Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng Kư
Phần 4
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ
giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
khởi
giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 13
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ năm,
ḍng thứ hai đếm từ dưới lên, bắt
đầu từ phần sau. Tôi đọc trước
kinh văn một lượt:
(Kinh)
Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam
phước. Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu
Thập Thiện nghiệp. Nhị giả, thọ tŕ Tam
Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. Tam giả,
phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng
Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Như thử
tam sự, danh vi Tịnh nghiệp.
(經)欲生彼國者,當修三福。一者,孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業。二者,受持三歸,具足眾戒,不犯威儀。三者,發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。如此三事,名為淨業。
(Kinh: Muốn
sanh về cơi ấy, hăy nên tu tam phước. Một là hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp. Hai là thọ tŕ Tam Quy, trọn
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. Ba là phát Bồ
Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại
Thừa, khuyến tấn hành giả. Ba sự như thế
gọi là Tịnh nghiệp).
Đoạn
[kinh văn] vừa mới đọc tiếp nối ư “được sanh về Tây
Phương Cực Lạc quốc độ” trong tuần
trước. Đại ư của bài giảng trong tuần
trước là: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi Đề
Hy, cơi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật hoàn
toàn chẳng xa xôi. Đă là chẳng xa, hăy khéo chuyên tâm nhất
trí quan sát cơi nước của A Di Đà Phật, cũng
như quan sát A Di Đà Phật và các vị đại Bồ
Tát v.v… trong cơi ấy là những vị đă tu Tịnh nghiệp
thành công. Đức Phật sẽ v́ bà ta nói rất nhiều
thí dụ, khiến cho bà ta hiểu rơ, đồng thời
cũng khiến cho những người muốn tu Tịnh
nghiệp (tức là người tu Tịnh Độ) trong
đời vị lai (kể từ sau phu nhân Vi Đề Hy
măi cho đến hiện tại, thậm chí trong tương
lai) có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc quốc
độ. Lần trước đă giảng đến chỗ
này.
Hôm
nay, tôi nói tiếp. Ở đây, trước hết, phải
nói rơ cùng các vị. Trong quá khứ, khi Tuyết công lăo sư
(thầy Lư Bỉnh Nam) vừa mới giảng kinh tại
Đài Trung, thầy dạy chúng ta pháp môn Tịnh Độ
thuần túy phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc.
Mấy chục năm qua, thầy một mực giảng pháp
môn này. Tuy lăo nhân gia đă giảng rất nhiều kinh
điển Đại Thừa khác nhau, nhưng tu tập
th́ chỉ có pháp môn này. Sau khi lăo nhân gia trở về Tây
Phương, do hiện nay là thời đại Mạt Pháp,
các thứ tư tưởng đều có, phổ biến
nhất là nói: “V́ sao các vị muốn tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới? Tu nhân gian Tịnh
Độ ngay trong thế giới này tốt hơn nhiều!
Cần ǵ phải đến Tây Phương Tịnh Độ
ở ngoài mười vạn ức cơi Phật!” Hiện thời,
cách nói này hết sức phổ biến. Thuở thầy tại
thế, chúng ta theo học với thầy, có thầy chỉ
dạy, chúng ta chẳng cần sợ hăi, nay th́ cần phải
dè chừng! Những lời lẽ ấy không chỉ nói ở
nơi khác, bọn họ thậm chí cũng dần dần
đến tận Đài Trung gieo rắc tư tưởng
ấy, chúng ta phải đặc biệt chú ư!
Đối
với cái gọi là “nhân gian Tịnh
Độ”, lũ phàm phu chúng ta chẳng có tư cách nhắc
tới! Thích Ca Mâu Ni Phật lăo nhân gia thành Phật trong
đời ác ngũ trược, lại độ chúng sanh
trong thế gian này, chỉ có lăo nhân gia mới có thể làm
được! Chúng ta thấy thế giới Sa Bà này là ngũ
trược ác thế, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật thấy
nó là Tịnh Độ. Trong kinh A Di Đà, lăo nhân gia đă
nói rất rơ ràng, Ngài thấy hai chuyện ấy (thành Phật
và thuyết pháp độ chúng sanh) đều là “thậm nan” (rất khó). Thích
Ca Mâu Ni Phật c̣n thấy là rất khó, lũ phàm phu chúng ta
[toan biến nhân gian này thành Tịnh Độ] chỉ là phường
ăn nói lớn lối mà thôi. Đừng nói là thành Phật,
liễu thoát lục đạo luân hồi ngay trong một
đời này mà c̣n chưa làm nổi, huống hồ kiến
lập nhân gian Tịnh Độ! Chúng ta hiểu rơ tầng
[ư nghĩa] này. Kẻ nói lời ấy, bất luận là trong
t́nh huống nào, chúng ta đừng quan tâm tới họ, chúng
ta tu pháp của chúng ta, nhất định phải phát nguyện
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Trong thế gian này, có kẻ giết cha, giết mẹ
(trong bộ kinh này, vừa khởi đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nêu chứng cứ cho chúng ta thấy), học tṛ của
Phật cũng học theo chẳng khác cho lắm, cũng
muốn giết thầy. Thích Ca Mâu Ni Phật là đấng
đă thành Phật, Đề Bà Đạt
Đa thuộc loại đồ đệ ác, toan sát hại
Ngài, những chuyện này đều nhằm nêu
gương cho chúng ta thấy [t́nh h́nh tệ ác trong thuở
ngũ trược ác thế]! Quả nhiên, đến thời
đại Mạt Pháp trong hiện tại, t́nh h́nh ấy hết
sức phổ biến, giết cha có, giết mẹ cũng
có, giết thầy rất nhiều! Quư vị hăy ngẫm
xem! Thế gian này c̣n có thể chẳng tồi tệ
hơn ư? Trong thế gian này, đối với sự
sanh tử của chính ḿnh mà c̣n chẳng có cách nào [tự lực
giải quyết], há c̣n có thể chuyển biến thế
gian này thành một cơi Tịnh Độ ư? Ai có thể làm
được? Chẳng làm được! Do vậy, chúng
ta nhất định phải kiên tŕ tín niệm, nhất
định phải văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, phải dụng công, phải trọn đủ
rất nhiều nhân duyên. Trong kinh A Di Đà có nói: “Chẳng thể do chút thiện
căn, phước đức, nhân duyên, mà được
sanh về cơi ấy”. Phải có rất nhiều thiện
căn, phước đức và nhân duyên th́ mới có thể
văng sanh.
Tiếp
đó, nói: “Dục sanh bỉ quốc
giả, đương tu tam phước”, [nghĩa là] nếu
muốn sanh vào thế giới của A Di Đà Phật Cực
Lạc, trước hết, hăy nên tu ba loại phước.
V́ sao? Phước hết sức quan trọng. Trong kinh Phật
có dạy: “Thân người khó
được, Phật pháp khó nghe”. Được làm
thân người chẳng dễ dàng! Sau khi được
làm thân người, mong nghe Phật pháp, lại càng chẳng
dễ dàng! Hiện thời, dân cư trên toàn thế giới
có tới mấy chục ức, người học Phật
được bao nhiêu? Tỷ lệ chẳng tương xứng;
đă ít ỏi lại càng ít ỏi hơn! Lấy ngay Đài
Loan để nói, trong hơn hai ngàn vạn người, có
bao nhiêu kẻ học Phật? Nếu tính toán trong số
người học Phật, người học Tịnh
Độ Tông lại được bao nhiêu? Nói thật ra,
trong thời đại Mạt Pháp, chẳng học Tịnh
Độ Tông, mà muốn giải quyết vấn đề
sanh tử ngay trong đời này, sẽ chẳng thể thực
hiện được! Thật ra, người có thể
tu pháp môn này, cũng chẳng phải là ngẫu nhiên. Kẻ
chẳng có phước báo, đừng nói là chánh thức
tu, [ngay cả] mong nghe pháp môn này cũng chẳng dễ dàng (nghe
có Tây Phương Cực Lạc thế
giới, lại nghe danh hiệu A Di Đà Phật đều
chẳng dễ dàng!) Có thể nghe [pháp môn này] tức là có đại
phước báo! Do vậy, muốn sanh về Cực Lạc
quốc độ, phải tu ba thứ phước!
IV.2.1.6. Ba thứ Tịnh
nghiệp
Đoạn
thứ nhất trong Tam Phước: “Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu
Thập Thiện nghiệp” (Một là hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng
giết, tu Thập Thiện Nghiệp). Những điều
này đều là thiện sự trong thế gian. Tuy là thiện
sự thế gian, nếu muốn học đại pháp xuất
thế gian liễu sanh tử, thành Phật v.v… vẫn phải
lấy thiện pháp thế gian làm cơ sở. Chẳng có
cơ sở này, vẫn là chẳng thể được!
Trong thiện pháp thế gian, điều thứ nhất nói
tới hiếu đạo, hiếu dưỡng cha mẹ.
Nho gia Trung Hoa hễ nói tới văn hóa, trong đạo thống
và đạo đức cố hữu, hiếu đạo
hết sức trọng yếu. Phật pháp cũng giống
như vậy, hiếu dưỡng cha mẹ chiếm địa
vị bậc nhất trong các pháp thế gian. Hiếu dưỡng
phụ mẫu: V́ sao nói là “hiếu
dưỡng”? Hiếu (孝) là hiếu thảo, cớ sao nói kèm theo
dưỡng? Dưỡng là “cung
dưỡng” (供養, cung phụng,
nuôi nấng). Cố nhiên, hiếu có phạm vi rất rộng
răi, nhưng cung cấp cơm áo cho cha mẹ chính là điều
kiện cơ bản trong hiếu đạo. Cung cấp
cơm áo cho cha mẹ, gọi là “cung
dưỡng phụ mẫu”. Cha mẹ đă già, con cái có
thể cung dưỡng phụ mẫu,
đó là hiếu đạo cơ bản nhất. Trừ
cung cấp áo cơm ra, trong hiếu đạo, nuôi thân thể
cha mẹ thuộc về phương diện vật chất,
lại c̣n phải dưỡng tâm chí của cha mẹ, khiến
cho cha mẹ trong tâm rất hoan hỷ, chẳng có ưu sầu.
Những điều này đều bao gồm trong Dưỡng.
Phận làm con cái, chẳng tránh khỏi sẽ
hỏi “v́ sao phải hiếu dưỡng cha mẹ?” Bất
luận nói theo văn hóa Nho gia, hay nói theo giáo lư nhà Phật,
đó chính là “báo ân”. Mỗi
người chúng ta đến thế gian này, nhà Phật nói
là “pháp nhân duyên”. Đă nói là
pháp nhân duyên, nhân duyên chẳng đầy đủ, chúng ta
sẽ chẳng thể sanh trong thế gian này! Lấy ngay thân
thể của chúng ta để nói, sở dĩ chúng ta có thể
sanh trong nhân gian, là do có nhân và duyên của cha mẹ và bản
thân chúng ta. Nhà Phật nói là do thức thứ tám. Nói theo kiểu
thông thường, mỗi cá nhân đều có linh hồn, chúng
ta sanh trong nhân gian, chính là “linh hồn”
của chúng ta đầu thai. “Thai”
(胎) là thai mẹ.
Nếu chẳng có cha mẹ, chẳng có thai bào, linh hồn
của chúng ta sẽ chẳng có chỗ nương gá. V́ thế,
chẳng có cha mẹ, sẽ chẳng thể trở thành một
người được! Thân thể của chúng ta do từ
cha mẹ mà có. Người vừa mới được sanh
ra, thân thể bé tí như vậy, chẳng có ǵ hết, chính
ḿnh cũng chẳng thể nói năng, mà cũng chẳng hiểu
chuyện, nếu chẳng được cha mẹ yêu
thương, chăm sóc, chính ḿnh có thể trưởng
thành hay chăng? Chẳng thể lớn khôn được!
Đó là tầng [ư nghĩa] thứ nhất.
Cha
mẹ không chỉ cung cấp áo, cơm, các thứ vật
chất v.v… cho cuộc sống của chúng ta, khiến cho
chúng ta khôn lớn, mà tâm cha mẹ c̣n từ ái, trân quư con cái
nhất. Chẳng có tấm ḷng từ bi ấy, nhân cách và những
điều khác của con cái đều chẳng thể rất
kiện toàn. Hiện thời, có rất nhiều vấn
đề gia đ́nh (gia đ́nh tan vỡ), con cái từ những
gia đ́nh tan vỡ ấy, sau khi lớn lên, tâm hồn ít
nhiều khó tránh khỏi những nỗi thiếu sót, v́ họ
chẳng được cha mẹ chăm sóc hoàn toàn! Đối
với ân đức của cha mẹ dành cho con cái, ắt
là phải đợi cho đến khi chính họ có con cái,
chính ḿnh làm cha mẹ, mới hiểu rơ tâm lư quan tâm, yêu
thương con cái của cha mẹ, cũng như mới hiểu
rơ ân đức cha mẹ to tát dường ấy! Do hiểu
rơ tầng ư nghĩa này, bất luận Nho gia hay Phật
pháp, đều coi chuyện hiếu dưỡng cha mẹ
là chuyện trọng yếu nhất. Mỗi cá nhân chúng ta sanh
trong thế gian, chịu ân đức của cha mẹ nặng
nhất; v́ thế, phải báo ân. Căn bản làm người
khởi sự từ báo ân cha mẹ. Có căn bản này, bản
thân quư vị tu đạo, hoặc làm bất cứ chuyện
ǵ trên thế gian, nhân cách sẽ rất kiện toàn. Do
đó, Phật pháp dạy chúng ta: Người tu phước
phải gieo phước điền (làm bất cứ việc
lành ǵ, phàm là có lợi ích cho người khác, đều coi
là “gieo phước điền”).
Gieo phước điền quan trọng nhất, trong tương
lai có phước báo lớn nhất, chính là hiếu thuận
cha mẹ. Phước điền ấy cao hơn, quan trọng
hơn bất cứ loại phước điền nào
khác. Trong Phật pháp, chuyện này là có căn cứ, chẳng
phải là chúng tôi thích nói như thế nào bèn nói như thế
ấy đâu nhé!
Trong
thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ấn Độ
là một xă hội nông nghiệp, đă từng có lúc mùa màng
thất bát, mọi người đều chẳng có
cơm ăn. Thuở đó, Thích Ca Mâu Ni Phật và các đệ
tử hằng ngày đến lúc ăn trưa đều ra
ngoài tŕ bát khất thực. Gặp phải năm đói
kém, chẳng khất thực được, mọi người
đều chẳng có ǵ ăn. Có một vị tỳ-kheo (người
xuất gia), đem quần áo mặc trên thân bán đi, đổi
lấy một bát cơm, nhưng chính ḿnh chẳng nỡ
ăn, đem cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca
Mâu Ni Phật liền hỏi: “Trong nhà ông c̣n có cha mẹ hay
không?” Vị tỳ-kheo thưa: “Có ạ”. Thích Ca Mâu Ni Phật
bảo thầy ấy hăy đem bát cơm đó về nhà
dâng lên cha mẹ. Vị xuất gia ấy thưa: “Đạo
đức và công đức của Phật cao cả dường
ấy! Con đem cơm cúng dường Phật, Phật bảo
con đem về dâng lên cha mẹ, cha mẹ con làm sao tiếp
nhận được?” Đức Phật bảo vị ấy:
“Cha mẹ sanh ra ông, nói theo pháp thế gian, ân đức của
cha mẹ cao thượng khôn sánh nhất. V́ vậy, ông
đem cơm về dâng lên cha mẹ chẳng sai!” Do vậy,
xét theo lời đức Phật dạy trong câu chuyện
này, có thể thấy báo đáp ân đức cha mẹ là
chuyện thiên kinh địa nghĩa, bất luận thân phận,
địa vị cao đến mức độ nào, bất
luận là ai, cũng đều phải hiếu dưỡng,
cung phụng cha mẹ.
C̣n
có một tầng [ư nghĩa] nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật sanh
trong vương cung. Sau khi đức Phật sanh ra bảy
ngày, mẹ đức Phật là phu nhân Ma Da qua đời.
Sau khi đă khuất, bà sanh vào tầng trời thứ hai
trong Dục Giới (Đao Lợi Thiên). Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật
thành đạo (thành Phật), Ngài đặc biệt từ
nhân gian lên cơi trời Đao Lợi, chuyên v́ mẹ thuyết
pháp, thuyết pháp suốt mùa Hạ, ḥng báo đáp ân mẹ
hoài thai suốt mười tháng. Mẹ Ngài chẳng có ân
nuôi dưỡng, đức Phật vẫn phải báo
đáp. Người đă thành Phật mà c̣n báo đáp mẹ,
huống là hạng phàm phu tầm thường ư? Từ
hai sự thật này, có thể hiểu rơ: Bất luận nói
theo pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, hiếu dưỡng
cha mẹ đặc biệt quan trọng.
Thứ
hai là phụng sự sư trưởng. Nói tới “sư” (師) tức là nói tới thầy.
Chúng ta làm người trên thế gian, điều trọng
yếu nhất là phải hiểu rơ đạo lư làm người.
Bất luận học pháp thế gian hay pháp xuất thế
gian (pháp thế gian là học vấn thế gian, pháp xuất
thế gian là học vấn xuất thế gian), đều
phải cậy vào thầy dạy bảo. Ví như nói đến
chuyện cầu học vấn thế gian, chẳng có thầy
giáo từ các cấp học dạy dỗ, chúng ta biết
được học vấn ǵ chăng? Cố nhiên, nói
theo đạo lư thật sự, tất cả những ǵ
nơi bản tánh đều là tri kiến chân thật, hết
thảy đều hiểu rơ. Nhưng lũ phàm phu chúng ta
chưa khai phát bản tánh, đối với học vấn
thế gian, cần phải có thầy khơi gợi, phát khởi,
chúng ta mới thông hiểu. Chẳng có thầy khơi gợi,
phát khởi, chúng ta sẽ vĩnh viễn chẳng biết!
Lại nói đến chuyện học Phật xuất thế
gian. Trong Phật pháp, nếu chẳng có thầy chỉ
điểm, dẫu chúng ta có học vấn thế gian hết
sức giỏi giang, hiểu rất nhiều đạo lư,
mở kinh điển nhà Phật ra, mỗi chữ chúng ta đều
nhận biết, bất cứ chữ nào trong mỗi bộ
kinh cũng đều xem hiểu, nhưng do chẳng có một
vị thầy trong nhà Phật chỉ dạy, dẫu đọc
hiểu mà cũng như chẳng xem, [bởi lẽ], toàn bộ
đều là hiểu lầm, chẳng thể nhập môn! V́
thế, muốn nghiên cứu học vấn nhà Phật, ắt
cần phải có một vị thầy trong nhà Phật dạy
bảo. Đó là vị thầy thuộc về pháp xuất
thế gian.
Xét
như vậy, những người dạy chúng ta học vấn
thế gian, nhất là dạy chúng ta pháp môn tu đạo
trong nhà Phật, những người ấy đều là sư
trưởng. Đối với sư trưởng, Thích Ca
Mâu Ni Phật dạy phải phụng sự. “Phụng sự” bao hàm rất
nhiều ư nghĩa. “Sự” (事) là thầy
có việc, chúng ta phải làm thay thầy. Điều quan trọng
nhất là “phụng” (奉). Chẳng
phải là làm việc thay cho thầy đă là xong, quư vị
thật sự học với vị thầy ấy th́ phải
tuân chiếu học vấn do thầy đă dạy. Ví
như chúng ta học Phật, đức Phật là thầy
của chúng ta, chúng ta phải phụng sự đức Phật.
Lại c̣n có những vị cao tăng đại đức,
tổ sư trong Phật môn, các vị ấy đều là thầy.
Chúng ta nghiên cứu Phật pháp mà chẳng làm theo những
chỉ dạy trong kinh Phật và chú giải của tổ
sư, c̣n nói đến chuyện phụng sự chi nữa!
V́ thế, điều quan trọng nhất trong phụng sự
là làm theo lời Phật dạy, chiếu theo pháp môn do tổ
sư đă chỉ điểm để tu tập, đấy
mới gọi là “phụng sự”.
Đối với thầy trong trường học thế
gian cũng thế, chẳng thể nói là cầu được
học vấn rồi thôi: “Mặc kệ thầy! Ta đă
đạt được học vấn, chẳng dính líu
ǵ với thầy nữa!” Không được rồi! Hiện
thời rất khó nói đến chuyện “phụng sự”. Trong quá khứ, các vị thầy
của Nho gia không chỉ dạy bảo quư vị tri thức
và học vấn, mà c̣n chịu trách nhiệm dạy học
tṛ về hành vi và nhân cách đến cùng, một mực kèm
cặp, chỉ bảo quư vị, chẳng để cho quư
vị đi theo con đường xấu. Hiện nay
đă là xă hội công nghiệp, đương nhiên chẳng
có sự thân thiết và quan tâm như vậy, nhưng đối
với quan hệ thầy tṛ, nếu quư vị hiểu
đạo lư, vẫn là chớ nên sơ sót. Tuy kinh Phật
và kinh điển Nho gia đều cùng nói như thế,
nhưng thế hệ hiện thời bị ảnh hưởng
bởi tà thuyết, hễ nghe nói theo cách như vậy, vẫn
chẳng nghĩ là đúng. Nhất là vào đầu thời
Dân Quốc, phong trào Ngũ Tứ[1] từ
khởi đầu đă hướng về kẻ b́nh phàm
truyền bá: “Cha mẹ và ta có quan hệ ǵ đâu? Ta là ta, cha
mẹ là cha mẹ. Sở dĩ ta được sanh ra là
do cha mẹ kết hôn nên mới ḷi thêm ta”. Nói kiểu ấy
chính là tà tri tà kiến bậc nhất, gây hại cho đạo
đức bậc nhất. Họ lại nói: “Thầy th́ có
quan hệ ǵ? Bọn họ đến trường học
để lấy tiền lương, cũng giống
như một nghề, ta đi học phải đóng tiền
mà”.
Tà tri tà
kiến ấy cũng chẳng phải là văn hóa cố hữu
của Trung Hoa. Văn hóa cố hữu Trung Hoa nói đến
Ngũ Luân, cha mẹ và anh em đều là thiên luân, bên ngoài
th́ nói tới vua tôi, nói tới bằng hữu. Thầy và
tṛ là sự kết hợp với đạo nghĩa bằng
hữu, thầy tṛ như cha con, cũng giống như
thiên luân. Đạo đức Ngũ Luân xuất phát từ
bản tánh của con người, thiên tánh là như thế.
V́ sao cha mẹ yêu thương con cái như vậy? Do thiên tánh
là như thế. Một cô gái lúc c̣n chưa kết hôn, làm một
vị đại tiểu thư trong nhà, gặp phải
phân chó c̣n sợ. Một mai kết hôn, sanh con, trẻ nhỏ
đại tiện, thối tha hơn phân chó quá nhiều,
[thế mà] bản thân cô ta nh́n thấy chẳng sợ, vẫn
tḥ tay bốc, dọn. Mẹ con là một Thể, thiên tánh là
như thế. Trong ấy, chẳng có quan hệ lợi hại
tồn tại, thuần túy là thiên luân, là biểu hiện
thiên tánh tự nhiên. Đó là đạo đức cố hữu
của Trung Hoa.
Trong
đoạn kinh văn này, tổ sư chú giải đă dựa
theo giáo lư của tông Thiên Thai, “hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng”
tuy là pháp thế gian, nhưng xét theo giáo nghĩa của tông Thiên
Thai, đó chính là Viên Giáo. Viên Giáo là ǵ? Người căn
cơ Viên Giáo học tập pháp thế gian, sẽ trực
tiếp triệt để thấy bản tánh. Họ nh́n
vào pháp thế gian, sẽ thấy nó cũng xuất sanh từ
bản tánh, [pháp ấy] cũng là pháp xuất thế gian. Do
đó, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng, bất luận là Nho học hay Phật pháp,
đều bảo đó là chân lư. Đă đều là chân lư,
đối với những tà thuyết do phàm nhân truyền
bá trong hiện thời, chớ nên nghe, văn chương
do họ viết cũng đừng xem. [Những thứ
đó] cũng khiến cho bọn ta hiểu rơ: Trong hiện
tại, nếu chẳng nghiên cứu kinh Phật, nếu chẳng
nghiên cứu văn hóa cố hữu, sẽ tự nhiên bị
tà thuyết ảnh hưởng mà chính ḿnh chẳng hay biết!
Bởi lẽ, những tà thuyết ấy chẳng phải
do kẻ b́nh phàm nói, những kẻ [tuyên truyền các tà thuyết]
ấy đều là hạng người có thẩm quyền
trong giới học thuật! Vào thời phong trào Ngũ Tứ,
những kẻ tham gia sớm nhất đều là những
học giả hữu danh thuộc đại học Bắc
Kinh, là những nhà đại giáo dục, những ǵ họ
nói toàn là sao chép rập khuôn các học thuyết của Âu
Tây. Sau đấy, [bằng những tà thuyết ấy, họ
đă] hăm hại chúng ta, ô nhiễm các sinh
viên thiện lương của Trung Hoa! Nói đến chỗ
này, hết sức đau ḷng! V́ thế, sau khi chúng ta đă
nghiên cứu, t́m hiểu, phải biện định đúng
sai rơ rệt. Phật pháp dạy kẻ học Phật chúng
ta chớ nên chấp tướng (đừng chấp
tướng thế gian), đừng thấy kẻ nào có
địa vị rất cao trong giới học thuật, đă
đoạt giải Nặc Bối Nhĩ (Nobel), [cứ thấy]
toàn thể thế giới đều sùng bái kẻ đó [mà
mù quáng nghe theo]. Tuy có địa vị như vậy, nhưng
nếu những ǵ kẻ đó nói là tà tri tà kiến, chúng ta
đừng nghe theo! Chúng ta phải thật thà nghe lời Thích
Ca Mâu Ni Phật dạy, nghe theo lời dạy của Khổng
phu tử. Có vậy th́ mới có thể dựa vào đó
để tu đạo tốt đẹp, mong văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới mới khá ổn
thỏa!
Tiếp
đó, kinh văn chép: “Từ
tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”. Thập Thiện
Nghiệp là ǵ? Tương phản của Thập Thiện
Nghiệp là Thập Ác Nghiệp. Điều thứ nhất
trong Thập Ác Nghiệp là sát sanh. Trong phần trước,
khi nói tới ngũ trược ác thế, đă có nói tách bạch
Thập Ác Nghiệp. Ở đây, đức Phật dạy
phải tu Thập Thiện Nghiệp. Điều đầu
tiên trong Thập Thiện Nghiệp là “từ tâm chẳng giết”, chẳng giết th́
phải phát từ tâm. Từ tâm là ǵ? Giống như cha mẹ
từ tâm yêu thương con cái! Giống như Phật, Bồ
Tát từ tâm yêu thương hết thảy chúng sanh chẳng
có điều kiện. V́ sao phàm nhân chúng ta đối xử
tốt đẹp với kẻ khác? Ắt là phải xét coi
ngươi đối với ta như thế nào, ta mới
đối xử với ngươi như thế đó, tức
là có điều kiện! Từ tâm của cha mẹ và Phật,
Bồ Tát là vô điều kiện. V́ lẽ đó, Phật
pháp nói “vô duyên đại từ”, chẳng cần có duyên ǵ,
đối với kẻ xa lạ, kẻ chẳng quen biết,
đều nói tới từ tâm, phải phát huy cái tâm ấy.
Hễ có cái tâm ấy th́ mới có thể chẳng giết!
Nho học gọi từ tâm là Nhân, nhân (仁) trong “nhân nghĩa đạo đức”. Nhân do đâu
mà có? Từ bản tánh mà ra. V́ sao chúng ta phải nói tới
Nhân? Nhân là đối với tất cả mọi người,
đối với tất cả hữu t́nh động vật,
đều phải có cái tâm đồng cảm lớn nhất.
Họ có những khó khăn hoặc đau khổ ǵ, chúng
ta đều mong thay họ giải quyết. Họ chẳng
vui sướng, chúng ta ban cho họ các thứ sung sướng,
khiến cho họ sống hết sức b́nh an, tự tại!
Đấy là vô duyên đại từ, mà cũng là ḷng Nhân
như Nho gia đă nói. V́ thế, nhân từ hết sức
quan trọng!
“Bất sát” là chẳng giết
thứ ǵ? Điều quan trọng nhất là chẳng thể
giết người. Chúng ta cùng là người như nhau,
chẳng thể giết người! Tội giết
người hết sức to lớn, nặng nề. Không
chỉ là chẳng thể sát nhân, mà đối với những
động vật chẳng phải là người ra, bất
luận là động vật cấp cao hay cấp thấp,
dẫu bé tí ti, cũng chớ nên sát hại. V́ sao chẳng
thể sát hại? Trong kinh Phật cũng có nói, quư vị
phải đặt ḿnh vào địa vị của đối
phương để suy nghĩ. Khi chúng ta sắp giết
hại người khác, hoặc động vật nào
đó, trước tiên, hăy đứng trên lập trường
của đối phương, cứ nghĩ giả sử
chính ḿnh bị giết, trong tâm sẽ có cảm tưởng
như thế nào? Là kinh sợ hay sung sướng? Ví như
tôi biết quư vị muốn giết tôi, tôi cảm thấy
rất vui thích, [vậy th́] quư vị có thể giết tôi!
Nếu chẳng phải là tâm lư ấy, chính ḿnh cảm thấy
hoảng hốt, sợ hăi, làm sao có thể giết đối
phương cho được? Phật pháp dạy người
khác phản tỉnh như vậy. Nho học cũng dạy
người ta hăy tự phản tỉnh giống hệt. Hăy
tưởng tượng chính ḿnh gặp phải t́nh huống
y hệt, sẽ có đủ mọi nỗi sợ hăi! Nếu
quư vị vẫn cứ làm hại đối phương,
đối phương chẳng kinh hoảng, sợ hăi
ư? Chẳng nghĩ như vậy, sẽ chẳng phải
là Nhân, chẳng phải là Từ, chẳng nói tới nhân từ
được, mà là cái tâm tàn nhẫn! Một kẻ tàn nhẫn,
làm người c̣n chưa xong, vẫn mong tu đạo, vẫn
mong sanh về Tây Phương, làm sao có thể được?
Kinh
văn dạy như vậy! Sau khi chúng ta xem kinh văn của
Phật pháp, hăy đối chiếu đạo lư được
nói trong hôm nay với xă hội hiện thời, hăy suy
nghĩ xem! Hiện thời là xă hội ǵ vậy? Khi thầy
chúng ta c̣n tại thế, lúc giảng kinh hoặc giảng
sách, cụ thường nhắc nhở: “Tôi chẳng có thần thông chi hết, nhưng tôi có
thể dự đoán chuyện vị lai (tôi nghĩ các vị
lăo đồng tu đều c̣n nhớ). Tôi không chỉ đoán biết chuyện vị lai, lại
c̣n dự đoán chẳng sai cho lắm! Tôi chẳng xem báo
chí, TV ngày mai, mà biết là chẳng thể thiếu chuyện
sát nhân, cướp đoạt, phóng hỏa! Chắc chắn
là có những chuyện ấy”. Quư vị hăy suy ngẫm lời
thầy nói! Đúng là như vậy, chúng ta xem tin tức
trên TV cũng thế, mà đọc báo cũng vậy, ngày
nào mà chẳng có những chuyện ấy? Không chỉ là giết
người thường, mà c̣n giết cha mẹ, thậm
chí cha mẹ giết con cái cũng có luôn! Vốn là thiên tánh
chẳng nỡ giết, kết quả là hiện thời
đều đảo lộn! Mọi người đều
biết: Gần đây có một bà mẹ đem cả
năm đứa con ra biển trấn nước cho chết
sạch! Ngoài ra, cũng có kẻ giết chết hai đứa
con gái của chính ḿnh rồi tự sát. Cơ quan xử án
nói những kẻ đó mắc bệnh tâm thần, tức
là tâm lư có vấn đề. Nếu chúng ta hỏi: “V́ sao có
những kẻ mắc bệnh tâm thần? Bệnh tâm thần
v́ sao mà có? V́ sao quá khứ chẳng nhiều như vậy,
nay lại có nhiều ngần ấy?” Vẫn chẳng phải
là do tà tri tà kiến và tà thuyết trong thời đại
hiện tại tạo thành ư?
Trong
quá khứ, nói đến Ngũ Luân; hiện thời, mọi
người đều chẳng nhắc tới Ngũ Luân.
Nói tới Ngũ Luân, nói hiếu thuận, dạy mọi
người mỗi ngày một phát lộ thiên tánh ra ngoài. Hiện
thời, rao giảng tà thuyết, khiến cho mọi người
mỗi ngày một che kín thiên tánh, che phủ thêm từng tầng
một, kết quả là biến thành nông nỗi như hiện
thời! Do vậy, đối với xă hội hiện tại,
hăy ngẫm xem: Trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài đă
nói là “ngũ trược ác thế”. Ngũ trược ác
thế trong hiện thời so với thuở ấy, càng chẳng
biết là đă ô trược đến mức độ
nào? V́ thế, chúng ta phải biết: Trong thế gian này, t́nh
h́nh trọn hết trong thời đại này là như vậy,
cả thế giới toàn là một bầu hắc ám. Càng ở
trong cảnh hắc ám, càng phải hiểu rơ điều này:
Chúng ta chớ nên giống như những kẻ b́nh phàm.
Trong hắc ám, chúng ta có thể phát ra một chút quang minh,
tuyệt diệu lắm! Ví như vào ban ngày, dưới ánh
sáng mặt trời chói lọi, thắp một ngọn nến,
chẳng thấy rơ rệt, nhưng trong ban đêm không có ánh mặt trời, mà cũng là
đêm tối om chẳng có ánh trăng, thắp một ngọn
nến, nó sẽ tỏa sáng hết sức rơ rệt.
Điều này có nghĩa là: Trong thời đại này, ai nấy
đều chẳng nói tới hiếu đạo, đều
chẳng nhắc tới chuyện phụng sự sư
trưởng, mọi người tổn hại lẫn
nhau, thậm chí giết người. Giết động vật
lại càng chẳng cần phải nói nữa! Ăn một
bữa, chẳng biết đă sát hại bao nhiêu sanh mạng!
Nay chúng sanh gây tạo sát nghiệp nặng nề hơn bất
cứ chi khác. Càng là trong thời đại này, chúng ta càng
chẳng nên hùa theo ô nhiễm như mọi người, phải
chiếu theo kinh Phật để làm. Có thể thời thời
khắc khắc thấu lộ quang minh vốn có trong tâm của
chúng ta, lộ ra một chút ánh sáng, bản thân chúng ta sẽ
c̣n có cách. Không chỉ là chính ḿnh có cách, mà c̣n có thể ảnh
hưởng những kẻ hữu duyên quanh ta! Chúng ta nói
năng, nếu họ nghe lọt tai, sẽ có lợi cho họ!
Ở
đây, nói đến chuyện “từ
tâm bất sát”, có những kẻ nghĩ giết người
là chuyện b́nh thường. Giết các loài động vật
lại càng cảm thấy rất b́nh thường. Chúng ta
đừng nghĩ đó là chuyện b́nh thường, hăy
nên biết đó là chuyện tội ác to lớn cùng cực.
Bản thân chúng ta nhất định phải giữ
được, nhất định phải kiêng giết.
Không chỉ là chớ nên sát nhân, mà đối với những
động vật khác cũng chớ nên sát hại, phải
dưỡng thành “từ tâm chẳng
giết”. Chỉ cần dưỡng thành từ tâm chẳng
giết, tâm từ bi mỗi ngày một tăng trưởng.
Một người hằng ngày vun bồi tăng trưởng
cái tâm nhân từ; nói theo pháp thế gian, người có từ
tâm rất nặng, thọ mạng sẽ tự nhiên tăng
trưởng. Nói theo pháp xuất thế gian tu đạo,
người có tâm từ bi sâu nặng, đạo sẽ tiến
bộ càng nhanh hơn! Nói theo Thập Thiện Nghiệp, chỉ
cần ǵn giữ từ tâm bất sát! Phải giữ hết
sức tốt đẹp điều đầu tiên trong Thập
Thiện Nghiệp là “chẳng
sát sanh”. Nói “Thập Thiện
Nghiệp” tức là chẳng làm mười ác nghiệp.
Điều thứ nhất trong Thập Thiện Nghiệp là
chẳng sát sanh, đó là thiện nghiệp bậc nhất.
Thứ
hai là không trộm cắp, thứ ba là không dâm. “Không dâm” là nói với người
xuất gia, người xuất gia chẳng dâm. Tại gia th́
chẳng hành tà dâm (tức là trừ vợ chồng ra, chẳng
cùng kẻ thứ ba nào khác phát sanh quan hệ luyến ái, th́
gọi là “chẳng tà dâm”). Nơi
thân thể bèn chẳng tạo ba thứ ác nghiệp giết,
trộm, dâm; đó chính là ba thứ thiện nghiệp
nơi thân nghiệp. Nơi miệng bèn chẳng nói dối,
chẳng ác khẩu (“ác khẩu” là ăn nói tổn thương
người khác), chẳng lưỡng thiệt (“lưỡng
thiệt” là xúc xiểm thị phi), chẳng ỷ ngữ (tức
là nói năng, viết văn, hoặc vẽ vời v.v…
hướng dẫn kẻ khác tạo ác nghiệp th́ gọi
là “ỷ ngữ”), đó là bốn thứ thiện nghiệp
nơi miệng. Thân và miệng đều nghe theo tâm lư [chỉ
đạo], tâm là ư. Ư thức có ba loại: Chẳng tham
(không tham cầu hết thảy mọi thứ), chẳng sân
hận (chẳng tùy tiện nổi cáu), chẳng tà kiến
(nói là “tà kiến” tức là kiến giải chẳng phù hợp
đạo lư của thánh nhân). Nơi ư chẳng tham, chẳng
sân, chẳng si th́ ư cũng là thiện.
Thập
Thiện Nghiệp có cạn và sâu, kẻ b́nh phàm như chúng
ta chiếu theo như vậy để tu tập, cũng là
khá lắm! Tu đến chỗ rốt
ráo nhất, nếu nói theo Viên Giáo, ba nghiệp thân, khẩu,
ư đều thanh tịnh. Ba nghiệp đă đều thanh
tịnh, tâm tánh bèn phát lộ, đạt đến cảnh
giới ấy sẽ là cao sâu khôn cùng! Chúng ta đừng nên
thấy Thập Thiện Nghiệp rất đơn giản,
chỉ cần làm tới bên trong [nội dung thật sự
của nó], cảnh giới sẽ rất cao. Hôm nay,
tôi nói đến đây bèn ngừng!
Tập 14
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ năm, xem
hàng cuối cùng. Tôi đọc trước một lượt.
(Kinh)
Nhị giả, thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất
phạm oai nghi. Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín
nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả. Như thử tam sự, danh vi Tịnh
nghiệp.
(經)二者,受持三歸,具足眾戒,不犯威儀。三者,發菩
提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。如此三事,名為淨業。
(Kinh: Hai là thọ
tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc
tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Ba
sự như thế gọi là Tịnh nghiệp).
Đoạn
kinh văn này tiếp tục phần Tam Phước
chưa nói xong trong lần trước. Tam Phước c̣n gọi
là “ba loại tịnh nghiệp”. Trong bộ kinh này, mười
sáu phép Quán trong phần sau chính là công phu chánh thức,
được gọi là “chánh công phu”, ba thứ tịnh
nghiệp đang được nói ở đây chính là công
phu phụ trợ, được gọi là “trợ công phu”.
Trợ công phu hết sức quan trọng. Đối với
ba loại tịnh nghiệp, lần trước đă nói về
loại thứ nhất: “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”. Điểm
quan trọng trong loại tịnh nghiệp thứ nhất
là nói về thiện pháp thế gian. Các vị hăy nh́n từ
kinh văn, đầu tiên là nói đến hiếu đạo.
Thiện pháp thế gian rất nhiều, chọn lấy pháp
trọng điểm, pháp quan trọng nhất th́ chính là hiếu.
Một điểm quan trọng khác nữa là Từ, từ
tâm chẳng giết. Hiếu là nói đối với người
trên, từ tâm chẳng giết là nói với kẻ dưới.
Giáo dục nhà Phật giống như giáo dục của Nho
gia. Giáo dục Nho gia nói “hiếu
từ”, có thể giữ vững hiếu đạo, giữ
vững từ tâm, thiện pháp thế gian bèn đầy
đủ.
Phần
kinh văn hôm nay nói về loại thứ hai trong ba loại
tịnh nghiệp: “Nhị giả,
thọ tŕ Tam Quy”, nói tới Phật pháp. Trong phần
trước là nói về thiện pháp thế gian, thuộc về
pháp thế gian. Dẫu tu pháp thế gian tốt đẹp
cách mấy, vẫn chẳng thể vượt thoát lục
đạo. Tức là tu Thập Thiện Nghiệp hết sức
hoàn bị, sanh lên cơi trời, tối đa là sanh vào Lục
Dục Thiên trong Dục Giới Thiên mà thôi. Muốn vượt
thoát thế gian, phải tu Phật pháp. Muốn xuất thế
gian, đầu tiên là phải thọ tŕ Tam Quy. Thọ (受) là tiếp
nhận. Sau khi đă tiếp nhận, chẳng gạt qua một
bên, mà phải giữ vững, phải nắm chặt, chẳng
buông, một mực chiếu theo đúng pháp để tu,
đó là “thọ tŕ”. Ở
đây, cần phải thọ tŕ những ǵ? Quy y. Đối
với Quy (歸), chúng ta thường nói
là Quy (皈), tức là bên cạnh chữ Bạch (白) có thêm
chữ Phản (反), chữ Quy (皈) này và
Quy (歸) giống nhau.
Quy y có ba
loại, gọi là Tam Quy Y. Tôi nghĩ mọi người
đều hiểu cả rồi, nhưng giảng kinh th́ chẳng
thể không nói. Thứ nhất là quy y Phật, thứ hai là
quy y Pháp, thứ ba là quy y Tăng. Phật là đấng giáo
chủ của thế giới Sa Bà, tức Thích Ca Mâu Ni Phật.
Pháp là các pháp môn do đức Phật đă nói, Tăng là ḥa
hợp chúng, tức tăng đoàn
(người đă thọ Cụ Túc Giới th́ gọi là
Tăng). V́ sao gọi là Quy? Quy (歸) là quay về. Những
ǵ bọn phàm phu chúng ta trong thế gian đă thấy, đă
nghe, trong tâm suy tưởng, không ǵ chẳng phải là tà tri
tà kiến thế gian, đều là chẳng chánh đáng, chẳng
chánh xác. “Quy y” (歸依) là đem những
hành vi và tư tưởng chẳng chánh xác thảy đều
xoay lại, quay về Phật môn, quay về Phật, Pháp,
Tăng. Sau khi đă quay về, bèn nương cậy,
nương cậy vào ai? Nương cậy Phật, Pháp,
Tăng. V́ thế, học Phật th́ điều đầu
tiên là phải thọ tŕ Tam Quy.
Thọ
tŕ Tam Quy tuy rất đơn giản, nhưng chúng ta phải
hiểu rơ (nhất là trong thời đại Mạt Pháp),
nghiên cứu Phật pháp ắt cần phải thọ tŕ Tam
Quy. Hơn nữa, sau khi đă thọ, xác thực là có thể
chiếu theo đó để hành tŕ. Tánh chất trọng yếu
của chuyện này là ở chỗ nào? Chúng ta thường
thấy có rất nhiều người, bề ngoài nói là tin
Phật, cũng là học Phật, nhưng hễ có chuyện
ǵ bèn tin điều khác ngay! Nghe nói chỗ nọ có chuyện
chi đó rất linh cảm, rất linh nghiệm, bèn ùa tới
đó liền! Nơi nọ có thần, có lăo tổ chi
đó, biểu diễn cho thiên hạ xem ngay tại đó,
bèn ùa tới! Nói nghiêm ngặt, chúng ta thật sự thọ
Tam Quy Y th́ những chuyện ấy đều chẳng thèm
nghe! V́ sao? Chúng ta thọ tŕ, quy y Phật, Phật là chí cao
vô thượng. Trí huệ của kẻ nào có thể vượt
trỗi trí huệ của Phật? Công đức của ai
có thể vượt trỗi công đức của Phật?
Hơn nữa, nói đến Pháp do đức Phật giảng,
tức pháp môn, kinh điển của bất cứ tôn giáo
nào cũng đều chẳng thể vượt trỗi Phật
pháp. Bất cứ tôn giáo nào cũng đều chẳng sánh
bằng, huống hồ là quỷ thần giáo chẳng có
kinh điển chi cả! Bọn họ căn bản là chẳng
có kinh điển, chỉ bịa chuyện nói loạn cào
cào, cớ ǵ chúng ta lại tin theo những tà thuyết tùy tiện
nói lung tung ấy?
Lại
nói đến Tăng, Tăng là Tăng Bảo. Tăng
sĩ đă thọ Cụ Túc Giới, có oai nghi, nhưng
trong thời đại Mạt Pháp hiện tại, có những
kẻ giả mạo. Về căn bản, chúng nó chẳng
phải là Tăng, mà là giả vờ, những ǵ chúng nó nói
chẳng phải là Phật pháp, cớ ǵ chúng ta phải đến
nghe chúng nó nói để làm chi? Chúng ta tuy biết đạo
lư, nhưng c̣n có rất nhiều người chẳng phân
định rơ ràng cho lắm, v́ họ vẫn chưa hiểu
rơ Tam Quy! Do đó, chúng ta nghiên cứu kinh văn, tuy thấy
bốn chữ “thọ tŕ Tam
Quy” dường như đơn giản, nhưng nếu
thật sự thọ tŕ Tam Quy, đối với hết
thảy những tà thuyết chẳng hợp Phật pháp ở
bên ngoài, sẽ không đến nghe! Dẫu họ nói hay cách
mấy, cũng đừng tin tưởng bọn ấy,
v́ chúng ta đă quy y từ lâu, chúng ta có Tam Quy.
Nghiên
cứu cao hơn bước nữa, đối với cái
gọi là “quy y Phật, quy y
Pháp”, hăy nói đến Pháp! Hết thảy các kinh trong Kinh
Tạng đều do Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Ba kinh Tịnh
Độ đương nhiên cũng là do Thích Ca Mâu Ni Phật
nói. Trong ba bộ kinh ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy
rơ ràng chúng ta phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Giả sử chúng ta khuyên kẻ khác: “Quư vị
cần ǵ phải tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới? Ở trong thế gian này là được rồi!”
Kẻ nói lời đó, ngay cả Tam Quy cũng đều
chẳng nương cậy! Chẳng tin Phật tức là
chẳng quy y Phật, mà cũng chẳng quy y Pháp. Quy y Phật,
quy y Pháp, sẽ tin tưởng lời đức Phật dạy,
tức là sẽ tin tưởng Pháp! Đối với mỗi
câu kinh văn, ta sợ nghiên cứu quá nhiều sẽ mất
thời gian. Nếu thật sự chịu hướng nội
nghiên cứu, sẽ chẳng sợ phiền phức, những
ư nghĩa bao hàm trong ấy rất nhiều, nếu quư vị
có thời gian, hăy luôn luôn nghiên cứu hướng nội.
Càng nghiên cứu, càng hiểu nhiều đạo lư, tín tâm
đối với Phật pháp càng thâm nhập, càng đạt
được lợi ích to tát. Ở đây, tôi nêu ra điều
này để nhất loạt khích lệ mọi người!
“Thọ tŕ Tam Quy” được
nói ở đây chính là chuyện nhập môn để học
Phật. Sau khi đă thọ Tam Quy, kế đó là “cụ túc chúng giới, bất phạm
oai nghi” (đầy đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi). Đối với chữ Giới trong “cụ túc chúng giới”, xin
thưa trước cùng quư vị: Tiếng Ấn Độ
gọi Giới là Thi La (Śīla),
tiếng
Hán là Giới (戒), có ư
nghĩa “thanh lương”. Thanh
lương (清涼) là ǵ? Ví
như tiết trời rất nóng, vừa mở quạt
điện hoặc máy lạnh, sẽ cảm thấy rất
mát mẻ; đó là “thanh lương”. V́ sao Giới là thanh
lương? Lũ chúng sanh chúng ta trên thế gian, thân thể,
nội tâm và khẩu (tức ba nghiệp thân, khẩu, ư),
thân thể cảm nhận, miệng nói năng, trong tâm suy
nghĩ, từ nội tâm phát ra ngôn ngữ và hành vi, lại
c̣n bị bên ngoài kích thích, đều là nóng bức khôn cùng! Nóng
bức giống như lửa vậy! Đối với chữ
Phiền (煩) trong “phiền năo” (煩惱), bên trái
là chữ Hỏa (火), bên phải là chữ Hiệt
(頁). [Chữ Hiệt] viết theo lối chữ
Triện, sẽ là đầu người! Đầu
người tới gần lửa, quư vị ngẫm xem,
người ta thường nói là “đầu bốc lửa”.
Người thế gian chẳng tránh khỏi phiền năo; v́
sao phiền năo? Thế gian này khiến cho tâm chúng ta rất
phiền, nóng nảy khôn xiết! V́ sao nóng nảy? Trong thế
gian này, t́nh huống là như vậy, toàn thể đại
hoàn cảnh trong thế gian này toàn là như vậy. Nếu chúng
ta có thể chuyển biến toàn thể thế gian,
đương nhiên là rất tốt! Khi vẫn c̣n chưa
có công phu chuyển biến toàn thể thế gian, trước
hết, mỗi người chúng ta phải tự tránh né sự
nóng bức của phiền năo. Trước hết, hăy cầu
sao chính ḿnh được thanh lương. Sau khi chính ḿnh
đă thanh lương, mới có thể giúp đỡ
người khác thanh lương. Chính ḿnh c̣n chưa thể
thanh lương, làm sao có thể giúp người khác [thanh
lương] cho được? Thanh lương như thế
nào? Thọ giới bèn có thể thanh lương.
Giới
là thân chẳng tạo ác nghiệp, giữ ǵn hành vi chánh
đáng, miệng chẳng nói tùy tiện, khiến cho khẩu
nghiệp rất thanh tịnh. Trong tâm đừng mong tưởng
chuyện danh lợi. Phàm kẻ nào mong cầu danh lợi, tất
nhiên là phải tổn người lợi ḿnh. Nếu chúng
ta tổn người lợi ḿnh, kẻ khác cũng sẽ tổn
người lợi ḿnh. Ai nấy đều tổn người
lợi ḿnh, sẽ tạo thành hiện tượng như
trong thế giới hiện thời, giống như một
khối lửa, trong tâm mỗi người đều rất
phiền bực. Giới là giới cái tâm! Không chỉ là
thân thể chẳng tạo ác nghiệp, miệng chẳng tạo
ác nghiệp, ngay cả trong tâm cũng đừng nghĩ! Đừng
nên dấy lên cái tâm danh lợi, chớ nên tranh danh đoạt
lợi cùng kẻ khác, đừng nên tổn người lợi
ḿnh! Như thế th́ trong tâm sẽ tự nhiên cảm thấy
rất an nhiên! V́ sao trong tâm an nhiên? Ta chẳng tổn hại
người khác, không mong chiếm tiện nghi của kẻ
khác, trong tâm lúc nào cũng thản nhiên, và cũng rất an
b́nh, tự tại, sợ ǵ cơ chứ? Do vậy, tâm
chúng ta tự nhiên thanh tịnh, thanh lương. V́ thế,
thọ giới, giữ ba nghiệp thân, khẩu, ư tốt
đẹp, tuy thế gian nóng bức ngần ấy, chúng ta
giữ ǵn tốt đẹp ba nghiệp của chính ḿnh,
chính ḿnh lập tức thanh lương. Người ta
thường chẳng hiểu Giới, cứ ngỡ giữ
giới sẽ khiến cho chính ḿnh bị rất nhiều nỗi
bó buộc, rất mất tự do! Thật ra, họ chẳng
hiểu đạo lư này. Đă hiểu rơ đạo lư, [sẽ
biết giữ Giới] đúng là tự do, thanh
lương. Do thanh lương, có thể đạt được
tự do.
Chúng
ta biết học Phật, quan trọng nhất là khai trí huệ.
Muốn khai trí huệ, đương nhiên là phải nghiên
cứu kinh Phật. C̣n có một điều rất quan trọng
là phải nhập Định. Chẳng nhập Định,
sẽ chẳng khai trí huệ! Nghiên cứu kinh Phật, nghiên
cứu Phật lư, trong tâm cũng phải có công phu định
lực kha khá th́ mới có thể nghiên cứu kinh. Chẳng
có công phu định lực, trong tâm bộp chộp, xáo
động, có xem [kinh điển] cũng chẳng xem được!
Do vậy, công phu định lực rất trọng yếu.
Công phu định lực do đâu mà có? Muốn có công phu
định lực, phải giữ giới. Do có Giới th́
mới có Định. V́ thế, Phật pháp nói ba thứ Vô
Lậu Học, Giới, Định, Huệ. Đối với
Tam Vô Lậu Học Giới, Định, Huệ, đầu
tiên phải nói tới Giới. Giới trong nhà Phật có rất
nhiều giới điều, nhưng chuyên môn nói về Giới,
sẽ chẳng thuộc phạm vi của khóa giảng này,
mà cũng chẳng phải là kẻ b́nh phàm có thể tùy tiện
nói được! Khi truyền giới, sẽ có bậc
giáo thọ chuyên môn giảng giới; ở đây, chỉ
có thể nhắc đến các danh từ [thuộc về
giới luật].
Nói
tới giới trong nhà Phật, chính là các giới do đức
Phật chế định, chia thành giới tại gia và giới
xuất gia. Giới tại gia th́ sau khi đă thọ Tam Quy,
thông thường là thọ Ngũ Giới (đối với
Ngũ Giới, tôi nghĩ mọi người đang hiện
diện đều biết, chẳng cần phải nói cặn
kẽ). Tiến hơn nữa là thọ Bồ Tát Giới,
giới điều khá nhiều. Giới xuất gia có Sa Di Giới
và Cụ Túc Giới. Trong Cụ Túc Giới, c̣n chia thành tỳ-kheo
giới và tỳ-kheo-ni giới. Thọ tỳ-kheo giới
hoàn bị, sẽ có tất cả hai trăm năm
mươi điều, tỳ-kheo-ni giới nhiều
hơn. Chú giải của cổ nhân nói là năm trăm
điều, tức là nói số tṛn [tổng số của
giới tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni]. Thật sự chiếu theo
kinh văn của giới điều, [giới tỳ-kheo-ni]
sẽ là ba trăm bốn mươi tám điều. Giới
của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni là giới Tiểu Thừa.
Người xuất gia tại Trung Hoa, bất luận là tỳ-kheo
hay tỳ-kheo-ni, sau khi đă thọ Cụ Túc Giới, c̣n phải
thọ thêm Bồ Tát Giới. Muốn hành Bồ Tát đạo,
phải thọ Bồ Tát Giới. Người tại gia có
thể thọ Bồ Tát Giới, người xuất gia
cũng thọ. Phật pháp tại Trung Hoa là Đại Thừa
Phật pháp, chúng ta đều là tại gia đệ tử,
người b́nh phàm chỉ cần phát tâm hành Bồ Tát
đạo, đều thọ Bồ Tát Giới. Đại
khái là phân chia [các loại giới] như thế đó!
Nói
thông thường, [mọi người] cảm thấy Đại
Thừa Bồ Tát Giới rất dễ dăi, thoải mái,
trên thực tế là nghiêm ngặt nhất. Chứng thực
[Đại Thừa Bồ Tát Giới] nghiêm ngặt như
thế nào? Chúng ta biết: Thường là trong các quốc
gia Tiểu Thừa, họ thọ tŕ giới luật Tiểu
Thừa, có thể ăn mặn, ăn thịt, các thứ
ngũ tân như hành, tỏi v.v… cũng đều chẳng
hạn chế. V́ sao? V́ họ chẳng thọ giới luật
theo Đại Thừa Phật pháp; nhưng đệ tử
nhà Phật tại Trung Hoa, bất luận tại gia hay xuất
gia đều thọ giới Đại Thừa. Dẫu chẳng
thọ giới Đại Thừa, chỉ thọ Ngũ Giới,
cũng ăn chay trường, các thứ ngũ tân như
hành, tỏi… cũng chẳng ăn! V́ sao? Do căn cứ
theo kinh điển Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng dạy về
Bồ Tát Giới, chẳng cho phép ăn thịt chúng sanh.
Ăn thịt chúng sanh tức là chôn vùi cái tâm từ bi, lại
c̣n chẳng cho phép ăn ngũ tân, tức những thứ
như hành, tỏi, chúng ta phải hiểu rơ điều
này! Nếu không, sẽ có những kẻ nói: Người xuất
gia tại các nước Đông Nam Á vẫn ăn mặn
như thường, v́ sao chúng ta chẳng ăn? Họ thọ
giới Tiểu Thừa, chúng ta thọ giới Đại
Thừa, phải phân biệt rơ ràng điều này!
Các
giới luật thông thường đă giới thiệu
xong; trong đó, chúng ta phải đặc biệt khích lệ
lẫn nhau răn dè khẩu nghiệp, bản thân chúng ta hăy
khống chế cho tốt. Trong kinh Phạm Vơng có nói mười
trọng giới, năm điều đầu chính là Ngũ
Giới, chúng ta đều đă biết. Đối với
năm điều sau, chẳng cần phải nói mỗi
điều, nhưng tội thường phạm nhất
thuộc về khẩu nghiệp, cho nên phải nhắc tới
đôi chút! Trong các giới điều thuộc mười
giới trọng có giới “thuyết
tứ chúng quá” (nói lỗi của bốn chúng). “Tứ chúng” là hai chúng tại
gia (ưu-bà-tắc và ưu-bà-di) và hai chúng xuất gia (tỳ-kheo
và tỳ-kheo-ni). Phàm là đệ tử Phật môn, chớ
nên nói lỗi của đệ tử Phật; hễ nói lỗi
lầm của tứ chúng đệ tử, bèn phạm trọng
giới. Thêm nữa là “tự
tán hủy tha” (khen ḿnh, chê người): Chính ḿnh tự ca
ngợi bản thân có công đức chi đó cao minh hơn
kẻ khác, chúng ta đă bị hoàn cảnh thời đại
ảnh hưởng, cũng rất khó giữ, người
b́nh phàm dễ phạm lắm!
“Hủy tha” (毀他) là hủy báng người khác. Tự ḿnh tán
thán chính ḿnh; đồng thời, hủy báng người
khác, điều này cũng chẳng dễ giữ. Lại
c̣n “hủy báng Tam Bảo”, những
điều khác chẳng cần phải nói, ba điều
này đều thuộc về phương diện khẩu
nghiệp. Do vậy, bất luận chúng ta đă thọ Bồ
Tát Giới cũng thế, mà chưa thọ Bồ Tát Giới
cũng thế, chỉ cần chúng ta là đệ tử Phật,
đối với những giới trọng ấy, chẳng
cần biết là đă thọ hay chưa, hễ phạm phải,
đều có tội ác trọng đại! V́ thế, chúng
ta ăn nói phải đặc biệt dè chừng, đừng
rêu rao khuyết điểm của tứ chúng đệ tử,
chớ nên tự khen ḿnh, chê người, chớ nên hủy
báng Tam Bảo. “Cụ túc chúng
giới” (Trọn đủ các giới) nói đến
đây thôi!
Kế tiếp
là “chẳng phạm oai nghi”.
Oai (威) là rất có oai đức. Chúng ta thấy bậc
cao tăng đại đức, bất luận đứng
cũng thế, ngồi cũng thế, có oai đức
trang nghiêm, chúng ta trông thấy, tự nhiên khởi ḷng nghiêm
túc cung kính. V́ sao? Họ có oai nghi. Nghi (儀) là nghi
biểu (儀表, sự
biểu lộ đúng mực). Người đă thọ giới
đều phải luôn chú trọng oai nghi. Giới đă
được ghi chép từng điều, do đức Phật
chế định. Sau khi đă giữ giới, cũng sẽ
tự nhiên chú trọng oai nghi; oai nghi phát xuất từ giới.
Ví như chiếu theo sự biểu hiện của hai
trăm năm mươi giới, một người
đi lại, đứng bất động, hoặc ngồi,
thậm chí là dáng vẻ trong khi ngủ (cũng thường
nói là bốn tư thái trong khi đi, đứng, nằm, ngồi),
đều có oai nghi. Trong bốn loại oai nghi, mỗi loại
đều có hai trăm năm mươi oai nghi, tức là
mỗi loại gồm hai trăm năm mươi điều,
bốn loại hợp thành một ngàn điều, cho nên có
tất cả một ngàn loại oai nghi. Đối với
một ngàn loại oai nghi ấy, chẳng thể bảo:
Ta nói đến oai nghi trong hiện tại, một chốc
sau chẳng nói đến oai nghi nữa, hoặc chẳng cần
nói tới oai nghi trước kia. Oai nghi bất luận quá
khứ, hiện tại, hay vị lai, đều phải
nói tới, chẳng phân biệt thời gian, mà là nói suốt
tam tế (tam thế). Trong mỗi “thế”, đều có một ngàn oai nghi; quá khứ,
hiện tại, vị lai, cùng hợp thành ba ngàn oai nghi. V́
thế, thật sự nói “chẳng
phạm oai nghi” th́ chẳng thể khuyết thiếu ba
ngàn oai nghi. Không chỉ là phải trọn đủ các giới,
mà ba ngàn oai nghi cũng chẳng thể trái phạm.
Hoàn
toàn chẳng phải là học Phật pháp th́ mới nói tới
chuyện này! Chúng ta biết trong văn hóa Trung Hoa, Nho gia
cũng tu đạo. Tuy Nho gia tu đạo chẳng nói tới
giới, nhưng nói tới Lễ. Lễ được
nói trong Nho gia giống như giới được nói
trong nhà Phật. Trong sách Trung Dung (中庸) có nói tới ba trăm lễ
nghi, [đấy chính là] ba ngàn oai nghi. Ba ngàn oai nghi [trong Nho
gia] được nói như thế nào? Trong kinh điển
Nho gia có một bộ sách tên là Nghi Lễ (儀禮)[2], “nghi” là oai nghi. Sách Nghi Lễ
quy định các loại lễ, hợp chung lại thành ba
ngàn điều. Lễ được nói Nghi Lễ hết
sức hoàn bị, gọi là “ba
ngàn oai nghi” cũng là nói tới điều này. V́ sao nhà
Phật lẫn Nho gia đều chú trọng oai nghi? Chúng ta
tu đạo ắt phải có thể khống chế ba
nghiệp thân, khẩu, ư, chính ḿnh phải khống chế vững
vàng. Nếu chẳng khống chế, ba nghiệp sẽ loạn;
hễ loạn bèn chẳng có định. Chẳng có Định,
làm sao tu tập tốt đẹp cho được? Oai
nghi đối với bất luận Nho hay Phật đều
là chuyện tất yếu phải nói. Đă là tất yếu
phải nói tới, bèn biết: Nó hết sức trọng yếu!
Đối
với ba loại tịnh nghiệp, kinh văn nói là “tu Tam Phước”. Quư vị
tu Tam Phước, trong tương lai sẽ có phước
báo. Điều thứ hai là “thọ
tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”, đấy là nói tới quy y giới hoặc giới
luật. Phải biết: Đối với kẻ chẳng
tuân thủ giới, luôn tạo ác nghiệp, hăy nghĩ xem, kẻ
đó đă tạo ác nghiệp, kẻ đó tu đạo
ǵ vậy? Đừng nói là xuất thế gian, ngay cả Dục
Giới Thiên, [kẻ đó] cũng chẳng sanh về
được! Càng thọ giới nhiều, càng chẳng tạo
ác nghiệp. Thọ giới mà chẳng tạo ác nghiệp,
sẽ được phước báo. Thập Thiện Nghiệp
do đâu mà có? Chẳng tạo mười ác nghiệp sẽ là Thập Thiện Nghiệp.
Tu Thập Thiện Nghiệp sẽ có phước báo. V́ thế,
phước báo của Cụ Túc Giới càng nhiều
hơn tu Thập Thiện. Do vậy, chúng ta hiểu rơ: Thọ
Giới rất thanh tịnh, không chỉ là thanh
lương trong hiện tại, mà c̣n sẽ có rất nhiều
phước báo trong tương lai. Tu đạo mà chẳng
có phước báo sẽ chẳng được! Chẳng
có phước báo, đối với các pháp Quán được
nói trong phần sau, hoặc học pháp môn Niệm Phật, đều
chẳng thể vận dụng công phu. Chẳng có phước
báo, ngay cả nghe pháp môn này cũng chẳng có cơ hội,
chẳng được nghe! Được nghe pháp môn này là
do có phước báo! Có thể suy ra: Phước báo rất
trọng yếu!
Kế
đó là loại phước thứ ba: “Tam giả, phát Bồ Đề tâm” (Ba là phát Bồ
Đề tâm). Học Đại Thừa Phật pháp,
trước hết phải phát tâm, phát tâm ǵ vậy? Phát Bồ
Đề tâm, Bồ Đề tâm là giác ngộ. Hành Bồ Tát
đạo th́ trước hết phải giác ngộ; không
chỉ là chính ḿnh giác ngộ, mà c̣n phải khiến cho kẻ
khác giác ngộ. Do vậy, phát Bồ Đề tâm đặc
biệt quan trọng. Thêm nữa là “thâm tín nhân quả” (tin sâu nhân quả). Tin nhân quả
đă là khá lắm, lại c̣n phải thêm vào “thâm” tín. Chúng ta phải hiểu
rơ nhân quả, bất cứ chuyện ǵ trong thế gian
đều phải là “trước có nhân, sau đó mới
có quả”. Nhân, nói theo tỷ dụ, giống như có hạt
giống. Có hạt giống th́ mới có thể nẩy mầm
sanh trưởng, sau đấy mới kết quả.
Đó là nhân quả. Nhân quả có nhân quả ngay trong đời
này, tức là một người trong đời hiện tại
đă gieo nhân ǵ, sẽ kết thành quả ǵ ngay trong một
đời này. Thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác quả.
Giả sử chỉ nói trong đời hiện tại, sẽ
không đủ đâu nhé! V́ sao không đủ? Có rất nhiều
người tạo rất nhiều thiện nghiệp, làm
rất nhiều chuyện tốt, kết quả là gặp
hoàn cảnh chẳng tốt đẹp, vận mạng từ
đầu đến cuối chẳng khá, một mực gặp
rất nhiều tai nạn. Chỉ nh́n vào đời hiện
tại, sẽ chẳng thể luận định nhân quả
thông suốt được! Ngược lại, có rất
nhiều kẻ xấu xa, tạo rất nhiều ác nghiệp,
kết quả là chỗ nào cũng rất đắc ư, luôn
ở trong hoàn cảnh tốt đẹp, kết quả
cũng tốt đẹp. Phải giải thích điều
này ra sao? V́ thế, chỉ nói đến nhân quả trong
đời này sẽ chẳng đủ, phải nói tới
nhân quả ba đời, có đời trước, đời
này và đời sau. Nhân quả hết sức phức tạp,
hết sức sâu sắc; không nói tới nhân quả ba đời,
đối với nhân quả sẽ chẳng thể tin sâu.
Không chỉ là nhà Phật nói nhân quả ba đời,
Ngũ Kinh của Nho học cũng đều nói tới
nhân quả ba đời, nói hết sức nhiều!
Hiểu
rơ nhân quả ba đời đă là chẳng dễ dàng,
nhưng chỉ hiểu rơ có nhân quả ba đời vẫn
chưa đủ! Nói như thế nào? Thường nghe có
người nói: “Đời này chẳng tốt, tu cho đời
sau. Đời này bần cùng, tu cho đời sau biến
thành người giàu có!” Kẻ ấy cũng có quan niệm
nhân quả ba đời; tuy có quan niệm nhân quả ba
đời, nhưng chẳng biết phải thoát ly lục
đạo, chỉ biết có đời trước, đời
này, và đời sau, chỉ là tu tập nhằm ḥng biến
cải đời sau tốt lành hơn mà thôi! Như vậy
là không được, vẫn chẳng giác ngộ. Sau khi
đă hiểu nhân quả ba đời, c̣n phải giác ngộ,
giác ngộ ǵ? Giác ngộ lục đạo luân hồi, ví
như: Đời sau, sanh trong nhân gian, rất giàu có, sẽ
lại như thế nào? Dẫu đời sau làm đại
tổng thống của nước Mỹ, cũng chẳng
có ǵ tốt đẹp! Dẫu sanh lên trời cũng trọn
chẳng tốt đẹp ǵ! Đă hết thọ mạng,
vẫn phải đọa lạc. Có ư nghĩa chi đâu? V́
thế, chúng ta phải giác ngộ; sau khi đă hiểu nhân
quả ba đời, vẫn phải giác ngộ: Luân hồi
trong lục đạo hết sức khổ năo, sanh tử
không ngừng! Ắt là phải thoát ly lục đạo
luân hồi. Hễ giác ngộ như vậy, chúng ta học Phật
mới có thể kiến lập chánh tri chánh kiến. Đă
kiến lập quan niệm nhân quả chánh xác, sau đấy
học Phật th́ mới học rất thuần túy. Sau khi
đă giác ngộ nhân quả ba đời, tất nhiên sẽ
mong cầu xuất ly tam giới, mà cũng là thoát ly lục
đạo luân hồi.
Thoát
ly lục đạo luân hồi là yêu cầu cơ bản
trong học Phật. Nhưng đối với “thâm tín” được nói
trong bộ kinh này, tổ sư c̣n nói phải tin sâu hơn nữa.
Làm thế nào để “tin sâu” hơn nữa? Nói tới nhân
quả, không chỉ là thoát khỏi tam giới bèn coi là
đă đạt được mục đích, giống
như Tiểu Thừa chứng quả A La Hán, Trung Thừa
chứng Bích Chi Phật, cũng là thoát tam giới, thoát ly lục
đạo luân hồi, nhưng các Ngài vẫn chưa thành Phật,
vẫn là chưa được. Nói cách khác, vẫn là thâm
nhập nhân quả chưa đủ! Nhân quả trong Đại
Thừa Phật pháp nói đến rốt ráo nhất, bất
luận là thiện hay ác, nhân quả thiện ác đều
phải nói triệt để. Hễ nói tới nhân quả,
sẽ thấy triệt để bản tánh của chính
ḿnh, trực tiếp thấu hiểu tâm tánh của chính ḿnh.
Tâm tánh là đại biểu của chân lư, nhân quả kiến
lập trên chân lư. Đă là kiến lập từ chân lư, kẻ
làm thiện hay làm ác là ai? Ai đang làm thiện? Ai đang tạo
ác? Hoàn toàn là tự tâm! Hiểu rơ cái tâm của chính ḿnh, thiện
ác chẳng do ai khác [gây tạo], chính ḿnh có thể làm chủ.
Có thể làm chủ tự tâm, sẽ có thể chuyển biến
nhân quả, chuyển biến hết thảy; chuyển
đến chỗ rốt ráo nhất, sẽ đạt
đến cảnh giới thành Phật! Nhân quả nói
đến chỗ cao thâm nhất, chính là tự ḿnh có thể
minh tâm kiến tánh, thấy thấu triệt cội nguồn
tâm tánh (cội nguồn vốn sẵn có) của chính ḿnh.
Nói “thâm tín nhân quả” chính
là sau khi đă hiểu rơ nhân quả, bèn từ sự thấu
hiểu bản tánh, từ chân lư mà tu tập. Như thế
th́ chính ḿnh mới có sức mạnh để chuyển biến.
Nếu không như vậy, chuyển theo cách nào?
Kế
đó là “độc tụng Đại
Thừa”. “Độc” (讀) là xem
đọc, “tụng” (誦) là đọc
thuộc ḷng. V́ sao phải đọc tụng kinh điển
Đại Thừa? Hiện thời, có những vị tu
hành đă lâu, họ có một biện pháp “duyệt tạng” (閱藏, đọc kinh điển
trong Kinh Tạng), duyệt tạng như thế nào? Mở
kinh điển Đại Thừa trong Tạng Kinh ra, xem từ
đầu đến cuối từng chữ một, bất
luận có nhận biết chữ ấy hay không, vẫn cứ
tiếp tục xem. Chữ không nhận ra, cũng không cần
phải lật tự điển ra tra. “Duyệt tạng” là xem lần lượt từng
chữ một, nhằm cầu Định. Nhờ vào duyệt
tạng để cầu Định, điều quan trọng
là chẳng khởi tâm phân biệt! Một loại khác là nghiên
cứu, chẳng phải là duyệt tạng, mà là chọn lấy
một bộ kinh để xem. Xem không hiểu [chữ
nào], phải tra tự điển, hoặc là [biết] có
người khác thông hiểu, bèn xin người ta giảng
cho quư vị nghe (nhằm nghiên cứu đạo lư). “Độc tụng Đại Thừa”
bao gồm hai phương thức duyệt tạng và nghiên
cứu. Nghiên cứu đại kinh và đại luận của
Phật pháp để làm ǵ? Nhằm khai trí huệ, khiến
cho chúng ta hiểu rơ đạo lư của Phật. Chúng ta học
Phật mà chẳng hiểu rơ Phật lư, đối với
phương diện tu tŕ, sẽ cảm thấy có những
nỗi khó khăn. V́ thế, trong quá khứ, có rất nhiều
người học Phật có một đoàn thể để
cùng nhau nghiên cứu đương nhiên là tốt, nếu thật
sự chẳng có cách nào nghiên cứu [cùng người khác],
hăy tự ḿnh duyệt đọc, chỉ đọc theo mặt
chữ cũng được! V́ thế, đọc tụng
Đại Thừa cũng hết sức quan trọng,
hướng nội để tu, nghiên cứu lư luận. Đối
với ba câu “phát Bồ Đề
tâm, tin sâu nhân quả, độc tụng Đại Thừa”
trên đây, nếu mong hoằng pháp, nếu mong hóa độ
chúng sanh, trước hết, chính ḿnh phải trọn đủ
ba điều kiện vừa nói ấy. Đầu tiên là phải
phát tâm; sau đấy, cầu tin sâu nhân quả, lại c̣n
phải hiểu lư luận trong kinh văn.
Tiếp
đó, “khuyến tấn hành giả”.
Khuyến (勸) là khuyến cáo, dùng đủ
mọi phương pháp để khuyên dạy kẻ khác. Tấn
(進): Người ta chẳng học Phật,
hăy khuyên họ tiến nhập Phật môn. Đối với
người đă nhập môn, lại khuyên họ càng thêm
tinh tấn, càng tiến bộ hơn. Đó là Tấn. Chúng
ta phát tâm, khuyên kẻ chẳng học Phật hăy tin Phật.
Đối với người đă tin Phật bèn khuyên
càng thêm tinh tấn. “Hành giả”
(行者) là người
tu hành. Chúng ta khuyên người khác như vậy, chính là
chuyện Bồ Tát nên làm, tạo lợi ích cho người
khác. Ba điều trước đó đều là tự lợi.
Đă có cơ sở tự lợi, sau đấy mới
nói đến chuyện lợi tha. Đối với những
điều kinh văn đă dạy, hễ lưu tâm xem, sẽ
biết ngay: Ắt là phải phát Bồ Đề tâm, tin
sâu nhân quả, hiểu rơ Phật lư; mấy điều này
hết sức quan trọng. Nếu thiếu bất cứ
điều nào, mà mong khuyên người khác đều rất
đỗi khó khăn. Quư vị hăy tự ngẫm xem: Giả
sử bản thân chúng ta thiếu khuyết ba điều ấy,
đừng nói chi khác, chỉ nói theo phương diện
nhân quả. Chẳng có quan niệm nhân quả, chính ḿnh vẫn
chẳng tin nhân quả, làm sao chúng ta khuyên người khác
cho được? Do vậy, ba điều trên đây hết
sức trọng yếu. Có ba điều ấy, chánh tri chánh
kiến đều đầy đủ, khuyên nhủ
người ta mới có hiệu quả!
Tôi
đă nói xong ba điều ấy. Điều thứ nhất
khởi đầu bằng hiếu, điều thứ hai
khởi đầu bằng Tam Quy, điều thứ ba khởi
đầu bằng phát Bồ Đề tâm, ba điều
này hết sức trọng yếu. Sau đó, bèn tổng kết:
“Như thử tam sự”,
[nghĩa là] ba loại phước vừa nói trên đây, “danh vi Tịnh nghiệp”, gọi
là “Tịnh nghiệp”. Nghiệp
là ǵ? Nghiệp giống như nhân. Có cái nhân thanh tịnh ấy,
trong tương lai, sẽ kết thành quả thanh tịnh;
tu pháp môn Tịnh Độ được gọi là “tu Tịnh
nghiệp”. Trước khi nói tới mười sáu phép
Quán, bèn nói trước ba loại Tịnh nghiệp, khiến
cho mọi người biết tu ba loại Tịnh nghiệp
cũng là tu ba loại phước, ḥng giúp cho công phu chánh yếu;
phải là chánh trợ song tu! Chỉ nói chánh công phu mà chẳng
có trợ công phu, chánh công phu sẽ chẳng dấy lên nổi!
V́ thế, trước hết là giảng ba loại Tịnh
nghiệp này. Hôm nay, [giảng] tới đây là kết thúc.
Tập 15
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ sáu, bắt
đầu từ câu thứ ba trong hàng thứ hai. Tôi đọc
trước kinh văn một lượt.
(Kinh)
Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ? Thử tam
chủng nghiệp, năi thị quá khứ, vị lai, hiện
tại, tam thế chư Phật, tịnh nghiệp chánh
nhân”.
(經)佛告韋提希:汝今知不?此三種業,乃是過去未來現在,三世諸佛,淨業正因。
(Kinh: Đức
Phật bảo Vi Đề Hy: “Nay bà có biết hay không? Ba
loại nghiệp ấy chính là chánh nhân tịnh nghiệp của
quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời chư Phật”).
Trong
đoạn kinh văn này, sau khi đă nói xong ba loại phước
(cũng là ba loại tịnh nghiệp), bèn nêu một kết
luận nhỏ. Kết luận có tất cả ba đoạn,
đoạn kinh văn này là đoạn thứ nhất,
trong phần sau c̣n có hai đoạn nữa (cho đến “đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”
mới hết). Sau đó, kế tiếp là nói về mười
sáu phép Quán.
“Phật cáo Vi Đề Hy”:
Đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ?” Hiện
thời, bà có biết hay không? “Thử
tam chủng nghiệp”, ba loại nghiệp ấy (tức
là ba loại phước nghiệp được nói trên
đây), “năi thị quá khứ,
vị lai, hiện tại, tam thế chư Phật, chánh
nhân tịnh nghiệp” (chính là chánh nhân tịnh nghiệp
của quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời
chư Phật), hết sức trọng yếu! Thích Ca Mâu
Ni Phật là vị Phật hiện tại. Không chỉ là
Phật hiện tại nói như vậy, mà chư Phật
trong quá khứ cũng nói như vậy, Phật trong vị
lai cũng vẫn nói như vậy. Do đó, ba loại nghiệp
này đều là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật!
Đă
là “tam thế chư Phật, tịnh
nghiệp chánh nhân” (chánh nhân tịnh nghiệp của ba
đời chư Phật), đương nhiên là hết sức
trọng yếu! V́ ba đời chư Phật ắt đều
phải tu ba loại tịnh nghiệp này; cho nên, đây
chính là chánh nhân để thành Phật. V́ sao ba loại tịnh
nghiệp này là chánh nhân của ba đời chư Phật?
Đối với chữ Tịnh trong “tịnh nghiệp”, trước hết, chúng tôi phải
giới thiệu thêm đôi chút.
“Tịnh nghiệp”: “Tịnh” (淨) là thanh tịnh. Thanh tịnh là ǵ? Chuyện
chẳng tạp nhiễm là thanh tịnh. Ví như chúng ta làm
việc thiện trong thế gian, làm hết thảy các thiện
nghiệp đều chẳng có những dụng ư khác xen lẫn
vào đó, thuần túy là làm việc thiện, chớ nên có bất
cứ điều kiện ǵ. Thiện nghiệp thế gian
là như thế, mà tŕ giới, phát Bồ Đề tâm, cho
đến nhân quả v.v… ba loại nghiệp đều là
thuần túy, chẳng xen lẫn bất cứ nhân tố nào
khác, th́ gọi là “thanh tịnh”.
Không xen tạp các nhân tố khác là ǵ? Tôi nêu một thí dụ
nho nhỏ, nông cạn, gần gũi: Ví như chúng ta làm sự
nghiệp từ thiện trong thế gian, quư vị dùng tiền
bạc giúp đỡ người khác cũng thế, mà dùng
năng lực của chính ḿnh để giúp đỡ
người khác cũng thế, thuần túy là giúp đỡ.
Trong tâm chớ nên nghĩ: “Sau khi ta bỏ ra tiền tài hoặc
sức lực, trong tương lai, đối phương
sẽ báo đáp ta điều tốt đẹp chi đó!”
Nếu có tâm lư ấy, sẽ chẳng được coi là thanh
tịnh. Chúng tôi nêu thí dụ này, những điều khác có
thể suy ra. Thật sự thanh tịnh, những tâm lư khác
đều chẳng có, thuần túy làm việc thiện là
làm việc thiện, chẳng có bất cứ mong mỏi
nào!
Một
điểm khác nữa, chúng ta phải hiểu rơ: Tịnh
nghiệp đến mức rốt ráo sẽ phát xuất từ
trong bản tánh mà ai nấy đều sẵn có (cũng là Phật
tánh thành Phật); đó là Tịnh. Dùng thí dụ để
nói, ví như đối với điều phước thứ
ba là “phát Bồ Đề tâm, tin
sâu nhân quả”, dùng nhân quả để nói, nói đến
cái nhân rốt ráo nhất, sẽ là cái nhân ǵ? Phải hiểu
rơ: Chúng ta học Phật nhằm mục đích mong thành Phật.
Thành Phật là quả (kết quả). Muốn kết thành
Phật quả, ắt phải hiểu rơ cái nhân để
thành Phật. Nhân ấy ở chỗ nào? Cái nhân ấy chính
là phải nhận thức chính ḿnh. Có nhận thức chính
ḿnh th́ mới có thể thành Phật. Chẳng nhận thức
chính ḿnh, sẽ chẳng thể thành Phật (chẳng có lẽ
nào thành Phật được)! Nhận thức điều
ǵ nơi chính ḿnh? Nhận thức Chân Như bản tánh của
chính ḿnh. V́ thế, nói đến nhân quả, nói thấu suốt
đầu đuôi, nói đến chỗ rốt ráo, nhân quả
hoàn toàn là Chân Như bản tánh! Do vậy, quư vị nói
đến nhân, nói đến chủng tử, điều rốt
ráo nhất là hiểu rơ chính ḿnh. “Vạn
pháp duy tâm”, phải nhận thức chân tâm của chính
ḿnh. Chẳng hiểu rơ điều này, chúng ta tin nhân quả,
nhưng chẳng thể coi là “tin
sâu nhân quả” được!
Trong kinh
Lăng Nghiêm, đức Phật đă dạy: “Nhân địa bất chân, quả
chiêu vu khúc” (Cái nhân chẳng chân thật, sẽ chuốc
lấy quả cong vạy). Khi chúng ta bắt đầu học
Phật, chẳng phân biệt rơ ràng cái nhân chân thật, nếu
mong đắc quả, sẽ khó khăn. Khó như thế
nào? Đức Phật có nói một tỷ dụ: Ví như
chúng ta nấu cơm, cơm chính là thành quả của việc
nấu. Trước khi nấu cơm, nhân của cơm là
ǵ? Nhân của cơm là gạo; ắt phải lấy gạo
để nấu th́ mới có thể nấu
thành cơm. Nếu dùng cát hoặc đá để nấu,
nấu đến bao giờ mới có thể nấu thành cơm?
Bất luận quư vị nấu kiểu nào, hễ nấu
cát đá th́ cũng chẳng thể nấu thành cơm
được! Cái nhân đă sai trật, sẽ chẳng thể
có quả! Chúng ta thật sự tin sâu nhân quả, vừa khởi
đầu bèn hiểu rơ: Sở dĩ Phật pháp bảo
các tôn giáo khác là ngoại đạo là v́ ngoại đạo
chẳng hiểu rơ cái nhân thành Phật, cho nên họ chẳng
thể thành Phật. Thậm chí ngay cả liễu sanh tử
mà c̣n chẳng làm được, họ chẳng nói đến
chuyện tin tưởng nhân quả. Do vậy, người
hiểu rơ chân quả, thật sự tin tưởng nhân quả,
ắt phải hiểu cái tâm của chúng ta là “chân tâm vạn pháp duy tâm”.
Đấy mới được coi là tin sâu nhân quả. Có
thể hiểu rơ nhân và quả như vậy th́ tịnh
nghiệp mới thanh tịnh!
Căn
cứ trên hai điều trọng yếu này, sau khi đă hiểu
rơ tịnh nghiệp, chúng ta hăy xem lại tam phước
trên đây. V́ sao tam phước được gọi là “Tịnh nghiệp”? Chúng ta tu
tam phước trong Phật pháp sẽ chẳng giống kẻ
b́nh phàm. Tu tam phước trong Phật môn, cũng phải
tu cho đến mức độ liễu giải Phật
pháp. Quư vị dùng tâm lư khác để tu tập, sẽ đạt
được kết quả khác hẳn! Ví dụ như
đối với thiện nghiệp thế gian “hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát” đă
nói trong phần trước, quư vị đă hiểu rơ ư
nghĩa của tịnh nghiệp: Một là thuần túy, chẳng
có bất cứ điều mong cầu nào; hai là nói đến
chỗ rốt ráo, quư vị làm những thiện nghiệp ấy
đều xuất phát từ bản tánh. Nếu không, trong
Nhị Thập Tứ Hiếu, hiếu tử gặp phải
cảnh hổ dữ sắp ăn thịt cha mẹ, đă
chẳng màng đến thân, dũng mănh chống cự mănh
hổ. Kết quả là mănh hổ đă bị người
ấy dọa chạy mất! V́ sao? Khi ấy, hiếu tâm từ
sức mạnh trong bản tánh của người ấy
phát ra, khiến cho dă thú cảm động. Những người
khác (những hiếu tử khác) [ḷng hiếu] cũng phát xuất
từ bản tánh, quư vị hăy nghĩ xem! Hết thảy Hiếu
và Từ đều là như thế.
Đối
với phần thứ hai, [tức là] Tam Quy và thọ các giới,
lại càng chẳng cần phải nói nữa. Đó là pháp
xuất thế gian, càng là phát xuất từ bản tánh.
Đối với phần thứ ba, phát Bồ Đề
tâm, khi quư vị đă hiểu rơ tịnh nghiệp, hai chữ
“tịnh nghiệp” chính là trọng
điểm của ba điều trên đây. Giống
như khi làm thơ, [hai chữ ấy] là “thi nhăn”[3]. Đă nắm vững “thi nhăn”, toàn thể ba điều
trên đây đều sống động, quư vị sẽ
thấy hết sức thâm nhập. V́ tông Thiên Thai nói bộ
kinh này là Viên Giáo, mà trong Viên Giáo, hễ nói th́ sẽ nói tới
mức độ thấu triệt nhất.
Ba đời
chư Phật thành Phật ắt đều phải tu ba loại
tịnh nghiệp này. Ba loại tịnh nghiệp ấy có
mức độ khác biệt: Điều thứ nhất
là pháp thế gian, điều thứ hai là hàng Nhị Thừa
tu pháp xuất thế, điều thứ ba là pháp của Đại
Thừa Bồ Tát. Khi bắt đầu tu, chỉ là những
thiện sự trong thế gian, không bao gồm hai điều
sau. Đă tu điều thứ nhất, khi tu đến điều
thứ hai, có thể bao gồm điều thứ nhất.
Lúc tu đến điều thứ ba, bao gồm cả hai
điều trước. Tức là từ cạn tiến
đến sâu, đă trọn đủ cơ sở nông cạn,
sẽ từng bước một tu đến địa
vị cuối cùng. Khi tu đến điều thứ ba, sẽ
bao gồm toàn thể những điều trước.
Điều này có ư nghĩa như thế nào? Chúng ta phải
hiểu rơ: Tuy pháp môn tu hành của chư Phật rất
cao, vẫn là bắt đầu tu từ pháp thế gian,
dùng Hiếu và Từ của thế gian, dùng Thập Thiện
Nghiệp để đặt vững cơ sở; sau
đấy, từng bước tu lên cao hơn. Khi tu đến
cuối cùng, những điều trước vẫn
được bao gồm trong ấy, sau đấy mới
viên dung. Đoạn này là đoạn thứ nhất nhằm
tán thán ba loại tịnh nghiệp trên đây.
Đoạn
dưới đây chính là đoạn tán thán [chánh nhân tịnh
nghiệp] thứ hai, tôi đọc kinh văn trước
một lượt.
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Đế thính,
đế thính, thiện tư niệm chi. Như Lai kim giả,
vị vị lai thế nhất thiết chúng sanh, vị phiền
năo tặc chi sở hại giả, thuyết thanh tịnh
nghiệp. Thiện tai, Vi Đề Hy, khoái vấn thử sự”.
(經)佛告阿難,及韋提希:諦聽諦聽,善思念之。如來今者,為未來世一切眾生,為煩惱賊之所害者,說清淨業。善哉,韋提希,快問此事。
(Kinh: Đức
Phật bảo A
“Phật cáo A Nan, cập Vi Đề
Hy”: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi
Đề Hy. Trước hết, bảo hai vị ấy
hăy “đế thính”. “Đế
thính” là ǵ? Chữ Đế (諦) có
nghĩa là phải vận dụng tâm tư, chuyên tâm lắng
nghe. Lại c̣n phải nghe cho rành mạch, chẳng qua loa
chút nào, toàn tâm dốc hết tinh thần lắng nghe, gọi
là “đế thính”. Lại
nói “đế thính” thêm một
lần nữa, ḥng nhấn mạnh, tăng thêm ư nghĩa của
từ ngữ ấy! Phải lắng nghe, nghe cho kỹ
lưỡng! Nghe như vậy vẫn chưa phải là
xong, trong khi nghe, c̣n phải “thiện
tư niệm chi”, [nghĩa là] ngoài chuyện nghe ra, c̣n phải
khéo suy nghĩ. “Tư” (思) là công phu suy xét,
suy lường, chữ Thiện xuyên suốt hai chữ tiếp
theo, tức là “thiện tư”
và “thiện niệm”. Ngoài việc
khéo tư duy cặn kẽ ra, c̣n phải khéo niệm. Niệm
là ǵ vậy? Niệm là chánh thức dụng công tu tập.
Trong câu “đế
thính, đế thính, thiện tư niệm chi”, “thính” (聽) là nghe, tức
là dùng tai để nghe, Tư là dùng tâm để suy nghĩ,
Niệm là tu hành. Đấy chính là cái được Phật
gọi là Văn, Tư, Tu Tam Huệ! V́ sao gọi Văn,
Tư, Tu là Tam Huệ? Huệ là trí huệ; chúng ta học bất
cứ loại học vấn thế gian nào, cũng đều
phải vận dụng trí huệ thông minh. Chẳng có thông
minh trí huệ, học vấn thế gian sẽ chẳng học
đến nơi, đến chốn! Phật pháp cao sâu
như thế, cũng là học vấn rốt ráo nhất, chẳng
có trí huệ, sẽ chẳng học được! V́ thế,
đối với Phật pháp, bất luận là nghe pháp
cũng thế, mà khi tư duy cũng thế, chánh thức dụng
công tu tŕ cũng thế, đều phải cậy vào trí huệ!
V́ thế, hai câu này là nói đến Văn, Tư, Tu Tam Huệ.
Làm thế nào th́ mới có thể đắc Tam Huệ? Khi
nghe th́ phải lắng nghe, khi tư niệm phải dùng chữ
Thiện, phải chú ư hai chữ này! Cũng có nghĩa là khi
nghe, phải dốc toàn bộ tinh thần để nghe;
khi Tư, khi Niệm, ắt cần phải dùng chữ Thiện.
Đối
với chữ Thiện này, có khi dùng chữ Diệu (妙); Nho gia thường dùng
chữ Thiện. Ở đây, [kinh Phật] cũng dùng chữ
Thiện. Chữ Thiện nói tới tầng cảnh giới
cao nhất, sẽ tiến nhập cảnh giới Diệu.
Vậy th́ trong khi chúng ta suy xét, trong khi tu tŕ, đều phải
khéo dùng cái tâm niệm của chính ḿnh. Chuyện này phải
cậy vào sự luyện tập trong thường nhật,
chẳng phải là lập tức có thể làm ngay
được! V́ sao chẳng thể làm được
ngay lập tức? Đối với lư luận Phật
pháp, nói chung là phải có sự thấu hiểu, sau đấy
mới có thể vận dụng. Nếu đối với
lư luận Phật pháp mà chẳng hiểu biết chút ǵ, vận
dụng bằng cách nào? Do vậy, bước đầu
tiên là phải có sự thấu hiểu lư luận kha khá! Sau
khi đă thấu hiểu lư luận, trong khi suy xét hoặc dụng
công, vẫn là phải chuyên tâm, chớ nên xen lẫn những
tạp niệm khác. Đó là “thuần
thiện”. Nho gia cũng nói “thuần
thiện”, thuần túy, chẳng xen lẫn bất cứ
tạp niệm nào khác. Vận dụng công phu như vậy,
sẽ hợp với Định, đă có công phu định
lực kha khá, có thể phát huy sức mạnh. V́ thế, bất
luận trong khi chúng ta nghe, hay suy nghĩ, hay niệm, chính
ḿnh đều phải có định lực kha khá. Dùng niệm
Phật để nói, niệm Phật th́ phải niệm
như thế nào mới là tốt đẹp? Chính là ư niệm
của chính ḿnh chẳng rong ruổi tán loạn. Chẳng
rong ruổi tán loạn th́ phải là định lực kha
khá th́ mới có thể làm được. Những điều
này đều phải cậy vào sự dụng công trong
thường nhật. Đó gọi là “thiện tư, thiện niệm”. Nói “biết vận
dụng công phu” nghĩa là bất luận chúng ta làm chuyện
ǵ, đều phải tập trung tinh thần, chớ nên
tán loạn, như vậy th́ mới có thể nắm vững
chữ Đế và chữ Thiện. Dụng công như vậy,
tự nhiên trí huệ Văn, Tư, Tu sẽ phát xuất!
Nói
đến sự chuyên tâm, có công phu Định lực, phải
nhờ vào chúng ta đă hiểu rơ. Trong phần trước,
đă nói là đối với Phật pháp, chúng ta phải hiểu
rơ định lực phát xuất từ nơi đâu? Chúng
ta phải thấy cho rơ ràng: Nếu thật sự thiện
tư, thiện niệm, sẽ chẳng bị ảnh
hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài. V́ sao chẳng bị
ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài? Có không ít người
học Phật, nghĩ: “Hăy nh́n vào hiện tại là thời
đại ǵ mà vẫn phải tŕ lắm giới như thế?”
Lấy chuyện làm lành để nói: “Hiện thời, trên
khắp thế giới, có ai chẳng v́ lợi ích riêng
tư của cá nhân ḿnh, nhấn mạnh quyền lợi cá
nhân? Ai chịu thật sự làm việc thiện? Chỉ sợ
tiền người ta chẳng lọt vào tay chúng ta! Chúng ta
cầu c̣n chưa được, lại c̣n dùng rất nhiều
tiền để giúp kẻ khác, làm rất nhiều thiện
sự ư?” Chúng ta nhất loạt chẳng màng đến
những lời lẽ đó, bất luận ḷng người
trong thế gian hóa thành xấu ác đến mức độ
nào, cũng chẳng cần biết kẻ khác tu tŕ theo cách
nào, tu thuần túy cũng thế, mà chẳng tu thuần túy
cũng thế, hết thảy đều chẳng màng tới!
Chúng ta y pháp, chẳng y nhân. Phật pháp dạy như thế
nào, bèn làm theo đúng như thế ấy. V́ sao? Học Phật
liễu sanh tử là để liễu sanh tử cho chính ḿnh, thành Phật th́ cũng là
v́ chính ḿnh mà thành Phật. C̣n như làm việc thiện, thọ
giới, phát Bồ Đề tâm, nhân quả v.v… bất luận
kẻ khác trông thấy hay không, chính ḿnh hiểu rơ: Nếu
chẳng đúng pháp, trái pháp, chính ḿnh phải sám hối
ngay lập tức. Chính ḿnh thực hiện tốt đẹp,
kẻ khác chẳng biết tới, vẫn cứ làm như
vậy, chẳng cần để cho người khác biết.
V́ sao? Đều nhằm tu bản tánh, khiến cho bản
tánh khai phát, đối với người khác chẳng có
quan hệ chi cả! Đă hiểu rơ tầng [ư nghĩa] này,
chúng ta sẽ chẳng nói: “Hoàn cảnh hiện thời chẳng
tốt đẹp dường ấy, chúng ta c̣n học Phật
để làm chi?” Chính ḿnh ngă ḷng! Ngă ḷng th́ chính ḿnh bị
thua thiệt! Bất luận người ta như thế
nào, chính chúng ta cứ tiếp tục tấn tu, tiếp tục
nghiên cứu. Đó gọi là “đế
thính, đế thính, thiện tư, thiện niệm”,
chẳng bị ảnh hưởng bởi bất cứ
điều ǵ bên ngoài. Đáng nên tu như thế nào, bèn tu
như thế ấy, đó là Thiện. Có thể làm như
vậy, chớ nên bị ảnh hưởng bởi thời
đại, đừng bị ảnh hưởng bởi
những kẻ khác đang làm những chuyện chẳng
đúng pháp, chúng ta đă có định lực kha khá. Chúng ta
Văn cũng thế, mà Tư cũng thế, Tu (niệm)
cũng thế, sẽ có thể có những công phu nho nhỏ
hiển lộ, có trí huệ!
Tiếp
đó, đức Phật bèn nói: “Như
Lai kim giả, vị vị lai thế nhất thiết chúng
sanh, vị phiền năo tặc chi sở hại giả, thuyết
thanh tịnh nghiệp” (nay Như Lai sẽ v́ hết thảy
chúng sanh trong đời vị lai [tức là những kẻ
bị] giặc phiền năo làm hại mà nói nghiệp thanh tịnh).
Thích Ca Mâu Ni Phật rất từ bi! Pháp này vốn do phu
nhân Vi Đề Hy thỉnh cầu đức Phật nói ra:
“Làm thế nào để có thể đến thế giới
Cực Lạc?” Tuy đức Phật đáp ứng lời
thỉnh cầu của phu nhân Vi Đề Hy, giảng cho
bà ta, nhưng lúc này, đức Phật nói: “Như Lai” (ư nói chính đức Phật) nay chẳng
phải chỉ v́ phu nhân Vi Đề Hy mà nói, mà cũng là v́
hết thảy chúng sanh trong đời vị lai, kể từ
thời Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến hiện thời
(cũng là lũ chúng sanh chúng ta trong thời hiện tại),
hết thảy chúng sanh đều được bao gồm
trong ấy.
Nay
chúng tôi đang ở thành phố Đài Trung của Đài
Loan giảng bộ kinh này, đức Phật quá từ bi!
Trong tâm Ngài, trọn chẳng phải chỉ là v́ đạo
tràng của chúng ta ở Đài Trung mà giảng, mà là bao la tất
cả chúng sanh! Đài Loan, Trung Hoa Đại Lục, nhân
sĩ mỗi nước trên toàn cầu đều ở
trong tâm đức Phật, đấy mới là “hết thảy chúng sanh”. Không
chỉ là chúng sanh thuộc về nhân loại, mà c̣n bao gồm
chúng sanh thuộc loài vật. Nếu chúng nó hiểu, có thể
nghe pháp môn Niệm Phật, cũng có thể lập tức
văng sanh. Do đó, có thể nói là ḷng từ bi của đức
Phật vô lượng vô biên.
“Vị vị lai thế nhất
thiết chúng sanh” (V́ hết thảy chúng sanh trong đời
vị lai), đức Phật đă sớm dự liệu
t́nh h́nh của chúng sanh trong hiện tại. Nay chúng ta hăy
xem, t́nh h́nh của chúng sanh trong hiện tại là như thế
nào? “Vị phiền năo tặc chi
sở hại giả” (Bị giặc phiền năo làm hại):
Chúng ta ngẫm xem, chúng sanh thuộc nhân loại trong hiện
thời, có chúng sanh nào chẳng phải bị phiền năo hăm
hại? V́ sao gọi phiền năo là “giặc”? Phiền năo giống như giặc
cướp. Giặc cướp chuyên môn cướp đoạt
đồ đạc của người ta, chẳng để
cho chúng nó cướp, chúng nó sẽ giết chết người
bị cướp. Giặc cướp là như vậy
đó! Hiện thời, rất nhiều gă cường
đạo đă cướp tiền c̣n giết người.
Gă trộm vặt vào nhà trộm đồ, bị chủ
nhân phát hiện, vốn là một tên trộm vặt, vừa
bị phát hiện liền biến thành cường đạo,
lỡ tay bèn giết chết chủ nhân. Quư vị ngẫm
xem trong thời đại này, giặc là như vậy
đó. Phiền năo và giặc gây hại cho chúng ta y hệt.
Kẻ b́nh phàm có tiền tài bị giặc cướp trộm,
đó là từ bên ngoài đến. Ở đây, “tặc” mang ư nghĩa tỷ dụ,
nó đến trộm cướp, tổn hại chúng ta
nghĩa là ǵ? Bọn chúng sanh chúng ta trừ sanh mạng ra,
c̣n có một thứ đáng quư hơn nữa là “huệ mạng”. Sanh mạng
là thứ hư giả do nhân duyên ḥa hợp. Trí huệ, huệ
mạng mới là Chân Ngă. Nếu nói sâu xa hơn nữa,
chúng ta đều có Pháp Thân (trên thực tế, Pháp Thân là Chân
Như bản tánh). Cái đáng quư nhất của bọn
chúng sanh chúng ta là Chân Ngă, tức là Pháp Thân huệ mạng.
Trí huệ nơi huệ mạng chính là tác dụng phát khởi
từ Pháp Thân. “Pháp Thân là Thể,
huệ mạng là tác dụng”. Cái Thể và cái Dụng ấy
mới là Chân Ngă thật sự.
Phiền
năo nếu nói cặn kẽ, sẽ rất nhiều, nói
đơn giản là tham, sân, si. Tham là tham cầu hết thảy
mọi thứ. Sân hận: Tham cầu chẳng được
liền nổi cáu, dấy tâm sân hận. Si là ngu si, chẳng
hiểu rơ chính ḿnh, chẳng hiểu Chân Ngă, chỉ chấp
trước Giả Ngă, bất cứ chuyện và đạo
lư nào trên thế gian cũng đều chẳng hiểu rơ.
Đó là tham, sân, si. Những phiền năo khác c̣n có rất nhiều;
trước hết, hăy nói đến ba điều này! Hăy
ngẫm xem! Những thứ ấy đều là phiền
năo. Có những phiền năo ấy, lúc bất cứ phiền
năo nào dấy lên, chúng cũng đều ngăn lấp huệ
mạng Pháp Thân, khiến cho nó chẳng thể phát khởi
tác dụng. Người b́nh phàm thường nói “huệ” là trí huệ. Con
người chuộng cầu lợi ích, tham luyến đủ
mọi thứ danh lợi và tiện lợi đến nỗi
trí óc tối tăm. Một kẻ tham lợi, do quá tham lam,
khiến cho trí huệ của kẻ đó hôn trầm, chẳng
thể phát khởi được, chẳng thể phát huy
tác dụng. Đó gọi là “thấy
lợi tối mắt”. Do vậy có thể biết: Hễ
dính vào những phiền năo tham, sân, si v.v… chúng ta há có trí huệ
ư? Chẳng có trí huệ, huệ mạng đă đi về
đâu mất rồi? Huệ mạng ẩn kín, chẳng phát
sanh tác dụng. V́ thế, trong lục đạo, qua qua lại
lại, chết nơi kia, sanh nơi đây, chết nơi
đây, sanh nơi nọ, chẳng ở trong nhân gian bèn vào
tam đồ, chẳng phải là súc sanh th́ là địa ngục,
chịu khổ dài lâu dường ấy! Ở trong nhân
gian, nhân gian cũng chẳng có ǵ dễ chịu!
Hăy
ngẫm xem: Trong thời đại này, chẳng có chuyện
ǵ là vui! Dẫu có tiền, sống ở Đài Loan, chính
ḿnh có xe, cả nhà lái chiếc xe du lịch đến
nơi có phong cảnh đẹp, lên núi du ngoạn. Trời
mưa to một trận, xe chạy đến nơi ấy,
núi bị lở toàn bộ, chôn vùi toàn thể chiếc xe,
vui quá hóa buồn! Đó là t́nh huống trong thế gian chúng
ta, huống hồ c̣n có những kẻ chẳng có xe, chẳng có cuộc sống thong dong, an nhàn như vậy,
vẫn phải suốt ngày ở bên ngoài đầu tắt
mặt tối, bươn bả v́ cuộc sống. Do vậy,
hăy nghĩ xem, trong lục đạo, ngoài cơi trời ra, kể
như nhân đạo cũng khá lắm, [thế mà] vẫn
có lắm nỗi đau khổ ngần ấy! Hăy ngẫm
xem, chẳng thể nào không thoát khỏi lục đạo!
Chẳng thoát khỏi lục đạo, chẳng thể liễu
sanh tử, là do bị phiền năo chướng ngại. Phiền
năo rất giống giặc cướp, ngăn lấp huệ
mạng, che lấp Pháp Thân của chúng ta, khiến cho nó chẳng
thể khởi tác dụng. Phiền năo giống như giặc,
nó cướp đoạt tài sản của chúng ta. Do vậy,
“vị phiền năo tặc chi sở
hại giả” (là người bị giặc phiền
năo làm hại). Hăy xem trong thế giới hiện thời,
chẳng cần nói tới những người thông thường,
[ngay cả] những nhà giáo dục trên toàn cầu, đều
dạy kẻ khác tham cầu danh vọng, tham cầu quyền
lợi cho chính ḿnh, tất cả những nhà đại
giáo dục đều dạy người khác tham danh ham lợi.
Hăy ngẫm xem, tham đến cùng cực, đều khiến
cho giặc phiền năo ngăn lấp, đánh mất huệ
mạng và Pháp Thân của chính ḿnh, vĩnh cửu qua lại
trong lục đạo giống như trong t́nh huống hiện
thời. Sau khi một đời này đă hết, có c̣n muốn
sanh vào nhân gian nữa hay không? Dẫu nhân gian không tốt,
đời sau vẫn muốn sanh vào nhân gian th́ cũng chẳng
chắc ăn đâu nhé, nhưng sanh vào tam đồ th́ có
thể đảm bảo!
Tôi
vừa mới nêu thí dụ: Lái xe đến một nơi
có phong cảnh đẹp. Đó là sự thật, mọi
người xem TV sẽ biết ngay! Trận băo lốc[4] lần
này, trên quốc lộ Nam Hoành phát sanh núi lở, có tới mấy
chiếc xe bị chôn vùi trong ấy, thê thảm như thế
đó! Hết sức đáng buồn! Trước đó,
Bành Hồ[5] phát
sanh tai nạn trên biển, bao nhiêu người vùi thây trong
biển! Đều vốn là chuyện vui sướng, chẳng
ngờ từ chuyện vui sướng phát sanh chuyện bi
thảm. Nêu lên thí dụ này, ḥng nói rơ chúng ta ở trong nhân
gian chẳng có chuyện vui sướng thật sự, ngơ
hầu chúng ta hiểu thêm một chút. Càng về sau, t́nh h́nh
chúng sanh bị giặc phiền năo hăm hại càng sâu nặng,
chướng ngại càng nặng nề! V́ sao? Thời
đại càng về sau, tâm lư của mọi người
càng hóa thành ác nghiệt, đó là ác tánh tuần hoàn. Tà tri tà
kiến đặc biệt nhiều, những kẻ phát biểu
tà tri tà thuyết xúi giục mọi người hướng
theo đường hướng tranh đoạt danh lợi.
Càng tranh đoạt danh lợi, phiền năo càng nặng nề!
Khi phiền năo càng nặng nề, chướng ngại
cũng càng nặng nề, càng chẳng thấy rơ chính ḿnh, chấp
trước Giả Ngă, chẳng thấy Chân Ngă nữa! V́
thế, những kẻ b́nh phàm trong hiện thời bị
giặc phiền năo làm hại có thể nói là hết sức
nghiêm trọng, nghiêm trọng đến mức độ
nào? Chẳng cần nói tới người thế gian,
người học Phật trong Phật môn thường là
nh́n vào trạng huống của xă hội và thời đại,
cũng học Phật không nổi nữa, mà học đ̣i
phong khí trong xă hội! V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Vị vị lai thế” (V́
đời vị lai). Ba chữ “vị
lai thế” hết sức quan trọng, xuyên suốt từ
thời đức Thế Tôn thuyết pháp cho đến hiện
tại. Tổ sư chú giải hay quá! Thích Ca Mâu Ni Phật
đă sớm thấy rơ ràng, rành rẽ, người hiện
thời đang bị những thứ ấy gây hại,
Ngài nói ba loại tịnh nghiệp trên đây chính là v́ chúng
ta mà nói!
Trong
một câu dài như thế, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo: Nay
đức Như Lai v́ hết thảy chúng sanh trong đời
vị lai (tức là hết thảy các chúng sanh bị giặc
phiền năo làm hại. Nay chúng ta thấy rất rành rẽ,
bao gồm chúng ta trong đó, đều là những kẻ bị
giặc phiền năo làm hại), đức Phật đối
với những chúng sanh ấy “thuyết
thanh tịnh nghiệp” (nói nghiệp thanh tịnh), tức
là ba thứ tịnh nghiệp vừa nói trên đây. Tổ
sư chú giải: Kể từ sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt
độ măi cho đến hiện tại, măi cho đến
mai sau, nếu đức Phật không nói ba loại tịnh
nghiệp ấy, kẻ học Phật trong hiện thời
sẽ chẳng có thành tựu. [Người hành theo] pháp môn
b́nh phàm nếu chẳng tu ba thứ tịnh nghiệp ấy,
sẽ tuyệt đối chẳng thể thành tựu,
điều ấy chẳng cần phải nói nữa! [Hành
nhân tu] pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ Tông
mà chẳng tu ba thứ tịnh nghiệp ấy, đừng
nói là tu các phép Quán trong Quán Kinh, tu Quán [mà chẳng tu ba thứ
Tịnh nghiệp ấy] chắc chắn là tu chẳng
được, dẫu tŕ danh niệm Phật, cũng nhất
định là chẳng niệm ra hồn! Quư vị nghĩ
xem, chúng ta làm những chuyện như vậy, nếu chẳng
có ba loại tịnh nghiệp ấy biến đổi tâm
lư, sửa đổi hành vi của chúng ta, chúng ta sẽ suốt
ngày làm những chuyện tham danh cầu lợi, tổn
người lợi ḿnh ở bên ngoài, trở về nhà niệm
Phật (niệm A Di Đà Phật). Hôm nay ta niệm Phật
đă xong, tâm ta b́nh an, ngày hôm nay cũng chẳng có tội lỗi
ǵ! Ngày mai đi ra ngoài lại tạo những ác nghiệp ấy,
quay về lại niệm Phật, quư vị ngẫm xem! Niệm
Phật kiểu đó có tốt đẹp được
chăng? Có thể đạt đến nhất tâm bất
loạn hay không? Do vậy, nhất định là phải tu
ba tịnh nghiệp. Nói cách khác, ba loại tịnh nghiệp
ấy giúp chúng ta niệm Phật. Có ba loại tịnh nghiệp
ấy, đă đặt vững cơ sở, mới có thể
niệm Phật tốt đẹp được!
Hai
câu tiếp theo chính là một đoạn tán thán, tán thán tịnh
nghiệp. “Thiện tai, Vi Đề
Hy! Khoái vấn thử sự”, v́ phu nhân Vi Đề Hy
trong phần trước đă chọn lựa: Thích Ca Mâu Ni
Phật tỏa ánh sáng, từ trong quang minh hiện ra bao nhiêu
thế giới tốt đẹp để phu nhân Vi Đề
Hy lựa chọn. Phu nhân Vi Đề Hy chọn trúng Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Sau khi đă chọn
trúng, bèn mong muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Sau đấy, thỉnh cầu Thích Ca Mâu Ni
Phật dạy cho bà ta biết văng sanh bằng cách nào, thỉnh
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy bà ta phương pháp. Do đó,
trước tiên, Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra ba loại tịnh
nghiệp này. V́ thế, “thiện
tai, Vi Đề Hy”, “thiện
tai” chính là [đức Phật] tán thán phu nhân Vi Đề
Hy, bà thật sự giỏi quá! Khá lắm! “Khoái vấn thử sự” (Khéo hỏi chuyện
này), chữ “khoái” (快) trong “khoái vấn” có nghĩa là vui
sướng, là lời hỏi [khiến người
được hỏi] hết sức vui thỏa, câu hỏi
hết sức tốt đẹp (bà hỏi rất hợp
tâm ư ta, khiến cho tâm ta vui sướng, hỏi đúng ngay
điều ta đang muốn nói). Đó gọi là “khoái tai” (sung sướng
thay)! Sung sướng v́ đă hỏi về chuyện ǵ? Hỏi
làm thế nào để sanh về thế giới Cực Lạc?
Dùng phương pháp nào ḥng có thể văng sanh? Câu hỏi này
hay quá! Do vậy, gọi là “khoái
tai vấn” (câu hỏi khiến cho người được
hỏi vui sướng). “Khoái vấn
thử sự” là tán thán phu nhân Vi Đề Hy hỏi hết
sức hay!
Dưới
đây là phần thứ ba của lời kết thán (kết
luận, khen ngợi), mà cũng là đoạn cuối cùng
khen ngợi ba loại tịnh nghiệp. Trước hết,
tôi đọc kinh văn một lượt.
(Kinh)
A
(經)阿難,汝當受持,廣為多眾,宣說佛語。如來今者,教韋提希,及未來世一切眾生,觀於西方極樂世界。以佛力故,當得見彼清淨國土。如執明鏡,自見面像。見彼國土極妙樂事,心歡喜故,應時即得無生法忍。
(Kinh: Này A Nan!
Ông hăy nên thọ tŕ, hăy rộng v́ nhiều chúng sanh tuyên nói lời
Phật. Nay Như Lai sẽ dạy Vi Đề Hy và hết
thảy chúng sanh trong đời vị lai, quán Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Do nhờ vào Phật
lực, sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như
cầm gương sáng, tự thấy mặt ḿnh, thấy
những sự vui mầu nhiệm tột bậc trong cơi
nước ấy, do tâm hoan hỷ, bèn ngay lập tức
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Trước
hết, chúng ta hăy “tiêu văn”
(消文, giải thích văn tự).
Đối với những ư nghĩa trong ấy, nếu chẳng
đủ thời gian, sẽ nói bổ sung trong lần sau. Trước
hết, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan: “A
IV.2.1.7. Vô Sanh Pháp Nhẫn
Kế
đó, Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Như
Lai kim giả” (Nay đức Như Lai), nay ta, “giáo Vi Đề Hy, cập vị
lai thế nhất thiết chúng sanh” (dạy Vi Đề
Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai), dạy
họ điều ǵ? Dạy họ “quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”
(quán Tây Phương Cực Lạc thế giới), [tức
là sẽ nói nội dung của] mười sáu phép Quán trong
phần sau. Quán Tây Phương Cực Lạc thế giới
chẳng dễ ǵ quán được! “Dĩ Phật lực cố”, do sức Phật của
ta, “đương đắc
kiến bỉ thanh tịnh quốc độ” [nghĩa
là] cậy vào sức Phật của ta, cho nên có thể thấy
Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Như chấp minh kính” (Như
cầm gương sáng), nói tỷ dụ, giống như một
người chẳng thấy mặt ḿnh, bèn cầm
gương soi, “tự kiến
diện tượng” (tự thấy vẻ mặt), có
thể thấy khuôn mặt của chính ḿnh. “Kiến bỉ quốc độ cực diệu lạc
sự” (Thấy những chuyện vui tột bậc mầu
nhiệm trong cơi nước ấy). Chỉ cần vừa thấy
sự vui mầu nhiệm tột cùng trong thế giới Cực
Lạc, “tâm hoan hỷ cố”
(do tâm hoan hỷ), trong tâm liền phát sanh niềm hoan hỷ,
“ứng thời tức đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn” (ngay lập tức đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn). Hễ tâm hoan hỷ bèn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Trong lần sau, sẽ nói ư nghĩa trong đoạn này. Hôm
nay, tôi nói đến chỗ này là ngưng!
Tập 16
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ sáu, bắt
đầu từ hàng thứ sáu. Trước tiên, đọc
kinh văn một lượt.
(Kinh)
A
(經)阿難,汝當受持,廣為多眾,宣說佛語。如來今者,教韋提希,及未來世一切眾生,觀於西方極樂世界。以佛力故,當得見彼清淨國土。如執明鏡,自見面像。見彼國土極妙樂事,心歡喜故,應時即得無生法忍。
(Kinh: Này A
Nan! Ông hăy nên thọ tŕ, hăy rộng v́ nhiều chúng sanh tuyên
nói lời Phật. Nay Như Lai sẽ dạy Vi Đề
Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai, quán
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do Phật lực,
sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như cầm
gương sáng tự thấy mặt ḿnh, thấy những
sự vui mầu nhiệm tột bậc trong cơi nước
ấy, do tâm hoan hỷ, bèn ngay lập tức đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn).
Trong
phần trước, [quư vị đă thấy trong phần
chánh kinh], sau khi nói xong ba loại tịnh nghiệp, bèn có ba tiểu
đoạn tán thán phu nhân Vi Đề Hy đă thỉnh cầu
Phật khai thị ba loại tịnh nghiệp. Đối
với ba tiểu đoạn ấy, lần trước
đă nói xong hai tiểu đoạn đầu, đoạn
kinh vừa mới niệm [trên đây] chính là tiểu đoạn
thứ ba. Trong buổi trước, tôi cũng đă giảng
xong ư nghĩa văn tự của đoạn này, nhưng
đối với những nghĩa lư trong ấy, hôm nay phải
nói bổ sung đôi chút.
Trong
đoạn kinh văn này, chúng ta phải chú ư: Vừa khởi
đầu, đức Phật liền bảo tôn giả A
Nan phải “thọ tŕ”, sau
đấy, phổ biến v́ rất nhiều chúng sanh “tuyên thuyết Phật ngữ”.
Đối với chuyện tuyên thuyết Phật ngữ,
điểm đặc biệt cần chú ư là phải thọ
tŕ! Chẳng thọ tŕ, làm sao có thể tuyên thuyết cho
được? Tuy có thể ghi chép lời Phật, nhưng
chính ḿnh ắt phải có tu tŕ, có công phu kha khá, sau đấy
mới tuyên nói, mới sẽ chẳng phạm sai lầm.
Chúng ta phải biết điều này. V́ sao? Hiện thời
là thời đại Mạt Pháp trong Phật pháp, chúng ta ở
Đài Trung th́ vẫn c̣n khá, chứ ở những nơi
khác, đạo lư này chẳng được hiểu rơ ràng
cho lắm. Nhất là trong giới học thuật, cứ tưởng
là chính ḿnh xem kinh, xem sách vở nhà Phật, sau đấy
[có thể] viết văn, diễn thuyết [tùy ư]. Đối
với những ǵ họ đă viết, đă nói, chúng ta phải
hỏi: “Kẻ ấy có từng thọ tŕ hay chưa?” [Nếu
là] chưa hề thọ tŕ, bất luận kẻ ấy viết
nhiều cách mấy, đều chẳng phải là thuần
túy. Nói năng lại càng chẳng đáng để bàn tới!
V́ thế, nhất định là phải chính ḿnh thọ tŕ!
Hơn nữa, [thuở Phật tại thế], đức
Phật nói với tôn giả A Nan, tôn giả A Nan tự ḿnh
tiếp nhận [pháp môn] từ đức Phật rồi
tu tŕ, cũng chẳng phải là [ngài A Nan] tự xem xong bèn
hiểu ngay! Chúng ta phải hiểu rơ điều này! “Thọ tŕ” phải tùy thuộc
quư vị đang học pháp môn nào, quư vị thọ tŕ pháp
môn ấy. Ví như nói: Ta thọ tŕ pháp môn này, chẳng thể
tuyên truyền những pháp môn khác. Chẳng hạn như:
Chúng ta chẳng thọ tŕ pháp môn Niệm Phật, sẽ tuyên
thuyết pháp môn Niệm Phật theo kiểu nào đây? Ắt
phải là đă thọ tŕ pháp môn Niệm Phật. Người
đă từng niệm Phật, sẽ tự biết niệm
Phật có thể nẩy sanh những vấn đề ǵ,
làm thế nào th́ mới có thể niệm Phật tốt
đẹp? Tín - Nguyện - Hạnh được kiến
lập như thế nào? Sau đấy mới có thể
khuyên bảo người khác tu tŕ pháp môn này. Điều này
có nghĩa là muốn tuyên thuyết một pháp môn nào, nhất
định là phải đă từng thọ tŕ pháp môn ấy!
Đức
Phật dạy tôn giả A Nan thọ tŕ điều ǵ? Tiếp
đó, [đức Phật] bèn nói: “Như Lai kim giả” (nay Như Lai), Như Lai là chữ
đức Phật dùng để tự xưng, ta nay dạy
phu nhân Vi Đề Hy, “cập vị
lai thế nhất thiết chúng sanh” (cùng hết thảy
chúng sanh trong đời vị lai). “Đời vị lai” chẳng có hạn lượng,
từ thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến
hiện tại, cho đến vị lai, trải qua [các giai
đoạn] Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp. Nhất
là trong thời đại Mạt Pháp hiện thời, hết
thảy chúng sanh chẳng học Phật, chẳng cầu
liễu sanh tử th́ thôi. Nếu mong học Phật, nếu
mong liễu sanh tử, mà chẳng học pháp môn này, tuyệt
đối là sẽ chẳng thực hiện được
(cái “chẳng thể thực hiện”
ở đây chính là nói tới chuyện liễu sanh tử
ngay trong đời này). Muốn liễu sanh tử và thành tựu
ngay trong đời này, nhất định phải học pháp
môn này. Do đó, đức Phật dạy phu nhân Vi Đề
Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai “quán”, tức là mười sáu
phép Quán trong phần sau. “Quán
ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”: Quư
vị phải đặt cái tâm nơi thế giới Cực
Lạc, điều này đặc biệt trọng yếu!
Các pháp môn thông thường chẳng phải đặt tâm
chặt chẽ nơi thế giới Cực Lạc, mà chỉ
ở trong thế giới Sa Bà, chiếu theo Phật pháp,
dùng sức của chính ḿnh để tu. [Tu kiểu ấy]
chẳng phải là không thể thành công, nhưng thời
gian thành công rốt cuộc là năm nào, đời nào? Quá
xa xôi! Nếu chẳng phải là thật sự học pháp
môn Niệm Phật, chính ḿnh chẳng kiến lập tín tâm
đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới,
chẳng có nguyện lực, hễ giảng [pháp môn Tịnh
Độ] sẽ giảng thành pháp môn thông thường, chẳng
hề dính líu ǵ đến sự tu tŕ [pháp môn Tịnh Độ]!
Ở đây, [đức Phật] đặc biệt nêu ra
Hạnh: “Quán ư Tây
Phương Cực Lạc thế giới”. Trong kinh
văn đă nói rất rành mạch: Từ thế giới
Sa Bà này, đi về phía Tây, trải qua mười vạn ức
tam thiên đại thiên thế giới ở giữa hai cơi
(vượt qua quá nhiều đại thiên thế giới
như vậy) mới đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Với công phu tu hành của bọn phàm nhân
chúng ta, ai có thể thấy được? Hết sức
khó khăn!
Tiếp
đó là nói: “Dĩ Phật lực
cố” (Do Phật lực), v́ dùng Phật lực, “đương đắc kiến
bỉ thanh tịnh quốc độ” (sẽ thấy
cơi nước thanh tịnh ấy), Phật lực vừa
giúp đỡ, sẽ trông thấy, lập tức có thể
thấy, “bỉ” (彼) là nói thế
giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc hết
sức thanh tịnh! Cơi nước thanh tịnh là Tịnh
Độ. Ở đây, phải chú ư “Phật lực cố” (do Phật lực). Chẳng
có Phật lực, sẽ chẳng thấy Cực Lạc Tịnh
Độ. Chúng ta thường nghe thiện tri thức nói:
Cái hay trong pháp môn Tịnh Độ là có rất nhiều chỗ
đặc thù. Trong đó, một điểm đặc biệt
chính là pháp môn Nhị Lực (sức của chính ḿnh và c̣n có
Phật lực). Ở đây nói tới Phật lực, khi
Thích Ca Mâu Ni Phật nói [câu này], chính là nói về Phật lực
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngay trong khi chánh thức tŕ danh
niệm Phật, Phật lực chính là sức của A Di
Đà Phật. V́ sao Phật lực ở đây lại là sức
của Thích Ca Mâu Ni Phật? Ngài dạy phương pháp này,
quư vị tu phương pháp này, lại được Phật
lực [của Thích Ca Mâu Ni Phật] gia tŕ, đồng thời
c̣n có sức mạnh của A Di Đà Phật [gia tŕ]. Cố
nhiên là tu Quán cần thiết [Phật lực gia tŕ], mà niệm
Phật càng cần hơn nữa! V́ thế, chúng ta biết:
Tu pháp môn thông thường sẽ chẳng giống như vậy.
Đối với pháp môn thông thường, sau khi đă biết
phương pháp, hoàn toàn cậy vào sự dụng công của
chính ḿnh, nhưng công phu của chính ḿnh chẳng dùng
được! V́ sao công phu của chính ḿnh chẳng dùng
được? Lũ phàm phu chúng ta nghiệp lực sanh tử
quá nặng nề (nghiệp lực tham, sân, si, mạn, nghi quá
nặng), chính ḿnh chẳng có sức mạnh để trong
một thời gian ngắn đoạn trừ nó. Khi nào
đoạn hết, khi đó mới thành tựu. Lấy Kiến
Tư Hoặc để nói, nếu c̣n một phẩm
chưa đoạn, sẽ chẳng thoát khỏi lục
đạo. Hoàn toàn cậy vào sức của chính ḿnh [sẽ
gặp khó khăn như thế đó]! Đối với
Phật lực, công phu tác quán sẽ được nói trong
phần sau, [cũng như] công phu Niệm Phật
được [Quán Kinh] nói cuối cùng, đều có Phật
lực gia tŕ: Một mặt là cậy vào sự dụng
công của chính ḿnh, mặt khác là do có nguyện lực của
Phật, trong tương lai sẽ được tiếp
dẫn. Có Phật lực [gia tŕ] chính là điểm đặc
thù!
“Đương đắc kiến
bỉ thanh tịnh quốc độ” (Sẽ được
thấy cơi nước thanh tịnh ấy): Do tự lực
của phàm phu, sẽ chẳng thể trông thấy. Vừa
được Phật lực giúp đỡ, hai thứ lực
(tự lực và Phật lực) cộng lại, nhất
định sẽ trông thấy cơi nước thanh tịnh.
Do có Phật lực giúp đỡ, nên có thể trông thấy
cơi nước thanh tịnh. Phật lực giúp đỡ
có tầm quan trọng như thế nào? Chỉ sợ kẻ
b́nh phàm chẳng hiểu rơ, nên đức Phật bèn nói tỷ
dụ: “Như chấp minh kính,
tự kiến diện tượng” (Như cầm
gương sáng, tự thấy vẻ mặt). Mỗi
người chúng ta muốn thấy mặt của chính ḿnh
rất khó khăn, mắt nằm ngay trên mặt, làm sao mắt
có thể trông thấy mặt của chính ḿnh cho được?
Phàm phu cậy vào sức của chính ḿnh để mong thấy
Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng khó
khăn dường ấy! V́ sao khó khăn? Do phàm phu bị
nghiệp lực ngăn chướng cho nên chẳng thấy.
Chính ḿnh chẳng thấy mặt ḿnh, đó cũng là do bị
nghiệp lực hạn chế, không thể dời mắt
[ra ngoài mặt] được. Không sao hết! Chỉ cần
trong tay cầm một tấm gương sáng, soi vào kính, sẽ
có thể thấy rơ ràng, rành rẽ diện mạo của
chính ḿnh. Đây có nghĩa là: Được Phật lực
giúp đỡ, giống như chúng ta có một tấm
gương, ngay lập tức có thể trông thấy. “Tự kiến diện tượng”
(Tự thấy vẻ mặt) là tỷ dụ [hành nhân do
được Phật lực gia tŕ] bèn trông thấy Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
“Kiến bỉ quốc độ
cực diệu lạc sự” (Thấy sự vui mầu
nhiệm tột bậc trong cơi nước ấy): Bèn thấy
những chuyện vui mầu nhiệm tột cùng trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mầu nhiệm
đến mức độ nào? Vui sướng tới cỡ
nào? Thêm vào một chữ Cực (極), tức là “cực diệu lạc”, [ngụ
ư] có khá nhiều chuyện: Ao bảy báu, bảy lớp hàng
cây, lưới mành, các loài chim diễn pháp. Kinh Tiểu A Di
Đà vẫn là nói hết sức đơn giản, kinh Vô
Lượng Thọ và trong phần sau bộ Quán Kinh này có
nói nhiều hơn, đủ mọi thứ chuyện mà chúng
ta chẳng có cách nào tưởng tượng được!
Nhất định là phải đích thân trông thấy những
chuyện vui sướng cực diệu ấy, vừa trông
thấy, trong tâm phát sanh niềm hoan hỷ. “Tâm hoan hỷ cố”, [nghĩa là] v́ trong tâm hoan hỷ,
“ứng thời tức đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn”, [nghĩa là] ngay trong khi hoan hỷ ấy,
bèn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn
bèn ổn thỏa!
Vô
Sanh Pháp Nhẫn là ǵ? Chúng tôi phải nói về Vô Sanh Pháp.
Đầu tiên, chúng ta phải biết: Chúng sanh trong thế
gian chính là phàm phu thế gian. Hết thảy các pháp
được thấy trong bất luận một
đường nào, bao la vạn tượng, quá ư là nhiều.
Hết thảy các pháp đều là pháp sanh diệt, sanh sanh
diệt diệt! Chúng tôi lấy hai điểm trọng yếu
để nói:
1) Một
là chánh báo của chúng sanh. Chánh báo là pháp sanh diệt. Nói tới “sanh diệt” th́ trước
hết là nói về Sanh. Do từ nhân duyên ḥa hợp mới
có hiện tượng Sanh. Mỗi người chúng ta có cái
nhân là linh hồn của chính ḿnh (thức thứ tám), lại
c̣n có duyên là cha mẹ. Do nhân duyên ḥa hợp, mới có thân
người chúng ta. Con người sau khi được
sanh ra, vẫn phải cần có các nhân duyên. Do các duyên tiếp
tục tăng thêm, tiếp tục tăng thêm như thế
nào? Bất cứ người nào sanh ra cũng đều
phải bú sữa. Sau khi đă bú đến mức kha khá,
bèn ăn những thực phẩm khác, cần phải
ăn uống. Thiếu ăn, thiếu uống, sanh mạng
sẽ chẳng thể sanh trưởng. Sau khi đă trưởng
thành, vẫn phải tiếp tục ăn; nếu chẳng
ăn uống, sẽ chẳng thể duy tŕ. Chẳng có những
duyên ấy, quư vị ngẫm xem, thân người làm sao có
thể tồn tại cho được? Luôn luôn phải dựa
vào nhân duyên, chẳng ngừng ngưng tụ nhân duyên. Khi
đă tới tuổi già, nhân duyên sắp tan, các thứ trạng
huống bệnh tật nơi thân thể xuất hiện.
Dần dần sức ngưng tụ các thứ điều
kiện vật chất thuộc các phương diện tâm
lư và sinh lư chẳng đủ mạnh nữa, chúng sẽ
phân tán, thoái hóa, các thứ bệnh tật xuất hiện.
Tới lúc mạng chung, toàn thể nhân duyên phân tán. Hăy ngẫm
xem, thân người rơ ràng là một pháp sanh diệt; nhưng
rất nhiều người chẳng biết pháp sanh diệt
ấy, cứ tưởng đấy chính là Ngă, hết sức
thực tại, hết thảy đều v́ cái Ngă ấy
mà vất vả, chẳng tiếc sức căi vă, tranh chấp
với kẻ khác v.v… Thậm chí làm những chuyện tội
ác, đều v́ cái Ngă ấy. V́ cái Ngă thuộc về pháp
sanh diệt mà tạo tội nghiệp, có đáng hay không?
Lũ chúng sanh phàm phu chúng ta chẳng thấu hiểu đấy
là pháp sanh diệt. Chánh báo của chúng sanh là sanh mạng của
chính ḿnh. Ngoài chánh báo ra, tất cả những vật ở
ngoài thân đều là y báo.
2)
Y báo là cái mà chánh báo cần nương tựa vào. Trong thế
gian này, đại hoàn cảnh và tiểu hoàn cảnh rất
nhiều. Toàn thể đại hoàn cảnh là địa cầu.
Cá nhân ta có một miếng đất, có gia đ́nh, có
căn nhà, những thứ ấy đều là tiểu hoàn
cảnh. Thậm chí trong một đoàn thể, quư vị là
một phần tử trong đoàn thể ấy, cũng coi
như là một tiểu hoàn cảnh. Một quốc gia
cũng vậy, đều gọi là y báo. Quư vị ngẫm
xem, y báo có phải là thực tại hay chăng? Y báo
cũng là sanh diệt! Nhục nhăn của phàm phu nh́n chẳng
thấy, cứ ngỡ đại địa (địa cầu)
thật sự tồn tại, vĩnh cửu bất biến.
Thật ra, nói theo Phật pháp, địa cầu [cũng là
pháp sanh diệt], Phật pháp nói triệt để nhất.
Hiện thời, những kẻ chú trọng khoa học
cũng hiểu rơ, dùng kiến thức khoa học để
phân tích, họ cũng biết địa cầu thời thời
khắc khắc đều biến động. Chẳng hiểu
rơ điều này, sẽ chấp trước địa cầu
là vĩnh cửu tồn tại. Nếu nói theo mức độ
nhỏ hơn, đối với mỗi phần trên địa
cầu, tức là một lănh thổ, [nhân loại chấp
trước] đây là lănh thổ của ta, đó là lănh thổ
của người khác. Đại quốc gia là đại
lănh thổ, tiểu quốc gia là tiểu lănh thổ. Từ
xưa đến nay, đều v́ chuyện này mà phát sanh
chiến tranh. Mỗi lần chiến tranh, đă chết biết
bao nhiêu người! Toàn thể đại địa cho
đến các lănh thổ giữa các quốc gia đều
là thoắt sanh, thoắt diệt, chẳng phải là “kiên cố,
không thể phá hoại”. V́ thế, kinh Bát Đại Nhân
Giác có câu: “Quốc độ
nguy thúy” (Cơi nước mong manh). Từ xưa tới
nay, bất cứ bờ cơi của một quốc gia nào,
cũng đều là rất nguy hiểm, rất mong manh. Hễ
lực lượng hơi suy yếu, ngoại lực bèn
xâm lược. Đại quốc gia cũng chẳng tránh
khỏi. Đối với các đại quốc gia trong thế
gian (từ xưa tới nay có rất nhiều đại
quốc gia), quốc gia của quư vị to, quốc gia của
người ta c̣n to hơn, lực lượng của
người ta mạnh hơn quư vị, có thể tiêu diệt
quư vị bất cứ lúc nào! Đại quốc gia đă chẳng
ổn, tiểu quốc gia lại càng chẳng cần phải
nói nữa! Quư vị xem Xuân Thu Tả Truyện[6] sẽ
biết: Tiểu quốc gia ở giữa hai đại quốc
gia, giống như bị một cái ḱm sắt kẹp chặt
quư vị, bất cứ lúc nào cũng đều phải
nín hơi kín tiếng, phải chịu sự chi phối của
người ta. Chẳng hiểu pháp sanh diệt, sẽ có
khổ năo. Những người dân b́nh phàm trong nước
chẳng cần phải nói tới, quốc vương của
một tiểu quốc cũng rất đáng thương.
Ắt phải biết pháp sanh diệt, đừng v́ những
vấn đề ấy mà “ta tranh, ngươi đoạt”.
Nói thật ra, từ xưa đến nay, chẳng có được
mấy người thật sự v́ quốc gia! Trong lịch
sử Trung Hoa, trừ mấy vị minh quân như Đường
Nghiêu, Ngu Thuấn, vua [Đại] Vũ… ra, [vua chúa] sau khi
độc chiếm thiên hạ đều v́ chính ḿnh, v́ con
cháu của họ. Thời cổ là như vậy, nói theo hiện
thời, người thật sự v́ dân chúng có được
mấy ai? Người học Phật chúng ta nghiên cứu Phật
pháp để thấu hiểu sự thật, phải nói ra
t́nh h́nh này. Chúng ta phải hiểu rơ pháp sanh diệt, hết
thảy y báo trong thế gian đều rất nguy hiểm,
rất mong manh. Nếu mong chúng tồn tại vĩnh cửu,
chẳng có chuyện ấy đâu nhé! Chúng ta phải hiểu
rơ sự thật này, chánh báo và y báo đều là sanh sanh diệt
diệt, chẳng đáng tin cậy!
Phàm
phu chẳng hiểu rơ pháp sanh diệt, ngỡ chúng nó là pháp
chân thật. V́ thế, họ có Ngă Chấp và có Pháp Chấp.
Hễ có chấp trước, các chuyện thuộc về
tội ác đều làm! Người học Phật trước
hết phải hiểu rơ pháp sanh diệt. Sau khi đă nhận
thức pháp sanh diệt, sẽ chẳng chấp trước
như những kẻ phàm phu. Không chỉ là như vậy,
c̣n phải tiến hơn bước nữa là cầu Vô
Sanh Pháp.
Vô
Sanh Pháp là ǵ? Pháp sanh diệt do nhân duyên ḥa hợp, chỉ là
giả pháp. Hễ có nhân bèn có duyên, nhân duyên ḥa hợp bèn
sanh, nhân duyên phân tán bèn diệt. Vô Sanh Pháp chẳng phải
là như vậy, mà tiến hơn bước nữa, sẽ
là thấu hiểu bản tánh vốn sẵn có của chúng
sanh. Triết học thông thường cũng nói đến
các hiện tượng trong vũ trụ và nhân sinh; hiện
tượng luôn luôn biến động, vũ trụ và
nhân sinh có bản thể. Tuy trong triết học cũng nói
tới bản thể, nhưng chẳng t́m được
bản thể ở chỗ nào? “Bản
thể” chính là cái Thể vốn có của muôn pháp. Vạn
pháp sanh sanh diệt diệt, chúng ta chẳng hiểu rơ chúng.
Nếu t́m được bản thể, đă đạt
được bản thể, sẽ chuyển biến pháp
sanh diệt, chúng chẳng c̣n là pháp sanh diệt nữa, mà là
Vô Sanh Pháp, tức là vô sanh, vô diệt. Rốt cuộc, pháp bất
sanh bất diệt ở chỗ nào? Chúng ta học Phật,
mục đích quan trọng nhất là ở ngay chỗ này:
Phải t́m được Vô Sanh Pháp mà chúng ta vốn có.
Trong phần trước, chúng tôi đă nói tới chánh báo,
nhân duyên ḥa hợp, có sanh, có diệt. Hễ có sanh bèn có tử,
sanh tử chẳng ngơi, qua lại sanh tử trong lục
đạo. Khi đă t́m được Vô Sanh Pháp, Vô Sanh Pháp
là chẳng sanh, chẳng diệt, há c̣n có sanh tử ư? Vô
Sanh Pháp chính là Chân Như bản tánh của chúng ta. Nói cách
khác, sẽ là “minh tâm kiến
tánh” (chứng đắc tâm tánh của chính ḿnh), đó
là đắc Vô Sanh Pháp. Cảnh giới ấy sẽ chẳng
giống như trong hiện tại. Những ǵ chúng tôi
đang nói trong hiện thời [chính là hiểu biết của
hạng] phàm phu chẳng thấu hiểu pháp sanh diệt, không
đáng nói đến. Dẫu đă hiểu pháp sanh diệt,
vẫn là vô dụng, chỉ bất quá là hiểu sự sanh
diệt mà thôi, như thế nào th́ mới có thể giải
thoát? Vẫn phải là đắc Vô Sanh Pháp, cảnh giới
có từng tầng một như thế đó.
Đă
đắc Vô Sanh Pháp, sẽ có hiện tượng ǵ? Nói thật
ra, kinh Phật truyền đến Trung Hoa, được
phát huy truyền bá rạng rỡ, phổ biến như thế,
đích xác là do đă nhờ vào văn hóa Trung Hoa. C̣n như
trong các nước theo truyền thống [Phật giáo] Nam
Truyền, Phật pháp đều là Tiểu Thừa Phật
pháp, chẳng triệt để như vậy. Nay chúng ta
đọc sách Khổng Tử, xem những lời dạy của
Khổng Tử, [sẽ nhận thấy]: Ngôn từ tuy khác,
nhưng chỗ nào cũng đều là Phật pháp. Sách Luận
Ngữ có chép, Khổng Tử đứng trên bờ sông thốt
lời cảm thán, cảm thán ǵ vậy? Ngài thấy nước
sông từ thượng nguồn đổ xuống hạ
lưu, chảy măi chẳng ngừng. Thấy ḍng nước
cuồn cuộn chảy, có cảm tưởng ǵ? Đó là
[cách nh́n] của bọn phàm phu chúng ta, Khổng phu tử là
hạng người nào? Ngài là thánh nhân, là bậc Đại
Bồ Tát. Ngài nh́n nước sông, lại nh́n vạn sự
vạn vật trong trời đất (cũng là vạn
pháp), cảm thán “chẳng có pháp nào trong vạn pháp mà chẳng
phải là sanh diệt. Chẳng có pháp nào không phải là sanh
ra rồi diệt mất!” Hiện tượng thoắt
sanh, thoắt diệt, các tinh tú trong hư không cũng thế,
muôn vật trên đại địa cũng thế, thân thể
của nhân loại chúng ta cũng thế, đều là như
thế cả! Ngài dùng chữ Thệ (逝), chữ
Thệ trong “tiêu thệ” (消逝, trôi
đi mất). “Thệ giả”,
ư nói vạn vật trong toàn thể vũ trụ, “thệ giả như tư phù”
(những ǵ đă trôi đi đều giống như thế
này). “Như” (如) là giống
như, chữ “tư” (斯) chỉ
nước đang chảy trong ḍng sông, [ư nói] vạn vật
chẳng ngừng trôi như ḍng nước luôn chảy măi,
“bất xả trú dạ”
[nghĩa là] ngày đêm chảy không ngừng. Hễ đă
trôi qua, vĩnh viễn chẳng quay lại. Đó là nói tới
pháp sanh diệt.
Nếu
kẻ b́nh phàm hỏi điều này có nghĩa là ǵ ư?
Quá nhiều ư nghĩa. Những kẻ phàm phu tầm thường
chẳng hiểu rơ sự khổ năo của chính ḿnh, chấp
trước kiên cố chẳng thể phá. Đă hiểu rơ
tầng ư nghĩa này rồi, sau đấy mới có thể
học đạo. Nho gia cũng là phải học đạo,
cũng dạy người ta xuất thế gian, liễu
sanh tử, nhất định phải thông hiểu tầng
[ư nghĩa] này th́ mới có thể cầu pháp “bất sanh, bất
diệt”. Pháp sanh diệt trôi qua như vậy, cái chẳng
trôi qua th́ như thế nào? Lại nêu một thí dụ:
Đời Tống, Tô Đông Pha hết sức nổi tiếng.
Ông viết Xích Bích Phú (Xích Bích Phú có Tiền Xích Bích Phú và Hậu
Xích Bích Phú). Mọi người đều biết Xích Bích[7], hễ
xem B́nh Kịch[8] là biết.
Trong thời đại Tam Quốc, Châu Du và Tào Tháo giao chiến
ở Xích Bích (đó là một cuộc quyết chiến hết
sức nổi tiếng xưa nay), cuộc chiến ấy
đă đốt chết bao nhiêu người! Trong Xích Bích
Phú có câu: “Thệ giả như
tư!” (Những ǵ đă trôi qua đều như vậy),
đấy chính là [lời văn dựa theo ư] câu nói của
Khổng Tử chép trong Luận Ngữ [vừa được
nhắc đến trên đây]. Câu kế tiếp là: “Nhi vị thường văng dă”
(Mà cũng chưa từng qua đi). “Thệ giả như tư phù” là pháp sanh diệt,
“nhi vị thường văng dă”:
Quư vị thấy nước sông chảy măi, pháp sanh diệt
luôn trôi đi. Chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng cảnh
giới bất sanh, bất diệt. Quư vị thấy
nước luôn lưu động, ta chứng đắc cảnh
giới [Vô Sanh Pháp Nhẫn ấy, sẽ thấy nước]
chẳng lưu động chút nào. Chưa từng qua
đi, chẳng qua đi [nghĩa là] cũng không chảy
đến trước chút nào! Cảnh giới ấy là cảnh
giới của sự chứng đắc Vô Sanh, thật sự
thấy bản tánh. Bản tánh bất lai, bất văng
[nghĩa là] chẳng có đến hay đi, là bất động,
là vô sanh. Đây là dùng văn hóa Trung Hoa làm thí dụ ḥng khiến
cho chúng ta hiểu Vô Sanh Pháp là ǵ, pháp sanh diệt là ǵ!
Chúng
ta hiểu rơ Vô Sanh Pháp. Đối với chữ Nhẫn
(Nhẫn (忍) trong Vô Sanh Pháp Nhẫn),
nói thông thường, nó có nghĩa là “nhẫn nại”. Chúng ta ở trong hoàn cảnh chẳng
tốt đẹp, gặp chuyện chẳng như ư trong
thế gian, bất luận là do con người cũng thế,
hay là về phương diện vật chất khác cũng
thế, chuyện chẳng như ư rất nhiều! Chúng ta chẳng
đọc sách, chẳng hiểu đạo lư, sẽ chẳng
thể nhẫn. Chúng ta là người đọc sách, phải
nói đến nhẫn. “Nhẫn”
là nhẫn nại. Nhẫn nại là công phu rèn luyện của
chúng ta. Có thể kiên tŕ chịu đựng, có năng lực
kiên nhẫn, mỗi ngày một vun bồi [vững chắc]
hơn; sau đấy, năng lực thực hiện mọi
việc sẽ to lớn. Chẳng thể nhẫn nại là
không được rồi. Khi bọn phàm phu chúng ta học
Phật, phải nhẫn nại. Chúng ta thông hiểu Phật
pháp, pháp sanh diệt là ǵ, Vô Sanh Pháp là ǵ. Chúng ta mong chuyển
pháp sanh diệt thành Vô Sanh Pháp; trước hết, phải
biết chính ḿnh đang ở trong thế giới Sa Bà là một
thế giới đau khổ, chúng ta phải nhẫn. Sa Bà
nghĩa là Kham Nhẫn. Ắt phải có thể nhẫn th́
mới có thể tồn tại trong thế giới này. Chẳng
thể nhẫn nại, sẽ chẳng có cách nào sanh tồn;
kẻ b́nh phàm như chúng ta phải nói tới sự nhẫn
nại!
Nói
đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thật ra, xét theo
phương diện học Phật, một ư nghĩa của
chữ Nhẫn là “nhẫn khả”
(忍可). “Nhẫn khả” là đă thấy đạo, ngoài việc
hiểu rơ pháp sanh diệt ra, cũng phải hiểu rơ Vô
Sanh Pháp. Thật sự khai ngộ Vô Sanh Pháp, ngộ
được Vô Sanh Pháp, th́ gọi là “nhẫn khả”. Nói theo danh từ
thông tục của người hiện thời, “nhẫn khả” là “khẳng định”, khẳng
định pháp này là đúng (là chân lư), chẳng bị ảnh
hưởng bởi những tư tưởng tà thuyết.
Đó gọi là Nhẫn Khả. Nhẫn Khả tiến cao hơn
nữa, sẽ là An Nhẫn (安忍).
An (安) là rất b́nh yên, hết sức tự
nhiên. Nhẫn được nói trong đoạn trước
vẫn c̣n mang tánh chất miễn cưỡng đôi chút. Khi
đă đạt tới An Nhẫn, hết thảy đều
tự nhiên, đă chứng đạo. Nhẫn Khả là ngộ
đạo; An Nhẫn là chứng đạo. Xác thực là chính
ḿnh đă chứng đắc Chân Như bản tánh bèn gọi
là An Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn cũng có cạn và sâu, An Nhẫn
được nói đến ở đây chính là chứng
đắc bản tánh.
Xét
theo phương diện tương quan giữa Vô Sanh Pháp
Nhẫn và học lư, xin quư vị xem đề cương
bài giảng thứ tư đă phát lần trước. Trang
thứ nhất trong đề cương bài giảng thứ
tư nói về Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nội dung của danh từ
Vô Sanh Pháp Nhẫn đă được nói trong phần
trước; nay chúng tôi căn cứ trên học lư về sự
“chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” trong Phật học
để giới thiệu với mọi người
đôi chút. Chúng ta học Bồ Tát đạo, nói thông
thường là có địa vị Tam Hiền. “Hiền” (賢) là hiền
nhân, từ hiền nhân trở lên chính là địa vị
thánh nhân, tức “đăng
địa” (登地)[9].
Địa vị Tam Hiền bao gồm ba mươi địa
vị hiền nhân. Thứ nhất là mười địa
vị Trụ, tức Thập Trụ (chữ Trụ (住) trong
“cư trụ” (居住), trụ ở trong
đó). Học Đại Thừa Phật pháp, học Bồ
Tát pháp, có thể đứng vững, chẳng dao động,
[bèn gọi là Trụ]. Trước Thập Trụ c̣n có Thập
Tín (Tín (信) trong tín ngưỡng). Tu măn Thập Tín vị,
tức là [tu tập hoàn tất] mười cấp bậc
thuộc địa vị Tín rồi mới tiến nhập
Sơ Trụ. Tu viên măn Sơ Trụ bèn là Nhị Trụ, măi
cho đến Thập Trụ. Sau khi đă viên măn Thập Trụ,
tiến nhập Thập Hạnh vị (Hạnh (行) trong chữ
“tu hành”), tự ḿnh chiếu
theo Phật pháp ([cụ thể là] Bồ Tát pháp) để tu
hành, và cũng khuyên kẻ khác tu hành. Tu viên măn địa vị
Thập Hạnh sẽ là địa vị Thập Hồi
Hướng. Do tổng cộng có ba mươi địa
vị, nên gọi là Tam Hiền Vị. Đă tu viên măn Tam Hiền
Vị, sẽ đăng địa, [mang ư nghĩa] “đă
đạt lên địa vị ấy, ổn định
giống như đại địa, hết sức
đáng tin cậy”. Đăng địa cũng là từ Sơ
Địa, Nhị Địa, cho đến Thập Địa.
Hễ đăng địa bèn trở thành thánh nhân.
Sau
khi đă hiểu rơ danh từ, lại giới thiệu cùng
quư vị mấy điều sau đây: Chứng đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn, xét theo địa vị Bồ Tát để
nói, Vô Sanh Pháp Nhẫn là địa vị ǵ? Nói theo giáo lư của
tông Thiên Thai, chia thành Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng
Giáo Bồ Tát tŕnh độ nông cạn, là Tiểu Thừa.
Nếu tu Bồ Tát đạt tới Thông Giáo, sẽ là Đại
Thừa Phật pháp. Xét theo Biệt Giáo, phải là
Đăng Địa [mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn].
Người tu Viên Giáo căn khí hết sức thông minh, phải
là Sơ Trụ [mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn]. Theo chú
giải của tổ sư, người chứng đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn thuộc địa vị Sơ Địa
Bồ Tát trong Biệt Giáo, hoặc là Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo. V́ thế, trong chú giải, đă ghi Vô Sanh
Pháp Nhẫn là “Sơ Trụ, Sơ
Địa”. Nói cách khác, địa vị Sơ Trụ
trong Viên Giáo ngang bằng địa vị Sơ Địa
trong Biệt Giáo; chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn là địa vị
như vậy.
Chứng
đắc địa vị này là t́nh huống ǵ? Chúng ta biết
phàm phu chúng sanh sanh tử chẳng dứt trong lục đạo.
Do v́ có Kiến Tư Hoặc, cho nên mới sanh tử chẳng
ngừng. Đoạn Kiến Tư Hoặc bèn thoát luân hồi;
nhưng hăy c̣n có Trần Sa Hoặc. Hành Bồ Tát đạo
c̣n phải phá Trần Sa Hoặc. Cuối cùng, c̣n có vô minh,
Vô Minh Hoặc là từng tầng một. Trong Biệt Giáo là
chứng lên Sơ Địa, trong Viên Giáo là chứng lên
Sơ Trụ bèn phá vô minh. Vô minh chẳng phải là phá hoàn
toàn, mà là phá từng phần, đă phá một phần vô
minh, tuyệt diệu thay! Bản tánh của chúng ta do bị
vô minh che lấp, cho nên bản tánh của chính ḿnh chẳng
phát khởi tác dụng. Chỉ cần trừ được
một phần vô minh, bèn chứng đắc Chân Như bản
tánh (thấy tự tánh Phật) của chính ḿnh. Nói theo Tạng
Giáo, vị ấy có thể biểu hiện tám tướng
thành đạo! Công phu “phần
phá vô minh” (phá vô minh từng phần) vốn là nói về
Sơ Trụ, hoặc Sơ Địa, tuyệt đối
đáng tin cậy, hết sức ổn thỏa, thích
đáng! Học Phật đạt đến tŕnh độ
này, tuyệt đối chẳng thoái chuyển.
Bất
Thoái cũng có ba loại, khi chúng ta nghiên cứu kinh A Di
Đà, tôi đă giới thiệu cùng quư vị, có Vị Bất
Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Vị Bất
Thoái là Tiểu Thừa Sơ Quả; Hạnh Bất Thoái là
Đại Thừa Bồ Tát, chẳng lui sụt xuống
địa vị Nhị Thừa (Tiểu Thừa). Thứ
ba là Niệm Bất Thoái. Chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn bèn chứng
Niệm Bất Thoái. Niệm Bất Thoái: Phá vô minh th́ mới
có thể đắc Niệm Bất Thoái. Vô Sanh Pháp Nhẫn
là đă phá vô minh, thật sự là Niệm Bất Thoái. Niệm
Bất Thoái là tâm tâm niệm niệm, chẳng khởi niệm
th́ thôi; hễ dấy niệm, đều xuất phát từ
bản tánh, chẳng có chuyện ǵ không phải là do bản
tánh phát sanh tác dụng. Đó là Niệm Bất Thoái.
Nội
dung được nói ở đây chính là chiếu theo kinh
văn và chú giải của tổ sư để nói, học
lư cũng là nói như thế, nhưng chẳng thể chuyển
biến cảnh giới được! Thật sự chuyển
biến cảnh giới, đối với các hiện
tượng sanh diệt trong thế gian và những hiện
tượng trong lục đạo, người chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn là thánh nhân. Trong cái nh́n của
thánh nhân, thế gian này chẳng có sanh diệt. Giống
như chúng ta thấy sóng ṃi nơi sông ng̣i, biển cả,
một con sóng chưa tan, con sóng khác đă dấy lên, dập
dềnh không ngừng, sanh diệt bất định, sóng cuồn
cuộn nguy hiểm vạn trạng! Quư vị ngồi trên
chiếc thuyền nhỏ trong sóng cả, có chịu nổi
hay chăng? Trong sự cảm nhận của người
chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ thấy là b́nh
thường, ổn định, chẳng có sóng gió chập
chùng bất định. Sóng cao tới mấy vẫn là
nước, sóng thấp vẫn là nước. Sóng to, sóng
bé, hết thảy mọi thứ trong mắt người ấy
không có ǵ chẳng phải là nước. Đối với
cảnh giới ấy, tôi cũng dựa theo tỷ dụ
của tổ sư, dùng tỷ dụ ấy ḥng khiến
cho chúng ta hiểu rơ Vô Sanh Pháp có trạng huống như thế
nào.
Hăy từ
tỷ dụ mà suy nghĩ: Nay chúng ta nói trong lục đạo
có sanh tử, sanh tử chẳng ngừng xoay vần qua lại.
Khi chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ biết những
điều ấy là giả tượng (假象, h́nh
tượng hư giả). Chẳng thấy thấu suốt
chúng là giả tượng, cho nên mới có chuyện khổ
năo. Hễ phá được, cảnh giới sẽ chuyển,
sanh tử sẽ được giải quyết; há c̣n có
những giả tượng ấy nữa chăng? Ngay khi
đó, chân lư bèn xuất hiện. V́ thế, học pháp môn Niệm
Phật chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, bản tánh của
chính ḿnh và [bản tánh của] Phật, Bồ Tát trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới đôi bên hoàn
toàn cảm ứng nhất trí với nhau. Đó là Vô Sanh Pháp
Nhẫn thật sự. Đạt đến cảnh giới
ấy, quư vị hăy ngẫm xem: Đế vương hoặc
đại phú ông nào trong thế gian có thể sánh bằng?
Nghĩ đến đây, trong thế gian, c̣n có đáng để
tranh chấp “ngươi đúng,
ta sai; ngươi sai, ta đúng” cùng kẻ khác nữa hay
không? Tranh hay, tranh dở, tranh tới, tranh lui, có ǵ đáng
để tranh giành hay chăng? V́ thế, Phật pháp nói “hăy
buông xuống hết thảy”. Không thể buông xuống
được, học Phật sẽ chẳng thể nhập
môn. Quư vị mong học Phật có thể nhập môn, niệm
Phật có thể niệm đến mức nhất tâm bất
loạn, mà chẳng buông xuống, sẽ không thể
được! Không buông xuống, sẽ có chướng ngại!
Làm thế nào để có thể đắc pháp? Buông xuống
là buông pháp sanh diệt xuống, chẳng cần tranh đoạt
đúng sai cùng kẻ khác, chúng ta hiểu rơ điều này
(trên thực tế, vẫn chưa thấu hiểu). Hăy từ
tỷ dụ này mà dần dần truy cầu từ nơi ấy!
Lại
nh́n vào đề cương, hai hàng cuối cùng trong trang nói về Vô Sanh Pháp Nhẫn có ghi: “Dự chương viên diệu,
quán thành tức đắc” (Phô bày sẵn pháp môn viên diệu,
hễ quán thành công sẽ liền đắc [Vô Sanh Pháp Nhẫn]),
[ư nói]: “Dự chương” (預彰)
là trước hết nêu tỏ bộ kinh này giảng về
pháp môn viên diệu, giảng về mười sáu pháp Quán. Nếu
quán theo đúng pháp, đă thành tựu, sẽ
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. V́ thế, trong kinh văn có
chép Thích Ca Mâu Ni Phật bảo:
“Ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Ngay
khi đó bèn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn), hoàn toàn chẳng
có nghĩa là phu nhân Vi Đề Hy ngay lập tức đắc
Vô Sanh Pháp Nhẫn, mà có nghĩa là: Chiếu theo mười
sáu phép Quán sẽ được nói trong phần sau để
quán thành tựu, sẽ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nêu
trước [chuyện này] ḥng khơi gợi tín tâm cho bà ta.
Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này th́ ngưng.
Tập 17
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ sáu, bắt
đầu từ hàng thứ hai đếm từ dưới
lên. Trước hết, hăy niệm kinh văn một lượt.
(Kinh)
Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ thị phàm phu, tâm tưởng
luy liệt, vị đắc thiên nhăn, bất năng viễn
quán. Chư Phật Như Lai, hữu dị phương tiện,
linh nhữ đắc kiến”. Thời Vi Đề Hy bạch
Phật ngôn: “Thế Tôn! Như ngă kim giả, dĩ Phật
lực cố, kiến bỉ quốc độ. Nhược
Phật diệt hậu, chư chúng sanh đẳng, trược
ác bất thiện, ngũ khổ sở bức, vân hà
đương kiến A Di Đà Phật Cực Lạc thế
giới?”
(經)佛告韋提希:汝是凡夫,心想羸劣,未得天眼,不能遠觀。諸佛如來,有異方便,令汝得見。時韋提希白佛言:世尊,如我今者,以佛力故,見彼國土。若佛滅後,諸眾生等,濁惡不善,五苦所逼,云何當見阿彌陀佛極樂世界?
(Kinh: Đức
Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Bà là phàm phu, tâm tưởng
yếu kém, chưa đắc thiên nhăn, chẳng thể thấy
xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ,
khiến cho bà được thấy”. Khi ấy, Vi Đề
Hy bạch cùng đức Phật: “Bạch đức Thế
Tôn! Như con nay do Phật lực trông thấy cơi nước
ấy. Như sau khi đức Phật đă diệt độ,
các hàng chúng sanh trược ác, chẳng lành, bị năm thứ
khổ sở bức bách, làm thế nào để thấy
thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật?”)
Hai
đoạn ngắn này nhằm chánh thức bước vào
phần kinh văn giảng về mười sáu phép Quán.
Đoạn trước nói “tức
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” nhằm kết thúc ba loại
tịnh nghiệp vừa được nói trên đây. Ba loại
tịnh nghiệp hết sức quan trọng; muốn tu
mười sáu phép Quán ắt phải có trọn đủ
ba loại tịnh nghiệp ấy. V́ thế, sau khi đă
nói xong ba loại tịnh nghiệp; tiếp đó, bèn giảng
về mười sáu phép Quán.
Trước
khi chánh thức giảng mười sáu phép Quán, “Phật cáo Vi Đề Hy”,
nghĩa là trước hết, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu
nhân Vi Đề Hy “nhữ thị
phàm phu”, bà là chúng sanh phàm phu. “Tâm
tưởng luy liệt” [nghĩa là] tâm lư và tư tưởng
rất yếu kém (“luy” (羸) là một
h́nh dung từ, được dùng ở đây nhằm biểu
thị một kẻ tâm nhăn chẳng thấy rộng răi. “Liệt” (劣) là không
chỉ chẳng rộng, mà trong tâm c̣n có rất nhiều tạp
niệm và vọng niệm. Tạp niệm và vọng niệm
có thiện, ác v.v...), “vị
đắc thiên nhăn” [nghĩa là] vẫn chưa chứng
đắc thiên nhăn, “bất
năng viễn quán”: Chẳng có cách nào để thấy
rất xa!
Trong
phần trước, phu nhân Vi Đề Hy thỉnh cầu
đức Phật, mong quán Tây Phương Cực Lạc
thế giới, đức Phật đáp ứng, bảo
cho bà ta biết phương pháp. Ở đây, Ngài phải
làm cho phu nhân Vi Đề Hy hiểu rơ: Ngươi là phàm
phu, tâm tưởng yếu ớt, kém cỏi, chưa đắc
Thiên Nhăn (Thông), chẳng thể nh́n xa! Vậy th́ làm như
thế nào? “Chư Phật
Như Lai, hữu dị phương tiện, linh nhữ
đắc kiến”, “chư
Phật”: Không chỉ riêng Thích Ca Mâu Ni Phật, hoặc A
Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc, mà là
mười phương thế giới chư Phật đều
có phương tiện lạ, khiến cho bà trông thấy thế
giới Cực Lạc.
Đối
với ư nghĩa của mấy danh từ trong một
đoạn ngắn này, lại cần phải nói thêm: “Phật cáo Vi Đề Hy: Nhữ
thị phàm phu” (Đức Phật bảo bà Vi Đề
Hy: “Bà là phàm phu”). Trên thực tế, phu nhân Vi Đề Hy chẳng
phải là phàm nhân, v́ sao đức Phật nói bà ta là phàm
phu? Pháp môn Thập Lục Quán này đều thích hợp cho phàm
phu tu tŕ. Nếu phu nhân Vi Đề Hy là bậc đại
Bồ Tát tái lai, người tu hành chúng ta sẽ cảm thấy:
Chỉ có bậc Bồ Tát thuộc địa vị cao mới
có thể tu, chứ người b́nh phàm sẽ chẳng có
cách nào. Do mối quan hệ này, đức Phật bảo
phu nhân Vi Đề Hy: “Nhữ
thị phàm phu”. Phu nhân Vi Đề Hy là phàm phu mà có thể
tu thành công, tất cả phàm phu kể từ sau phu nhân Vi
Đề Hy măi cho đến hiện tại đều có
thể chiếu theo đó, tu tập đúng như vậy,
chỉ cần học đúng pháp, sẽ đều có thể
thành công. Đây là nguyên nhân v́ sao đức Phật [bảo
phu nhân Vi Đề Hy] là phàm phu.
Lại
nói đến chuyện“tâm
tưởng luy liệt”. Hễ là phàm phu, tâm lượng
đều rất hẹp ḥi, kém cỏi, chẳng thể rất
rộng lớn. Phàm phu chỉ thấy địa cầu
chúng ta đang ở mà thôi; đối với những chuyện
ở ngoài địa cầu, nhờ vào phát minh khoa học,
có hỏa tiễn để có thể đổ bộ lên
nguyệt cầu. Đó là chuyện gần đây nhất.
Trước kia, kẻ b́nh phàm đối với các tinh tú
trên bầu trời ngoài địa cầu ra, chỉ có thể
nh́n, chẳng thể tới đó được. Măi cho
đến hiện tại, vẫn có những kẻ học
Phật cho rằng chỉ có người trong thế gian mới
đáng nương tựa. [Họ quan niệm] học Phật
th́ phải nắm chắc nhân gian, học trong thế gian
này th́ mới là thực tế! Văng sanh thế giới Cực
Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật,
trong cách nghĩ của họ [là chuyện mơ hồ, viễn
vông]. Trên thực tế, họ chẳng t́m hiểu những
ǵ ở ngoài thế giới này, chẳng dấy lên tín tâm và
nguyện lực. V́ thế, họ mới khuyên người
ta học nhân gian Tịnh Độ, mong phát nguyện sanh về
Nội Viện của Di Lặc Bồ Tát. Đừng nói
là phàm phu, ngay cả hàng Tiểu Thừa b́nh phàm, chỉ thấy
trong phạm vi thế giới này, tầm nh́n cũng chẳng
rộng, huống là những kẻ phàm phu tầm thường!
V́ thế, những ǵ bọn phàm phu tầm thường
trông thấy hoặc suy nghĩ đều rất kém cỏi,
không phải là rất rộng, chúng ta phải thấu hiểu
điều này! Người khác đều là như vậy,
c̣n chúng ta th́ sao? Chúng ta cũng là phàm phu, tâm lư phàm phu đều
là như vậy; bất quá chúng ta học Tịnh Độ
Tông, [cho nên] mọi người có tín tâm và nguyện lực.
Nhà Phật nói nhân quả rất quan trọng. Đối với
tín tâm và nguyện lực của chúng ta, tuyệt đối
chẳng phải là do trong một đời này được
nghe pháp môn đặc biệt này rồi mới bắt
đầu [dấy lên tín tâm và nguyện lực], mà nhất
định là từ nhiều đời, nhiều kiếp
trước trong quá khứ đă dần dần huân tập,
nghe nói pháp môn này, gieo chủng tử [trong thức điền],
nay [chủng tử ấy mới] dấy lên hiện hành. “Thiện căn” như thường
nói [trong các kinh điển, chú giải] chính là thiện
căn này! Một mặt, chúng ta hiểu rơ chính ḿnh là phàm
phu; mặt khác, phải thấu hiểu, tin tưởng Tịnh
Độ Tông, phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc, chẳng giống tâm lư chấp
trước của những kẻ b́nh phàm. Chúng ta cũng cảm
thấy rất vui mừng, an ủi; nếu chúng ta thật
sự chiếu theo kinh Phật để tu tập như
thế, nhất định là sẽ có thành tựu.
Khi nói đến hai câu kinh văn này, chúng ta phải nên có sự
nhận thức này!
“Vị đắc thiên nhăn” (Chưa
đắc thiên nhăn, “thiên nhăn”
[ở đây] chính là Thiên Nhăn Thông), “bất năng viễn quán” (chẳng thể thấy
xa): Đắc Thiên Nhăn [Thông] sẽ có thể viễn quán,
có thể thấy thế giới Cực Lạc ở ngoài
mười vạn ức cơi Phật. Ở đây, có một
vấn đề cần phải giải thích đôi chút:
Trong kinh Tiểu Di Đà, có tôn giả A Nậu Lâu Đà
đắc Thiên Nhăn tối thắng. Ngài đắc “bán đầu thiên nhăn”[10],
nhưng vẫn chẳng có cách nào trực tiếp thấy
thế giới Cực Lạc, chỉ có thể thấy thế
giới này và t́nh h́nh trên các cơi trời mà thôi! “Thiên nhăn” như kinh văn nhắc
tới có thể thấy xa cỡ nào? Tổ sư chú giải:
Thiên Nhăn Thông có cảnh giới bất đồng. Tiểu
Thừa chứng quả A La Hán bèn có Thiên Nhăn Thông của A
La Hán. Bồ Tát có Thiên Nhăn Thông của Bồ Tát. Bồ Tát
có “phần chân” Bồ Tát (tức
phần chứng Bồ Tát), nói theo hàng Bồ Tát trong Biệt
Giáo th́ là đă chứng Sơ Địa. Sơ Địa Bồ
Tát chứng một phần Pháp Thân, phá một phẩm vô
minh rồi mới đắc Thiên Nhăn. Viên Giáo Bồ Tát
cũng có Phần Chứng Tức, đă đắc Sơ Trụ
th́ mới có cảnh giới này, bắt đầu phá vô
minh. Thiên Nhăn Thông của Bồ Tát và Thiên Nhăn Thông của Nhị
Thừa khác nhau. Do đó, hàng đại Bồ Tát bắt
đầu phá vô minh, đắc Thiên Nhăn, bèn có thể nh́n
xa, nh́n thấy các đại thiên thế giới ở ngoài
thế giới Sa Bà. Câu “vị
đắc thiên nhăn” trong kinh văn có ư nói: Do chưa
đắc Thiên Nhăn của hàng đại Bồ Tát, cho nên “chẳng thể thấy xa”!
“Chư Phật Như Lai, hữu
dị phương tiện, linh nhữ đắc kiến”
(Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến
cho bà được trông thấy). Phàm phu chẳng thể thấy
xa. Nếu muốn thấy thế giới Cực Lạc,
đức Phật có “dị
phương tiện”. Cái gọi là “dị phương tiện” (異方便) chính là
những phương tiện đặc biệt khác lạ
khiến cho những kẻ b́nh phàm chẳng thể tưởng
tượng nổi! Phương tiện là ǵ? “Phương” (方) là một
loại công cụ, như ngồi thuyền, thuyền là một
loại công cụ, ngồi thuyền có thể vượt
sông, hết sức tiện lợi. Đức Phật có
phương tiện lạ như thế nào? Dị
phương tiện có hai loại:
1) Một
loại là đức Phật nói ra mười sáu loại Quán
pháp. Chiếu theo phép Quán do đức Phật đă nói, tu tập
thành công, sẽ có thể trông thấy [thế giới Cực
Lạc]. Thấy bằng cách như thế nào? Hoàn toàn chẳng
phải là đă tu mười sáu phép Quán, sẽ ngay lập
tức có thể trông thấy thế giới Cực Lạc
ở ngoài mười vạn ức cơi Phật bằng nhục
nhăn. Nhục nhăn vẫn chẳng được, phải
dùng tâm nhăn. Nói cách khác, đă tu thành tựu mười sáu
phép Quán, sẽ khai đại trí huệ, hiểu rơ toàn thể
cái tâm. Khi tâm khai sáng, muốn thấy ǵ đều có thể
trông thấy. Mắt trí huệ vừa mở, đừng
nói là Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất
cứ thế giới nào cũng đều có thể thấy.
Đức Phật dùng phương tiện lạ này. V́ sao
mười sáu phép Quán là “dị
phương tiện”? Quán pháp được sử dụng
trong mười sáu phép Quán cũng chẳng giống như
trong các pháp môn thông thường. Như tông Thiên Thai tu pháp môn
Chỉ Quán (thuần chánh dùng pháp Chỉ Quán của tông Thiên
Thai để tu Chỉ Quán), dùng sức của chính ḿnh
để nhập Định, tu công phu định lực.
Bộ kinh này được tổ sư tông Thiên Thai là Trí Giả
đại sư dùng phương pháp và học lư Giáo Quán của
tông Thiên Thai để chú giải; nhưng chú giải [kiểu
đó] là dùng phương pháp của chính Ngài để chú
giải. Cái được chú giải chính là kinh, người
giảng kinh muốn thông hiểu [ư Phật], phải lấy
kinh làm chánh yếu (tổ sư [chú giải kinh] ḥng nói rơ ư
nghĩa của kinh theo cách hiểu của Ngài). Bộ kinh
này giảng về mười sáu phép Quán, [tức là] lấy
mười sáu loại cảnh giới làm đối tượng.
Cái tâm có thể quán gọi là Năng Quán. Đấy là chỗ
khác biệt so với các pháp môn thông thường. Không chỉ
là Chỉ Quán, so sánh với các pháp môn thông thường khác
như Duy Thức hoặc Thiền Tông, đều có những
điểm bất đồng. Đấy là một loại
“dị phương tiện”.
2) Một
loại dị phương tiện khác chính là đức Phật
dùng sức thần thông của chính Ngài. Chúng ta là phàm phu,
dùng nhục nhăn chẳng thấy được, phải tu
quán thành công rồi mới có thể [trông thấy]. Đức
Phật hoàn toàn dùng sức thần thông của chính Ngài, dẫu
xa cách mấy cũng chiếu thấu suốt thế giới
ấy, [khiến cho] chúng ta có thể trông thấy ở ngay
trước mắt. Đấy chính là như trong phần
trước đă nói: Trước hết, đức Phật
phóng quang, quang minh giống như đèn chiếu thăm ḍ
vậy. Sau khi đă chiếu, bèn thu lại tất cả
các thế giới tốt đẹp nhất trong mười
phương, giống như phim đă được quay trong
máy chiếu phim vậy. Không chỉ là phu nhân Vi Đề
Hy, ngay cả những phàm phu khác cũng đều trông thấy.
Nếu chúng ta dùng nhục nhăn, ở đây, chẳng thể
thấy núi A Lư, dùng tâm tưởng bèn có thể tưởng
tượng. Dùng nhục nhăn để thấy như thế
nào? Chụp h́nh núi A Lư, dùng ảnh chụp để xem, sẽ
có thể trông thấy. Do vậy, loại dị
phương tiện thứ hai chính là đức Phật
dùng sức thần thông, thâu lại các h́nh trạng trong thế
giới xa xôi, khiến cho bọn phàm phu chúng ta có thể
trông thấy bằng nhục nhăn.
Có hai loại
dị phương tiện ấy!
“Linh nhữ đắc kiến”
(Khiến cho bà được thấy). Chữ “nhữ” (汝) chỉ
phu nhân Vi Đề Hy. Trong phần trước, phu nhân
đă thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thâu lại thế giới
Cực Lạc. Đức Phật lại bảo bà ta: Chỉ
cần tu Quán thành công, ngay lập tức có thể trông thấy.
Nương vào hai thứ dị phương tiện của
đức Phật, trong tương lai đều có thể
trông thấy.
Phu
nhân Vi Đề Hy sau khi nghe đức Phật dạy
như vậy, liền đó, “thời
Vi Đề Hy bạch Phật
ngôn:”, [nghĩa là] vừa ngay khi đó, bà ta bèn thưa bẩm
với đức Phật: “Thế
Tôn!” tức là một hiệu trong mười hiệu của
đức Phật. “Như ngă
kim giả” (Như con nay), giống như con trong hiện
thời. “Dĩ Phật lực
cố, kiến bỉ quốc độ” (Do v́ sức Phật,
trông thấy cơi nước ấy). Do nương cậy sức
thần thông của đức Phật, trông thấy quốc
độ của thế giới Cực Lạc (quang minh từ
kim đài trên đỉnh đầu Thích Ca Mâu Ni Phật hiển
hiện thế giới Cực Lạc, nay bà ta đă trông thấy),
thế nhưng, “nhược
Phật diệt hậu”, [nghĩa
là] giả sử sau khi đức Phật đă diệt
độ, chẳng c̣n tại thế. “
“Phật diệt hậu”, “diệt” là diệt độ
(滅度). Thật ra, đức Phật
đă thành Phật, có thể ở trên thế gian bao lâu liền
ở bấy lâu, tự do tự tại trụ thế,
nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật hết sức từ bi. Ngài
nghĩ: Nếu thường trụ vĩnh cửu trong thế
gian này, đâm ra chẳng tốt đẹp bằng chuyện
đức Phật trụ thế tám mươi năm!
Đức Phật chỉ trụ thế tám mươi
năm, biểu hiệu tuổi tác chẳng sai khác cho lắm
so với chúng sanh b́nh phàm trong loài người (thọ mạng
của loài người cũng thuộc về vạn pháp),
là vô thường, [dùng chuyện này để] cảnh tỉnh
con người. Kẻ chẳng tu đạo chẳng cần
nói tới, họ cứ mơ mơ màng
màng, nhưng đối với kẻ đă học Phật,
[đức Phật trụ thế chỉ tám mươi
năm] sẽ răn nhắc họ “mạng người vô thường”, ngay cả
đức Phật cũng chẳng thể trụ thế
lâu dài trong thế gian! Đức Phật muốn cảnh tỉnh
chúng sanh: Bất luận lứa tuổi nào, cũng đều
phải dấy lên đạo tâm, coi liễu sanh tử là
chuyện quan trọng nhất, phải ghim chuyện này
trong tâm. V́ những lẽ đó, đức Phật trụ
thế tám mươi năm bèn diệt độ.
Phu
nhân Vi Đề Hy nói: Đức Phật cũng có lúc diệt
độ, “chư chúng sanh đẳng”
(các hàng chúng sanh), sau khi đức Phật đă nhập diệt
chẳng ở trong thế gian nữa, các chúng sanh phàm phu kể
từ sau khi đức Phật diệt độ cho đến
thời đại Mạt Pháp hiện tại đều
được bao gồm trong ấy, những chúng sanh ấy
“trược ác bất thiện”.
Nói “trược ác bất thiện”
th́ Trược là Ngũ Trược, tức là Kiếp Trược,
Kiến Trược, Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược,
và Mạng Trược. Đến thời đại Ngũ
Trược, chúng sanh bèn ác, các thứ nghiệp từ trong
tâm đều biểu hiện ra. Sự trược ác bất
thiện ấy từ thuở đức Phật trụ thế
đă có, măi cho đến hiện tại, càng về sau, những
điều ác càng thêm nghiêm trọng, trong hiện thời, lại
càng chẳng cần phải nói nữa! Người học
Phật đối chiếu Ngũ Trược trong thế
gian hiện thời với Ngũ Trược trong thời
đại của Thích Ca Mâu Ni Phật một phen, sẽ lại
thấy sai khác một trời một vực! Trong
tương lai, vẫn là chẳng giống như hiện
thời, chúng ta phải nên cảnh giác điều này!
Danh
từ “trược ác bất
thiện” chúng ta đều đă biết, chúng ta học
Phật phải liễu sanh tử. Nhất định là
phải chuyển biến từ nội tâm của mỗi cá
nhân! Hoàn cảnh thế gian chẳng tốt đẹp,
đều là do tâm lư của chúng sanh tạo thành. Dùng Kiến
Trược trong Ngũ Trược để nói, Kiến (見) là kiến
giải; cái gọi là Kiến Trược đă có từ thời
đại Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến hiện thời.
Trong
kiến giải của chúng sanh, chỉ nh́n thấy [những
khuyết điểm của] người khác, chẳng xét
lại chính ḿnh. Chính ḿnh có rất nhiều ác nghiệp, hành
vi cũng thế, mà tâm lư cũng thế, những chuyện
đă nghĩ, đă làm đều là tội ác, nhưng chính
ḿnh chẳng thấy, luôn cảm thấy chính ḿnh tốt nhất.
Những điều suy nghĩ trong tâm, thậm chí những
chuyện biểu lộ ra ngoài, người khác thấy
đúng là một thân đầy tội ác, nhưng chính kẻ
đó vẫn nghĩ chính ḿnh làm toàn chuyện tốt lành.
Ngược lại, kẻ ấy thấy người khác
bất hảo (trong cái nh́n của kẻ khác,
đương nhiên là [kẻ ấy] bất hảo]. Nếu
người khác có chuyện ǵ tốt đẹp đôi chút,
kẻ ấy cũng thấy chẳng có ǵ là đáng kể!
Đó gọi là Kiến Trược. Trong xă hội hiện
thời, Kiến Trược hết sức phổ biến.
Hiện tượng rơ ràng nhất là ở chỗ nào
đó, phát sanh chuyện giết người, phóng hỏa, hoặc
phát sanh tai nạn, chết bao nhiêu là người, bao nhiêu kẻ
bị thương, [mọi người] cảm thấy chết
một người là chuyện vặt vănh, bị chết
càng nhiều càng thấy kích thích! Báo chí đăng tải
các bài viết biểu dương đoàn thể từ thiện,
thiện nhân, những chuyện người tốt việc
tốt v.v… đại khái là chẳng có hứng thú để
xem! Chuyện này cho thấy tâm lư kẻ b́nh phàm hướng
theo tội ác, chẳng xem chuyện tốt đẹp, chẳng
nh́n tới những điều tốt đẹp của
người khác, chính ḿnh đối với việc thiện
cũng chẳng có hứng thú! Đấy đều là Kiến
Trược, chúng sanh phàm phu luôn có tâm lư như vậy. Hăy ngẫm
xem, thế giới này có thể trở thành tốt đẹp
hơn được chăng? Chẳng thể nào tốt
đẹp được! Do vậy, khi thầy chúng ta c̣n
tại thế, đă dạy: “Học
Phật phải niệm Phật, niệm Phật phải sửa
tâm”. Tâm chẳng sửa, niệm Phật chẳng thể
có cảm ứng, chẳng niệm đến mức đạt
được nhất tâm bất loạn. Do vậy, sửa
đổi cái tâm đặc biệt trọng yếu!
Lại
nói đến Phiền Năo Trược. Phiền năo: Bọn
chúng sanh phàm phu chúng ta ở trong thế gian này, mắt thấy
các thứ màu bèn tham cầu màu sắc, tai nghe âm thanh, lưỡi
nếm hương vị, cho đến ư căn v.v… sáu
căn đối ứng sáu trần, chỗ nào cũng
đều tham cầu, tâm tham hại chết người!
Trong văn hóa Trung Hoa thuở trước, bất luận
là học thuyết của Khổng phu tử (tư tưởng
Nho gia), tư tưởng Đạo gia, hay tư tưởng
Mặc gia, đều dạy con người trừ khử
tham dục. Lăo Tử cũng nói: “Khử
tử chi kiêu khí dữ đa dục” (Ông hăy trừ bỏ
thói kiêu ngạo và đa dục), hăy trừ bỏ tham dục!
“Trừng phẫn trất dục”
(懲忿窒欲), [có
nghĩa] là dạy người khác chớ nên nóng giận,
đừng nên có các thứ dục vọng. Thánh nhân, hiền
giả thời cổ dạy người khác như thế.
V́ sao? Thánh hiền thấy mọi người đều có
tập khí ác; v́ thế, cổ vũ, khích lệ họ hăy sửa
chữa dần dần, áp chế nó, chớ nên biểu hiện
ra. Hiện thời [tại Đài Loan và Hoa Lục] chẳng
cần đến văn hóa Trung Hoa nữa. Giới giáo dục
đă là như thế, kẻ b́nh phàm chẳng cần phải
nói nữa. Hễ nói năng, sùng bái, toàn là dốc cạn sức
tiêu thụ, mọi người trọn hết sức phát
triển dục vọng, đối với sắc, thanh,
hương, vị, xúc, hăy dốc hết sức mong cầu
thỏa măn. Đó là phong khí hiện thời. Đối với
những lời dạy của thánh hiền thời cổ,
đối với nền giáo dục do cổ nhân truyền
trao, đối với chuyện “dần dần sửa
đổi dục” đều cảm thấy quá khó khăn.
Phong khí trong thời đại hiện tại càng là đổ
thêm dầu vào lửa! Tập khí ác của con người
đă nặng nề như vậy, lại c̣n được
các học thuyết tà tri tà kiến đề xướng,
cổ vũ, khích lệ; v́ thế, tạo thành thế giới
đại loạn như trong hiện thời. Chẳng cần
phải nói cặn kẽ về chuyện này!
Chúng
ta nh́n vào phong khí xă hội trong và ngoài nước, [nh́n vào]
hành vi thông thường của mọi người, chẳng
phải là có thể thấy rơ ràng, rành rẽ hay sao? Nh́n vào
hiện tượng và hành vi trước mắt, lại
c̣n có các học thuyết tà tri tà kiến không ngừng cổ
động tâm lư [tham dục] của đại chúng tiếp
tục phát triển. Hăy ngẫm xem, thế giới này mai
sau sẽ có điều ǵ tốt đẹp hay chăng?
Đời sau, nếu chẳng đọa lạc tam đồ,
lại sanh vào nhân gian, hiện thời, gia đ́nh trong nhân
gian đă dần dần chẳng thể giữ nổi một
bầu ḥa khí. Chẳng có gia đ́nh vợ chồng hài ḥa nữa!
Hằng ngày TV đề xướng vợ chồng tự
độc lập, chẳng phải v́ thế hệ sau, mà
v́ chính ḿnh! Những đứa trẻ ở trong gia đ́nh
kiểu ấy, trong tương lai sẽ lănh đủ; cho
nên đời sau lại sanh vào nhân gian, biết kiếm ai
làm cha mẹ? Đúng là một nan đề! Gặp đúng
hạng cha mẹ [vị kỷ] như trong TV đề
xướng, c̣n chưa sanh ra mà đă đau khổ, [cho tới]
sau khi đă sanh ra, con cái đứa nào lo phận đứa
nấy! Hăy ngẫm xem, con cái trong gia đ́nh kiểu đó sẽ
đau khổ dường nào!
Nói
như vậy, chúng ta tu Tịnh Độ Tông, chớ nên
nghe kẻ lơ mơ bên ngoài bảo: “Phải kiến lập
Tịnh Độ trong nhân gian, chẳng cần phát nguyện
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới”.
Đó là v́ kẻ đó chẳng hiểu rơ t́nh huống trong
thế gian. Do vậy, nhất định là phải phát
nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Thế giới này thật sự đúng như
kinh Pháp Hoa đă dạy: “Tam giới
vô an, do như hỏa trạch” (Ba cơi chẳng yên, giống
như nhà lửa). Giống như một căn nhà lớn
đang bốc cháy. Nếu chẳng thoát ra, dẫu không bị
lửa đốt chết, cũng bị ngộp khói mà chết!
Thật sự là chẳng thể ở được! Kinh
văn đă sớm nói “trược
ác bất thiện”; ở trong ngũ trược ác thế,
thập ác bất thiện, mười thứ ác nghiệp
mỗi ngày đều biểu hiện ra, càng về sau càng
trở nên xấu ác!
“Ngũ khổ sở bức”
là bị năm nỗi khổ to lớn bức bách. Có mấy
cách giải thích năm nỗi khổ, nhưng bất luận
nói theo kiểu nào, vẫn đều là khổ! Có một
cách nói như Trí Giả đại sư đă dạy:
Ngũ đạo là thiên đạo, nhân đạo, súc sanh đạo,
ngạ quỷ đạo, và địa ngục đạo
(A Tu La đạo gộp trong các đường trên), những
nỗi đau khổ v́ lưu chuyển trong năm
đường được gọi là “ngũ khổ”.
Đó là một cách nói. Lại nữa, theo như Thiện
Đạo đại sư chú giải, sanh, lăo, bệnh, tử,
ái biệt ly là năm nỗi khổ lớn. Lại có một
cách nói khác là sanh, lăo, bệnh, tử gộp thành một
đại khổ, cộng thêm những nỗi khổ khác
là Ái Biệt Ly (yêu thương phải chia ĺa), Oán Tắng
Hội (oán ghét mà cứ phải gặp gỡ), Cầu Bất
Đắc (cầu mong chẳng được), Ngũ Ấm
Xí Thịnh (năm Ấm lừng lẫy), cộng thành
ngũ khổ. Bất luận nói theo kiểu nào, năm nỗi
khổ to lớn là một sự thật. Bất cứ
chúng sanh phàm phu nào, quư vị có địa vị cao tới
đâu đi nữa trong thế gian, dẫu làm quan to đến
mấy, dẫu lắm tiền nhiều bạc tới
đâu đi nữa, vẫn chẳng tránh khỏi năm nỗi
khổ to lớn ấy. Sanh, lăo, bệnh, tử chẳng cần
phải nói, bất luận kẻ nào cũng đều có.
Nỗi khổ Ái Biệt Ly có ai tránh khỏi? Đời loạn
không phải là chỉ trong hiện thời mới có, thời
cổ cũng có. Chỉ cần có chiến tranh, có loạn
lạc th́ sẽ có [nỗi khổ ấy]. Thơ của
đại thi nhân Bạch Cư Dị đời Đường
có câu: “Cốt nhục lưu ly
đạo lộ trung…. Nhất dạ hương tâm
ngũ xứ đồng”. [Ư nói] anh em phân tán ở mỗi
nơi khác nhau, đôi bên có bao giờ chẳng mong gặp mặt?
Nhưng đâu có làm được! Nh́n vào hiện thời,
tại Trung Hoa có, mà ngoại quốc cũng có [Ái Biệt
Ly]. Lấy Trung Hoa để nói, hiện thời đôi bờ
đă tiếp xúc, chứ trước khi được
phép tiếp xúc, đôi bờ ngăn cách: Người từ
Đại Lục đến [Đài Loan] chẳng thể
trở về, người từ Đài Loan sang Đại
Lục đi lính cũng chẳng thể trở về, cách
biệt vài chục năm chẳng thể gặp gỡ,
mong nhớ lẫn nhau. Sau khi gặp gỡ, người chẳng
thể vĩnh viễn trẻ măi, từ trẻ mong nhớ
đến già. Tuổi già nghĩ tưởng con cháu,
nghĩ nhớ đến chết mới thôi! Nỗi thống
khổ ấy c̣n khổ hơn cái chết, ai tránh khỏi
Ái Biệt Ly? Ngũ khổ bức bách, càng về sau càng dữ
dội! Sau một cuộc chiến tranh, bao nhiêu người
đă chết? Mỗi người chết, thân thích và gia
đ́nh của người ấy có bao nhiêu kẻ chịu
đựng cảnh Ái Biệt Ly, sanh ly tử biệt!
Nhưng hiện thời có những kẻ ăn no rửng
mỡ, chẳng có chuyện ǵ làm, tận hết sức
nghĩ cách mở rộng quyền lợi của chính ḿnh,
chẳng đoái hoài nỗi sống chết của dân chúng,
mà cũng chẳng sợ khơi mào chiến tranh, vẫn tận
hết sức tranh thủ chánh quyền và quyền lực cho
chính ḿnh! Những kẻ đó đều là hạng chúng
sanh đặc biệt ác liệt trong thời ngũ trược
ác thế. Chúng nó làm như thế, kết quả tạo
thành cộng nghiệp cộng thọ, [nghĩa là] tạo
thành ác nghiệp khiến cho mọi người phải
cùng nhau hứng chịu. Ngũ khổ bức bách, t́nh huống
chẳng tốt đẹp, tương lai càng về sau
càng xấu!
“Vân hà đương kiến A Di
Đà Phật Cực Lạc thế giới?” (Làm thế
nào để thấy thế giới Cực Lạc của
A Di Đà Phật?): Đối với những t́nh huống
giống như thế ấy, tâm lư của phàm phu chúng sanh
có đủ mọi nỗi chướng ngại, lại
thêm hoàn cảnh xấu hèn, làm thế nào để thấy
thế giới Cực Lạc? Có thể nói là phu nhân Vi
Đề Hy đă v́ chúng ta là những chúng sanh phàm phu trong
thời đại Mạt Pháp “thỉnh
mạng”, cầu thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra một
phương pháp tốt đẹp, khiến cho chúng ta có thể
thấy thế giới Cực Lạc, văng sanh đến
đó. Sau đây, Thích Ca Mâu Ni Phật đáp lời thỉnh
cầu của phu nhân Vi Đề Hy, nêu ra phương pháp.
Trước khi giảng kinh văn, xin quư vị hăy xem
trước đề cương bài giảng.
IV.2.2. Biện định
phép Quán mầu nhiệm
IV.2.2.1. Mười sáu phép
Quán
Diệu
Quán (妙觀) là mười sáu phép Quán,
mỗi phép Quán đều là diệu quán, chia thành ba loại
lớn:
1) Loại
thứ nhất gồm sáu phép Quán, quán y báo và y quả của
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Một là nhật
quán (quán mặt trời), hai là thủy quán (quán nước),
ba là địa quán (quán đất), bốn là thụ quán
(quán cây), năm là tŕ quán (quán ao), sáu là tổng quán (quán tổng
quát y báo). Sáu loại này đều là quán “quả nơi y
báo” (y quả) của Tây Phương Cực Lạc thế
giới.
2) Loại
thứ hai gồm có bảy phép Quán, tức là quán chánh báo
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bảy
là hoa ṭa quán (quán ṭa hoa sen của Phật, Bồ Tát), tám là
quán tượng Phật, Bồ Tát, chín là quán thân Phật,
mười là quán Quán Âm, mười một là quán Thế
Chí (quán Đại Thế Chí Bồ Tát), mười hai là phổ
văng sanh quán (quán trọn khắp những phàm nhân từ mười
phương thế giới văng sanh thế giới Cực
Lạc), mười ba là nói về pháp quán gộp chung Phật,
Bồ Tát để quán (quán sát nhất loạt Phật, Bồ
Tát). Bảy loại này đều là quán Phật và chúng sanh
trong thế giới Cực Lạc, đều là quán chánh
báo.
3)
Loại quán thứ ba gồm có ba phép Quán, tức là quán ba bậc
chín phẩm. Mười bốn là thượng phẩm sanh
quán, thượng phẩm chia thành ba loại thượng
thượng, thượng trung, thượng hạ. Mười
lăm là trung phẩm sanh quán, [gồm ba phẩm] trung
thượng, trung trung, trung hạ. Mười sáu là hạ
phẩm sanh quán, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ.
Ba phép Quán sau, khởi đầu từ mười bốn,
mười lăm, mười sáu là [các phép Quán] về ba bậc
chín phẩm.
Hiểu
rơ ba loại lớn trong mười sáu phép Quán này, chúng ta biết:
Từ y báo cho đến chánh báo, chánh thức tác quán
đương nhiên là chẳng dễ dàng. Phải dùng
phương pháp nhất định, trong phần sau tôi sẽ
nói. Mà phép Quán thứ mười sáu, quán hạ phẩm văng
sanh chính là tŕ danh niệm Phật. Tŕ danh niệm Phật
cũng thuộc trong mười sáu phép Quán, phẩm vị
thấp nhất là chúng sanh tạo Ngũ Nghịch Thập
Ác nếu tŕ niệm danh hiệu Phật, sẽ đều
có thể văng sanh. Do vậy, có thể biết chỗ lợi
ích của việc tŕ danh niệm Phật: Chúng sanh ác nghiệp
nặng nề dường ấy, chẳng có cách nào tác quán,
chỉ cần được thiện tri thức dạy kẻ
ấy tŕ danh niệm Phật, bèn có thể đới nghiệp
văng sanh. Sau khi đă hiểu rơ phép Quán và lư luận trước
đó, quư vị sẽ biết pháp môn Niệm Phật cao
đến mức độ nào! Bất cứ ai cũng
đều có thể tŕ danh văng sanh! Người thuộc hạ
phẩm hạ sanh Ngũ Nghịch Thập Ác đă có thể
tŕ danh văng sanh, th́ người ác nghiệp chưa đến
mức độ ấy, tŕ danh niệm Phật càng chẳng
có vấn đề ǵ! V́ thế, chiếu theo mấy hạng
mục trong Thập Lục Quán Kinh, chúng ta cũng có thể
thấu hiểu và dấy lên tín tâm tŕ danh niệm Phật!
Trong
trang cuối của biểu đồ đề
cương bài giảng, có mấy hàng văn tự đặt
trong ngoặc, xin hăy dùng bút đánh dấu, hăy dời chúng xuống
hàng kế tiếp, song song với chữ Quán, v́ chúng dùng
để giải thích mười sáu phép Quán; không chỉ
nhằm giải thích loại thứ ba là ba bậc chín phẩm,
mà c̣n giảng rơ y báo và chánh báo trong phần trước. Xin
hăy xem hàng văn tự đặt trong dấu ngoặc, “viên dĩ Nhất Tâm Tam Quán, quán thập
lục cảnh” (Viên Giáo dùng Nhất Tâm Tam Quán để
quán mười sáu cảnh). Trí Giả đại sư và
[ngài Tứ Minh Tri Lễ trong bộ] Diệu Tông Sao đều
dùng [giáo nghĩa] Viên Giáo để chú giải bộ kinh
này. Viên Giáo dùng Nhất Tâm Tam Quán (tức là diệu quán
đă nói trên đây) để quán mười sáu cảnh, lấy
mười sáu phép Quán làm cảnh để quán. “Cảnh thù lư đẳng”, “cảnh” là các loại cảnh
bất đồng, [“cảnh
thù lư đẳng” nghĩa là] cảnh chẳng giống
nhau, nhưng lư là b́nh đẳng. Lần sau, tôi sẽ bắt
đầu giảng về nhật quán.
Tập 18
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ bảy,
bắt đầu từ hàng thứ ba, tôi niệm trước
kinh văn một lượt.
(Kinh)
Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ cập chúng sanh, ưng
đương chuyên tâm hệ niệm nhất xứ,
tưởng ư Tây Phương. Vân hà tác tưởng? Phàm
tác tưởng giả, nhất thiết chúng sanh, tự phi
sanh manh, hữu mục chi đồ, giai kiến nhật một.
Đương khởi tưởng niệm, chánh tọa
Tây hướng, đế quán ư nhật dục một
chi xứ, linh tâm kiên trụ, chuyên tưởng bất di. Kiến
nhật dục một, trạng như huyền cổ. Kư
kiến nhật dĩ, bế mục, khai mục, giai linh
minh liễu, thị vi nhật tưởng, danh viết Sơ
Quán.
(經)佛告韋提希:汝及眾生,應當專心繫念一處,想於西方。云何作想?凡作想者,一切眾生,自非生盲,有目之徒,皆見日沒。當起想念,正坐西向,諦觀於日欲沒之處,令心堅住,專想不移。見日欲沒,狀如懸鼓。既見日已,閉目開目,皆令明了,是為日想,名曰初觀。
(Kinh: Đức
Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Bà và chúng
sanh, hăy nên chuyên tâm một chỗ, tưởng nơi Tây
Phương. Tưởng như thế nào? Phàm là quán tưởng,
hết thảy chúng sanh, nếu chẳng phải là kẻ mù
từ thuở lọt ḷng, là người có mắt, đều
thấy mặt trời lặn. Hăy nên tưởng niệm:
Ngồi ngay ngắn hướng về phía Tây, quán chắc
thật nơi mặt trời sắp lặn, khiến cho
cái tâm giữ vững, chuyên tưởng chẳng đổi
dời. Thấy mặt trời sắp lặn, h́nh dạng
giống như cái trống treo. Đă thấy mặt trời
rồi, nhắm mắt, mở mắt, thảy đều
rơ ràng. Đó là phép quán tưởng mặt trời, gọi
là phép Quán đầu tiên”).
IV.2.2.2. Phép Quán thứ nhất,
quán mặt trời
Đoạn
kinh văn vừa mới niệm chính là phép Quán thứ nhất
trong mười sáu phép Quán: Quán mặt trời lặn. V́
sao mười sáu phép Quán trước hết bắt đầu
từ đây? Thích Ca Mâu Ni Phật dạy phu nhân Vi Đề
Hy: Muốn thấy thế giới Cực Lạc của A
Di Đà Phật, thế giới Cực Lạc ở ngoài mười
vạn ức cơi Phật ở phương Tây, phải thấy
bằng cách nào? Nhục nhăn của phàm phu chẳng thể
thấy được cơi ấy. Nhưng phải thấu
hiểu: Tuy là phàm phu, phàm phu đều có bản tánh. Kinh
Hoa Nghiêm đă nói bản tánh là Nhất Chân pháp giới, trong
Nhất Chân pháp giới thứ ǵ cũng đều có. V́ bọn
phàm phu chúng ta bị những ư niệm rối ren, tạp loạn,
cái tâm vọng tưởng chướng ngại nó (Chân
Như bản tánh). Sau khi đă bị chướng ngại,
nói cách khác, sẽ chẳng thấy tất cả cảnh giới
thật sự tốt đẹp. Muốn thấy, phải
nên làm như thế nào? Phải nương theo Phật
pháp, Phật pháp chỉ dạy bọn chúng sanh phàm phu
như chúng ta sử dụng phương pháp, nương
theo từng bước một để tu tập th́ mới
có thể trông thấy. V́ thế, giảng Thập Lục Quán
Kinh nhằm mục tiêu [dạy chúng sanh] quán tưởng thế
giới Cực Lạc. Quán thế giới Cực Lạc để
nắm chắc văng sanh. Do vậy, trước hết, nói
đến phép Quán thứ nhất là nhật quán, [tức
là] trước hết là quán mặt trời lặn!
Bây
giờ, chúng ta xem kinh văn. “Phật
cáo Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi
Đề Hy: “Nhữ cập
chúng sanh”, “nhữ” (汝) là bà, bà và chúng sanh phàm phu mong
thấy thế giới Cực Lạc th́ có cách nào? “Ưng đương chuyên tâm hệ
niệm nhất xứ, tưởng ư Tây Phương”
(Hăy nên chuyên tâm hệ niệm một chỗ, suy tưởng
Tây Phương). Đoạn này nhằm dạy phu nhân Vi
Đề Hy tổng nguyên tắc dụng công, “ưng đương chuyên tâm”
(hăy nên chuyên tâm). V́ sao phải chuyên tâm? Bọn chúng sanh phàm
phu chúng ta hăy tự ngẫm xem, tâm chúng ta chẳng thể
chuyên. Suốt ngày từ sáng đến tối, tâm tư của
chúng ta chẳng nghĩ chỗ này, bèn nghĩ sang chỗ nọ!
Trong Bách Pháp Minh Môn Luận có nói Tâm Sở nhiều ngần ấy.
Tâm chúng ta chẳng phải là Tâm Sở này th́ sẽ là Tâm Sở
kia, rong ruổi khắp nơi! Chẳng an tĩnh một thời,
một khắc nào! Thậm chí, ban đêm khi ngủ nghê, nằm
mộng vẫn rong ruổi khắp nơi. Nếu là như
vậy, làm sao có thể thấy thế giới Cực Lạc
cho được? Chẳng thấy được! Chúng ta
mong ở trong thế gian này để nghiên cứu học
vấn, hoặc làm một chuyện ǵ đó, mà cái tâm loạn
như thế, cũng chẳng thể thành công đâu nhé! Quư
vị nghiên cứu bất cứ loại học vấn thế
gian nào, mà đều chẳng thể chuyên tâm, tâm tán loạn
dường ấy th́ cũng chẳng thể làm được,
huống hồ là xuất thế gian! Mong thấy thế giới
Cực Lạc, chẳng chuyên tâm sẽ chẳng thể. Thích
Ca Mâu Ni Phật hiểu rơ cái tâm của chúng sanh phàm phu đều
là như vậy, cho nên Ngài dạy: Nhất định là phải
chuyên tâm! Chuyên tâm th́ chuyên bằng cách nào? Chính là “hệ niệm nhất xứ”.
“Tâm” của chúng ta chính là ư niệm, ư niệm của bọn
chúng sanh phàm phu chúng ta giống như ḍng nước chảy,
liên tục chẳng ngừng dâng lên, dâng lên rồi hạ xuống,
một mực liên tục. Những ư niệm ấy đều
là tán loạn. Nếu quư vị muốn chuyên tâm, trước
hết phải khống chế ư niệm, ước thúc ư
niệm. “Hệ niệm” là
ước thúc ư niệm vốn rất rối loạn,
ước thúc vào đâu? Ước thúc vào một chỗ,
chẳng để nó chạy lung tung. “Nhất xứ” là ǵ? “Tưởng
ư Tây Phương”. Ước thúc ư niệm vào Tây
Phương, khiến cho tâm định nơi một chỗ,
tưởng Tây Phương.
IV.2.2.2.1. Trực chỉ
Tây Phương
Xin
quư vị mở đề cương bài giảng. V́ sao phải
chỉ thẳng vào Tây Phương? Trong đề
cương bài giảng, sau phần “sơ nhật quán” (phép quán thứ nhất, quán mặt
trời) là “trực chỉ Tây
Phương”. Chỉ thẳng vào Tây Phương, chủ
yếu là v́ thế giới Cực Lạc ở phía Tây của
thế giới Sa Bà, thuộc về hướng Tây, [đồng
thời] c̣n nhấn mạnh công phu định lực,
chuyên tâm tu công phu định lực. Cách tu công phu định
lực như thế nào? Nói tới cách chuyên tâm hệ niệm
nhất xứ. Chẳng hạn như nói: Nói theo chỗ bản
thân ḿnh đang ở, xét theo bốn phương tám hướng
và trên dưới (tức là mười phương),
tư tưởng của bọn chúng sanh b́nh phàm chúng ta rong
ruổi lung tung, rong nơi này, ruổi nơi kia, chẳng
thể tập trung được. Chúng ta theo đúng lời
dạy trong Phật pháp, đặt tâm chuẩn theo một
phương hướng, những phương khác như
Đông,
Chuyên chú
nơi Tây Phương c̣n có một tác dụng nữa: Có thể
tập trung tâm tư, ư niệm của chúng ta vào một chỗ,
đó gọi là “thâu duyên nhất
xứ” (gom hết các duyên về một chỗ). Duyên là ǵ?
Duyên là phan duyên (攀緣, nắm níu). Tâm bọn
phàm phu chúng ta chẳng phan duyên ở nơi đây, sẽ
phan duyên ở nơi kia. V́ sao có sanh tử? Có sanh tử là kết
quả của chuyện cái tâm chúng ta phan duyên khắp
nơi. Phan duyên chỗ nào sâu nhất, trong tương lai,
khi hết tuổi thọ, sẽ chuyển sanh về
nơi đó. Ví như một kẻ khi tham, sân, si, mạn,
nghi nặng nhất, duyên của kẻ ấy ở trong
địa ngục, đó là điều nhất định.
Hơi nhẹ hơn một chút, duyên của kẻ ấy ở
trong súc sanh đạo, hoặc quỷ đạo v.v… toàn là
kết quả do cái tâm phan duyên của chính ḿnh. Nay phải
dùng phương pháp nào để dụng công? [Phương
pháp nào] có thể thâu hồi cái tâm phan duyên khắp nơi của
chúng ta lại, chẳng để cho nó phan duyên khắp
nơi trong thế gian. Tâm chúng ta rất loạn! [Tâm phàm
phu] chẳng thể nào không phan duyên! Các tông như Thiền
Tông, Duy Thức Tông, Thiên Thai Tông… dạy pháp môn thông thường,
tức là phải trừ khử vọng niệm của
chính ḿnh, chẳng phan duyên khắp nơi, nhưng muốn
giữ cho ư niệm chẳng phan duyên khắp nơi quá khó
khăn! Cái khéo léo của pháp môn Tịnh Độ là quư vị
chẳng cần phan duyên nơi nào khác, cứ phan duyên một
nơi là được rồi. Dụng công như vậy
khá dễ dàng, là pháp phương tiện hay nhất, mà
cũng là diệu pháp khéo léo nhất. V́ thế, trong biểu
đồ ấy đă ghi “thâu
duyên nhất xứ”, [nghĩa là] thâu hồi tâm niệm
phan duyên khắp nơi lại; nhưng do [tâm phàm phu] chẳng
thể nào không phan duyên, vậy th́ phan duyên một chỗ, sẽ
gọi là “thâu duyên nhất xứ”.
Thâu duyên nhất xứ như thế nào? Hết thảy
đều phải quy về một. Thân chúng ta phải quy
về một, tâm cũng phải quy về một. Khi chúng
ta làm công đức hồi hướng, cũng phải quy
về một. Trong hoàn cảnh sống, trong cảnh giới
gặp gỡ của chúng ta, hăy c̣n có sự tương tục
(nói “tương tục”
(liên tục) nghĩa là tiền nhân hậu quả của vạn
pháp, nhân quả liên tục nối tiếp), những pháp ấy
cũng đều quy về một. C̣n có quy y, chánh niệm
v.v… không ǵ chẳng cần phải thâu hồi các duyên về
một chỗ. Đó chính là diệu pháp chuyên tâm. Nếu có
thể làm đúng như vậy, sẽ có thể “tưởng thành tựu”, tức
là quán tưởng có thể thành tựu!
IV.2.2.2.2. Quán mặt trời
lặn
“Tưởng ư Tây
Phương” (Tưởng nơi Tây Phương); tiếp
đó, [kinh văn nói] “vân hà tác
tưởng?”,
[nghĩa là] quư vị phải tưởng như thế
nào? Thực hiện công phu quán tưởng như thế
nào? Đó là một câu hỏi. Tiếp đó, đức Phật
tự hỏi, tự đáp, “phàm
tác tưởng giả”, [nghĩa là] hễ muốn quán
tưởng. Sau đó, Ngài nêu ra điều kiện. Điều
kiện ǵ vậy? “Nhất thiết
chúng sanh”, [nghĩa là] hết thảy chúng sanh
đương nhiên đều có thể [quán tưởng].
“Tự phi sanh manh” (chẳng
phải là kẻ sanh manh), nói tới ngoại lệ. Gọi
là “sanh manh” (生盲) tức
là sanh ra đă chẳng nh́n thấy, vừa sanh ra đă là
người mù. V́ sao kẻ sanh ra đă là người mù chẳng
thể quán? V́ kẻ ấy chưa từng thấy mặt
trời, đương nhiên là gặp rất nhiều khó
khăn. Trừ hạng người ấy ra, “hữu mục chi đồ”
[nghĩa là] những kẻ có con mắt lành lặn, “giai kiến nhật một”, [nghĩa
là] đều từng thấy cảnh tượng mặt
trời lặn. Tổ sư chú giải như sau: Trừ kẻ
mù từ thuở lọt ḷng ra, [dẫu là kẻ] mai sau mắt
chẳng thấy đường th́ vẫn c̣n có thể [tu
phép Quán này] được, [bởi lẽ], trước khi
người ấy c̣n chưa mù, đă từng nh́n thấy
mặt trời. Quư vị dạy người ấy
phương pháp này, bảo kẻ ấy quán tưởng,
do trong tâm kẻ ấy đă có ấn tượng về mặt
trời, vẫn có thể [tác quán]. Chỉ cần người
ấy đă từng thấy mặt trời lặn, sẽ
đều có thể quán tưởng. Đă đều từng
trông thấy mặt trời lặn; khi ấy, quư vị sẽ
quán tưởng. “Đương
khởi tưởng niệm” (Hăy khởi lên sự
tưởng niệm), khi quán mặt trời, hoàn toàn chẳng
phải là dùng mắt để thấy, mà là tưởng, sanh
khởi sự tưởng niệm. V́ sao tác quán mà nói đến
Tưởng? Chữ Tưởng (想) này chính
là dùng cái tâm (心) để nghĩ đến
Tướng (相), khiến cho tâm tư, tâm
niệm đặt nơi cảnh giới mặt trời lặn.
Nói cách khác, lấy cảnh mặt trời lặn làm một
thứ cảnh giới, [tức là] cảnh giới để
quán. Năng Quán chính là ư niệm có thể suy tưởng.
Do chúng ta đă đều từng trông thấy mặt trời
lặn, cảnh giới đă có; khi ấy, có thể dấy
khởi tâm lư suy tưởng, có thể quán và tưởng
tượng, sẽ khởi lên sự suy niệm.
Quán
tưởng chẳng dễ dàng! Mọi người đều
biết pháp chúng ta tu là tŕ danh niệm Phật, là niệm Phật
hiệu. Đă là niệm Phật hiệu, v́ sao chúng ta c̣n phải
nghiên cứu Quán Kinh? Quán Kinh nói về quán tưởng. Nếu
chẳng nghiên cứu Quán Kinh, chúng ta chẳng biết vận
dụng công phu quán tưởng như thế nào, [chẳng
biết] trong ấy có những nỗi khó khăn [như thế
nào]. Nếu chẳng biết Quán, chắc là có lẽ khi
người ta nói: “Quán Tưởng Niệm Phật cũng
rất hay! Chúng ta hăy tu Quán Tưởng Niệm Phật!” Do
chúng ta chẳng thông hiểu t́nh huống thực tế,
nghe người ta khen hay bèn tu theo; đó là chuyện không
hay mất rồi! Sau khi chúng ta đă hiểu rơ, biết tŕ
danh niệm Phật thật sự là phương pháp tốt
nhất, mầu nhiệm nhất, mà cũng là phương
pháp thuận tiện nhất. Đó là một tầng ư nghĩa.
C̣n tầng khác là ǵ? Tuy chúng ta không tu pháp môn quán tưởng,
nhưng Quán Kinh giảng lư thấu triệt nhất. Sau khi
chúng ta đă hiểu rơ Lư, cũng sẽ hữu ích rất lớn
cho việc tŕ danh niệm Phật. V́ thế, chúng ta nghiên cứu
Quán Kinh, phải biết dụng ư này! C̣n có một điều
quan trọng nhất, cách quán tưởng trong Quán Kinh là có mục
tiêu để có thể quán. Tôi vừa mới nói, giữ
cho tâm tư chẳng phan duyên nơi khác, chỉ phan duyên một
chỗ sẽ thuận tiện hơn nhiều! Quán tưởng
như vậy vẫn c̣n là rất khó khăn, [thế mà] học
tham Thiền, tŕ chú, hoặc tu những pháp môn b́nh phàm khác c̣n
khó hơn pháp này. Để tâm lư của chúng ta có thể an định,
xác định là chỉ có cách tu tŕ danh niệm Phật mới
là ổn thỏa, thích đáng nhất! Hiểu rơ những
điều này, tín tâm của chúng ta đối với pháp
tŕ danh niệm Phật sẽ càng tăng tấn!
“Chánh tọa Tây hướng” (Ngồi
ngay ngắn hướng về Tây): Trong khi chúng ta dấy
lên sự tưởng niệm, chẳng tùy tiện như
tŕ danh niệm Phật, mà phải Thiền tọa, hoặc
tĩnh tọa. Tĩnh tọa là ngồi ngay ngắn, hướng
thẳng về phía Tây. Sau khi đă ngồi ngay ngắn, “đế quán ư nhật dục
một chi xứ” (hăy quán chắc thật chỗ mặt
trời sắp lặn), quư vị đế quán (quán tưởng
rơ ràng, cặn kẽ) nơi mặt trời c̣n chưa lặn
hẳn, tức là Tây Phương. Khi ấy, quư vị “linh tâm kiên trụ”, [nghĩa
là] khiến cho cái tâm của quư vị kiên cố bất
động trụ nơi cảnh đế quán. “Chuyên tưởng bất di” (chuyên
tưởng chẳng dời), dụng công tốt đẹp,
tâm quư vị có thể “kiến
nhật dục một” (thấy mặt trời sắp
lặn), tức là thấy trạng huống của mặt
trời đang lặn, “trạng
như huyền cổ”, [nghĩa là] mặt trời sắp
lặn có h́nh dạng giống như cái trống đang
treo trong đại điện (trống ở đại
điện rất to lại có hai mặt, hai đầu
đều bịt kín), to như mặt trống vậy. Mặt
trời treo ở hướng Tây giống như cái trống.
V́ thế nói: Dụng công tốt đẹp, sẽ thấy
mặt trời to như cái trống treo vậy!
Kế
đó, xin quư vị xem biểu đồ, phần “quán nhật một” (quán mặt
trời sắp lặn). Kinh văn nói rất đơn giản,
xem lời chú giải của tổ sư, chúng ta cảm thấy
làm theo phương pháp này rất khó khăn. Biểu đồ
này nói về cách quán mặt trời lặn; v́ sao quán mặt
trời lặn? Hàng thứ nhất ghi: “Chỉ phương hữu tại” nghĩa là chỉ
ra một phương hướng. Ví như đối với
phương Tây, nếu hời hợt nói là phương
Tây, tâm tư cũng rất khó tập trung. Chỉ một nơi
cố định là hướng Tây chỗ mặt trời
lặn, tức là có phương hướng, có nơi chốn
tồn tại, tâm dễ đặt nơi đó. Vẫn phải
nhấn mạnh “chỉ
phương hữu tại” (chỉ ra phương
hướng ở nơi đâu), v́ đối với địa
cầu của chúng ta, trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu,
Đông, phương vị mặt trời lặn cũng
không luôn luôn chánh xác như vậy. Chánh xác nhất là trong hai
khoảng thời gian, một là mùa Xuân, hai là mùa Thu. Do vậy,
quư vị muốn chuẩn bị dụng công, phải chọn
sẵn địa điểm mặt trời lặn cố
định. Như nói đến mùa Hạ hoặc mùa
Đông, [phương vị mặt trời lặn] sẽ
chẳng phải là đúng ngay phương Tây, c̣n trong hai
mùa Xuân và Thu, mặt trời lặn đúng ngay ở
phương Tây. V́ thế, tổ sư nói: Phải chọn
chỗ mặt trời lặn trong mùa Xuân và mùa Thu, ấn
định địa điểm chắc chắn. Trước
hết, chọn cố định hướng Tây ở bên
ngoài nhà xong, khi trở về, trong khi tĩnh tọa (chẳng
thể ngồi trong núi non hay trong đồng hoang đâu nhé!
Phải quay về tĩnh tọa trong căn nhà chính ḿnh
đang ở, hoặc ở trong đạo tràng, hoặc ở
trong căn nhà mà bản thân quư vị chuyên môn dùng để
tu tŕ), c̣n có rất nhiều phương pháp phải chú ư.
Quán
mặt trời, một mục đích là chỉ ra
phương hướng tồn tại, c̣n ǵ nữa? V́ sao
phải quán mặt trời? Chúng ta biết chúng sanh phàm phu
không dụng công th́ thôi; khi dụng công đôi chút, sẽ cảm
thấy tâm tư của chính ḿnh rong ruổi lung tung, có rất
nhiều hiện tượng tán loạn, tướng
hư vọng dấy lên. Nhờ vào [quán tưởng] mặt
trời để biết rơ chính ḿnh có bao nhiêu nghiệp
chướng. Nếu tổ sư chẳng chú giải đạo
lư này, chúng ta chẳng biết! Có rất nhiều người
tự học tĩnh tọa, tập tĩnh tọa mà không
hiểu rơ học lư, cứ tĩnh tọa theo kiểu tu mù luyện
đui, chuốc phải ma chướng mà chính ḿnh vẫn
không biết! Phải đặc biệt chú ư điều
này! V́ thế, khi quán mặt trời lặn, cũng là để
cho chúng ta hiểu rơ chính ḿnh có bao nhiêu nghiệp chướng
và chướng ngại. Những chướng ngại ấy
có nhẹ và nặng, càng dụng công, chính ḿnh có thể kiểm
nghiệm nhận biết. Đối với phần kinh
văn ở đây, chúng tôi chiếu theo chú giải của
tổ sư. Các vị tổ sư toàn là những bậc từng
trải, khi các Ngài dụng công đă thấy những hiện
tượng này. V́ thế mới chú giải điều
này. Ghi chú trong biểu đồ dựa theo lời chú giải
của Thiện Đạo đại sư trong Tịnh
Độ Tông (Ngài là tổ sư của Tịnh Độ
Tông).
Phía
sau hàng chữ “tri chướng
khinh trọng” (biết chướng nặng hay nhẹ)
[trong biểu đồ] chính là nói về phương pháp dụng
công: Thứ nhất là nói về “tọa
pháp”. “Tọa pháp” (坐法) là nói
đến tĩnh tọa. Trước khi tĩnh tọa,
phải chú ư: Chúng ta muốn dụng công tĩnh tọa th́
nên thực hiện vào lúc nào? Khi quư vị vừa mới
ăn thứ ǵ đó hoặc dùng cơm xong, đă ăn no
th́ chẳng thích hợp, hoặc khi đói quá th́ cũng
không thích hợp. Lúc chẳng đói quá, mà cũng chẳng
phải là lúc ăn rất no, lúc thân thể, bao tử, và ruột
b́nh thường chính là lúc tốt nhất để dụng
công. Tĩnh tọa th́ đương nhiên là ở trong nhà,
quư vị ngồi ở đó, tốt nhất là phía trước
và phía sau đừng có gió thổi (thân thể đừng
nên để gió lùa). Hễ có gió thổi th́ ngồi lâu, thân
thể của chính ḿnh bị tổn hại mà vẫn không
biết; cần phải chú ư điều này! Đây là nói
đến “tĩnh tọa”,
chứ chúng ta tŕ danh niệm Phật, có ngồi hay không, chẳng
sao cả! Quán th́ phải tọa, tọa là “tĩnh tọa”.
Nói
thông thường, “tĩnh tọa”
là “kết già phu tọa” (結跏趺坐), có bán phu
tọa (半趺坐) và toàn phu
tọa (全趺坐). Trước
hết, nói về cách toàn tọa (全坐, ngồi xếp bằng trọn vẹn). “Toàn tọa” có hai loại:
1) Một
loại là trước hết đặt chân phải đè
lên đùi trái, lại dùng chân trái đè lên đùi phải;
sau đó, hai tay th́ cũng là tay phải xếp chồng lên
tay trái. Loại này được gọi là Hàng Ma Tọa (降魔坐). Thông
thường, Thiền Tông dùng cách ngồi này.
2) Một
cách ngồi khác nữa là Cát Tường Tọa (吉祥坐). Cát
Tường Tọa ngược với Hàng Ma Tọa,
trước hết đặt chân trái đè lên đùi phải,
sau đó, chân phải đè lên đùi trái. Đó là Cát Tường
Tọa, tay th́ cũng chồng tay phải lên tay trái. Tuy có sự
phân biệt ấy, nhưng tổ sư cũng nói: Quư vị
xếp bên trái hay bên phải trước đều
được, quư vị ngồi lâu đổi bên cũng
được. Tùy tiện theo thói quen dùng một cách
cũng đúng. Cách này gọi là Song Bàn (雙盤, khoanh cả
hai chân lại), lại c̣n gọi là Toàn Già Phu Tọa.
C̣n
có Bán Tọa (半坐). Bán Tọa là quư vị
chỉ xếp chồng một chân, [nghĩa là] một chân
đặt ở dưới, xếp chồng chân kia lên trên
là được. Bất luận chân trái hay chân phải [ở
trên] đều được! Cách này gọi là Bán Tọa,
hoặc Bán Già Tọa. Đấy là nói theo lẽ thường.
Chẳng thể Toàn Tọa th́ Bán Tọa cũng được!
Sau khi đă ngồi theo kiểu Bán Tọa lâu ngày đă quen,
có thể dần dà luyện tập Toàn Tọa. Khi bắt
đầu th́ thời gian ngồi ngắn một chút;
đă quen, ngồi lâu hơn cũng được. B́nh
thường phải luyện tập chuyện này dần dần!
Nếu vừa khởi đầu, quư vị bèn quyết
định ngồi rất lâu, thân thể và đùi cũng
chịu không nổi! Phải luyện tập dần dần!
Trước
hết, nói về cách ngồi là như thế đó. Có thể
thấy là nếu quư vị dùng pháp môn quán tưởng, chẳng
ngồi sẽ không được, thân thể chẳng
tĩnh được, nhất định là phải ngồi
an ổn ở một chỗ nào đó. Sau khi đă ngồi
xuống, bất luận là quư vị ngồi Toàn Già cũng
thế, mà ngồi Bán Già cũng thế, thân thể phải
giữ sao cho ngay thẳng, đừng ngả về phía
trước, cũng chẳng ngửa về phía sau, cũng
chẳng thể có chỗ dựa lưng ở phía sau, [nếu
không] sẽ bị tổn thương! Hăy rất tự
nhiên giữ thẳng người. Sau khi đă ngồi ổn
định rồi th́ sao? Nhắm mắt lại. V́ sao cần
phải nhắm mắt? V́ quư vị đang tưởng. Nếu
mở mắt ra, ánh sáng bên ngoài sẽ gây trở ngại cho
cái tâm đang suy tưởng. Nhắm mắt lại để
tưởng, quư vị càng dễ tập trung tâm niệm. Hơn
nữa, miệng cũng ngậm lại, hơi thở ra
vào nơi mũi cũng nhẹ nhàng hơn. Trong chú giải,
tổ sư có nói: Những điều này đều là những
điểm chánh yếu rất quan trọng. Những điều
khác, chẳng hạn như phải điều tiết
hơi thở như thế nào, xin các vị hăy tự xem
chú giải của tổ sư, chẳng cần phải nói
rất cặn kẽ!
Sau
khi đă hiểu rơ cách ngồi, quư vị ngồi xuống,
đương nhiên là ngoảnh mặt về phía Tây, hướng
về phía Tây mà ngồi. Sau khi đă ngồi, lại c̣n chẳng thể quán ngay lập tức, mà phải có
những chuẩn bị trước. Những sự chuẩn
bị ấy được gọi là “tán Tứ Đại”. Tán Tứ Đại là ǵ? Thân
thể của bọn chúng sanh phàm phu chúng ta do Tứ Đại
Địa, Thủy, Hỏa, Phong giả hợp. Chúng ta chấp
trước thân thể do Tứ Đại giả hợp,
tâm đặt nơi đó, muốn tưởng nơi khác
cũng rất khó. V́ thế, nhất định là phải
tán khai Tứ Đại trước. Tán như thế nào? Tổ
sư dạy: Địa Đại nơi thân thể của
chúng ta là ǵ? Chính là da dẻ, thịt, gân, xương v.v…
nơi nhục thể, những thứ ấy đều
là Địa Đại. Tâm chúng ta đem những thứ ấy
nơi thân thể tán khai về hướng Tây. Một mực
tán về Tây, đối với chỗ gần, tán chẳng
hết, hăy một mực tán về phía trước. Một
mực tán măi cho đến khi chẳng c̣n mới thôi! Phương
Tây rất xa, tận hết sức tán về phía trước,
tán cho đến khi trống rỗng chẳng c̣n ǵ nữa.
Đó là đă tán xong Địa Đại. Cũng giống
như vậy, trong thân thể chúng ta có chất lỏng,
đó là Thủy Đại. Thủy Đại là huyết
dịch, mồ hôi, trong miệng có nước miếng v.v…
Những thứ ấy đều là chất lỏng, tâm
cũng tán những thứ ấy ra ngoài. Hướng về
đâu để tán? Tán về phương Bắc, phương
Bắc thuộc Thủy, [cho nên] tán về phương Bắc.
Cũng có nghĩa là khởi đầu tán từ chỗ gần;
tán chẳng hết, cứ một mực tán về trước.
Một mực tán cho đến khi hết sạch mới
thôi. Những thứ khác như Phong Đại, thân thể
chúng ta có thể cử động, đi lại, đều
là Phong; hô hấp chính là Phong. Phong tán như thế nào?
Hướng về phương Đông để tán, một
mực tán cho đến khi rỗng không mới thôi! Trong Địa,
Thủy, Hỏa, Phong, c̣n có Hỏa Đại. Hỏa Đại
là hơi ấm trong thân thể, phía
Chúng
ta đă biết quán pháp, có tác dụng hay không? Hữu dụng!
Khi tŕ danh niệm Phật, thiện tri thức thường
nói: “Buông xuống vạn duyên,
thật thà niệm Phật”. Buông xuống vạn duyên như
thế nào? Chính cái thân thể của chúng ta là do Tứ
Đại giả hợp, hăy buông thân thể xuống (buông
xuống toàn thân), sau đấy dấy khởi Phật hiệu
th́ mới hữu dụng. Hễ dấy khởi bèn có thể
đạt được cảm ứng.
Ở
đây là nói về cách Quán: Có thể tán khai toàn bộ Tứ
Đại và tướng Không; khi đó, quán mặt trời
chỉ c̣n sót lại một cái tâm năng quán. Tâm năng
quán chỉ có một, rất thuần túy. Khi ấy, v́ b́nh
thường chúng ta đều đă từng thấy mặt
trời lặn, nay Tứ Đại đă tán khai, chẳng
chấp trước những thứ ấy, tâm cũng chẳng
nắm níu vào nơi đó. Lúc đó, tâm tưởng rất
thuần, hễ dấy lên bèn tưởng mặt trời lặn,
cảnh tượng mặt trời lặn có thể hiển
hiện. Sự hiển hiện ấy là hiển hiện
trong tâm, tuy nhắm mắt, nhưng cảnh tượng mặt
trời có thể hiện ra trong tâm nhăn. Đó gọi là “quán mặt trời”.
Ở
đây, chúng ta phải thấu hiểu một đạo
lư, tức là sau khi đă tán Tứ Đại, nhắm mắt
tưởng, mặt trời xuất hiện, đó là đạo
lư ǵ vậy? Điều đó có nghĩa là: Mặt trời
mà chúng ta thường thấy là một cảnh giới ở
bên ngoài, trong tâm chúng ta hiển hiện mặt trời, tức
là cái vốn có trong nội tâm của chúng ta, đó chính là
như khi vừa mới bắt đầu, tôi đă nói là
Nhất Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới, muốn
ǵ bèn có nấy. V́ thế, người tu đạo hiểu
rơ: Chỉ cần chẳng chấp trước giả pháp
và các hiện tượng trong thế gian này, danh cũng thế,
mà lợi cũng thế, hết thảy núi, sông, đại
địa, chỉ cần chẳng chấp trước những
thứ ấy, bảy báu trong bản tánh bèn hiển hiện.
Thế giới Cực Lạc hiển hiện như thế
đó! Tâm đă tĩnh, vừa tưởng, mặt trời
bèn hiện ra. Khi nó xuất hiện, ta thấy [trong đồ
biểu có ghi] “chướng
tướng” (障相, tướng chướng ngại), phải
hiểu rơ [tướng mặt trời xuất hiện do
quán tưởng ấy] có chướng ngại, chướng
ngại ǵ vậy? Ngay trong lúc chúng ta nhắm mắt, vận
dụng công phu quán tưởng, ánh sáng của mặt trời
lộ ra, giống như một vầng mặt trời xuất
hiện ở trong ấy. Nếu thấy [mặt trời] rành
rẽ, rơ ràng, chẳng có chút tỳ vết nào, đương
nhiên là tốt đẹp. Nhưng Thiện Đạo đại
sư bảo: Khi chính Ngài thật sự dụng công, vầng
sáng vừa xuất hiện, có thể có mấy thứ chướng
ngại. Những thứ chướng ngại ấy giống
như mặt trời bị các tầng mây che khuất. Tầng
mây che khuất mặt trời tức là mặt trời bị
chướng ngại! Khi chúng ta tác quán, [cảnh tượng]
mặt trời lặn vừa xuất hiện, trên vầng
mặt trời lặn ấy, có thể có ba loại hiện
tượng:
- Một
loại là chướng ngại vật màu đen, che một
nửa hoặc che một phần mặt trời.
- Hoặc
là một loại chướng ngại vật màu vàng che khuất
nó.
- Hoặc
là một loại chướng ngại vật màu trắng
che lấp nó.
Tổ
sư bảo: Ngoài những thứ ấy ra, c̣n có những
thứ khác (Ngài chỉ nói mấy thứ), những thứ ấy
đều là “chướng
tướng” (tướng chướng ngại). Nếu
thấy có mặt trời, sau khi [cảnh tượng] mặt
trời lặn đă xuất hiện trong tâm, ngay lập tức
có mấy hiện tượng ấy che lấp một phần,
hăy biết đó là chướng ngại của chính ḿnh. V́
sao có các loại chướng ngại ấy? Bọn chúng
sanh phàm phu chúng ta, ngoài những ác nghiệp đă trót tạo
trong một đời này, từ vô thỉ tới nay, trong đời
đời kiếp kiếp, đă tạo rất nhiều
nghiệp, đó đều là nghiệp chướng. Lúc đó,
làm cách nào? Ngay lập tức “sám
hối”. Khi ấy, phải thật sự sám hối. Nếu
lúc ấy, chẳng sám hối diệt trừ, sẽ không thể
vượt qua được cái ải tác quán ấy! V́ thế,
nói đến chuyện Quán Tưởng Niệm Phật chẳng
hề đơn giản đâu nhé! Tổ sư dạy: Hễ
xuất hiện các vật chướng ngại như vậy,
phải ngay lập tức sám hối. Phải đối
trước Phật sám hối, một mực sám hối.
Sau khi đă sám hối trừ diệt [những tướng
chướng ngại] ấy, mới lại tiếp tục
dụng công, lại quán mặt trời lặn.
Hễ
có hiện tượng nghiệp chướng ấy, phải
sám hối. Người căn khí tốt đẹp (người
lợi căn), hễ sám hối bèn có thể diệt trừ
ba loại hiện tượng ấy cùng một lúc. Người
có tŕnh độ kém hơn, chẳng thể hoàn toàn sám hối
trừ hết ngay trong một lần được. Hoặc
là trước hết trừ bỏ tướng đen, hoặc
là sám trừ hai tướng, trừ khử dần dần.
Nói tới “trừ chướng”,
có tiệm trừ và đốn trừ, v́ tŕnh độ của
mỗi người khác nhau. Những hiện tượng ấy
phải do quán mặt trời th́ chính ḿnh mới có thể
kiểm nghiệm được. Khi chẳng quán mặt trời,
nghiệp chướng chẳng hiển lộ, chính ḿnh sẽ
chẳng biết. Do vậy, chúng ta căn cứ trên nguyên tắc
này, [để suy ra]: Nếu tŕ danh niệm Phật chẳng
được, hoặc là vẫn có thể niệm Phật,
vốn là niệm từng câu cũng được lắm,
nhưng niệm một hồi, phiền năo dấy lên! Phải
biết đó là nghiệp chướng dấy lên. Hễ nghiệp
chướng dấy lên, đương nhiên là phải sám hối!
Phương pháp c̣n có thể dùng được, cho nên phải
quán mặt trời!
C̣n
có một điều khác nữa cần phải chú ư. Tổ
sư đại đức bảo chúng ta: Mặt trời do
chúng ta quán trong hiện thời rất nhỏ! [Dạy chúng
ta quán mặt trời] cũng bất quá là khiến cho chúng
ta thấu hiểu có một ư nghĩa như thế mà thôi!
Tây Phương thật sự chẳng cần đến mặt
trời, Tây Phương là một bầu quang minh. Bất
luận là chánh báo cũng thế, mà y báo cũng thế.
Chánh báo là A Di Đà Phật, chẳng cần phải nói! A
Di Đà Phật là vô lượng quang; những vị Đại
Bồ Tát và chúng sanh trong thế giới Cực Lạc
đều là toàn thân quang minh. C̣n có y báo, cây cũng thế, hoa
cũng thế, đất cũng thế, không chỗ nào chẳng
phải là quang minh. Chúng ta có thể thấu hiểu, kinh
nghiệm loại quang minh ấy ngay lập tức hay không?
Chẳng hiểu được! Có thể nói là không có cách
nào tưởng tượng được! Đă là không có
cách nào tưởng tượng, chúng ta tưởng bằng
cách nào? Trong phần kinh văn trước đó đă có
nói: Do tâm lượng của chúng sanh phàm phu hữu hạn,
cho nên đức Phật dùng rất nhiều tỷ dụ.
Ngài dùng mặt trời để dạy chúng ta quán mặt
trời lặn, đó là tỷ dụ! Quang minh của mặt
trời và quang minh từ chánh báo và y báo của Tây
Phương có phần tương tự. V́ thế, khi chúng
ta quán mặt trời, từ ánh sáng mặt trời có thể
tưởng tượng “y
chánh quang minh” (quang minh nơi y báo và chánh báo) trong Tây
Phương.
Chiếu
theo phương pháp như vậy để quán tưởng,
quán thấy mặt trời xuất hiện. V́ thế, kinh
văn chép: “Kư kiến nhật
dĩ”, [nghĩa là] ngồi ở đó, đă thấy h́nh
ảnh mặt trời, nhắm mắt, dụng tâm để
tưởng, tưởng thấy mặt trời. Mặt
trời ấy giống hệt như mặt trời bên
ngoài, thậm chí c̣n lớn hơn, h́nh trạng giống
như mặt cái trống treo trên đại điện,
tṛn xoe, to như vậy đó. Sau khi đă tưởng thấy,
những thứ chướng ngại như đă nói trên
đây đều chẳng có. Quư vị vốn nhắm mắt
[mà tướng mặt trời] xuất hiện, do dụng
tâm tưởng ra. Tưởng đă thành công th́ không chỉ
là nhắm mắt thấy, mà mở banh mắt cũng trông
thấy. Đó là quán thành công, quán mặt trời [thành công].
Điều này có nghĩa là: “Bế
mục, khai mục”, [tức là] nhắm mắt cũng
thế, mà mở banh mắt cũng thế, “giai linh minh liễu” (thảy đều rơ rệt),
đều có thể thấy phân minh, rơ rệt, rành rẽ!
IV.2.2.2.3.Tham chấp tâm tướng
Sau
khi đă quán thấy mặt trời, tổ sư dạy chúng
ta phải chú ư (các vị xem biểu đồ), chớ nên
tham chấp tâm tướng! Giả sử chúng ta quán thấy
mặt trời, tâm sanh hoan hỷ, chấp trước mặt
trời, th́ lại chẳng được rồi! Do vậy,
trong biểu đồ, ghi rơ “tham
chấp tâm tướng”. Hễ tham chấp th́ sao? Hễ
tham chấp, “tâm thủy động”
(nước tâm xao động). Sở dĩ chúng ta có thể
tưởng thấy tướng mặt trời, là do
trước đó đă vận dụng công phu nhiều ngần
ấy, tán khai Tứ Đại, rỗng không hết thảy
căn, thân, cảnh giới, cái tưởng “tinh thuần
là tưởng” xuất hiện. V́ sao bảo là “cái tưởng
tinh thuần là tưởng”? Nói theo kiểu tỷ dụ, tâm
tánh của chúng ta giống như nước. Nước
tĩnh lặng, trong trạng thái tĩnh lặng tuyệt
đối th́ mới có thể chiếu soi. Hễ quư vị
tham chấp, tâm thủy bèn chao động. Hễ chao động
th́ sao? “Tịnh cảnh thất”,
tức là tướng mặt trời ngay lập tức ẩn
mất, chẳng c̣n xuất hiện nữa. Khi cảnh giới
đă mất, tiếp đó sẽ là ǵ? “Động ám ngũ sắc”, hoặc là ư niệm
trong tâm lại dấy động, hoặc là hiện tượng
tối tăm, mờ nhạt, màu sắc nâu, xanh, vàng, đỏ,
trắng, đen, các thứ màu đều xuất hiện.
Đấy là nghiệp chướng lại xuất hiện.
V́ thế, nếu thấy t́nh h́nh ấy, ngay lập tức
phải buông cái tâm tham chấp xuống. Khi có hiện tượng
ấy xuất hiện, hăy ngay lập tức lập lại
từ đầu, vẫn là như trong phần trước
đă nói, phải tán khai Tứ Đại, phải dấy
khởi ư niệm thuần tưởng, lại quán tưởng
trở lại. Đó gọi là “hoàn
tùng bổn tu” (lại tu từ gốc).
Mọi
người chúng ta học tŕ danh niệm Phật, có khi
đang mải miết niệm, [cảm thấy] thanh tịnh,
vẫn tiếp tục niệm Phật hiệu, trong tâm bỗng
động niệm: “A! Đây là cảnh giới ǵ? Có lẽ
[cảnh giới tâm thanh tịnh như thế này] là nhất
tâm bất loạn đó chăng?” Hễ vừa nghĩ
như thế, tâm ngay lập tức bị loạn! V́ thế,
trong khi chúng ta tŕ danh niệm Phật, đă thấu hiểu
tầng ư nghĩa này, phải nên nhắc nhở chính ḿnh cảnh
giác: Bất luận chúng ta tŕ danh niệm Phật, tŕ thanh tịnh
đến mức độ nào, chỉ quan tâm một mực
tŕ măi, một mực niệm măi. Trong tâm chớ nên sanh tâm
hoan hỷ, chớ nên hy vọng nhất tâm bất loạn,
cũng chẳng cần nghĩ đó có phải là “tịnh niệm tương kế”
hay không? Chớ nên xuất hiện những tâm ấy! Hễ
những tâm niệm ấy vừa xuất hiện, Phật
hiệu của chúng ta sẽ bị rối loạn rất
nhanh. Đạo lư là như vậy đó!
Tiếp
đó, “thị vi nhật tưởng,
danh viết Sơ Quán” (đấy gọi là tưởng
mặt trời, là phép Quán thứ nhất). Trong phần
trên, kể từ khi nói bắt đầu dụng công
như thế nào, cho đến khi quán thành công, gọi là “nhật tưởng”. Quư vị
dùng phương pháp quán tưởng để tưởng
cho đến khi mặt trời xuất hiện, phép quán
này gọi là “Sơ Quán”.
Đây là phép Quán thứ nhất trong mười sáu phép Quán
của Thập Lục Quán Kinh, cho nên gọi là Sơ Quán. Hôm
nay chúng tôi nói đến đây bèn ngưng; lần sau sẽ
nói về Thủy Tưởng.
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư
Phần
4 hết
[1] Phong trào Ngũ Tứ là một cuộc
vận động đả đảo nếp sống
văn hóa và trật tự xă hội đạo đức
cũ bùng nổ vào ngày mồng Bốn tháng Năm năm
1919. Nguyên nhân chánh yếu là sau khi Thế Chiến thứ
nhất kết thúc, các nước thắng trận đă
kư kết ḥa ước Versailles, không cần tham khảo ư
kiến của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, tự
tiện chuyển giao tỉnh Sơn Đông là tô giới
thuộc chủ quyền của Đức cho Nhật,
cũng như nhiều điều kiện bất b́nh
đẳng khác đối với Trung Hoa. Dưới
ảnh hưởng tuyên truyền vận động
của các giáo sư, giới sinh viên, công nhân, và viên chức
thành thị đều tỏ ư chống đối, quy
chụp sự yếu hèn của chánh quyền Dân Quốc là
do văn hóa cũ gây ra, đặc biệt là học
thuyết Khổng Mạnh. Họ hô hào triệt để
thay đổi văn hóa cũ bằng văn hóa Âu Tây. Các
lănh tụ chủ chốt của phong trào này là Thái Nguyên
Bồi (viện trưởng đại học Bắc Kinh
thuở ấy), Châu Gia Hoa (khoa trưởng khoa địa
chất đại học Bắc Kinh), Trần Độc
Tú, Hồ Thích, Lương Khải Siêu, Lâm Trưởng Dân,
Lỗ Tấn… Ngày mồng Bốn tháng Năm, hơn ba ngàn
sinh viên thuộc mười ba trường đại
học đă họp mặt tại Bắc Kinh biểu t́nh
thị uy, hô hào biểu ngữ phản đối chánh
quyền, tẩy chay hàng hóa Nhật Bản. Thậm chí quá
khích đến nỗi triệt để cấm sử dụng
Văn Ngôn trong trường học, cấm không được
giảng dạy Tứ Thứ Ngũ Kinh cũng như các tác
phẩm của Nho gia và Phật giáo trong nhà trường. Phong
trào Ngũ Tứ đă mở đường cho các tay trí
thức khuynh tả như Trần Độc Tú, Lư
Đại Chiêu v.v… thừa cơ tuyên truyền chủ
nghĩa Cộng Sản, sau đó thành lập đảng
Cộng Sản Trung Hoa. Trong số đó, Lương
Khải Siêu là người tích cực đả đảo
Khổng Học. Về sau, ông Lương lại
đột ngột thay đổi, đề cao Khổng
Học thái quá, hô hào phải thay thế mọi tôn giáo
bằng Khổng Học, phải coi Khổng Tử như
một giáo chủ tôn giáo v.v… nên bị rất nhiều
người chỉ trích.
[2] Nghi Lễ là sách ghi chép các lễ
tiết trước thời Tiên Tần (trước khi
Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, thống
nhất Trung Nguyên), chủ yếu chép về những
lễ nghi dành cho hàng sĩ đại phu. Kể từ
thời Hán, Lễ Kinh chính là sách Nghi Lễ. Bản Nghi
Lễ được lưu hành hiện thời do Cao
Đường Sanh lưu truyền từ thời Hán
gồm mười bảy thiên. Đến đời
Đường, Lễ Kinh lại là sách Tiểu
Đới Lễ Kư. Dần dần kinh Lễ trở thành
Tam Lễ tức Nghi Lễ, Lễ Kư và Châu Lễ.
[3] Thi Nhăn (詩眼): Chữ chủ yếu trong một bài
thơ, diễn tả ư tưởng chánh yếu của
một bài thơ.
[4] Nguyên văn là “đài phong” (颱風) là băo lốc nhiệt đới (thường
được biết dưới danh xưng Typhoon trong
tiếng Anh), thường thấy ở vùng biển Thái
B́nh Dương quanh Nhật Bản, Đài Loan, Hương
Cảng, Phi Luật Tân, Đông Nam Á, và Hawaii. Tùy theo hướng
gió, có đến mười tám quốc gia bị ảnh
hưởng. Cái thường được gọi
một cách hết sức kỳ quặc là “áp thấp nhiệt đới” (tropical depression)
trong các bản tin thời tiết của Hà Nội chính là
loại băo typhoon nhẹ nhất, với sức gió thấp
hơn 61 cây số một giờ.
[5] Bành Hồ (tên thời cổ là
Đảo Di, Phương Đài, Tây Doanh, Đàn Châu, B́nh
Hồ, một mỹ danh khác là “Bermudas phương
Đông”) là một quần đảo trong eo biển Đài
Loan, thuộc vào lănh thổ Đài Loan, cách đảo chính
Đài Loan 50 km, gồm có hơn chín mươi ḥn đảo
lớn nhỏ, diện tích tổng cộng là 128 km2,
được đặt thành cấp huyện thị
của Đài Loan. Do quần đảo này nổi tiếng
về ngư nghiệp nên người Bồ Đào Nha
đă gọi là
[6] Xuân Thu Tả Truyện là một bộ
sử chép theo lối biên niên gồm ba mươi lăm quyển
do Tả Khâu Minh biên soạn, nhưng có những người
nghi ngờ thuyết này. Họ cho rằng Tả Truyện
là công tŕnh do nhiều người biên soạn, và có lẽ Tả
Khâu Minh là một trong những người biên soạn đầu
tiên. Các nhà kinh học đa phần cho rằng Tả Truyện
là sách chú giải kinh Xuân Thu (sử biên niên của
nước Lỗ chép từ thời Lỗ Ẩn Công cho
đến Lỗ Ai Công). Sách này cùng với Công Dương
Truyện và Cốc Lương Truyện được
gọi là Xuân Thu Tam Truyện. Tuy vậy, có tác giả
như Vương Tiếp, Lưu Phùng Lộc, Bao Tích Thụy
v.v… lại cho rằng đây là một sử liệu
độc lập về thời Xuân Thu.
[7] Xích Bích (赤壁) nay thuộc tỉnh Hồ Bắc,
nằm trên bờ Đông
[8] B́nh Kịch (平劇) chính là Kinh Kịch (京劇, do Bắc Kinh có thời gọi là
Bắc B́nh, nên Kinh Kịch c̣n được gọi là B́nh
Kịch), hay c̣n gọi Kinh Hư (京戲) hoặc
Quốc Kịch. B́nh Kịch là thể loại tuồng
về các chủ đề thuộc những triều
đại xa xưa, các vai diễn thường hóa trang
rất đậm, ăn mặc rực rỡ, sử
dụng rất nhiều điệu bộ theo quy tắc
ước lệ. Có thể so sánh thô thiển là B́nh
Kịch tương đương với hát tuồng
(Bắc Việt) và hát bội của
[9] Đăng địa: Chứng từ
Sơ Địa trở lên.
[10] Đây là một từ ngữ nhằm
tôn xưng Thiên Nhăn Thông. Ngài A Nậu Lâu Đà tuy nhăn căn
đă hư, nhưng do đắc Thiên Nhăn Thông, cho nên có
thể thấy thấu suốt tam thiên đại thiên
thế giới không bị chướng ngại. Do
chẳng cần nhăn căn mà Thiên Nhăn Thông vẫn khởi
tác dụng, nên kinh điển thường sánh ví như phần
phía sau của đầu Ngài đều có mắt, có
thể thấy những sự vật sau lưng, chẳng
cần phải ngoảnh đầu lại.