Phật Thuyết

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh

Giảng Kư

Phần 4

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)

khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 13

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ năm, ḍng thứ hai đếm từ dưới lên, bắt đầu từ phần sau. Tôi đọc trước kinh văn một lượt:

 

          (Kinh) Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước. Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp. Nhị giả, thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Như thử tam sự, danh vi Tịnh nghiệp.

()欲生彼國者,當修三福。一者,孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業。二者,受持三歸,具足眾戒,不犯威儀。三者,發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。如此三事,名為淨業。

(Kinh: Muốn sanh về cơi ấy, hăy nên tu tam phước. Một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp. Hai là thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Ba sự như thế gọi là Tịnh nghiệp).

 

          Đoạn [kinh văn] vừa mới đọc tiếp nối ư “được sanh về Tây Phương Cực Lạc quốc độ” trong tuần trước. Đại ư của bài giảng trong tuần trước là: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy, cơi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật hoàn toàn chẳng xa xôi. Đă là chẳng xa, hăy khéo chuyên tâm nhất trí quan sát cơi nước của A Di Đà Phật, cũng như quan sát A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát v.v… trong cơi ấy là những vị đă tu Tịnh nghiệp thành công. Đức Phật sẽ v́ bà ta nói rất nhiều thí dụ, khiến cho bà ta hiểu rơ, đồng thời cũng khiến cho những người muốn tu Tịnh nghiệp (tức là người tu Tịnh Độ) trong đời vị lai (kể từ sau phu nhân Vi Đề Hy măi cho đến hiện tại, thậm chí trong tương lai) có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc quốc độ. Lần trước đă giảng đến chỗ này.

          Hôm nay, tôi nói tiếp. Ở đây, trước hết, phải nói rơ cùng các vị. Trong quá khứ, khi Tuyết công lăo sư (thầy Lư Bỉnh Nam) vừa mới giảng kinh tại Đài Trung, thầy dạy chúng ta pháp môn Tịnh Độ thuần túy phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc. Mấy chục năm qua, thầy một mực giảng pháp môn này. Tuy lăo nhân gia đă giảng rất nhiều kinh điển Đại Thừa khác nhau, nhưng tu tập th́ chỉ có pháp môn này. Sau khi lăo nhân gia trở về Tây Phương, do hiện nay là thời đại Mạt Pháp, các thứ tư tưởng đều có, phổ biến nhất là nói: “V́ sao các vị muốn tới Tây Phương Cực Lạc thế giới? Tu nhân gian Tịnh Độ ngay trong thế giới này tốt hơn nhiều! Cần ǵ phải đến Tây Phương Tịnh Độ ở ngoài mười vạn ức cơi Phật!” Hiện thời, cách nói này hết sức phổ biến. Thuở thầy tại thế, chúng ta theo học với thầy, có thầy chỉ dạy, chúng ta chẳng cần sợ hăi, nay th́ cần phải dè chừng! Những lời lẽ ấy không chỉ nói ở nơi khác, bọn họ thậm chí cũng dần dần đến tận Đài Trung gieo rắc tư tưởng ấy, chúng ta phải đặc biệt chú ư!

          Đối với cái gọi là “nhân gian Tịnh Độ”, lũ phàm phu chúng ta chẳng có tư cách nhắc tới! Thích Ca Mâu Ni Phật lăo nhân gia thành Phật trong đời ác ngũ trược, lại độ chúng sanh trong thế gian này, chỉ có lăo nhân gia mới có thể làm được! Chúng ta thấy thế giới Sa Bà này là ngũ trược ác thế, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật thấy nó là Tịnh Độ. Trong kinh A Di Đà, lăo nhân gia đă nói rất rơ ràng, Ngài thấy hai chuyện ấy (thành Phật và thuyết pháp độ chúng sanh) đều là “thậm nan” (rất khó). Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n thấy là rất khó, lũ phàm phu chúng ta [toan biến nhân gian này thành Tịnh Độ] chỉ là phường ăn nói lớn lối mà thôi. Đừng nói là thành Phật, liễu thoát lục đạo luân hồi ngay trong một đời này mà c̣n chưa làm nổi, huống hồ kiến lập nhân gian Tịnh Độ! Chúng ta hiểu rơ tầng [ư nghĩa] này. Kẻ nói lời ấy, bất luận là trong t́nh huống nào, chúng ta đừng quan tâm tới họ, chúng ta tu pháp của chúng ta, nhất định phải phát nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong thế gian này, có kẻ giết cha, giết mẹ (trong bộ kinh này, vừa khởi đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu chứng cứ cho chúng ta thấy), học tṛ của Phật cũng học theo chẳng khác cho lắm, cũng muốn giết thầy. Thích Ca Mâu Ni Phật là đấng đă thành Phật, Đề Bà Đạt Đa thuộc loại đồ đệ ác, toan sát hại Ngài, những chuyện này đều nhằm nêu gương cho chúng ta thấy [t́nh h́nh tệ ác trong thuở ngũ trược ác thế]! Quả nhiên, đến thời đại Mạt Pháp trong hiện tại, t́nh h́nh ấy hết sức phổ biến, giết cha có, giết mẹ cũng có, giết thầy rất nhiều! Quư vị hăy ngẫm xem! Thế gian này c̣n có thể chẳng tồi tệ hơn ư? Trong thế gian này, đối với sự sanh tử của chính ḿnh mà c̣n chẳng có cách nào [tự lực giải quyết], há c̣n có thể chuyển biến thế gian này thành một cơi Tịnh Độ ư? Ai có thể làm được? Chẳng làm được! Do vậy, chúng ta nhất định phải kiên tŕ tín niệm, nhất định phải văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải dụng công, phải trọn đủ rất nhiều nhân duyên. Trong kinh A Di Đà có nói: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy”. Phải có rất nhiều thiện căn, phước đức và nhân duyên th́ mới có thể văng sanh.

          Tiếp đó, nói: “Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước”, [nghĩa là] nếu muốn sanh vào thế giới của A Di Đà Phật Cực Lạc, trước hết, hăy nên tu ba loại phước. V́ sao? Phước hết sức quan trọng. Trong kinh Phật có dạy: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Được làm thân người chẳng dễ dàng! Sau khi được làm thân người, mong nghe Phật pháp, lại càng chẳng dễ dàng! Hiện thời, dân cư trên toàn thế giới có tới mấy chục ức, người học Phật được bao nhiêu? Tỷ lệ chẳng tương xứng; đă ít ỏi lại càng ít ỏi hơn! Lấy ngay Đài Loan để nói, trong hơn hai ngàn vạn người, có bao nhiêu kẻ học Phật? Nếu tính toán trong số người học Phật, người học Tịnh Độ Tông lại được bao nhiêu? Nói thật ra, trong thời đại Mạt Pháp, chẳng học Tịnh Độ Tông, mà muốn giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong đời này, sẽ chẳng thể thực hiện được! Thật ra, người có thể tu pháp môn này, cũng chẳng phải là ngẫu nhiên. Kẻ chẳng có phước báo, đừng nói là chánh thức tu, [ngay cả] mong nghe pháp môn này cũng chẳng dễ dàng (nghe có Tây Phương Cực Lạc thế giới, lại nghe danh hiệu A Di Đà Phật đều chẳng dễ dàng!) Có thể nghe [pháp môn này] tức là có đại phước báo! Do vậy, muốn sanh về Cực Lạc quốc độ, phải tu ba thứ phước!

 

IV.2.1.6. Ba thứ Tịnh nghiệp

 

          Đoạn thứ nhất trong Tam Phước: “Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp” (Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp). Những điều này đều là thiện sự trong thế gian. Tuy là thiện sự thế gian, nếu muốn học đại pháp xuất thế gian liễu sanh tử, thành Phật v.v… vẫn phải lấy thiện pháp thế gian làm cơ sở. Chẳng có cơ sở này, vẫn là chẳng thể được! Trong thiện pháp thế gian, điều thứ nhất nói tới hiếu đạo, hiếu dưỡng cha mẹ. Nho gia Trung Hoa hễ nói tới văn hóa, trong đạo thống và đạo đức cố hữu, hiếu đạo hết sức trọng yếu. Phật pháp cũng giống như vậy, hiếu dưỡng cha mẹ chiếm địa vị bậc nhất trong các pháp thế gian. Hiếu dưỡng phụ mẫu: V́ sao nói là “hiếu dưỡng”? Hiếu () là hiếu thảo, cớ sao nói kèm theo dưỡng? Dưỡng là “cung dưỡng” (供養, cung phụng, nuôi nấng). Cố nhiên, hiếu có phạm vi rất rộng răi, nhưng cung cấp cơm áo cho cha mẹ chính là điều kiện cơ bản trong hiếu đạo. Cung cấp cơm áo cho cha mẹ, gọi là “cung dưỡng phụ mẫu”. Cha mẹ đă già, con cái có thể cung dưỡng phụ mẫu, đó là hiếu đạo cơ bản nhất. Trừ cung cấp áo cơm ra, trong hiếu đạo, nuôi thân thể cha mẹ thuộc về phương diện vật chất, lại c̣n phải dưỡng tâm chí của cha mẹ, khiến cho cha mẹ trong tâm rất hoan hỷ, chẳng có ưu sầu. Những điều này đều bao gồm trong Dưỡng.

          Phận làm con cái, chẳng tránh khỏi sẽ hỏi “v́ sao phải hiếu dưỡng cha mẹ?” Bất luận nói theo văn hóa Nho gia, hay nói theo giáo lư nhà Phật, đó chính là “báo ân”. Mỗi người chúng ta đến thế gian này, nhà Phật nói là “pháp nhân duyên”. Đă nói là pháp nhân duyên, nhân duyên chẳng đầy đủ, chúng ta sẽ chẳng thể sanh trong thế gian này! Lấy ngay thân thể của chúng ta để nói, sở dĩ chúng ta có thể sanh trong nhân gian, là do có nhân và duyên của cha mẹ và bản thân chúng ta. Nhà Phật nói là do thức thứ tám. Nói theo kiểu thông thường, mỗi cá nhân đều có linh hồn, chúng ta sanh trong nhân gian, chính là “linh hồn” của chúng ta đầu thai. “Thai” () là thai mẹ. Nếu chẳng có cha mẹ, chẳng có thai bào, linh hồn của chúng ta sẽ chẳng có chỗ nương gá. V́ thế, chẳng có cha mẹ, sẽ chẳng thể trở thành một người được! Thân thể của chúng ta do từ cha mẹ mà có. Người vừa mới được sanh ra, thân thể bé tí như vậy, chẳng có ǵ hết, chính ḿnh cũng chẳng thể nói năng, mà cũng chẳng hiểu chuyện, nếu chẳng được cha mẹ yêu thương, chăm sóc, chính ḿnh có thể trưởng thành hay chăng? Chẳng thể lớn khôn được! Đó là tầng [ư nghĩa] thứ nhất.

          Cha mẹ không chỉ cung cấp áo, cơm, các thứ vật chất v.v… cho cuộc sống của chúng ta, khiến cho chúng ta khôn lớn, mà tâm cha mẹ c̣n từ ái, trân quư con cái nhất. Chẳng có tấm ḷng từ bi ấy, nhân cách và những điều khác của con cái đều chẳng thể rất kiện toàn. Hiện thời, có rất nhiều vấn đề gia đ́nh (gia đ́nh tan vỡ), con cái từ những gia đ́nh tan vỡ ấy, sau khi lớn lên, tâm hồn ít nhiều khó tránh khỏi những nỗi thiếu sót, v́ họ chẳng được cha mẹ chăm sóc hoàn toàn! Đối với ân đức của cha mẹ dành cho con cái, ắt là phải đợi cho đến khi chính họ có con cái, chính ḿnh làm cha mẹ, mới hiểu rơ tâm lư quan tâm, yêu thương con cái của cha mẹ, cũng như mới hiểu rơ ân đức cha mẹ to tát dường ấy! Do hiểu rơ tầng ư nghĩa này, bất luận Nho gia hay Phật pháp, đều coi chuyện hiếu dưỡng cha mẹ là chuyện trọng yếu nhất. Mỗi cá nhân chúng ta sanh trong thế gian, chịu ân đức của cha mẹ nặng nhất; v́ thế, phải báo ân. Căn bản làm người khởi sự từ báo ân cha mẹ. Có căn bản này, bản thân quư vị tu đạo, hoặc làm bất cứ chuyện ǵ trên thế gian, nhân cách sẽ rất kiện toàn. Do đó, Phật pháp dạy chúng ta: Người tu phước phải gieo phước điền (làm bất cứ việc lành ǵ, phàm là có lợi ích cho người khác, đều coi là “gieo phước điền”). Gieo phước điền quan trọng nhất, trong tương lai có phước báo lớn nhất, chính là hiếu thuận cha mẹ. Phước điền ấy cao hơn, quan trọng hơn bất cứ loại phước điền nào khác. Trong Phật pháp, chuyện này là có căn cứ, chẳng phải là chúng tôi thích nói như thế nào bèn nói như thế ấy đâu nhé!

          Trong thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ấn Độ là một xă hội nông nghiệp, đă từng có lúc mùa màng thất bát, mọi người đều chẳng có cơm ăn. Thuở đó, Thích Ca Mâu Ni Phật và các đệ tử hằng ngày đến lúc ăn trưa đều ra ngoài tŕ bát khất thực. Gặp phải năm đói kém, chẳng khất thực được, mọi người đều chẳng có ǵ ăn. Có một vị tỳ-kheo (người xuất gia), đem quần áo mặc trên thân bán đi, đổi lấy một bát cơm, nhưng chính ḿnh chẳng nỡ ăn, đem cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật liền hỏi: “Trong nhà ông c̣n có cha mẹ hay không?” Vị tỳ-kheo thưa: “Có ạ”. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo thầy ấy hăy đem bát cơm đó về nhà dâng lên cha mẹ. Vị xuất gia ấy thưa: “Đạo đức và công đức của Phật cao cả dường ấy! Con đem cơm cúng dường Phật, Phật bảo con đem về dâng lên cha mẹ, cha mẹ con làm sao tiếp nhận được?” Đức Phật bảo vị ấy: “Cha mẹ sanh ra ông, nói theo pháp thế gian, ân đức của cha mẹ cao thượng khôn sánh nhất. V́ vậy, ông đem cơm về dâng lên cha mẹ chẳng sai!” Do vậy, xét theo lời đức Phật dạy trong câu chuyện này, có thể thấy báo đáp ân đức cha mẹ là chuyện thiên kinh địa nghĩa, bất luận thân phận, địa vị cao đến mức độ nào, bất luận là ai, cũng đều phải hiếu dưỡng, cung phụng cha mẹ.

          C̣n có một tầng [ư nghĩa] nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật sanh trong vương cung. Sau khi đức Phật sanh ra bảy ngày, mẹ đức Phật là phu nhân Ma Da qua đời. Sau khi đă khuất, bà sanh vào tầng trời thứ hai trong Dục Giới (Đao Lợi Thiên). Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo (thành Phật), Ngài đặc biệt từ nhân gian lên cơi trời Đao Lợi, chuyên v́ mẹ thuyết pháp, thuyết pháp suốt mùa Hạ, ḥng báo đáp ân mẹ hoài thai suốt mười tháng. Mẹ Ngài chẳng có ân nuôi dưỡng, đức Phật vẫn phải báo đáp. Người đă thành Phật mà c̣n báo đáp mẹ, huống là hạng phàm phu tầm thường ư? Từ hai sự thật này, có thể hiểu rơ: Bất luận nói theo pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, hiếu dưỡng cha mẹ đặc biệt quan trọng.

          Thứ hai là phụng sự sư trưởng. Nói tới “sư” () tức là nói tới thầy. Chúng ta làm người trên thế gian, điều trọng yếu nhất là phải hiểu rơ đạo lư làm người. Bất luận học pháp thế gian hay pháp xuất thế gian (pháp thế gian là học vấn thế gian, pháp xuất thế gian là học vấn xuất thế gian), đều phải cậy vào thầy dạy bảo. Ví như nói đến chuyện cầu học vấn thế gian, chẳng có thầy giáo từ các cấp học dạy dỗ, chúng ta biết được học vấn ǵ chăng? Cố nhiên, nói theo đạo lư thật sự, tất cả những ǵ nơi bản tánh đều là tri kiến chân thật, hết thảy đều hiểu rơ. Nhưng lũ phàm phu chúng ta chưa khai phát bản tánh, đối với học vấn thế gian, cần phải có thầy khơi gợi, phát khởi, chúng ta mới thông hiểu. Chẳng có thầy khơi gợi, phát khởi, chúng ta sẽ vĩnh viễn chẳng biết! Lại nói đến chuyện học Phật xuất thế gian. Trong Phật pháp, nếu chẳng có thầy chỉ điểm, dẫu chúng ta có học vấn thế gian hết sức giỏi giang, hiểu rất nhiều đạo lư, mở kinh điển nhà Phật ra, mỗi chữ chúng ta đều nhận biết, bất cứ chữ nào trong mỗi bộ kinh cũng đều xem hiểu, nhưng do chẳng có một vị thầy trong nhà Phật chỉ dạy, dẫu đọc hiểu mà cũng như chẳng xem, [bởi lẽ], toàn bộ đều là hiểu lầm, chẳng thể nhập môn! V́ thế, muốn nghiên cứu học vấn nhà Phật, ắt cần phải có một vị thầy trong nhà Phật dạy bảo. Đó là vị thầy thuộc về pháp xuất thế gian.

          Xét như vậy, những người dạy chúng ta học vấn thế gian, nhất là dạy chúng ta pháp môn tu đạo trong nhà Phật, những người ấy đều là sư trưởng. Đối với sư trưởng, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy phải phụng sự. “Phụng sự” bao hàm rất nhiều ư nghĩa. “Sự” () là thầy có việc, chúng ta phải làm thay thầy. Điều quan trọng nhất là “phụng” (). Chẳng phải là làm việc thay cho thầy đă là xong, quư vị thật sự học với vị thầy ấy th́ phải tuân chiếu học vấn do thầy đă dạy. Ví như chúng ta học Phật, đức Phật là thầy của chúng ta, chúng ta phải phụng sự đức Phật. Lại c̣n có những vị cao tăng đại đức, tổ sư trong Phật môn, các vị ấy đều là thầy. Chúng ta nghiên cứu Phật pháp mà chẳng làm theo những chỉ dạy trong kinh Phật và chú giải của tổ sư, c̣n nói đến chuyện phụng sự chi nữa! V́ thế, điều quan trọng nhất trong phụng sự là làm theo lời Phật dạy, chiếu theo pháp môn do tổ sư đă chỉ điểm để tu tập, đấy mới gọi là “phụng sự”. Đối với thầy trong trường học thế gian cũng thế, chẳng thể nói là cầu được học vấn rồi thôi: “Mặc kệ thầy! Ta đă đạt được học vấn, chẳng dính líu ǵ với thầy nữa!” Không được rồi! Hiện thời rất khó nói đến chuyện “phụng sự”. Trong quá khứ, các vị thầy của Nho gia không chỉ dạy bảo quư vị tri thức và học vấn, mà c̣n chịu trách nhiệm dạy học tṛ về hành vi và nhân cách đến cùng, một mực kèm cặp, chỉ bảo quư vị, chẳng để cho quư vị đi theo con đường xấu. Hiện nay đă là xă hội công nghiệp, đương nhiên chẳng có sự thân thiết và quan tâm như vậy, nhưng đối với quan hệ thầy tṛ, nếu quư vị hiểu đạo lư, vẫn là chớ nên sơ sót. Tuy kinh Phật và kinh điển Nho gia đều cùng nói như thế, nhưng thế hệ hiện thời bị ảnh hưởng bởi tà thuyết, hễ nghe nói theo cách như vậy, vẫn chẳng nghĩ là đúng. Nhất là vào đầu thời Dân Quốc, phong trào Ngũ Tứ[1] từ khởi đầu đă hướng về kẻ b́nh phàm truyền bá: “Cha mẹ và ta có quan hệ ǵ đâu? Ta là ta, cha mẹ là cha mẹ. Sở dĩ ta được sanh ra là do cha mẹ kết hôn nên mới ḷi thêm ta”. Nói kiểu ấy chính là tà tri tà kiến bậc nhất, gây hại cho đạo đức bậc nhất. Họ lại nói: “Thầy th́ có quan hệ ǵ? Bọn họ đến trường học để lấy tiền lương, cũng giống như một nghề, ta đi học phải đóng tiền mà”.

Tà tri tà kiến ấy cũng chẳng phải là văn hóa cố hữu của Trung Hoa. Văn hóa cố hữu Trung Hoa nói đến Ngũ Luân, cha mẹ và anh em đều là thiên luân, bên ngoài th́ nói tới vua tôi, nói tới bằng hữu. Thầy và tṛ là sự kết hợp với đạo nghĩa bằng hữu, thầy tṛ như cha con, cũng giống như thiên luân. Đạo đức Ngũ Luân xuất phát từ bản tánh của con người, thiên tánh là như thế. V́ sao cha mẹ yêu thương con cái như vậy? Do thiên tánh là như thế. Một cô gái lúc c̣n chưa kết hôn, làm một vị đại tiểu thư trong nhà, gặp phải phân chó c̣n sợ. Một mai kết hôn, sanh con, trẻ nhỏ đại tiện, thối tha hơn phân chó quá nhiều, [thế mà] bản thân cô ta nh́n thấy chẳng sợ, vẫn tḥ tay bốc, dọn. Mẹ con là một Thể, thiên tánh là như thế. Trong ấy, chẳng có quan hệ lợi hại tồn tại, thuần túy là thiên luân, là biểu hiện thiên tánh tự nhiên. Đó là đạo đức cố hữu của Trung Hoa.

          Trong đoạn kinh văn này, tổ sư chú giải đă dựa theo giáo lư của tông Thiên Thai, “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng” tuy là pháp thế gian, nhưng xét theo giáo nghĩa của tông Thiên Thai, đó chính là Viên Giáo. Viên Giáo là ǵ? Người căn cơ Viên Giáo học tập pháp thế gian, sẽ trực tiếp triệt để thấy bản tánh. Họ nh́n vào pháp thế gian, sẽ thấy nó cũng xuất sanh từ bản tánh, [pháp ấy] cũng là pháp xuất thế gian. Do đó, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, bất luận là Nho học hay Phật pháp, đều bảo đó là chân lư. Đă đều là chân lư, đối với những tà thuyết do phàm nhân truyền bá trong hiện thời, chớ nên nghe, văn chương do họ viết cũng đừng xem. [Những thứ đó] cũng khiến cho bọn ta hiểu rơ: Trong hiện tại, nếu chẳng nghiên cứu kinh Phật, nếu chẳng nghiên cứu văn hóa cố hữu, sẽ tự nhiên bị tà thuyết ảnh hưởng mà chính ḿnh chẳng hay biết! Bởi lẽ, những tà thuyết ấy chẳng phải do kẻ b́nh phàm nói, những kẻ [tuyên truyền các tà thuyết] ấy đều là hạng người có thẩm quyền trong giới học thuật! Vào thời phong trào Ngũ Tứ, những kẻ tham gia sớm nhất đều là những học giả hữu danh thuộc đại học Bắc Kinh, là những nhà đại giáo dục, những ǵ họ nói toàn là sao chép rập khuôn các học thuyết của Âu Tây. Sau đấy, [bằng những tà thuyết ấy, họ đă] hăm hại chúng ta, ô nhiễm các sinh viên thiện lương của Trung Hoa! Nói đến chỗ này, hết sức đau ḷng! V́ thế, sau khi chúng ta đă nghiên cứu, t́m hiểu, phải biện định đúng sai rơ rệt. Phật pháp dạy kẻ học Phật chúng ta chớ nên chấp tướng (đừng chấp tướng thế gian), đừng thấy kẻ nào có địa vị rất cao trong giới học thuật, đă đoạt giải Nặc Bối Nhĩ (Nobel), [cứ thấy] toàn thể thế giới đều sùng bái kẻ đó [mà mù quáng nghe theo]. Tuy có địa vị như vậy, nhưng nếu những ǵ kẻ đó nói là tà tri tà kiến, chúng ta đừng nghe theo! Chúng ta phải thật thà nghe lời Thích Ca Mâu Ni Phật dạy, nghe theo lời dạy của Khổng phu tử. Có vậy th́ mới có thể dựa vào đó để tu đạo tốt đẹp, mong văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mới khá ổn thỏa!

Tiếp đó, kinh văn chép: “Từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”. Thập Thiện Nghiệp là ǵ? Tương phản của Thập Thiện Nghiệp là Thập Ác Nghiệp. Điều thứ nhất trong Thập Ác Nghiệp là sát sanh. Trong phần trước, khi nói tới ngũ trược ác thế, đă có nói tách bạch Thập Ác Nghiệp. Ở đây, đức Phật dạy phải tu Thập Thiện Nghiệp. Điều đầu tiên trong Thập Thiện Nghiệp là “từ tâm chẳng giết”, chẳng giết th́ phải phát từ tâm. Từ tâm là ǵ? Giống như cha mẹ từ tâm yêu thương con cái! Giống như Phật, Bồ Tát từ tâm yêu thương hết thảy chúng sanh chẳng có điều kiện. V́ sao phàm nhân chúng ta đối xử tốt đẹp với kẻ khác? Ắt là phải xét coi ngươi đối với ta như thế nào, ta mới đối xử với ngươi như thế đó, tức là có điều kiện! Từ tâm của cha mẹ và Phật, Bồ Tát là vô điều kiện. V́ lẽ đó, Phật pháp nói “vô duyên đại từ”, chẳng cần có duyên ǵ, đối với kẻ xa lạ, kẻ chẳng quen biết, đều nói tới từ tâm, phải phát huy cái tâm ấy. Hễ có cái tâm ấy th́ mới có thể chẳng giết! Nho học gọi từ tâm là Nhân, nhân () trong “nhân nghĩa đạo đức”. Nhân do đâu mà có? Từ bản tánh mà ra. V́ sao chúng ta phải nói tới Nhân? Nhân là đối với tất cả mọi người, đối với tất cả hữu t́nh động vật, đều phải có cái tâm đồng cảm lớn nhất. Họ có những khó khăn hoặc đau khổ ǵ, chúng ta đều mong thay họ giải quyết. Họ chẳng vui sướng, chúng ta ban cho họ các thứ sung sướng, khiến cho họ sống hết sức b́nh an, tự tại! Đấy là vô duyên đại từ, mà cũng là ḷng Nhân như Nho gia đă nói. V́ thế, nhân từ hết sức quan trọng!

          “Bất sát” là chẳng giết thứ ǵ? Điều quan trọng nhất là chẳng thể giết người. Chúng ta cùng là người như nhau, chẳng thể giết người! Tội giết người hết sức to lớn, nặng nề. Không chỉ là chẳng thể sát nhân, mà đối với những động vật chẳng phải là người ra, bất luận là động vật cấp cao hay cấp thấp, dẫu bé tí ti, cũng chớ nên sát hại. V́ sao chẳng thể sát hại? Trong kinh Phật cũng có nói, quư vị phải đặt ḿnh vào địa vị của đối phương để suy nghĩ. Khi chúng ta sắp giết hại người khác, hoặc động vật nào đó, trước tiên, hăy đứng trên lập trường của đối phương, cứ nghĩ giả sử chính ḿnh bị giết, trong tâm sẽ có cảm tưởng như thế nào? Là kinh sợ hay sung sướng? Ví như tôi biết quư vị muốn giết tôi, tôi cảm thấy rất vui thích, [vậy th́] quư vị có thể giết tôi! Nếu chẳng phải là tâm lư ấy, chính ḿnh cảm thấy hoảng hốt, sợ hăi, làm sao có thể giết đối phương cho được? Phật pháp dạy người khác phản tỉnh như vậy. Nho học cũng dạy người ta hăy tự phản tỉnh giống hệt. Hăy tưởng tượng chính ḿnh gặp phải t́nh huống y hệt, sẽ có đủ mọi nỗi sợ hăi! Nếu quư vị vẫn cứ làm hại đối phương, đối phương chẳng kinh hoảng, sợ hăi ư? Chẳng nghĩ như vậy, sẽ chẳng phải là Nhân, chẳng phải là Từ, chẳng nói tới nhân từ được, mà là cái tâm tàn nhẫn! Một kẻ tàn nhẫn, làm người c̣n chưa xong, vẫn mong tu đạo, vẫn mong sanh về Tây Phương, làm sao có thể được?

          Kinh văn dạy như vậy! Sau khi chúng ta xem kinh văn của Phật pháp, hăy đối chiếu đạo lư được nói trong hôm nay với xă hội hiện thời, hăy suy nghĩ xem! Hiện thời là xă hội ǵ vậy? Khi thầy chúng ta c̣n tại thế, lúc giảng kinh hoặc giảng sách, cụ thường nhắc nhở: “Tôi chẳng có thần thông chi hết, nhưng tôi có thể dự đoán chuyện vị lai (tôi nghĩ các vị lăo đồng tu đều c̣n nhớ). Tôi không chỉ đoán biết chuyện vị lai, lại c̣n dự đoán chẳng sai cho lắm! Tôi chẳng xem báo chí, TV ngày mai, mà biết là chẳng thể thiếu chuyện sát nhân, cướp đoạt, phóng hỏa! Chắc chắn là có những chuyện ấy”. Quư vị hăy suy ngẫm lời thầy nói! Đúng là như vậy, chúng ta xem tin tức trên TV cũng thế, mà đọc báo cũng vậy, ngày nào mà chẳng có những chuyện ấy? Không chỉ là giết người thường, mà c̣n giết cha mẹ, thậm chí cha mẹ giết con cái cũng có luôn! Vốn là thiên tánh chẳng nỡ giết, kết quả là hiện thời đều đảo lộn! Mọi người đều biết: Gần đây có một bà mẹ đem cả năm đứa con ra biển trấn nước cho chết sạch! Ngoài ra, cũng có kẻ giết chết hai đứa con gái của chính ḿnh rồi tự sát. Cơ quan xử án nói những kẻ đó mắc bệnh tâm thần, tức là tâm lư có vấn đề. Nếu chúng ta hỏi: “V́ sao có những kẻ mắc bệnh tâm thần? Bệnh tâm thần v́ sao mà có? V́ sao quá khứ chẳng nhiều như vậy, nay lại có nhiều ngần ấy?” Vẫn chẳng phải là do tà tri tà kiến và tà thuyết trong thời đại hiện tại tạo thành ư?

          Trong quá khứ, nói đến Ngũ Luân; hiện thời, mọi người đều chẳng nhắc tới Ngũ Luân. Nói tới Ngũ Luân, nói hiếu thuận, dạy mọi người mỗi ngày một phát lộ thiên tánh ra ngoài. Hiện thời, rao giảng tà thuyết, khiến cho mọi người mỗi ngày một che kín thiên tánh, che phủ thêm từng tầng một, kết quả là biến thành nông nỗi như hiện thời! Do vậy, đối với xă hội hiện tại, hăy ngẫm xem: Trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài đă nói là “ngũ trược ác thế”. Ngũ trược ác thế trong hiện thời so với thuở ấy, càng chẳng biết là đă ô trược đến mức độ nào? V́ thế, chúng ta phải biết: Trong thế gian này, t́nh h́nh trọn hết trong thời đại này là như vậy, cả thế giới toàn là một bầu hắc ám. Càng ở trong cảnh hắc ám, càng phải hiểu rơ điều này: Chúng ta chớ nên giống như những kẻ b́nh phàm. Trong hắc ám, chúng ta có thể phát ra một chút quang minh, tuyệt diệu lắm! Ví như vào ban ngày, dưới ánh sáng mặt trời chói lọi, thắp một ngọn nến, chẳng thấy rơ rệt, nhưng trong ban đêm không có ánh mặt trời, mà cũng là đêm tối om chẳng có ánh trăng, thắp một ngọn nến, nó sẽ tỏa sáng hết sức rơ rệt. Điều này có nghĩa là: Trong thời đại này, ai nấy đều chẳng nói tới hiếu đạo, đều chẳng nhắc tới chuyện phụng sự sư trưởng, mọi người tổn hại lẫn nhau, thậm chí giết người. Giết động vật lại càng chẳng cần phải nói nữa! Ăn một bữa, chẳng biết đă sát hại bao nhiêu sanh mạng! Nay chúng sanh gây tạo sát nghiệp nặng nề hơn bất cứ chi khác. Càng là trong thời đại này, chúng ta càng chẳng nên hùa theo ô nhiễm như mọi người, phải chiếu theo kinh Phật để làm. Có thể thời thời khắc khắc thấu lộ quang minh vốn có trong tâm của chúng ta, lộ ra một chút ánh sáng, bản thân chúng ta sẽ c̣n có cách. Không chỉ là chính ḿnh có cách, mà c̣n có thể ảnh hưởng những kẻ hữu duyên quanh ta! Chúng ta nói năng, nếu họ nghe lọt tai, sẽ có lợi cho họ!

          Ở đây, nói đến chuyện “từ tâm bất sát”, có những kẻ nghĩ giết người là chuyện b́nh thường. Giết các loài động vật lại càng cảm thấy rất b́nh thường. Chúng ta đừng nghĩ đó là chuyện b́nh thường, hăy nên biết đó là chuyện tội ác to lớn cùng cực. Bản thân chúng ta nhất định phải giữ được, nhất định phải kiêng giết. Không chỉ là chớ nên sát nhân, mà đối với những động vật khác cũng chớ nên sát hại, phải dưỡng thành “từ tâm chẳng giết”. Chỉ cần dưỡng thành từ tâm chẳng giết, tâm từ bi mỗi ngày một tăng trưởng. Một người hằng ngày vun bồi tăng trưởng cái tâm nhân từ; nói theo pháp thế gian, người có từ tâm rất nặng, thọ mạng sẽ tự nhiên tăng trưởng. Nói theo pháp xuất thế gian tu đạo, người có tâm từ bi sâu nặng, đạo sẽ tiến bộ càng nhanh hơn! Nói theo Thập Thiện Nghiệp, chỉ cần ǵn giữ từ tâm bất sát! Phải giữ hết sức tốt đẹp điều đầu tiên trong Thập Thiện Nghiệp là “chẳng sát sanh”. Nói “Thập Thiện Nghiệp” tức là chẳng làm mười ác nghiệp. Điều thứ nhất trong Thập Thiện Nghiệp là chẳng sát sanh, đó là thiện nghiệp bậc nhất.

          Thứ hai là không trộm cắp, thứ ba là không dâm. “Không dâm” là nói với người xuất gia, người xuất gia chẳng dâm. Tại gia th́ chẳng hành tà dâm (tức là trừ vợ chồng ra, chẳng cùng kẻ thứ ba nào khác phát sanh quan hệ luyến ái, th́ gọi là “chẳng tà dâm”). Nơi thân thể bèn chẳng tạo ba thứ ác nghiệp giết, trộm, dâm; đó chính là ba thứ thiện nghiệp nơi thân nghiệp. Nơi miệng bèn chẳng nói dối, chẳng ác khẩu (“ác khẩu” là ăn nói tổn thương người khác), chẳng lưỡng thiệt (“lưỡng thiệt” là xúc xiểm thị phi), chẳng ỷ ngữ (tức là nói năng, viết văn, hoặc vẽ vời v.v… hướng dẫn kẻ khác tạo ác nghiệp th́ gọi là “ỷ ngữ”), đó là bốn thứ thiện nghiệp nơi miệng. Thân và miệng đều nghe theo tâm lư [chỉ đạo], tâm là ư. Ư thức có ba loại: Chẳng tham (không tham cầu hết thảy mọi thứ), chẳng sân hận (chẳng tùy tiện nổi cáu), chẳng tà kiến (nói là “tà kiến” tức là kiến giải chẳng phù hợp đạo lư của thánh nhân). Nơi ư chẳng tham, chẳng sân, chẳng si th́ ư cũng là thiện.

Thập Thiện Nghiệp có cạn và sâu, kẻ b́nh phàm như chúng ta chiếu theo như vậy để tu tập, cũng là khá lắm! Tu đến chỗ rốt ráo nhất, nếu nói theo Viên Giáo, ba nghiệp thân, khẩu, ư đều thanh tịnh. Ba nghiệp đă đều thanh tịnh, tâm tánh bèn phát lộ, đạt đến cảnh giới ấy sẽ là cao sâu khôn cùng! Chúng ta đừng nên thấy Thập Thiện Nghiệp rất đơn giản, chỉ cần làm tới bên trong [nội dung thật sự của nó], cảnh giới sẽ rất cao. Hôm nay, tôi nói đến đây bèn ngừng!

 

Tập 14

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ năm, xem hàng cuối cùng. Tôi đọc trước một lượt.

 

          (Kinh) Nhị giả, thọ tŕ Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Như thử tam sự, danh vi Tịnh nghiệp.

()二者,受持三歸,具足眾戒,不犯威儀。三者,發菩

提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。如此三事,名為淨業。

(Kinh: Hai là thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả. Ba sự như thế gọi là Tịnh nghiệp).

 

          Đoạn kinh văn này tiếp tục phần Tam Phước chưa nói xong trong lần trước. Tam Phước c̣n gọi là “ba loại tịnh nghiệp”. Trong bộ kinh này, mười sáu phép Quán trong phần sau chính là công phu chánh thức, được gọi là “chánh công phu”, ba thứ tịnh nghiệp đang được nói ở đây chính là công phu phụ trợ, được gọi là “trợ công phu”. Trợ công phu hết sức quan trọng. Đối với ba loại tịnh nghiệp, lần trước đă nói về loại thứ nhất: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”. Điểm quan trọng trong loại tịnh nghiệp thứ nhất là nói về thiện pháp thế gian. Các vị hăy nh́n từ kinh văn, đầu tiên là nói đến hiếu đạo. Thiện pháp thế gian rất nhiều, chọn lấy pháp trọng điểm, pháp quan trọng nhất th́ chính là hiếu. Một điểm quan trọng khác nữa là Từ, từ tâm chẳng giết. Hiếu là nói đối với người trên, từ tâm chẳng giết là nói với kẻ dưới. Giáo dục nhà Phật giống như giáo dục của Nho gia. Giáo dục Nho gia nói “hiếu từ”, có thể giữ vững hiếu đạo, giữ vững từ tâm, thiện pháp thế gian bèn đầy đủ.

          Phần kinh văn hôm nay nói về loại thứ hai trong ba loại tịnh nghiệp: “Nhị giả, thọ tŕ Tam Quy”, nói tới Phật pháp. Trong phần trước là nói về thiện pháp thế gian, thuộc về pháp thế gian. Dẫu tu pháp thế gian tốt đẹp cách mấy, vẫn chẳng thể vượt thoát lục đạo. Tức là tu Thập Thiện Nghiệp hết sức hoàn bị, sanh lên cơi trời, tối đa là sanh vào Lục Dục Thiên trong Dục Giới Thiên mà thôi. Muốn vượt thoát thế gian, phải tu Phật pháp. Muốn xuất thế gian, đầu tiên là phải thọ tŕ Tam Quy. Thọ () là tiếp nhận. Sau khi đă tiếp nhận, chẳng gạt qua một bên, mà phải giữ vững, phải nắm chặt, chẳng buông, một mực chiếu theo đúng pháp để tu, đó là “thọ tŕ”. Ở đây, cần phải thọ tŕ những ǵ? Quy y. Đối với Quy (), chúng ta thường nói là Quy (), tức là bên cạnh chữ Bạch () có thêm chữ Phản (), chữ Quy () này và Quy () giống nhau.

Quy y có ba loại, gọi là Tam Quy Y. Tôi nghĩ mọi người đều hiểu cả rồi, nhưng giảng kinh th́ chẳng thể không nói. Thứ nhất là quy y Phật, thứ hai là quy y Pháp, thứ ba là quy y Tăng. Phật là đấng giáo chủ của thế giới Sa Bà, tức Thích Ca Mâu Ni Phật. Pháp là các pháp môn do đức Phật đă nói, Tăng là ḥa hợp chúng, tức tăng đoàn (người đă thọ Cụ Túc Giới th́ gọi là Tăng). V́ sao gọi là Quy? Quy () là quay về. Những ǵ bọn phàm phu chúng ta trong thế gian đă thấy, đă nghe, trong tâm suy tưởng, không ǵ chẳng phải là tà tri tà kiến thế gian, đều là chẳng chánh đáng, chẳng chánh xác. “Quy y” (歸依) là đem những hành vi và tư tưởng chẳng chánh xác thảy đều xoay lại, quay về Phật môn, quay về Phật, Pháp, Tăng. Sau khi đă quay về, bèn nương cậy, nương cậy vào ai? Nương cậy Phật, Pháp, Tăng. V́ thế, học Phật th́ điều đầu tiên là phải thọ tŕ Tam Quy.

          Thọ tŕ Tam Quy tuy rất đơn giản, nhưng chúng ta phải hiểu rơ (nhất là trong thời đại Mạt Pháp), nghiên cứu Phật pháp ắt cần phải thọ tŕ Tam Quy. Hơn nữa, sau khi đă thọ, xác thực là có thể chiếu theo đó để hành tŕ. Tánh chất trọng yếu của chuyện này là ở chỗ nào? Chúng ta thường thấy có rất nhiều người, bề ngoài nói là tin Phật, cũng là học Phật, nhưng hễ có chuyện ǵ bèn tin điều khác ngay! Nghe nói chỗ nọ có chuyện chi đó rất linh cảm, rất linh nghiệm, bèn ùa tới đó liền! Nơi nọ có thần, có lăo tổ chi đó, biểu diễn cho thiên hạ xem ngay tại đó, bèn ùa tới! Nói nghiêm ngặt, chúng ta thật sự thọ Tam Quy Y th́ những chuyện ấy đều chẳng thèm nghe! V́ sao? Chúng ta thọ tŕ, quy y Phật, Phật là chí cao vô thượng. Trí huệ của kẻ nào có thể vượt trỗi trí huệ của Phật? Công đức của ai có thể vượt trỗi công đức của Phật? Hơn nữa, nói đến Pháp do đức Phật giảng, tức pháp môn, kinh điển của bất cứ tôn giáo nào cũng đều chẳng thể vượt trỗi Phật pháp. Bất cứ tôn giáo nào cũng đều chẳng sánh bằng, huống hồ là quỷ thần giáo chẳng có kinh điển chi cả! Bọn họ căn bản là chẳng có kinh điển, chỉ bịa chuyện nói loạn cào cào, cớ ǵ chúng ta lại tin theo những tà thuyết tùy tiện nói lung tung ấy?

Lại nói đến Tăng, Tăng là Tăng Bảo. Tăng sĩ đă thọ Cụ Túc Giới, có oai nghi, nhưng trong thời đại Mạt Pháp hiện tại, có những kẻ giả mạo. Về căn bản, chúng nó chẳng phải là Tăng, mà là giả vờ, những ǵ chúng nó nói chẳng phải là Phật pháp, cớ ǵ chúng ta phải đến nghe chúng nó nói để làm chi? Chúng ta tuy biết đạo lư, nhưng c̣n có rất nhiều người chẳng phân định rơ ràng cho lắm, v́ họ vẫn chưa hiểu rơ Tam Quy! Do đó, chúng ta nghiên cứu kinh văn, tuy thấy bốn chữ “thọ tŕ Tam Quy” dường như đơn giản, nhưng nếu thật sự thọ tŕ Tam Quy, đối với hết thảy những tà thuyết chẳng hợp Phật pháp ở bên ngoài, sẽ không đến nghe! Dẫu họ nói hay cách mấy, cũng đừng tin tưởng bọn ấy, v́ chúng ta đă quy y từ lâu, chúng ta có Tam Quy.

          Nghiên cứu cao hơn bước nữa, đối với cái gọi là “quy y Phật, quy y Pháp”, hăy nói đến Pháp! Hết thảy các kinh trong Kinh Tạng đều do Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Ba kinh Tịnh Độ đương nhiên cũng là do Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Trong ba bộ kinh ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy rơ ràng chúng ta phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Giả sử chúng ta khuyên kẻ khác: “Quư vị cần ǵ phải tới Tây Phương Cực Lạc thế giới? Ở trong thế gian này là được rồi!” Kẻ nói lời đó, ngay cả Tam Quy cũng đều chẳng nương cậy! Chẳng tin Phật tức là chẳng quy y Phật, mà cũng chẳng quy y Pháp. Quy y Phật, quy y Pháp, sẽ tin tưởng lời đức Phật dạy, tức là sẽ tin tưởng Pháp! Đối với mỗi câu kinh văn, ta sợ nghiên cứu quá nhiều sẽ mất thời gian. Nếu thật sự chịu hướng nội nghiên cứu, sẽ chẳng sợ phiền phức, những ư nghĩa bao hàm trong ấy rất nhiều, nếu quư vị có thời gian, hăy luôn luôn nghiên cứu hướng nội. Càng nghiên cứu, càng hiểu nhiều đạo lư, tín tâm đối với Phật pháp càng thâm nhập, càng đạt được lợi ích to tát. Ở đây, tôi nêu ra điều này để nhất loạt khích lệ mọi người!

          “Thọ tŕ Tam Quy” được nói ở đây chính là chuyện nhập môn để học Phật. Sau khi đă thọ Tam Quy, kế đó là “cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi” (đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi). Đối với chữ Giới trong “cụ túc chúng giới”, xin thưa trước cùng quư vị: Tiếng Ấn Độ gọi Giới là Thi La (Śīla), tiếng Hán là Giới (), có ư nghĩa “thanh lương”. Thanh lương (清涼) là ǵ? Ví như tiết trời rất nóng, vừa mở quạt điện hoặc máy lạnh, sẽ cảm thấy rất mát mẻ; đó là “thanh lương”. V́ sao Giới là thanh lương? Lũ chúng sanh chúng ta trên thế gian, thân thể, nội tâm và khẩu (tức ba nghiệp thân, khẩu, ư), thân thể cảm nhận, miệng nói năng, trong tâm suy nghĩ, từ nội tâm phát ra ngôn ngữ và hành vi, lại c̣n bị bên ngoài kích thích, đều là nóng bức khôn cùng! Nóng bức giống như lửa vậy! Đối với chữ Phiền () trong “phiền năo” (煩惱), bên trái là chữ Hỏa (), bên phải là chữ Hiệt (). [Chữ Hiệt] viết theo lối chữ Triện, sẽ là đầu người! Đầu người tới gần lửa, quư vị ngẫm xem, người ta thường nói là “đầu bốc lửa”. Người thế gian chẳng tránh khỏi phiền năo; v́ sao phiền năo? Thế gian này khiến cho tâm chúng ta rất phiền, nóng nảy khôn xiết! V́ sao nóng nảy? Trong thế gian này, t́nh huống là như vậy, toàn thể đại hoàn cảnh trong thế gian này toàn là như vậy. Nếu chúng ta có thể chuyển biến toàn thể thế gian, đương nhiên là rất tốt! Khi vẫn c̣n chưa có công phu chuyển biến toàn thể thế gian, trước hết, mỗi người chúng ta phải tự tránh né sự nóng bức của phiền năo. Trước hết, hăy cầu sao chính ḿnh được thanh lương. Sau khi chính ḿnh đă thanh lương, mới có thể giúp đỡ người khác thanh lương. Chính ḿnh c̣n chưa thể thanh lương, làm sao có thể giúp người khác [thanh lương] cho được? Thanh lương như thế nào? Thọ giới bèn có thể thanh lương.

          Giới là thân chẳng tạo ác nghiệp, giữ ǵn hành vi chánh đáng, miệng chẳng nói tùy tiện, khiến cho khẩu nghiệp rất thanh tịnh. Trong tâm đừng mong tưởng chuyện danh lợi. Phàm kẻ nào mong cầu danh lợi, tất nhiên là phải tổn người lợi ḿnh. Nếu chúng ta tổn người lợi ḿnh, kẻ khác cũng sẽ tổn người lợi ḿnh. Ai nấy đều tổn người lợi ḿnh, sẽ tạo thành hiện tượng như trong thế giới hiện thời, giống như một khối lửa, trong tâm mỗi người đều rất phiền bực. Giới là giới cái tâm! Không chỉ là thân thể chẳng tạo ác nghiệp, miệng chẳng tạo ác nghiệp, ngay cả trong tâm cũng đừng nghĩ! Đừng nên dấy lên cái tâm danh lợi, chớ nên tranh danh đoạt lợi cùng kẻ khác, đừng nên tổn người lợi ḿnh! Như thế th́ trong tâm sẽ tự nhiên cảm thấy rất an nhiên! V́ sao trong tâm an nhiên? Ta chẳng tổn hại người khác, không mong chiếm tiện nghi của kẻ khác, trong tâm lúc nào cũng thản nhiên, và cũng rất an b́nh, tự tại, sợ ǵ cơ chứ? Do vậy, tâm chúng ta tự nhiên thanh tịnh, thanh lương. V́ thế, thọ giới, giữ ba nghiệp thân, khẩu, ư tốt đẹp, tuy thế gian nóng bức ngần ấy, chúng ta giữ ǵn tốt đẹp ba nghiệp của chính ḿnh, chính ḿnh lập tức thanh lương. Người ta thường chẳng hiểu Giới, cứ ngỡ giữ giới sẽ khiến cho chính ḿnh bị rất nhiều nỗi bó buộc, rất mất tự do! Thật ra, họ chẳng hiểu đạo lư này. Đă hiểu rơ đạo lư, [sẽ biết giữ Giới] đúng là tự do, thanh lương. Do thanh lương, có thể đạt được tự do.

          Chúng ta biết học Phật, quan trọng nhất là khai trí huệ. Muốn khai trí huệ, đương nhiên là phải nghiên cứu kinh Phật. C̣n có một điều rất quan trọng là phải nhập Định. Chẳng nhập Định, sẽ chẳng khai trí huệ! Nghiên cứu kinh Phật, nghiên cứu Phật lư, trong tâm cũng phải có công phu định lực kha khá th́ mới có thể nghiên cứu kinh. Chẳng có công phu định lực, trong tâm bộp chộp, xáo động, có xem [kinh điển] cũng chẳng xem được! Do vậy, công phu định lực rất trọng yếu. Công phu định lực do đâu mà có? Muốn có công phu định lực, phải giữ giới. Do có Giới th́ mới có Định. V́ thế, Phật pháp nói ba thứ Vô Lậu Học, Giới, Định, Huệ. Đối với Tam Vô Lậu Học Giới, Định, Huệ, đầu tiên phải nói tới Giới. Giới trong nhà Phật có rất nhiều giới điều, nhưng chuyên môn nói về Giới, sẽ chẳng thuộc phạm vi của khóa giảng này, mà cũng chẳng phải là kẻ b́nh phàm có thể tùy tiện nói được! Khi truyền giới, sẽ có bậc giáo thọ chuyên môn giảng giới; ở đây, chỉ có thể nhắc đến các danh từ [thuộc về giới luật].

          Nói tới giới trong nhà Phật, chính là các giới do đức Phật chế định, chia thành giới tại gia và giới xuất gia. Giới tại gia th́ sau khi đă thọ Tam Quy, thông thường là thọ Ngũ Giới (đối với Ngũ Giới, tôi nghĩ mọi người đang hiện diện đều biết, chẳng cần phải nói cặn kẽ). Tiến hơn nữa là thọ Bồ Tát Giới, giới điều khá nhiều. Giới xuất gia có Sa Di Giới và Cụ Túc Giới. Trong Cụ Túc Giới, c̣n chia thành tỳ-kheo giới và tỳ-kheo-ni giới. Thọ tỳ-kheo giới hoàn bị, sẽ có tất cả hai trăm năm mươi điều, tỳ-kheo-ni giới nhiều hơn. Chú giải của cổ nhân nói là năm trăm điều, tức là nói số tṛn [tổng số của giới tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni]. Thật sự chiếu theo kinh văn của giới điều, [giới tỳ-kheo-ni] sẽ là ba trăm bốn mươi tám điều. Giới của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni là giới Tiểu Thừa. Người xuất gia tại Trung Hoa, bất luận là tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni, sau khi đă thọ Cụ Túc Giới, c̣n phải thọ thêm Bồ Tát Giới. Muốn hành Bồ Tát đạo, phải thọ Bồ Tát Giới. Người tại gia có thể thọ Bồ Tát Giới, người xuất gia cũng thọ. Phật pháp tại Trung Hoa là Đại Thừa Phật pháp, chúng ta đều là tại gia đệ tử, người b́nh phàm chỉ cần phát tâm hành Bồ Tát đạo, đều thọ Bồ Tát Giới. Đại khái là phân chia [các loại giới] như thế đó!

          Nói thông thường, [mọi người] cảm thấy Đại Thừa Bồ Tát Giới rất dễ dăi, thoải mái, trên thực tế là nghiêm ngặt nhất. Chứng thực [Đại Thừa Bồ Tát Giới] nghiêm ngặt như thế nào? Chúng ta biết: Thường là trong các quốc gia Tiểu Thừa, họ thọ tŕ giới luật Tiểu Thừa, có thể ăn mặn, ăn thịt, các thứ ngũ tân như hành, tỏi v.v… cũng đều chẳng hạn chế. V́ sao? V́ họ chẳng thọ giới luật theo Đại Thừa Phật pháp; nhưng đệ tử nhà Phật tại Trung Hoa, bất luận tại gia hay xuất gia đều thọ giới Đại Thừa. Dẫu chẳng thọ giới Đại Thừa, chỉ thọ Ngũ Giới, cũng ăn chay trường, các thứ ngũ tân như hành, tỏi… cũng chẳng ăn! V́ sao? Do căn cứ theo kinh điển Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng dạy về Bồ Tát Giới, chẳng cho phép ăn thịt chúng sanh. Ăn thịt chúng sanh tức là chôn vùi cái tâm từ bi, lại c̣n chẳng cho phép ăn ngũ tân, tức những thứ như hành, tỏi, chúng ta phải hiểu rơ điều này! Nếu không, sẽ có những kẻ nói: Người xuất gia tại các nước Đông Nam Á vẫn ăn mặn như thường, v́ sao chúng ta chẳng ăn? Họ thọ giới Tiểu Thừa, chúng ta thọ giới Đại Thừa, phải phân biệt rơ ràng điều này!

          Các giới luật thông thường đă giới thiệu xong; trong đó, chúng ta phải đặc biệt khích lệ lẫn nhau răn dè khẩu nghiệp, bản thân chúng ta hăy khống chế cho tốt. Trong kinh Phạm Vơng có nói mười trọng giới, năm điều đầu chính là Ngũ Giới, chúng ta đều đă biết. Đối với năm điều sau, chẳng cần phải nói mỗi điều, nhưng tội thường phạm nhất thuộc về khẩu nghiệp, cho nên phải nhắc tới đôi chút! Trong các giới điều thuộc mười giới trọng có giới “thuyết tứ chúng quá” (nói lỗi của bốn chúng). “Tứ chúng” là hai chúng tại gia (ưu-bà-tắc và ưu-bà-di) và hai chúng xuất gia (tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni). Phàm là đệ tử Phật môn, chớ nên nói lỗi của đệ tử Phật; hễ nói lỗi lầm của tứ chúng đệ tử, bèn phạm trọng giới. Thêm nữa là “tự tán hủy tha” (khen ḿnh, chê người): Chính ḿnh tự ca ngợi bản thân có công đức chi đó cao minh hơn kẻ khác, chúng ta đă bị hoàn cảnh thời đại ảnh hưởng, cũng rất khó giữ, người b́nh phàm dễ phạm lắm!

          “Hủy tha” (毀他) là hủy báng người khác. Tự ḿnh tán thán chính ḿnh; đồng thời, hủy báng người khác, điều này cũng chẳng dễ giữ. Lại c̣n “hủy báng Tam Bảo”, những điều khác chẳng cần phải nói, ba điều này đều thuộc về phương diện khẩu nghiệp. Do vậy, bất luận chúng ta đă thọ Bồ Tát Giới cũng thế, mà chưa thọ Bồ Tát Giới cũng thế, chỉ cần chúng ta là đệ tử Phật, đối với những giới trọng ấy, chẳng cần biết là đă thọ hay chưa, hễ phạm phải, đều có tội ác trọng đại! V́ thế, chúng ta ăn nói phải đặc biệt dè chừng, đừng rêu rao khuyết điểm của tứ chúng đệ tử, chớ nên tự khen ḿnh, chê người, chớ nên hủy báng Tam Bảo. “Cụ túc chúng giới” (Trọn đủ các giới) nói đến đây thôi!

Kế tiếp là “chẳng phạm oai nghi”. Oai () là rất có oai đức. Chúng ta thấy bậc cao tăng đại đức, bất luận đứng cũng thế, ngồi cũng thế, có oai đức trang nghiêm, chúng ta trông thấy, tự nhiên khởi ḷng nghiêm túc cung kính. V́ sao? Họ có oai nghi. Nghi () là nghi biểu (儀表, sự biểu lộ đúng mực). Người đă thọ giới đều phải luôn chú trọng oai nghi. Giới đă được ghi chép từng điều, do đức Phật chế định. Sau khi đă giữ giới, cũng sẽ tự nhiên chú trọng oai nghi; oai nghi phát xuất từ giới. Ví như chiếu theo sự biểu hiện của hai trăm năm mươi giới, một người đi lại, đứng bất động, hoặc ngồi, thậm chí là dáng vẻ trong khi ngủ (cũng thường nói là bốn tư thái trong khi đi, đứng, nằm, ngồi), đều có oai nghi. Trong bốn loại oai nghi, mỗi loại đều có hai trăm năm mươi oai nghi, tức là mỗi loại gồm hai trăm năm mươi điều, bốn loại hợp thành một ngàn điều, cho nên có tất cả một ngàn loại oai nghi. Đối với một ngàn loại oai nghi ấy, chẳng thể bảo: Ta nói đến oai nghi trong hiện tại, một chốc sau chẳng nói đến oai nghi nữa, hoặc chẳng cần nói tới oai nghi trước kia. Oai nghi bất luận quá khứ, hiện tại, hay vị lai, đều phải nói tới, chẳng phân biệt thời gian, mà là nói suốt tam tế (tam thế). Trong mỗi “thế”, đều có một ngàn oai nghi; quá khứ, hiện tại, vị lai, cùng hợp thành ba ngàn oai nghi. V́ thế, thật sự nói “chẳng phạm oai nghi” th́ chẳng thể khuyết thiếu ba ngàn oai nghi. Không chỉ là phải trọn đủ các giới, mà ba ngàn oai nghi cũng chẳng thể trái phạm.

          Hoàn toàn chẳng phải là học Phật pháp th́ mới nói tới chuyện này! Chúng ta biết trong văn hóa Trung Hoa, Nho gia cũng tu đạo. Tuy Nho gia tu đạo chẳng nói tới giới, nhưng nói tới Lễ. Lễ được nói trong Nho gia giống như giới được nói trong nhà Phật. Trong sách Trung Dung (中庸) có nói tới ba trăm lễ nghi, [đấy chính là] ba ngàn oai nghi. Ba ngàn oai nghi [trong Nho gia] được nói như thế nào? Trong kinh điển Nho gia có một bộ sách tên là Nghi Lễ (儀禮)[2], “nghi” là oai nghi. Sách Nghi Lễ quy định các loại lễ, hợp chung lại thành ba ngàn điều. Lễ được nói Nghi Lễ hết sức hoàn bị, gọi là “ba ngàn oai nghi” cũng là nói tới điều này. V́ sao nhà Phật lẫn Nho gia đều chú trọng oai nghi? Chúng ta tu đạo ắt phải có thể khống chế ba nghiệp thân, khẩu, ư, chính ḿnh phải khống chế vững vàng. Nếu chẳng khống chế, ba nghiệp sẽ loạn; hễ loạn bèn chẳng có định. Chẳng có Định, làm sao tu tập tốt đẹp cho được? Oai nghi đối với bất luận Nho hay Phật đều là chuyện tất yếu phải nói. Đă là tất yếu phải nói tới, bèn biết: Nó hết sức trọng yếu!

          Đối với ba loại tịnh nghiệp, kinh văn nói là “tu Tam Phước”. Quư vị tu Tam Phước, trong tương lai sẽ có phước báo. Điều thứ hai là “thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, đấy là nói tới quy y giới hoặc giới luật. Phải biết: Đối với kẻ chẳng tuân thủ giới, luôn tạo ác nghiệp, hăy nghĩ xem, kẻ đó đă tạo ác nghiệp, kẻ đó tu đạo ǵ vậy? Đừng nói là xuất thế gian, ngay cả Dục Giới Thiên, [kẻ đó] cũng chẳng sanh về được! Càng thọ giới nhiều, càng chẳng tạo ác nghiệp. Thọ giới mà chẳng tạo ác nghiệp, sẽ được phước báo. Thập Thiện Nghiệp do đâu mà có? Chẳng tạo mười ác nghiệp sẽ là Thập Thiện Nghiệp. Tu Thập Thiện Nghiệp sẽ có phước báo. V́ thế, phước báo của Cụ Túc Giới càng nhiều hơn tu Thập Thiện. Do vậy, chúng ta hiểu rơ: Thọ Giới rất thanh tịnh, không chỉ là thanh lương trong hiện tại, mà c̣n sẽ có rất nhiều phước báo trong tương lai. Tu đạo mà chẳng có phước báo sẽ chẳng được! Chẳng có phước báo, đối với các pháp Quán được nói trong phần sau, hoặc học pháp môn Niệm Phật, đều chẳng thể vận dụng công phu. Chẳng có phước báo, ngay cả nghe pháp môn này cũng chẳng có cơ hội, chẳng được nghe! Được nghe pháp môn này là do có phước báo! Có thể suy ra: Phước báo rất trọng yếu!

          Kế đó là loại phước thứ ba: “Tam giả, phát Bồ Đề tâm” (Ba là phát Bồ Đề tâm). Học Đại Thừa Phật pháp, trước hết phải phát tâm, phát tâm ǵ vậy? Phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm là giác ngộ. Hành Bồ Tát đạo th́ trước hết phải giác ngộ; không chỉ là chính ḿnh giác ngộ, mà c̣n phải khiến cho kẻ khác giác ngộ. Do vậy, phát Bồ Đề tâm đặc biệt quan trọng. Thêm nữa là “thâm tín nhân quả” (tin sâu nhân quả). Tin nhân quả đă là khá lắm, lại c̣n phải thêm vào “thâm” tín. Chúng ta phải hiểu rơ nhân quả, bất cứ chuyện ǵ trong thế gian đều phải là “trước có nhân, sau đó mới có quả”. Nhân, nói theo tỷ dụ, giống như có hạt giống. Có hạt giống th́ mới có thể nẩy mầm sanh trưởng, sau đấy mới kết quả. Đó là nhân quả. Nhân quả có nhân quả ngay trong đời này, tức là một người trong đời hiện tại đă gieo nhân ǵ, sẽ kết thành quả ǵ ngay trong một đời này. Thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác quả. Giả sử chỉ nói trong đời hiện tại, sẽ không đủ đâu nhé! V́ sao không đủ? Có rất nhiều người tạo rất nhiều thiện nghiệp, làm rất nhiều chuyện tốt, kết quả là gặp hoàn cảnh chẳng tốt đẹp, vận mạng từ đầu đến cuối chẳng khá, một mực gặp rất nhiều tai nạn. Chỉ nh́n vào đời hiện tại, sẽ chẳng thể luận định nhân quả thông suốt được! Ngược lại, có rất nhiều kẻ xấu xa, tạo rất nhiều ác nghiệp, kết quả là chỗ nào cũng rất đắc ư, luôn ở trong hoàn cảnh tốt đẹp, kết quả cũng tốt đẹp. Phải giải thích điều này ra sao? V́ thế, chỉ nói đến nhân quả trong đời này sẽ chẳng đủ, phải nói tới nhân quả ba đời, có đời trước, đời này và đời sau. Nhân quả hết sức phức tạp, hết sức sâu sắc; không nói tới nhân quả ba đời, đối với nhân quả sẽ chẳng thể tin sâu. Không chỉ là nhà Phật nói nhân quả ba đời, Ngũ Kinh của Nho học cũng đều nói tới nhân quả ba đời, nói hết sức nhiều!

          Hiểu rơ nhân quả ba đời đă là chẳng dễ dàng, nhưng chỉ hiểu rơ có nhân quả ba đời vẫn chưa đủ! Nói như thế nào? Thường nghe có người nói: “Đời này chẳng tốt, tu cho đời sau. Đời này bần cùng, tu cho đời sau biến thành người giàu có!” Kẻ ấy cũng có quan niệm nhân quả ba đời; tuy có quan niệm nhân quả ba đời, nhưng chẳng biết phải thoát ly lục đạo, chỉ biết có đời trước, đời này, và đời sau, chỉ là tu tập nhằm ḥng biến cải đời sau tốt lành hơn mà thôi! Như vậy là không được, vẫn chẳng giác ngộ. Sau khi đă hiểu nhân quả ba đời, c̣n phải giác ngộ, giác ngộ ǵ? Giác ngộ lục đạo luân hồi, ví như: Đời sau, sanh trong nhân gian, rất giàu có, sẽ lại như thế nào? Dẫu đời sau làm đại tổng thống của nước Mỹ, cũng chẳng có ǵ tốt đẹp! Dẫu sanh lên trời cũng trọn chẳng tốt đẹp ǵ! Đă hết thọ mạng, vẫn phải đọa lạc. Có ư nghĩa chi đâu? V́ thế, chúng ta phải giác ngộ; sau khi đă hiểu nhân quả ba đời, vẫn phải giác ngộ: Luân hồi trong lục đạo hết sức khổ năo, sanh tử không ngừng! Ắt là phải thoát ly lục đạo luân hồi. Hễ giác ngộ như vậy, chúng ta học Phật mới có thể kiến lập chánh tri chánh kiến. Đă kiến lập quan niệm nhân quả chánh xác, sau đấy học Phật th́ mới học rất thuần túy. Sau khi đă giác ngộ nhân quả ba đời, tất nhiên sẽ mong cầu xuất ly tam giới, mà cũng là thoát ly lục đạo luân hồi.

          Thoát ly lục đạo luân hồi là yêu cầu cơ bản trong học Phật. Nhưng đối với “thâm tín” được nói trong bộ kinh này, tổ sư c̣n nói phải tin sâu hơn nữa. Làm thế nào để “tin sâu” hơn nữa? Nói tới nhân quả, không chỉ là thoát khỏi tam giới bèn coi là đă đạt được mục đích, giống như Tiểu Thừa chứng quả A La Hán, Trung Thừa chứng Bích Chi Phật, cũng là thoát tam giới, thoát ly lục đạo luân hồi, nhưng các Ngài vẫn chưa thành Phật, vẫn là chưa được. Nói cách khác, vẫn là thâm nhập nhân quả chưa đủ! Nhân quả trong Đại Thừa Phật pháp nói đến rốt ráo nhất, bất luận là thiện hay ác, nhân quả thiện ác đều phải nói triệt để. Hễ nói tới nhân quả, sẽ thấy triệt để bản tánh của chính ḿnh, trực tiếp thấu hiểu tâm tánh của chính ḿnh. Tâm tánh là đại biểu của chân lư, nhân quả kiến lập trên chân lư. Đă là kiến lập từ chân lư, kẻ làm thiện hay làm ác là ai? Ai đang làm thiện? Ai đang tạo ác? Hoàn toàn là tự tâm! Hiểu rơ cái tâm của chính ḿnh, thiện ác chẳng do ai khác [gây tạo], chính ḿnh có thể làm chủ. Có thể làm chủ tự tâm, sẽ có thể chuyển biến nhân quả, chuyển biến hết thảy; chuyển đến chỗ rốt ráo nhất, sẽ đạt đến cảnh giới thành Phật! Nhân quả nói đến chỗ cao thâm nhất, chính là tự ḿnh có thể minh tâm kiến tánh, thấy thấu triệt cội nguồn tâm tánh (cội nguồn vốn sẵn có) của chính ḿnh. Nói “thâm tín nhân quả” chính là sau khi đă hiểu rơ nhân quả, bèn từ sự thấu hiểu bản tánh, từ chân lư mà tu tập. Như thế th́ chính ḿnh mới có sức mạnh để chuyển biến. Nếu không như vậy, chuyển theo cách nào?

          Kế đó là “độc tụng Đại Thừa”. “Độc” () là xem đọc, “tụng” () là đọc thuộc ḷng. V́ sao phải đọc tụng kinh điển Đại Thừa? Hiện thời, có những vị tu hành đă lâu, họ có một biện pháp “duyệt tạng” (閱藏, đọc kinh điển trong Kinh Tạng), duyệt tạng như thế nào? Mở kinh điển Đại Thừa trong Tạng Kinh ra, xem từ đầu đến cuối từng chữ một, bất luận có nhận biết chữ ấy hay không, vẫn cứ tiếp tục xem. Chữ không nhận ra, cũng không cần phải lật tự điển ra tra. “Duyệt tạng” là xem lần lượt từng chữ một, nhằm cầu Định. Nhờ vào duyệt tạng để cầu Định, điều quan trọng là chẳng khởi tâm phân biệt! Một loại khác là nghiên cứu, chẳng phải là duyệt tạng, mà là chọn lấy một bộ kinh để xem. Xem không hiểu [chữ nào], phải tra tự điển, hoặc là [biết] có người khác thông hiểu, bèn xin người ta giảng cho quư vị nghe (nhằm nghiên cứu đạo lư). “Độc tụng Đại Thừa” bao gồm hai phương thức duyệt tạng và nghiên cứu. Nghiên cứu đại kinh và đại luận của Phật pháp để làm ǵ? Nhằm khai trí huệ, khiến cho chúng ta hiểu rơ đạo lư của Phật. Chúng ta học Phật mà chẳng hiểu rơ Phật lư, đối với phương diện tu tŕ, sẽ cảm thấy có những nỗi khó khăn. V́ thế, trong quá khứ, có rất nhiều người học Phật có một đoàn thể để cùng nhau nghiên cứu đương nhiên là tốt, nếu thật sự chẳng có cách nào nghiên cứu [cùng người khác], hăy tự ḿnh duyệt đọc, chỉ đọc theo mặt chữ cũng được! V́ thế, đọc tụng Đại Thừa cũng hết sức quan trọng, hướng nội để tu, nghiên cứu lư luận. Đối với ba câu “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, độc tụng Đại Thừa” trên đây, nếu mong hoằng pháp, nếu mong hóa độ chúng sanh, trước hết, chính ḿnh phải trọn đủ ba điều kiện vừa nói ấy. Đầu tiên là phải phát tâm; sau đấy, cầu tin sâu nhân quả, lại c̣n phải hiểu lư luận trong kinh văn.

          Tiếp đó, “khuyến tấn hành giả”. Khuyến () là khuyến cáo, dùng đủ mọi phương pháp để khuyên dạy kẻ khác. Tấn (): Người ta chẳng học Phật, hăy khuyên họ tiến nhập Phật môn. Đối với người đă nhập môn, lại khuyên họ càng thêm tinh tấn, càng tiến bộ hơn. Đó là Tấn. Chúng ta phát tâm, khuyên kẻ chẳng học Phật hăy tin Phật. Đối với người đă tin Phật bèn khuyên càng thêm tinh tấn. “Hành giả” (行者) là người tu hành. Chúng ta khuyên người khác như vậy, chính là chuyện Bồ Tát nên làm, tạo lợi ích cho người khác. Ba điều trước đó đều là tự lợi. Đă có cơ sở tự lợi, sau đấy mới nói đến chuyện lợi tha. Đối với những điều kinh văn đă dạy, hễ lưu tâm xem, sẽ biết ngay: Ắt là phải phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, hiểu rơ Phật lư; mấy điều này hết sức quan trọng. Nếu thiếu bất cứ điều nào, mà mong khuyên người khác đều rất đỗi khó khăn. Quư vị hăy tự ngẫm xem: Giả sử bản thân chúng ta thiếu khuyết ba điều ấy, đừng nói chi khác, chỉ nói theo phương diện nhân quả. Chẳng có quan niệm nhân quả, chính ḿnh vẫn chẳng tin nhân quả, làm sao chúng ta khuyên người khác cho được? Do vậy, ba điều trên đây hết sức trọng yếu. Có ba điều ấy, chánh tri chánh kiến đều đầy đủ, khuyên nhủ người ta mới có hiệu quả!

          Tôi đă nói xong ba điều ấy. Điều thứ nhất khởi đầu bằng hiếu, điều thứ hai khởi đầu bằng Tam Quy, điều thứ ba khởi đầu bằng phát Bồ Đề tâm, ba điều này hết sức trọng yếu. Sau đó, bèn tổng kết: “Như thử tam sự”, [nghĩa là] ba loại phước vừa nói trên đây, “danh vi Tịnh nghiệp”, gọi là “Tịnh nghiệp”. Nghiệp là ǵ? Nghiệp giống như nhân. Có cái nhân thanh tịnh ấy, trong tương lai, sẽ kết thành quả thanh tịnh; tu pháp môn Tịnh Độ được gọi là “tu Tịnh nghiệp”. Trước khi nói tới mười sáu phép Quán, bèn nói trước ba loại Tịnh nghiệp, khiến cho mọi người biết tu ba loại Tịnh nghiệp cũng là tu ba loại phước, ḥng giúp cho công phu chánh yếu; phải là chánh trợ song tu! Chỉ nói chánh công phu mà chẳng có trợ công phu, chánh công phu sẽ chẳng dấy lên nổi! V́ thế, trước hết là giảng ba loại Tịnh nghiệp này. Hôm nay, [giảng] tới đây là kết thúc.

 

Tập 15

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ sáu, bắt đầu từ câu thứ ba trong hàng thứ hai. Tôi đọc trước kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ? Thử tam chủng nghiệp, năi thị quá khứ, vị lai, hiện tại, tam thế chư Phật, tịnh nghiệp chánh nhân”.

()佛告韋提希:汝今知不?此三種業,乃是過去未來現在,三世諸佛,淨業正因。

(Kinh: Đức Phật bảo Vi Đề Hy: “Nay bà có biết hay không? Ba loại nghiệp ấy chính là chánh nhân tịnh nghiệp của quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời chư Phật”).

 

          Trong đoạn kinh văn này, sau khi đă nói xong ba loại phước (cũng là ba loại tịnh nghiệp), bèn nêu một kết luận nhỏ. Kết luận có tất cả ba đoạn, đoạn kinh văn này là đoạn thứ nhất, trong phần sau c̣n có hai đoạn nữa (cho đến “đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” mới hết). Sau đó, kế tiếp là nói về mười sáu phép Quán.

          “Phật cáo Vi Đề Hy”: Đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy: “Nhữ kim tri phủ?” Hiện thời, bà có biết hay không? “Thử tam chủng nghiệp”, ba loại nghiệp ấy (tức là ba loại phước nghiệp được nói trên đây), “năi thị quá khứ, vị lai, hiện tại, tam thế chư Phật, chánh nhân tịnh nghiệp” (chính là chánh nhân tịnh nghiệp của quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời chư Phật), hết sức trọng yếu! Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật hiện tại. Không chỉ là Phật hiện tại nói như vậy, mà chư Phật trong quá khứ cũng nói như vậy, Phật trong vị lai cũng vẫn nói như vậy. Do đó, ba loại nghiệp này đều là chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật!

          Đă là “tam thế chư Phật, tịnh nghiệp chánh nhân” (chánh nhân tịnh nghiệp của ba đời chư Phật), đương nhiên là hết sức trọng yếu! V́ ba đời chư Phật ắt đều phải tu ba loại tịnh nghiệp này; cho nên, đây chính là chánh nhân để thành Phật. V́ sao ba loại tịnh nghiệp này là chánh nhân của ba đời chư Phật? Đối với chữ Tịnh trong “tịnh nghiệp”, trước hết, chúng tôi phải giới thiệu thêm đôi chút.

          “Tịnh nghiệp”: “Tịnh” () là thanh tịnh. Thanh tịnh là ǵ? Chuyện chẳng tạp nhiễm là thanh tịnh. Ví như chúng ta làm việc thiện trong thế gian, làm hết thảy các thiện nghiệp đều chẳng có những dụng ư khác xen lẫn vào đó, thuần túy là làm việc thiện, chớ nên có bất cứ điều kiện ǵ. Thiện nghiệp thế gian là như thế, mà tŕ giới, phát Bồ Đề tâm, cho đến nhân quả v.v… ba loại nghiệp đều là thuần túy, chẳng xen lẫn bất cứ nhân tố nào khác, th́ gọi là “thanh tịnh”. Không xen tạp các nhân tố khác là ǵ? Tôi nêu một thí dụ nho nhỏ, nông cạn, gần gũi: Ví như chúng ta làm sự nghiệp từ thiện trong thế gian, quư vị dùng tiền bạc giúp đỡ người khác cũng thế, mà dùng năng lực của chính ḿnh để giúp đỡ người khác cũng thế, thuần túy là giúp đỡ. Trong tâm chớ nên nghĩ: “Sau khi ta bỏ ra tiền tài hoặc sức lực, trong tương lai, đối phương sẽ báo đáp ta điều tốt đẹp chi đó!” Nếu có tâm lư ấy, sẽ chẳng được coi là thanh tịnh. Chúng tôi nêu thí dụ này, những điều khác có thể suy ra. Thật sự thanh tịnh, những tâm lư khác đều chẳng có, thuần túy làm việc thiện là làm việc thiện, chẳng có bất cứ mong mỏi nào!

          Một điểm khác nữa, chúng ta phải hiểu rơ: Tịnh nghiệp đến mức rốt ráo sẽ phát xuất từ trong bản tánh mà ai nấy đều sẵn có (cũng là Phật tánh thành Phật); đó là Tịnh. Dùng thí dụ để nói, ví như đối với điều phước thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả”, dùng nhân quả để nói, nói đến cái nhân rốt ráo nhất, sẽ là cái nhân ǵ? Phải hiểu rơ: Chúng ta học Phật nhằm mục đích mong thành Phật. Thành Phật là quả (kết quả). Muốn kết thành Phật quả, ắt phải hiểu rơ cái nhân để thành Phật. Nhân ấy ở chỗ nào? Cái nhân ấy chính là phải nhận thức chính ḿnh. Có nhận thức chính ḿnh th́ mới có thể thành Phật. Chẳng nhận thức chính ḿnh, sẽ chẳng thể thành Phật (chẳng có lẽ nào thành Phật được)! Nhận thức điều ǵ nơi chính ḿnh? Nhận thức Chân Như bản tánh của chính ḿnh. V́ thế, nói đến nhân quả, nói thấu suốt đầu đuôi, nói đến chỗ rốt ráo, nhân quả hoàn toàn là Chân Như bản tánh! Do vậy, quư vị nói đến nhân, nói đến chủng tử, điều rốt ráo nhất là hiểu rơ chính ḿnh. “Vạn pháp duy tâm”, phải nhận thức chân tâm của chính ḿnh. Chẳng hiểu rơ điều này, chúng ta tin nhân quả, nhưng chẳng thể coi là “tin sâu nhân quả” được!

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă dạy: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc” (Cái nhân chẳng chân thật, sẽ chuốc lấy quả cong vạy). Khi chúng ta bắt đầu học Phật, chẳng phân biệt rơ ràng cái nhân chân thật, nếu mong đắc quả, sẽ khó khăn. Khó như thế nào? Đức Phật có nói một tỷ dụ: Ví như chúng ta nấu cơm, cơm chính là thành quả của việc nấu. Trước khi nấu cơm, nhân của cơm là ǵ? Nhân của cơm là gạo; ắt phải lấy gạo để nấu th́ mới có thể nấu thành cơm. Nếu dùng cát hoặc đá để nấu, nấu đến bao giờ mới có thể nấu thành cơm? Bất luận quư vị nấu kiểu nào, hễ nấu cát đá th́ cũng chẳng thể nấu thành cơm được! Cái nhân đă sai trật, sẽ chẳng thể có quả! Chúng ta thật sự tin sâu nhân quả, vừa khởi đầu bèn hiểu rơ: Sở dĩ Phật pháp bảo các tôn giáo khác là ngoại đạo là v́ ngoại đạo chẳng hiểu rơ cái nhân thành Phật, cho nên họ chẳng thể thành Phật. Thậm chí ngay cả liễu sanh tử mà c̣n chẳng làm được, họ chẳng nói đến chuyện tin tưởng nhân quả. Do vậy, người hiểu rơ chân quả, thật sự tin tưởng nhân quả, ắt phải hiểu cái tâm của chúng ta là “chân tâm vạn pháp duy tâm”. Đấy mới được coi là tin sâu nhân quả. Có thể hiểu rơ nhân và quả như vậy th́ tịnh nghiệp mới thanh tịnh!

          Căn cứ trên hai điều trọng yếu này, sau khi đă hiểu rơ tịnh nghiệp, chúng ta hăy xem lại tam phước trên đây. V́ sao tam phước được gọi là “Tịnh nghiệp”? Chúng ta tu tam phước trong Phật pháp sẽ chẳng giống kẻ b́nh phàm. Tu tam phước trong Phật môn, cũng phải tu cho đến mức độ liễu giải Phật pháp. Quư vị dùng tâm lư khác để tu tập, sẽ đạt được kết quả khác hẳn! Ví dụ như đối với thiện nghiệp thế gian “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát” đă nói trong phần trước, quư vị đă hiểu rơ ư nghĩa của tịnh nghiệp: Một là thuần túy, chẳng có bất cứ điều mong cầu nào; hai là nói đến chỗ rốt ráo, quư vị làm những thiện nghiệp ấy đều xuất phát từ bản tánh. Nếu không, trong Nhị Thập Tứ Hiếu, hiếu tử gặp phải cảnh hổ dữ sắp ăn thịt cha mẹ, đă chẳng màng đến thân, dũng mănh chống cự mănh hổ. Kết quả là mănh hổ đă bị người ấy dọa chạy mất! V́ sao? Khi ấy, hiếu tâm từ sức mạnh trong bản tánh của người ấy phát ra, khiến cho dă thú cảm động. Những người khác (những hiếu tử khác) [ḷng hiếu] cũng phát xuất từ bản tánh, quư vị hăy nghĩ xem! Hết thảy Hiếu và Từ đều là như thế.

Đối với phần thứ hai, [tức là] Tam Quy và thọ các giới, lại càng chẳng cần phải nói nữa. Đó là pháp xuất thế gian, càng là phát xuất từ bản tánh. Đối với phần thứ ba, phát Bồ Đề tâm, khi quư vị đă hiểu rơ tịnh nghiệp, hai chữ “tịnh nghiệp” chính là trọng điểm của ba điều trên đây. Giống như khi làm thơ, [hai chữ ấy] là “thi nhăn”[3]. Đă nắm vững “thi nhăn”, toàn thể ba điều trên đây đều sống động, quư vị sẽ thấy hết sức thâm nhập. V́ tông Thiên Thai nói bộ kinh này là Viên Giáo, mà trong Viên Giáo, hễ nói th́ sẽ nói tới mức độ thấu triệt nhất.

Ba đời chư Phật thành Phật ắt đều phải tu ba loại tịnh nghiệp này. Ba loại tịnh nghiệp ấy có mức độ khác biệt: Điều thứ nhất là pháp thế gian, điều thứ hai là hàng Nhị Thừa tu pháp xuất thế, điều thứ ba là pháp của Đại Thừa Bồ Tát. Khi bắt đầu tu, chỉ là những thiện sự trong thế gian, không bao gồm hai điều sau. Đă tu điều thứ nhất, khi tu đến điều thứ hai, có thể bao gồm điều thứ nhất. Lúc tu đến điều thứ ba, bao gồm cả hai điều trước. Tức là từ cạn tiến đến sâu, đă trọn đủ cơ sở nông cạn, sẽ từng bước một tu đến địa vị cuối cùng. Khi tu đến điều thứ ba, sẽ bao gồm toàn thể những điều trước. Điều này có ư nghĩa như thế nào? Chúng ta phải hiểu rơ: Tuy pháp môn tu hành của chư Phật rất cao, vẫn là bắt đầu tu từ pháp thế gian, dùng Hiếu và Từ của thế gian, dùng Thập Thiện Nghiệp để đặt vững cơ sở; sau đấy, từng bước tu lên cao hơn. Khi tu đến cuối cùng, những điều trước vẫn được bao gồm trong ấy, sau đấy mới viên dung. Đoạn này là đoạn thứ nhất nhằm tán thán ba loại tịnh nghiệp trên đây.

          Đoạn dưới đây chính là đoạn tán thán [chánh nhân tịnh nghiệp] thứ hai, tôi đọc kinh văn trước một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi. Như Lai kim giả, vị vị lai thế nhất thiết chúng sanh, vị phiền năo tặc chi sở hại giả, thuyết thanh tịnh nghiệp. Thiện tai, Vi Đề Hy, khoái vấn thử sự”.

()佛告阿難,及韋提希:諦聽諦聽,善思念之。如來今者,為未來世一切眾生,為煩惱賊之所害者,說清淨業。善哉,韋提希,快問此事。

(Kinh: Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Lắng nghe! Lắng nghe! Hăy khéo suy niệm! Như Lai nay sẽ v́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai [là những kẻ] bị giặc phiền năo làm hại, nói nghiệp thanh tịnh. Lành thay Vi Đề Hy! Bà khéo hỏi chuyện này”).

 

          “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. Trước hết, bảo hai vị ấy hăy “đế thính”. “Đế thính” là ǵ? Chữ Đế () có nghĩa là phải vận dụng tâm tư, chuyên tâm lắng nghe. Lại c̣n phải nghe cho rành mạch, chẳng qua loa chút nào, toàn tâm dốc hết tinh thần lắng nghe, gọi là “đế thính”. Lại nói “đế thính” thêm một lần nữa, ḥng nhấn mạnh, tăng thêm ư nghĩa của từ ngữ ấy! Phải lắng nghe, nghe cho kỹ lưỡng! Nghe như vậy vẫn chưa phải là xong, trong khi nghe, c̣n phải “thiện tư niệm chi”, [nghĩa là] ngoài chuyện nghe ra, c̣n phải khéo suy nghĩ. “Tư” () là công phu suy xét, suy lường, chữ Thiện xuyên suốt hai chữ tiếp theo, tức là “thiện tư”“thiện niệm”. Ngoài việc khéo tư duy cặn kẽ ra, c̣n phải khéo niệm. Niệm là ǵ vậy? Niệm là chánh thức dụng công tu tập.

 Trong câu “đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi”, “thính” () là nghe, tức là dùng tai để nghe, Tư là dùng tâm để suy nghĩ, Niệm là tu hành. Đấy chính là cái được Phật gọi là Văn, Tư, Tu Tam Huệ! V́ sao gọi Văn, Tư, Tu là Tam Huệ? Huệ là trí huệ; chúng ta học bất cứ loại học vấn thế gian nào, cũng đều phải vận dụng trí huệ thông minh. Chẳng có thông minh trí huệ, học vấn thế gian sẽ chẳng học đến nơi, đến chốn! Phật pháp cao sâu như thế, cũng là học vấn rốt ráo nhất, chẳng có trí huệ, sẽ chẳng học được! V́ thế, đối với Phật pháp, bất luận là nghe pháp cũng thế, mà khi tư duy cũng thế, chánh thức dụng công tu tŕ cũng thế, đều phải cậy vào trí huệ! V́ thế, hai câu này là nói đến Văn, Tư, Tu Tam Huệ. Làm thế nào th́ mới có thể đắc Tam Huệ? Khi nghe th́ phải lắng nghe, khi tư niệm phải dùng chữ Thiện, phải chú ư hai chữ này! Cũng có nghĩa là khi nghe, phải dốc toàn bộ tinh thần để nghe; khi Tư, khi Niệm, ắt cần phải dùng chữ Thiện.

          Đối với chữ Thiện này, có khi dùng chữ Diệu (); Nho gia thường dùng chữ Thiện. Ở đây, [kinh Phật] cũng dùng chữ Thiện. Chữ Thiện nói tới tầng cảnh giới cao nhất, sẽ tiến nhập cảnh giới Diệu. Vậy th́ trong khi chúng ta suy xét, trong khi tu tŕ, đều phải khéo dùng cái tâm niệm của chính ḿnh. Chuyện này phải cậy vào sự luyện tập trong thường nhật, chẳng phải là lập tức có thể làm ngay được! V́ sao chẳng thể làm được ngay lập tức? Đối với lư luận Phật pháp, nói chung là phải có sự thấu hiểu, sau đấy mới có thể vận dụng. Nếu đối với lư luận Phật pháp mà chẳng hiểu biết chút ǵ, vận dụng bằng cách nào? Do vậy, bước đầu tiên là phải có sự thấu hiểu lư luận kha khá! Sau khi đă thấu hiểu lư luận, trong khi suy xét hoặc dụng công, vẫn là phải chuyên tâm, chớ nên xen lẫn những tạp niệm khác. Đó là “thuần thiện”. Nho gia cũng nói “thuần thiện”, thuần túy, chẳng xen lẫn bất cứ tạp niệm nào khác. Vận dụng công phu như vậy, sẽ hợp với Định, đă có công phu định lực kha khá, có thể phát huy sức mạnh. V́ thế, bất luận trong khi chúng ta nghe, hay suy nghĩ, hay niệm, chính ḿnh đều phải có định lực kha khá. Dùng niệm Phật để nói, niệm Phật th́ phải niệm như thế nào mới là tốt đẹp? Chính là ư niệm của chính ḿnh chẳng rong ruổi tán loạn. Chẳng rong ruổi tán loạn th́ phải là định lực kha khá th́ mới có thể làm được. Những điều này đều phải cậy vào sự dụng công trong thường nhật. Đó gọi là “thiện tư, thiện niệm”. Nói “biết vận dụng công phu” nghĩa là bất luận chúng ta làm chuyện ǵ, đều phải tập trung tinh thần, chớ nên tán loạn, như vậy th́ mới có thể nắm vững chữ Đế và chữ Thiện. Dụng công như vậy, tự nhiên trí huệ Văn, Tư, Tu sẽ phát xuất!

          Nói đến sự chuyên tâm, có công phu Định lực, phải nhờ vào chúng ta đă hiểu rơ. Trong phần trước, đă nói là đối với Phật pháp, chúng ta phải hiểu rơ định lực phát xuất từ nơi đâu? Chúng ta phải thấy cho rơ ràng: Nếu thật sự thiện tư, thiện niệm, sẽ chẳng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài. V́ sao chẳng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài? Có không ít người học Phật, nghĩ: “Hăy nh́n vào hiện tại là thời đại ǵ mà vẫn phải tŕ lắm giới như thế?” Lấy chuyện làm lành để nói: “Hiện thời, trên khắp thế giới, có ai chẳng v́ lợi ích riêng tư của cá nhân ḿnh, nhấn mạnh quyền lợi cá nhân? Ai chịu thật sự làm việc thiện? Chỉ sợ tiền người ta chẳng lọt vào tay chúng ta! Chúng ta cầu c̣n chưa được, lại c̣n dùng rất nhiều tiền để giúp kẻ khác, làm rất nhiều thiện sự ư?” Chúng ta nhất loạt chẳng màng đến những lời lẽ đó, bất luận ḷng người trong thế gian hóa thành xấu ác đến mức độ nào, cũng chẳng cần biết kẻ khác tu tŕ theo cách nào, tu thuần túy cũng thế, mà chẳng tu thuần túy cũng thế, hết thảy đều chẳng màng tới! Chúng ta y pháp, chẳng y nhân. Phật pháp dạy như thế nào, bèn làm theo đúng như thế ấy. V́ sao? Học Phật liễu sanh tử là để liễu sanh tử cho chính ḿnh, thành Phật th́ cũng là v́ chính ḿnh mà thành Phật. C̣n như làm việc thiện, thọ giới, phát Bồ Đề tâm, nhân quả v.v… bất luận kẻ khác trông thấy hay không, chính ḿnh hiểu rơ: Nếu chẳng đúng pháp, trái pháp, chính ḿnh phải sám hối ngay lập tức. Chính ḿnh thực hiện tốt đẹp, kẻ khác chẳng biết tới, vẫn cứ làm như vậy, chẳng cần để cho người khác biết. V́ sao? Đều nhằm tu bản tánh, khiến cho bản tánh khai phát, đối với người khác chẳng có quan hệ chi cả! Đă hiểu rơ tầng [ư nghĩa] này, chúng ta sẽ chẳng nói: “Hoàn cảnh hiện thời chẳng tốt đẹp dường ấy, chúng ta c̣n học Phật để làm chi?” Chính ḿnh ngă ḷng! Ngă ḷng th́ chính ḿnh bị thua thiệt! Bất luận người ta như thế nào, chính chúng ta cứ tiếp tục tấn tu, tiếp tục nghiên cứu. Đó gọi là “đế thính, đế thính, thiện tư, thiện niệm”, chẳng bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều ǵ bên ngoài. Đáng nên tu như thế nào, bèn tu như thế ấy, đó là Thiện. Có thể làm như vậy, chớ nên bị ảnh hưởng bởi thời đại, đừng bị ảnh hưởng bởi những kẻ khác đang làm những chuyện chẳng đúng pháp, chúng ta đă có định lực kha khá. Chúng ta Văn cũng thế, mà Tư cũng thế, Tu (niệm) cũng thế, sẽ có thể có những công phu nho nhỏ hiển lộ, có trí huệ!

          Tiếp đó, đức Phật bèn nói: “Như Lai kim giả, vị vị lai thế nhất thiết chúng sanh, vị phiền năo tặc chi sở hại giả, thuyết thanh tịnh nghiệp” (nay Như Lai sẽ v́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai [tức là những kẻ bị] giặc phiền năo làm hại mà nói nghiệp thanh tịnh). Thích Ca Mâu Ni Phật rất từ bi! Pháp này vốn do phu nhân Vi Đề Hy thỉnh cầu đức Phật nói ra: “Làm thế nào để có thể đến thế giới Cực Lạc?” Tuy đức Phật đáp ứng lời thỉnh cầu của phu nhân Vi Đề Hy, giảng cho bà ta, nhưng lúc này, đức Phật nói: “Như Lai” (ư nói chính đức Phật) nay chẳng phải chỉ v́ phu nhân Vi Đề Hy mà nói, mà cũng là v́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai, kể từ thời Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến hiện thời (cũng là lũ chúng sanh chúng ta trong thời hiện tại), hết thảy chúng sanh đều được bao gồm trong ấy.

          Nay chúng tôi đang ở thành phố Đài Trung của Đài Loan giảng bộ kinh này, đức Phật quá từ bi! Trong tâm Ngài, trọn chẳng phải chỉ là v́ đạo tràng của chúng ta ở Đài Trung mà giảng, mà là bao la tất cả chúng sanh! Đài Loan, Trung Hoa Đại Lục, nhân sĩ mỗi nước trên toàn cầu đều ở trong tâm đức Phật, đấy mới là “hết thảy chúng sanh”. Không chỉ là chúng sanh thuộc về nhân loại, mà c̣n bao gồm chúng sanh thuộc loài vật. Nếu chúng nó hiểu, có thể nghe pháp môn Niệm Phật, cũng có thể lập tức văng sanh. Do đó, có thể nói là ḷng từ bi của đức Phật vô lượng vô biên.

          “Vị vị lai thế nhất thiết chúng sanh” (V́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai), đức Phật đă sớm dự liệu t́nh h́nh của chúng sanh trong hiện tại. Nay chúng ta hăy xem, t́nh h́nh của chúng sanh trong hiện tại là như thế nào? “Vị phiền năo tặc chi sở hại giả” (Bị giặc phiền năo làm hại): Chúng ta ngẫm xem, chúng sanh thuộc nhân loại trong hiện thời, có chúng sanh nào chẳng phải bị phiền năo hăm hại? V́ sao gọi phiền năo là “giặc”? Phiền năo giống như giặc cướp. Giặc cướp chuyên môn cướp đoạt đồ đạc của người ta, chẳng để cho chúng nó cướp, chúng nó sẽ giết chết người bị cướp. Giặc cướp là như vậy đó! Hiện thời, rất nhiều gă cường đạo đă cướp tiền c̣n giết người. Gă trộm vặt vào nhà trộm đồ, bị chủ nhân phát hiện, vốn là một tên trộm vặt, vừa bị phát hiện liền biến thành cường đạo, lỡ tay bèn giết chết chủ nhân. Quư vị ngẫm xem trong thời đại này, giặc là như vậy đó. Phiền năo và giặc gây hại cho chúng ta y hệt. Kẻ b́nh phàm có tiền tài bị giặc cướp trộm, đó là từ bên ngoài đến. Ở đây, “tặc” mang ư nghĩa tỷ dụ, nó đến trộm cướp, tổn hại chúng ta nghĩa là ǵ? Bọn chúng sanh chúng ta trừ sanh mạng ra, c̣n có một thứ đáng quư hơn nữa là “huệ mạng”. Sanh mạng là thứ hư giả do nhân duyên ḥa hợp. Trí huệ, huệ mạng mới là Chân Ngă. Nếu nói sâu xa hơn nữa, chúng ta đều có Pháp Thân (trên thực tế, Pháp Thân là Chân Như bản tánh). Cái đáng quư nhất của bọn chúng sanh chúng ta là Chân Ngă, tức là Pháp Thân huệ mạng. Trí huệ nơi huệ mạng chính là tác dụng phát khởi từ Pháp Thân. “Pháp Thân là Thể, huệ mạng là tác dụng”. Cái Thể và cái Dụng ấy mới là Chân Ngă thật sự.

          Phiền năo nếu nói cặn kẽ, sẽ rất nhiều, nói đơn giản là tham, sân, si. Tham là tham cầu hết thảy mọi thứ. Sân hận: Tham cầu chẳng được liền nổi cáu, dấy tâm sân hận. Si là ngu si, chẳng hiểu rơ chính ḿnh, chẳng hiểu Chân Ngă, chỉ chấp trước Giả Ngă, bất cứ chuyện và đạo lư nào trên thế gian cũng đều chẳng hiểu rơ. Đó là tham, sân, si. Những phiền năo khác c̣n có rất nhiều; trước hết, hăy nói đến ba điều này! Hăy ngẫm xem! Những thứ ấy đều là phiền năo. Có những phiền năo ấy, lúc bất cứ phiền năo nào dấy lên, chúng cũng đều ngăn lấp huệ mạng Pháp Thân, khiến cho nó chẳng thể phát khởi tác dụng. Người b́nh phàm thường nói “huệ” là trí huệ. Con người chuộng cầu lợi ích, tham luyến đủ mọi thứ danh lợi và tiện lợi đến nỗi trí óc tối tăm. Một kẻ tham lợi, do quá tham lam, khiến cho trí huệ của kẻ đó hôn trầm, chẳng thể phát khởi được, chẳng thể phát huy tác dụng. Đó gọi là “thấy lợi tối mắt”. Do vậy có thể biết: Hễ dính vào những phiền năo tham, sân, si v.v… chúng ta há có trí huệ ư? Chẳng có trí huệ, huệ mạng đă đi về đâu mất rồi? Huệ mạng ẩn kín, chẳng phát sanh tác dụng. V́ thế, trong lục đạo, qua qua lại lại, chết nơi kia, sanh nơi đây, chết nơi đây, sanh nơi nọ, chẳng ở trong nhân gian bèn vào tam đồ, chẳng phải là súc sanh th́ là địa ngục, chịu khổ dài lâu dường ấy! Ở trong nhân gian, nhân gian cũng chẳng có ǵ dễ chịu!

          Hăy ngẫm xem: Trong thời đại này, chẳng có chuyện ǵ là vui! Dẫu có tiền, sống ở Đài Loan, chính ḿnh có xe, cả nhà lái chiếc xe du lịch đến nơi có phong cảnh đẹp, lên núi du ngoạn. Trời mưa to một trận, xe chạy đến nơi ấy, núi bị lở toàn bộ, chôn vùi toàn thể chiếc xe, vui quá hóa buồn! Đó là t́nh huống trong thế gian chúng ta, huống hồ c̣n có những kẻ chẳng có xe, chẳng có cuộc sống thong dong, an nhàn như vậy, vẫn phải suốt ngày ở bên ngoài đầu tắt mặt tối, bươn bả v́ cuộc sống. Do vậy, hăy nghĩ xem, trong lục đạo, ngoài cơi trời ra, kể như nhân đạo cũng khá lắm, [thế mà] vẫn có lắm nỗi đau khổ ngần ấy! Hăy ngẫm xem, chẳng thể nào không thoát khỏi lục đạo! Chẳng thoát khỏi lục đạo, chẳng thể liễu sanh tử, là do bị phiền năo chướng ngại. Phiền năo rất giống giặc cướp, ngăn lấp huệ mạng, che lấp Pháp Thân của chúng ta, khiến cho nó chẳng thể khởi tác dụng. Phiền năo giống như giặc, nó cướp đoạt tài sản của chúng ta. Do vậy, “vị phiền năo tặc chi sở hại giả” (là người bị giặc phiền năo làm hại). Hăy xem trong thế giới hiện thời, chẳng cần nói tới những người thông thường, [ngay cả] những nhà giáo dục trên toàn cầu, đều dạy kẻ khác tham cầu danh vọng, tham cầu quyền lợi cho chính ḿnh, tất cả những nhà đại giáo dục đều dạy người khác tham danh ham lợi. Hăy ngẫm xem, tham đến cùng cực, đều khiến cho giặc phiền năo ngăn lấp, đánh mất huệ mạng và Pháp Thân của chính ḿnh, vĩnh cửu qua lại trong lục đạo giống như trong t́nh huống hiện thời. Sau khi một đời này đă hết, có c̣n muốn sanh vào nhân gian nữa hay không? Dẫu nhân gian không tốt, đời sau vẫn muốn sanh vào nhân gian th́ cũng chẳng chắc ăn đâu nhé, nhưng sanh vào tam đồ th́ có thể đảm bảo!

          Tôi vừa mới nêu thí dụ: Lái xe đến một nơi có phong cảnh đẹp. Đó là sự thật, mọi người xem TV sẽ biết ngay! Trận băo lốc[4] lần này, trên quốc lộ Nam Hoành phát sanh núi lở, có tới mấy chiếc xe bị chôn vùi trong ấy, thê thảm như thế đó! Hết sức đáng buồn! Trước đó, Bành Hồ[5] phát sanh tai nạn trên biển, bao nhiêu người vùi thây trong biển! Đều vốn là chuyện vui sướng, chẳng ngờ từ chuyện vui sướng phát sanh chuyện bi thảm. Nêu lên thí dụ này, ḥng nói rơ chúng ta ở trong nhân gian chẳng có chuyện vui sướng thật sự, ngơ hầu chúng ta hiểu thêm một chút. Càng về sau, t́nh h́nh chúng sanh bị giặc phiền năo hăm hại càng sâu nặng, chướng ngại càng nặng nề! V́ sao? Thời đại càng về sau, tâm lư của mọi người càng hóa thành ác nghiệt, đó là ác tánh tuần hoàn. Tà tri tà kiến đặc biệt nhiều, những kẻ phát biểu tà tri tà thuyết xúi giục mọi người hướng theo đường hướng tranh đoạt danh lợi. Càng tranh đoạt danh lợi, phiền năo càng nặng nề! Khi phiền năo càng nặng nề, chướng ngại cũng càng nặng nề, càng chẳng thấy rơ chính ḿnh, chấp trước Giả Ngă, chẳng thấy Chân Ngă nữa! V́ thế, những kẻ b́nh phàm trong hiện thời bị giặc phiền năo làm hại có thể nói là hết sức nghiêm trọng, nghiêm trọng đến mức độ nào? Chẳng cần nói tới người thế gian, người học Phật trong Phật môn thường là nh́n vào trạng huống của xă hội và thời đại, cũng học Phật không nổi nữa, mà học đ̣i phong khí trong xă hội! V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Vị vị lai thế” (V́ đời vị lai). Ba chữ “vị lai thế” hết sức quan trọng, xuyên suốt từ thời đức Thế Tôn thuyết pháp cho đến hiện tại. Tổ sư chú giải hay quá! Thích Ca Mâu Ni Phật đă sớm thấy rơ ràng, rành rẽ, người hiện thời đang bị những thứ ấy gây hại, Ngài nói ba loại tịnh nghiệp trên đây chính là v́ chúng ta mà nói!

          Trong một câu dài như thế, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo: Nay đức Như Lai v́ hết thảy chúng sanh trong đời vị lai (tức là hết thảy các chúng sanh bị giặc phiền năo làm hại. Nay chúng ta thấy rất rành rẽ, bao gồm chúng ta trong đó, đều là những kẻ bị giặc phiền năo làm hại), đức Phật đối với những chúng sanh ấy “thuyết thanh tịnh nghiệp” (nói nghiệp thanh tịnh), tức là ba thứ tịnh nghiệp vừa nói trên đây. Tổ sư chú giải: Kể từ sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ măi cho đến hiện tại, măi cho đến mai sau, nếu đức Phật không nói ba loại tịnh nghiệp ấy, kẻ học Phật trong hiện thời sẽ chẳng có thành tựu. [Người hành theo] pháp môn b́nh phàm nếu chẳng tu ba thứ tịnh nghiệp ấy, sẽ tuyệt đối chẳng thể thành tựu, điều ấy chẳng cần phải nói nữa! [Hành nhân tu] pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ Tông mà chẳng tu ba thứ tịnh nghiệp ấy, đừng nói là tu các phép Quán trong Quán Kinh, tu Quán [mà chẳng tu ba thứ Tịnh nghiệp ấy] chắc chắn là tu chẳng được, dẫu tŕ danh niệm Phật, cũng nhất định là chẳng niệm ra hồn! Quư vị nghĩ xem, chúng ta làm những chuyện như vậy, nếu chẳng có ba loại tịnh nghiệp ấy biến đổi tâm lư, sửa đổi hành vi của chúng ta, chúng ta sẽ suốt ngày làm những chuyện tham danh cầu lợi, tổn người lợi ḿnh ở bên ngoài, trở về nhà niệm Phật (niệm A Di Đà Phật). Hôm nay ta niệm Phật đă xong, tâm ta b́nh an, ngày hôm nay cũng chẳng có tội lỗi ǵ! Ngày mai đi ra ngoài lại tạo những ác nghiệp ấy, quay về lại niệm Phật, quư vị ngẫm xem! Niệm Phật kiểu đó có tốt đẹp được chăng? Có thể đạt đến nhất tâm bất loạn hay không? Do vậy, nhất định là phải tu ba tịnh nghiệp. Nói cách khác, ba loại tịnh nghiệp ấy giúp chúng ta niệm Phật. Có ba loại tịnh nghiệp ấy, đă đặt vững cơ sở, mới có thể niệm Phật tốt đẹp được!

          Hai câu tiếp theo chính là một đoạn tán thán, tán thán tịnh nghiệp. “Thiện tai, Vi Đề Hy! Khoái vấn thử sự”, v́ phu nhân Vi Đề Hy trong phần trước đă chọn lựa: Thích Ca Mâu Ni Phật tỏa ánh sáng, từ trong quang minh hiện ra bao nhiêu thế giới tốt đẹp để phu nhân Vi Đề Hy lựa chọn. Phu nhân Vi Đề Hy chọn trúng Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau khi đă chọn trúng, bèn mong muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau đấy, thỉnh cầu Thích Ca Mâu Ni Phật dạy cho bà ta biết văng sanh bằng cách nào, thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật dạy bà ta phương pháp. Do đó, trước tiên, Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra ba loại tịnh nghiệp này. V́ thế, “thiện tai, Vi Đề Hy”, “thiện tai” chính là [đức Phật] tán thán phu nhân Vi Đề Hy, bà thật sự giỏi quá! Khá lắm! “Khoái vấn thử sự” (Khéo hỏi chuyện này), chữ “khoái” () trong “khoái vấn” có nghĩa là vui sướng, là lời hỏi [khiến người được hỏi] hết sức vui thỏa, câu hỏi hết sức tốt đẹp (bà hỏi rất hợp tâm ư ta, khiến cho tâm ta vui sướng, hỏi đúng ngay điều ta đang muốn nói). Đó gọi là “khoái tai” (sung sướng thay)! Sung sướng v́ đă hỏi về chuyện ǵ? Hỏi làm thế nào để sanh về thế giới Cực Lạc? Dùng phương pháp nào ḥng có thể văng sanh? Câu hỏi này hay quá! Do vậy, gọi là “khoái tai vấn” (câu hỏi khiến cho người được hỏi vui sướng). “Khoái vấn thử sự” là tán thán phu nhân Vi Đề Hy hỏi hết sức hay!

          Dưới đây là phần thứ ba của lời kết thán (kết luận, khen ngợi), mà cũng là đoạn cuối cùng khen ngợi ba loại tịnh nghiệp. Trước hết, tôi đọc kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) A Nan! Nhữ đương thọ tŕ, quảng vị đa chúng, tuyên thuyết Phật ngữ. Như Lai kim giả, giáo Vi Đề Hy, cập vị lai thế nhất thiết chúng sanh, quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dĩ Phật lực cố, đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ. Như chấp minh kính, tự kiến diện tượng. Kiến bỉ quốc độ cực diệu lạc sự, tâm hoan hỷ cố, ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          ()阿難,汝當受持,廣為多眾,宣說佛語。如來今者,教韋提希,及未來世一切眾生,觀於西方極樂世界。以佛力故,當得見彼清淨國土。如執明鏡,自見面像。見彼國土極妙樂事,心歡喜故,應時即得無生法忍。

(Kinh: Này A Nan! Ông hăy nên thọ tŕ, hăy rộng v́ nhiều chúng sanh tuyên nói lời Phật. Nay Như Lai sẽ dạy Vi Đề Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai, quán Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do nhờ vào Phật lực, sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng, tự thấy mặt ḿnh, thấy những sự vui mầu nhiệm tột bậc trong cơi nước ấy, do tâm hoan hỷ, bèn ngay lập tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

          Trước hết, chúng ta hăy “tiêu văn” (消文, giải thích văn tự). Đối với những ư nghĩa trong ấy, nếu chẳng đủ thời gian, sẽ nói bổ sung trong lần sau. Trước hết, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan: “A Nan, nhữ đương thọ tŕ”, ông hăy nên tiếp nhận pháp môn này, tức là ba thứ tịnh nghiệp trong phần trước. “Thọ” () là tiếp nhận. Tŕ () là ǵ? Một mực ǵn giữ, tu theo pháp môn này, chớ nên buông bỏ; đó gọi là “thọ tŕ”. Chính ông thọ tŕ vẫn c̣n chưa phải là đă hết chuyện! V́ tôn giả A Nan là người đa văn bậc nhất. Những kinh điển sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ đều cậy vào tôn giả A Nan đọc thuộc ḷng, được sự chứng minh của đại chúng, sau đấy, mới ghi chép thành văn tự. Đó là kinh Phật. V́ thế, đức Phật bảo Ngài: “Ông phải thọ tŕ”. “Quảng vị đa chúng” nghĩa là phổ biến cho nhiều chúng sanh (chúng sanh không chỉ là một loài! Không chỉ là một cá nhân, mà c̣n có khá nhiều loài chúng sanh). “Tuyên thuyết Phật ngữ”: Hướng về họ nói ra toàn bộ những lời lẽ của đức Phật, đó là Thánh Ngôn Lượng. Tuyên thuyết Phật ngữ chẳng phải là đơn giản như vậy! Ví như phàm nhân chúng ta khi tuyên bố, truyền đạt một chuyện ǵ, vẫn có thể là tuyên bố, truyền đạt sai lầm. V́ sao? V́ đấy chẳng phải là chuyện của chính họ, huống hồ tuyên nói Phật ngữ [mà mong tránh khỏi, chẳng phạm sai lầm ư?] V́ sẽ tuyên nói Phật ngữ, cho nên trước đó, có nói “nhữ đương thọ tŕ” (ông hăy nên thọ tŕ). Nếu chẳng thọ tŕ mà tuyên thuyết Phật ngữ, sẽ chẳng thể thốt nên lời! Hiện thời, có khá nhiều kẻ nghĩ: Cứ xem kinh Phật (rất nhiều vị học giả cứ ngỡ chính ḿnh chữ nghĩa rất giỏi, giở kinh điển ra xem [là thông hiểu ngay]), xem xong, cũng phát biểu hoặc sử dụng văn chương để hướng ra ngoài tuyên truyền. Thưa cùng các vị, đối với loại tuyên truyền ấy, đừng thấy họ rất có tiếng tăm [mà vội vă tin theo]! Nếu xét theo những lời họ nói, nếu xét theo hành vi của chính họ, [nhận thấy] họ chẳng hề tu tŕ, sẽ chẳng thể tin cậy được! Văn chương do họ viết, lời lẽ do họ nói, đều chẳng phải là Phật ngữ, mà là lời lẽ phàm phu! Quư vị hăy ngẫm xem, tôn giả A Nan đích thân theo học với đức Phật, đức Phật vẫn bảo ngài A Nan: Chỉ nghe suông th́ vẫn chẳng thấm vào đâu, vẫn là phải thọ tŕ. Sau khi đă thọ tŕ, có công phu, thật sự làm được, đối với Phật ngữ mới có thể thật sự thông hiểu, sau đấy ghi chép lại th́ mới đáng tin cậy!

 

IV.2.1.7. Vô Sanh Pháp Nhẫn

 

          Kế đó, Thích Ca Mâu Ni Phật nói: “Như Lai kim giả” (Nay đức Như Lai), nay ta, “giáo Vi Đề Hy, cập vị lai thế nhất thiết chúng sanh” (dạy Vi Đề Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai), dạy họ điều ǵ? Dạy họ “quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới” (quán Tây Phương Cực Lạc thế giới), [tức là sẽ nói nội dung của] mười sáu phép Quán trong phần sau. Quán Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng dễ ǵ quán được! “Dĩ Phật lực cố”, do sức Phật của ta, “đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ” [nghĩa là] cậy vào sức Phật của ta, cho nên có thể thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Như chấp minh kính” (Như cầm gương sáng), nói tỷ dụ, giống như một người chẳng thấy mặt ḿnh, bèn cầm gương soi, “tự kiến diện tượng” (tự thấy vẻ mặt), có thể thấy khuôn mặt của chính ḿnh. “Kiến bỉ quốc độ cực diệu lạc sự” (Thấy những chuyện vui tột bậc mầu nhiệm trong cơi nước ấy). Chỉ cần vừa thấy sự vui mầu nhiệm tột cùng trong thế giới Cực Lạc, “tâm hoan hỷ cố” (do tâm hoan hỷ), trong tâm liền phát sanh niềm hoan hỷ, “ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” (ngay lập tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn). Hễ tâm hoan hỷ bèn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trong lần sau, sẽ nói ư nghĩa trong đoạn này. Hôm nay, tôi nói đến chỗ này là ngưng!

 

Tập 16

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ sáu, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Trước tiên, đọc kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) A Nan! Nhữ đương thọ tŕ, quảng vị đa chúng, tuyên thuyết Phật ngữ. Như Lai kim giả, giáo Vi Đề Hy, cập vị lai thế nhất thiết chúng sanh, quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dĩ Phật lực cố, đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ. Như chấp minh kính, tự kiến diện tượng. Kiến bỉ quốc độ cực diệu lạc sự, tâm hoan hỷ cố, ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.

          ()阿難,汝當受持,廣為多眾,宣說佛語。如來今者,教韋提希,及未來世一切眾生,觀於西方極樂世界。以佛力故,當得見彼清淨國土。如執明鏡,自見面像。見彼國土極妙樂事,心歡喜故,應時即得無生法忍。

(Kinh: Này A Nan! Ông hăy nên thọ tŕ, hăy rộng v́ nhiều chúng sanh tuyên nói lời Phật. Nay Như Lai sẽ dạy Vi Đề Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai, quán Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do Phật lực, sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy, như cầm gương sáng tự thấy mặt ḿnh, thấy những sự vui mầu nhiệm tột bậc trong cơi nước ấy, do tâm hoan hỷ, bèn ngay lập tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn).

 

          Trong phần trước, [quư vị đă thấy trong phần chánh kinh], sau khi nói xong ba loại tịnh nghiệp, bèn có ba tiểu đoạn tán thán phu nhân Vi Đề Hy đă thỉnh cầu Phật khai thị ba loại tịnh nghiệp. Đối với ba tiểu đoạn ấy, lần trước đă nói xong hai tiểu đoạn đầu, đoạn kinh vừa mới niệm [trên đây] chính là tiểu đoạn thứ ba. Trong buổi trước, tôi cũng đă giảng xong ư nghĩa văn tự của đoạn này, nhưng đối với những nghĩa lư trong ấy, hôm nay phải nói bổ sung đôi chút.

          Trong đoạn kinh văn này, chúng ta phải chú ư: Vừa khởi đầu, đức Phật liền bảo tôn giả A Nan phải “thọ tŕ”, sau đấy, phổ biến v́ rất nhiều chúng sanh “tuyên thuyết Phật ngữ”. Đối với chuyện tuyên thuyết Phật ngữ, điểm đặc biệt cần chú ư là phải thọ tŕ! Chẳng thọ tŕ, làm sao có thể tuyên thuyết cho được? Tuy có thể ghi chép lời Phật, nhưng chính ḿnh ắt phải có tu tŕ, có công phu kha khá, sau đấy mới tuyên nói, mới sẽ chẳng phạm sai lầm. Chúng ta phải biết điều này. V́ sao? Hiện thời là thời đại Mạt Pháp trong Phật pháp, chúng ta ở Đài Trung th́ vẫn c̣n khá, chứ ở những nơi khác, đạo lư này chẳng được hiểu rơ ràng cho lắm. Nhất là trong giới học thuật, cứ tưởng là chính ḿnh xem kinh, xem sách vở nhà Phật, sau đấy [có thể] viết văn, diễn thuyết [tùy ư]. Đối với những ǵ họ đă viết, đă nói, chúng ta phải hỏi: “Kẻ ấy có từng thọ tŕ hay chưa?” [Nếu là] chưa hề thọ tŕ, bất luận kẻ ấy viết nhiều cách mấy, đều chẳng phải là thuần túy. Nói năng lại càng chẳng đáng để bàn tới! V́ thế, nhất định là phải chính ḿnh thọ tŕ! Hơn nữa, [thuở Phật tại thế], đức Phật nói với tôn giả A Nan, tôn giả A Nan tự ḿnh tiếp nhận [pháp môn] từ đức Phật rồi tu tŕ, cũng chẳng phải là [ngài A Nan] tự xem xong bèn hiểu ngay! Chúng ta phải hiểu rơ điều này! “Thọ tŕ” phải tùy thuộc quư vị đang học pháp môn nào, quư vị thọ tŕ pháp môn ấy. Ví như nói: Ta thọ tŕ pháp môn này, chẳng thể tuyên truyền những pháp môn khác. Chẳng hạn như: Chúng ta chẳng thọ tŕ pháp môn Niệm Phật, sẽ tuyên thuyết pháp môn Niệm Phật theo kiểu nào đây? Ắt phải là đă thọ tŕ pháp môn Niệm Phật. Người đă từng niệm Phật, sẽ tự biết niệm Phật có thể nẩy sanh những vấn đề ǵ, làm thế nào th́ mới có thể niệm Phật tốt đẹp? Tín - Nguyện - Hạnh được kiến lập như thế nào? Sau đấy mới có thể khuyên bảo người khác tu tŕ pháp môn này. Điều này có nghĩa là muốn tuyên thuyết một pháp môn nào, nhất định là phải đă từng thọ tŕ pháp môn ấy!

          Đức Phật dạy tôn giả A Nan thọ tŕ điều ǵ? Tiếp đó, [đức Phật] bèn nói: “Như Lai kim giả” (nay Như Lai), Như Lai là chữ đức Phật dùng để tự xưng, ta nay dạy phu nhân Vi Đề Hy, “cập vị lai thế nhất thiết chúng sanh” (cùng hết thảy chúng sanh trong đời vị lai). “Đời vị lai” chẳng có hạn lượng, từ thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến hiện tại, cho đến vị lai, trải qua [các giai đoạn] Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp. Nhất là trong thời đại Mạt Pháp hiện thời, hết thảy chúng sanh chẳng học Phật, chẳng cầu liễu sanh tử th́ thôi. Nếu mong học Phật, nếu mong liễu sanh tử, mà chẳng học pháp môn này, tuyệt đối là sẽ chẳng thực hiện được (cái “chẳng thể thực hiện” ở đây chính là nói tới chuyện liễu sanh tử ngay trong đời này). Muốn liễu sanh tử và thành tựu ngay trong đời này, nhất định phải học pháp môn này. Do đó, đức Phật dạy phu nhân Vi Đề Hy và hết thảy chúng sanh trong đời vị lai “quán”, tức là mười sáu phép Quán trong phần sau. “Quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”: Quư vị phải đặt cái tâm nơi thế giới Cực Lạc, điều này đặc biệt trọng yếu! Các pháp môn thông thường chẳng phải đặt tâm chặt chẽ nơi thế giới Cực Lạc, mà chỉ ở trong thế giới Sa Bà, chiếu theo Phật pháp, dùng sức của chính ḿnh để tu. [Tu kiểu ấy] chẳng phải là không thể thành công, nhưng thời gian thành công rốt cuộc là năm nào, đời nào? Quá xa xôi! Nếu chẳng phải là thật sự học pháp môn Niệm Phật, chính ḿnh chẳng kiến lập tín tâm đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng có nguyện lực, hễ giảng [pháp môn Tịnh Độ] sẽ giảng thành pháp môn thông thường, chẳng hề dính líu ǵ đến sự tu tŕ [pháp môn Tịnh Độ]! Ở đây, [đức Phật] đặc biệt nêu ra Hạnh: “Quán ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Trong kinh văn đă nói rất rành mạch: Từ thế giới Sa Bà này, đi về phía Tây, trải qua mười vạn ức tam thiên đại thiên thế giới ở giữa hai cơi (vượt qua quá nhiều đại thiên thế giới như vậy) mới đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Với công phu tu hành của bọn phàm nhân chúng ta, ai có thể thấy được? Hết sức khó khăn!

          Tiếp đó là nói: “Dĩ Phật lực cố” (Do Phật lực), v́ dùng Phật lực, “đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ” (sẽ thấy cơi nước thanh tịnh ấy), Phật lực vừa giúp đỡ, sẽ trông thấy, lập tức có thể thấy, “bỉ” () là nói thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc hết sức thanh tịnh! Cơi nước thanh tịnh là Tịnh Độ. Ở đây, phải chú ư “Phật lực cố” (do Phật lực). Chẳng có Phật lực, sẽ chẳng thấy Cực Lạc Tịnh Độ. Chúng ta thường nghe thiện tri thức nói: Cái hay trong pháp môn Tịnh Độ là có rất nhiều chỗ đặc thù. Trong đó, một điểm đặc biệt chính là pháp môn Nhị Lực (sức của chính ḿnh và c̣n có Phật lực). Ở đây nói tới Phật lực, khi Thích Ca Mâu Ni Phật nói [câu này], chính là nói về Phật lực của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngay trong khi chánh thức tŕ danh niệm Phật, Phật lực chính là sức của A Di Đà Phật. V́ sao Phật lực ở đây lại là sức của Thích Ca Mâu Ni Phật? Ngài dạy phương pháp này, quư vị tu phương pháp này, lại được Phật lực [của Thích Ca Mâu Ni Phật] gia tŕ, đồng thời c̣n có sức mạnh của A Di Đà Phật [gia tŕ]. Cố nhiên là tu Quán cần thiết [Phật lực gia tŕ], mà niệm Phật càng cần hơn nữa! V́ thế, chúng ta biết: Tu pháp môn thông thường sẽ chẳng giống như vậy. Đối với pháp môn thông thường, sau khi đă biết phương pháp, hoàn toàn cậy vào sự dụng công của chính ḿnh, nhưng công phu của chính ḿnh chẳng dùng được! V́ sao công phu của chính ḿnh chẳng dùng được? Lũ phàm phu chúng ta nghiệp lực sanh tử quá nặng nề (nghiệp lực tham, sân, si, mạn, nghi quá nặng), chính ḿnh chẳng có sức mạnh để trong một thời gian ngắn đoạn trừ nó. Khi nào đoạn hết, khi đó mới thành tựu. Lấy Kiến Tư Hoặc để nói, nếu c̣n một phẩm chưa đoạn, sẽ chẳng thoát khỏi lục đạo. Hoàn toàn cậy vào sức của chính ḿnh [sẽ gặp khó khăn như thế đó]! Đối với Phật lực, công phu tác quán sẽ được nói trong phần sau, [cũng như] công phu Niệm Phật được [Quán Kinh] nói cuối cùng, đều có Phật lực gia tŕ: Một mặt là cậy vào sự dụng công của chính ḿnh, mặt khác là do có nguyện lực của Phật, trong tương lai sẽ được tiếp dẫn. Có Phật lực [gia tŕ] chính là điểm đặc thù!

          “Đương đắc kiến bỉ thanh tịnh quốc độ” (Sẽ được thấy cơi nước thanh tịnh ấy): Do tự lực của phàm phu, sẽ chẳng thể trông thấy. Vừa được Phật lực giúp đỡ, hai thứ lực (tự lực và Phật lực) cộng lại, nhất định sẽ trông thấy cơi nước thanh tịnh. Do có Phật lực giúp đỡ, nên có thể trông thấy cơi nước thanh tịnh. Phật lực giúp đỡ có tầm quan trọng như thế nào? Chỉ sợ kẻ b́nh phàm chẳng hiểu rơ, nên đức Phật bèn nói tỷ dụ: “Như chấp minh kính, tự kiến diện tượng” (Như cầm gương sáng, tự thấy vẻ mặt). Mỗi người chúng ta muốn thấy mặt của chính ḿnh rất khó khăn, mắt nằm ngay trên mặt, làm sao mắt có thể trông thấy mặt của chính ḿnh cho được? Phàm phu cậy vào sức của chính ḿnh để mong thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng khó khăn dường ấy! V́ sao khó khăn? Do phàm phu bị nghiệp lực ngăn chướng cho nên chẳng thấy. Chính ḿnh chẳng thấy mặt ḿnh, đó cũng là do bị nghiệp lực hạn chế, không thể dời mắt [ra ngoài mặt] được. Không sao hết! Chỉ cần trong tay cầm một tấm gương sáng, soi vào kính, sẽ có thể thấy rơ ràng, rành rẽ diện mạo của chính ḿnh. Đây có nghĩa là: Được Phật lực giúp đỡ, giống như chúng ta có một tấm gương, ngay lập tức có thể trông thấy. “Tự kiến diện tượng” (Tự thấy vẻ mặt) là tỷ dụ [hành nhân do được Phật lực gia tŕ] bèn trông thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          “Kiến bỉ quốc độ cực diệu lạc sự” (Thấy sự vui mầu nhiệm tột bậc trong cơi nước ấy): Bèn thấy những chuyện vui mầu nhiệm tột cùng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, mầu nhiệm đến mức độ nào? Vui sướng tới cỡ nào? Thêm vào một chữ Cực (), tức là “cực diệu lạc”, [ngụ ư] có khá nhiều chuyện: Ao bảy báu, bảy lớp hàng cây, lưới mành, các loài chim diễn pháp. Kinh Tiểu A Di Đà vẫn là nói hết sức đơn giản, kinh Vô Lượng Thọ và trong phần sau bộ Quán Kinh này có nói nhiều hơn, đủ mọi thứ chuyện mà chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng được! Nhất định là phải đích thân trông thấy những chuyện vui sướng cực diệu ấy, vừa trông thấy, trong tâm phát sanh niềm hoan hỷ. “Tâm hoan hỷ cố”, [nghĩa là] v́ trong tâm hoan hỷ, “ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”, [nghĩa là] ngay trong khi hoan hỷ ấy, bèn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn bèn ổn thỏa!

          Vô Sanh Pháp Nhẫn là ǵ? Chúng tôi phải nói về Vô Sanh Pháp. Đầu tiên, chúng ta phải biết: Chúng sanh trong thế gian chính là phàm phu thế gian. Hết thảy các pháp được thấy trong bất luận một đường nào, bao la vạn tượng, quá ư là nhiều. Hết thảy các pháp đều là pháp sanh diệt, sanh sanh diệt diệt! Chúng tôi lấy hai điểm trọng yếu để nói:

1) Một là chánh báo của chúng sanh. Chánh báo là pháp sanh diệt. Nói tới “sanh diệt” th́ trước hết là nói về Sanh. Do từ nhân duyên ḥa hợp mới có hiện tượng Sanh. Mỗi người chúng ta có cái nhân là linh hồn của chính ḿnh (thức thứ tám), lại c̣n có duyên là cha mẹ. Do nhân duyên ḥa hợp, mới có thân người chúng ta. Con người sau khi được sanh ra, vẫn phải cần có các nhân duyên. Do các duyên tiếp tục tăng thêm, tiếp tục tăng thêm như thế nào? Bất cứ người nào sanh ra cũng đều phải bú sữa. Sau khi đă bú đến mức kha khá, bèn ăn những thực phẩm khác, cần phải ăn uống. Thiếu ăn, thiếu uống, sanh mạng sẽ chẳng thể sanh trưởng. Sau khi đă trưởng thành, vẫn phải tiếp tục ăn; nếu chẳng ăn uống, sẽ chẳng thể duy tŕ. Chẳng có những duyên ấy, quư vị ngẫm xem, thân người làm sao có thể tồn tại cho được? Luôn luôn phải dựa vào nhân duyên, chẳng ngừng ngưng tụ nhân duyên. Khi đă tới tuổi già, nhân duyên sắp tan, các thứ trạng huống bệnh tật nơi thân thể xuất hiện. Dần dần sức ngưng tụ các thứ điều kiện vật chất thuộc các phương diện tâm lư và sinh lư chẳng đủ mạnh nữa, chúng sẽ phân tán, thoái hóa, các thứ bệnh tật xuất hiện. Tới lúc mạng chung, toàn thể nhân duyên phân tán. Hăy ngẫm xem, thân người rơ ràng là một pháp sanh diệt; nhưng rất nhiều người chẳng biết pháp sanh diệt ấy, cứ tưởng đấy chính là Ngă, hết sức thực tại, hết thảy đều v́ cái Ngă ấy mà vất vả, chẳng tiếc sức căi vă, tranh chấp với kẻ khác v.v… Thậm chí làm những chuyện tội ác, đều v́ cái Ngă ấy. V́ cái Ngă thuộc về pháp sanh diệt mà tạo tội nghiệp, có đáng hay không? Lũ chúng sanh phàm phu chúng ta chẳng thấu hiểu đấy là pháp sanh diệt. Chánh báo của chúng sanh là sanh mạng của chính ḿnh. Ngoài chánh báo ra, tất cả những vật ở ngoài thân đều là y báo.

          2) Y báo là cái mà chánh báo cần nương tựa vào. Trong thế gian này, đại hoàn cảnh và tiểu hoàn cảnh rất nhiều. Toàn thể đại hoàn cảnh là địa cầu. Cá nhân ta có một miếng đất, có gia đ́nh, có căn nhà, những thứ ấy đều là tiểu hoàn cảnh. Thậm chí trong một đoàn thể, quư vị là một phần tử trong đoàn thể ấy, cũng coi như là một tiểu hoàn cảnh. Một quốc gia cũng vậy, đều gọi là y báo. Quư vị ngẫm xem, y báo có phải là thực tại hay chăng? Y báo cũng là sanh diệt! Nhục nhăn của phàm phu nh́n chẳng thấy, cứ ngỡ đại địa (địa cầu) thật sự tồn tại, vĩnh cửu bất biến. Thật ra, nói theo Phật pháp, địa cầu [cũng là pháp sanh diệt], Phật pháp nói triệt để nhất. Hiện thời, những kẻ chú trọng khoa học cũng hiểu rơ, dùng kiến thức khoa học để phân tích, họ cũng biết địa cầu thời thời khắc khắc đều biến động. Chẳng hiểu rơ điều này, sẽ chấp trước địa cầu là vĩnh cửu tồn tại. Nếu nói theo mức độ nhỏ hơn, đối với mỗi phần trên địa cầu, tức là một lănh thổ, [nhân loại chấp trước] đây là lănh thổ của ta, đó là lănh thổ của người khác. Đại quốc gia là đại lănh thổ, tiểu quốc gia là tiểu lănh thổ. Từ xưa đến nay, đều v́ chuyện này mà phát sanh chiến tranh. Mỗi lần chiến tranh, đă chết biết bao nhiêu người! Toàn thể đại địa cho đến các lănh thổ giữa các quốc gia đều là thoắt sanh, thoắt diệt, chẳng phải là “kiên cố, không thể phá hoại”. V́ thế, kinh Bát Đại Nhân Giác có câu: “Quốc độ nguy thúy” (Cơi nước mong manh). Từ xưa tới nay, bất cứ bờ cơi của một quốc gia nào, cũng đều là rất nguy hiểm, rất mong manh. Hễ lực lượng hơi suy yếu, ngoại lực bèn xâm lược. Đại quốc gia cũng chẳng tránh khỏi. Đối với các đại quốc gia trong thế gian (từ xưa tới nay có rất nhiều đại quốc gia), quốc gia của quư vị to, quốc gia của người ta c̣n to hơn, lực lượng của người ta mạnh hơn quư vị, có thể tiêu diệt quư vị bất cứ lúc nào! Đại quốc gia đă chẳng ổn, tiểu quốc gia lại càng chẳng cần phải nói nữa! Quư vị xem Xuân Thu Tả Truyện[6] sẽ biết: Tiểu quốc gia ở giữa hai đại quốc gia, giống như bị một cái ḱm sắt kẹp chặt quư vị, bất cứ lúc nào cũng đều phải nín hơi kín tiếng, phải chịu sự chi phối của người ta. Chẳng hiểu pháp sanh diệt, sẽ có khổ năo. Những người dân b́nh phàm trong nước chẳng cần phải nói tới, quốc vương của một tiểu quốc cũng rất đáng thương. Ắt phải biết pháp sanh diệt, đừng v́ những vấn đề ấy mà “ta tranh, ngươi đoạt”. Nói thật ra, từ xưa đến nay, chẳng có được mấy người thật sự v́ quốc gia! Trong lịch sử Trung Hoa, trừ mấy vị minh quân như Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, vua [Đại] Vũ… ra, [vua chúa] sau khi độc chiếm thiên hạ đều v́ chính ḿnh, v́ con cháu của họ. Thời cổ là như vậy, nói theo hiện thời, người thật sự v́ dân chúng có được mấy ai? Người học Phật chúng ta nghiên cứu Phật pháp để thấu hiểu sự thật, phải nói ra t́nh h́nh này. Chúng ta phải hiểu rơ pháp sanh diệt, hết thảy y báo trong thế gian đều rất nguy hiểm, rất mong manh. Nếu mong chúng tồn tại vĩnh cửu, chẳng có chuyện ấy đâu nhé! Chúng ta phải hiểu rơ sự thật này, chánh báo và y báo đều là sanh sanh diệt diệt, chẳng đáng tin cậy!

          Phàm phu chẳng hiểu rơ pháp sanh diệt, ngỡ chúng nó là pháp chân thật. V́ thế, họ có Ngă Chấp và có Pháp Chấp. Hễ có chấp trước, các chuyện thuộc về tội ác đều làm! Người học Phật trước hết phải hiểu rơ pháp sanh diệt. Sau khi đă nhận thức pháp sanh diệt, sẽ chẳng chấp trước như những kẻ phàm phu. Không chỉ là như vậy, c̣n phải tiến hơn bước nữa là cầu Vô Sanh Pháp.

          Vô Sanh Pháp là ǵ? Pháp sanh diệt do nhân duyên ḥa hợp, chỉ là giả pháp. Hễ có nhân bèn có duyên, nhân duyên ḥa hợp bèn sanh, nhân duyên phân tán bèn diệt. Vô Sanh Pháp chẳng phải là như vậy, mà tiến hơn bước nữa, sẽ là thấu hiểu bản tánh vốn sẵn có của chúng sanh. Triết học thông thường cũng nói đến các hiện tượng trong vũ trụ và nhân sinh; hiện tượng luôn luôn biến động, vũ trụ và nhân sinh có bản thể. Tuy trong triết học cũng nói tới bản thể, nhưng chẳng t́m được bản thể ở chỗ nào? “Bản thể” chính là cái Thể vốn có của muôn pháp. Vạn pháp sanh sanh diệt diệt, chúng ta chẳng hiểu rơ chúng. Nếu t́m được bản thể, đă đạt được bản thể, sẽ chuyển biến pháp sanh diệt, chúng chẳng c̣n là pháp sanh diệt nữa, mà là Vô Sanh Pháp, tức là vô sanh, vô diệt. Rốt cuộc, pháp bất sanh bất diệt ở chỗ nào? Chúng ta học Phật, mục đích quan trọng nhất là ở ngay chỗ này: Phải t́m được Vô Sanh Pháp mà chúng ta vốn có. Trong phần trước, chúng tôi đă nói tới chánh báo, nhân duyên ḥa hợp, có sanh, có diệt. Hễ có sanh bèn có tử, sanh tử chẳng ngơi, qua lại sanh tử trong lục đạo. Khi đă t́m được Vô Sanh Pháp, Vô Sanh Pháp là chẳng sanh, chẳng diệt, há c̣n có sanh tử ư? Vô Sanh Pháp chính là Chân Như bản tánh của chúng ta. Nói cách khác, sẽ là “minh tâm kiến tánh” (chứng đắc tâm tánh của chính ḿnh), đó là đắc Vô Sanh Pháp. Cảnh giới ấy sẽ chẳng giống như trong hiện tại. Những ǵ chúng tôi đang nói trong hiện thời [chính là hiểu biết của hạng] phàm phu chẳng thấu hiểu pháp sanh diệt, không đáng nói đến. Dẫu đă hiểu pháp sanh diệt, vẫn là vô dụng, chỉ bất quá là hiểu sự sanh diệt mà thôi, như thế nào th́ mới có thể giải thoát? Vẫn phải là đắc Vô Sanh Pháp, cảnh giới có từng tầng một như thế đó.

Đă đắc Vô Sanh Pháp, sẽ có hiện tượng ǵ? Nói thật ra, kinh Phật truyền đến Trung Hoa, được phát huy truyền bá rạng rỡ, phổ biến như thế, đích xác là do đă nhờ vào văn hóa Trung Hoa. C̣n như trong các nước theo truyền thống [Phật giáo] Nam Truyền, Phật pháp đều là Tiểu Thừa Phật pháp, chẳng triệt để như vậy. Nay chúng ta đọc sách Khổng Tử, xem những lời dạy của Khổng Tử, [sẽ nhận thấy]: Ngôn từ tuy khác, nhưng chỗ nào cũng đều là Phật pháp. Sách Luận Ngữ có chép, Khổng Tử đứng trên bờ sông thốt lời cảm thán, cảm thán ǵ vậy? Ngài thấy nước sông từ thượng nguồn đổ xuống hạ lưu, chảy măi chẳng ngừng. Thấy ḍng nước cuồn cuộn chảy, có cảm tưởng ǵ? Đó là [cách nh́n] của bọn phàm phu chúng ta, Khổng phu tử là hạng người nào? Ngài là thánh nhân, là bậc Đại Bồ Tát. Ngài nh́n nước sông, lại nh́n vạn sự vạn vật trong trời đất (cũng là vạn pháp), cảm thán “chẳng có pháp nào trong vạn pháp mà chẳng phải là sanh diệt. Chẳng có pháp nào không phải là sanh ra rồi diệt mất!” Hiện tượng thoắt sanh, thoắt diệt, các tinh tú trong hư không cũng thế, muôn vật trên đại địa cũng thế, thân thể của nhân loại chúng ta cũng thế, đều là như thế cả! Ngài dùng chữ Thệ (), chữ Thệ trong “tiêu thệ” (消逝, trôi đi mất). “Thệ giả”, ư nói vạn vật trong toàn thể vũ trụ, “thệ giả như tư phù” (những ǵ đă trôi đi đều giống như thế này). “Như” () là giống như, chữ “tư” () chỉ nước đang chảy trong ḍng sông, [ư nói] vạn vật chẳng ngừng trôi như ḍng nước luôn chảy măi, “bất xả trú dạ” [nghĩa là] ngày đêm chảy không ngừng. Hễ đă trôi qua, vĩnh viễn chẳng quay lại. Đó là nói tới pháp sanh diệt.

          Nếu kẻ b́nh phàm hỏi điều này có nghĩa là ǵ ư? Quá nhiều ư nghĩa. Những kẻ phàm phu tầm thường chẳng hiểu rơ sự khổ năo của chính ḿnh, chấp trước kiên cố chẳng thể phá. Đă hiểu rơ tầng ư nghĩa này rồi, sau đấy mới có thể học đạo. Nho gia cũng là phải học đạo, cũng dạy người ta xuất thế gian, liễu sanh tử, nhất định phải thông hiểu tầng [ư nghĩa] này th́ mới có thể cầu pháp “bất sanh, bất diệt”. Pháp sanh diệt trôi qua như vậy, cái chẳng trôi qua th́ như thế nào? Lại nêu một thí dụ: Đời Tống, Tô Đông Pha hết sức nổi tiếng. Ông viết Xích Bích Phú (Xích Bích Phú có Tiền Xích Bích Phú và Hậu Xích Bích Phú). Mọi người đều biết Xích Bích[7], hễ xem B́nh Kịch[8] là biết. Trong thời đại Tam Quốc, Châu Du và Tào Tháo giao chiến ở Xích Bích (đó là một cuộc quyết chiến hết sức nổi tiếng xưa nay), cuộc chiến ấy đă đốt chết bao nhiêu người! Trong Xích Bích Phú có câu: “Thệ giả như tư!” (Những ǵ đă trôi qua đều như vậy), đấy chính là [lời văn dựa theo ư] câu nói của Khổng Tử chép trong Luận Ngữ [vừa được nhắc đến trên đây]. Câu kế tiếp là: “Nhi vị thường văng dă” (Mà cũng chưa từng qua đi). “Thệ giả như tư phù” là pháp sanh diệt, “nhi vị thường văng dă”: Quư vị thấy nước sông chảy măi, pháp sanh diệt luôn trôi đi. Chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn là chứng cảnh giới bất sanh, bất diệt. Quư vị thấy nước luôn lưu động, ta chứng đắc cảnh giới [Vô Sanh Pháp Nhẫn ấy, sẽ thấy nước] chẳng lưu động chút nào. Chưa từng qua đi, chẳng qua đi [nghĩa là] cũng không chảy đến trước chút nào! Cảnh giới ấy là cảnh giới của sự chứng đắc Vô Sanh, thật sự thấy bản tánh. Bản tánh bất lai, bất văng [nghĩa là] chẳng có đến hay đi, là bất động, là vô sanh. Đây là dùng văn hóa Trung Hoa làm thí dụ ḥng khiến cho chúng ta hiểu Vô Sanh Pháp là ǵ, pháp sanh diệt là ǵ!

          Chúng ta hiểu rơ Vô Sanh Pháp. Đối với chữ Nhẫn (Nhẫn () trong Vô Sanh Pháp Nhẫn), nói thông thường, nó có nghĩa là “nhẫn nại”. Chúng ta ở trong hoàn cảnh chẳng tốt đẹp, gặp chuyện chẳng như ư trong thế gian, bất luận là do con người cũng thế, hay là về phương diện vật chất khác cũng thế, chuyện chẳng như ư rất nhiều! Chúng ta chẳng đọc sách, chẳng hiểu đạo lư, sẽ chẳng thể nhẫn. Chúng ta là người đọc sách, phải nói đến nhẫn. “Nhẫn” là nhẫn nại. Nhẫn nại là công phu rèn luyện của chúng ta. Có thể kiên tŕ chịu đựng, có năng lực kiên nhẫn, mỗi ngày một vun bồi [vững chắc] hơn; sau đấy, năng lực thực hiện mọi việc sẽ to lớn. Chẳng thể nhẫn nại là không được rồi. Khi bọn phàm phu chúng ta học Phật, phải nhẫn nại. Chúng ta thông hiểu Phật pháp, pháp sanh diệt là ǵ, Vô Sanh Pháp là ǵ. Chúng ta mong chuyển pháp sanh diệt thành Vô Sanh Pháp; trước hết, phải biết chính ḿnh đang ở trong thế giới Sa Bà là một thế giới đau khổ, chúng ta phải nhẫn. Sa Bà nghĩa là Kham Nhẫn. Ắt phải có thể nhẫn th́ mới có thể tồn tại trong thế giới này. Chẳng thể nhẫn nại, sẽ chẳng có cách nào sanh tồn; kẻ b́nh phàm như chúng ta phải nói tới sự nhẫn nại!

          Nói đến Vô Sanh Pháp Nhẫn, thật ra, xét theo phương diện học Phật, một ư nghĩa của chữ Nhẫn là “nhẫn khả” (忍可). “Nhẫn khả” là đă thấy đạo, ngoài việc hiểu rơ pháp sanh diệt ra, cũng phải hiểu rơ Vô Sanh Pháp. Thật sự khai ngộ Vô Sanh Pháp, ngộ được Vô Sanh Pháp, th́ gọi là “nhẫn khả”. Nói theo danh từ thông tục của người hiện thời, “nhẫn khả”“khẳng định”, khẳng định pháp này là đúng (là chân lư), chẳng bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng tà thuyết. Đó gọi là Nhẫn Khả. Nhẫn Khả tiến cao hơn nữa, sẽ là An Nhẫn (安忍). An () là rất b́nh yên, hết sức tự nhiên. Nhẫn được nói trong đoạn trước vẫn c̣n mang tánh chất miễn cưỡng đôi chút. Khi đă đạt tới An Nhẫn, hết thảy đều tự nhiên, đă chứng đạo. Nhẫn Khả là ngộ đạo; An Nhẫn là chứng đạo. Xác thực là chính ḿnh đă chứng đắc Chân Như bản tánh bèn gọi là An Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn cũng có cạn và sâu, An Nhẫn được nói đến ở đây chính là chứng đắc bản tánh.

          Xét theo phương diện tương quan giữa Vô Sanh Pháp Nhẫn và học lư, xin quư vị xem đề cương bài giảng thứ tư đă phát lần trước. Trang thứ nhất trong đề cương bài giảng thứ tư nói về Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nội dung của danh từ Vô Sanh Pháp Nhẫn đă được nói trong phần trước; nay chúng tôi căn cứ trên học lư về sự “chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” trong Phật học để giới thiệu với mọi người đôi chút. Chúng ta học Bồ Tát đạo, nói thông thường là có địa vị Tam Hiền. “Hiền” () là hiền nhân, từ hiền nhân trở lên chính là địa vị thánh nhân, tức “đăng địa” (登地)[9]. Địa vị Tam Hiền bao gồm ba mươi địa vị hiền nhân. Thứ nhất là mười địa vị Trụ, tức Thập Trụ (chữ Trụ () trong “cư trụ” (居住), trụ ở trong đó). Học Đại Thừa Phật pháp, học Bồ Tát pháp, có thể đứng vững, chẳng dao động, [bèn gọi là Trụ]. Trước Thập Trụ c̣n có Thập Tín (Tín () trong tín ngưỡng). Tu măn Thập Tín vị, tức là [tu tập hoàn tất] mười cấp bậc thuộc địa vị Tín rồi mới tiến nhập Sơ Trụ. Tu viên măn Sơ Trụ bèn là Nhị Trụ, măi cho đến Thập Trụ. Sau khi đă viên măn Thập Trụ, tiến nhập Thập Hạnh vị (Hạnh () trong chữ “tu hành”), tự ḿnh chiếu theo Phật pháp ([cụ thể là] Bồ Tát pháp) để tu hành, và cũng khuyên kẻ khác tu hành. Tu viên măn địa vị Thập Hạnh sẽ là địa vị Thập Hồi Hướng. Do tổng cộng có ba mươi địa vị, nên gọi là Tam Hiền Vị. Đă tu viên măn Tam Hiền Vị, sẽ đăng địa, [mang ư nghĩa] “đă đạt lên địa vị ấy, ổn định giống như đại địa, hết sức đáng tin cậy”. Đăng địa cũng là từ Sơ Địa, Nhị Địa, cho đến Thập Địa. Hễ đăng địa bèn trở thành thánh nhân.

          Sau khi đă hiểu rơ danh từ, lại giới thiệu cùng quư vị mấy điều sau đây: Chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, xét theo địa vị Bồ Tát để nói, Vô Sanh Pháp Nhẫn là địa vị ǵ? Nói theo giáo lư của tông Thiên Thai, chia thành Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng Giáo Bồ Tát tŕnh độ nông cạn, là Tiểu Thừa. Nếu tu Bồ Tát đạt tới Thông Giáo, sẽ là Đại Thừa Phật pháp. Xét theo Biệt Giáo, phải là Đăng Địa [mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn]. Người tu Viên Giáo căn khí hết sức thông minh, phải là Sơ Trụ [mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn]. Theo chú giải của tổ sư, người chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn thuộc địa vị Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo, hoặc là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. V́ thế, trong chú giải, đă ghi Vô Sanh Pháp Nhẫn là “Sơ Trụ, Sơ Địa”. Nói cách khác, địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo ngang bằng địa vị Sơ Địa trong Biệt Giáo; chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn là địa vị như vậy.

          Chứng đắc địa vị này là t́nh huống ǵ? Chúng ta biết phàm phu chúng sanh sanh tử chẳng dứt trong lục đạo. Do v́ có Kiến Tư Hoặc, cho nên mới sanh tử chẳng ngừng. Đoạn Kiến Tư Hoặc bèn thoát luân hồi; nhưng hăy c̣n có Trần Sa Hoặc. Hành Bồ Tát đạo c̣n phải phá Trần Sa Hoặc. Cuối cùng, c̣n có vô minh, Vô Minh Hoặc là từng tầng một. Trong Biệt Giáo là chứng lên Sơ Địa, trong Viên Giáo là chứng lên Sơ Trụ bèn phá vô minh. Vô minh chẳng phải là phá hoàn toàn, mà là phá từng phần, đă phá một phần vô minh, tuyệt diệu thay! Bản tánh của chúng ta do bị vô minh che lấp, cho nên bản tánh của chính ḿnh chẳng phát khởi tác dụng. Chỉ cần trừ được một phần vô minh, bèn chứng đắc Chân Như bản tánh (thấy tự tánh Phật) của chính ḿnh. Nói theo Tạng Giáo, vị ấy có thể biểu hiện tám tướng thành đạo! Công phu “phần phá vô minh” (phá vô minh từng phần) vốn là nói về Sơ Trụ, hoặc Sơ Địa, tuyệt đối đáng tin cậy, hết sức ổn thỏa, thích đáng! Học Phật đạt đến tŕnh độ này, tuyệt đối chẳng thoái chuyển.

          Bất Thoái cũng có ba loại, khi chúng ta nghiên cứu kinh A Di Đà, tôi đă giới thiệu cùng quư vị, có Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Vị Bất Thoái là Tiểu Thừa Sơ Quả; Hạnh Bất Thoái là Đại Thừa Bồ Tát, chẳng lui sụt xuống địa vị Nhị Thừa (Tiểu Thừa). Thứ ba là Niệm Bất Thoái. Chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn bèn chứng Niệm Bất Thoái. Niệm Bất Thoái: Phá vô minh th́ mới có thể đắc Niệm Bất Thoái. Vô Sanh Pháp Nhẫn là đă phá vô minh, thật sự là Niệm Bất Thoái. Niệm Bất Thoái là tâm tâm niệm niệm, chẳng khởi niệm th́ thôi; hễ dấy niệm, đều xuất phát từ bản tánh, chẳng có chuyện ǵ không phải là do bản tánh phát sanh tác dụng. Đó là Niệm Bất Thoái.

          Nội dung được nói ở đây chính là chiếu theo kinh văn và chú giải của tổ sư để nói, học lư cũng là nói như thế, nhưng chẳng thể chuyển biến cảnh giới được! Thật sự chuyển biến cảnh giới, đối với các hiện tượng sanh diệt trong thế gian và những hiện tượng trong lục đạo, người chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn là thánh nhân. Trong cái nh́n của thánh nhân, thế gian này chẳng có sanh diệt. Giống như chúng ta thấy sóng ṃi nơi sông ng̣i, biển cả, một con sóng chưa tan, con sóng khác đă dấy lên, dập dềnh không ngừng, sanh diệt bất định, sóng cuồn cuộn nguy hiểm vạn trạng! Quư vị ngồi trên chiếc thuyền nhỏ trong sóng cả, có chịu nổi hay chăng? Trong sự cảm nhận của người chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ thấy là b́nh thường, ổn định, chẳng có sóng gió chập chùng bất định. Sóng cao tới mấy vẫn là nước, sóng thấp vẫn là nước. Sóng to, sóng bé, hết thảy mọi thứ trong mắt người ấy không có ǵ chẳng phải là nước. Đối với cảnh giới ấy, tôi cũng dựa theo tỷ dụ của tổ sư, dùng tỷ dụ ấy ḥng khiến cho chúng ta hiểu rơ Vô Sanh Pháp có trạng huống như thế nào.

Hăy từ tỷ dụ mà suy nghĩ: Nay chúng ta nói trong lục đạo có sanh tử, sanh tử chẳng ngừng xoay vần qua lại. Khi chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ biết những điều ấy là giả tượng (假象, h́nh tượng hư giả). Chẳng thấy thấu suốt chúng là giả tượng, cho nên mới có chuyện khổ năo. Hễ phá được, cảnh giới sẽ chuyển, sanh tử sẽ được giải quyết; há c̣n có những giả tượng ấy nữa chăng? Ngay khi đó, chân lư bèn xuất hiện. V́ thế, học pháp môn Niệm Phật chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, bản tánh của chính ḿnh và [bản tánh của] Phật, Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đôi bên hoàn toàn cảm ứng nhất trí với nhau. Đó là Vô Sanh Pháp Nhẫn thật sự. Đạt đến cảnh giới ấy, quư vị hăy ngẫm xem: Đế vương hoặc đại phú ông nào trong thế gian có thể sánh bằng? Nghĩ đến đây, trong thế gian, c̣n có đáng để tranh chấp “ngươi đúng, ta sai; ngươi sai, ta đúng” cùng kẻ khác nữa hay không? Tranh hay, tranh dở, tranh tới, tranh lui, có ǵ đáng để tranh giành hay chăng? V́ thế, Phật pháp nói “hăy buông xuống hết thảy”. Không thể buông xuống được, học Phật sẽ chẳng thể nhập môn. Quư vị mong học Phật có thể nhập môn, niệm Phật có thể niệm đến mức nhất tâm bất loạn, mà chẳng buông xuống, sẽ không thể được! Không buông xuống, sẽ có chướng ngại! Làm thế nào để có thể đắc pháp? Buông xuống là buông pháp sanh diệt xuống, chẳng cần tranh đoạt đúng sai cùng kẻ khác, chúng ta hiểu rơ điều này (trên thực tế, vẫn chưa thấu hiểu). Hăy từ tỷ dụ này mà dần dần truy cầu từ nơi ấy!

          Lại nh́n vào đề cương, hai hàng cuối cùng trong trang nói về Vô Sanh Pháp Nhẫn có ghi: “Dự chương viên diệu, quán thành tức đắc” (Phô bày sẵn pháp môn viên diệu, hễ quán thành công sẽ liền đắc [Vô Sanh Pháp Nhẫn]), [ư nói]: “Dự chương” (預彰) là trước hết nêu tỏ bộ kinh này giảng về pháp môn viên diệu, giảng về mười sáu pháp Quán. Nếu quán theo đúng pháp, đă thành tựu, sẽ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. V́ thế, trong kinh văn có chép Thích Ca Mâu Ni Phật bảo: “Ứng thời tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Ngay khi đó bèn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn), hoàn toàn chẳng có nghĩa là phu nhân Vi Đề Hy ngay lập tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, mà có nghĩa là: Chiếu theo mười sáu phép Quán sẽ được nói trong phần sau để quán thành tựu, sẽ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nêu trước [chuyện này] ḥng khơi gợi tín tâm cho bà ta. Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này th́ ngưng.

 

Tập 17

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ sáu, bắt đầu từ hàng thứ hai đếm từ dưới lên. Trước hết, hăy niệm kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ thị phàm phu, tâm tưởng luy liệt, vị đắc thiên nhăn, bất năng viễn quán. Chư Phật Như Lai, hữu dị phương tiện, linh nhữ đắc kiến”. Thời Vi Đề Hy bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như ngă kim giả, dĩ Phật lực cố, kiến bỉ quốc độ. Nhược Phật diệt hậu, chư chúng sanh đẳng, trược ác bất thiện, ngũ khổ sở bức, vân hà đương kiến A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới?”

()佛告韋提希:汝是凡夫,心想羸劣,未得天眼,不能遠觀。諸佛如來,有異方便,令汝得見。時韋提希白佛言:世尊,如我今者,以佛力故,見彼國土。若佛滅後,諸眾生等,濁惡不善,五苦所逼,云何當見阿彌陀佛極樂世界?

(Kinh: Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Bà là phàm phu, tâm tưởng yếu kém, chưa đắc thiên nhăn, chẳng thể thấy xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ, khiến cho bà được thấy”. Khi ấy, Vi Đề Hy bạch cùng đức Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Như con nay do Phật lực trông thấy cơi nước ấy. Như sau khi đức Phật đă diệt độ, các hàng chúng sanh trược ác, chẳng lành, bị năm thứ khổ sở bức bách, làm thế nào để thấy thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật?”)

 

          Hai đoạn ngắn này nhằm chánh thức bước vào phần kinh văn giảng về mười sáu phép Quán. Đoạn trước nói “tức đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” nhằm kết thúc ba loại tịnh nghiệp vừa được nói trên đây. Ba loại tịnh nghiệp hết sức quan trọng; muốn tu mười sáu phép Quán ắt phải có trọn đủ ba loại tịnh nghiệp ấy. V́ thế, sau khi đă nói xong ba loại tịnh nghiệp; tiếp đó, bèn giảng về mười sáu phép Quán.

          Trước khi chánh thức giảng mười sáu phép Quán, “Phật cáo Vi Đề Hy”, nghĩa là trước hết, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy “nhữ thị phàm phu”, bà là chúng sanh phàm phu. “Tâm tưởng luy liệt” [nghĩa là] tâm lư và tư tưởng rất yếu kém (“luy” () là một h́nh dung từ, được dùng ở đây nhằm biểu thị một kẻ tâm nhăn chẳng thấy rộng răi. “Liệt” () là không chỉ chẳng rộng, mà trong tâm c̣n có rất nhiều tạp niệm và vọng niệm. Tạp niệm và vọng niệm có thiện, ác v.v...), “vị đắc thiên nhăn” [nghĩa là] vẫn chưa chứng đắc thiên nhăn, “bất năng viễn quán”: Chẳng có cách nào để thấy rất xa!

          Trong phần trước, phu nhân Vi Đề Hy thỉnh cầu đức Phật, mong quán Tây Phương Cực Lạc thế giới, đức Phật đáp ứng, bảo cho bà ta biết phương pháp. Ở đây, Ngài phải làm cho phu nhân Vi Đề Hy hiểu rơ: Ngươi là phàm phu, tâm tưởng yếu ớt, kém cỏi, chưa đắc Thiên Nhăn (Thông), chẳng thể nh́n xa! Vậy th́ làm như thế nào? “Chư Phật Như Lai, hữu dị phương tiện, linh nhữ đắc kiến”, “chư Phật”: Không chỉ riêng Thích Ca Mâu Ni Phật, hoặc A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc, mà là mười phương thế giới chư Phật đều có phương tiện lạ, khiến cho bà trông thấy thế giới Cực Lạc.

          Đối với ư nghĩa của mấy danh từ trong một đoạn ngắn này, lại cần phải nói thêm: “Phật cáo Vi Đề Hy: Nhữ thị phàm phu” (Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Bà là phàm phu”). Trên thực tế, phu nhân Vi Đề Hy chẳng phải là phàm nhân, v́ sao đức Phật nói bà ta là phàm phu? Pháp môn Thập Lục Quán này đều thích hợp cho phàm phu tu tŕ. Nếu phu nhân Vi Đề Hy là bậc đại Bồ Tát tái lai, người tu hành chúng ta sẽ cảm thấy: Chỉ có bậc Bồ Tát thuộc địa vị cao mới có thể tu, chứ người b́nh phàm sẽ chẳng có cách nào. Do mối quan hệ này, đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy: “Nhữ thị phàm phu”. Phu nhân Vi Đề Hy là phàm phu mà có thể tu thành công, tất cả phàm phu kể từ sau phu nhân Vi Đề Hy măi cho đến hiện tại đều có thể chiếu theo đó, tu tập đúng như vậy, chỉ cần học đúng pháp, sẽ đều có thể thành công. Đây là nguyên nhân v́ sao đức Phật [bảo phu nhân Vi Đề Hy] là phàm phu.

          Lại nói đến chuyện“tâm tưởng luy liệt”. Hễ là phàm phu, tâm lượng đều rất hẹp ḥi, kém cỏi, chẳng thể rất rộng lớn. Phàm phu chỉ thấy địa cầu chúng ta đang ở mà thôi; đối với những chuyện ở ngoài địa cầu, nhờ vào phát minh khoa học, có hỏa tiễn để có thể đổ bộ lên nguyệt cầu. Đó là chuyện gần đây nhất. Trước kia, kẻ b́nh phàm đối với các tinh tú trên bầu trời ngoài địa cầu ra, chỉ có thể nh́n, chẳng thể tới đó được. Măi cho đến hiện tại, vẫn có những kẻ học Phật cho rằng chỉ có người trong thế gian mới đáng nương tựa. [Họ quan niệm] học Phật th́ phải nắm chắc nhân gian, học trong thế gian này th́ mới là thực tế! Văng sanh thế giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật, trong cách nghĩ của họ [là chuyện mơ hồ, viễn vông]. Trên thực tế, họ chẳng t́m hiểu những ǵ ở ngoài thế giới này, chẳng dấy lên tín tâm và nguyện lực. V́ thế, họ mới khuyên người ta học nhân gian Tịnh Độ, mong phát nguyện sanh về Nội Viện của Di Lặc Bồ Tát. Đừng nói là phàm phu, ngay cả hàng Tiểu Thừa b́nh phàm, chỉ thấy trong phạm vi thế giới này, tầm nh́n cũng chẳng rộng, huống là những kẻ phàm phu tầm thường! V́ thế, những ǵ bọn phàm phu tầm thường trông thấy hoặc suy nghĩ đều rất kém cỏi, không phải là rất rộng, chúng ta phải thấu hiểu điều này! Người khác đều là như vậy, c̣n chúng ta th́ sao? Chúng ta cũng là phàm phu, tâm lư phàm phu đều là như vậy; bất quá chúng ta học Tịnh Độ Tông, [cho nên] mọi người có tín tâm và nguyện lực. Nhà Phật nói nhân quả rất quan trọng. Đối với tín tâm và nguyện lực của chúng ta, tuyệt đối chẳng phải là do trong một đời này được nghe pháp môn đặc biệt này rồi mới bắt đầu [dấy lên tín tâm và nguyện lực], mà nhất định là từ nhiều đời, nhiều kiếp trước trong quá khứ đă dần dần huân tập, nghe nói pháp môn này, gieo chủng tử [trong thức điền], nay [chủng tử ấy mới] dấy lên hiện hành. “Thiện căn” như thường nói [trong các kinh điển, chú giải] chính là thiện căn này! Một mặt, chúng ta hiểu rơ chính ḿnh là phàm phu; mặt khác, phải thấu hiểu, tin tưởng Tịnh Độ Tông, phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc, chẳng giống tâm lư chấp trước của những kẻ b́nh phàm. Chúng ta cũng cảm thấy rất vui mừng, an ủi; nếu chúng ta thật sự chiếu theo kinh Phật để tu tập như thế, nhất định là sẽ có thành tựu. Khi nói đến hai câu kinh văn này, chúng ta phải nên có sự nhận thức này!    

“Vị đắc thiên nhăn” (Chưa đắc thiên nhăn, “thiên nhăn” [ở đây] chính là Thiên Nhăn Thông), “bất năng viễn quán” (chẳng thể thấy xa): Đắc Thiên Nhăn [Thông] sẽ có thể viễn quán, có thể thấy thế giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật. Ở đây, có một vấn đề cần phải giải thích đôi chút: Trong kinh Tiểu Di Đà, có tôn giả A Nậu Lâu Đà đắc Thiên Nhăn tối thắng. Ngài đắc “bán đầu thiên nhăn”[10], nhưng vẫn chẳng có cách nào trực tiếp thấy thế giới Cực Lạc, chỉ có thể thấy thế giới này và t́nh h́nh trên các cơi trời mà thôi! “Thiên nhăn” như kinh văn nhắc tới có thể thấy xa cỡ nào? Tổ sư chú giải: Thiên Nhăn Thông có cảnh giới bất đồng. Tiểu Thừa chứng quả A La Hán bèn có Thiên Nhăn Thông của A La Hán. Bồ Tát có Thiên Nhăn Thông của Bồ Tát. Bồ Tát có “phần chân” Bồ Tát (tức phần chứng Bồ Tát), nói theo hàng Bồ Tát trong Biệt Giáo th́ là đă chứng Sơ Địa. Sơ Địa Bồ Tát chứng một phần Pháp Thân, phá một phẩm vô minh rồi mới đắc Thiên Nhăn. Viên Giáo Bồ Tát cũng có Phần Chứng Tức, đă đắc Sơ Trụ th́ mới có cảnh giới này, bắt đầu phá vô minh. Thiên Nhăn Thông của Bồ Tát và Thiên Nhăn Thông của Nhị Thừa khác nhau. Do đó, hàng đại Bồ Tát bắt đầu phá vô minh, đắc Thiên Nhăn, bèn có thể nh́n xa, nh́n thấy các đại thiên thế giới ở ngoài thế giới Sa Bà. Câu “vị đắc thiên nhăn” trong kinh văn có ư nói: Do chưa đắc Thiên Nhăn của hàng đại Bồ Tát, cho nên “chẳng thể thấy xa”!

          “Chư Phật Như Lai, hữu dị phương tiện, linh nhữ đắc kiến” (Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến cho bà được trông thấy). Phàm phu chẳng thể thấy xa. Nếu muốn thấy thế giới Cực Lạc, đức Phật có “dị phương tiện”. Cái gọi là “dị phương tiện” (異方便) chính là những phương tiện đặc biệt khác lạ khiến cho những kẻ b́nh phàm chẳng thể tưởng tượng nổi! Phương tiện là ǵ? “Phương” () là một loại công cụ, như ngồi thuyền, thuyền là một loại công cụ, ngồi thuyền có thể vượt sông, hết sức tiện lợi. Đức Phật có phương tiện lạ như thế nào? Dị phương tiện có hai loại:

1) Một loại là đức Phật nói ra mười sáu loại Quán pháp. Chiếu theo phép Quán do đức Phật đă nói, tu tập thành công, sẽ có thể trông thấy [thế giới Cực Lạc]. Thấy bằng cách như thế nào? Hoàn toàn chẳng phải là đă tu mười sáu phép Quán, sẽ ngay lập tức có thể trông thấy thế giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật bằng nhục nhăn. Nhục nhăn vẫn chẳng được, phải dùng tâm nhăn. Nói cách khác, đă tu thành tựu mười sáu phép Quán, sẽ khai đại trí huệ, hiểu rơ toàn thể cái tâm. Khi tâm khai sáng, muốn thấy ǵ đều có thể trông thấy. Mắt trí huệ vừa mở, đừng nói là Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất cứ thế giới nào cũng đều có thể thấy. Đức Phật dùng phương tiện lạ này. V́ sao mười sáu phép Quán là “dị phương tiện”? Quán pháp được sử dụng trong mười sáu phép Quán cũng chẳng giống như trong các pháp môn thông thường. Như tông Thiên Thai tu pháp môn Chỉ Quán (thuần chánh dùng pháp Chỉ Quán của tông Thiên Thai để tu Chỉ Quán), dùng sức của chính ḿnh để nhập Định, tu công phu định lực. Bộ kinh này được tổ sư tông Thiên Thai là Trí Giả đại sư dùng phương pháp và học lư Giáo Quán của tông Thiên Thai để chú giải; nhưng chú giải [kiểu đó] là dùng phương pháp của chính Ngài để chú giải. Cái được chú giải chính là kinh, người giảng kinh muốn thông hiểu [ư Phật], phải lấy kinh làm chánh yếu (tổ sư [chú giải kinh] ḥng nói rơ ư nghĩa của kinh theo cách hiểu của Ngài). Bộ kinh này giảng về mười sáu phép Quán, [tức là] lấy mười sáu loại cảnh giới làm đối tượng. Cái tâm có thể quán gọi là Năng Quán. Đấy là chỗ khác biệt so với các pháp môn thông thường. Không chỉ là Chỉ Quán, so sánh với các pháp môn thông thường khác như Duy Thức hoặc Thiền Tông, đều có những điểm bất đồng. Đấy là một loại “dị phương tiện”.

2) Một loại dị phương tiện khác chính là đức Phật dùng sức thần thông của chính Ngài. Chúng ta là phàm phu, dùng nhục nhăn chẳng thấy được, phải tu quán thành công rồi mới có thể [trông thấy]. Đức Phật hoàn toàn dùng sức thần thông của chính Ngài, dẫu xa cách mấy cũng chiếu thấu suốt thế giới ấy, [khiến cho] chúng ta có thể trông thấy ở ngay trước mắt. Đấy chính là như trong phần trước đă nói: Trước hết, đức Phật phóng quang, quang minh giống như đèn chiếu thăm ḍ vậy. Sau khi đă chiếu, bèn thu lại tất cả các thế giới tốt đẹp nhất trong mười phương, giống như phim đă được quay trong máy chiếu phim vậy. Không chỉ là phu nhân Vi Đề Hy, ngay cả những phàm phu khác cũng đều trông thấy. Nếu chúng ta dùng nhục nhăn, ở đây, chẳng thể thấy núi A Lư, dùng tâm tưởng bèn có thể tưởng tượng. Dùng nhục nhăn để thấy như thế nào? Chụp h́nh núi A Lư, dùng ảnh chụp để xem, sẽ có thể trông thấy. Do vậy, loại dị phương tiện thứ hai chính là đức Phật dùng sức thần thông, thâu lại các h́nh trạng trong thế giới xa xôi, khiến cho bọn phàm phu chúng ta có thể trông thấy bằng nhục nhăn.

Có hai loại dị phương tiện ấy!

          “Linh nhữ đắc kiến” (Khiến cho bà được thấy). Chữ “nhữ” () chỉ phu nhân Vi Đề Hy. Trong phần trước, phu nhân đă thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thâu lại thế giới Cực Lạc. Đức Phật lại bảo bà ta: Chỉ cần tu Quán thành công, ngay lập tức có thể trông thấy. Nương vào hai thứ dị phương tiện của đức Phật, trong tương lai đều có thể trông thấy.

          Phu nhân Vi Đề Hy sau khi nghe đức Phật dạy như vậy, liền đó, “thời Vi Đề Hy bạch Phật ngôn:”, [nghĩa là] vừa ngay khi đó, bà ta bèn thưa bẩm với đức Phật: “Thế Tôn!” tức là một hiệu trong mười hiệu của đức Phật. “Như ngă kim giả” (Như con nay), giống như con trong hiện thời. “Dĩ Phật lực cố, kiến bỉ quốc độ” (Do v́ sức Phật, trông thấy cơi nước ấy). Do nương cậy sức thần thông của đức Phật, trông thấy quốc độ của thế giới Cực Lạc (quang minh từ kim đài trên đỉnh đầu Thích Ca Mâu Ni Phật hiển hiện thế giới Cực Lạc, nay bà ta đă trông thấy), thế nhưng, “nhược Phật diệt hậu”, [nghĩa là] giả sử sau khi đức Phật đă diệt độ, chẳng c̣n tại thế. Chư chúng sanh đẳng” (các hàng chúng sanh) chỉ rất nhiều hạng phàm phu chúng sanh. “Trược ác bất thiện” đều ở trong đời ác ngũ trược, chẳng có điều thiện nào. “Ngũ khổ sở bức” nghĩa là bị năm nỗi khổ to lớn bức bách. “Vân hà đương kiến A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới?” (Làm sao có thể thấy thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật?). Trong t́nh huống ấy, đức Phật chẳng c̣n trụ trong thế gian này, họ làm sao có thể thấy thế giới của A Di Đà Phật cho được? Đây là phu nhân Vi Đề Hy loại trừ chính ḿnh may mắn được nương vào Phật lực, đă thấy thế giới Cực Lạc, chứ chúng sanh trong tương lai th́ làm như thế nào? V́ thế, có thể thấy phu nhân Vi Đề Hy là người học Đại Thừa, phát Bồ Tát tâm, chẳng chuyên v́ chính ḿnh, c̣n nghĩ đến chuyện sau khi đức Phật đă diệt độ, tất cả chúng sanh trong tương lai sẽ làm như thế nào? Do vậy, bà lại thưa hỏi đức Phật.

          “Phật diệt hậu”, “diệt” là diệt độ (滅度). Thật ra, đức Phật đă thành Phật, có thể ở trên thế gian bao lâu liền ở bấy lâu, tự do tự tại trụ thế, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật hết sức từ bi. Ngài nghĩ: Nếu thường trụ vĩnh cửu trong thế gian này, đâm ra chẳng tốt đẹp bằng chuyện đức Phật trụ thế tám mươi năm! Đức Phật chỉ trụ thế tám mươi năm, biểu hiệu tuổi tác chẳng sai khác cho lắm so với chúng sanh b́nh phàm trong loài người (thọ mạng của loài người cũng thuộc về vạn pháp), là vô thường, [dùng chuyện này để] cảnh tỉnh con người. Kẻ chẳng tu đạo chẳng cần nói tới, họ cứ mơ mơ màng màng, nhưng đối với kẻ đă học Phật, [đức Phật trụ thế chỉ tám mươi năm] sẽ răn nhắc họ “mạng người vô thường”, ngay cả đức Phật cũng chẳng thể trụ thế lâu dài trong thế gian! Đức Phật muốn cảnh tỉnh chúng sanh: Bất luận lứa tuổi nào, cũng đều phải dấy lên đạo tâm, coi liễu sanh tử là chuyện quan trọng nhất, phải ghim chuyện này trong tâm. V́ những lẽ đó, đức Phật trụ thế tám mươi năm bèn diệt độ.

          Phu nhân Vi Đề Hy nói: Đức Phật cũng có lúc diệt độ, “chư chúng sanh đẳng” (các hàng chúng sanh), sau khi đức Phật đă nhập diệt chẳng ở trong thế gian nữa, các chúng sanh phàm phu kể từ sau khi đức Phật diệt độ cho đến thời đại Mạt Pháp hiện tại đều được bao gồm trong ấy, những chúng sanh ấy “trược ác bất thiện”. Nói “trược ác bất thiện” th́ Trược là Ngũ Trược, tức là Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược. Đến thời đại Ngũ Trược, chúng sanh bèn ác, các thứ nghiệp từ trong tâm đều biểu hiện ra. Sự trược ác bất thiện ấy từ thuở đức Phật trụ thế đă có, măi cho đến hiện tại, càng về sau, những điều ác càng thêm nghiêm trọng, trong hiện thời, lại càng chẳng cần phải nói nữa! Người học Phật đối chiếu Ngũ Trược trong thế gian hiện thời với Ngũ Trược trong thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật một phen, sẽ lại thấy sai khác một trời một vực! Trong tương lai, vẫn là chẳng giống như hiện thời, chúng ta phải nên cảnh giác điều này!

          Danh từ “trược ác bất thiện” chúng ta đều đă biết, chúng ta học Phật phải liễu sanh tử. Nhất định là phải chuyển biến từ nội tâm của mỗi cá nhân! Hoàn cảnh thế gian chẳng tốt đẹp, đều là do tâm lư của chúng sanh tạo thành. Dùng Kiến Trược trong Ngũ Trược để nói, Kiến () là kiến giải; cái gọi là Kiến Trược đă có từ thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến hiện thời.

          Trong kiến giải của chúng sanh, chỉ nh́n thấy [những khuyết điểm của] người khác, chẳng xét lại chính ḿnh. Chính ḿnh có rất nhiều ác nghiệp, hành vi cũng thế, mà tâm lư cũng thế, những chuyện đă nghĩ, đă làm đều là tội ác, nhưng chính ḿnh chẳng thấy, luôn cảm thấy chính ḿnh tốt nhất. Những điều suy nghĩ trong tâm, thậm chí những chuyện biểu lộ ra ngoài, người khác thấy đúng là một thân đầy tội ác, nhưng chính kẻ đó vẫn nghĩ chính ḿnh làm toàn chuyện tốt lành. Ngược lại, kẻ ấy thấy người khác bất hảo (trong cái nh́n của kẻ khác, đương nhiên là [kẻ ấy] bất hảo]. Nếu người khác có chuyện ǵ tốt đẹp đôi chút, kẻ ấy cũng thấy chẳng có ǵ là đáng kể! Đó gọi là Kiến Trược. Trong xă hội hiện thời, Kiến Trược hết sức phổ biến. Hiện tượng rơ ràng nhất là ở chỗ nào đó, phát sanh chuyện giết người, phóng hỏa, hoặc phát sanh tai nạn, chết bao nhiêu là người, bao nhiêu kẻ bị thương, [mọi người] cảm thấy chết một người là chuyện vặt vănh, bị chết càng nhiều càng thấy kích thích! Báo chí đăng tải các bài viết biểu dương đoàn thể từ thiện, thiện nhân, những chuyện người tốt việc tốt v.v… đại khái là chẳng có hứng thú để xem! Chuyện này cho thấy tâm lư kẻ b́nh phàm hướng theo tội ác, chẳng xem chuyện tốt đẹp, chẳng nh́n tới những điều tốt đẹp của người khác, chính ḿnh đối với việc thiện cũng chẳng có hứng thú! Đấy đều là Kiến Trược, chúng sanh phàm phu luôn có tâm lư như vậy. Hăy ngẫm xem, thế giới này có thể trở thành tốt đẹp hơn được chăng? Chẳng thể nào tốt đẹp được! Do vậy, khi thầy chúng ta c̣n tại thế, đă dạy: “Học Phật phải niệm Phật, niệm Phật phải sửa tâm”. Tâm chẳng sửa, niệm Phật chẳng thể có cảm ứng, chẳng niệm đến mức đạt được nhất tâm bất loạn. Do vậy, sửa đổi cái tâm đặc biệt trọng yếu!

          Lại nói đến Phiền Năo Trược. Phiền năo: Bọn chúng sanh phàm phu chúng ta ở trong thế gian này, mắt thấy các thứ màu bèn tham cầu màu sắc, tai nghe âm thanh, lưỡi nếm hương vị, cho đến ư căn v.v… sáu căn đối ứng sáu trần, chỗ nào cũng đều tham cầu, tâm tham hại chết người! Trong văn hóa Trung Hoa thuở trước, bất luận là học thuyết của Khổng phu tử (tư tưởng Nho gia), tư tưởng Đạo gia, hay tư tưởng Mặc gia, đều dạy con người trừ khử tham dục. Lăo Tử cũng nói: “Khử tử chi kiêu khí dữ đa dục” (Ông hăy trừ bỏ thói kiêu ngạo và đa dục), hăy trừ bỏ tham dục! “Trừng phẫn trất dục” (懲忿窒欲), [có nghĩa] là dạy người khác chớ nên nóng giận, đừng nên có các thứ dục vọng. Thánh nhân, hiền giả thời cổ dạy người khác như thế. V́ sao? Thánh hiền thấy mọi người đều có tập khí ác; v́ thế, cổ vũ, khích lệ họ hăy sửa chữa dần dần, áp chế nó, chớ nên biểu hiện ra. Hiện thời [tại Đài Loan và Hoa Lục] chẳng cần đến văn hóa Trung Hoa nữa. Giới giáo dục đă là như thế, kẻ b́nh phàm chẳng cần phải nói nữa. Hễ nói năng, sùng bái, toàn là dốc cạn sức tiêu thụ, mọi người trọn hết sức phát triển dục vọng, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, hăy dốc hết sức mong cầu thỏa măn. Đó là phong khí hiện thời. Đối với những lời dạy của thánh hiền thời cổ, đối với nền giáo dục do cổ nhân truyền trao, đối với chuyện “dần dần sửa đổi dục” đều cảm thấy quá khó khăn. Phong khí trong thời đại hiện tại càng là đổ thêm dầu vào lửa! Tập khí ác của con người đă nặng nề như vậy, lại c̣n được các học thuyết tà tri tà kiến đề xướng, cổ vũ, khích lệ; v́ thế, tạo thành thế giới đại loạn như trong hiện thời. Chẳng cần phải nói cặn kẽ về chuyện này!

          Chúng ta nh́n vào phong khí xă hội trong và ngoài nước, [nh́n vào] hành vi thông thường của mọi người, chẳng phải là có thể thấy rơ ràng, rành rẽ hay sao? Nh́n vào hiện tượng và hành vi trước mắt, lại c̣n có các học thuyết tà tri tà kiến không ngừng cổ động tâm lư [tham dục] của đại chúng tiếp tục phát triển. Hăy ngẫm xem, thế giới này mai sau sẽ có điều ǵ tốt đẹp hay chăng? Đời sau, nếu chẳng đọa lạc tam đồ, lại sanh vào nhân gian, hiện thời, gia đ́nh trong nhân gian đă dần dần chẳng thể giữ nổi một bầu ḥa khí. Chẳng có gia đ́nh vợ chồng hài ḥa nữa! Hằng ngày TV đề xướng vợ chồng tự độc lập, chẳng phải v́ thế hệ sau, mà v́ chính ḿnh! Những đứa trẻ ở trong gia đ́nh kiểu ấy, trong tương lai sẽ lănh đủ; cho nên đời sau lại sanh vào nhân gian, biết kiếm ai làm cha mẹ? Đúng là một nan đề! Gặp đúng hạng cha mẹ [vị kỷ] như trong TV đề xướng, c̣n chưa sanh ra mà đă đau khổ, [cho tới] sau khi đă sanh ra, con cái đứa nào lo phận đứa nấy! Hăy ngẫm xem, con cái trong gia đ́nh kiểu đó sẽ đau khổ dường nào!

Nói như vậy, chúng ta tu Tịnh Độ Tông, chớ nên nghe kẻ lơ mơ bên ngoài bảo: “Phải kiến lập Tịnh Độ trong nhân gian, chẳng cần phát nguyện đến Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Đó là v́ kẻ đó chẳng hiểu rơ t́nh huống trong thế gian. Do vậy, nhất định là phải phát nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thế giới này thật sự đúng như kinh Pháp Hoa đă dạy: “Tam giới vô an, do như hỏa trạch” (Ba cơi chẳng yên, giống như nhà lửa). Giống như một căn nhà lớn đang bốc cháy. Nếu chẳng thoát ra, dẫu không bị lửa đốt chết, cũng bị ngộp khói mà chết! Thật sự là chẳng thể ở được! Kinh văn đă sớm nói “trược ác bất thiện”; ở trong ngũ trược ác thế, thập ác bất thiện, mười thứ ác nghiệp mỗi ngày đều biểu hiện ra, càng về sau càng trở nên xấu ác!

          “Ngũ khổ sở bức” là bị năm nỗi khổ to lớn bức bách. Có mấy cách giải thích năm nỗi khổ, nhưng bất luận nói theo kiểu nào, vẫn đều là khổ! Có một cách nói như Trí Giả đại sư đă dạy: Ngũ đạo là thiên đạo, nhân đạo, súc sanh đạo, ngạ quỷ đạo, và địa ngục đạo (A Tu La đạo gộp trong các đường trên), những nỗi đau khổ v́ lưu chuyển trong năm đường được gọi là “ngũ khổ”. Đó là một cách nói. Lại nữa, theo như Thiện Đạo đại sư chú giải, sanh, lăo, bệnh, tử, ái biệt ly là năm nỗi khổ lớn. Lại có một cách nói khác là sanh, lăo, bệnh, tử gộp thành một đại khổ, cộng thêm những nỗi khổ khác là Ái Biệt Ly (yêu thương phải chia ĺa), Oán Tắng Hội (oán ghét mà cứ phải gặp gỡ), Cầu Bất Đắc (cầu mong chẳng được), Ngũ Ấm Xí Thịnh (năm Ấm lừng lẫy), cộng thành ngũ khổ. Bất luận nói theo kiểu nào, năm nỗi khổ to lớn là một sự thật. Bất cứ chúng sanh phàm phu nào, quư vị có địa vị cao tới đâu đi nữa trong thế gian, dẫu làm quan to đến mấy, dẫu lắm tiền nhiều bạc tới đâu đi nữa, vẫn chẳng tránh khỏi năm nỗi khổ to lớn ấy. Sanh, lăo, bệnh, tử chẳng cần phải nói, bất luận kẻ nào cũng đều có. Nỗi khổ Ái Biệt Ly có ai tránh khỏi? Đời loạn không phải là chỉ trong hiện thời mới có, thời cổ cũng có. Chỉ cần có chiến tranh, có loạn lạc th́ sẽ có [nỗi khổ ấy]. Thơ của đại thi nhân Bạch Cư Dị đời Đường có câu: “Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung…. Nhất dạ hương tâm ngũ xứ đồng”. [Ư nói] anh em phân tán ở mỗi nơi khác nhau, đôi bên có bao giờ chẳng mong gặp mặt? Nhưng đâu có làm được! Nh́n vào hiện thời, tại Trung Hoa có, mà ngoại quốc cũng có [Ái Biệt Ly]. Lấy Trung Hoa để nói, hiện thời đôi bờ đă tiếp xúc, chứ trước khi được phép tiếp xúc, đôi bờ ngăn cách: Người từ Đại Lục đến [Đài Loan] chẳng thể trở về, người từ Đài Loan sang Đại Lục đi lính cũng chẳng thể trở về, cách biệt vài chục năm chẳng thể gặp gỡ, mong nhớ lẫn nhau. Sau khi gặp gỡ, người chẳng thể vĩnh viễn trẻ măi, từ trẻ mong nhớ đến già. Tuổi già nghĩ tưởng con cháu, nghĩ nhớ đến chết mới thôi! Nỗi thống khổ ấy c̣n khổ hơn cái chết, ai tránh khỏi Ái Biệt Ly? Ngũ khổ bức bách, càng về sau càng dữ dội! Sau một cuộc chiến tranh, bao nhiêu người đă chết? Mỗi người chết, thân thích và gia đ́nh của người ấy có bao nhiêu kẻ chịu đựng cảnh Ái Biệt Ly, sanh ly tử biệt! Nhưng hiện thời có những kẻ ăn no rửng mỡ, chẳng có chuyện ǵ làm, tận hết sức nghĩ cách mở rộng quyền lợi của chính ḿnh, chẳng đoái hoài nỗi sống chết của dân chúng, mà cũng chẳng sợ khơi mào chiến tranh, vẫn tận hết sức tranh thủ chánh quyền và quyền lực cho chính ḿnh! Những kẻ đó đều là hạng chúng sanh đặc biệt ác liệt trong thời ngũ trược ác thế. Chúng nó làm như thế, kết quả tạo thành cộng nghiệp cộng thọ, [nghĩa là] tạo thành ác nghiệp khiến cho mọi người phải cùng nhau hứng chịu. Ngũ khổ bức bách, t́nh huống chẳng tốt đẹp, tương lai càng về sau càng xấu!

          “Vân hà đương kiến A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới?” (Làm thế nào để thấy thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật?): Đối với những t́nh huống giống như thế ấy, tâm lư của phàm phu chúng sanh có đủ mọi nỗi chướng ngại, lại thêm hoàn cảnh xấu hèn, làm thế nào để thấy thế giới Cực Lạc? Có thể nói là phu nhân Vi Đề Hy đă v́ chúng ta là những chúng sanh phàm phu trong thời đại Mạt Pháp “thỉnh mạng”, cầu thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra một phương pháp tốt đẹp, khiến cho chúng ta có thể thấy thế giới Cực Lạc, văng sanh đến đó. Sau đây, Thích Ca Mâu Ni Phật đáp lời thỉnh cầu của phu nhân Vi Đề Hy, nêu ra phương pháp. Trước khi giảng kinh văn, xin quư vị hăy xem trước đề cương bài giảng.

 

IV.2.2. Biện định phép Quán mầu nhiệm

IV.2.2.1. Mười sáu phép Quán

         

          Diệu Quán (妙觀) là mười sáu phép Quán, mỗi phép Quán đều là diệu quán, chia thành ba loại lớn:

1) Loại thứ nhất gồm sáu phép Quán, quán y báo và y quả của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Một là nhật quán (quán mặt trời), hai là thủy quán (quán nước), ba là địa quán (quán đất), bốn là thụ quán (quán cây), năm là tŕ quán (quán ao), sáu là tổng quán (quán tổng quát y báo). Sáu loại này đều là quán “quả nơi y báo” (y quả) của Tây Phương Cực Lạc thế giới.      

2) Loại thứ hai gồm có bảy phép Quán, tức là quán chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bảy là hoa ṭa quán (quán ṭa hoa sen của Phật, Bồ Tát), tám là quán tượng Phật, Bồ Tát, chín là quán thân Phật, mười là quán Quán Âm, mười một là quán Thế Chí (quán Đại Thế Chí Bồ Tát), mười hai là phổ văng sanh quán (quán trọn khắp những phàm nhân từ mười phương thế giới văng sanh thế giới Cực Lạc), mười ba là nói về pháp quán gộp chung Phật, Bồ Tát để quán (quán sát nhất loạt Phật, Bồ Tát). Bảy loại này đều là quán Phật và chúng sanh trong thế giới Cực Lạc, đều là quán chánh báo.

          3) Loại quán thứ ba gồm có ba phép Quán, tức là quán ba bậc chín phẩm. Mười bốn là thượng phẩm sanh quán, thượng phẩm chia thành ba loại thượng thượng, thượng trung, thượng hạ. Mười lăm là trung phẩm sanh quán, [gồm ba phẩm] trung thượng, trung trung, trung hạ. Mười sáu là hạ phẩm sanh quán, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Ba phép Quán sau, khởi đầu từ mười bốn, mười lăm, mười sáu là [các phép Quán] về ba bậc chín phẩm.

          Hiểu rơ ba loại lớn trong mười sáu phép Quán này, chúng ta biết: Từ y báo cho đến chánh báo, chánh thức tác quán đương nhiên là chẳng dễ dàng. Phải dùng phương pháp nhất định, trong phần sau tôi sẽ nói. Mà phép Quán thứ mười sáu, quán hạ phẩm văng sanh chính là tŕ danh niệm Phật. Tŕ danh niệm Phật cũng thuộc trong mười sáu phép Quán, phẩm vị thấp nhất là chúng sanh tạo Ngũ Nghịch Thập Ác nếu tŕ niệm danh hiệu Phật, sẽ đều có thể văng sanh. Do vậy, có thể biết chỗ lợi ích của việc tŕ danh niệm Phật: Chúng sanh ác nghiệp nặng nề dường ấy, chẳng có cách nào tác quán, chỉ cần được thiện tri thức dạy kẻ ấy tŕ danh niệm Phật, bèn có thể đới nghiệp văng sanh. Sau khi đă hiểu rơ phép Quán và lư luận trước đó, quư vị sẽ biết pháp môn Niệm Phật cao đến mức độ nào! Bất cứ ai cũng đều có thể tŕ danh văng sanh! Người thuộc hạ phẩm hạ sanh Ngũ Nghịch Thập Ác đă có thể tŕ danh văng sanh, th́ người ác nghiệp chưa đến mức độ ấy, tŕ danh niệm Phật càng chẳng có vấn đề ǵ! V́ thế, chiếu theo mấy hạng mục trong Thập Lục Quán Kinh, chúng ta cũng có thể thấu hiểu và dấy lên tín tâm tŕ danh niệm Phật!

          Trong trang cuối của biểu đồ đề cương bài giảng, có mấy hàng văn tự đặt trong ngoặc, xin hăy dùng bút đánh dấu, hăy dời chúng xuống hàng kế tiếp, song song với chữ Quán, v́ chúng dùng để giải thích mười sáu phép Quán; không chỉ nhằm giải thích loại thứ ba là ba bậc chín phẩm, mà c̣n giảng rơ y báo và chánh báo trong phần trước. Xin hăy xem hàng văn tự đặt trong dấu ngoặc, “viên dĩ Nhất Tâm Tam Quán, quán thập lục cảnh” (Viên Giáo dùng Nhất Tâm Tam Quán để quán mười sáu cảnh). Trí Giả đại sư và [ngài Tứ Minh Tri Lễ trong bộ] Diệu Tông Sao đều dùng [giáo nghĩa] Viên Giáo để chú giải bộ kinh này. Viên Giáo dùng Nhất Tâm Tam Quán (tức là diệu quán đă nói trên đây) để quán mười sáu cảnh, lấy mười sáu phép Quán làm cảnh để quán. “Cảnh thù lư đẳng”, “cảnh” là các loại cảnh bất đồng, [“cảnh thù lư đẳng” nghĩa là] cảnh chẳng giống nhau, nhưng lư là b́nh đẳng. Lần sau, tôi sẽ bắt đầu giảng về nhật quán.

 

Tập 18

         

Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ bảy, bắt đầu từ hàng thứ ba, tôi niệm trước kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo Vi Đề Hy: “Nhữ cập chúng sanh, ưng đương chuyên tâm hệ niệm nhất xứ, tưởng ư Tây Phương. Vân hà tác tưởng? Phàm tác tưởng giả, nhất thiết chúng sanh, tự phi sanh manh, hữu mục chi đồ, giai kiến nhật một. Đương khởi tưởng niệm, chánh tọa Tây hướng, đế quán ư nhật dục một chi xứ, linh tâm kiên trụ, chuyên tưởng bất di. Kiến nhật dục một, trạng như huyền cổ. Kư kiến nhật dĩ, bế mục, khai mục, giai linh minh liễu, thị vi nhật tưởng, danh viết Sơ Quán.

()佛告韋提希:汝及眾生,應當專心繫念一處,想於西方。云何作想?凡作想者,一切眾生,自非生盲,有目之徒,皆見日沒。當起想念,正坐西向,諦觀於日欲沒之處,令心堅住,專想不移。見日欲沒,狀如懸鼓。既見日已,閉目開目,皆令明了,是為日想,名曰初觀。

(Kinh: Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Bà và chúng sanh, hăy nên chuyên tâm một chỗ, tưởng nơi Tây Phương. Tưởng như thế nào? Phàm là quán tưởng, hết thảy chúng sanh, nếu chẳng phải là kẻ mù từ thuở lọt ḷng, là người có mắt, đều thấy mặt trời lặn. Hăy nên tưởng niệm: Ngồi ngay ngắn hướng về phía Tây, quán chắc thật nơi mặt trời sắp lặn, khiến cho cái tâm giữ vững, chuyên tưởng chẳng đổi dời. Thấy mặt trời sắp lặn, h́nh dạng giống như cái trống treo. Đă thấy mặt trời rồi, nhắm mắt, mở mắt, thảy đều rơ ràng. Đó là phép quán tưởng mặt trời, gọi là phép Quán đầu tiên”).

 

IV.2.2.2. Phép Quán thứ nhất, quán mặt trời

 

Đoạn kinh văn vừa mới niệm chính là phép Quán thứ nhất trong mười sáu phép Quán: Quán mặt trời lặn. V́ sao mười sáu phép Quán trước hết bắt đầu từ đây? Thích Ca Mâu Ni Phật dạy phu nhân Vi Đề Hy: Muốn thấy thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật, thế giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cơi Phật ở phương Tây, phải thấy bằng cách nào? Nhục nhăn của phàm phu chẳng thể thấy được cơi ấy. Nhưng phải thấu hiểu: Tuy là phàm phu, phàm phu đều có bản tánh. Kinh Hoa Nghiêm đă nói bản tánh là Nhất Chân pháp giới, trong Nhất Chân pháp giới thứ ǵ cũng đều có. V́ bọn phàm phu chúng ta bị những ư niệm rối ren, tạp loạn, cái tâm vọng tưởng chướng ngại nó (Chân Như bản tánh). Sau khi đă bị chướng ngại, nói cách khác, sẽ chẳng thấy tất cả cảnh giới thật sự tốt đẹp. Muốn thấy, phải nên làm như thế nào? Phải nương theo Phật pháp, Phật pháp chỉ dạy bọn chúng sanh phàm phu như chúng ta sử dụng phương pháp, nương theo từng bước một để tu tập th́ mới có thể trông thấy. V́ thế, giảng Thập Lục Quán Kinh nhằm mục tiêu [dạy chúng sanh] quán tưởng thế giới Cực Lạc. Quán thế giới Cực Lạc để nắm chắc văng sanh. Do vậy, trước hết, nói đến phép Quán thứ nhất là nhật quán, [tức là] trước hết là quán mặt trời lặn!

          Bây giờ, chúng ta xem kinh văn. “Phật cáo Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy: “Nhữ cập chúng sanh”, “nhữ” () là bà, bà và chúng sanh phàm phu mong thấy thế giới Cực Lạc th́ có cách nào? “Ưng đương chuyên tâm hệ niệm nhất xứ, tưởng ư Tây Phương” (Hăy nên chuyên tâm hệ niệm một chỗ, suy tưởng Tây Phương). Đoạn này nhằm dạy phu nhân Vi Đề Hy tổng nguyên tắc dụng công, “ưng đương chuyên tâm” (hăy nên chuyên tâm). V́ sao phải chuyên tâm? Bọn chúng sanh phàm phu chúng ta hăy tự ngẫm xem, tâm chúng ta chẳng thể chuyên. Suốt ngày từ sáng đến tối, tâm tư của chúng ta chẳng nghĩ chỗ này, bèn nghĩ sang chỗ nọ! Trong Bách Pháp Minh Môn Luận có nói Tâm Sở nhiều ngần ấy. Tâm chúng ta chẳng phải là Tâm Sở này th́ sẽ là Tâm Sở kia, rong ruổi khắp nơi! Chẳng an tĩnh một thời, một khắc nào! Thậm chí, ban đêm khi ngủ nghê, nằm mộng vẫn rong ruổi khắp nơi. Nếu là như vậy, làm sao có thể thấy thế giới Cực Lạc cho được? Chẳng thấy được! Chúng ta mong ở trong thế gian này để nghiên cứu học vấn, hoặc làm một chuyện ǵ đó, mà cái tâm loạn như thế, cũng chẳng thể thành công đâu nhé! Quư vị nghiên cứu bất cứ loại học vấn thế gian nào, mà đều chẳng thể chuyên tâm, tâm tán loạn dường ấy th́ cũng chẳng thể làm được, huống hồ là xuất thế gian! Mong thấy thế giới Cực Lạc, chẳng chuyên tâm sẽ chẳng thể. Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu rơ cái tâm của chúng sanh phàm phu đều là như vậy, cho nên Ngài dạy: Nhất định là phải chuyên tâm! Chuyên tâm th́ chuyên bằng cách nào? Chính là “hệ niệm nhất xứ”. “Tâm” của chúng ta chính là ư niệm, ư niệm của bọn chúng sanh phàm phu chúng ta giống như ḍng nước chảy, liên tục chẳng ngừng dâng lên, dâng lên rồi hạ xuống, một mực liên tục. Những ư niệm ấy đều là tán loạn. Nếu quư vị muốn chuyên tâm, trước hết phải khống chế ư niệm, ước thúc ư niệm. “Hệ niệm” là ước thúc ư niệm vốn rất rối loạn, ước thúc vào đâu? Ước thúc vào một chỗ, chẳng để nó chạy lung tung. “Nhất xứ” là ǵ? “Tưởng ư Tây Phương”. Ước thúc ư niệm vào Tây Phương, khiến cho tâm định nơi một chỗ, tưởng Tây Phương.

 

IV.2.2.2.1. Trực chỉ Tây Phương

 

          Xin quư vị mở đề cương bài giảng. V́ sao phải chỉ thẳng vào Tây Phương? Trong đề cương bài giảng, sau phần “sơ nhật quán” (phép quán thứ nhất, quán mặt trời) là “trực chỉ Tây Phương”. Chỉ thẳng vào Tây Phương, chủ yếu là v́ thế giới Cực Lạc ở phía Tây của thế giới Sa Bà, thuộc về hướng Tây, [đồng thời] c̣n nhấn mạnh công phu định lực, chuyên tâm tu công phu định lực. Cách tu công phu định lực như thế nào? Nói tới cách chuyên tâm hệ niệm nhất xứ. Chẳng hạn như nói: Nói theo chỗ bản thân ḿnh đang ở, xét theo bốn phương tám hướng và trên dưới (tức là mười phương), tư tưởng của bọn chúng sanh b́nh phàm chúng ta rong ruổi lung tung, rong nơi này, ruổi nơi kia, chẳng thể tập trung được. Chúng ta theo đúng lời dạy trong Phật pháp, đặt tâm chuẩn theo một phương hướng, những phương khác như Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới, đều không màng tới, chuyên môn chuẩn theo phương Tây. Trong biểu đồ có nói “trực chỉ Tây Phương” th́ sẽ “tâm ĺa chín phương”, có nghĩa là tâm chúng ta chuyên môn chuẩn theo Tây Phương, sẽ ĺa khỏi chín phương khác. Đó là điều thứ nhất.

Chuyên chú nơi Tây Phương c̣n có một tác dụng nữa: Có thể tập trung tâm tư, ư niệm của chúng ta vào một chỗ, đó gọi là “thâu duyên nhất xứ” (gom hết các duyên về một chỗ). Duyên là ǵ? Duyên là phan duyên (攀緣, nắm níu). Tâm bọn phàm phu chúng ta chẳng phan duyên ở nơi đây, sẽ phan duyên ở nơi kia. V́ sao có sanh tử? Có sanh tử là kết quả của chuyện cái tâm chúng ta phan duyên khắp nơi. Phan duyên chỗ nào sâu nhất, trong tương lai, khi hết tuổi thọ, sẽ chuyển sanh về nơi đó. Ví như một kẻ khi tham, sân, si, mạn, nghi nặng nhất, duyên của kẻ ấy ở trong địa ngục, đó là điều nhất định. Hơi nhẹ hơn một chút, duyên của kẻ ấy ở trong súc sanh đạo, hoặc quỷ đạo v.v… toàn là kết quả do cái tâm phan duyên của chính ḿnh. Nay phải dùng phương pháp nào để dụng công? [Phương pháp nào] có thể thâu hồi cái tâm phan duyên khắp nơi của chúng ta lại, chẳng để cho nó phan duyên khắp nơi trong thế gian. Tâm chúng ta rất loạn! [Tâm phàm phu] chẳng thể nào không phan duyên! Các tông như Thiền Tông, Duy Thức Tông, Thiên Thai Tông… dạy pháp môn thông thường, tức là phải trừ khử vọng niệm của chính ḿnh, chẳng phan duyên khắp nơi, nhưng muốn giữ cho ư niệm chẳng phan duyên khắp nơi quá khó khăn! Cái khéo léo của pháp môn Tịnh Độ là quư vị chẳng cần phan duyên nơi nào khác, cứ phan duyên một nơi là được rồi. Dụng công như vậy khá dễ dàng, là pháp phương tiện hay nhất, mà cũng là diệu pháp khéo léo nhất. V́ thế, trong biểu đồ ấy đă ghi “thâu duyên nhất xứ”, [nghĩa là] thâu hồi tâm niệm phan duyên khắp nơi lại; nhưng do [tâm phàm phu] chẳng thể nào không phan duyên, vậy th́ phan duyên một chỗ, sẽ gọi là “thâu duyên nhất xứ”. Thâu duyên nhất xứ như thế nào? Hết thảy đều phải quy về một. Thân chúng ta phải quy về một, tâm cũng phải quy về một. Khi chúng ta làm công đức hồi hướng, cũng phải quy về một. Trong hoàn cảnh sống, trong cảnh giới gặp gỡ của chúng ta, hăy c̣n có sự tương tục (nói “tương tục” (liên tục) nghĩa là tiền nhân hậu quả của vạn pháp, nhân quả liên tục nối tiếp), những pháp ấy cũng đều quy về một. C̣n có quy y, chánh niệm v.v… không ǵ chẳng cần phải thâu hồi các duyên về một chỗ. Đó chính là diệu pháp chuyên tâm. Nếu có thể làm đúng như vậy, sẽ có thể “tưởng thành tựu”, tức là quán tưởng có thể thành tựu!

 

IV.2.2.2.2. Quán mặt trời lặn

 

          “Tưởng ư Tây Phương” (Tưởng nơi Tây Phương); tiếp đó, [kinh văn nói] “vân hà tác tưởng?”, [nghĩa là] quư vị phải tưởng như thế nào? Thực hiện công phu quán tưởng như thế nào? Đó là một câu hỏi. Tiếp đó, đức Phật tự hỏi, tự đáp, “phàm tác tưởng giả”, [nghĩa là] hễ muốn quán tưởng. Sau đó, Ngài nêu ra điều kiện. Điều kiện ǵ vậy? “Nhất thiết chúng sanh”, [nghĩa là] hết thảy chúng sanh đương nhiên đều có thể [quán tưởng]. “Tự phi sanh manh” (chẳng phải là kẻ sanh manh), nói tới ngoại lệ. Gọi là “sanh manh” (生盲) tức là sanh ra đă chẳng nh́n thấy, vừa sanh ra đă là người mù. V́ sao kẻ sanh ra đă là người mù chẳng thể quán? V́ kẻ ấy chưa từng thấy mặt trời, đương nhiên là gặp rất nhiều khó khăn. Trừ hạng người ấy ra, “hữu mục chi đồ” [nghĩa là] những kẻ có con mắt lành lặn, “giai kiến nhật một”, [nghĩa là] đều từng thấy cảnh tượng mặt trời lặn. Tổ sư chú giải như sau: Trừ kẻ mù từ thuở lọt ḷng ra, [dẫu là kẻ] mai sau mắt chẳng thấy đường th́ vẫn c̣n có thể [tu phép Quán này] được, [bởi lẽ], trước khi người ấy c̣n chưa mù, đă từng nh́n thấy mặt trời. Quư vị dạy người ấy phương pháp này, bảo kẻ ấy quán tưởng, do trong tâm kẻ ấy đă có ấn tượng về mặt trời, vẫn có thể [tác quán]. Chỉ cần người ấy đă từng thấy mặt trời lặn, sẽ đều có thể quán tưởng. Đă đều từng trông thấy mặt trời lặn; khi ấy, quư vị sẽ quán tưởng. “Đương khởi tưởng niệm” (Hăy khởi lên sự tưởng niệm), khi quán mặt trời, hoàn toàn chẳng phải là dùng mắt để thấy, mà là tưởng, sanh khởi sự tưởng niệm. V́ sao tác quán mà nói đến Tưởng? Chữ Tưởng () này chính là dùng cái tâm () để nghĩ đến Tướng (), khiến cho tâm tư, tâm niệm đặt nơi cảnh giới mặt trời lặn. Nói cách khác, lấy cảnh mặt trời lặn làm một thứ cảnh giới, [tức là] cảnh giới để quán. Năng Quán chính là ư niệm có thể suy tưởng. Do chúng ta đă đều từng trông thấy mặt trời lặn, cảnh giới đă có; khi ấy, có thể dấy khởi tâm lư suy tưởng, có thể quán và tưởng tượng, sẽ khởi lên sự suy niệm.

          Quán tưởng chẳng dễ dàng! Mọi người đều biết pháp chúng ta tu là tŕ danh niệm Phật, là niệm Phật hiệu. Đă là niệm Phật hiệu, v́ sao chúng ta c̣n phải nghiên cứu Quán Kinh? Quán Kinh nói về quán tưởng. Nếu chẳng nghiên cứu Quán Kinh, chúng ta chẳng biết vận dụng công phu quán tưởng như thế nào, [chẳng biết] trong ấy có những nỗi khó khăn [như thế nào]. Nếu chẳng biết Quán, chắc là có lẽ khi người ta nói: “Quán Tưởng Niệm Phật cũng rất hay! Chúng ta hăy tu Quán Tưởng Niệm Phật!” Do chúng ta chẳng thông hiểu t́nh huống thực tế, nghe người ta khen hay bèn tu theo; đó là chuyện không hay mất rồi! Sau khi chúng ta đă hiểu rơ, biết tŕ danh niệm Phật thật sự là phương pháp tốt nhất, mầu nhiệm nhất, mà cũng là phương pháp thuận tiện nhất. Đó là một tầng ư nghĩa. C̣n tầng khác là ǵ? Tuy chúng ta không tu pháp môn quán tưởng, nhưng Quán Kinh giảng lư thấu triệt nhất. Sau khi chúng ta đă hiểu rơ Lư, cũng sẽ hữu ích rất lớn cho việc tŕ danh niệm Phật. V́ thế, chúng ta nghiên cứu Quán Kinh, phải biết dụng ư này! C̣n có một điều quan trọng nhất, cách quán tưởng trong Quán Kinh là có mục tiêu để có thể quán. Tôi vừa mới nói, giữ cho tâm tư chẳng phan duyên nơi khác, chỉ phan duyên một chỗ sẽ thuận tiện hơn nhiều! Quán tưởng như vậy vẫn c̣n là rất khó khăn, [thế mà] học tham Thiền, tŕ chú, hoặc tu những pháp môn b́nh phàm khác c̣n khó hơn pháp này. Để tâm lư của chúng ta có thể an định, xác định là chỉ có cách tu tŕ danh niệm Phật mới là ổn thỏa, thích đáng nhất! Hiểu rơ những điều này, tín tâm của chúng ta đối với pháp tŕ danh niệm Phật sẽ càng tăng tấn!

          “Chánh tọa Tây hướng” (Ngồi ngay ngắn hướng về Tây): Trong khi chúng ta dấy lên sự tưởng niệm, chẳng tùy tiện như tŕ danh niệm Phật, mà phải Thiền tọa, hoặc tĩnh tọa. Tĩnh tọa là ngồi ngay ngắn, hướng thẳng về phía Tây. Sau khi đă ngồi ngay ngắn, “đế quán ư nhật dục một chi xứ” (hăy quán chắc thật chỗ mặt trời sắp lặn), quư vị đế quán (quán tưởng rơ ràng, cặn kẽ) nơi mặt trời c̣n chưa lặn hẳn, tức là Tây Phương. Khi ấy, quư vị “linh tâm kiên trụ”, [nghĩa là] khiến cho cái tâm của quư vị kiên cố bất động trụ nơi cảnh đế quán. “Chuyên tưởng bất di” (chuyên tưởng chẳng dời), dụng công tốt đẹp, tâm quư vị có thể “kiến nhật dục một” (thấy mặt trời sắp lặn), tức là thấy trạng huống của mặt trời đang lặn, “trạng như huyền cổ”, [nghĩa là] mặt trời sắp lặn có h́nh dạng giống như cái trống đang treo trong đại điện (trống ở đại điện rất to lại có hai mặt, hai đầu đều bịt kín), to như mặt trống vậy. Mặt trời treo ở hướng Tây giống như cái trống. V́ thế nói: Dụng công tốt đẹp, sẽ thấy mặt trời to như cái trống treo vậy!

          Kế đó, xin quư vị xem biểu đồ, phần “quán nhật một” (quán mặt trời sắp lặn). Kinh văn nói rất đơn giản, xem lời chú giải của tổ sư, chúng ta cảm thấy làm theo phương pháp này rất khó khăn. Biểu đồ này nói về cách quán mặt trời lặn; v́ sao quán mặt trời lặn? Hàng thứ nhất ghi: “Chỉ phương hữu tại” nghĩa là chỉ ra một phương hướng. Ví như đối với phương Tây, nếu hời hợt nói là phương Tây, tâm tư cũng rất khó tập trung. Chỉ một nơi cố định là hướng Tây chỗ mặt trời lặn, tức là có phương hướng, có nơi chốn tồn tại, tâm dễ đặt nơi đó. Vẫn phải nhấn mạnh “chỉ phương hữu tại” (chỉ ra phương hướng ở nơi đâu), v́ đối với địa cầu của chúng ta, trong bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, phương vị mặt trời lặn cũng không luôn luôn chánh xác như vậy. Chánh xác nhất là trong hai khoảng thời gian, một là mùa Xuân, hai là mùa Thu. Do vậy, quư vị muốn chuẩn bị dụng công, phải chọn sẵn địa điểm mặt trời lặn cố định. Như nói đến mùa Hạ hoặc mùa Đông, [phương vị mặt trời lặn] sẽ chẳng phải là đúng ngay phương Tây, c̣n trong hai mùa Xuân và Thu, mặt trời lặn đúng ngay ở phương Tây. V́ thế, tổ sư nói: Phải chọn chỗ mặt trời lặn trong mùa Xuân và mùa Thu, ấn định địa điểm chắc chắn. Trước hết, chọn cố định hướng Tây ở bên ngoài nhà xong, khi trở về, trong khi tĩnh tọa (chẳng thể ngồi trong núi non hay trong đồng hoang đâu nhé! Phải quay về tĩnh tọa trong căn nhà chính ḿnh đang ở, hoặc ở trong đạo tràng, hoặc ở trong căn nhà mà bản thân quư vị chuyên môn dùng để tu tŕ), c̣n có rất nhiều phương pháp phải chú ư.

          Quán mặt trời, một mục đích là chỉ ra phương hướng tồn tại, c̣n ǵ nữa? V́ sao phải quán mặt trời? Chúng ta biết chúng sanh phàm phu không dụng công th́ thôi; khi dụng công đôi chút, sẽ cảm thấy tâm tư của chính ḿnh rong ruổi lung tung, có rất nhiều hiện tượng tán loạn, tướng hư vọng dấy lên. Nhờ vào [quán tưởng] mặt trời để biết rơ chính ḿnh có bao nhiêu nghiệp chướng. Nếu tổ sư chẳng chú giải đạo lư này, chúng ta chẳng biết! Có rất nhiều người tự học tĩnh tọa, tập tĩnh tọa mà không hiểu rơ học lư, cứ tĩnh tọa theo kiểu tu mù luyện đui, chuốc phải ma chướng mà chính ḿnh vẫn không biết! Phải đặc biệt chú ư điều này! V́ thế, khi quán mặt trời lặn, cũng là để cho chúng ta hiểu rơ chính ḿnh có bao nhiêu nghiệp chướng và chướng ngại. Những chướng ngại ấy có nhẹ và nặng, càng dụng công, chính ḿnh có thể kiểm nghiệm nhận biết. Đối với phần kinh văn ở đây, chúng tôi chiếu theo chú giải của tổ sư. Các vị tổ sư toàn là những bậc từng trải, khi các Ngài dụng công đă thấy những hiện tượng này. V́ thế mới chú giải điều này. Ghi chú trong biểu đồ dựa theo lời chú giải của Thiện Đạo đại sư trong Tịnh Độ Tông (Ngài là tổ sư của Tịnh Độ Tông).

          Phía sau hàng chữ “tri chướng khinh trọng” (biết chướng nặng hay nhẹ) [trong biểu đồ] chính là nói về phương pháp dụng công: Thứ nhất là nói về “tọa pháp”. “Tọa pháp” (坐法) là nói đến tĩnh tọa. Trước khi tĩnh tọa, phải chú ư: Chúng ta muốn dụng công tĩnh tọa th́ nên thực hiện vào lúc nào? Khi quư vị vừa mới ăn thứ ǵ đó hoặc dùng cơm xong, đă ăn no th́ chẳng thích hợp, hoặc khi đói quá th́ cũng không thích hợp. Lúc chẳng đói quá, mà cũng chẳng phải là lúc ăn rất no, lúc thân thể, bao tử, và ruột b́nh thường chính là lúc tốt nhất để dụng công. Tĩnh tọa th́ đương nhiên là ở trong nhà, quư vị ngồi ở đó, tốt nhất là phía trước và phía sau đừng có gió thổi (thân thể đừng nên để gió lùa). Hễ có gió thổi th́ ngồi lâu, thân thể của chính ḿnh bị tổn hại mà vẫn không biết; cần phải chú ư điều này! Đây là nói đến “tĩnh tọa”, chứ chúng ta tŕ danh niệm Phật, có ngồi hay không, chẳng sao cả! Quán th́ phải tọa, tọa là “tĩnh tọa”.

          Nói thông thường, “tĩnh tọa”“kết già phu tọa” (結跏趺坐), có bán phu tọa (半趺坐) và toàn phu tọa (全趺坐). Trước hết, nói về cách toàn tọa (全坐, ngồi xếp bằng trọn vẹn). “Toàn tọa” có hai loại:

1) Một loại là trước hết đặt chân phải đè lên đùi trái, lại dùng chân trái đè lên đùi phải; sau đó, hai tay th́ cũng là tay phải xếp chồng lên tay trái. Loại này được gọi là Hàng Ma Tọa (降魔坐). Thông thường, Thiền Tông dùng cách ngồi này.

2) Một cách ngồi khác nữa là Cát Tường Tọa (吉祥坐). Cát Tường Tọa ngược với Hàng Ma Tọa, trước hết đặt chân trái đè lên đùi phải, sau đó, chân phải đè lên đùi trái. Đó là Cát Tường Tọa, tay th́ cũng chồng tay phải lên tay trái. Tuy có sự phân biệt ấy, nhưng tổ sư cũng nói: Quư vị xếp bên trái hay bên phải trước đều được, quư vị ngồi lâu đổi bên cũng được. Tùy tiện theo thói quen dùng một cách cũng đúng. Cách này gọi là Song Bàn (雙盤, khoanh cả hai chân lại), lại c̣n gọi là Toàn Già Phu Tọa.

          C̣n có Bán Tọa (半坐). Bán Tọa là quư vị chỉ xếp chồng một chân, [nghĩa là] một chân đặt ở dưới, xếp chồng chân kia lên trên là được. Bất luận chân trái hay chân phải [ở trên] đều được! Cách này gọi là Bán Tọa, hoặc Bán Già Tọa. Đấy là nói theo lẽ thường. Chẳng thể Toàn Tọa th́ Bán Tọa cũng được! Sau khi đă ngồi theo kiểu Bán Tọa lâu ngày đă quen, có thể dần dà luyện tập Toàn Tọa. Khi bắt đầu th́ thời gian ngồi ngắn một chút; đă quen, ngồi lâu hơn cũng được. B́nh thường phải luyện tập chuyện này dần dần! Nếu vừa khởi đầu, quư vị bèn quyết định ngồi rất lâu, thân thể và đùi cũng chịu không nổi! Phải luyện tập dần dần!

          Trước hết, nói về cách ngồi là như thế đó. Có thể thấy là nếu quư vị dùng pháp môn quán tưởng, chẳng ngồi sẽ không được, thân thể chẳng tĩnh được, nhất định là phải ngồi an ổn ở một chỗ nào đó. Sau khi đă ngồi xuống, bất luận là quư vị ngồi Toàn Già cũng thế, mà ngồi Bán Già cũng thế, thân thể phải giữ sao cho ngay thẳng, đừng ngả về phía trước, cũng chẳng ngửa về phía sau, cũng chẳng thể có chỗ dựa lưng ở phía sau, [nếu không] sẽ bị tổn thương! Hăy rất tự nhiên giữ thẳng người. Sau khi đă ngồi ổn định rồi th́ sao? Nhắm mắt lại. V́ sao cần phải nhắm mắt? V́ quư vị đang tưởng. Nếu mở mắt ra, ánh sáng bên ngoài sẽ gây trở ngại cho cái tâm đang suy tưởng. Nhắm mắt lại để tưởng, quư vị càng dễ tập trung tâm niệm. Hơn nữa, miệng cũng ngậm lại, hơi thở ra vào nơi mũi cũng nhẹ nhàng hơn. Trong chú giải, tổ sư có nói: Những điều này đều là những điểm chánh yếu rất quan trọng. Những điều khác, chẳng hạn như phải điều tiết hơi thở như thế nào, xin các vị hăy tự xem chú giải của tổ sư, chẳng cần phải nói rất cặn kẽ!

          Sau khi đă hiểu rơ cách ngồi, quư vị ngồi xuống, đương nhiên là ngoảnh mặt về phía Tây, hướng về phía Tây mà ngồi. Sau khi đă ngồi, lại c̣n chẳng thể quán ngay lập tức, mà phải có những chuẩn bị trước. Những sự chuẩn bị ấy được gọi là “tán Tứ Đại”. Tán Tứ Đại là ǵ? Thân thể của bọn chúng sanh phàm phu chúng ta do Tứ Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong giả hợp. Chúng ta chấp trước thân thể do Tứ Đại giả hợp, tâm đặt nơi đó, muốn tưởng nơi khác cũng rất khó. V́ thế, nhất định là phải tán khai Tứ Đại trước. Tán như thế nào? Tổ sư dạy: Địa Đại nơi thân thể của chúng ta là ǵ? Chính là da dẻ, thịt, gân, xương v.v… nơi nhục thể, những thứ ấy đều là Địa Đại. Tâm chúng ta đem những thứ ấy nơi thân thể tán khai về hướng Tây. Một mực tán về Tây, đối với chỗ gần, tán chẳng hết, hăy một mực tán về phía trước. Một mực tán măi cho đến khi chẳng c̣n mới thôi! Phương Tây rất xa, tận hết sức tán về phía trước, tán cho đến khi trống rỗng chẳng c̣n ǵ nữa. Đó là đă tán xong Địa Đại. Cũng giống như vậy, trong thân thể chúng ta có chất lỏng, đó là Thủy Đại. Thủy Đại là huyết dịch, mồ hôi, trong miệng có nước miếng v.v… Những thứ ấy đều là chất lỏng, tâm cũng tán những thứ ấy ra ngoài. Hướng về đâu để tán? Tán về phương Bắc, phương Bắc thuộc Thủy, [cho nên] tán về phương Bắc. Cũng có nghĩa là khởi đầu tán từ chỗ gần; tán chẳng hết, cứ một mực tán về trước. Một mực tán cho đến khi hết sạch mới thôi. Những thứ khác như Phong Đại, thân thể chúng ta có thể cử động, đi lại, đều là Phong; hô hấp chính là Phong. Phong tán như thế nào? Hướng về phương Đông để tán, một mực tán cho đến khi rỗng không mới thôi! Trong Địa, Thủy, Hỏa, Phong, c̣n có Hỏa Đại. Hỏa Đại là hơi ấm trong thân thể, phía Nam thuộc Hỏa. Hướng về phía Nam để tán, cũng là một mực tán, tán cho đến khi chẳng c̣n, hỏa khí hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Tán hết mới thôi. Đó gọi là “tán Tứ Đại”. Tứ Đại đều đă tán xong, dường như là trống rỗng, chẳng có ǵ, hăy c̣n có quan niệm Không, tán khai [quan niệm Không] như thế nào? Đem Không dung hợp với toàn thể hư không trong bốn phương, cùng với bốn phương hư không hoàn toàn dung hợp thành một Thể. Như vậy th́ toàn thể ư niệm Không của chính ḿnh sẽ đều chẳng có; khi ấy, mới có thể khởi tâm quán tưởng. Cái tâm ấy mới là thuần túy, mới là thuần tưởng. Nếu Tứ Đại kể cả quan niệm Không chưa tán sạch hết, tưởng sẽ là tạp loạn tưởng, công phu chẳng vận dụng được. V́ thế, nhất định là phải sau khi đă tán xong hoàn toàn, tưởng mới có thể thuần nhất.

          Chúng ta đă biết quán pháp, có tác dụng hay không? Hữu dụng! Khi tŕ danh niệm Phật, thiện tri thức thường nói: “Buông xuống vạn duyên, thật thà niệm Phật”. Buông xuống vạn duyên như thế nào? Chính cái thân thể của chúng ta là do Tứ Đại giả hợp, hăy buông thân thể xuống (buông xuống toàn thân), sau đấy dấy khởi Phật hiệu th́ mới hữu dụng. Hễ dấy khởi bèn có thể đạt được cảm ứng.

          Ở đây là nói về cách Quán: Có thể tán khai toàn bộ Tứ Đại và tướng Không; khi đó, quán mặt trời chỉ c̣n sót lại một cái tâm năng quán. Tâm năng quán chỉ có một, rất thuần túy. Khi ấy, v́ b́nh thường chúng ta đều đă từng thấy mặt trời lặn, nay Tứ Đại đă tán khai, chẳng chấp trước những thứ ấy, tâm cũng chẳng nắm níu vào nơi đó. Lúc đó, tâm tưởng rất thuần, hễ dấy lên bèn tưởng mặt trời lặn, cảnh tượng mặt trời lặn có thể hiển hiện. Sự hiển hiện ấy là hiển hiện trong tâm, tuy nhắm mắt, nhưng cảnh tượng mặt trời có thể hiện ra trong tâm nhăn. Đó gọi là “quán mặt trời”.

          Ở đây, chúng ta phải thấu hiểu một đạo lư, tức là sau khi đă tán Tứ Đại, nhắm mắt tưởng, mặt trời xuất hiện, đó là đạo lư ǵ vậy? Điều đó có nghĩa là: Mặt trời mà chúng ta thường thấy là một cảnh giới ở bên ngoài, trong tâm chúng ta hiển hiện mặt trời, tức là cái vốn có trong nội tâm của chúng ta, đó chính là như khi vừa mới bắt đầu, tôi đă nói là Nhất Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới, muốn ǵ bèn có nấy. V́ thế, người tu đạo hiểu rơ: Chỉ cần chẳng chấp trước giả pháp và các hiện tượng trong thế gian này, danh cũng thế, mà lợi cũng thế, hết thảy núi, sông, đại địa, chỉ cần chẳng chấp trước những thứ ấy, bảy báu trong bản tánh bèn hiển hiện. Thế giới Cực Lạc hiển hiện như thế đó! Tâm đă tĩnh, vừa tưởng, mặt trời bèn hiện ra. Khi nó xuất hiện, ta thấy [trong đồ biểu có ghi] “chướng tướng” (障相, tướng chướng ngại), phải hiểu rơ [tướng mặt trời xuất hiện do quán tưởng ấy] có chướng ngại, chướng ngại ǵ vậy? Ngay trong lúc chúng ta nhắm mắt, vận dụng công phu quán tưởng, ánh sáng của mặt trời lộ ra, giống như một vầng mặt trời xuất hiện ở trong ấy. Nếu thấy [mặt trời] rành rẽ, rơ ràng, chẳng có chút tỳ vết nào, đương nhiên là tốt đẹp. Nhưng Thiện Đạo đại sư bảo: Khi chính Ngài thật sự dụng công, vầng sáng vừa xuất hiện, có thể có mấy thứ chướng ngại. Những thứ chướng ngại ấy giống như mặt trời bị các tầng mây che khuất. Tầng mây che khuất mặt trời tức là mặt trời bị chướng ngại! Khi chúng ta tác quán, [cảnh tượng] mặt trời lặn vừa xuất hiện, trên vầng mặt trời lặn ấy, có thể có ba loại hiện tượng:

- Một loại là chướng ngại vật màu đen, che một nửa hoặc che một phần mặt trời.

- Hoặc là một loại chướng ngại vật màu vàng che khuất nó.

- Hoặc là một loại chướng ngại vật màu trắng che lấp nó.

Tổ sư bảo: Ngoài những thứ ấy ra, c̣n có những thứ khác (Ngài chỉ nói mấy thứ), những thứ ấy đều là “chướng tướng” (tướng chướng ngại). Nếu thấy có mặt trời, sau khi [cảnh tượng] mặt trời lặn đă xuất hiện trong tâm, ngay lập tức có mấy hiện tượng ấy che lấp một phần, hăy biết đó là chướng ngại của chính ḿnh. V́ sao có các loại chướng ngại ấy? Bọn chúng sanh phàm phu chúng ta, ngoài những ác nghiệp đă trót tạo trong một đời này, từ vô thỉ tới nay, trong đời đời kiếp kiếp, đă tạo rất nhiều nghiệp, đó đều là nghiệp chướng. Lúc đó, làm cách nào? Ngay lập tức “sám hối”. Khi ấy, phải thật sự sám hối. Nếu lúc ấy, chẳng sám hối diệt trừ, sẽ không thể vượt qua được cái ải tác quán ấy! V́ thế, nói đến chuyện Quán Tưởng Niệm Phật chẳng hề đơn giản đâu nhé! Tổ sư dạy: Hễ xuất hiện các vật chướng ngại như vậy, phải ngay lập tức sám hối. Phải đối trước Phật sám hối, một mực sám hối. Sau khi đă sám hối trừ diệt [những tướng chướng ngại] ấy, mới lại tiếp tục dụng công, lại quán mặt trời lặn.

          Hễ có hiện tượng nghiệp chướng ấy, phải sám hối. Người căn khí tốt đẹp (người lợi căn), hễ sám hối bèn có thể diệt trừ ba loại hiện tượng ấy cùng một lúc. Người có tŕnh độ kém hơn, chẳng thể hoàn toàn sám hối trừ hết ngay trong một lần được. Hoặc là trước hết trừ bỏ tướng đen, hoặc là sám trừ hai tướng, trừ khử dần dần. Nói tới “trừ chướng”, có tiệm trừ và đốn trừ, v́ tŕnh độ của mỗi người khác nhau. Những hiện tượng ấy phải do quán mặt trời th́ chính ḿnh mới có thể kiểm nghiệm được. Khi chẳng quán mặt trời, nghiệp chướng chẳng hiển lộ, chính ḿnh sẽ chẳng biết. Do vậy, chúng ta căn cứ trên nguyên tắc này, [để suy ra]: Nếu tŕ danh niệm Phật chẳng được, hoặc là vẫn có thể niệm Phật, vốn là niệm từng câu cũng được lắm, nhưng niệm một hồi, phiền năo dấy lên! Phải biết đó là nghiệp chướng dấy lên. Hễ nghiệp chướng dấy lên, đương nhiên là phải sám hối! Phương pháp c̣n có thể dùng được, cho nên phải quán mặt trời!

          C̣n có một điều khác nữa cần phải chú ư. Tổ sư đại đức bảo chúng ta: Mặt trời do chúng ta quán trong hiện thời rất nhỏ! [Dạy chúng ta quán mặt trời] cũng bất quá là khiến cho chúng ta thấu hiểu có một ư nghĩa như thế mà thôi! Tây Phương thật sự chẳng cần đến mặt trời, Tây Phương là một bầu quang minh. Bất luận là chánh báo cũng thế, mà y báo cũng thế. Chánh báo là A Di Đà Phật, chẳng cần phải nói! A Di Đà Phật là vô lượng quang; những vị Đại Bồ Tát và chúng sanh trong thế giới Cực Lạc đều là toàn thân quang minh. C̣n có y báo, cây cũng thế, hoa cũng thế, đất cũng thế, không chỗ nào chẳng phải là quang minh. Chúng ta có thể thấu hiểu, kinh nghiệm loại quang minh ấy ngay lập tức hay không? Chẳng hiểu được! Có thể nói là không có cách nào tưởng tượng được! Đă là không có cách nào tưởng tượng, chúng ta tưởng bằng cách nào? Trong phần kinh văn trước đó đă có nói: Do tâm lượng của chúng sanh phàm phu hữu hạn, cho nên đức Phật dùng rất nhiều tỷ dụ. Ngài dùng mặt trời để dạy chúng ta quán mặt trời lặn, đó là tỷ dụ! Quang minh của mặt trời và quang minh từ chánh báo và y báo của Tây Phương có phần tương tự. V́ thế, khi chúng ta quán mặt trời, từ ánh sáng mặt trời có thể tưởng tượng “y chánh quang minh” (quang minh nơi y báo và chánh báo) trong Tây Phương.

          Chiếu theo phương pháp như vậy để quán tưởng, quán thấy mặt trời xuất hiện. V́ thế, kinh văn chép: “Kư kiến nhật dĩ”, [nghĩa là] ngồi ở đó, đă thấy h́nh ảnh mặt trời, nhắm mắt, dụng tâm để tưởng, tưởng thấy mặt trời. Mặt trời ấy giống hệt như mặt trời bên ngoài, thậm chí c̣n lớn hơn, h́nh trạng giống như mặt cái trống treo trên đại điện, tṛn xoe, to như vậy đó. Sau khi đă tưởng thấy, những thứ chướng ngại như đă nói trên đây đều chẳng có. Quư vị vốn nhắm mắt [mà tướng mặt trời] xuất hiện, do dụng tâm tưởng ra. Tưởng đă thành công th́ không chỉ là nhắm mắt thấy, mà mở banh mắt cũng trông thấy. Đó là quán thành công, quán mặt trời [thành công]. Điều này có nghĩa là: “Bế mục, khai mục”, [tức là] nhắm mắt cũng thế, mà mở banh mắt cũng thế, “giai linh minh liễu” (thảy đều rơ rệt), đều có thể thấy phân minh, rơ rệt, rành rẽ!

 

IV.2.2.2.3.Tham chấp tâm tướng

 

          Sau khi đă quán thấy mặt trời, tổ sư dạy chúng ta phải chú ư (các vị xem biểu đồ), chớ nên tham chấp tâm tướng! Giả sử chúng ta quán thấy mặt trời, tâm sanh hoan hỷ, chấp trước mặt trời, th́ lại chẳng được rồi! Do vậy, trong biểu đồ, ghi rơ “tham chấp tâm tướng”. Hễ tham chấp th́ sao? Hễ tham chấp, “tâm thủy động” (nước tâm xao động). Sở dĩ chúng ta có thể tưởng thấy tướng mặt trời, là do trước đó đă vận dụng công phu nhiều ngần ấy, tán khai Tứ Đại, rỗng không hết thảy căn, thân, cảnh giới, cái tưởng “tinh thuần là tưởng” xuất hiện. V́ sao bảo là “cái tưởng tinh thuần là tưởng”? Nói theo kiểu tỷ dụ, tâm tánh của chúng ta giống như nước. Nước tĩnh lặng, trong trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối th́ mới có thể chiếu soi. Hễ quư vị tham chấp, tâm thủy bèn chao động. Hễ chao động th́ sao? “Tịnh cảnh thất”, tức là tướng mặt trời ngay lập tức ẩn mất, chẳng c̣n xuất hiện nữa. Khi cảnh giới đă mất, tiếp đó sẽ là ǵ? “Động ám ngũ sắc”, hoặc là ư niệm trong tâm lại dấy động, hoặc là hiện tượng tối tăm, mờ nhạt, màu sắc nâu, xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, các thứ màu đều xuất hiện. Đấy là nghiệp chướng lại xuất hiện. V́ thế, nếu thấy t́nh h́nh ấy, ngay lập tức phải buông cái tâm tham chấp xuống. Khi có hiện tượng ấy xuất hiện, hăy ngay lập tức lập lại từ đầu, vẫn là như trong phần trước đă nói, phải tán khai Tứ Đại, phải dấy khởi ư niệm thuần tưởng, lại quán tưởng trở lại. Đó gọi là “hoàn tùng bổn tu” (lại tu từ gốc).

          Mọi người chúng ta học tŕ danh niệm Phật, có khi đang mải miết niệm, [cảm thấy] thanh tịnh, vẫn tiếp tục niệm Phật hiệu, trong tâm bỗng động niệm: “A! Đây là cảnh giới ǵ? Có lẽ [cảnh giới tâm thanh tịnh như thế này] là nhất tâm bất loạn đó chăng?” Hễ vừa nghĩ như thế, tâm ngay lập tức bị loạn! V́ thế, trong khi chúng ta tŕ danh niệm Phật, đă thấu hiểu tầng ư nghĩa này, phải nên nhắc nhở chính ḿnh cảnh giác: Bất luận chúng ta tŕ danh niệm Phật, tŕ thanh tịnh đến mức độ nào, chỉ quan tâm một mực tŕ măi, một mực niệm măi. Trong tâm chớ nên sanh tâm hoan hỷ, chớ nên hy vọng nhất tâm bất loạn, cũng chẳng cần nghĩ đó có phải là “tịnh niệm tương kế” hay không? Chớ nên xuất hiện những tâm ấy! Hễ những tâm niệm ấy vừa xuất hiện, Phật hiệu của chúng ta sẽ bị rối loạn rất nhanh. Đạo lư là như vậy đó!

          Tiếp đó, “thị vi nhật tưởng, danh viết Sơ Quán” (đấy gọi là tưởng mặt trời, là phép Quán thứ nhất). Trong phần trên, kể từ khi nói bắt đầu dụng công như thế nào, cho đến khi quán thành công, gọi là “nhật tưởng”. Quư vị dùng phương pháp quán tưởng để tưởng cho đến khi mặt trời xuất hiện, phép quán này gọi là “Sơ Quán”. Đây là phép Quán thứ nhất trong mười sáu phép Quán của Thập Lục Quán Kinh, cho nên gọi là Sơ Quán. Hôm nay chúng tôi nói đến đây bèn ngưng; lần sau sẽ nói về Thủy Tưởng.

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 4 hết



[1] Phong trào Ngũ Tứ là một cuộc vận động đả đảo nếp sống văn hóa và trật tự xă hội đạo đức cũ bùng nổ vào ngày mồng Bốn tháng Năm năm 1919. Nguyên nhân chánh yếu là sau khi Thế Chiến thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đă kư kết ḥa ước Versailles, không cần tham khảo ư kiến của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, tự tiện chuyển giao tỉnh Sơn Đông là tô giới thuộc chủ quyền của Đức cho Nhật, cũng như nhiều điều kiện bất b́nh đẳng khác đối với Trung Hoa. Dưới ảnh hưởng tuyên truyền vận động của các giáo sư, giới sinh viên, công nhân, và viên chức thành thị đều tỏ ư chống đối, quy chụp sự yếu hèn của chánh quyền Dân Quốc là do văn hóa cũ gây ra, đặc biệt là học thuyết Khổng Mạnh. Họ hô hào triệt để thay đổi văn hóa cũ bằng văn hóa Âu Tây. Các lănh tụ chủ chốt của phong trào này là Thái Nguyên Bồi (viện trưởng đại học Bắc Kinh thuở ấy), Châu Gia Hoa (khoa trưởng khoa địa chất đại học Bắc Kinh), Trần Độc Tú, Hồ Thích, Lương Khải Siêu, Lâm Trưởng Dân, Lỗ Tấn… Ngày mồng Bốn tháng Năm, hơn ba ngàn sinh viên thuộc mười ba trường đại học đă họp mặt tại Bắc Kinh biểu t́nh thị uy, hô hào biểu ngữ phản đối chánh quyền, tẩy chay hàng hóa Nhật Bản. Thậm chí quá khích đến nỗi triệt để cấm sử dụng Văn Ngôn trong trường học, cấm không được giảng dạy Tứ Thứ Ngũ Kinh cũng như các tác phẩm của Nho gia và Phật giáo trong nhà trường. Phong trào Ngũ Tứ đă mở đường cho các tay trí thức khuynh tả như Trần Độc Tú, Lư Đại Chiêu v.v… thừa cơ tuyên truyền chủ nghĩa Cộng Sản, sau đó thành lập đảng Cộng Sản Trung Hoa. Trong số đó, Lương Khải Siêu là người tích cực đả đảo Khổng Học. Về sau, ông Lương lại đột ngột thay đổi, đề cao Khổng Học thái quá, hô hào phải thay thế mọi tôn giáo bằng Khổng Học, phải coi Khổng Tử như một giáo chủ tôn giáo v.v… nên bị rất nhiều người chỉ trích.

[2] Nghi Lễ là sách ghi chép các lễ tiết trước thời Tiên Tần (trước khi Tần Thủy Hoàng diệt lục quốc, thống nhất Trung Nguyên), chủ yếu chép về những lễ nghi dành cho hàng sĩ đại phu. Kể từ thời Hán, Lễ Kinh chính là sách Nghi Lễ. Bản Nghi Lễ được lưu hành hiện thời do Cao Đường Sanh lưu truyền từ thời Hán gồm mười bảy thiên. Đến đời Đường, Lễ Kinh lại là sách Tiểu Đới Lễ Kư. Dần dần kinh Lễ trở thành Tam Lễ tức Nghi Lễ, Lễ Kư và Châu Lễ.

[3] Thi Nhăn (詩眼): Chữ chủ yếu trong một bài thơ, diễn tả ư tưởng chánh yếu của một bài thơ.

[4] Nguyên văn là “đài phong” (颱風) là băo lốc nhiệt đới (thường được biết dưới danh xưng Typhoon trong tiếng Anh), thường thấy ở vùng biển Thái B́nh Dương quanh Nhật Bản, Đài Loan, Hương Cảng, Phi Luật Tân, Đông Nam Á, và Hawaii. Tùy theo hướng gió, có đến mười tám quốc gia bị ảnh hưởng. Cái thường được gọi một cách hết sức kỳ quặc là “áp thấp nhiệt đới” (tropical depression) trong các bản tin thời tiết của Hà Nội chính là loại băo typhoon nhẹ nhất, với sức gió thấp hơn 61 cây số một giờ.

[5] Bành Hồ (tên thời cổ là Đảo Di, Phương Đài, Tây Doanh, Đàn Châu, B́nh Hồ, một mỹ danh khác là “Bermudas phương Đông”) là một quần đảo trong eo biển Đài Loan, thuộc vào lănh thổ Đài Loan, cách đảo chính Đài Loan 50 km, gồm có hơn chín mươi ḥn đảo lớn nhỏ, diện tích tổng cộng là 128 km2, được đặt thành cấp huyện thị của Đài Loan. Do quần đảo này nổi tiếng về ngư nghiệp nên người Bồ Đào Nha đă gọi là Pescadores (đảo ngư ông). Do lửa chài vào ban đêm trên Bành Hồ rất ngoạn mục, nên cảnh tượng ấy đă được xếp vào một trong tám cảnh đẹp của Đài Loan. Đảo chính trong quần đảo Bành Hồ cũng có tên là Bành Hồ, các đảo nổi tiếng khác là Bạch Sa, Tây Dự, Vọng An, Thất Mỹ, Cát Bối, Mục Đẩu, Điểu Dự, Hổ Tỉnh v.v…

[6] Xuân Thu Tả Truyện là một bộ sử chép theo lối biên niên gồm ba mươi lăm quyển do Tả Khâu Minh biên soạn, nhưng có những người nghi ngờ thuyết này. Họ cho rằng Tả Truyện là công tŕnh do nhiều người biên soạn, và có lẽ Tả Khâu Minh là một trong những người biên soạn đầu tiên. Các nhà kinh học đa phần cho rằng Tả Truyện là sách chú giải kinh Xuân Thu (sử biên niên của nước Lỗ chép từ thời Lỗ Ẩn Công cho đến Lỗ Ai Công). Sách này cùng với Công Dương Truyện và Cốc Lương Truyện được gọi là Xuân Thu Tam Truyện. Tuy vậy, có tác giả như Vương Tiếp, Lưu Phùng Lộc, Bao Tích Thụy v.v… lại cho rằng đây là một sử liệu độc lập về thời Xuân Thu.

[7] Xích Bích (赤壁) nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, nằm trên bờ Đông Nam ḍng Trường Giang. Cuộc chiến Xích Bích là một trong ba trận chiến lớn thời Tam Quốc. Trận chiến này xảy ra vào năm 208 Công Nguyên, khi Tào Tháo xua quân xuống phương Nam, toan dùng thủy quân triệt hạ Đông Ngô và Lưu Bị ḥng thống nhất lănh thổ nhà Hán. Tào Tháo cho rằng để kiểm soát được Giang Nam, phải chiếm được Kinh Châu và nhất là căn cứ thủy quân Giang Lăng. Do thứ sử Kinh Châu thời đó là Lưu Biểu thường giao tranh với Tôn Quyền của Đông Ngô, lại bị hai con là Lưu Kỳ và Lưu Tông tranh chấp quyền hành, đấu đá lẫn nhau, thế lực suy yếu rơ rệt. Lúc đó, Lưu Bị đă từng bị Tào Tháo đánh bại trước đó ở Nhữ Nam, đang nương náu ở đất Phàn Thành thuộc Kinh Châu. Tào Tháo cho đây là cơ hội tốt nhất để chiếm lănh Kinh Châu, diệt gọn tàn quân Lưu Bị. Kinh Châu thất thủ, Lưu Bị phải chạy xuống phương Nam, bị Tào Tháo truy đuổi, đánh tan tác một trận nữa tại Trường Bản. Lưu Bị rút tàn quân về Hạ Khẩu, quân sư Gia Cát Lượng được phái tới Sài Tang để thuyết phục Tôn Quyền liên minh với Thục. Phe chủ chiến trong triều đ́nh Đông Ngô do Châu Du cầm đầu cho rằng con số tám mươi vạn quân của Tào Tháo chỉ là phóng đại, quân Tào Tháo là người phương Bắc, không thạo thủy chiến, sẽ chẳng có nhiều lợi thế. Liên quân giữa Lưu Bị và Ngô Quyền chỉ có năm mươi vạn quân, trong khi Tào Tháo có khoảng hai trăm hai mươi ngàn quân. Trận giao tranh đầu tiên thất lợi, khiến quân Tào phải rút về Ô Lâm. Tào Tháo nghe lời xúi dại, dùng xích sắt cột chặt thuyền chiến với nhau. Sau đó, Châu Du bảo Hoàng Cái trá hàng, dùng khổ nhục kế giả vờ hàng Tào. Đội chiến thuyền của Hoàng Cái giả vờ theo về Tào Tháo đă được châm lửa khi đến gần và lao thẳng vào chiến thuyền của quân Tào, khiến trận địa của Tào Tháo rối loạn, buộc ḷng phải phá hủy chiến thuyền, tháo chạy về Hoa Dung. Trong Tiền Xích Bích Phú có bốn câu tuyệt đẹp: “Quế trạo hề lan tương, kích không minh hề tố lưu quang, diểu diểu hề ư hoài, vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương” mà cụ Phan Kế Bính đă dịch rất tài t́nh như sau: “Thung thăng thuyền quế, chèo lan, theo vừng trăng tỏ vượt làn nước trong, nhớ ai canh cánh bên ḷng, nhớ người quân tử ngóng trông bên trời”.

[8] B́nh Kịch (平劇) chính là Kinh Kịch (, do Bắc Kinh có thời gọi là Bắc B́nh, nên Kinh Kịch c̣n được gọi là B́nh Kịch), hay c̣n gọi Kinh Hư (京戲) hoặc Quốc Kịch. B́nh Kịch là thể loại tuồng về các chủ đề thuộc những triều đại xa xưa, các vai diễn thường hóa trang rất đậm, ăn mặc rực rỡ, sử dụng rất nhiều điệu bộ theo quy tắc ước lệ. Có thể so sánh thô thiển là B́nh Kịch tương đương với hát tuồng (Bắc Việt) và hát bội của Trung, Nam Việt. Kinh Kịch h́nh thành từ thế kỷ mười chín, chủ yếu là từ cung đ́nh nhà Thanh vào thời Càn Long trên nền tảng những thể loại tuồng hát trước đó, đặc biệt là Hy Kịch và Hán Kịch (các loại tuồng Hồ Quảng). Kinh Kịch sử dụng nhiều lối hát khác nhau như Tần Xoang, Côn Khúc, Bang Tử, Dặc Dương Xoang v.v… Không hiểu v́ sao diễn viên Kinh Kịch coi Lăo Lang Thần (Đường Minh Hoàng) là tổ sư gia. So với các lối tuồng khác, Kinh Kịch có giọng hát giọng cao hơn, nhiều luyến láy hơn, ngắt câu rất đột ngột, cách chuyển giọng rất phức tạp. Nói chung, các vai nữ thường nói và hát với một âm sắc rất lạ, đến nỗi đă có người phê b́nh: “Các vai đán (đào) nói và hát nghe như một con mèo hen đang kêu!” Đặc biệt là măi cho đến đầu thời Dân Quốc, toàn thể các vai nữ (thường gọi là Đán) đều do nam giới đảm nhiệm. Tứ Đại Danh Đán đều là nam giới (trong đó, nổi tiếng nhất là hai nam nghệ sĩ Mai Lan Phương và Tŕnh Nghiễn Thu). Phần nhạc đệm dùng rất nhiều loại thanh la và trống lớn, đặc biệt là luôn có kèn Tỏa Na (kèn Tàu), ngay cả đàn Kinh Hồ (đàn nhị dùng riêng trong Kinh Kịch) cũng có âm thanh cao và sắc, chát chúa hơn các loại đàn nhị khác. V́ thế, nếu nghe nhạc và giọng hát Kinh Kịch không quen sẽ cảm thấy âm thanh rất khó chịu. Một dàn nhạc Kinh Kịch tối thiểu phải có Kinh Hồ, Kinh Nhị Hồ, đàn nguyệt, sênh, địch, tỏa na v.v… nhiều loại trống và thanh la, cộng thêm các bộ gơ khác như mơ sừng trâu, mơ gỗ…

[9] Đăng địa: Chứng từ Sơ Địa trở lên.

[10] Đây là một từ ngữ nhằm tôn xưng Thiên Nhăn Thông. Ngài A Nậu Lâu Đà tuy nhăn căn đă hư, nhưng do đắc Thiên Nhăn Thông, cho nên có thể thấy thấu suốt tam thiên đại thiên thế giới không bị chướng ngại. Do chẳng cần nhăn căn mà Thiên Nhăn Thông vẫn khởi tác dụng, nên kinh điển thường sánh ví như phần phía sau của đầu Ngài đều có mắt, có thể thấy những sự vật sau lưng, chẳng cần phải ngoảnh đầu lại.