nêu ra lẽ lợi hại, “ngă đẳng” (bọn thần), hai vị đại thần nói tới hai người bọn họ, “bất nghi phục trụ ư thử” (chẳng nên ở nơi đây nữa), chẳng thích hợp để tiếp tục sống trong quốc gia này. Ở đây, có ư nghĩa như thế này: Trong đại quốc gia này, hai vị đại thần ấy là thần tử trong nước. Nói theo phía một vị đại thần, phải bảo vệ, hộ tŕ quốc vương, làm những chuyện lợi ích cho quốc dân, nhưng đại vương nay làm chuyện chẳng ra người, nếu bọn họ vẫn ở đây phục vụ, tức là cũng như họ giúp đỡ cầm thú, thậm chí ngay cả cầm thú vẫn chẳng bằng! V́ thế, chẳng thể tiếp tục sống ở nơi đây. Xét đến ư nghĩa của câu nói này, bao gồm rất nhiều chuyện, văn tự trong kinh văn viết rất đơn giản.

Chúng ta hăy nghĩ xem, lúc đó, sau khi đă đến nơi, trước hết, hai vị đại thần hướng về đại vương hành lễ. Đương nhiên là trước tiên dùng lời lẽ êm ái để khuyên nhủ, khuyên vua đừng nên giết mẹ. Lúc ấy, nhà vua hết sức tức giận, ai đến khuyên bảo cũng đều chẳng tiếp nhận, khuyến cáo kiểu nào cũng chẳng tiếp nhận. V́ thế, hai vị đại thần mới lấy những chuyện từ xưa tới nay, dùng các lẽ lợi hại để nói cho nhà vua nghe. Nói đến cuối cùng, thật sự là cảnh cáo: Nếu nhà vua không tiếp nhận, chẳng nghe lời khuyên can, vẫn cứ kiên tŕ muốn sát hại mẹ, họ sẽ chẳng ở trong nước này nữa. Hai vị trọng thần chẳng ở lại, hăy nghĩ xem! Hậu quả nghiêm trọng lắm!

 

          (Kinh) Thời nhị đại thần, thuyết thử ngữ cánh, dĩ thủ án kiếm, khước hành nhi thoái.

()時二大臣,說此語竟,以手按劍,卻行而退。

          (Kinh: Bấy giờ, hai vị đại thần nói lời ấy xong, dùng tay đè kiếm, lùi chân bước ra).

 

          “Thời nhị đại thần, thuyết thử ngữ cánh”, [nghĩa là] lúc đó, hai vị đại thần nói xong những lời lẽ trên đây. “Dĩ thủ án kiếm” (Lấy tay đè kiếm): Nh́n vào động tác của hai người đó, cũng tưởng tượng được t́nh huống khi ấy. Vua A Xà Thế tay cầm gươm toan giết mẹ, hai vị đại thần khuyên vua chẳng được. Sau khi đă nói xong lẽ lợi hại, trên thân hai người vốn đều đeo gươm, mỗi người tay nắm lấy kiếm đang đeo trên thân, dùng tay đè lên, chẳng xoay người, vẫn đối mặt với đại vương lùi ra sau, “khước hành nhi thoái” (lùi chân lui ra). Thông thường, lễ nghi khi gặp quân chủ (vua chúa) là như vậy. Sau khi bái kiến quân chủ, bẩm báo xong, khi từ biệt, không ngay lập tức xoay người bước đi, mà là tiếp tục đối diện với quân chủ, bước lùi dần ra sau. Lui đến một khoảng kha khá rồi mới xoay người đi ra ngoài. Nh́n bề ngoài th́ là họ giữ lễ; trên thực tế, chẳng phải là như vậy. Quư vị xem nhé: Dùng tay đè kiếm, tức là trong tay nắm lấy kiếm, đề pḥng đại vương nổi cáu. V́ hai vị đại thần ấy sau khi đă nói những điều lợi hại, nếu đại vương chẳng tiếp nhận, thừa cơ hội hai người bọn họ quay người bỏ đi, đại vương ở phía sau, ngay lập tức động thủ, sát hại bọn họ th́ làm thế nào đây? Do vậy, họ lấy tay đè kiếm, đi lùi ra, nhằm đề pḥng vua A Xà Thế thừa dịp sát hại họ. Chính ḿnh có tác dụng đề pḥng trong ấy.

 

           (Kinh) Thời A Xà Thế kinh bố, hoảng cụ, cáo Kỳ Bà ngôn: “Nhữ bất vị ngă da?” Kỳ Bà bạch ngôn: “Đại vương! Thận mạc hại mẫu”. Vương văn thử ngữ, sám hối, cầu cứu, tức tiện xả kiếm, chỉ bất hại mẫu.

()時阿闍世,驚怖惶懼,告耆婆言:汝不為我耶?耆婆白言:大王,慎莫害母。王聞此語,懺悔求救,即便捨劍,止不害母。

(Kinh: Khi đó, A Xà Thế kinh hăi, hoảng sợ, bảo Kỳ Bà rằng: “Ông chẳng v́ ta ư?” Kỳ Bà tâu rằng: “Tâu đại vương! Hăy thận trọng, đừng hại mẹ”. Vua nghe lời ấy, ăn năn, hối lỗi, liền buông bỏ gươm, thôi không hại mẹ).

         

Hai vị đại thần biểu hiện hành vi ấy, vua A Xà Thế sẽ suy xét. “Thời A Xà Thế, kinh bố, hoảng cụ”: Vua A Xà Thế thấy động tác ấy, hết sức kinh hoảng, sợ hăi! “Cáo Kỳ Bà ngôn” (bảo Kỳ Bà rằng), Kỳ Bà là anh vua, nói với Kỳ Bà: “Nhữ bất vị ngă da?” (Ông chẳng v́ ta sao?). Nay ông chẳng giúp đỡ, chẳng bảo vệ ta ư? Có nghĩa là ông muốn phản bội, ĺa bỏ ta ư? “Kỳ Bà bạch ngôn: Đại vương, thận mạc hại mẫu”: Kỳ Bà liền nói: “Tâu đại vương! Ngài hăy thận trọng suy xét, chớ nên sát hại mẹ!” “Vương văn thử ngữ, sám hối, cầu cứu”: Sau khi nghe lời ấy, vua bèn cảm thấy ăn năn. V́ hai vị đại thần ấy bỏ đi, địa vị của nhà vua sẽ chẳng ổn; cho nên vua hoảng sợ, ăn năn, van nài. “Tức tiện xả kiếm”: Lập tức buông gươm trong tay xuống, “chỉ bất hại mẫu”: Ngưng không hại mẹ nữa.

 

(Kinh) Sắc ngữ nội quan, bế trí thâm cung, bất linh phục xuất.

        ()敕語內官,閉置深宮,不令復出。

(Kinh: Sắc truyền nội quan, nhốt kín trong thâm cung, chẳng cho ra nữa).

 

          Tuy chẳng hại mẹ nữa, nhưng “sắc ngữ nội quan, bế trí thâm cung, bất linh phục xuất”, [nghĩa là] ngay lập tức bảo quan viên trong cung đ́nh, gọi các vệ sĩ nhốt chặt mẹ trong thâm cung, chẳng cho bà đi ra, cũng tức là giam cầm mẹ. Sau khi ông ta nhốt mẹ, mẹ ông ta thỉnh cầu như thế nào, cầu đức Phật thuyết pháp cho bà ta, lần sau sẽ nói. Hôm nay, tôi nói tới chỗ này.

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

phần 2 hết



[1] Gọi là Lưu Tống để phân biệt với Triệu Tống tức là nhà Tống do Triệu Khuông Dẫn sáng lập sau nhà Đường. Nhà Lưu Tống (420-479) thuộc Nam Triều, chỉ truyền được sáu đời vua, trong khi nhà Triệu Tống (960-1279) gồm hai giai đoạn Bắc Tống (960-1127) và Nam Tống (1127-1279), tổng cộng mười tám đời vua. Sở dĩ có nhà Nam Tống là v́ sau khi cha con Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị quân Kim bắt về giam lỏng tại thành Ngũ Quốc, quân Kim chiếm trọn miền Hoa Bắc. Khang Vương Triệu Cấu chạy thoát về phương Nam, được triều thần tôn lên làm vua, tức là Tống Cao Tông. Sau nhiều lần bị truy đuổi, phải chạy về Giang Nam, Tống Cao Tông lấy Hàng Châu làm kinh đô, đặt tên là Lâm An phủ, mở ra triều đại Nam Tống.

[2] Cương Lương Da Xá: Theo Cao Tăng Truyện, Ngài tánh t́nh cương trực, thông minh, mẫn tiệp, chuyên nghiên cứu A Tỳ Đàm Bà Sa Luận, thông thuộc giáo nghĩa của nhiều tông phái. Ngài thường nhập Định cả tuần. Ngài đến Trung Hoa trong niên hiệu Nguyên Gia, Tống Văn Đế rất hâm mộ, bèn thỉnh Ngài đến kinh đô, trụ tại Đạo Lâm Tinh Xá. Sư đă dịch các kinh như Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, Quán Dược Vương Dược Thượng Kinh v.v…

[3] Đây là những thuật ngữ chỉ các phần trong một tác phẩm văn chương, dù là một bài viết ngắn ngủi, cũng phải có đủ bốn phần như sau:

1) Khởi () là giới thiệu chủ đề, nêu tóm tắt bối cảnh của sự kiện và mối quan hệ giữa các nhân vật.

2) Thừa (): Tiếp nối ư đă nêu, dẫn dắt đến tŕnh tự phát triển cho câu chuyện.

3) Chuyển (): Nêu lên những điều mấu chốt trong diễn biến, phát triển tính cao trào trong quá tŕnh diễn biến.

4) Hợp (): Tổng kết sự kiện, đưa đến kết luận.

[4] Ngũ Hồ Loạn Hoa (304-439) là một giai đoạn rối ren nhất trong lịch sử Trung Hoa, kể từ khi tám vị vương gia gây loạn (291-306) khiến cho nhà Tây Tấn suy yếu cùng cực, khiến cho năm dân tộc không phải là Hán tộc (Hung Nô, Tiên Ty, Yết, Khương, Đê) thừa cơ xâm nhập Trung Hoa, chia Trung Hoa thành nhiều vương quốc nhỏ. Nếu chỉ kể những nước chánh yếu th́ có đến mười sáu nước, nên sử thường gọi là Ngũ Hồ Thập Lục Quốc. Giai đoạn này thường được coi là chính thức bắt đầu khi Lưu Uyên và Lư Hùng kế tiếp nhau thành lập các vương triều Hán Triệu và Thành Hán măi cho đến khi Bắc Ngụy Thác Bạt Đào diệt nhà Bắc Lương mới chấm dứt. Nhưng sau đó, lại h́nh thành một giai đoạn khác là Nam Bắc Triều. Để dễ nhớ, Sử thường có một câu nói như sau: “Ngũ Lương, Tứ Yên, Tam Tần, Nhị Triệu, Thành Hán, Hồ Hạ”. Ngũ Lương là các nhà Tiền Lương (do Trương Thật người Hán sáng lập), Hậu Lương (do Lữ Quang người Đê sáng lập), Nam Lương (do Thốc Phát Ô Cô người Tiên Ty sáng lập), Tây Lương (do Lư Cao người Hán sáng lập), Bắc Lương (do Đoàn Nghiệp người Lô Thủy Hồ sáng lập). Tứ Yên là Tiền Yên (do Mộ Dung Hoảng người Tiên Ty sáng lập), Hậu Yên (do Mộ Dung Thùy người Tiên Ty sáng lập), Bắc Yên (do Mộ Dung Vân người Tiên Ty sáng lập), Nam Yên (do Mộ Dung Đức người Tiên Ty sáng lập). Tam Tần là Tiền Tần (c̣n gọi là Phù Tần, do Phù Kiên người Đê sáng lập), Hậu Tần (c̣n gọi là Diêu Tần, do Diêu Trành người Khương sáng lập), và Tây Tần (do Khất Phục Quốc Nhân người Tiên Ty sáng lập). Nhị Triệu là Tiền Triệu (c̣n gọi là Hán Triệu do Lưu Uyên người Hung Nô sáng lập) và Hậu Triệu (do Thạch Lặc người Yết sáng lập). Tên các triều đại thường dựa theo lănh thổ của nước ấy thuộc địa bàn của nước chư hầu nào trong thời Chiến Quốc. Chẳng hạn, Phù Kiên chiếm vùng Thiểm Tây và Cam Túc vốn thuộc lănh thổ nước Tần thời Chiến Quốc, nên đặt quốc hiệu là Tần.

[5] Tần Thủy Hoàng tên là Doanh Chính, là con trên danh nghĩa của Tần Trang Tương Vương (Doanh Tử Sở) v́ mẹ ông đă có mang với Lă Bất Vi trước khi được Lă Bất Vi dâng cho Tần Trang Tương Vương.

[6] Ph́ Thủy (淝水) bắt nguồn từ rặng núi Tướng Quân giữa hai huyện Ph́ Tây và Thọ Huyện, chia làm hai nhánh, nhánh chảy theo hướng Tây Bắc đổ vào sông Hoài, nhánh chảy theo phía Đông Nam đổ vào Sào Hồ.

[7] Ngài Đạo An (312-385) họ Vệ, người xứ Phù Liễu, huyện Thường Sơn (nay là huyện Kư, tỉnh Hà Bắc). Ngài là bậc cao tăng thời Ngụy Tấn, và là thầy của Tịnh Tông Sơ Tổ Huệ Viễn. Ngài là người đi tiên phong trong việc nghiên cứu Trung Quán Bát Nhă tại Trung Hoa. Ngài La Thập đọc trước tác của Sư, rất khâm phục, dâng tặng Sư mỹ hiệu Đông Phương Thánh Nhân. Ngài thông minh, mẫn tiệp, do cha mẹ mất sớm, anh chị nuôi dưỡng, đến bảy tuổi mới cho đi học, nhưng đọc sách nào cũng sau hai lượt bèn nhớ không sai một chữ. Ngài xuất gia năm mười hai tuổi. Do Ngài tướng mạo xoàng xĩnh, thô kệch, vị thầy thế độ quá chấp vào h́nh tướng, coi thường Ngài, sai đi làm ruộng suốt ba năm. Ba năm sau, Sư xin học kinh tạng, sư phụ bèn tùy tiện lấy Biện Ư Kinh dài năm ngàn chữ cho xem. Chỉ học trong lúc nghỉ giữa trưa, Ngài đă đọc thuộc và thông hiểu ngay trong hôm ấy. Tối về, xin thầy đổi bộ khác, sư phụ trách mắng. Sau khi nghe Ngài đọc thuộc, sư phụ bèn đưa bộ kinh khác là Thành Cụ Quang Minh dài đến một vạn chữ. Tối về, Sư lại đem kinh trả cho thầy; thầy rất tức, Sư bèn đọc làu làu chẳng sai một chữ. Vị thầy sững sờ, mới biết Sư chẳng phải là phàm nhân. Do đó, không lâu sau, cho Sư thọ Cụ Túc Giới, rồi cho Sư đi tham học. Năm 310, ngài Phật Đồ Trừng đến Trung Hoa. Tổ nhận biết Sư là bậc danh tài, nhưng do tướng mạo chẳng đẹp đẽ, thường bị đại chúng coi rẻ; do đó, sau mỗi buổi giảng kinh, Tổ đều bảo Sư trùng tuyên một lượt. Ngài lại có biện tài mẫn tiệp, đả phá những nghi nan của quần chúng rất thiện xảo, nên mọi người hết sức tin phục Sư. Sau khi ngài Phật Đồ Trừng viên tịch, Sư đi khắp nơi giảng dạy, không có trụ xứ nhất định. Lúc ấy Sư có đến năm trăm đồ đệ thường theo học, nổi tiếng nhất là hai vị Pháp Thải và Huệ Viễn. Năm Thái Nguyên thứ tư (379), tướng Phù Phi của nhà Tiền Tần vây hăm Tương Dương, bắt Sư về kinh đô Trường An. Vua Tần là Phù Kiên đă nói: “Ta dùng mười vạn quân công hăm Tương Dương, kết quả chỉ được một người rưỡi. Một người là ngài Đạo An, nửa người là Tập Tạc Xỉ”. Ngày mồng Tám tháng Hai năm Thái Nguyên thứ 10 (385), Sư đột nhiên bảo đệ tử: “Ta sắp ra đi”. Thọ trai xong, Sư đoan nhiên thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi. Điểm đặc biệt là ngài Đạo An tu pháp môn Di Lặc Tịnh Độ, từng phát nguyện văng sanh Đâu Suất nội viện và từng được một vị dị tăng hiển lộ thần thông cho thấy cung điện nơi Sư sẽ sanh về sau khi mất. Đối với Phật giáo Trung Hoa, Ngài có công lao to lớn trong việc chỉnh lư kinh điển, chế định oai nghi, tăng phục thống nhất, đề xướng tăng sĩ dùng chữ Thích trước pháp danh, quy định tăng sĩ phải đắp y ca-sa ngoài áo hậu khi lễ Phật, tụng kinh, thuyết pháp. Sư chú trọng hoằng dương tư tưởng Bát Nhă, phản đối lối “cách nghĩa” (格義, vận dụng các từ ngữ Đạo gia để giải thích kinh Phật). Ngài cũng được coi là người đi tiên phong trong việc hoằng dương Di Lặc Tịnh Độ.

[8] Theo cách phân biệt nội ngoại th́ bên nội sẽ gọi là “đường” (: trong cùng một gia tộc), hay tùng (: gần giống). Chẳng hạn như anh họ con anh trai của cha sẽ gọi là “tùng huynh”, hoặc “đường huynh”, chú c̣n được gọi là “tùng phụ” (gần giống như cha) hoặc thúc phụ, nhưng bác luôn gọi là “bá phụ”. Trong khi đó, bên ngoại sẽ gọi là “biểu” (: bên ngoài), như anh họ bên ngoại sẽ gọi là “biểu ca” hoặc “biểu huynh”, em gái họ được gọi là “biểu muội”, anh hay em của mẹ sẽ gọi là “cữu cữu” (cậu), không gọi là “bá phụ”.

[9] Bộ sách này, có tên gọi thật sự là Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa. Thật ra, đó là hai bộ từ điển Phật giáo cùng tên, đều được trước tác vào thời Đường. Bản thứ nhất do ngài Huyền Ứng (?-661) soạn, gồm hai mươi lăm quyển, thường gọi là Đại Đường Chúng Kinh Âm Nghĩa. Bản thứ hai do ngài Thích Huệ Lâm (737-820) biên soạn, thường gọi là Huệ Lâm Âm Nghĩa, gồm một trăm quyển. Nội dung sách ghi những âm đọc từ các bộ kinh Phật giáo, tham chiếu các bộ sách về âm vận trước đó như Tự Thư, Vận Thư v.v… để chỉ ra cách đọc những chữ đặc biệt trong kinh Phật, khó tra cứu trong tự điển thông thường, cũng như những chữ đặc biệt được sáng tạo trong quá tŕnh dịch kinh.

[10] Tô () là chất béo trích từ sữa, tức bơ.

[11] Chúng ta thường gọi là chim Chuẩn là Cắt (Falco). Chim Cắt có cánh mỏng và nhọn, có thể lao xuống từ trên cao với một tốt độ rất nhanh. Có những loài như cắt Peregrine có thể lao xuống với tốc độ lên đến 320 cây số một giờ!

[12] Đúng ra, tên vị này gọi đầy đủ sẽ là Pūrna Maitrayani-putra. V́ thế, kinh Pháp Hoa phiên âm tên Ngài là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử. Maitryani (từ bi) là tên mẹ Ngài. Phú Lâu Na là viên măn. Cha Ngài chính là con của vị quốc sư nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài thông minh từ nhỏ, trước khi theo Phật đă tinh thông kinh Vệ Đà, từng vào núi Tuyết học đạo, tu khổ hạnh với tiên nhân Ba Lê Bà Giá Ca. Sau khi đức Phật thành đạo, Ngài nghe tin, đến hỏi đạo, vô cùng khâm phục bèn xuất gia theo Phật. Không những là người có khả năng thuyết pháp đệ nhất, mà Ngài c̣n là bậc chân tu nhẫn nhục chẳng kém tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Ngài mong truyền đạo Phật sang xứ Thâu Lô Na nổi tiếng hung tợn, tàn độc, sẵn sàng chấp nhận bị chửi rủa, đánh đập, tra tấn, tù đày, thậm chí hy sinh tánh mạng. V́ thế, đức Phật tán thán Ngài là bậc “thiện học nhẫn nhục” (khéo học nhẫn nhục).

[13] Tuyệt chứng (絕症): Chứng bệnh không thể chữa được, chỉ c̣n chờ chết.

[14] “Phiên âm theo lối mới” ở đây có nghĩa là tuân theo cách phiên âm của ngài Huyền Trang.

[15] Lục Kinh là Thi, Thư, Lễ Kư, Châu Dịch, Nhạc Kinh và Xuân Thu. Theo cổ thư, kinh Nhạc chính là tác phẩm ghi chép về âm nhạc của các quan trông coi âm nhạc trong triều đ́nh nhà Châu, tức là toàn tập các thể loại nhạc vào hai triều đại Hạ và Thương, do Châu Công tu chỉnh mà thành, lại được các nhạc quan đời Châu kế thừa tu chỉnh. Có thuyết nói kinh Nhạc thật ra chỉ ghi nhạc phổ, c̣n lời ca nằm trong kinh Thi. Do kinh Nhạc thất truyền đă lâu, chẳng ai biết nội dung thật sự ra sao.

[16] Theo huyền thoại Trung Hoa, Bàn Cổ là người đầu tiên khai thiên lập địa. Thuở đầu, trời đất hỗn độn, trời đất chưa tách rời, hễ trời đất tăng trưởng bao nhiêu, thân Bàn Cổ sẽ lớn chừng đó, tách rời trời và đất. Bàn Cổ thân rồng, đầu người, mở mắt là ngày, nhắm mắt là đêm, thở ra là nóng, hít vào là lạnh, phun hơi ra bèn thành gió, mây, tắc lưỡi thành tiếng sấm. Sau khi ông chết, các phần trên thân thể biến thành các vật chất trong vũ trụ như mắt hóa thành mặt trời, mặt trăng, lông mày thành sao Bắc Đẩu, chín khiếu thành chín châu v.v… Các nhà nghiên cứu cho rằng khi người Hoa tiến vào Trung Nguyên chiếm đất của dân bản địa (thường bị gọi miệt thị là Cửu Lê, Miêu Tộc, xua đuổi họ lên vùng núi hoang vu) đă vay mượn truyền thuyết chó thần Bàn Hồ (tức thần tổ của các dân tộc Dao, Xá…), đặt ra truyền thuyết Bàn Cổ.

[17] Tào Phi là con thứ hai của Tào Tháo (anh cả là Tào Ngang đă chết trận tại Uyển Thành). Em trai Tào Phi là Tào Thực, là một thi sĩ nổi tiếng thời ấy. Năm 211, Tào Phi được phong làm Phó Thừa Tướng. Năm 220, Tào Tháo chết, Tào Phi nối vị giữ chức Thừa Tướng nhà Hán và tước hiệu Ngụy Vương. Tháng Mười năm đó, Tào Phi ép Hán Hiến Đế (Lưu Hiệp) nhường ngôi, trở thành hoàng đế, đổi quốc hiệu là Ngụy. Nhưng đến năm 226 th́ bệnh chết, phải gởi gắm con côi (Tào Duệ) cho bọn cố mạng đại thần là Tào Chân, Tào Hưu, Trần Quần và Tư Mă Ư phù tá.

[18] Trúc Lâm Thất Hiền là bảy vị danh sĩ sống vào cuối đời Ngụy đầu đời Tấn, gồm có: Nguyễn Tịch, Kê Khang, Sơn Đào, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Hướng Tú, Vương Nhung. Họ sống tại vùng Sơn Dương (nay thuộc Huy Huyện tỉnh Hà Nam). Họ là những người thích nghiên cứu Huyền Học, chịu ảnh hưởng mạnh của Lăo Trang, thanh tịnh vô vi, thích ở trong rừng núi, uống rượu, làm thơ. Về sau, Kê Khang, Nguyễn Tịch và Lưu Linh ra làm quan với nhà Ngụy, có quyền hành to lớn. Khi nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, Kê Khang, Nguyễn Tịch, Lưu Linh từ chối không hợp tác, nhưng Hướng Tú, Nguyễn Hàm, Sơn Đào, Vương Nhung đều làm quan cho nhà Tấn. Kê Khang nổi tiếng về tài đánh đàn cầm, Nguyễn Hàm nổi tiếng về đàn Nguyễn (đàn Nguyệt phát xuất từ đàn Nguyễn), Lưu Linh nổi tiếng về tài uống rượu.