Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh Giảng Kư
Phần 2
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ giảng:
Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
Địa
điểm: Đài Trung Liên Xă
Khởi giảng
từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 4
Thưa các vị giáo sư,
các vị đại đức, các vị đồng tu.
Trước hết, xin quư vị mở xem kinh bổn, mở
trang thứ nhất. Tôi đọc trước hai hàng kinh
văn mở đầu như sau: “Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại
Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ
đại tỳ-kheo chúng, thiên nhị bách ngũ thập
nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, Văn Thù Sư Lợi
pháp vương tử nhi vi Thượng Thủ” (Tôi nghe
như thế này: Một thời, đức Phật ngự
tại thành Vương Xá, ở trong núi Kỳ Xà Quật,
cùng với các vị đại tỳ-kheo, một ngàn hai
trăm năm mươi vị nhóm họp, Bồ Tát ba vạn
hai ngàn. Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử làm Thượng
Thủ).
Sau khi đă đọc kinh
văn, lại xin quư vị hăy mở t́m trong đề
cương bài giảng lần trước, trang thứ nhất
đă nói xong, hăy lật sang trang thứ hai. Trước hết,
nói đến người phiên dịch. Sau khi nói xong người
phiên dịch, sẽ chánh thức bắt đầu giảng
giải kinh văn.
III. Dịch
nhân (người dịch)
Lưu Tống Tây Vực Tam Tạng
pháp sư Cương Lương Da Xá dịch.
劉宋西域三藏法師彊良耶舍譯。
(Đời
Lưu Tống, Tam Tạng pháp sư Cương
Lương Da Xá người xứ Tây Vực dịch).
“Dịch
nhân” (譯人) là
người phiên dịch. Người phiên dịch bộ
kinh này là ai? Chúng ta biết nguyên văn kinh Phật chép bằng
tiếng Phạn của Ấn Độ cổ đại,
cũng là tiếng Ấn Độ. Sau khi kinh văn
được truyền đến Trung Hoa, phải qua phiên
dịch văn tự, dịch sang tiếng Hán. Phiên dịch
vào thời cổ chẳng giống như chúng ta hiện thời:
Từ ngôn ngữ ngoại quốc dịch sang tiếng Hán,
ai hiểu tiếng Hán và ngoại ngữ đều có thể
phiên dịch ngoại ngữ, cá nhân có thể phiên dịch.
Kinh Phật chẳng đơn giản như vậy. Vào
thuở đó, phiên dịch một bộ kinh Phật chẳng
phải chỉ là một người! Đương nhiên,
điều quan trọng nhất là phải hiểu tiếng
Phạn, lại c̣n phải thông hiểu kinh Phật. Dịch
giả từ ngoại quốc tới, là những vị xuất
gia đến từ Ấn Độ, hoặc từ những
nước ở phía Tây Bắc Trung Hoa, hoặc Tây Vực,
cũng hiểu tiếng Hán. Ngoài ra, c̣n có những vị có
học thức tại Trung Hoa, đang làm việc trong triều
đ́nh thuở ấy, họ hết sức thông thạo
văn chương Trung Hoa. Lại c̣n có các vị cao
tăng xuất gia người Hoa. [Tất cả những
người ấy] hợp lại, cùng nhau nghiên cứu, dịch
thành một bộ kinh. Sau khi đă dịch ra, nói chung là một
bộ kinh chẳng thể ghi hết tên của tất cả
mọi người, cho nên chỉ nêu tên một vị đại
diện, tức là vị giữ vai tṛ trọng yếu nhất.
Người tham dự phiên dịch bộ kinh này rất nhiều,
nhưng chỉ nêu tên vị pháp sư xuất gia đến
từ Tây Vực, nay tôi sẽ giới thiệu vị pháp
sư này.
Người dịch bản
kinh này sống vào thời đại Lưu Tống. Chúng ta
biết Trung Hoa có Đường, Tống (đời
Đường, đời Tống), nhà Lưu Tống chẳng
phải là triều đại Tống (tức Triệu Tống)
sau nhà Đường. Lịch sử Trung Hoa rất lâu, Phật
pháp được truyền vào [Trung Hoa] dưới đời
Hán. Sau nhà Hán là thời Tam Quốc (Tào Ngụy, Tây Thục, Đông
Ngô). Sau thời Tam Quốc là nhà Tấn, sau nhà Tấn,
[vương triều cai trị] bèn chia thành hai bộ phận
là Nam Bắc (tức Nam Bắc Triều) [gồm nhiều
triều đại tồn tại song song]. Xuất hiện
sau nhà Đông Tấn chính là các triều đại Tống,
Tề, Lương, Trần, thuộc về Nam Triều.
Lưu Tống ở đây chính là nhà Tống trong năm triều
đại Tống, Tề, Lương, Trần. V́ sao thêm
vào chữ Lưu? “Lưu” là
Lưu Dụ (劉裕),
[Lưu Tống] là triều đại do Lưu Dụ khai
quốc[1].
Vị pháp sư này từ
đâu đến? Ngài đến từ Tây Vực. Nay chúng
ta biết rơ Tây Vực vào thuở ấy, chính là từ vùng
Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc của Trung Hoa Đại
Lục hiện thời trở về phía Tây, cho đến
tận Ấn Độ, thảy đều gọi chung là
Tây Vực. Thuở ấy, khu vực này có rất nhiều
quốc gia. Những quốc gia ấy được gọi
chung là Tây Vực. Vị pháp sư này rốt cuộc là
người thuộc quốc gia nào? Chẳng có cách nào để
tra cứu! Vào thời cổ, phiên dịch kinh Phật chẳng
phải là bất cứ ai cũng đều có thể phiên
dịch. Trong phần trên đă nói, nhất định phải
thông đạt Tam Tạng. Tam Tạng là ǵ? Trong cả bộ
Đại Tạng Kinh, kinh Phật thuộc về Kinh Tạng,
lại c̣n có Luận Tạng (Luận là giải thích kinh
văn; cũng có khi chỉ giải thích Phật lư cũng
được gọi là Luận), cùng với giới luật
do đức Phật chế định, gọi là Luật
Tạng. Tam Tạng Kinh, Luật, Luận hết sức nhiều.
Vị pháp sư tinh thông Kinh, Luật, Luận Tam Tạng
được gọi là “Tam Tạng
pháp sư”. Bất luận người học Phật
hay không đều biết đời Đường có một
vị là Huyền Trang đại sư, thường
được gọi là Đường Tam Tạng. [Ngài
có danh xưng là] Đường Tam Tạng v́ Ngài tinh thông
Tam Tạng [và sống vào đời Đường]. Ngoại
trừ ngài Huyền Trang tinh thông Tam Tạng ra, c̣n có rất
nhiều vị đại pháp sư tinh thông Tam Tạng. Vị
Tam Tạng pháp sư này có tên là Cương Lương Da Xá.
Cương Lương Da Xá (Kalayasas)[2] là
phiên âm từ tiếng ngoại quốc, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Thời Xưng (時稱). Trong niên hiệu
Nguyên Gia nhà Lưu Tống (triều đại nhà Tống
do Lưu Dụ sáng lập), Ngài phiên dịch bộ kinh này tại
Dương Châu.
Chúng ta biết: Vào thời cổ,
phiên dịch một bộ kinh là một chuyện thận
trọng như thế đó, ắt phải là người
tinh thông Tam Tạng th́ mới có thể chủ tŕ việc
phiên dịch. Lại c̣n chẳng phải là do một người
phiên dịch, mà là có rất nhiều người tham dự.
Hiện thời, có những kẻ do thấy có rất nhiều
người chẳng đọc hiểu Tạng Kinh (Tạng
Kinh toàn dùng thể loại Văn Ngôn để viết), họ
đă nghĩ tới chuyện t́m người dịch Tạng
Kinh từ Văn Ngôn sang văn Bạch Thoại. Hiện thời,
có chẳng ít người chủ trương như vậy.
Chúng ta phải hỏi: “Người phiên dịch có tinh thông
Tam Tạng hay không?” Nếu chẳng tinh thông Tam Tạng, muốn dịch một bộ
kinh [từ thể loại Văn Ngôn] sang văn Bạch Thoại,
chẳng biết sẽ dịch bộ kinh ấy thành t́nh trạng
như thế nào? Đừng nói là chẳng tinh thông Tam Tạng,
cũng có thể nói là [những kẻ ấy] chẳng thông
hiểu văn tự Văn Ngôn trong bộ kinh đó! Thật
sự thông hiểu văn tự của một bộ kinh,
người ấy sẽ chẳng dám dịch sang văn Bạch
Thoại. V́ sao nói như vậy? Trong văn
chương Văn Ngôn, một chữ bao hàm rất nhiều
ư nghĩa, trọn chẳng thể nói là từ một câu viết
bằng Văn Ngôn mà có thể thay thế bằng một
câu văn Bạch Thoại, thay thế chẳng được!
Thậm chí từ một câu theo thể loại Văn Ngôn,
t́m vài câu theo lối Bạch Thoại để diễn
đạt vẫn chẳng được, uổng công phí
sức! Chúng ta quản chẳng được chuyện người
ta dịch kinh Phật từ Văn Ngôn sang Bạch Thoại,
nhưng chúng ta chớ nên xem kinh văn đă dịch sang
văn Bạch Thoại. Kinh văn bằng Bạch Thoại
thoạt nh́n th́ dễ hiểu, nhưng chẳng phải là
ư nghĩa do đức Phật đă giảng, chớ nên
xem! Muốn xem, hăy nên xem nguyên bản trong Tạng Kinh. Xem
không hiểu, đă có chú giải của tổ sư đại
đức. Nếu vẫn xem không hiểu, đọc nguyên
bản kinh văn cũng đỡ hiểu lầm hơn
xem văn Bạch Thoại rất nhiều. Mọi người
phải hiểu rơ điều này! Hiện thời, ở
bên ngoài, kinh điển được dịch sang văn Bạch
Thoại rất nhiều, không được đâu! Chúng
ta chớ nên xem những văn bản ấy.
IV. Ba phần
của kinh văn (Tự, Chánh, Lưu Thông)
Trong
văn tự của mỗi bộ kinh, đều chia thành
ba bộ phận. Ba bộ phận ǵ vậy? Bộ phận
đầu tiên được gọi là Tự Phần, ví
như hiện thời có rất nhiều người viết
sách, tự ḿnh viết một bài tựa, hoặc cậy
người khác viết lời tựa. Đó gọi là Tự
(序). “Tự” trong kinh Phật chẳng
phải là một phần khác biệt, mà thuộc ngay trong
kinh văn. Vừa mở đầu, bèn có bộ phận
này, gọi là Tự Phần (序分). Tự Phần nhằm nói lên điều
ǵ? Chính là nêu nhân duyên khiến cho Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
bộ kinh này, [tức là lư do] v́ sao giảng bộ kinh này.
Sau Tự Phần, kế đó là chánh thức giảng giải
những đạo lư trong bộ kinh này, [phần này] gọi
là Chánh Tông Phần. Đến cuối Chánh Tông Phần, khi
sắp kết thúc, đạo lư trong bộ kinh này đă
được nói xong xuôi, phương pháp tu hành cũng có,
đức Phật sẽ dạy người nghe phải chiếu
theo lư đó và phương pháp ấy để tu hành. Bộ
phận mang tính chất dặn ḍ ấy được gọi
là Lưu Thông Phần. Bất cứ bộ kinh nào cũng
đều có ba bộ phận này. Người Hoa viết
văn, viết một quyển sách cũng giống như
thế! Chương pháp (章法: kết cấu và mạch lạc hành văn)
hết sức nghiêm mật, có quy củ nhất định.
Nhưng kinh Phật vào thời kỳ đầu, tức là
khi mới vừa truyền đến Trung Hoa, thuở
đó, người giảng kinh đều chẳng giới
thiệu rơ ràng: Tự Phần là ǵ? Chánh Tông Phần là ǵ?
Lưu Thông Phần là ǵ? Chẳng giới thiệu như vậy.
Giống như người ta thường nói là văn
chương chẳng có chương pháp, chẳng nêu rơ kết
cấu khởi, thừa, chuyển, hợp[3],
chỉ là từ đầu đến cuối, chiếu
theo từng câu trong văn tự mà tŕnh bày ư nghĩa là
được rồi!
Từ khi nào, [giảng giải]
kinh Phật bắt đầu có ba phần? Tại
phương Bắc, vào thời Ngũ Hồ Loạn Hoa[4], cũng
tức là sau đời Tấn, tại vùng Trường An
của tỉnh Thiểm Tây có nước Tần. Nước
Tần này chẳng phải là nước Tần của Tần
Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng họ Doanh[5],
nên triều đại Tần ấy gọi là Doanh Tần.
Nước Tần ở đây là nước Tần về
sau của Phù Kiên. Mọi người đọc lịch sử
đều biết Phù Kiên chuẩn bị [tấn công] xuống
phương Nam. Ông ta mang quân tấn công Đông Tấn thuộc
Nam Triều, kết quả là vừa giao tranh bèn thua trận.
Trận đánh ấy được gọi là “Ph́ Thủy chi chiến” (cuộc
chiến nơi sông Ph́[6]),
rất nổi tiếng. Vào thời Phù Kiên, kinh đô [nước
Phù Tần] là một giải Trường An hiện thời.
Ông ta thỉnh pháp sư giảng kinh, pháp sư bèn cứ chiếu
theo kinh văn để giảng liên tục [chẳng phân tích
cấu trúc]. Vua Tần bèn nói: “Trong văn hóa Trung Hoa của
chúng tôi…” (Thật ra, vua Tần là người Hồ. Phù Tần
là một quốc gia được kiến lập bởi
Ngũ Hồ. Tuy là người Hồ, nhà vua ưa chuộng
văn hóa Trung Hoa, tự cho ḿnh là người Hoa. Hiện
thời, khác hẳn! Cố nhiên là người ngoại quốc
khinh thường văn hóa Trung Hoa, mà ngay cả người
Trung Hoa cũng coi thường văn hóa Trung Hoa. Khi đó,
người Hồ coi trọng văn hóa Trung Hoa và cũng
đọc sách của Trung Hoa). Vua Tần nói: “Đối với
văn tự của Trung Hoa, bất cứ quyển sách nào,
bất cứ một bài văn nào, cũng đều có
chương pháp, đều có kết cấu. Văn tự
của một bộ kinh Phật hay dường ấy, chẳng
thể nói là không có chương pháp. Mở đầu
như thế nào? Danh xưng là ǵ? Chính giữa là ǵ? Sau
đó lại là ǵ? Phải nên có văn pháp, phân chia rành mạch,
rơ rệt”. Người giảng kinh khi đó, do thuở
đầu [việc nghiên cứu] kinh Phật [tại Trung
Hoa] chưa có Khoa Phán (Khoa (科) là khoa học,
Phán là phán biệt (判別), tức
là phân định ư nghĩa và kết cấu), cho nên khi vua Tần
hỏi như thế, người giảng kinh chẳng thể
đáp được!
Thuở đó, có một vị
pháp sư tên là pháp sư Đạo An. Chúng ta biết về
sau có rất nhiều vị [pháp sư] trùng tên. Chẳng hạn
như ở Đài Loan cũng có một vị pháp sư tên
là Đạo An; vị lăo pháp sư này đă văng sanh. Tại
Đài Loan, vị lăo pháp sư này cũng khá nổi tiếng.
Thuở ấy, pháp sư Đạo An[7] ở
Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc, nghe chuyện
này. Vua Tần hỏi như thế, đích xác là người
giảng kinh phải nên chú ư. Văn tự trong kinh văn
hay như thế, phải nên có kết cấu, phải nêu
ra rơ ràng. Ngài liền bắt tay vào nghiên cứu. Sau đấy,
Ngài nghiên cứu thấy: Bất luận là một bộ
kinh lớn cũng thế, mà một kinh nhỏ ngắn củn
cũng thế, đều có Tự Phần ở trước,
chính giữa là Chánh Tông Phần, sau đó là Lưu Thông Phần.
Sau khi Ngài nghiên cứu, hiểu rơ văn tự, phát hiện
[kinh nào] cũng đều có ba bộ phận ấy. Sau
đấy, Ngài tự ḿnh giảng kinh, chánh thức công bố:
Bất cứ bộ kinh nào cũng đều có ba bộ phận
ấy. Dẫu Ngài giảng kinh hoặc chú giải kinh,
đều chia [thành ba phần] như vậy, các vị cao
tăng đại đức thuở đó vẫn giữ
thái độ hoài nghi: “Có phải là có ba bộ phận
đó hay không?” Mọi người vẫn hoài nghi. Về
sau, kinh luận được truyền sang Trung Hoa ngày càng nhiều. Có một bộ luận
tên là Phật Địa Luận (Buddhabhūmi Sūtra Śāstra).
Sau khi Luận Tạng Phật Địa Luận
được truyền đến Trung Hoa, bộ luận
ấy do Thân Quang Bồ Tát người Ấn Độ soạn.
Tại Ấn Độ, Thân Quang Bồ Tát rất có địa
vị. Ngài đă dựa trên các bộ đại kinh để
soạn ra Phật Địa Luận. Trong Phật Địa
Luận có nói mỗi bộ kinh đều có ba bộ phận:
Bộ phận đầu tiên là đức Phật nói nhân
duyên của bộ kinh ấy, do nhân duyên ǵ mới nói bộ
kinh ấy. Phần trung gian là chánh thức nói về lư luận
và phương pháp, phần cuối cùng
giảng về cách y giáo phụng hành, tức là nương
theo đạo lư và phương pháp do đức Phật
đă giảng để phụng hành. Trong bộ luận ấy,
đă nói rơ: Mỗi bộ kinh đều có ba bộ phận
ấy. Một bộ Phật Địa Luận được
truyền sang Trung Hoa, mọi người đều biết,
đem so với phát hiện “một
bộ kinh có ba phần” của pháp sư Đạo An
hoàn toàn phù hợp. Từ đấy trở đi, tại
Trung Hoa, bất luận là giảng kinh trong chốn tùng lâm
cũng thế, mà cao tăng đại đức chú giải
kinh sách cũng vậy: Xét theo phương diện Khoa Phán,
đều chia thành ba bộ phận ấy. Đó là nói
đến nguyên do của ba phần trong kinh văn.
IV.1. Tự
Phần (Chứng Tín, Phát Khởi)
Bắt đầu xem Tự
Phần. Trong Tự Phần, chia thành hai phần: Phần
đầu gọi là Chứng Tín Tự, phần sau gọi
là Phát Khởi Tự. Chứng Tín Tự là ǵ? Chứng Tín Tự
nhằm ghi chép nhân duyên giảng kinh, chứng minh bộ kinh
này do chính đức Phật nói, tuyệt đối có thể
tin tưởng. Phát Khởi Tự nhằm nói bộ kinh này
do nhân duyên ǵ mà phát khởi. Trong Tự Phần, có hai phần
này.
IV.1.1. Chứng
Tín Tự (Thông Tự), Lục Thành Tựu
Trước hết, giới
thiệu Chứng Tín Tự (證信序). Như
trong đề cương bài giảng có ghi, trong Chứng
Tín Tự có Lục Thành Tựu (六成就), tức là sáu loại
điều kiện. Đầy đủ sáu loại điều
kiện th́ bộ kinh này mới có thể thuận lợi
khai giảng. Lục Thành Tựu: Thứ nhất là Tín Thành
Tựu, thứ hai là Văn Thành Tựu, tiếp đó là Thời
Thành Tựu, Chủ Thành Tựu, Địa Thành Tựu, và
Chúng Thành Tựu. Phối hợp với kinh văn (đoạn
kinh vừa niệm trên đây) để xem: Tín là hai chữ
Như Thị, Văn là “ngă
văn”, Thời là “nhất
thời”, Chủ là nói đến Thích Ca Mâu Ni Phật,
Ngài giảng bộ kinh này, lấy Ngài làm chủ. Địa
là “bộ kinh này được giảng ở chỗ nào”:
Thành Vương Xá, núi Kỳ Xà Quật. Chúng [Thành Tựu]
là thính chúng đang hiện diện, đại tỳ-kheo
chúng là một ngàn hai trăm năm mươi vị, Bồ
Tát là ba vạn hai ngàn vị; vừa khéo ứng với
đoạn kinh văn mở đầu. Lục Thành Tựu
chính là Chứng Tín Tự, c̣n gọi là Thông Tự (通序).
V́
sao gọi là Thông Tự? Theo như Đại Trí Độ
Luận (Đại Trí Độ Luận là một bộ
đại luận) đă nói, khi Thích Ca Mâu Ni Phật sắp
diệt độ (chẳng c̣n trụ trên thế gian này nữa,
sắp ĺa khỏi), tôn giả A Nan thỉnh vấn đức
Phật: “Sau khi đức Phật chẳng c̣n tại thế,
trong tương lai, hàng đệ tử chúng con dùng văn
tự để ghi chép những pháp môn do đức Phật
đă giảng thuở tại thế, để mở
đầu mỗi bộ kinh, phải dùng những câu chữ
nào để đặt trước kinh văn?” Đức
Phật bảo tôn giả A Nan: “Hăy
nên ghi chép ‘như thị ngă văn, nhất thời, Phật
ở nơi nào, đại chúng dự hội v.v…” (tức
là đoạn kinh văn này), đức Phật bảo ngài
A Nan: “Để mở đầu, đều phải nên
ghi chép như thế”. Sau khi đă nói xong, đức Phật
lại nhấn mạnh lần nữa: Không chỉ là Thích
Ca Mâu Ni Phật bảo ông phải ghi chép một bộ kinh
[theo cách thức] như vậy, mà trong thời quá khứ, các
kinh do bất cứ vị Phật nào đă nói, cũng
đều phải ghi chép như thế. Do vậy, phần
này lại gọi là Thông Tự.
(Kinh) Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại
Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ
đại tỳ-kheo chúng, thiên nhị bách ngũ thập
nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, Văn Thù Sư Lợi
pháp vương tử nhi vi Thượng Thủ.
(經)如是我聞,一時,佛在王舍城,耆闍崛山中,與大比丘眾,千二百五十人俱。菩薩三萬二千,文殊師利法王子而為上首。
(Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời, đức
Phật ngự tại thành Vương Xá, ở trong núi Kỳ
Xà Quật, cùng với các vị đại tỳ-kheo, một
ngàn hai trăm năm mươi vị nhóm họp, Bồ
Tát ba vạn hai ngàn. Văn Thù Sư Lợi pháp vương
tử làm Thượng Thủ).
Bây giờ chúng ta xem kinh
văn, mỗi chữ đều có ư nghĩa trọng yếu.
Từ Tự Phần cho đến Lưu Thông Phần
đều hết sức trọng yếu. Trước hết,
hăy xem phần Tín [Thành Tựu], bao gồm hai chữ Như
Thị.
Như
là ǵ? Như (如) bao hàm rất
nhiều ư nghĩa. Dựa theo chú giải của tổ
sư, tôi giới thiệu hai ư nghĩa:
1)
Ư nghĩa thứ nhất, Như: Bất cứ chúng sanh nào
cũng đều có Chân Như bản tánh. V́ sao gọi là
Chân Như (真如)? Trong
Ngũ Trùng Huyền Nghĩa đă nói ở phần trước,
khi giảng về kinh thể (bản thể của kinh),
đă có giới thiệu. “Như”
là nói tới Thật Tướng. Bất cứ pháp nào
cũng đều có bản thể, chúng sanh có bản thể.
“Bản thể” là nói tới
bản tánh. Tánh là Thể, Như là nói tới bản thể.
Bản thể từ xưa đến nay, cho đến tận
vị lai, là vĩnh hằng, bất biến, cũng chẳng
có ǵ khác biệt. Từ đầu đến cuối, bản tánh là tánh vốn như vậy. Chúng
sanh mê hoặc, điên đảo trong lục đạo, có
kẻ ở trên cơi trời, có người ở trong
nhân gian, có kẻ ở trong tam đồ, bất luận là
ở trong đường nào, Chân Như bản tánh chẳng
biến hóa. Chẳng thể nói bản tánh của chúng sanh
trong địa ngục và bản tánh của chúng sanh trên
thiên đường bất đồng, chẳng có chuyện
đó! Không chỉ là bản tánh của chúng sanh trong địa
ngục và bản tánh của chúng sanh trên thiên đường
hoàn toàn như nhau, mà cũng c̣n hoàn toàn giống như bản
tánh của bất cứ một vị Phật nào! Điều
này được gọi là Như. Đức Phật giảng
kinh, giảng đạo lư, đều nhằm dạy
người ta tin tưởng mỗi cá nhân đều có
Chân Như bản tánh. Chiếu theo Lư này để nói, hoàn
toàn phù hợp Lư này, đó là Thị (是).
Đối
với hai chữ Như Thị, đức Phật giảng
bất cứ bộ kinh nào, không ǵ chẳng nhằm khiến
cho người nghe thông hiểu “chính ḿnh và Phật có Thật
Tướng hoàn toàn giống hệt như nhau”, đó
cũng là bản tánh. Nhằm nói rơ đạo lư này, cho nên lấy hai chữ Như Thị đặt
ở đầu kinh văn. V́ thế, vừa nh́n, bèn thấy
[kinh Phật] khác hẳn những kinh được nói bởi
bất cứ ngoại đạo nào! Ngoại đạo
chẳng hiểu rơ bản tánh của chính ḿnh, cầu
đạo ngoài tâm, cho nên mới gọi là “ngoại đạo”. Chúng ta thấy phía trước
kinh Phật có câu “như thị
ngă văn”, chứng tỏ kinh ấy thuộc về nhà
Phật, là kinh Phật. Đó là Chứng Tín Tự, bắt
đầu bằng hai chữ Như Thị.
2)
Sau khi đă t́m hiểu ư nghĩa này, lại giới thiệu
một ư nghĩa nữa. Đức Phật giảng mỗi
bộ kinh đều có nhân duyên nhất định. Chúng
sanh đang hiện diện nơi ấy để nghe giảng,
trong tâm họ có nhu cầu, đều hy vọng đạt
được Phật lư tốt đẹp. Đức Phật
là bậc tuyệt diệu, trong tâm chúng sanh có những mong mỏi
ǵ, đức Phật đều biết. Sau khi đă hiểu
rơ những chuyện mong mỏi trong tâm chúng sanh, Ngài sẽ thuận
theo ư nghĩ trong tâm chúng sanh mà nói ra một pháp môn nhằm
hóa độ chúng sanh. Đức Phật nói pháp môn ấy,
phù hợp khít khao hy vọng của chúng sanh. “Như” là phù hợp khít khao ư
nguyện trong tâm chúng sanh. Trong tâm chúng sanh có ư nguyện ǵ,
đức Phật nói ra, hoàn toàn phù hợp ư nguyện của
chúng sanh, đó gọi là Như. Khi đức Phật nói, bất
luận nói như thế nào, chúng sanh đang hiện diện
nghe giảng, [đều là] nghe đức Phật nói rơ
ràng, rành mạch, chúng sanh trong khi ấy nghe rơ ràng, rành mạch,
cũng chẳng hiểu lầm tí nào! Đức Phật và
chúng sanh trong pháp hội ấy, bất luận là đức
Phật nói, bất luận là chúng sanh nghe, thật sự là
“sư tư đạo hợp
tương ứng” (thầy tṛ hợp đạo
tương ứng). Nghe rành mạch, dạy rành mạch.
Đó là Thị. V́ thế, trong phương diện Tín của
bộ kinh này, đức Phật đă dựa theo tâm lư của
chúng sanh, giảng rơ ràng, rành rẽ, chúng sanh nghe rơ ràng, rành rẽ.
Đó là Như Thị.
Chúng ta lại t́m hiểu
đôi chút, những điều chúng sanh mong mỏi trong tâm
có nhiều thứ khác nhau. Cùng [hiện diện] trong một
đạo tràng như nhau, nghe đức Phật giảng
một bộ kinh, tâm người nghe bất đồng,
căn cơ bất đồng, có người thích hợp
học pháp Đại Thừa, có kẻ thích hợp học
pháp Tiểu Thừa, mỗi người khác nhau. Tuy tâm lư mỗi
người mỗi khác, lời đức Phật giảng
đều có thể thích ứng nhu cầu trong tâm mỗi
người. Đức Phật giảng pháp Đại Thừa,
người nghe thuộc căn cơ học pháp Đại
Thừa; giảng pháp Tiểu Thừa, người nghe là
căn cơ học pháp Tiểu Thừa. Đức Phật
nói tới những nỗi đau khổ mà chúng sanh trong thế
gian phải hứng chịu, những khổ báo ấy đều
là thực tại. Đối với những nỗi khổ
do đức Phật đă nói, có chúng sanh nào trong thế giới
Sa Bà có thể phủ nhận những điều ấy chẳng
phải là khổ? Khổ đúng là khổ. Nếu nói đến
vui, đức Phật bảo niềm vui trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là chân lạc.
Nói đến thanh tịnh, Tây Phương Cực Lạc
thế giới là một thế giới thanh tịnh. Ngài
nói thế giới Sa Bà là ô uế, là một thế giới
ô uế. Mỗi câu do đức Phật đă nói đều
là “như Lư”, đúng như
chân lư, hết thảy những lời Ngài đă nói đều
đúng như chân lư. Thêm vào một chữ Thị, nhằm
hoàn toàn khẳng định, hăy nên tin tưởng lời ấy.
Như Thị bao hàm nhiều ư nghĩa như thế đó!
Trong kinh văn có nói “ngă văn”. Phật pháp vốn
dạy chớ nên chấp trước Ngă, Ngă là giả,
nhưng người b́nh phàm trong thế gian nói năng, viết
lách, nếu chẳng nói đến Ngă, sẽ chẳng có
cách nào nói được. V́ thế, thuận theo cách nói của
người thế tục, ngơ hầu nói và nghe đều
thuận tiện, bèn giả nói một cái Ngă. Chữ Ngă ở
đây là nói tới ai? Chính là nói tới tôn giả A Nan. Chúng
ta biết tôn giả A Nan là tùng đệ (從弟: em họ)[8] của
đức Phật. Ngài là con của một người chú
đức Phật. Vị tôn giả này thân cận đức
Phật một thời gian dài. Sau khi đức Phật diệt
độ, kinh Phật đều do Ngài ghi chép lại. Chữ
Ngă ở đây chỉ tôn giả A Nan. “Ngă văn” là tôn giả A Nan nói: Chính tôi nghe từ
đức Phật! Ư nghĩa này nhằm chứng tỏ
đích thân tôn giả A Nan đă nghe bộ kinh này từ chỗ
đức Phật, chẳng phải là gián tiếp nghe từ
nơi khác, đáng tin!
Vẫn phải bổ sung
đôi chút về “ngă văn”.
Tôi vừa mới nói “tôn giả
A Nan ghi chép lại”, chẳng phải là đơn giản
như vậy. Chẳng phải là một ḿnh Ngài ghi chép. Thuở
ấy, ghi chép kinh Phật là do những vị đại
đệ tử của đức Phật [thực hiện],
là những vị giống như tôn giả Đại Ca Diếp.
Những vị đại đệ tử ấy đều
rất lỗi lạc! Mọi người mở cuộc họp,
nhóm lại, rất nhiều đại chúng tụ hội
cùng một chỗ. Vốn [đại chúng] chẳng chấp
thuận cho ngài A Nan tham gia, một mực đợi cho
đến sau khi ngài A Nan thật sự chứng quả A
La Hán, mới lại mời Ngài tham gia, cử Ngài nhắc lại
những ư nghĩa do chính miệng đức Phật đă
nói. V́ Ngài có trí nhớ hết sức tốt, [những bộ
kinh luận do] Ngài đọc ra để đại chúng dự
hội chứng minh đức Phật có nói như thế
hay không. Đại chúng hiện diện đều chứng
minh, tán thành, câu nói ấy mới được ghi chép lại.
Mỗi bộ kinh đều do tôn giả A Nan chính miệng
thuật lại, mọi người chứng minh xong mới
được chép lại, thận trọng dường ấy!
Chúng ta phải hiểu kinh văn được ghi chép
như thế đó.
“Nhất
thời” là nói tới lúc đức Phật giảng bộ
kinh này. V́ sao không ghi chép là năm nào, tháng nào, ngày nào đó,
giờ nào đó? V́ thời gian là giả pháp, thời gian là
một thứ giả huyễn. Đă thế, cách tính một
năm của Ấn Độ trong thuở ấy chẳng
giống lịch pháp Trung Hoa, nhưng lịch pháp Trung Hoa cổ
đại và hiện đại lại khác nhau, chẳng bằng
kinh văn nói “nhất thời”,
hàm ư: Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật nói bộ kinh này, vào chính lúc
đó. Chúng ta có cách nh́n như vậy!
Chủ [Thành Tựu] là Phật.
Vị chủ giảng là đức Phật. Chữ “Phật” [ở đây] chỉ
Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải là vị Phật nào
khác.
Địa
[Thành Tựu] (Xứ Thành Tựu) là nơi chốn. Bộ
kinh này được nói ở nơi đâu? “Tại Vương Xá thành, Kỳ
Xà Quật sơn trung”. Thành Vương Xá và núi Kỳ Xà
Quật là hai nơi, đều ở trong cùng một nước.
Tại Ấn Độ, vào thuở ấy, đều thuộc
về nước Ma Kiệt Đà (Magadha). Vương thành
được gọi là thành
Vương Xá (Rāja-gṛha), ở ngay dưới
chân núi. Núi Kỳ Xà Quật (Gṛdhrakūṭa)
là ở trên núi. Khi ấy, đức Phật dẫn rất
nhiều đệ tử sống trên núi. Đức Phật
thuyết pháp tại nơi ấy, đại bộ phận
đệ tử là đệ tử xuất gia. Có lúc đức
Phật cũng ngự đến thành Vương
Xá, đến thành Vương Xá nhằm giáo hóa dân chúng b́nh
phàm. Ở trong núi Kỳ Xà Quật, giáo hóa người xuất
gia là chủ yếu. Đó là hai nơi.
Danh xưng thành Vương
Xá bắt nguồn như thế nào? Bất luận tại
Trung Hoa hay ngoại quốc, phàm là những nơi có lịch
sử nổi tiếng, đều có rất nhiều truyền
thuyết cổ đại. Thành Vương Xá cũng có rất
nhiều truyền thuyết. Ở đây, chẳng cần
phải nói nhiều, chỉ nêu ra một ư nghĩa trong ấy.
Thời cổ, có một nơi mà dân chúng sống trong thành
xây nhà thường bị hỏa hoạn. Nhà cửa xây xong
bèn bị lửa đốt trụi; sau đấy, người
trong thành cảm thấy nơi ấy chẳng tốt,
đi t́m nơi khác, t́m đến chỗ thành Vương
Xá [hiện thời]. Nơi ấy, phía sau có núi Kỳ Xà Quật.
Núi Kỳ Xà Quật gồm năm ṭa núi cao. Phong cảnh
trên núi hết sức tốt đẹp. Xây thành gần núi.
Xây xong, xây cất nhà cửa trong ấy cho quốc
vương cư trụ, nên gọi là Vương Xá Thành,
nhà cửa để vua ở được gọi là
Vương Xá. Vây quanh là nhà của các vị đại thần
và dân chúng. Nơi ấy, phủ khắp mặt đất
là hoa, cỏ, cây cối, phong cảnh hết sức ưu mỹ.
Khi xây xong thành ấy, từ đó trở đi, chẳng có
hỏa tai, thành ấy được gọi là thành
Vương Xá. Trong thời đại của Thích Ca Mâu Ni
Phật, thành ấy là ṭa đại thành lớn nhất Ấn
Độ.
Núi Kỳ Xà Quật, dịch
nghĩa sang tiếng Hán là Linh Thứu Sơn. Núi có h́nh dạng
giống như chim Linh Thứu (靈鷲: chim kên kên), gọi tắt
là Linh Sơn. Mọi người đều biết [điển
tích] “Linh Sơn nhất hội”
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
kinh Pháp Hoa ngay tại Linh Sơn, tức là giảng tại
núi Kỳ Xà Quật. Về sau, Ngài truyền y bát cho tôn giả
Ma Ha Ca Diếp. Chánh pháp nhăn tàng truyền Tổ Sư Thiền
cũng là “Linh Sơn nhất hội”.
“Niêm hoa thị chúng” (拈花示眾: cầm
cành hoa dạy đại chúng) cũng ở trên núi này. Tiếng
Ấn Độ gọi là “Kỳ
Xà Quật sơn”, nghĩa tiếng Hán gọi tắt là
Linh Sơn.
“Chúng”
(眾) là đại
chúng dự hội. “Dữ
đại tỳ-kheo chúng” (Cùng với các vị đại
tỳ-kheo), nghĩa là Thích Ca Mâu Ni Phật và các vị đại
tỳ-kheo. “Đại tỳ-kheo
chúng” chỉ những vị xuất gia, có tất cả
“nhất thiên nhị bách ngũ
thập nhân câu” (một ngàn hai trăm năm mươi
người cùng hợp lại), đều nghe đức Phật
giảng pháp tại đó. Một ngàn hai trăm năm
mươi vị ấy, khi giảng kinh A Di Đà, tôi
đă giới thiệu, chẳng cần phải nói tường
tận. C̣n có “Bồ Tát tam vạn
nhị thiên” (Bồ Tát ba vạn hai ngàn vị), đông
ngần ấy! Bồ Tát lấy ai làm Thượng Thủ?
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát là “pháp vương tử”,
tức là vị Bồ Tát lớn nhất trong các vị Bồ
Tát. Phật là đấng Pháp Vương. Ngài Văn Thù
Sư Lợi có thể trực tiếp gánh vác pháp của
đấng Pháp Vương, hoằng dương phổ biến
khắp nơi, nên là “pháp
vương tử”. Ngài là “thượng
thủ” của chúng sanh trong pháp hội này, mà cũng là
thủ tọa của hội chúng.
Trên
đây là Chứng Tín Tự, c̣n gọi là Thông Tự; từ
mấy điều này, chứng tỏ bộ kinh này là của
Phật gia. Tiếp theo đây, sẽ bắt đầu nói
về Phát Khởi Tự, tức là nhân duyên phát khởi của
bộ kinh này, lần sau lại nói.
Tập 5
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, và các đồng học tham dự buổi
giảng hôm nay. Bây giờ, xin mời các vị mở kinh bổn,
trang thứ nhất, bắt đầu từ hàng thứ ba.
Trước hết, đọc kinh văn một lượt:
(Kinh) Nhĩ thời Vương
Xá đại thành, hữu nhất Thái Tử, danh A Xà Thế,
tùy thuận Điều Đạt ác hữu chi giáo, thâu chấp
phụ vương Tần Bà Sa La, u bế trí ư thất
trùng thất nội, chế chư quần thần, nhất
bất đắc văng.
(經)爾時王舍大城,有一太子,名阿闍世。隨順調達惡友之教,收執父王頻婆娑羅,幽閉置於七重室內,制諸群臣,一不得往。
(Kinh: Khi ấy, trong đại thành Vương Xá,
có một Thái Tử tên là A Xà Thế, tùy thuận lời dạy
của bạn ác là Điều Đạt, bắt giam phụ
vương Tần Bà Sa La, nhốt kín sau bảy tầng cửa,
cấm các quần thần, không ai được đến
đó).
IV.1.2.
Phát Khởi Tự (Biệt Tự) - nghịch sự phát khởi
Bắt đầu nghiên cứu
từ chỗ này. Phần kinh văn vừa mới đọc,
nói theo Khoa Phán, vẫn là Tự Phần. Theo thông lệ, một
bộ kinh có ba bộ phận: Tự Phần, Chánh Tông Phần,
và Lưu Thông Phần. Trong Tự Phần, có Chứng Tín Tự
nhằm chứng minh bộ kinh này là do đức Phật
giảng, cần phải tin sâu; nói thông thường là sáu
thứ thành tựu, trong lần trước, tôi đă nói rồi.
Đoạn kinh văn vừa mới niệm chính là Phát Khởi
Tự. Chứng Tín Tự c̣n gọi là Thông Tự, Phát Khởi
Tự c̣n gọi là Biệt Tự. Thông Tự là những
điều kiện cần phải hội đủ của
bất cứ một bộ kinh nào, Biệt Tự là nhân
duyên phát khởi, các kinh khác nhau. Đoạn kinh niệm khi
mới bắt đầu [buổi giảng hôm nay] là Biệt
Tự, chính là nhân duyên phát khởi của bộ kinh này.
Trước hết, chúng ta
t́m hiểu văn tự đôi chút. “Nhĩ thời” (爾時) là nói tới
lúc nào? Nói tới những điều được nêu
trong phần Chứng Tín Tự trước đó: [“Nhĩ thời”] là lúc Thích Ca
Mâu Ni Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ
Xà Quật, cùng với các vị đại tỳ-kheo, c̣n có
các vị đại Bồ Tát nhóm họp. Khi đó, trong “Vương Xá đại thành”
(Vương Xá đại thành là trong thành thị. Núi Kỳ
Xà Quật là ở trên núi. Đức Phật và hàng đệ
tử xuất gia giảng kinh, phần lớn là giảng
trên núi. Có lúc Ngài cũng đến thành thị để giảng
cho người trong thành).
“Hữu nhất Thái Tử,
danh A Xà Thế”, có một vị Thái Tử tên gọi là A Xà
Thế. Chữ Xà (闍) có hai
cách đọc, một là A Đồ (âm đọc giống
như chữ Đốc, 督) Thế,
hai là A Xà (âm Xà, 蛇) Thế.
Đối với núi Kỳ Xà Quật trong phần trước,
đọc là âm Đốc chẳng sao (tức là đọc
thành Kỳ Đồ Quật), chứ với tên người
th́ thường đọc là Xà. Nhưng c̣n có cách nói khác: Tại
Ấn Độ giống như ở Trung Hoa, tại Trung
Hoa có giọng Bắc B́nh (giọng Bắc Kinh), tức khẩu
âm phương Bắc, và cũng có khẩu âm phương
Nam. Những nơi khác nhau, sẽ có cách nói và ngữ âm khác
nhau. Chữ Xà này, ở Trung Ấn Độ đọc là
Đốc, Bắc Ấn Độ đọc là Xà. Có lúc
đọc theo cả hai kiểu đều được.
Tra trong kinh sách [sẽ thấy] cũng có nói theo mấy kiểu.
Chiếu theo âm đọc trong nguyên
văn, sẽ gồm rất nhiều chữ. Đời
Đường, có một quyển sách tên là Nhất Thiết
Kinh Dịch Âm (cách phiên âm trong hết thảy các kinh)[9],
trong đó, A Xà Thế (Ajātaśatru)
được phiên âm thành A Xà Đa Thiết Đốt Lộ,
sáu chữ, nay chúng ta đơn giản hóa thành A Đồ
Thế hoặc A Xà Thế đều được.
“Tùy thuận Điều
Đạt ác hữu chi giáo” (Tùy thuận lời dạy
của bạn ác Điều Đạt), “tùy thuận” (隨順) là nghe lời.
Điều Đạt là cách phiên âm trong bộ kinh này, một
cách phiên âm khác là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), thật
ra là cùng một người. Kinh văn nói “Điều Đạt ác hữu”. Hai chữ “ác hữu” (惡友) hoàn toàn chẳng phải nói đến những
bạn bè xấu ác của Điều Đạt, mà “ác hữu” là để h́nh
dung Điều Đạt, Điều Đạt là bạn
ác! Sau khi bị ông ta xúi giục, A Xà Thế “thâu chấp phụ vương Tần Bà Sa La”,
[nghĩa là] A Xà Thế liền bắt giữ phụ
vương của ḿnh (bản thân ông ta là Thái Tử. Thái Tử
có thể kế thừa ngôi vua. Hiện thời, ông ta c̣n
chưa nối ngôi làm quốc vương, nghe theo lời bạn
ác, tức bạn bè chẳng tốt, nghe lời hắn), phụ
vương tên là Tần Bà Sa La (Bimbisara), “thâu chấp” (收執) là bắt
giữ. Sau khi đă bắt giữ th́ sao? “U bế trí ư thất trùng thất nội” (Giam
kín trong nhà sau bảy lớp cửa), “u” (幽) là rất
sâu. “U bế” (幽閉): Nhốt ở nơi rất
sâu, ở trong “thất trùng thất
nội”, tức là từng tầng một, giam trong một
căn nhà có bảy tầng cửa. “Chế chư quần thần, nhất bất đắc
văng” (Cấm ngặt quần thần, không ai được
đến đó), “chế”
(制) là
ngăn cấm. Cấm ngặt thần tử trong triều,
nhất loạt chẳng cho phép đến nơi đó.
Trước hết, hăy đọc hiểu văn tự
trong đoạn này có ư nghĩa như vậy đó.
Nhốt phụ vương lại,
không cho phép bất cứ ai đến thăm, lại c̣n nhốt
trong nhà có bảy lớp cửa. Đó là muốn cho cha ḿnh
phải chết đói dần dần, có ư nghĩa giết
cha. V́ sao? Sau khi cha ông ta đă bị giết, chính ḿnh có thể
chánh thức làm vua. Thật ra, sau khi ông ta bắt giữ phụ
vương, đă làm vua trên thực tế. V́ sao phải
làm như vậy? Do bạn ác là Điều Đạt xúi
giục. Mỗi người bọn họ đều có
mưu toan riêng. Điều Đạt bảo ông ta giết
cha là có dụng ư, ông ta bèn nghe lời Điều Đạt!
(Một người có tâm tham sẽ kinh khủng lắm).
Đại
thành Vương Xá lớn đến cỡ nào? Thuở ấy,
tại Trung Ấn Độ, có thể nói đây là một
ngôi thành lớn bậc nhất. Khi ấy, nước Ma Kiệt
Đà (c̣n gọi là nước Ma Già Đà, thường gọi
là “Ma Kiệt Đà quốc”, phiên âm hơi khác nhau), kinh
đô là thành Vương Xá. To cỡ nào? Thông thường,
theo các bản chú giải cổ, cư dân có đến chín ức
người, số lượng ấy quá lớn! Hiện
thời, tại Trung Hoa Đại Lục cũng chưa tới
mười một ức dân cư, thành Vương Xá có
chín ức. Con số này tính theo cách nào? Tại Ấn Độ
thuở ấy, “Ức” có tới
mấy cách nói [khác nhau], tối thiểu là có bốn cách
tính. Kinh văn cũng nói bốn loại:
1) Một loại là coi mười vạn là một
Ức, mười vạn dễ hiểu. Đơn vị,
mười, trăm, ngàn, vạn, mười vạn, mười
vạn là Ức. Đó là một cách.
2) Theo cách nói thứ hai, một trăm vạn là một
Ức.
3) Cách nói thứ ba, một ngàn vạn là một Ức.
4) Cách nói thứ tư, một vạn vạn là một
Ức.
Nay chúng ta chọn phương thức tính toán coi Ức
là một vạn vạn. Dân số ở Trung Hoa Đại
Lục tính theo kiểu một vạn vạn là một Ức.
Mười một ức dân cư quá đông! Cư dân trong
thành Vương Xá là chín ức, nếu tính theo kiểu “một
vạn vạn là một ức”, sẽ lớn khôn cùng, hết
sức chẳng tương xứng! Nếu tính “một
ngàn vạn là một ức”, con số cũng quá to. Kinh
điển tính Ức theo nhiều cách khác nhau, kinh Hoa Nghiêm coi một
ngàn vạn là một ức, Đại Trí Độ Luận
coi mười vạn là một ức. Cổ nhân chú giải
kinh này, quá nửa trích dẫn cách nói trong Đại Trí
Độ Luận. Chúng tôi cũng theo cách nói của Đại
Trí Độ Luận, coi mười vạn là một ức,
“chín ức” là chín
mươi vạn người. Vào thời đó, chín
mươi vạn người sẽ là đại thành.
Thành phố Đài Trung c̣n chưa đến chín mươi
vạn, chúng ta chọn con số ít nhất để nói. Nếu
chọn lựa chiết trung, coi một trăm vạn là Ức,
cũng là khá nhiều! Chín ức là chín trăm vạn
người, chẳng thể xác định! Đây chỉ
là giới thiệu con số, ḥng t́m hiểu đôi chút. Bất
luận là chín mươi vạn hoặc chín trăm vạn,
thành ấy đích xác là rất to. Ngoài ṭa đại thành ấy
c̣n có quốc gia.
Làm quốc vương một
nước lớn như vậy, rất có quyền uy, quá
tốt đẹp! Do vậy, Điều Đạt vừa
xúi giục, Thái Tử ngay lập tức làm theo, bắt giam
cha ḿnh, để chính ḿnh lên làm quốc vương. Làm vua
th́ cứ làm, v́ sao phải giết cha? Từ xưa đến
nay đều là như vậy, phụ vương có thần
tử cũ của phụ vương; chính ḿnh làm quốc
vương, sử dụng toàn là người mới của
chính ḿnh. Nếu chẳng giết chết cha, lỡ cha thoát
ra, c̣n có những thần tử cũ nhất loạt ra
tay, chính ḿnh lại bị lật đổ. Nhất định
là phải sau khi đă giết chết phụ thân, chính ḿnh
mới ổn thỏa, vững vàng. Quư vị nghĩ xem, mục
đích của ông ta là muốn cho cha chết đói, muốn
giết cha!
Trong đề cương
bài giảng đă phát ra ngày hôm nay, đầu tiên là nói tới
“nghịch sự phát khởi”.
Nghịch sự (逆事) là tội
giết cha, giết mẹ trong Ngũ Nghịch đại
tội. Giết cha là một tội lớn trong Ngũ Nghịch.
Lấy chuyện giết cha để làm Phát Khởi Tự
cho bộ kinh này, v́ lẽ nào? Đặc biệt lắm!
Trong các bộ kinh khác, đều chẳng có t́nh h́nh này. V́
sao dùng chuyện ấy để phát khởi? Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng bộ kinh này, được gọi là
Quán Kinh, Quán Kinh dạy người ta quán từng bước.
Khi đă quán thành công, có thể văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Nói chung, kẻ b́nh phàm cảm thấy
thế giới này cũng rất tốt đẹp! Cần
ǵ phải đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới? Lại nói: “Học Phật th́ cứ ở trong thế
giới này, chiếu theo Phật pháp để học,
cũng có thể thành Phật. Cần ǵ phải đến
thế giới Cực Lạc?” Vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật,
đă có những kẻ nghĩ như vậy; cho đến
thời Mạt Pháp hiện tại, kẻ nghĩ như vậy
càng nhiều hơn. V́ thế, đức Phật dùng chuyện
ngỗ nghịch để khiến cho chúng ta biết: Học
Phật trong thế gian này muốn có thành tựu (đừng
nói là thành Phật. Quư vị mong ĺa khỏi lục đạo
luân hồi, giải quyết vấn đề sanh tử
cũng chẳng dễ dàng), trọn chẳng phải là có
thể làm được trong một đời này, ắt
phải đến Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Muốn tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, trước hết
phải hiểu rơ thế giới Sa Bà là thế giới ǵ?
Quư vị thấy đó, con cái do chính ḿnh nuôi nấng, v́ tham
cầu quyền lợi, tham cầu ngôi vua, nó nhẫn tâm sát
hại cha, những kẻ khác chẳng cần nói nữa!
Quư vị ngẫm xem! Thế giới này xấu xa, hèn kém
đến mức độ nào? Hoàn cảnh xấu xa, hèn
kém như thế, ḷng người bại hoại như thế,
mong tu đạo trong cơi này, khi tu hành tiến tới trước
một bước, hoàn cảnh xấu ác sẽ lôi chúng ta
lui lại hai bước! Do vậy, dạy chúng ta phải
hiểu rơ t́nh huống ấy, nhận biết thế gian
này hết sức xấu xa, hèn kém, ắt phải ĺa khỏi
thế gian này, đến thế giới Cực Lạc
thanh tịnh trang nghiêm.
Tới cơi kia, tu hành hết sức
mau chóng! Trong thế giới ấy, chẳng có ba ác đạo;
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là ba loại ác
đạo. V́ sao trong cơi kia chẳng có ba ác đạo? Phàm
những ai sanh về đó, đều là người niệm
Phật. Người niệm Phật nguyện lực phù hợp
với A Di Đà Phật th́ mới có thể đến sống
trong hoàn cảnh ấy. Thế giới của chúng ta có ba
ác đạo, chẳng cần đợi đến sau khi chết
sẽ đọa lạc trong tam đồ. Rất nhiều
kẻ c̣n đang sống sờ sờ, mà tâm họ đă ở
ngay trong tam đồ. Tu đạo trong thế giới này
quá khó khăn! Do vậy, dùng chuyện thuộc đại tội
ác Ngũ Nghịch để làm Phát Khởi Tự cho bộ
kinh này, ḥng khiến cho chúng ta là người học Tịnh
Độ Tông sẽ nhàm ĺa, sẽ chán ngán, ghét bỏ thế
gian này, sẽ phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc.
V́ thế, trong đề cương bài giảng, sau chữ
“nghịch sự phát khởi”
có ghi “chương cực ác” (彰極惡),
[nghĩa là] phô bày chuyện đại ác cùng cực ấy,
khiến cho mọi người đều hiểu rơ. Sau
khi đă hiểu rơ, “linh yếm
khí” (令厭棄: khiến
cho chán bỏ), dạy người học Phật đừng
nên tham luyến thế gian này. Tham luyến thế gian này, sẽ
chẳng thể văng sanh, nhất định là phải nhàm
bỏ thế giới này th́ mới có thể văng sanh thế
giới kia. Do có dụng ư này, cho nên mới dùng chuyện này
để làm Phát Khởi Tự.
Chúng ta học Phật, bất
luận là người sơ học, hay người đă
học lâu năm, điều quan trọng nhất là phải
hiểu rơ nhân quả. Nhân quả chẳng phải là nói
đến nhân quả trong một thời gian ngắn ngủi
trước mắt. Nhất định là phải nói tới
nhân quả ba đời. Nhân quả ba đời: Đối
với bất cứ chúng sanh nào, đời này là đời
hiện tại. Trước đời này là đời
trước, trước đời trước lại có
đời trước nữa, tức đời quá khứ.
Bất cứ đời nào, thọ mạng của chúng
sanh đều là [có hạn lượng] nhất định.
Sau khi đă chết, sẽ lại chuyển sang đời
khác, tức đời vị lai. Quá khứ, hiện tại,
vị lai là “tam thế”. Kẻ
b́nh phàm phủ định đời quá khứ, họ
cũng phủ định đời vị lai, chỉ thừa
nhận sanh mạng trong khoảng thời gian ngắn ngủi
vài chục năm; đó là tà tri tà kiến. Có tà kiến ấy,
học Phật sẽ chẳng có cách nào học được,
chẳng thể nhập môn. Do vậy, học Phật th́ ắt
là phải có quan niệm “tam thế”.
Đă có quan niệm tam thế, sau đấy mới có thể
hướng tới Phật pháp nghiên cứu. Trước hết,
chúng ta phải hiểu rơ chuyện này. Đối với bất
luận kẻ sơ học hay người tu lâu, đều
phải nghiên cứu tam thế nhân quả.
Nếu nghiên cứu tam thế
nhân quả, sẽ tin tưởng có tam thế nhân quả.
V́ chúng ta học Phật nhằm giải quyết vấn
đề sanh sanh tử tử từ vô thỉ tới nay.
Để giải quyết vấn đề sanh tử, ắt
phải t́m ṭi, hiểu rơ đường hướng của
nó. Người ta thường nói: Sanh mạng của loài
người chúng ta giống như con sông lớn Trường
Giang, nguồn xa, ḍng dài. Nếu dùng Trường Giang và
Hoàng Hà để nói, muốn giải quyết vấn đề
lũ lụt của Trường Giang và Hoàng Hà, nhất
định là phải nghiên cứu tận nơi bắt nguồn
của Trường Giang và Hoàng Hà, chúng có những chi
lưu chảy qua những nơi nào, trong tương lai sẽ
hợp lưu ở nơi đâu để tuôn ra biển.
Phải hiểu rơ toàn bộ, sau đấy, quư vị mới
có thể thật sự điều ḥa sông ng̣i. Nếu nói
quư vị chỉ nh́n một đoạn trung du của Hoàng
Hà, hoặc một đoạn trung du của Trường
Giang, không cần biết đến thượng du, ta chẳng
quan tâm tới nó, hạ du chảy đến nơi nào, ta
cũng mặc kệ, chỉ quan tâm đoạn sông này. Quư
vị nghiên cứu kiểu đó, làm thế nào cũng chẳng
có cách nào giải quyết vấn đề lũ lụt!
Nói theo tỷ dụ ấy, chúng ta mong giải quyết vấn
đề sanh tử, mà chẳng quan tâm tới quá khứ,
cũng như bất cần vị lai (phủ định
quá khứ lẫn vị lai), ta chỉ thừa nhận
đời này, làm sao có thể giải quyết vấn
đề sanh tử cho được? Ngay cả những
hiện tượng sự thật như chính ḿnh do đâu
mà có, trong tương lai sẽ ra đi như thế nào,
đều chẳng khảo sát rơ ràng! Giống như bác
sĩ chữa bệnh, vẫn chưa biết rơ bệnh trạng,
làm sao có thể ra toa cắt thuốc cho được? Làm
sao có thể trị liệu được? Đúng là chuyện
chẳng thể làm được! Do đó, muốn giải
quyết vấn đề sanh tử, ắt phải hiểu
rơ chuyện sanh tử của mỗi người chúng ta.
Chuyện quá khứ, hiện tại, vị lai, hiểu càng
nhiều càng tốt. Biết càng nhiều, quư vị càng nắm
được nhiều tài liệu. Quư vị nghiên cứu
bất cứ loại học vấn nào, trong tay nắm giữ
tài liệu càng nhiều càng tốt! Chẳng giới hạn
trong một thời gian hay không gian nào! Đối với vấn
đề sanh tử của chính ḿnh, chúng ta nắm giữ
tài liệu càng nhiều, càng dễ giải quyết vấn
đề sanh tử của chính ḿnh. Dựa trên các lư do này,
chúng ta phải đổ công dốc sức nơi tam thế
nhân quả. Môn học vấn này chẳng phải là như
những kẻ b́nh phàm đă nói. Có những kẻ phản
đối nhân quả, cố ư bảo nhân quả là chuyện
rất nông cạn!
Chính ḿnh đối với
nhân quả có thể hiểu rơ hết thảy, chẳng cần
đắc Túc Mạng Thông. Do đâu mà có Túc Mạng Thông?
Túc Mạng Thông là do nhập Định mà có, hiểu rơ toàn
bộ học vấn và kinh văn, tri kiến đều giống
như nhau. Dưới đây, sẽ nói tới tiền nhân
của Thái Tử, tức là những chuyện trong quá khứ.
Nhất định là phải chẳng có thành kiến đối
với tam thế nhân quả th́ mới thể tiến nhập
t́nh huống được nói sau đây!
IV.1.2.1. A
Xà Thế
Bây giờ hăy nh́n vào đề
cương bài giảng. Thái Tử A Xà Thế, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Vị Sanh Oán (未生怨), [nghĩa là] khi c̣n
chưa sanh ra, đă mang nỗi oán hận. Có thể thấy
là người trong thế gian này mong có con cái mà chẳng hiểu
nhân quả. Nếu hiểu nhân quả, quan hệ giữa
cha và con, một là quan hệ ân, tức báo ân; một là quan
hệ oán, tức báo oán. Người thế gian chúng ta bất
quá là ân ân oán oán. Chẳng có ân oán, sẽ không thể ở
cùng một chỗ! Vị Sanh Oán là c̣n chưa sanh ra mà đă
kết oán. Một ư nghĩa khác nữa là Chiết Chỉ (折指), tức là ngón tay găy một
đốt (lóng). V́ sao gọi là Vị Sanh Oán, lại c̣n gọi
là Chiết Chỉ? Theo chú giải của tổ sư thời
cổ, phụ vương của ông ta vốn chẳng có
con cái, nghĩ “ta có một quốc gia to lớn như vậy.
Trong tương lai, sau khi đă chết, chẳng có con cái,
quốc gia sẽ giao cho ai kế thừa?” Đi khắp
nơi cầu thần, thần cũng chẳng thể ban
cho nhà vua một đứa con! Về sau, có một người
thầy bói xem tướng, tâu với lăo vương: “Ở
trong núi nọ, có một người tu thần tiên (người
Ấn Độ tu thần tiên rất đông. Trung Hoa
cũng có kẻ tu thần tiên), chẳng bao lâu sẽ qua
đời, xả mạng. Sau khi tiên nhân mạng chung, trong
tương lai, sẽ chuyển sanh vào nhà Ngài, làm con của
bệ hạ”. Quốc vương nghe nói rất vui thích, hỏi
thầy bói: “Vị tiên nhân ấy c̣n phải bao lâu nữa mới
chết?” Thầy tướng nói: “C̣n phải ba năm nữa!”
Quốc vương nói: “Úi chào! Thời gian ba năm quá dài”.
Khi một người mong cầu thứ ǵ, ước sao
cầu được ngay lập tức! Nhà vua cảm thấy
thời gian quá dài, ngay lập tức, sai sứ giả lên
núi t́m. Quả nhiên có một vị tiên nhân ở đấy,
[sứ giả] liền đem ư của nhà vua nói với
người ấy: “Ba năm nữa, ông sẽ chết, sẽ
làm Thái Tử trong hoàng cung. Nay lăo vương đợi chẳng
kịp, chẳng cần chờ ba năm, bây giờ, hăy chết
ngay lập tức đi thôi!” Chết làm sao được?
Tiên nhân bảo: “Thọ mạng của ta đáng nên sống
ba năm nữa, ta sẽ sống ba năm. Ngươi kêu
ta chết bây giờ, ta chẳng làm được!” Sứ
giả quay về, tâu lên lăo vương. Lăo vương phán:
“Chuyện ấy chẳng do hắn [quyết định]!
Ta là quốc vương một nước, ta muốn làm như
thế nào th́ làm như thế ấy! Ngươi lại
sai người đến bảo hắn, hắn nhận lời
là tốt nhất. Nếu chẳng nhận lời, cứ giết
phứt hắn đi. Sau khi đă giết chết,
đương nhiên là hắn sẽ chuyển thế”. Lại
sai người đến, tiên nhân vẫn chẳng nhận
lời. Người phụng mạng đến [khuyên dụ]
lần thứ hai bèn làm theo lệnh vua, muốn giết chết
tiên nhân. Tiên nhân chẳng có cách nào, bèn nói: “Nay ngươi hạ
lệnh kết thúc sanh mạng của ta trước thời
gian. Trong tương lai, ta chuyển thế làm Thái Tử của
ngươi, ta cũng sẽ dùng phương thức này, hạ
lệnh giết hại ngươi!” Sau khi nói xong, [tiên nhân]
bị sứ giả giết chết. Sau khi bị giết,
quả nhiên chuyển thế, chuyển sanh vào nhà quốc
vương. Lúc đó, bên kia vừa giết, bên này, phu nhân của
quốc vương bèn cấn thai!
Người hiểu rơ nhân quả
sẽ được thọ dụng rất lớn. Tỷ
như nói tới vị quốc vương ấy, đă
được người khác cho biết, sau ba năm,
tiên nhân sẽ chuyển thế, sanh vào nhà quốc
vương, [tiên nhân] có chạy thoát
đi đâu hay không? Thoát chẳng được! [Thế
mà] nhà vua chẳng chờ được! Do chờ chẳng
nổi, bèn tạo nghiệp sát nhân! Do vậy, chúng ta là
người hiểu nhân quả, sẽ thản nhiên,
chẳng cần phải cưỡng cầu. Chuyện
đáng tới bèn tới, chuyện chẳng tới th́
cưỡng cầu cũng chẳng được! Nhà vua
chẳng hiểu đạo lư này bèn kết oán. Phu nhân hoài
thai, quốc vương rất vui sướng, mời thầy
tướng số đến xem: “Xin coi thử phu nhân mang
thai là nam hay nữ?” Thầy tướng số xem thấy
là nam. Quả nhiên là tuyệt diệu quá! Sẽ có người
thừa kế, quốc vương hết sức hoan hỷ.
Thầy tướng số ngay lập tức tâu với
vua: “Bệ hạ đừng vội mừng. Đứa trẻ
này sanh ra cố nhiên là Thái Tử của bệ hạ, là con
trai. Trong tương lai, nó sẽ gây hại cho cha mẹ, rất
bất lợi!” Quốc vương nói: “Có hại chi
đâu! Nhiều lắm là ta đem tất cả hết thảy
mọi thứ trong nước nhường cho nó, mục
đích sanh ra nó là để cho nó kế thừa ngôi vua, chẳng
hại chi cả”. Thầy tướng số nói: “Không chỉ
là như vậy! Bệ hạ trao quyền vị cho nó,
trong tương lai, nó c̣n muốn lấy mạng của bệ
hạ, chuyện ấy chẳng tránh được
đâu!” Nói như vậy, nhà vua sanh ḷng kinh hoảng, trong
tâm sợ hăi, chẳng cần đứa nhỏ này nữa.
Chẳng dám nói với thầy tướng số, mà
cũng chẳng dám nói với bất cứ ai, bí mật
thương lượng với phu nhân, họ muốn chết
già trong tương lai. Chẳng cần đến thai nhi
này nữa, làm như thế nào đây? Sanh th́ vẫn phải
sanh, trong tương lai, khi đă sanh ra, nghĩ cách cho nó từ
trên cao ngă xuống, vừa sanh ra đă bị ngă chết, ai
biết? Thương lượng xong xuôi, đến khi
sanh nở, phu nhân cố ư đến chỗ cao để
sanh nở, quả nhiên đứa bé rớt xuống, úi trời!
Nhưng mạng Thái Tử chẳng đáng chết, rớt
xuống mà chẳng chết! Chỉ là ngón tay bị găy một
lóng ở ngón út. V́ thế, cũng gọi là Chiết Chỉ.
Do tên gọi ấy chẳng
dễ nghe, sau khi lớn lên, người trong cung đ́nh lại
đặt cho ông ta một tên nữa, dịch sang nghĩa
tiếng Hán là Thiện Kiến (善見: Thiện là rất tốt, Kiến là chữ
Kiến trong “tri kiến”).
Thiện Kiến có nghĩa là người rất thông minh,
thấy rất nhiều sự việc, vừa trông thấy
bèn hiểu ngay. Thái Tử cũng đích xác là như vậy!
Đầu óc suy nghĩ rất mẫn tiệp, rất nhanh
chóng, v́ kiếp trước, ông ta đă học đạo
thần tiên. Do vậy, hết sức thông minh. V́ thế, có
tên gọi khác là Thiện Kiến.
IV.1.2.2. Điều
Đạt
Lại xem tới Điều
Đạt. Một cách phiên âm khác là Đề Bà Đạt
Đa (mọi người quen thuộc với tên gọi
này hơn). Ông ta là tùng đệ (em họ) của Thích Ca
Mâu Ni Phật; cùng ông nội, khác cha mẹ th́ gọi là “tùng đệ” (從弟). Điều
Đạt hết sức ganh tỵ đức Phật, tạo
rất nhiều chuyện tội ác hết sức to lớn.
Ông ta là em họ đức Phật, tức là con ai? Là con của
Hộc Phạn Vương (Dhotodana), ông ta
cũng là anh của tôn giả A Nan. Chúng ta biết: Tôn giả
A Nan theo Thích Ca Mâu Ni Phật để học Phật, học
rất khá. Vị này là người hết sức thông minh,
có trí nhớ tốt nhất, nghe bất cứ pháp ǵ
cũng đều vĩnh viễn chẳng quên mất. Kinh
điển Phật giáo đều do Ngài đọc thuộc
ḷng ra, sau đấy mới được ghi chép lại.
Điều Đạt là anh của tôn giả A Nan; nói cách
khác, tôn giả A Nan và Điều Đạt đều là
con của Hộc Phạn Vương. Hộc Phạn
Vương là anh em của Tịnh Phạn Vương (Śuddhodana). Anh em Tịnh Phạn Vương gồm bảy
người, Hộc Phạn Vương là một trong số
đó. Ông ta (Điều Đạt) và đức Phật
có quan hệ anh em họ.
Điều Đạt là phiên âm từ tiếng Phạn, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Thiên Nhiệt (天熱: hai chữ Nhiệt
Thiên đảo ngược lại sẽ là Thiên Nhiệt).
Có
thuyết nói ông ta sanh nhằm lúc khí trời rất nóng. Có
thuyết nói khi ông ta sanh ra, chư thiên đều cảm thấy
nóng bức. Trong nhân gian, vào mùa Hè, chúng ta cảm thấy nóng
bức, trên cơi trời v́ sao mà cảm thấy nóng bức?
Khí hậu trên cơi trời tốt nhất, nhưng khi Điều
Đạt sanh ra, ngay cả người trên cơi trời cũng
đều cảm thấy nóng bức, có thể thấy là
người này chẳng phải là thiện nhân. V́ thế,
có tên là Điều Đạt.
Sau khi đă trưởng
thành, ông ta cũng xuất gia học đạo, học
đến mức độ nào? Ông ta hết sức thông
minh, học Phật pháp rất nhiều. Ngoài Phật pháp
ra, tại Ấn Độ vào thuở đó, có kinh điển
của Bà La Môn giáo, ông ta đều ghi nhớ, học rất
ư là nhiều. Sau đó, ông ta xin Thích Ca Mâu Ni Phật dạy
thần thông. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo: “Ông chẳng cần
học thần thông vội, trước hết hăy tu Quán”.
Quán ǵ? Quán pháp thế gian, quán vạn sự vạn vật
trong thế gian. Tu Vô Thường Quán: Bất cứ sự
vật nào trong thế gian cũng đều chẳng tồn
tại vĩnh hằng, đều là sanh sanh diệt diệt.
Phật pháp thường nói “vạn
pháp vô thường”. Nói tóm lại, ông phải thật sự
thể nghiệm, chuyển biến cảnh giới, phải
dùng công phu, hành Vô Thường Quán. Đức Phật bảo
ông ta: “Ông hăy tu Vô Thường Quán”, đó là hảo ư của
đức Phật. Đức Phật biết ông chẳng
thể học thần thông. Học thần thông sẽ có hại
cho bản thân ông ta trong tương lai, nhưng ông ta đâu
có nghe! Đức Phật dạy ông ta học Vô Thường
Quán, ông ta không học. Đức Phật không dạy ông ta thần
thông, nhưng đức Phật c̣n có rất nhiều đại
đệ tử. Ông ta t́m đến những vị đại
đệ tử ấy. Đại đệ tử của
đức Phật có rất nhiều vị có thần
thông, như tôn giả Mục Kiền Liên là vị có thần
thông [bậc nhất]; nhưng những vị đại
đệ tử ấy đều chẳng dạy ông ta thần
thông, cũng là do đều biết sau khi ông ta học thần
thông, trong tương lai, sẽ chẳng biết sử dụng
vào chỗ chánh đáng! Cuối cùng, làm như thế nào? Ông
ta là anh ngài A Nan, A Nan có thần thông. Tuy có thần thông,
nhưng [ngài A Nan] chẳng có Tha Tâm Thông, chẳng biết
chuyện vị lai của Điều Đạt, mà
cũng chẳng hiểu tâm lư ông ta. Họ lại là anh em,
có t́nh cảm anh em. Anh đă yêu cầu, ngài A Nan liền nói
cho ông ta biết phương pháp.
Sau khi đă được dạy,
ông ta bèn lên núi, chiếu theo phương pháp ấy để
tu tập, kết quả là tu thành công. Các thứ thần
thông như Thần Túc Thông v.v… đều học được.
Sau khi học hiểu, ông ta bèn ganh tỵ. Theo chú giải
kinh văn, đức Phật thành Phật có ba mươi
hai tướng. Điều Đạt có bản lănh rất
lớn, ông ta có ba mươi tướng, đức Phật
có ba mươi hai tướng, [tức là] ông ta chỉ ít
hơn hai tướng, lỗi lạc lắm! Ông ta chỉ
kém Phật có hai tướng, [cứ tưởng] tiến
thêm bước nữa là có thể thành Phật. Tự ḿnh
cảm thấy ta vừa có thần thông, vừa có tướng
hảo, tuyệt vời quá! Ông ta thấy đức Phật
đến chỗ quốc vương, được quốc
vương tôn kính, cúng dường đủ thứ, trong
tâm [Điều Đạt] chẳng buông xuống được,
tâm tham dấy lên! Đức Phật có thể được
cúng dường như vậy, ta cũng có bản lănh ấy,
vừa có thần thông, vừa có tướng hảo, gần
như là sắp thành Phật, ta cũng phải nên có những
thứ cúng dường ấy. Ông ta dấy lên chủ ư, tới
thuyết phục Thái Tử A Xà Thế, dùng thần thông
để thuyết phục Thái Tử. Thuyết phục
như thế nào? Đương nhiên là dùng rất nhiều
thần thông, nói cho Thái Tử động tâm. Sau khi đă
thuyết phục thành công, Thái Tử nhận lời, phụ
vương dùng lễ vật cúng dường đức Phật
như thế nào, Thái Tử cũng dùng những thứ giống
hệt như vậy để cúng dường Điều
Đạt.
Vừa được cúng
dường, trong tâm bèn dấy lên kiêu ngạo. Có một lần,
Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong đại pháp hội, rất
nhiều người đến nghe đức Phật giảng
pháp, ông ta đi tới bảo đức Phật: “Lăo nhân
gia đă già rồi, hăy nên nghỉ hưu. Hăy giao những
thính chúng này cho tôi! Tôi chịu cực thay cho Ngài, tôi ra lănh
chúng.” Thích Ca Mâu Ni Phật quở trách ông ta một chập.
Điều Đạt chẳng đạt được
mục đích, bèn xúc xiểm Thái Tử, bảo Thái Tử:
“Ngài tới khi nào mới làm quốc vương? Chẳng
thà ngay bây giờ giết quách quốc vương đi, c̣n
thần th́ sao? Thần cũng chờ không nổi! Thần
sẽ giết Thích Ca Mâu Ni Phật. Thần làm tân Phật, Ngài
làm tân vương. Hai người chúng ta như vậy, một
là tôn giáo, một là chánh trị, chúng ta hợp tác với
nhau”. Thái Tử vừa nghe nói phải giết cha, cảm thấy
làm chuyện này chẳng được. Thái Tử chẳng
tin lời ông ta nói. Điều Đạt nói: “Điện
hạ chẳng tin hả? Thần nói cho điện hạ
nghe nhé. V́ sao điện hạ bị gọi là Vị Sanh
Oán? V́ sao ngón tay của điện hạ bị găy?” Bèn
đem nguyên nhân trong quá khứ, nói từng chuyện cho Thái
Tử nghe. Vừa bị xúc xiểm, Thái Tử bèn động
tâm. “Tùy thuận Điều
Đạt ác hữu chi giáo” là như thế đó.
IV.1.2.3. Tham
tâm thoái đạo
Đă nói xong nhân duyên. Các vị
thấy trong đề cương bài giảng, điều
kế tiếp là “tham tâm thoái
đạo”. Chúng ta bất luận là ai, chớ nên có tâm
tham! Như Điều Đạt đă đạt tới
mức độ đắc Ngũ Thông, kết quả ra
sao? Phải hiểu rơ “chúng sanh vốn có tâm tham”, bất cứ
chúng sanh nào cũng đều vốn sẵn có tham, sân, si,
Điều Đạt cũng chẳng phải là ngoại
lệ. “Đắc nhi tri túc giả
thiểu” (Người đă đạt được
mà biết đủ th́ ít), tâm tham là dù đă đạt được
vẫn chẳng tri túc, vĩnh viễn chẳng biết
đủ! “Đắc nhi
tăng tham giả đa” (Kẻ đă đạt
được mà ḷng tham tăng thêm th́ nhiều): Sau khi
đă có được, [vẫn mong có thêm] càng nhiều càng
tốt, kẻ b́nh phàm đều là như vậy!
Cổ nhân có một tỷ dụ,
trong Tứ Thiếp Sớ, tức bản chú giải [Quán
Kinh] của Thiện Đạo đại sư có viết:
“Dĩ trượng đả
ác cẩu tỵ” (Dùng gậy đập mũi chó dữ).
Có một người dùng gậy chống để đập
vào mũi một con chó dữ, “chuyển
tăng cẩu ác” (khiến chó dữ hơn). Chẳng
đập vào mũi con chó đó th́ thôi. Vừa đập
vào mũi nó, chó càng nổi tánh hung dữ hơn! Điều
này tỷ dụ ǵ? “Lợi
dưỡng dụ trượng”, nghĩa là danh tiếng,
lợi dưỡng ví như cái gậy đó. “Tham tâm dụ cẩu tỵ”:
Tâm tham ví như cái mũi của con chó dữ. Càng dùng lợi
dưỡng để cung phụng, bồi dưỡng cái
tâm tham, tâm tham vĩnh viễn chẳng đủ, càng tham
nhiều hơn! Điều Đạt bị hại là do
đạt được lợi dưỡng từ Thái Tử.
“Điều Đạt đắc
lợi”, do được hưởng nhiều quá nên mới
“bối đạo khởi ác”
(nghịch đạo, dấy ḷng làm ác). Càng về sau, càng tạo
tội ác khôn cùng! Ông ta muốn hại Phật, c̣n phá sự
ḥa hợp của Tăng đoàn, kết quả là “sanh hăm địa ngục” (生陷地獄), tức là đọa hăm
trong địa ngục ngay trong khi c̣n sống!
Thấy những nhân duyên ấy,
nhân quả và tâm tham, hăy ngẫm xem thế gian này là ǵ? Thời
kỳ Mạt Pháp trong thế gian này càng dữ dội. Hiện
thời, chúng ta chẳng học Tịnh Độ, chẳng
cầu văng sanh thế giới Cực Lạc, mong thành tựu
ngay trong đời này nơi thế gian này, đừng nằm
mơ! Đó là chuyện chẳng thể thực hiện
được! Ngày nay, mong thành tựu liễu sanh thoát tử
ngay trong đời này, chỉ có học pháp môn Tịnh
Độ. Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này th́ ngừng!
Tập 6
Thưa các vị giáo sư,
các vị đại đức, các vị đồng tu,
các vị đồng học trong giảng ṭa, xin mọi
người mở kinh bổn, trang thứ nhất. Xem từ
hai chữ cuối ở phần sau trong hàng thứ tư.
Trước hết, đọc kinh văn một lượt.
(Kinh) Quốc thái phu nhân, danh Vi
Đề Hy, cung kính đại vương, tháo dục
thanh tịnh, dĩ tô mật ḥa sao, dụng đồ kỳ
thân, chư anh lạc trung, thịnh bồ đào
tương, mật dĩ thượng vương. Nhĩ
thời đại vương, thực sao ẩm
tương, cầu thủy thấu khẩu. Thấu khẩu
tất dĩ, hiệp chưởng cung kính, hướng Kỳ
Xà Quật sơn, dao lễ Thế Tôn, nhi tác thị ngôn:
“Đại Mục Kiền Liên, thị ngô thân hữu, nguyện
hưng từ bi, thọ ngă bát giới”. Thời Mục Kiền
Liên, như ưng chuẩn phi, tật chí vương sở.
Nhật nhật như thị, thọ vương bát giới.
Thế Tôn diệc khiển tôn giả Phú Lâu Na, vị
vương thuyết pháp. Như thị thời gian, kinh tam
thất nhật, vương thực sao mật, đắc
văn pháp cố, nhan sắc ḥa duyệt.
(經)國太夫人,名韋提希。恭敬大王,澡浴清淨,以酥蜜和麨,用塗其身。諸瓔珞中,盛蒲萄漿,密以上王。爾時大王,食麨飲漿,求水漱口。漱口畢已,合掌恭敬,向耆闍崛山,遙禮世尊,而作是言:大目犍連,是吾親友,願興慈悲,授我八戒。時目犍連,如鷹隼飛,疾至王所。日日如是,授王八戒。世尊亦遣尊者富樓那,為王說法。如是時間,經三七日,王食麨蜜,得聞法故,顏色和悅。
(Kinh: Quốc thái phu nhân tên là Vi Đề Hy, cung
kính đại vương, tắm gội thanh tịnh, lấy
tô mật ḥa với bột rang để bôi lên thân. Trong các
chuỗi ngọc, đựng nước nho, ngầm dâng lên
vua. Lúc bấy giờ, đại vương, ăn bột
rang, uống nước ép, xin nước sức miệng.
Súc miệng xong xuôi, chắp tay cung kính, hướng về núi Kỳ
Xà Quật, bái vọng đức Thế Tôn, bạch như
thế này: “Ngài Đại Mục Kiền Liên là thân hữu
của con, nguyện dấy ḷng từ bi, truyền cho con
Bát Quan Trai Giới”. Khi ấy, ngài Mục Kiền Liên
như chim ưng, chim cắt bay liệng, nhanh chóng đến
chỗ nhà vua, mỗi ngày đều như thế, truyền
Bát Quan Trai Giới cho nhà vua. Đức Thế Tôn cũng
sai tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp cho nhà vua. Hằng ngày như thế, trải qua hai
mươi mốt ngày, vua do ăn bột rang và mật,
được nghe pháp, nên vẻ mặt ôn ḥa, vui sướng).
Lần trước đă
nói: Em họ đức Phật là Điều Đạt
xúi giục Thái Tử A Xà Thế giết cha, c̣n chính ông ta sẽ
giết hại Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai người bọn
họ giao ước: Một người làm tân quốc
vương, một người làm tân Phật. Do đó, hai
người bèn chia nhau tạo đại tội Ngũ Nghịch.
Thái Tử A Xà Thế làm theo ư của Điều Đạt,
nhốt chặt phụ vương!
C̣n Đề Bà Đạt
Đa (tức là Điều Đạt) hăm hại Phật
như thế nào? Ông ta bảo Thái Tử A Xà Thế thả
năm trăm con voi. Ấn Độ có rất nhiều
voi, thả voi tấn công Thích Ca Mâu Ni Phật, mong giết
chết Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
nhập Định, nhập từ bi đại định.
Trong khi nhập Định, Ngài duỗi năm ngón tay phải,
năm trăm con voi bèn thấy là năm con mănh sư (猛獅: sư tử
hung bạo) hiện ra. Sư tử là vua các loài thú; năm
trăm con voi thấy năm con sư tử hiện ra, bèn
ngay lập tức quỳ xuống. Không chỉ là chẳng
sát hại Thích Ca Mâu Ni Phật, mà ngược lại,
hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật quỳ lạy. Sau
đấy, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo các đệ tử:
“Ngón tay của ta há có sư tử? Chỉ bất quá là ngón
tay mà thôi!” Đức Phật dùng ḷng từ bi, duỗi ngón
tay, trong mắt voi thấy là sư tử. V́ thế, có thể
thấy là sức mạnh tà ác to cỡ nào, chẳng thể
chống nổi từ bi. Hễ tâm từ bi phát ra, có thể
vượt trỗi hết thảy sức mạnh tà ác.
Đó là một chuyện. Sau đó, Điều Đạt
vẫn chưa từ bỏ ư định. Có một lần,
ông ta nghĩ cách dùng thuốc độc rất mạnh giấu
trong móng tay của chính ḿnh, chuẩn bị đến chỗ
đức Phật để lễ bái Phật. Chúng ta biết
lạy Phật th́ thông thường dùng hai bàn tay ôm chân
đức Phật. Ông ta nghĩ khi hai tay ôm chân đức Phật,
sẽ thừa cơ hội trút thuốc độc giấu
trong móng tay ra, mong hạ độc giết chết Thích Ca
Mâu Ni Phật. Dụng tâm này hết sức độc dữ!
Ông ta c̣n chưa đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật,
đang đi nửa đường, đất ngay lập
tức nứt ra, cả người liền sụp xuống
đất. Kinh Phật nói là ông ta đọa trong địa
ngục ngay trong khi c̣n sống. Địa ngục Hỏa
Triệt là kết quả của ông ta.
Nói tới chỗ này, tổ
sư tông Thiên Thai có chú giải một điều rất
quan trọng. Tổ sư rất sợ người học
kinh chúng ta thấy chỗ này, sẽ nẩy sanh thái độ
nghiêm khắc chỉ trích Điều Đạt và Thái Tử
A Xà Thế, ngỡ họ sai trái. Ngài bèn chú giải, chú giải
như thế nào? Những người ấy đều chẳng
phải là phàm nhân, mà đều là bậc đại quyền
thị hiện. Nói là “đại
quyền thị hiện” (大權示現), nghĩa
là họ đều là bậc đại Bồ Tát biểu
diễn cho phàm phu chúng sanh trông thấy. Chẳng biểu diễn
như vậy, phàm phu chúng sanh chẳng thấy nhân quả
rơ rệt như thế! Lại nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật
thuyết pháp, có rất nhiều phương pháp. Chẳng
hạn như khi giảng bộ kinh này, chẳng phải là
chỉ dùng miệng để giảng, mà c̣n sắp đặt
chu đáo các thứ sự thật, ḥng khiến cho người
nghe pháp trông thấy rơ ràng, tăng thêm ấn tượng
cho họ, khiến họ nghe xong, [có cảm nhận] hết
sức sâu xa. Do vậy, khởi đầu bằng phần
Phát Khởi Tự có nghịch tử, có Điều Đạt
là đồ chúng đại nghịch bất đạo ([những
hành vi, biểu hiện của] đồ chúng theo học với
Thích Ca Mâu Ni Phật đều là một thứ phương
tiện thị hiện hết sức thiện xảo
để thuyết pháp của đức Phật), chúng ta
phải t́m hiểu tầng [ư nghĩa] này. Hai điểm
trên đây nhằm bổ sung cho lần giảng trước.
Hôm nay, bắt đầu bằng
đoạn kinh văn này. “Quốc
thái phu nhân” là nói tới thái phu nhân, bà ta vốn là phu nhân
của quốc vương. Do Thái Tử đă giam kín phụ
vương, chính ḿnh làm tân vương, bản thân quốc
vương có phu nhân. Mẹ của tân vương bèn
được gọi là thái phu nhân (太夫人). Quốc
thái phu tên là Vi Đề Hy. Vi Đề Hy (Vaidehi) cũng là
phiên âm từ tiếng Ấn Độ, ư nghĩa theo tiếng
Hán là Tư Duy. Tư Duy là ǵ? Một người rất giỏi
sử dụng năng lực tư duy, có nghĩa là sức
tư duy, suy xét của bà ta rất mạnh, cũng có
nghĩa là hễ gặp bất cứ chuyện ǵ, bà đều
suy nghĩ rất chu đáo. Tiếng Ấn Độ là Vi
Đề Hy.
Bà ta “cung kính đại vương”, cổ nhân đọc
chữ Đại (大) trong “đại vương” là Thái
(太), [lư do là v́] về sau, người ta
nghĩ chữ Đại chẳng đủ tôn kính, thêm một
chấm nữa ở phía dưới, cho nên mới có chữ
Thái. Thật ra, vào thời cổ, chữ Đại là chữ
Thái, âm đọc cũng là Thái. Hiện thời, do có chữ
Thái riêng biệt, nên thường đọc là Đại,
chẳng đọc là Thái. Thậm chí có người đọc
thành Đăi (待), chúng tôi không đọc là Đăi, chúng tôi
đọc theo cách đọc hiện thời [là Đại].
Chữ Đại Vương chỉ chồng của phu
nhân Vi Đề Hy, vốn là quốc vương. Bà ta hết
sức cung kính nhà vua. Trung Hoa vào thời cổ cũng giống
như thế, bất luận là b́nh dân cũng thế, mà
người có địa vị cũng thế. Vợ chồng
“tương kính” (相敬), tức là cung kính lẫn nhau. Chẳng giống
như vợ chồng hiện thời, đem chữ Yêu
đặt ra trước. Ví như tại Đại Lục
hiện thời, vợ chồng gọi nhau, chồng gọi
vợ là “thái thái”, vợ gọi chồng là “tiên sinh”, đều
là nói đến người mến yêu, người yêu, coi
Yêu là tiền đề. Thời cổ th́ nói đến
chuyện tôn kính lẫn nhau. Phu nhân Vi Đề Hy đối
với chồng bà ta, cũng chính là đại vương,
hết sức cung kính. Trong sự cung kính, đương
nhiên là có bao gồm t́nh cảm vợ chồng trong đó.
Lúc đó, đại
vương bị đứa con không ra ǵ giam cầm, chẳng
cho ăn, cho nên bà nghĩ cách đưa thứ ǵ đó cho
đại vương ḥng duy tŕ cuộc sống. Quốc
thái phu nhân nghĩ: Xét theo t́nh h́nh này, chẳng đầy vài
ngày, đại vương sẽ chết đói trong
đó. Bà ta suy nghĩ rất nhanh, bất luận ai cũng
chẳng được phép vào, đương nhiên bất
luận là ai cũng chẳng thể đem thức ăn
vào. Nếu bản thân bà ta công khai mang thức ăn vào, do cửa
nẻo nơi đó bị cấm đoán nghiêm ngặt, phải
trải qua kiểm tra, [lính gác] cũng sẽ chẳng cho bà
đem vào. Làm như thế nào đây? Bà ta đă nghĩ ra
cách. Dưới đây là cách thức của bà.
“Tháo
dục thanh tịnh” (Tắm gội thanh tịnh),
trước hết, bà tắm gội sạch sẽ, “tháo dục” (澡浴) là tắm
rửa, rửa ráy chân tay v.v… rửa rất thanh tịnh.
Sau đấy mới “dĩ tô
mật” (dùng tô[10]
và mật) bôi lên thân ḿnh. Tô và mật có đặc tánh dính,
có thể dán dính thứ khác, sau đấy mới “ḥa sao” (ḥa với bột
rang). Chữ Sao (麨) theo chú
giải thời cổ, có thuyết nói là dùng bột ḿ để
làm, có thuyết nói là dùng gạo để làm. Chú giải
khác nhau, nhưng nói chung, chẳng ngoài hai thứ trên đây.
“Sao” là chất khô, đem trộn
với mật, sau đấy dán lên người. “Dụng đồ kỳ thân” (Dùng
bôi lên thân), tức là dùng tô mật trộn “sao”, sau đấy trét lên thân.
Trét lên thân, nó sẽ dính sát vào người, sau đấy mới
mặc quần áo vào, phương pháp này hết sức hay!
“Chư anh lạc trung” (Trong
các chuỗi ngọc), anh lạc (瓔珞) làm bằng
ngọc thạch. Thuở ấy, tại Ấn Độ,
hễ là quư tộc, hoặc thuộc vương tộc, nhất
là đồ trang sức của phụ nữ, đeo giắt
trên thân rất nhiều! Trong [mỗi hạt] anh lạc có bọng
rỗng, hai đầu trống không. Đă có bọng rỗng,
bà ta nghĩ ra một cách. Bà nghĩ lăo vương chỉ
ăn bột rang khô và tô mật, khát nước th́ làm cách
nào? “Thịnh bồ đào
tương” (Đựng nước nho ép), “bồ đào tương” (葡萄漿) là
nước trái nho. Nước nho là chất lỏng, chứa
trong hạt anh lạc. Trước đó, đă dùng sáp bịt
kín một đầu hạt anh lạc, sau đấy,
đổ nước nho vào; đổ xong, dùng sáp bịt nốt
đầu kia. Trên thân bà ta đeo rất nhiều anh lạc,
mỗi hạt trong chuỗi anh lạc đều đựng
nước nho, đem khoác trên thân. Trên thân, dưới lớp
y phục, có bột rang trộn mật, anh lạc đeo
trên người toàn là đựng nước nho, “mật dĩ thượng
vương” (ngầm dâng lên vua) như vậy. Bà ta là quốc
thái phu nhân, tân vương tuy căn dặn chẳng cho bất
cứ ai tiến vào, nhưng quốc thái phu nhân có thể
vào. Bà ta chẳng nói muốn đem thức ăn hay đồ
uống vào, những vệ sĩ canh giữ mỗi tầng
cửa đều cho bà ta vào. Vào bên trong, liền tháo anh lạc
và quần áo ra, ngầm dâng lên vua, rất bí mật dâng cho
quốc vương ăn bột rang, sau đó uống
nước ép.
Quốc thái phu nhân đă vào
bên trong (từng tầng một, từng nút chặn đều
vượt qua), vào đến bên trong, bèn lấy thức
ăn giấu trong thân thể ra. “Nhĩ
thời đại vương”, [nghĩa là] ngay trong lúc ấy,
quốc vương đang bị giam cầm, “thực sao ẩm tương”,
[nghĩa là] ăn tô mật và bột rang, ăn xong lại
uống nước nho. Ăn no và cũng uống đủ,
sau đấy mới “cầu
thủy thấu khẩu”, [tức là] bảo quốc thái
phu nhân t́m chút nước để súc miệng. “Thấu khẩu tất dĩ”:
[Nghĩa là] sau khi đă súc miệng xong, “hiệp chưởng cung kính”, lễ tiết
thường dùng nhất là chắp tay, rất cung kính chắp
tay, “hướng Kỳ Xà Quật
sơn” (hướng về núi Kỳ Xà Quật) là
nơi Phật thuyết pháp, tức Linh Sơn. “Dao lễ Thế Tôn”: Hướng
về núi Kỳ Xà Quật ở nơi xa lễ Phật, Thế
Tôn là Phật. “Nhi tác thị
ngôn” (Mà nói như thế này): Sau đấy, thưa cùng
đức Phật.
“Đại
Mục Kiền Liên”: Tôn giả Đại Mục Kiền
Liên là đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật,
thần thông bậc nhất, là vị có thần thông nhất
trong các đệ tử của đức Phật. Câu “thị ngô thân hữu” (là thân
hữu của tôi) có hai cách giải thích:
1) Cách giải thích thứ nhất,
trước khi tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia là
người trong gia tộc của quốc vương, là một
thân thích khác [của nhà vua]. Nói “thân”
(親) ở đây có nghĩa là họ có quan hệ
thân thích. Sau khi tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia,
theo học với Thích Ca Mâu Ni Phật. Thông thường,
quốc vương cũng theo học Phật với Thích
Ca Mâu Ni Phật, họ là đồng môn, biến thành đồng
môn. Chí đồng đạo hợp là Hữu (友). Đấy
là cách giải thích thứ nhất, Thân là thân thích, Hữu là
bè bạn.
2)
C̣n có cách giải thích thứ hai, chữ Thân trong Thân Hữu
là thân cận, Hữu là đạo hữu. Đạo hữu
này chẳng phải là đạo hữu thông thường,
mà là người rất gần gũi, là đạo hữu
thường thân cận. Đó là cách giải thích thứ
hai.
Tuy
có cách giải thích sau, nhưng cách giải thích trước
là do tổ sư thời cổ chú giải, đương
nhiên là các Ngài có căn cứ, chúng ta bèn tuân theo cách giải
thích trước, tức là “tôn giả Đại Mục Kiền
Liên đă là thân thích của tôi, lại cũng là đồng
tu đạo hữu trong tu đạo”, mối quan hệ
này chẳng tầm thường!
“Nguyện
hưng từ bi”: Hy vọng tôn giả Đại Mục
Kiền Liên dấy ḷng từ bi, phát khởi tâm từ bi, “thọ ngă bát giới”,
[nghĩa là] truyền dạy tám giới điều cho tôi. Thông
thường, những ai thọ Bồ Tát Giới đều
biết: Khi thọ Bồ Tát Giới, phải tŕ Bát Quan Trai
Giới, “bát giới” chỉ
Bát Quan Trai Giới. Lăo vương sau khi ăn bột rang, uống
nước trái cây ép xong, bèn nghĩ: Tuy chẳng chết
đói, nhưng ở nơi đây chẳng phải là chỗ
an toàn. Nghĩ đến [t́nh cảnh] sanh mạng sẽ gặp
nguy hiểm bất cứ lúc nào; đă ở trong cảnh ngộ
ấy, phải nhanh chóng thọ Bát Giới, tức là thọ
Bát Quan Trai Giới. Đă thọ Bát Quan Trai Giới, học
Phật bèn đắc đạo, sẽ chẳng sợ nữa!
Chết cũng chẳng sợ, có dụng ư này!
Trong kinh văn có nói đến
chuyện “cầu thủy thấu
khẩu” (xin nước súc miệng). Vốn là chúng ta
ăn cơm xong, chà răng, súc miệng là chuyện b́nh
thường; v́ sao trong kinh phải đặc biệt nhắc
tới? Có ư nghĩa đặc biệt! Trước khi lễ
Phật, ba nghiệp thân khẩu ư đều phải thanh tịnh.
Do vậy, vừa mới ăn xong thứ ǵ đó, bèn súc miệng,
nhằm biểu thị khẩu nghiệp thanh tịnh; sau
đấy chắp tay, tức là thân nghiệp thanh tịnh.
Khẩu nghiệp và thân nghiệp phát xuất từ tâm
địa, nhất tâm cung kính, tức là ư nghiệp thanh tịnh.
“Súc miệng” biểu thị ba nghiệp thanh tịnh,
như vậy th́ mới nói là “cung
kính lễ Phật”.
IV.1.2.4. Tám
giới
Lăo vương cầu tôn giả
Đại Mục Kiền Liên trao truyền Bát Quan Trai Giới.
Bát Quan Trai Giới là ǵ? Đương nhiên là những vị
lăo Bồ Tát đă thọ Bồ Tát Giới đang hiện
diện ở đây đều biết, nhưng do có những
vị chưa thọ Bồ Tát Giới, cho nên chúng tôi nói
đôi chút. Xin các vị xem đề cương bài giảng,
Bát Giới chính là Bát Quan Trai Giới, “bát giới” trong kinh văn chính là Bát Quan Trai Giới.
Chữ Quan (關) trong Bát Quan Trai Giới hiểu như thế
nào? Quan là “đóng chặt cửa lại”. Đóng cửa
để làm ǵ? Nhằm tránh khỏi bị lũ trộm vặt
hoặc cường đạo bên ngoài tiến vào, có dụng
ư này! Khi thọ giới, chữ Quan trong Bát Quan hàm nghĩa “ngăn đóng hết thảy
chuyện tà ác”. Hết thảy những chuyện tội
ác đều bị đóng lấp, chẳng để cho bất
cứ chuyện tội ác nào phát sanh th́ gọi là Quan.
Trai giới: Trai (齋) là giữ
tâm trong sạch, Giới (戒) là giới điều.
Trước hết, nói về Giới th́ Giới có tám
điều. Năm điều đầu chính là Ngũ Giới
mà chúng ta thường thọ, nhưng phải đem “không tà dâm” trong Ngũ Giới
sửa thành “chẳng dâm”.
C̣n có “không tự nghe, xem ca múa”.
Trong ngày giữ Bát Quan Trai Giới, từ sáng sớm đến
khuya, bất luận là có chuyện ǵ hay không, chẳng thể
ca hát. Dẫu là những bài hát tốt lành cũng chớ nên
hát, càng chẳng thể nhảy múa. Chính ḿnh chẳng ca, chẳng
múa, mà cũng chẳng đến nơi khác nghe kẻ khác
ca hát, hoặc xem người ta nhảy múa. Chính ḿnh chẳng
thể ca múa, cũng chẳng thể ra ngoài nghe người
khác biểu diễn. Đấy là một điều. Lại
c̣n “bất đồ
hương, hoa man” (chẳng bôi hương, đeo tràng
hoa), “đồ hương”
(塗香) là ǵ? Thuở ấy, tập tục Ấn
Độ là trên thân ḿnh luôn đeo đồ trang sức,
bôi một ít hương liệu thơm tho. “Hoa man” (華鬘) là phong tục của
Ấn Độ, dùng dây kết thật nhiều hoa, kết
xong bèn gọi là Man (鬘: tràng, chuỗi). Dùng hoa xâu lại để
trang điểm chính ḿnh, khoác trên thân, hoặc đội
lên đầu, gọi là Hoa Man. Khiến cho toàn thân của
chính ḿnh vừa là hoa, vừa là hương, người
b́nh thường làm như vậy. Người giữ tám
giới chẳng được phép! Vừa chẳng thể
bôi hương, mà cũng chẳng thể đeo hoa man. C̣n
có “bất tọa cao quảng
đại sàng” (chẳng ngồi giường to, cao, rộng),
“bất tọa” bao gồm ư
nghĩa “chẳng nằm”. Bất
luận ngồi hay ngủ, chẳng thể sử dụng
giường vừa cao, diện tích vừa rộng, vừa
lớn! Chẳng thể dùng giường to cao lớn, v́ những
kẻ có tiền bèn trang hoàng giường nằm rất
đẹp đẽ, rất lộng lẫy, vừa cao, vừa
rộng. Chẳng thể sử dụng cái giường cao
rộng ấy. Gộp chung lại th́ có tất cả tám
điều, gọi là Bát Giới.
Giới luật gồm tám
điều, Trai (giữ tâm trong sạch) là một điều,
“bất trung quá thực” (chẳng
ăn sau giữa trưa), nói thông thường sẽ là “quá Ngọ chẳng ăn”. Thời
cổ không có đồng hồ, lấy ánh nắng mặt
trời làm tiêu chuẩn: Dùng gậy trúc cắm thẳng
để xem bóng nắng. Bóng mặt trời đă xế
th́ là “quá trung” (vượt
quá giữa trưa). Chớ nên [ăn] sau giữa trưa,
nói theo hiện thời, đừng ăn sau giữa
trưa chính là quá mười hai giờ trưa, ăn
cơm trước mười hai giờ trưa, gọi là
Ngọ Trai. Sau mười hai giờ trưa, chẳng thể
ăn ǵ nữa, đó gọi là “bất
quá trung thực”, điều này được coi là
Trai.
Bát Quan Trai Giới có khi nói là
tám điều, có khi nói là chín điều. Cách tính như thế
nào? Có một cách nói, trong Tiểu Thừa có một phái gộp
hai điều cuối trong tám giới, tức là “chẳng đeo tràng hoa, bôi
hương” và “không ngồi
giường lớn cao rộng” thành một điều,
nội dung tương tự, trang nghiêm y hệt! Tính ra con
số sẽ là bảy giới, cộng thêm một điều
về Trai là “chẳng ăn quá
trưa” bèn thành Bát Quan Trai Giới, hợp thành con số
tám. Nếu chẳng nói như vậy, tám giới là tám
điều giới, lại ghép thêm một điều về
Trai vào, sẽ thành chín điều. Do vậy, phía sau Trai
điều “chẳng ăn quá
trưa”, có nói rơ: “Giới
bát trai ngoại, giới thất trai nội”, [nghĩa
là] nếu tính giới là tám điều th́ Trai được
tính riêng. Nếu giới gồm bảy điều, tính gộp
Trai điều vào trong ấy. Tám điều giới biến
thành bảy điều, Tiểu Thừa có một tông phái
tên là Câu Xá Tông nói theo kiểu ấy. Một tông khác là Thành
Thật Tông nói có tám điều; nói theo kiểu Đại
Thừa th́ cũng là tám điều, hơi khác nhau đôi
chút.
Đối với năm giới
trong ấy, tôi nói rơ đôi chút. Chúng ta biết tại gia học
Phật, đầu tiên là Quy Y. Có khi trong lúc quy y, đồng
thời thọ Ngũ Giới. Có người sau khi quy y một
thời gian, nhận thấy chính ḿnh có thể giữ
năm giới mới thọ Ngũ Giới. Điều thứ
nhất trong tại gia Ngũ Giới là không sát sanh, thứ
hai là không trộm cắp (chẳng trộm cắp đồ
vật của người khác), thứ ba là giới tà dâm,
thứ tư là không vọng ngữ (chẳng nói dối), thứ
năm là không uống rượu, tổng cộng năm
điều. Trong năm điều, đặc biệt phải
nói tới giới điều
“chẳng tà dâm”, v́ người tại gia thọ Ngũ
Giới, bất luận là nam hay là nữ, sau khi đă kết
hôn, giữ Ngũ Giới là giới “chẳng tà dâm” mà thôi! Vợ chồng v́ phải nối
ḍng truyền giống, chẳng ngăn cấm chánh dâm. Bất
quá, mỗi tháng cũng có những ngày đặc thù, vợ
chồng phải kiêng chánh dâm (chẳng phải là thường
xuyên), c̣n thông thường là phải kiêng tà dâm. Bát Quan Trai
Giới th́ không chỉ là chẳng tà dâm, mà c̣n là trực tiếp
kiêng hành dâm. Là tại gia cư sĩ, bất luận là nam
hay nữ cư sĩ, tuy kết hôn, trong ngày thọ tŕ Bát
Quan Trai Giới đều kiêng hành dâm, không chỉ là tà dâm!
Phải đặc biệt nói rơ điều này!
V́ sao quốc vương bị
giam cần bèn nghĩ đến chuyện thọ giới?
Đối với giới, người b́nh thường chẳng
thông hiểu, nghĩ giữ giới rất phiền phức,
rất khó tiếp nhận: Điều này chẳng thể
làm, điều kia chẳng thể làm. Thật ra, người
hiểu biết Phật pháp bèn biết: Giới là một
loại pháp thanh lương. Giữ giới tốt đẹp,
trong tâm là một bầu thanh lương. Thanh lương sẽ
có thể trừ khử phiền năo. Đối với chữ
Phiền (煩) trong phiền năo, hễ hiểu biết
phương pháp tạo chữ trong tiếng Hán sẽ biết:
Bên trái là Hỏa (火), bên phải là chữ Hiệt
(頁). “Hiệt”
là ǵ? Chữ Hiệt là chữ tượng h́nh, Hiệt
chính là đầu người. Quư vị chiếu theo chữ
tượng h́nh để vẽ ra, hoặc chiếu theo lối
chữ Triện để viết, sẽ [thấy chữ
Hiệt] là đầu người. V́ thế, trong tâm hễ
phiền muộn, trên đầu bốc đầy lửa!
Nói thông thường là đầu bốc lửa. Giữ giới
nhằm trừ năo hỏa, khiến cho hỏa khí chẳng
c̣n, chẳng có phiền năo. Giáng trừ từng tầng phiền
năo, trong tâm có thể đạt được một bầu
thanh lương.
Hiểu Lư của giới,
khi giữ giới, sẽ là một loại hưởng thụ.
Do đó, phương pháp trong Phật pháp rất nhiều,
gộp chung lại, chẳng ngoài ba chữ Giới, Định,
Huệ. Giới (戒) là giữ giới, công phu
tŕ giới tốt đẹp, có thể giúp chúng ta nhập
Định. Nhập Định bèn có công năng định
lực, có thể khai phát trí huệ. Chúng ta vốn có trí huệ
ấy; tuy vốn sẵn có, nhưng tâm phàm phu suốt ngày từ
sáng đến tối rối bời, hành vi cũng chẳng
ước thúc, cho nên chẳng có Định. Chẳng có
Định, trí huệ sẵn có bèn bị phong kín, chẳng
thể phát huy tác dụng, há có trí huệ trong ấy? V́ thế,
ba chữ trọng yếu nhất trong học Phật là “tŕ Giới, đắc Định,
khai Huệ”. Chúng ta hiểu rơ Giới hết sức trọng
yếu. Chúng ta đă học Phật, có thể tŕ Bát Quan
Trai Giới, đương nhiên là tốt đẹp. Chẳng
thể thọ Bát Quan Trai Giới, tŕ Ngũ Giới cũng
tốt, đặc biệt là xét theo phương diện
tâm lư, khi thường giữ Ngũ Giới, hoặc khi thọ
Bát Quan Trai Giới, trong tâm càng thanh tịnh. Trong khi giữ
giới, nội tâm là một bầu thanh tịnh, ngay trong
khi ấy chính là một loại hưởng thụ lớn
nhất!
Chúng ta c̣n phải hiểu rơ
một điều: Chúng sanh từ vô thỉ kiếp tới
nay, tạo thiện nghiệp và ác nghiệp rất nhiều.
Tạo bất cứ nghiệp ǵ, nó cũng đều biến
thành chủng tử của sanh tử, là cái nhân của sanh
tử. Trừ sanh tử ra, c̣n có những thứ khác kèm
theo. Chẳng hạn như chúng ta sống trong thế gian,
đủ mọi cảnh ngộ đều là do đă gieo
nhân trong quá khứ. Nhưng để nhân biến thành quả,
nếu chỉ có ḿnh nhân, nó sẽ chẳng thể biến
thành quả, trong ấy c̣n phải có các thứ duyên. Duyên có
rất nhiều thứ, trong chốc lát, chẳng có cách nào
nói nhiều như vậy được, chỉ cần biết
có các loại duyên là được rồi. Đă có nhân và có
duyên, sau đấy, chúng ḥa hợp với nhau th́ mới có
thể kết thành quả. Nếu chỉ có nhân, chẳng
có duyên trọn đủ, sẽ không thể kết thành quả!
Ví như các vật dụng chạy bằng điện,
điện là do công ty điện lực truyền tải,
vẫn là phải có duyên. Nếu muốn dùng quạt điện
cho mát, phải có quạt điện. Muốn sử dụng
đèn điện để chiếu sáng, phải có đèn
ống (đèn néon, đèn tube). Những thứ ấy đều
là duyên. Chẳng có những thứ ấy, sẽ chẳng
có gió, mà cũng chẳng có ánh sáng. Chúng ta là người sống
trong thế gian, giống như hiện thời vừa bị
thiên tai vừa bị nhân họa, đủ mọi vụ
án giết chóc hung tợn, bị kẻ khác trộm cắp,
cướp đoạt, những chuyện ấy đều
là do nhân duyên ḥa hợp. Giả sử nói: Trong khi chúng ta
đang tŕ giới, đoạn tuyệt những duyên ấy.
Lấy việc giữ giới chẳng sát sanh để
nói, tŕ giới sát sanh thanh tịnh, tất cả các sát nghiệp
trong thiên hạ chẳng dính dáng đến ta, bất luận
là trong quá khứ đă gieo rất nhiều cái nhân sát nghiệp,
hiện thời duyên đă tuyệt, chẳng tiếp tục có điện truyền tới nữa.
V́ thế, những tai nạn ấy chẳng dính líu ǵ đến
chúng ta. Từ điều này, có thể chiêm nghiệm, lănh hội
rất nhiều điều. Nếu tŕ giới luật càng
thanh tịnh, tuy chúng ta vẫn ở trong ngũ trược
ác thế, [thế mà] có thể đạt được
thanh tịnh, b́nh an, trong phương diện tu đạo
bèn có thể tinh tấn tu đạo. Có những điều
tốt đẹp ấy.
IV.1.2.5. Ư
nghĩa của việc tŕ tám giới
Chúng ta hăy xem dụng ư của
việc tŕ Bát Quan Trai Giới hoặc Ngũ Giới. Các thứ
giới rất nhiều, v́ sao quốc vương mong thọ
tŕ Bát Quan Trai Giới? Bát Quan Trai Giới chính là người
tại gia tŕ giới xuất gia. Tŕ giới xuất gia hết
sức thanh tịnh, [sẽ có] lợi ích hết sức to
lớn! Xin các vị xem đề cương bài giảng,
phần “ư nghĩa tŕ tám giới”.
Tŕ tám giới “dụng tâm khởi
hạnh cực tế, cực cấp” (dụng tâm, khởi
hạnh, tột bậc vi tế, tột bậc gấp
rút). Nói theo phía quốc vương, nhà vua mong cầu tŕ tám
giới, tức là Bát Quan Trai Giới. Nói theo phía cái tâm tŕ giới
của chính ḿnh, th́ hết sức vi tế. Bất cứ chuyện
ǵ dứt bặt tội ác trong thế gian đều phải
tŕ sạch làu, hết sức triệt để, tột bậc
kín nhiệm. Nếu nói đến thời cơ tŕ Bát Quan
Trai Giới, th́ cũng là hết sức khẩn cấp.
Thường là trong khi hết sức nguy cấp, phải
tŕ Bát Quan Trai Giới.
Chúng ta đều biết,
đức Phật thường nói: “Mạng người trong hơi thở”, một người bất luận
tuổi tác đă già cũng thế, mà chưa già cũng thế,
ai có thể bảo đảm: Trước mắt, chính
ḿnh thở ra một hơi, hơi kế tiếp sẽ hít
vào được chăng? Chẳng dám nói! Một hơi chẳng
hít vào được, thọ mạng trong đời này
đă xong rồi. Thọ Bát Quan Trai Giới là thọ trong
t́nh trạng hết sức khẩn cấp. Đă là hết
sức kín nhiệm, lại hết sức khẩn cấp,
thời gian để kẻ tại gia chúng ta tŕ giới chẳng
thể quá dài. Nếu quá dài, sẽ chẳng tŕ tốt đẹp;
v́ thế, “duy hạn nhất
nhật, nhất dạ” (chỉ hạn định một
ngày, một đêm). Chỉ có thể thọ trong thời
gian một ngày! Một ngày một đêm là ǵ? Là từ sáng
sớm hôm nay thọ giới trở đi, măi cho đến
lúc b́nh minh ngày mai, tự nhiên có thể coi là giới thể
của Bát Quan Trai Giới đă hoàn thành. Đến ngày mai,
quư vị cảm thấy chưa đủ, vẫn phải
thọ giới lại. Nếu chẳng thọ lại, giới
đă thọ trong ngày hôm nay đă hoàn thành, chỉ hạn
định trong một ngày một đêm.
Khi thọ Bát Quan Trai Giới,
vị thầy truyền giới hỏi từng điều
một. Đầu tiên là hỏi về chuyện không sát
sanh: “Này Phật tử! Có thể
như chư Phật không sát sanh hay chăng?” (Giống
như chư Phật chẳng sát sanh như vậy, quư vị
có thể thọ tŕ hay không?). Người thọ giới
thưa: “Có thể tŕ”, điều ấy bèn hoàn thành. Tiếp
đó, lại hỏi [các giới] chẳng trộm, chẳng
dâm... tổng cộng tám điều. Mỗi điều
đều phải nói “như
chư Phật”; v́ sao phải nói là“như chư Phật”? Nói thật ra, bọn phàm
phu chúng ta tŕ giới nói chung là chẳng đủ triệt
để, Phật là toàn bộ hết thảy phiền năo
vô minh đều chẳng có, sạch làu làu, thật sự
thanh tịnh. Quư vị thọ Bát Quan Trai Giới là mong thanh
tịnh như chư Phật. V́ thế, “dẫn Phật vi chứng” (dẫn Phật làm chứng).
Đối với mỗi điều, đều bảo
quư vị ǵn giữ giống như Phật vậy! V́ sao? “Dĩ Phật tập tận cố”,
[nghĩa là] do đức Phật đă trừ hết sạch
hết thảy các tập khí (“tập
khí” là nói tới những chuyện phải đoạn
trừ để giữ giới), hoàn toàn chẳng có. V́ thế,
thọ Bát Quan Trai Giới, phải dẫn Phật làm chứng.
Trong t́nh huống ấy, sanh mạng của lăo vương
khó giữ nổi trong sớm tối, hết sức nguy cấp!
Trong trạng huống khẩn cấp ấy, nhà vua thỉnh
cầu tôn giả Mục Kiền Liên truyền trao Bát Quan
Trai Giới. Bát Quan Trai Giới đă là dẫn Phật làm
chứng, công đức như thế nào? “Công đức siêu quá nhân thiên, Nhị Thừa” (Công
đức vượt trỗi người, trời và Nhị
Thừa). Không chỉ là vượt trỗi kẻ b́nh phàm,
mà c̣n vượt trỗi chư thiên trên cơi trời, cũng
vượt trỗi Nhị Thừa, tức là Tiểu Thừa
và Trung Thừa. Tŕ Bát Quan Trai Giới một ngày có công đức
to lớn như vậy!
Xin quư vị lại xem kinh
văn. Quốc vương hướng vọng về phía đức
Thế Tôn thỉnh cầu như vậy, thỉnh cầu
tôn giả Mục Kiền Liên đến truyền giới.
Đức Phật và tôn giả Mục Kiền Liên đều
có thần thông. Khi ấy, đức Phật cũng biết,
bèn bảo tôn giả Mục Kiền Liên hăy đến. “Thời Mục Kiền Liên,
như ưng chuẩn phi”, nghĩa là khi đó, tôn giả
Mục Kiền Liên giống như chim ưng, chim chuẩn
(Ưng (鷹) là chim ưng, Chuẩn (隼)[11]
cũng là một loại ưng) bay lượn trên trời.
“Tật chí vương sở”
(Nhanh chóng tới chỗ vua), “tật”
(疾) là nhanh chóng, hết sức mau lẹ, rất
nhanh chóng đến chỗ quốc vương bị giam
trong căn nhà có bảy lớp cửa. [Kinh nói là] “như ưng chuẩn phi”, thật
ra, tôn giả Mục Kiền Liên bay nhanh hơn chim ưng,
chim cắt rất nhiều. Bất quá, ở đây chẳng
có cách nào để h́nh dung, đành mượn loài ưng,
loài cắt là những loài chim bay nhanh nhất để h́nh
dung. Tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng thần
thông bay nhanh hơn chim ưng, chim cắt, lập tức
đến chỗ quốc vương đang bị giam cầm.
Sau khi đă đến, liền truyền giới. Hằng
ngày đều truyền giới, “nhật nhật như thị” (ngày nào cũng
như thế). Thọ giới hôm nay, đến ngày mai, giới
thể đă hoàn thành, lại phải thọ giới. Ngày
mai lại đến, hằng ngày đều là như vậy.
Tôn giả Mục Kiền Liên đều bay tới chỗ
đó để “thọ
vương bát giới”, tức là truyền dạy Bát
Quan Trai Giới cho nhà vua.
“Thế
Tôn” là Thích Ca Mâu Ni Phật, “diệc
khiển tôn giả Phú Lâu Na, vị
vương thuyết pháp”
(cũng sai tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp cho nhà vua): Đồng
thời, Thích Ca Mâu Ni Phật lại sai tôn giả Phú Lâu Na
(ngài Phú Lâu Na (Pūrna) tên là Măn Từ Tử (Maitrayani-putra)[12],
thuyết pháp hết sức hay) đến giảng Phật
pháp cho lăo vương. Tôn giả Phú Lâu Na cũng có thần
thông; nếu không, làm sao Ngài vào được? “Như thị” (Như thế),
một vị là ngài Mục Kiền Liên, vị kia là Phú Lâu
Na, hai vị tôn giả như vậy đến đó mỗi
ngày, một vị truyền giới cho nhà vua, một vị
thuyết pháp. “Thời gian kinh
tam thất nhật” nghĩa là trải qua ba lần bảy
tức hai mươi mốt ngày! “Vương thực sao mật, đắc văn pháp cố, nhan sắc
ḥa duyệt”, [nghĩa là] lăo vương do ăn bột
rang và mật, lại có thể nghe Phật pháp, không chỉ
chẳng chết đói, ngược lại vẻ mặt
hết sức b́nh thản, vui sướng. Đến
đây là thôi, chuyện Thái Tử muốn giết cha đă
nói xong. Sau đó sẽ là chuyện Thái Tử toan giết mẹ,
tôi sẽ giảng tiếp trong lần sau.
Tập 7
Thưa các vị giáo sư,
các vị đại đức, các vị đồng tu!
Xin mở kinh bổn trang thứ hai, bắt đầu từ
hàng thứ hai ở phía dưới. Trước hết là
niệm kinh văn.
(Kinh) Thời A Xà Thế, vấn
thủ môn giả: “Phụ vương kim giả, do tồn
tại da?” Thời thủ môn nhân bạch ngôn: “Đại
vương! Quốc thái phu nhân, thân đồ sao mật,
anh lạc thịnh tương, tŕ dụng thượng
vương. Sa-môn Mục Liên, cập Phú Lâu Na, tùng không nhi
lai, vị vương thuyết pháp, bất khả cấm
chế!”
(經)時阿闍世,問守門者:父王今者,猶存在耶?時守門人白言:大王,國太夫人,身塗麨蜜,瓔珞盛漿,持用上王。沙門目連,及富樓那,從空而來,為王說法,不可禁制。
(Kinh: Khi ấy,
A Xà Thế hỏi người canh cửa: “Nay phụ
vương vẫn c̣n sống ư?” Lúc đó, kẻ giữ
cửa tâu rằng: “Tâu đại vương, quốc thái
phu nhân, thân bôi bột rang và mật, chuỗi đeo đựng
nước trái cây ép, đem dâng lên vua. Sa-môn Mục Liên và
Phú Lâu Na từ trên hư không hiện tới, thuyết pháp
cho nhà vua, chẳng thể ngăn cấm”).
“Thời”
(Khi ấy) là vào lúc nào? “A Xà Thế
vấn thủ môn giả” (A Xà Thế hỏi người
canh cửa), ông ta biết đă qua ba lần bảy ngày, tức
hai mươi mốt ngày như đă nói trên đây. Ông ta
nghĩ: Đă qua hai mươi mốt ngày, lâu như thế,
cha ḿnh nhất định đă chết đói trong đó.
Do vậy, vào lúc ấy, ông ta đến xem thử. Trước
hết, hỏi kẻ “thủ
môn”, tức là người canh cửa: “Phụ vương kim giả do tồn tại da?”
nghĩa là phụ vương (chỉ lăo vương) nay vẫn
c̣n sống ư? Câu này mang ư nghĩa hỏi xem đă chết
hay chưa? Câu hỏi có ư nghĩa ấy.
“Thời
thủ môn nhân bạch ngôn” (Khi đó, kẻ giữ cửa
thưa rằng), “Bạch” (白) là
người dưới thưa tŕnh với người
trên, có ư nghĩa “bẩm báo”. “Đại
vương”, lúc đó, A Xà Thế đă làm quốc
vương, nên gọi ông ta là “đại vương”. Trên
đây, ông ta đă hỏi: “Nay phụ vương vẫn
c̣n sống hay không?” V́ nói theo lẽ thông thường, một
người bảy ngày chẳng ăn ǵ, sẽ chẳng thể
cầm cự được. Sau bảy ngày, nói chung là không
thể sống nổi! Đă sau hai mươi mốt ngày,
chẳng biết phụ vương đă chết hay chưa?
Trong tâm đại vương mong vua cha lẽ ra là đă chết,
cho nên mới hỏi lời ấy. Người canh cửa
biết vua cha chưa chết, v́ sao chưa chết? Cần
phải nói ra đạo lư. Do nguyên nhân nào? “Quốc thái phu nhân” là mẹ của đại
vương, nay trở thành thái phu nhân, bà ta “thân đồ sao mật” (thân bôi bột rang và mật),
trong phần trước đă nói rồi, dùng bột rang
ḥa mật trét lên thân thể. Sau đấy, “anh lạc thịnh tương”, [nghĩa là] chuỗi
anh lạc đựng nước nho, “tŕ dụng thượng vương” (đem dâng
lên vua), đem đồ ăn, thức uống vào dâng cho
lăo vương, tức là phụ vương của Ngài, khiến
cho ông ấy không đến nỗi chết đói. C̣n có “sa-môn Mục Liên cập Phú Lâu Na”,
tức là đệ tử Phật, tôn giả Mục Kiền
Liên lại c̣n có tôn giả Phú Lâu Na, hai vị ấy “tùng không nhi lai”, tức là từ
trên hư không mà tới nơi đây, “vị vương thuyết pháp”, nghĩa là thuyết
pháp cho phụ vương của Ngài. Câu kế đó là “bất khả cấm chế”, “cấm” (禁) là như trong phần
trước, vua đă căn dặn cấm ngặt bất
cứ kẻ nào tiến vào. “Chế”
(制) là khống
chế, chẳng cho phép bất cứ kẻ nào vào. Nhưng
người canh cửa thưa: Một người là quốc
thái phu nhân, chẳng có cách nào cấm đoán, ngăn chặn,
hai người khác là hai vị sa-môn, các Ngài từ hư
không tiến đến, cũng chẳng có cách nào cấm
đoán, ngăn chặn.
Kinh văn trước sau
đều có sự tương ứng, “trước sau
tương ứng” là như thế nào? Trong phần trước,
vương tử A Xà Thế “chế
chư quần thần, nhất bất đắc văng” (ngăn
cấm quần thần, chẳng có ai được phép
đến đó). Vua đă căn dặn quần thần
trong triều đ́nh, các vị thần tử lớn nhỏ,
bất luận kẻ nào cũng đều chẳng thể
tiến vào, nhưng chẳng nhắc tới quốc thái phu
nhân. V́ thế, người giữ cửa nói quốc thái
phu nhân muốn tiến vào, do đại vương chẳng
căn dặn, người giữ cửa chẳng chịu
trách nhiệm. Mặt khác, những sa-môn từ hư không
bay đến, ông ta cũng chẳng có cách nào ngăn cấm,
nên cũng chẳng có trách nhiệm đối với chuyện
ấy. Nếu chẳng nói rơ như vậy, kẻ giữ cửa
chẳng thể thoái thác trách nhiệm được!
Người giữ cửa nói “chẳng
thể cấm chế”, hai chuyện ấy có ư nghĩa
tương ứng với phần trước.
Hai chữ “sa-môn” (Śramaṇa) là tiếng
Ấn Độ được phiên âm, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Cần Tức (勤息: Cần trong cần lao (勤勞: siêng năng, nhọc nhằn), Tức trong Diệt
Tức (息滅:
diệt mất). Theo chú giải thông thường, Sa-môn là
người tu hành. Tu hành như thế nào? [“Cần” là] siêng tu Giới, Định, Huệ, tu
Giới, tu Định, sau đấy khai trí huệ. “Tức” là diệt trừ
tham, sân, si. Làm một vị sa-môn, ư nghĩa chủ yếu
là siêng tu Giới, Định, Huệ, nhắm tới mục
đích diệt dứt tham, sân, si. Ở đây, “sa-môn” là nói tới hai vị
tôn giả Mục Liên và Phú Lâu Na, các Ngài đều là đại
đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai vị
đại đệ tử này, tôn giả Mục Liên là bậc
thần thông đệ nhất, Ngài tới truyền trao Bát
Quan Trai Giới cho lăo vương; tôn giả Phú Lâu Na là vị
thuyết pháp bậc nhất. Ngài thuyết pháp có
phương tiện hết sức thiện xảo. Hễ
Ngài thuyết pháp, người nghe bèn dễ hiểu, dễ
tiếp nhận. Hai vị ấy đến, một vị
truyền Bát Quan Trai Giới cho lăo vương, một vị
giảng đạo lư Phật pháp cho lăo vương nghe. Ở
trong ấy, lăo vương vừa có cái để ăn, vừa
có Phật pháp, cho nên trải qua thời gian dài như vậy
mà vẫn c̣n sống!
Kẻ giữ cửa tâu tŕnh
như thế xong, tiếp đó, quốc vương liền
nói.
(Kinh) Thời
A Xà Thế văn thử ngữ dĩ, nộ kỳ mẫu
viết: “Ngă mẫu thị tặc, dữ tặc vi bạn.
Sa-môn ác nhân, huyễn hoặc chú thuật, linh thử ác
vương, đa nhật bất tử”. Tức chấp lợi
kiếm, dục hại kỳ mẫu.
(經)時阿闍世,聞此語已,怒其母曰:我母是賊,與賊為伴。沙門惡人,幻惑咒術,令此惡王,多日不死。即執利劍,欲害其母。
(Kinh: Khi ấy, A Xà Thế nghe
lời ấy, giận mẹ nói: “Mẹ ta là giặc, kết
bè đảng với giặc. Sa-môn là kẻ ác, chú thuật
huyễn hoặc, khiến cho ác vương đă nhiều
ngày chẳng chết”. Liền cầm gươm bén, toan hại
mẹ ḿnh).
Nhà
vua khởi lên ư niệm tội ác, toan giết hại mẹ
ḿnh. “Thời A Xà Thế,
văn thử ngữ đă”, [nghĩa là] lúc đó, vua A
Xà Thế nghe kẻ canh cửa vừa tâu, đương
nhiên là kẻ canh cửa chẳng có trách nhiệm. Vua chẳng
có cách nào trừng phạt kẻ canh cửa, cho nên bực tức.
“Nộ kỳ mẫu viết”
(Giận mẹ bèn nói). “Nộ”
(怒) là nổi cáu, phẫn nộ; phẫn nộ
v́ ai? Phẫn nộ với mẹ ḿnh. Đă phẫn nộ
bèn chửi mẹ: “Ngă mẫu
thị tặc” (Mẹ ta là giặc). V́ sao gọi mẹ
ḿnh là giặc? Tiếp đó liền nói: “Dữ tặc vi bạn” (Kết bè đảng với
giặc).
Dù bà ta chẳng phải là giặc, cũng coi như là giặc,
v́ bầu bạn với giặc. Kết bạn với giặc
như thế nào? Chữ “tặc”
(賊) tiếp
đó nhằm chỉ phụ vương. V́ phụ
vương của ông ta làm quốc vương, ông ta giam cầm
cha, nhằm mục đích muốn cho cha chết đói
trong đó. Một ngày chưa chết th́ là lăo tặc,
đă già khú mà chẳng chết! Chẳng phải là hiện
thời cũng có rất nhiều người nói như vậy
ư? Già khọm mà chưa chết, tức là lăo tặc! Chửi
cha ḿnh là giặc, v́ sao cũng coi mẹ như giặc? Mẹ
mỗi ngày mang đồ ăn, thức uống cho cha,
đó là kết bạn với giặc. Hai người ấy
(cha và mẹ) đều bị ông ta coi là giặc!
Tiếp đó nói: “Sa-môn ác nhân” (Sa-môn là kẻ
ác), hăy suy nghĩ câu này. Trong phần trước, chúng ta
đă hiểu rơ: Sa-môn là người chuyên tu Giới, tu
Định, tu Huệ. Hết thảy tội ác của
chúng sanh phàm phu do đâu mà có? Đều là từ tham, sân,
si; nhưng sa-môn chuyên dứt diệt tham, sân, si. Tiêu diệt
tham, sân, si là người tốt lành, vĩ đại nhất.
Ông ta ngược ngạo bảo sa-môn là “ác nhân”, chẳng được rồi! Vừa thốt
lời ấy khỏi miệng, tội lỗi khôn cùng! Chúng
ta xem kinh A Di Đà, thấy tôn giả Ngưu Ty (Kiều Phạm
Ba Đề) do trong đời quá khứ, thấy một vị
lăo nhân tu hành đang tụng kinh, trong miệng chẳng c̣n
răng, khi người ấy đang [trệu trạo] niệm
từng câu, bèn giễu cợt vị lăo tu hành ấy giống
như trâu đang nhơi cỏ. Đó vẫn là vô tâm chọc
ghẹo, kết quả là phải chịu ác báo bao nhiêu
đời! Hậu quả đáng sợ lắm! Vua tự
ḿnh chửi sa-môn là kẻ ác, như hai vị tôn giả Mục
Kiền Liên và Phú Lâu Na là những bậc lỗi lạc. Ông
ta chửi các Ngài là ác nhân, hăy tưởng tượng xem, tội
lỗi ấy to đến cỡ nào! V́ sao bảo sa-môn là
ác nhân? “Huyễn hoặc chú thuật”,
ư nói hai vị sa-môn chẳng biết dùng
huyễn pháp ǵ, dùng phương thuật và chú thuật ǵ
để dụ dỗ, mê hoặc người ta. Do
những thứ ấy, “linh thử
ác vương, đa nhật bất tử” [nghĩa là]
khiến cho gă ác vương như thế, đă nhiều
ngày vẫn chẳng chết, đáng kinh hăi quá! Chửi cha
ḿnh là ác vương!
Nói lời ấy xong, “tức chấp lợi kiếm,
dục hại kỳ mẫu” (liền cầm
gươm bén, toan hại mẹ ḿnh); vồ lấy thanh
gươm rất sắc bén, mong một kiếm giết mẹ
chết tươi! Quư vị hăy xem đoạn này, chửi
cha mẹ là giặc, lại chửi sa-môn là ác nhân, lại
chửi phụ vương là ác vương; sau đấy,
chộp lấy một thanh gươm bén, toan tự ḿnh giết
chết mẹ. Đấy là tạo khẩu nghiệp, tạo
thân nghiệp, tạo ư nghiệp; ba nghiệp thân khẩu ư
đều tạo nghiệp tội ác cực đại! Vào
lúc đó, trong đoạn kinh văn kế tiếp có cho biết:
(Kinh) Thời hữu nhất thần, danh viết
Nguyệt Quang, thông minh đa trí, cập dữ Kỳ Bà, vị
vương tác lễ, bạch ngôn: “Đại vương!
Thần văn Tỳ Đà Luận Kinh thuyết, kiếp
sơ dĩ lai, hữu chư ác vương, tham quốc vị
cố, sát hại kỳ phụ nhất vạn bát thiên. Vị
tằng văn hữu vô đạo hại mẫu.
Vương kim vị thử sát nghịch chi sự, ô Sát-lợi
chủng, thần bất nhẫn văn. Thị Chiên Đà
La, ngă đẳng bất nghi phục trụ ư thử!”
(經)時有一臣,名曰月光,聰明多智,及與耆婆,為王作禮。白言:大王,臣聞毗陀論經說,劫初以來,有諸惡王,貪國位故,殺害其父,一萬八千。未曾聞有無道害母。王今為此殺逆之事,汙剎利種,臣不忍聞。是旃陀羅,我等不宜復住於此。
(Kinh: Khi ấy, có một người bầy tôi tên là Nguyệt Quang thông minh, lắm trí huệ, cùng với Kỳ Bà, hướng về vua làm lễ, tâu rằng: “Tâu đại vương! Thần nghe kinh luận Tỳ Đà có nói, từ kiếp ban sơ đến nay, có các vua ác v́ tham ngôi vua, giết hại cha ḿnh có đến một vạn tám ngàn kẻ. Chưa từng nghe nói có kẻ nào vô đạo hại mẹ. Nay bệ hạ làm chuyện giết chóc ngỗ nghịch này, khiến ḍng Sát-đế-lợi bị ô uế. Thần chẳng nỡ nghe. Đó là [hành vi của] Chiên Đà La, bọn thần không nên ở chỗ này nữa”).
“Thời
hữu nhất thần, danh viết Nguyệt Quang, thông minh
đa trí, cập dữ Kỳ Bà” (Khi ấy,
có một người bầy tôi tên là Nguyệt Quang thông
minh, lắm trí huệ, cùng với Kỳ Bà): Lúc
đó, có hai vị đại thần ra mặt khuyên can nhà
vua chớ nên giết hại mẹ. Một vị tên là Nguyệt
Quang (Candraprabhā). V́ sao tên là Nguyệt Quang? V́ người này hết
sức thông minh, có rất nhiều trí huệ. Vị kia là Kỳ
Bà (Jīvaka). Kỳ
Bà là anh em của vua A Xà Thế. Có tổ sư chú giải
ngài Kỳ Bà là em vua A Xà Thế, cũng có vị chú giải
ông ta là anh; có hai cách nói như vậy. Có một bộ kinh
tên là Nại Nữ Kỳ Bà Kinh (奈女耆婆經), theo bộ
kinh ấy, tuổi của Kỳ Bà phải lớn hơn
vua A Xà Thế đến mười tuổi.
Kỳ Bà lớn hơn vua A
Xà Thế mười tuổi, v́ sao chẳng làm Thái Tử? Trong
ấy có nhân duyên: V́ Kỳ Bà chẳng phải là do đại
phu nhân của quốc vương sanh ra. Mẹ của Kỳ
Bà là ai? Mẹ của Kỳ Bà tên là Nại Nữ (奈女), Nại
(奈) là tên một loài cây. Tại Ấn Độ,
vào thuở ấy, có một tiểu quốc. Tiểu quốc
ấy có một người ngoại đạo, là ngoại
đạo tu phạm hạnh. Ông ta có một hoa viên lớn,
trong đó, có rất nhiều cây Nại. Trong những cây Nại
ấy, có một cây nh́n rất lạ lùng. Về sau, [từ
cây đó] sanh ra một người con gái (Nại Nữ Kỳ
Bà Kinh nói cây sanh ra một người con gái). Người
con gái ấy trưởng thành, hết sức xinh đẹp,
tuổi vừa mười lăm, tiếng đồn khắp
cơi Ấn Độ. Rất nhiều vị quốc
vương của các đại quốc đều biết,
đều tới tiểu quốc ấy, muốn cưới
cô gái đó làm vương phi. Về sau, có tất cả bảy
vị quốc vương đồng thời đến cầu
hôn. Cha cô ta là Phạm Chí, tức người tu đạo,
liền nói rơ sự thật: “Đứa con gái này chẳng
phải là con gái của ta. Nó từ cây Nại sanh ra”. Sau
đấy, dựng một ṭa lầu cao, bảo: “Ai có thể
lên được lầu này, đứa con gái Nại Nữ
này sẽ thuộc về người đó”. Về sau, cha
của vua A Xà Thế lên ngôi lầu ấy trước; do đó,
cưới [Nại Nữ] làm vương phi. Lúc đó, vua
chẳng cưới bà ta về nước ḿnh, mà thành thân
ngay trong tiểu quốc đó. Sau này, sanh nở một
đứa con, đứa con ấy được đặt
tên là Kỳ Bà. Sau khi được sanh ra, đến
năm lên tám, Kỳ Bà mới đến chỗ phụ
vương. Khi ấy, phụ vương và đại phu
nhân vẫn chưa có con, bèn lập Kỳ Bà làm Thái Tử.
Nhưng hai năm sau, sanh ra vua A Xà Thế, vị đại
phu nhân của quốc vương được nhắc tới
trong phần trước hạ sanh Thái Tử thật sự.
Sau khi đứa bé ấy được sanh ra, Kỳ Bà
đă mười tuổi, rất hiểu chuyện. Ông ta
biết mẹ ruột của ḿnh chẳng phải là đại
phu nhân, bèn nhường ngôi Thái Tử cho A Xà Thế
được sanh sau, chẳng làm Thái Tử nữa. Có một
đoạn nhân duyên như vậy. Ông ta không làm Thái Tử,
nhưng là một y sĩ nổi tiếng, y thuật hết
sức cao minh. Hai chữ Kỳ Bà dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Cố Hoạt (固活: Cố là chữ Cố trong Kiên Cố (堅固), Hoạt
là chữ hoạt trong Hoạt Mạng (活命: sống sót). V́ sao gọi
là Cố Hoạt? Phàm bất luận kẻ nào, mắc phải
tuyệt chứng[13]
cũng thế, hoặc mắc bệnh ǵ cũng thế, chỉ
cần ông ta trị liệu, tất nhiên sẽ đều
được cứu sống. V́ thế, ông ta có tên là Cố
Hoạt.
IV.1.2.6. Tỳ
Đà
Khi
ấy, hai vị đại thần này đều hết sức
lừng danh trong nước. Nguyệt Quang tuyệt diệu
lắm, vừa thông minh, lại vừa lắm trí huệ. Kỳ
Bà th́ sao? Đă là anh của Thái Tử, y thuật lại hết
sức cao minh. Do vậy, trong nước, ai nấy đều
kính nể hai vị đại thần này. Thuở ấy,
hai vị đại thần này nghe đại vương
toan sát hại mẫu thân, vội chạy đến: “Vị vương tác lễ”
(Làm lễ đối với vua). Khi hai người ấy
muốn khuyến cáo nhà vua, trước hết, phải
hướng về vua hành lễ. Hành lễ xong, bèn nói, “bạch ngôn” (白言) là
thưa bẩm, trước hết nói: “Đại vương”, thưa thốt với
nhà vua, hai vị thần tử bèn nói: “Thần văn Tỳ Đà Luận Kinh thuyết”, [nghĩa là] chúng tôi có nghe kinh
luận Tỳ Đà nói.
Đối
với chữ Tỳ Đà Luận, xin các vị xem đề
cương bài giảng. Hai chữ Tỳ Đà (Vedas) c̣n
đọc là Vi Đà, phiên âm theo lối mới[14]
là Phệ Đà (吠陀), dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Minh Trí (明智), [tức
là] dạy người ta phát khởi trí huệ. Đó là
kinh điển ǵ vậy? Chính là kinh điển rất trọng
yếu của hàng Bà La Môn. Tỳ Đà Luận của Bà La
Môn phân lượng rất nhiều, tổng cộng có một
ngàn hai trăm sáu mươi sáu loại, bao hàm hết sức
nhiều ư nghĩa. V́ sao nêu lên kinh điển Bà La Môn? V́
trong thuở ấy, các nước tại Ấn Độ
chẳng chú trọng ghi chép lịch sử cho lắm. Điều
này chẳng giống Trung Hoa. Tại Trung Hoa, sau khi đă có
văn tự, luôn chú trọng ghi chép lịch sử. Do vậy,
tại Trung Hoa, có rất nhiều người nói: “Lục kinh giai sử dă”. [Ư
nói], Nho gia có sáu kinh[15],
những điều được ghi chép trong ấy đều
là lịch sử. Ở Ấn Độ, chẳng phải
là như vậy, Ấn Độ tương phản với
chúng ta. Họ chú trọng giảng giải đạo lư,
phàm những ǵ thuộc về lịch sử đều chẳng
chú trọng cho mấy. V́ vậy, nếu nói đến lịch
sử, chỉ có cách dựa theo ngoại đạo Bà La Môn
để nói, truy t́m sự thật trong thời cổ từ
kinh điển. V́ thế, hai vị đại thần ấy
đem kinh điển Tỳ Đà Luận của Bà La Môn
ra bàn. Cũng giống như người Trung Hoa biện luận
cùng kẻ khác, hễ nói đến đạo lư, đạo
lư dựa theo kinh điển [để lập luận] th́
sẽ có trọng lượng. Lư lẽ do chính ḿnh tự nói
sẽ chẳng có sức mạnh cho mấy. Nêu ra kinh điển
Bà La Môn để bênh vực chủ trương của
chính ḿnh.
[Hai vị đại thần
nói]: Chúng tôi nghe từ kinh Tỳ Đà Luận mà biết, “kiếp sơ dĩ lai” (từ
kiếp ban sơ cho tới nay). Nói “kiếp sơ” (劫初) là kiểu
nói của Ấn Độ, Trung Hoa thường nói là: “Tùng khai thiên tịch địa
dĩ lai” (Từ lúc mở trời, tách đất tới
nay). Nói theo ghi chép trong lịch sử Trung Hoa, vào thời viễn
cổ, t́m được một người gọi là Bàn
Cổ Thị (盤古氏)[16].
Trong thời cổ, ông ta đă tách biệt trời và đất.
Mỗi dân tộc đều có một thời đại
thần thoại, “kiếp
sơ” cũng có ư nghĩa gần giống ư nghĩa này.
Từ lúc dựng trời mở đất măi cho đến
khi đó, “hữu
chư ác vương” (có các vua
ác), có rất nhiều rất nhiều quốc vương
rất xấu xa, đớn hèn, họ “tham quốc vị cố” (do tham ngôi vua), v́ tham cầu
muốn làm quốc vương, tham lam ngôi vua mà “sát hại kỳ phụ”, tức
là giết hại cha ruột. Từ thuở kiếp sơ
cho đến khi hai vị đại thần ấy
bàn luận, có tất cả bao nhiêu gă vua ác giết hại
cha ḿnh? Có “nhất vạn bát
thiên. Vị tằng văn hữu vô đạo hại mẫu”
(một vạn tám ngàn kẻ. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ).
Chưa hề nghe nói! Trong kinh luận Tỳ Đà, chưa
hề nói có quốc vương nào vô đạo đến
mức toan sát hạt mẹ ḿnh! Chẳng có chuyện ấy.
Điều này có nghĩa là: Từ xưa tới
nay, có những gă quốc vương xấu xa, đớn
hèn, giết cha để đoạt ngôi vị quốc
vương. Kẻ giết cha chẳng có chi lạ, tổng
cộng là có đến một vạn tám ngàn đứa,
nhưng chẳng có đứa nào giết mẹ. Xét ra, câu
này có nghĩa là giết cha là chuyện c̣n có thể du di
được, chứ giết mẹ là tội đại
nghịch bất đạo nhất! Nhưng điều
này hoàn toàn chẳng phải là nói “có thể giết cha”
đâu nhé! Chỉ là so sánh giữa hai đằng, giết mẹ
là chuyện chẳng thể tha thứ nhất! Chuyện
này nói như thế nào? Tại Trung Hoa, vào thời Tam Quốc,
cũng có một câu chuyện nhỏ. Cuối đời
nhà Hán, con Tào Tháo là Tào Phi soán vị[17],
trở thành Ngụy Văn Đế của nước Ngụy.
Thuở ấy, cũng không nói chuyện đạo đức.
Có một vị văn nhân tên là Nguyễn Tịch. Nguyễn
Tịch
(阮籍) là một
văn nhân trong nhóm Trúc Lâm Thất Hiền[18].
Khi ông ta làm quan tư pháp trong triều
đ́nh của Ngụy Văn Đế, có một hôm nghe
nói có kẻ giết cha, thuở ấy, giết cha cũng
là chuyện đại nghịch bất đạo. Nguyễn
Tịch sau khi nghe xong, bèn nói: “T́nh h́nh giết cha c̣n có thể
tạm dung; nếu giết mẹ, sẽ là chuyện chẳng
thể dung thứ nhất”. Ngụy Văn Đế nghe
nói vậy, bèn hỏi: “Giết cha là đại nghịch,
đại ác, v́ sao c̣n có thể dung thứ được?”
Nguyễn Tịch liền tâu: “Nhân loại vào thời cổ
là xă hội mẫu hệ. Người thời ấy sống
cùng với cầm thú một chỗ. Do chẳng có chế
độ hôn nhân, kẻ b́nh phàm chỉ biết có mẹ, chẳng
biết có cha. Giống như loài thú, chỉ thuần túy biết
có mẹ, chẳng biết có cha. V́ thế, nói c̣n có trường
hợp giết cha, c̣n như giết mẹ th́ dường
như chưa hề nghe nói tới. Nếu hỏi v́ sao có
thể giết cha mà chẳng thể giết mẹ ư?
Giết cha th́ trong loài cầm thú có những trường hợp
như vậy. Nếu loài người mà giết cha th́ giống
hệt như cầm thú, chẳng thể gọi là người.
Nếu giết mẹ, ngay cả cầm thú cũng chẳng
bằng! Chẳng hề nghe nói cầm thú giết mẹ!” Dựa
theo thí dụ như vậy để nói, cho nên Nguyễn Tịch
trả lời Ngụy Văn Đế: Từ xưa tới
nay, chưa từng có ai giết mẹ. Giết cha th́ trong lịch
sử c̣n có những tiền lệ, v́ tham cầu quyền
vị, tham cầu ngôi vua, c̣n có những trường hợp
ấy. Nhưng giết mẹ th́ không chỉ là nhân loại
chẳng có, ngay cả loài súc sanh cũng chẳng có! Nếu
nhân loại giết mẹ, th́ nói cách khác, ngay cả súc sanh
cũng chẳng bằng. V́ thế, trong đoạn kinh
văn này, hai vị đại thần nói giết hại
cha th́ có lắm kẻ như vậy, chưa từng nghe nói
có kẻ nào giết mẹ! Câu kinh văn này chứa đựng
ư nghĩa rất sâu xa, ḥng bảo cho vua A Xà Thế biết:
Nếu ngươi thật sự muốn giết mẹ,
ngay cả súc sanh cũng chẳng bằng đâu nhé! Ư
nghĩa ở chỗ này! Dùng lời lẽ nêu sự lợi
hại để cho đại vương biết: “Vương kim vi thử sát nghịch
chi sự” (Nay vua làm chuyện giết chóc, đại nghịch
ấy), nay nhà vua làm chuyện đại nghịch ấy (“vi thử” là làm loại chuyện
như thế này). “Nghịch” (逆) là đại nghịch,
không chỉ là muốn giết cha, mà c̣n toan giết mẹ.
Giết cha đă chẳng phải là người, mà giống
như súc sanh. Nhà vua tiến thêm bước nữa, muốn
giết mẹ, [thế th́] ngay cả súc sanh cũng chẳng
bằng! Có ư nghĩa như vậy đó! Nay nhà vua nghiễm
nhiên làm chuyện ấy. “Ô sát-lợi
chủng”, “ô” (污) là ô nhiễm,
bại hoại, tức là bại hoại ḍng giống Sát-lợi.
IV.1.2.6. Tứ
tánh
Xă hội Ấn Độ
thuở ấy có bốn đại chủng
tánh (Cattāro-varṇa).
Xin
quư vị xem đề cương bài giảng. Trong xă hội
Ấn Độ chia thành bốn chủng tánh, giống
như trong xă hội có bốn loại giai cấp:
1)
Một loại là Bà La Môn (婆羅門: Brāhmaṇa). Bà La Môn là tiếng Phạn, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là “tịnh
hạnh giả” (淨行者), là giai
cấp tu hành, nhấn mạnh đạo đức. Hết
thảy các hành vi đều hết sức thanh tịnh, cao
thượng, cũng được người trong toàn
thể xă hội tôn kính.
2)
Loại thứ hai là Sát-đế-lợi (剎帝利, Kṣatriya). Sát-đế-lợi là
chủng tánh của vua, là chủng tánh của quốc
vương, giống như chế độ quân chủ thế
tập phong kiến tại Trung Hoa vào thời cổ. Nói là “vương chủng”, tức
là từ thế hệ này sang thế hệ khác, hễ thuộc
về chủng tộc quốc vương đều có thể
kế thừa vương vị. Sát-đế-lợi là
vương giả, sanh ra là con em trong gia đ́nh
vương giả. Đó là một chủng
tánh.
3) Kế đó là Phệ Xá (吠舍: Vaiśya).
Phệ Xá là chủng tánh “thương
cổ” (商賈), tức là thương nhân, từ
tổ tiên măi cho đến con cháu các đời sau đều
là những người làm nghề kinh doanh buôn bán.
4) Loại thứ tư là
Thủ Đà (首陀: Sūdra). Thủ Đà là nô lệ,
cũng là nông dân. V́ sao nông dân gọi là Nô Lệ? Trong bốn
đại chủng tánh, địa vị của nông dân thuộc
loại thứ tư. Họ giống như nô lệ làm lụng
cho người khác. V́ thế, gọi là nô lệ.
Giai
cấp phân chia rất rơ ràng. Con em thuộc chủng tánh nào
sẽ thuộc về chủng tánh đó, chẳng thể lẫn
lộn. Bà La Môn là Bà La Môn, Sát-đế-lợi là Sát-đế-lợi,
Phệ Xá là Phệ Xá, Thủ Đà là Thủ Đà, chẳng
thể hoán chuyển cho nhau! Phệ Xá biến thành Thủ
Đà, Thủ Đà biến thành Phệ Xá, là chuyện chẳng
thể nào có! Giai cấp rất nghiêm ngặt, giới hạn
rành mạch. Đấy là tứ đại chủng tánh.
IV.1.2.7.
Chiên Đà La
Ngoài bốn chủng tánh ra,
c̣n có một loại gọi là Chiên Đà La (旃陀羅: Caṇḍāla). Chiên Đà La là ǵ? Dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Nghiêm Xí (嚴幟). Nghiêm
Xí có nghĩa là dùng chuyện tạo tác ác nghiệp để
trang hoàng cho thân phận của họ. Kẻ ấy vừa
thấy liền [tạo ấn tượng] là kẻ đại
diện cho người ác. Hạng người này ở
ngoài bốn chủng tánh, mà cũng thấp hơn bốn chủng
tánh, hạng người ấy gọi là Chiên Đà La. Họ
làm nghề ǵ? Đồ tể. Đồ tể chuyên môn
gây tạo sát nghiệp. Kẻ làm đồ tể là người
tạo tội nghiệp. Cho nên đến nơi đâu, nhất
là đến đô thị, chính ḿnh phải báo hiệu. Báo
hiệu ǵ vậy? Trước hết là lắc chuông, rồi
gơ một khối gỗ, tự ḿnh nêu rơ thân phận. Nêu rơ
chính ḿnh là một kẻ tạo ác nghiệp, gọi là Chiên
Đà La. Vừa rung chuông, vừa gơ vào một khúc gỗ, nhằm
nhắc nhở kẻ khác chú ư, người ác đến
đó! Khiến cho người khác biết rơ kẻ đó
chính là đồ tể. Kẻ tạo tội ác ở
dưới bốn chủng tánh, bị người ta khinh
thường nhất. Hạng người ấy gọi là
Chiên Đà La.
Sau khi đă t́m hiểu thân phận
của hạng người này, lại xem tiếp lời
hai vị đại thần đă nói: “Đại
vương! Hôm nay bệ hạ làm chuyện sát nghịch
này” (“Sát” là giết hại, “nghịch” là chuyện đại
nghịch giết cha, giết mẹ). Sau khi nhà vua đă làm
ra chuyện ấy, sẽ ô uế ḍng dơi Sát-lợi. Ḍng
Sát-lợi là vương gia. Trừ Bà La Môn ra, được
tôn kính nhất là Sát-đế-lợi. Nhà vua làm như vậy
chính là phá hỏng chủng tánh Sát-đế-lợi, khiến
cho toàn thể vương chủng bị ô nhiễm. V́ thế,
“thần bất nhẫn
văn” (thần chẳng nỡ nghe). Nói “thần chẳng nỡ nghe” là ǵ? Đại
vương muốn giết cha, giết mẹ, rơ ràng là
chính mắt có thể trông thấy, nh́n thấy, nhưng hiện
thời nghe c̣n chẳng nỡ nghe. Nghe mà c̣n chẳng nỡ
ḷng nào nghe, há dám chính mắt trông thấy ư? Đă chẳng
nỡ chính mắt trông thấy, đại vương tạo
đại ác nghiệp này, ô uế vương chủng, chẳng
xứng đáng thuộc về ḍng dơi vương gia. Tuy
thân phận là quốc vương, nhưng xét theo
phương diện nhân cách, chẳng xứng đáng! Đừng
nói là Sát-đế-lợi, ngay cả thương nhân hoặc
nô lệ đều chẳng bằng! “Thị Chiên Đà La”: Chỉ có thể sánh ví
như Chiên Đà La (hạng người chuyên môn làm đồ
tể, tạo tội, gây ác nghiệp). Đó là nói theo bốn
đại chủng tánh tại Ấn Độ vào thời
ấy.
T́nh huống thời cổ
và hiện thời khác nhau. Khi chúng ta nghiên cứu, phải
phân định thời đại rơ ràng. Ấn Độ
hiện thời đương nhiên chẳng phải là
như vậy. Ấn Độ hiện thời là xă hội
công thương nghiệp. Giới thương cổ
đương nhiên là phải cao minh hơn vương chủng.
Hiện thời làm nông dân cũng chẳng giống như
thời cổ, quan hệ thời đại bất đồng.
Vào thuở ấy là như vậy. Sau khi họ đă nêu ra
lẽ lợi hại, “ngă đẳng”
(bọn thần), hai vị đại thần nói tới
hai người bọn họ, “bất
nghi phục trụ ư thử” (chẳng nên ở
nơi đây nữa), chẳng thích hợp để tiếp
tục sống trong quốc gia này. Ở đây, có ư
nghĩa như thế này: Trong đại quốc gia này, hai
vị đại thần ấy là thần tử trong
nước. Nói theo phía một vị đại thần, phải
bảo vệ, hộ tŕ quốc vương, làm những
chuyện lợi ích cho quốc dân, nhưng đại
vương nay làm chuyện chẳng ra người, nếu
bọn họ vẫn ở đây phục vụ, tức là
cũng như họ giúp đỡ cầm thú, thậm chí ngay
cả cầm thú vẫn chẳng bằng! V́ thế, chẳng
thể tiếp tục sống ở nơi đây. Xét đến
ư nghĩa của câu nói này, bao gồm rất nhiều chuyện,
văn tự trong kinh văn viết rất đơn giản.
Chúng
ta hăy nghĩ xem, lúc đó, sau khi đă đến nơi,
trước hết, hai vị đại thần hướng
về đại vương hành lễ. Đương
nhiên là trước tiên dùng lời lẽ êm ái để
khuyên nhủ, khuyên vua đừng nên giết mẹ. Lúc ấy,
nhà vua hết sức tức giận, ai đến khuyên bảo
cũng đều chẳng tiếp nhận, khuyến cáo kiểu
nào cũng chẳng tiếp nhận. V́ thế, hai vị
đại thần mới lấy những chuyện từ
xưa tới nay, dùng các lẽ lợi hại để nói
cho nhà vua nghe. Nói đến cuối cùng, thật sự là cảnh
cáo: Nếu nhà vua không tiếp nhận, chẳng nghe lời
khuyên can, vẫn cứ kiên tŕ muốn sát hại mẹ, họ
sẽ chẳng ở trong nước này nữa. Hai vị
trọng thần chẳng ở lại, hăy nghĩ xem! Hậu
quả nghiêm trọng lắm!
(Kinh) Thời nhị đại
thần, thuyết thử ngữ cánh, dĩ thủ án kiếm,
khước hành nhi thoái.
(經)時二大臣,說此語竟,以手按劍,卻行而退。
(Kinh: Bấy giờ, hai vị
đại thần nói lời ấy xong, dùng tay đè kiếm,
lùi chân bước ra).
“Thời
nhị đại thần, thuyết thử ngữ cánh”,
[nghĩa là] lúc đó, hai vị đại thần nói xong những
lời lẽ trên đây. “Dĩ
thủ án kiếm” (Lấy tay đè kiếm): Nh́n vào
động tác của hai người đó, cũng tưởng
tượng được t́nh huống khi ấy. Vua A Xà
Thế tay cầm gươm toan giết mẹ, hai vị
đại thần khuyên vua chẳng được. Sau khi
đă nói xong lẽ lợi hại, trên thân hai người vốn
đều đeo gươm, mỗi người tay nắm
lấy kiếm đang đeo trên thân, dùng tay đè lên, chẳng
xoay người, vẫn đối mặt với đại
vương lùi ra sau, “khước
hành nhi thoái” (lùi chân lui ra). Thông thường, lễ nghi
khi gặp quân chủ (vua chúa) là như vậy. Sau khi bái kiến
quân chủ, bẩm báo xong, khi từ biệt, không ngay lập
tức xoay người bước đi, mà là tiếp tục
đối diện với quân chủ, bước lùi dần
ra sau. Lui đến một khoảng kha khá rồi mới
xoay người đi ra ngoài. Nh́n bề ngoài th́ là họ giữ
lễ; trên thực tế, chẳng phải là như vậy.
Quư vị xem nhé: Dùng tay đè kiếm, tức là trong tay nắm
lấy kiếm, đề pḥng đại vương nổi
cáu. V́ hai vị đại thần ấy sau khi đă nói những
điều lợi hại, nếu đại vương
chẳng tiếp nhận, thừa cơ hội hai người
bọn họ quay người bỏ đi, đại
vương ở phía sau, ngay lập tức động thủ,
sát hại bọn họ th́ làm thế nào đây? Do vậy, họ
lấy tay đè kiếm, đi lùi ra, nhằm đề
pḥng vua A Xà Thế thừa dịp sát hại họ. Chính
ḿnh có tác dụng đề pḥng trong ấy.
(Kinh) Thời A Xà Thế kinh bố,
hoảng cụ, cáo Kỳ Bà ngôn: “Nhữ bất vị ngă
da?” Kỳ Bà bạch ngôn: “Đại vương! Thận mạc
hại mẫu”. Vương văn thử ngữ,
sám hối, cầu cứu, tức tiện xả kiếm,
chỉ bất hại mẫu.
(經)時阿闍世,驚怖惶懼,告耆婆言:汝不為我耶?耆婆白言:大王,慎莫害母。王聞此語,懺悔求救,即便捨劍,止不害母。
(Kinh: Khi đó, A Xà Thế kinh
hăi, hoảng sợ, bảo Kỳ Bà rằng: “Ông chẳng
v́ ta ư?” Kỳ Bà tâu rằng: “Tâu đại vương!
Hăy thận trọng, đừng hại mẹ”. Vua nghe lời
ấy, ăn năn, hối lỗi, liền buông bỏ
gươm, thôi không hại mẹ).
Hai
vị đại thần biểu hiện hành vi ấy, vua
A Xà Thế sẽ suy xét. “Thời
A Xà Thế, kinh bố, hoảng cụ”: Vua A Xà Thế thấy
động tác ấy, hết sức kinh hoảng, sợ
hăi! “Cáo Kỳ Bà ngôn” (bảo
Kỳ Bà rằng), Kỳ Bà là anh vua, nói với Kỳ Bà: “Nhữ bất vị ngă da?” (Ông
chẳng v́ ta sao?). Nay ông chẳng giúp đỡ, chẳng bảo
vệ ta ư? Có nghĩa là ông muốn phản bội, ĺa bỏ
ta ư? “Kỳ Bà bạch ngôn:
Đại vương, thận mạc hại mẫu”:
Kỳ Bà liền nói: “Tâu đại vương! Ngài hăy thận
trọng suy xét, chớ nên sát hại mẹ!” “Vương văn thử ngữ,
sám hối, cầu cứu”: Sau khi nghe lời ấy, vua
bèn cảm thấy ăn năn. V́ hai vị đại thần
ấy bỏ đi, địa vị của nhà vua sẽ
chẳng ổn; cho nên vua hoảng sợ, ăn năn, van
nài. “Tức tiện xả kiếm”:
Lập tức buông gươm trong tay xuống, “chỉ bất hại mẫu”:
Ngưng không hại mẹ nữa.
(Kinh)
Sắc ngữ nội quan, bế trí thâm cung, bất linh phục
xuất.
(經)敕語內官,閉置深宮,不令復出。
(Kinh: Sắc truyền nội quan, nhốt kín trong
thâm cung, chẳng cho ra nữa).
Tuy chẳng hại mẹ nữa,
nhưng “sắc ngữ nội
quan, bế trí thâm cung, bất linh phục xuất”, [nghĩa
là] ngay lập tức bảo quan viên trong cung đ́nh, gọi
các vệ sĩ nhốt chặt mẹ trong thâm cung, chẳng
cho bà đi ra, cũng tức là giam cầm mẹ. Sau khi ông
ta nhốt mẹ, mẹ ông ta thỉnh cầu như thế
nào, cầu đức Phật thuyết pháp cho bà ta, lần
sau sẽ nói. Hôm nay, tôi nói tới chỗ này.
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư
phần 2 hết
[1] Gọi là Lưu Tống để phân biệt với Triệu Tống tức
là nhà Tống do Triệu Khuông Dẫn sáng lập sau nhà
Đường. Nhà Lưu Tống (420-479) thuộc Nam Triều,
chỉ truyền được sáu đời vua, trong khi
nhà Triệu Tống (960-1279) gồm hai giai đoạn
Bắc Tống (960-1127) và Nam Tống (1127-1279), tổng cộng
mười tám đời vua. Sở dĩ có nhà Nam Tống
là v́ sau khi cha con Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông bị quân
Kim bắt về giam lỏng tại thành Ngũ Quốc,
quân Kim chiếm trọn miền Hoa Bắc. Khang Vương
Triệu Cấu chạy thoát về phương Nam,
được triều thần tôn lên làm vua, tức là Tống
Cao Tông. Sau nhiều lần bị truy đuổi, phải
chạy về Giang Nam, Tống Cao Tông lấy Hàng Châu làm kinh
đô, đặt tên là Lâm An phủ, mở ra triều đại
Nam Tống.
[2] Cương Lương Da Xá: Theo Cao
Tăng Truyện, Ngài tánh t́nh cương trực, thông minh,
mẫn tiệp, chuyên nghiên cứu A Tỳ Đàm Bà Sa Luận,
thông thuộc giáo nghĩa của nhiều tông phái. Ngài
thường nhập Định cả tuần. Ngài đến
Trung Hoa trong niên hiệu Nguyên Gia, Tống Văn Đế rất
hâm mộ, bèn thỉnh Ngài đến kinh đô, trụ tại
Đạo Lâm Tinh Xá. Sư đă dịch các kinh như Quán
Vô Lượng Thọ Phật Kinh, Quán Dược
Vương Dược Thượng Kinh v.v…
[3] Đây là những thuật ngữ chỉ
các phần trong một tác phẩm văn chương, dù là
một bài viết ngắn ngủi, cũng phải có đủ
bốn phần như sau:
1) Khởi (起)
là giới thiệu chủ đề, nêu tóm tắt bối
cảnh của sự kiện và mối quan hệ giữa
các nhân vật.
2) Thừa (承):
Tiếp nối ư đă nêu, dẫn dắt đến tŕnh tự
phát triển cho câu chuyện.
3) Chuyển (轉):
Nêu lên những điều mấu chốt trong diễn biến,
phát triển tính cao trào trong quá tŕnh diễn biến.
4) Hợp (合):
Tổng kết sự kiện, đưa đến kết
luận.
[4] Ngũ Hồ Loạn Hoa (304-439) là một
giai đoạn rối ren nhất trong lịch sử Trung
Hoa, kể từ khi tám vị vương gia gây loạn
(291-306) khiến cho nhà Tây Tấn suy yếu cùng cực, khiến
cho năm dân tộc không phải là Hán tộc (Hung Nô, Tiên Ty,
Yết, Khương, Đê) thừa cơ xâm nhập Trung
Hoa, chia Trung Hoa thành nhiều vương quốc nhỏ. Nếu
chỉ kể những nước chánh yếu th́ có đến
mười sáu nước, nên sử thường gọi
là Ngũ Hồ Thập Lục Quốc. Giai đoạn này
thường được coi là chính thức bắt đầu
khi Lưu Uyên và Lư Hùng kế tiếp nhau thành lập các
vương triều Hán Triệu và Thành Hán măi cho đến
khi Bắc Ngụy Thác Bạt Đào diệt nhà Bắc
Lương mới chấm dứt. Nhưng sau đó, lại
h́nh thành một giai đoạn khác là Nam Bắc Triều.
Để dễ nhớ, Sử thường có một câu
nói như sau: “Ngũ
Lương, Tứ Yên, Tam Tần, Nhị Triệu, Thành Hán,
Hồ Hạ”. Ngũ Lương là các nhà Tiền
Lương (do Trương Thật người Hán sáng lập),
Hậu Lương (do Lữ Quang người Đê sáng lập),
Nam Lương (do Thốc Phát Ô Cô người Tiên Ty sáng lập),
Tây Lương (do Lư Cao người Hán sáng lập), Bắc
Lương (do Đoàn Nghiệp người Lô Thủy Hồ
sáng lập). Tứ Yên là Tiền Yên (do Mộ Dung Hoảng
người Tiên Ty sáng lập), Hậu Yên (do Mộ Dung Thùy
người Tiên Ty sáng lập), Bắc Yên (do Mộ Dung Vân
người Tiên Ty sáng lập), Nam Yên (do Mộ Dung Đức
người Tiên Ty sáng lập). Tam Tần là Tiền Tần
(c̣n gọi là Phù Tần, do Phù Kiên người Đê sáng lập),
Hậu Tần (c̣n gọi là Diêu Tần, do Diêu Trành người
Khương sáng lập), và Tây Tần (do Khất Phục Quốc
Nhân người Tiên Ty sáng lập). Nhị Triệu là Tiền
Triệu (c̣n gọi là Hán Triệu do Lưu Uyên người
Hung Nô sáng lập) và Hậu Triệu (do Thạch Lặc
người Yết sáng lập). Tên các triều đại
thường dựa theo lănh thổ của nước ấy
thuộc địa bàn của nước chư hầu nào
trong thời Chiến Quốc. Chẳng hạn, Phù Kiên chiếm
vùng Thiểm Tây và Cam Túc vốn thuộc lănh thổ nước
Tần thời Chiến Quốc, nên đặt quốc hiệu
là Tần.
[5] Tần Thủy Hoàng tên là Doanh Chính, là con
trên danh nghĩa của Tần Trang Tương Vương
(Doanh Tử Sở) v́ mẹ ông đă có mang với Lă Bất
Vi trước khi được Lă Bất Vi dâng cho Tần Trang Tương Vương.
[6] Ph́ Thủy (淝水) bắt nguồn từ rặng
núi Tướng Quân giữa hai huyện Ph́ Tây và Thọ Huyện,
chia làm hai nhánh, nhánh chảy theo hướng Tây Bắc đổ
vào sông Hoài, nhánh chảy theo phía Đông Nam đổ vào Sào Hồ.
[7] Ngài Đạo An (312-385) họ Vệ,
người xứ Phù Liễu, huyện Thường
Sơn (nay là huyện Kư, tỉnh Hà Bắc). Ngài là bậc
cao tăng thời Ngụy Tấn, và là thầy của Tịnh
Tông Sơ Tổ Huệ Viễn. Ngài là người đi
tiên phong trong việc nghiên cứu Trung Quán Bát Nhă tại Trung
Hoa. Ngài La Thập đọc trước tác của Sư,
rất khâm phục, dâng tặng Sư mỹ hiệu
Đông Phương Thánh Nhân. Ngài thông minh, mẫn tiệp,
do cha mẹ mất sớm, anh chị nuôi dưỡng,
đến bảy tuổi mới cho đi học, nhưng
đọc sách nào cũng sau hai lượt bèn nhớ không
sai một chữ. Ngài xuất gia năm mười hai tuổi.
Do Ngài tướng mạo xoàng xĩnh, thô kệch, vị thầy
thế độ quá chấp vào h́nh tướng, coi thường
Ngài, sai đi làm ruộng suốt ba năm. Ba năm sau,
Sư xin học kinh tạng, sư phụ bèn tùy tiện lấy
Biện Ư Kinh dài năm ngàn chữ cho xem. Chỉ học
trong lúc nghỉ giữa trưa, Ngài đă đọc thuộc
và thông hiểu ngay trong hôm ấy. Tối về, xin thầy
đổi bộ khác, sư phụ trách mắng. Sau khi nghe
Ngài đọc thuộc, sư phụ bèn đưa bộ
kinh khác là Thành Cụ Quang Minh dài đến một vạn
chữ. Tối về, Sư lại đem kinh trả cho thầy;
thầy rất tức, Sư bèn đọc làu làu chẳng
sai một chữ. Vị thầy sững sờ, mới biết
Sư chẳng phải là phàm nhân. Do đó, không lâu sau, cho
Sư thọ Cụ Túc Giới, rồi cho Sư đi tham học.
Năm 310, ngài Phật Đồ Trừng đến Trung
Hoa. Tổ nhận biết Sư là bậc danh tài, nhưng
do tướng mạo chẳng đẹp đẽ,
thường bị đại chúng coi rẻ; do đó, sau mỗi
buổi giảng kinh, Tổ đều bảo Sư trùng
tuyên một lượt. Ngài lại có biện tài mẫn tiệp,
đả phá những nghi nan của quần chúng rất thiện
xảo, nên mọi người hết sức tin phục
Sư. Sau khi ngài Phật Đồ Trừng viên tịch,
Sư đi khắp nơi giảng dạy, không có trụ xứ
nhất định. Lúc ấy Sư có đến năm
trăm đồ đệ thường theo học, nổi
tiếng nhất là hai vị Pháp Thải và Huệ Viễn.
Năm Thái Nguyên thứ tư (379), tướng Phù Phi của
nhà Tiền Tần vây hăm Tương Dương, bắt
Sư về kinh đô Trường An. Vua Tần là Phù Kiên
đă nói: “Ta dùng mười vạn
quân công hăm Tương Dương, kết quả chỉ
được một người rưỡi. Một
người là ngài Đạo An, nửa người là Tập
Tạc Xỉ”. Ngày mồng Tám tháng Hai năm Thái Nguyên thứ
10 (385), Sư đột nhiên bảo đệ tử: “Ta sắp
ra đi”. Thọ trai xong, Sư đoan nhiên thị tịch,
thọ bảy mươi bốn tuổi. Điểm đặc
biệt là ngài Đạo An tu pháp môn Di Lặc Tịnh Độ,
từng phát nguyện văng sanh Đâu Suất nội viện
và từng được một vị dị tăng hiển
lộ thần thông cho thấy cung điện nơi Sư
sẽ sanh về sau khi mất. Đối với Phật
giáo Trung Hoa, Ngài có công lao to lớn trong việc chỉnh lư
kinh điển, chế định oai nghi, tăng phục
thống nhất, đề xướng tăng sĩ dùng
chữ Thích trước pháp danh, quy định tăng
sĩ phải đắp y ca-sa ngoài áo hậu khi lễ Phật,
tụng kinh, thuyết pháp. Sư chú trọng hoằng
dương tư tưởng Bát Nhă, phản đối lối
“cách nghĩa” (格義, vận
dụng các từ ngữ Đạo gia để giải
thích kinh Phật). Ngài cũng được coi là người
đi tiên phong trong việc hoằng dương Di Lặc Tịnh
Độ.
[8] Theo cách phân biệt nội ngoại th́
bên nội sẽ gọi là “đường” (堂: trong cùng một gia tộc),
hay tùng (從: gần giống). Chẳng hạn
như anh họ con anh trai của cha sẽ gọi là “tùng huynh”, hoặc “đường huynh”, chú c̣n
được gọi là “tùng
phụ” (gần giống như cha) hoặc thúc phụ,
nhưng bác luôn gọi là “bá phụ”.
Trong khi đó, bên ngoại sẽ gọi là “biểu” (表: bên ngoài), như anh họ bên ngoại sẽ
gọi là “biểu ca” hoặc
“biểu huynh”, em gái họ
được gọi là “biểu
muội”, anh hay em của mẹ sẽ gọi là “cữu cữu” (cậu), không
gọi là “bá phụ”.
[9] Bộ sách này, có tên gọi thật
sự là Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa. Thật ra, đó là hai bộ từ điển Phật
giáo cùng tên, đều được trước tác vào thời
Đường. Bản thứ nhất do ngài Huyền Ứng
(?-661) soạn, gồm hai mươi lăm quyển, thường
gọi là Đại Đường Chúng Kinh Âm Nghĩa. Bản
thứ hai do ngài Thích Huệ Lâm (737-820) biên soạn, thường
gọi là Huệ Lâm Âm Nghĩa, gồm một trăm quyển.
Nội dung sách ghi những âm đọc từ các bộ
kinh Phật giáo, tham chiếu các bộ sách về âm vận
trước đó như Tự Thư, Vận Thư v.v…
để chỉ ra cách đọc những chữ đặc
biệt trong kinh Phật, khó tra cứu trong tự điển
thông thường, cũng như những chữ đặc
biệt được sáng tạo trong quá tŕnh dịch kinh.
[10] Tô (酥) là chất béo trích từ
sữa, tức bơ.
[11] Chúng ta thường gọi là chim Chuẩn
là Cắt (Falco). Chim Cắt có cánh mỏng và nhọn, có thể
lao xuống từ trên cao với một tốt độ rất
nhanh. Có những loài như cắt Peregrine có thể lao xuống
với tốc độ lên đến 320 cây số một
giờ!
[12] Đúng ra, tên vị này gọi đầy
đủ sẽ là Pūrna
Maitrayani-putra. V́ thế, kinh Pháp Hoa phiên âm tên Ngài là Phú Lâu Na
Di Đa La Ni Tử. Maitryani (từ bi) là tên mẹ Ngài. Phú
Lâu Na là viên măn. Cha Ngài chính là con của vị quốc sư
nước Ca Tỳ La Vệ. Ngài thông minh từ nhỏ,
trước khi theo Phật đă tinh thông kinh Vệ Đà,
từng vào núi Tuyết học đạo, tu khổ hạnh
với tiên nhân Ba Lê Bà Giá Ca. Sau khi đức Phật thành
đạo, Ngài nghe tin, đến hỏi đạo, vô cùng
khâm phục bèn xuất gia theo Phật. Không những là
người có khả năng thuyết pháp đệ nhất,
mà Ngài c̣n là bậc chân tu nhẫn nhục chẳng kém tôn giả
Ma Ha Ca Diếp. Ngài mong truyền đạo Phật sang xứ
Thâu Lô Na nổi tiếng hung tợn, tàn độc, sẵn
sàng chấp nhận bị chửi rủa, đánh đập,
tra tấn, tù đày, thậm chí hy sinh tánh mạng. V́ thế,
đức Phật tán thán Ngài là bậc “thiện học nhẫn nhục” (khéo học nhẫn
nhục).
[13] Tuyệt chứng (絕症): Chứng bệnh không thể chữa
được, chỉ c̣n chờ chết.
[14] “Phiên âm theo lối mới” ở đây
có nghĩa là tuân theo cách phiên âm của ngài Huyền Trang.
[15] Lục Kinh là Thi, Thư, Lễ Kư, Châu Dịch,
Nhạc Kinh và Xuân Thu. Theo cổ thư, kinh Nhạc chính là
tác phẩm ghi chép về âm nhạc của các quan trông coi âm
nhạc trong triều đ́nh nhà Châu, tức là toàn tập
các thể loại nhạc vào hai triều đại Hạ
và Thương, do Châu Công tu chỉnh mà thành, lại
được các nhạc quan đời Châu kế thừa
tu chỉnh. Có thuyết nói kinh Nhạc thật ra chỉ ghi
nhạc phổ, c̣n lời ca nằm trong kinh Thi. Do kinh Nhạc
thất truyền đă lâu, chẳng ai biết nội dung
thật sự ra sao.
[16] Theo huyền thoại Trung Hoa, Bàn Cổ
là người đầu tiên khai thiên lập địa.
Thuở đầu, trời đất hỗn độn,
trời đất chưa tách rời, hễ trời đất
tăng trưởng bao nhiêu, thân Bàn Cổ sẽ lớn chừng đó, tách rời trời và đất.
Bàn Cổ thân rồng, đầu người, mở mắt
là ngày, nhắm mắt là đêm, thở ra là nóng, hít vào là lạnh,
phun hơi ra bèn thành gió, mây, tắc lưỡi thành tiếng
sấm. Sau khi ông chết, các phần trên thân thể biến
thành các vật chất trong vũ trụ như mắt hóa
thành mặt trời, mặt trăng, lông mày thành sao Bắc
Đẩu, chín khiếu thành chín châu v.v… Các nhà nghiên cứu
cho rằng khi người Hoa tiến vào Trung Nguyên chiếm
đất của dân bản địa (thường bị
gọi miệt thị là Cửu Lê, Miêu Tộc, xua đuổi
họ lên vùng núi hoang vu) đă vay mượn truyền thuyết
chó thần Bàn Hồ (tức thần tổ của các dân tộc
Dao, Xá…), đặt ra truyền thuyết Bàn Cổ.
[17] Tào Phi là con thứ hai của Tào Tháo (anh
cả là Tào Ngang đă chết trận tại Uyển
Thành). Em trai Tào Phi là Tào Thực, là một thi sĩ nổi
tiếng thời ấy. Năm 211, Tào Phi được
phong làm Phó Thừa Tướng. Năm 220, Tào Tháo chết, Tào
Phi nối vị giữ chức Thừa Tướng nhà Hán
và tước hiệu Ngụy Vương. Tháng Mười
năm đó, Tào Phi ép Hán Hiến Đế (Lưu Hiệp)
nhường ngôi, trở thành hoàng đế, đổi quốc
hiệu là Ngụy. Nhưng đến năm 226 th́ bệnh
chết, phải gởi gắm con côi (Tào Duệ) cho bọn
cố mạng đại thần là Tào Chân, Tào Hưu, Trần
Quần và Tư Mă Ư phù tá.
[18] Trúc Lâm Thất Hiền là bảy vị
danh sĩ sống vào cuối đời Ngụy đầu
đời Tấn, gồm có: Nguyễn Tịch, Kê Khang,
Sơn Đào, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Hướng Tú,
Vương Nhung. Họ sống tại vùng Sơn
Dương (nay thuộc Huy Huyện tỉnh
Hà Nam). Họ là những người thích nghiên cứu Huyền
Học, chịu ảnh hưởng mạnh của Lăo
Trang, thanh tịnh vô vi, thích ở trong rừng núi, uống
rượu, làm thơ. Về sau, Kê Khang, Nguyễn Tịch
và Lưu Linh ra làm quan với nhà Ngụy, có quyền hành to lớn.
Khi nhà Tấn cướp ngôi nhà Ngụy, Kê Khang, Nguyễn
Tịch, Lưu Linh từ chối không hợp tác, nhưng
Hướng Tú, Nguyễn Hàm, Sơn Đào, Vương Nhung
đều làm quan cho nhà Tấn. Kê Khang nổi tiếng về
tài đánh đàn cầm, Nguyễn Hàm nổi tiếng về
đàn Nguyễn (đàn Nguyệt phát xuất từ đàn
Nguyễn), Lưu Linh nổi tiếng về tài uống
rượu.