Phật Thuyết

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh

Giảng Kư

Phần 5

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)

khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 19

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ bảy, bắt đầu từ ḍng thứ ba đếm từ dưới lên. Trước hết, tôi đọc một đoạn kinh văn ngắn:

 

          (Kinh) Thứ tác thủy tưởng, kiến thủy trừng thanh, diệc linh minh liễu, vô phân tán ư. Kư kiến thủy dĩ, đương khởi băng tưởng. Kiến băng ánh triệt, tác lưu ly tưởng. Thử tưởng thành dĩ, kiến lưu ly địa, nội ngoại ánh triệt.

()次作水想。見水澄清,亦令明了,無分散意。既見水已,當起冰想。見冰映徹,作琉璃想。此想成已,見琉璃地,內外映徹。

(Kinh: Kế đó, hăy tưởng nước. Thấy nước trong lặng, cũng tưởng cho rơ ràng, ư chẳng phân tán. Đă thấy nước rồi, hăy nên tưởng là băng. Thấy băng trong suốt, hăy tưởng là lưu ly. Phép tưởng này đă thành, thấy đất lưu ly, trong ngoài trong suốt).

 

          Đoạn kinh vừa mới niệm chính là phép Quán thứ hai trong mười sáu phép Quán, tức là quán tưởng nước. Trước đoạn này, phép Quán thứ nhất là quán mặt trời lặn. Trong lần trước, tôi đă nói xong, nhưng c̣n có hai ư nghĩa cần phải bổ sung đôi chút.

 

IV.2.2.2.4. Biện định chánh tà

 

          Trong lời chú giải, tổ sư nhắc chúng ta phải hiểu rơ, khi chúng ta quán mặt trời lặn, phải từ trong tâm tưởng ra mặt trời (mặt trời sắp lặn). Nếu thấy mặt trời; đó là chánh xác. Giả sử chẳng phải là mặt trời xuất hiện, chẳng phải là mặt trời lặn, mà xuất hiện hiện tượng khác. Đối với những hiện tượng khác ấy, hễ chẳng phải là mặt trời như chúng ta hy vọng quán thấy, bất cứ hiện tượng nào khác xuất hiện, th́ đều là chẳng chánh xác. Những thứ ấy thảy đều là Tà Quán. Tà () là bất chánh, tổ sư mong chúng ta phải hiểu rơ điều này! Nếu tâm ta và cảnh được quán chẳng tương ứng, hễ chẳng tương ứng th́ sẽ là không chánh xác.

 

IV.2.2.2.5. Đừng chấp lấy cảnh ở ngoài tâm

 

          C̣n có một điều nữa cần phải hiểu rơ. Chúng ta quán thấy mặt trời lặn, nhắm mắt cũng có thể trông thấy, mở mắt cũng có thể trông thấy. Đó là quán thành công. Phải biết: Mặt trời ấy chẳng ở bên ngoài, mà là do nội tâm của chính chúng ta hiển lộ. V́ sao? Nghiên cứu Duy Thức Học sẽ biết. Duy Thức Học nói “vạn pháp duy thức”: Vạn hữu trong vũ trụ, hết thảy các pháp đều từ trong Thức của chính chúng ta hiển hiện. Ví như chúng ta quán mặt trời lặn; trước hết, coi mặt trời như một đối tượng, nhờ vào đối tượng ấy để dẫn phát mặt trời vốn sẵn có trong nội tâm của chúng ta, dẫn phát ảnh tượng của cái tâm.

          Nêu một tỷ dụ, ví như chụp h́nh trong nhiếp ảnh, bất luận chụp phong cảnh hay nhân vật; chụp xong, ảnh được rửa ra, có giống núi, sông, nhân vật nơi đó hay không? Núi, sông, nhân vật trong ảnh chụp do đâu mà có? Do cuộn phim trong máy chụp h́nh hiển lộ. Hiểu rơ tỷ dụ này, chúng ta có thể biết đạo lư “vạn pháp duy thức”. Hiểu rơ đạo lư này, trong khi chúng ta dụng công, quán tưởng, đương nhiên là tâm phải rất tĩnh. Có công phu định lực th́ mới có thể quán ra. Không chỉ là quán tưởng, mà tŕ danh niệm Phật, cũng như hết thảy các pháp môn khác đều phải “nhập Định”, có công phu định lực th́ sau đấy mới có thành tựu! Có thể quán mặt trời thành công, chứng tỏ công phu định lực của người tu đă khá tốt đẹp. Có công phu định lực ấy, lấy Tŕ Danh Niệm Phật để nói, nếu thật sự có định lực ấy, tới khi mạng chung, nhờ vào một câu Phật hiệu để văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng có mảy may vấn đề ǵ! Văng sanh là văng sanh như thế nào? Chính là thức thứ tám của chúng ta văng sanh, người b́nh phàm nói là “linh hồn” văng sanh. Khi chúng ta có công phu định lực, lúc thọ mạng đă hết, bản thân thức thứ tám sẽ có thể làm chủ, [tâm thức] chẳng rong ruổi lung tung! Chẳng có công phu định lực ấy, thức thứ tám sẽ chẳng thể làm chủ. Đă chẳng có định lực, bèn có nghiệp lực. Từ những nghiệp thiện và ác do chúng ta đă gây tạo trong lúc thường ngày, sức mạnh của nghiệp sẽ dẫn dắt thức thứ tám, đáng sanh vào đường nào, sẽ sanh vào đường đó. Đấy là hạng phàm phu tầm thường, chẳng có định lực. Người niệm Phật chúng ta có nguyện lực và định lực, khi ấy, bảo đảm là nhất định có thể văng sanh. Đối với phép quán mặt trời đă nói trong buổi trước, cũng phải hiểu rơ điều này. Đă có công phu ấy, trong tương lai, nhất định là văng sanh sẽ chẳng có vấn đề ǵ!

Mười sáu phép Quán ấy, tức là mười sáu phương pháp quán tưởng, mỗi phép Quán đều có một đối tượng, tức là cảnh giới để quán, dùng một thứ cảnh giới làm đối tượng để quán tưởng. Phép Quán thứ nhất là Nhật Quán (quán mặt trời), phép Quán thứ hai là Thủy Quán (quán tưởng nước), đều có thứ tự nhất định. Ví như trong phép Quán thứ nhất, tức quán mặt trời, mặt trời lặn ở phương Tây, thế giới Cực Lạc ở phía Tây. Đó là trước hết khiến cho chúng ta biết: Dùng công phu này là đă bao gồm nguyện lực của chính ḿnh trong đó, phải phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ thế, để tác quán, trước hết, phải định sẵn phương vị chắc chắn. Hơn nữa, mặt trời là một vầng quang minh, nhờ vào cảnh giới tương tự để quán, ngơ hầu người quán thấu hiểu Tây Phương Cực Lạc thế giới là một bầu đại quang minh, đại quang minh tạng, là một thế giới tràn ngập quang minh. Đó là dụng ư của phép Quán thứ nhất, tức quán mặt trời.

 

IV.2.2.3. Phép Quán thứ hai, Thủy Quán

 

          Thứ hai là quán nước, v́ sao? Chúng ta biết: Nước phẳng lặng, chẳng có cao hay thấp. Chỉ cần nước lặng, nó sẽ b́nh ổn; dùng điều này để biểu hiện Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng giống thế giới này. Đối với thế giới này, quư vị ngẫm xem: Bất cứ nơi nào cũng đều có cao, thấp, có núi cao, sông ng̣i, biển cả, cao thấp bất b́nh. V́ sao có cao thấp bất b́nh? Nói theo “vạn pháp duy thức”, chính là v́ tâm của lũ phàm phu chúng ta bất b́nh đẳng. V́ sao tâm con người chẳng b́nh đẳng? Luôn nghĩ chính ḿnh rất cao minh, người khác đều chẳng sánh bằng ta! Bất luận kẻ nào cũng đều có tâm lư ấy. Dẫu là kẻ ăn mày có địa vị thấp nhất, giữa những kẻ ăn mày với nhau, vẫn có sự so sánh cao thấp, vẫn có phân biệt đại khất cái và tiểu khất cái! V́ thế, trong tâm lư của phàm phu, luôn có cao thấp bất b́nh đẳng. Do tâm lư bất b́nh đẳng, phản ánh thành núi, sông, đại địa. Đối với những người nghiên cứu Duy Thức Học, họ biết núi, sông, và đại địa là Tướng Phần của thức thứ tám. Trên thực tế, chúng cũng là những giả tướng do tâm lư của chúng ta hiển lộ. Do tâm địa bất đồng, bất b́nh đẳng, cho nên mới hiển hiện thành thế giới bất b́nh đẳng, nhưng thế giới Cực Lạc chẳng giống [thế giới này của] chúng ta. Tâm của chúng sanh trong cơi ấy đều b́nh đẳng. V́ vậy, thế giới Cực Lạc chẳng có núi cao, biển cả. Đấy là v́ trong thế giới Cực Lạc, từ đức Phật cho đến các vị Đại Bồ Tát, tất cả mọi người đều nhất loạt b́nh đẳng. V́ tâm lư đều là b́nh đẳng, ai nấy đều tôn trọng lẫn nhau, trọn chẳng giống như trong thế giới này: “Ngươi coi thường ta, ta khinh rẻ ngươi!” Trọn chẳng phải là như vậy. Dùng nước để biểu thị sự b́nh đẳng trong thế giới Cực Lạc. Quư vị quán nước, nước hết sức b́nh đẳng. Ngoài ra, nước có màu như lưu ly. Trọn khắp đại địa trong thế giới Cực Lạc đều có màu như lưu ly. Nói “màu như lưu ly”, chúng ta cũng chẳng hiểu rơ, cho nên dùng nước để biểu thị, dùng nước làm tỷ dụ ḥng chúng ta thấu hiểu. V́ thế, phép Quán thứ hai là Thủy Tưởng. Dụng ư của Thủy Tưởng chính là: Từ nước sẽ biến thành băng, sau đó, từ băng biến thành đất lưu ly. Do tuân theo thứ tự này!

          Trong kinh văn có nói “thứ tác thủy tưởng” (kế đó là tưởng nước), chữ Thứ () ở đây có nghĩa là nói tiếp theo pháp Quán mặt trời trong phần trước. Phép Quán mặt trời là phép Quán thứ nhất, phép này là phép Quán thứ hai. “Thứ” là tiếp theo. Đă quán mặt trời thành công, tiếp theo là Thủy Tưởng. V́ sao gọi Thủy Quán là Thủy Tưởng (水想)? Mười sáu phép Quán dùng ǵ để quán? Dùng cái tâm năng quán của chúng ta (cũng là cái tâm có thể tưởng), đều là dùng tâm tưởng của chính ḿnh để “tưởng tướng” (想相, tưởng ra h́nh tướng). Trong các pháp môn thông thường, chẳng chấp nhận “tưởng tướng”. Nói “tưởng tướng” th́ Tướng chính là một đối tượng do tâm tưởng ra, dùng đối tượng ấy để dẫn khởi một pháp trong tự tánh của chúng ta. Đây là một phương cách đặc biệt trong việc tu học của Tịnh Độ Tông. Các tông phái khác như Thiền Tông, Duy Thức Tông, hoặc Thiên Thai Tông v.v… tác quán là tác quán, không chỉ là chẳng thể tưởng tướng, mà c̣n phải quét sạch tướng. Quét sạch tất cả các tướng, chẳng thể an lập bất cứ tướng nào! Nhưng pháp môn Niệm Phật trong Tịnh Độ Tông cố nhiên là “có tướng”, phải tŕ danh, pháp môn Quán Tưởng là “tưởng tướng”. Cảnh giới của mỗi phép Quán trong mười sáu phép Quán đều là dùng một cảnh giới làm đối tượng để tưởng. Cách tưởng ấy chính là cái tâm năng tưởng nương vào một đối tượng để tưởng ra một cảnh giới trong tâm. Trong câu này, Thủy Quán sở dĩ gọi là “thủy tưởng” cũng là v́ hàm nghĩa dùng cái tâm của chúng ta để tưởng nước.

          Sau từ ngữ “thủy tưởng” là ba câu: “Kiến thủy trừng thanh, diệc linh minh liễu, vô phân tán ư” (Thấy nước trong lặng, cũng tưởng cho rơ ràng, ư chẳng phân tán). Khi chúng ta tưởng nước (Thủy Quán), trông thấy nước, dùng nước bên ngoài để dẫn khởi nước trong nội tâm của chúng ta. Thấy nước rất trong lặng, tưởng nước trong tâm của chính ḿnh rất rành rẽ, nên bảo là “minh liễu” (明了). “Vô phân tán ư” là chúng ta chuyên tâm nhất trí để tưởng, ư niệm đừng nên phân tán. Khi ư niệm chẳng phân tán, chuyên tâm tưởng, nước bèn xuất hiện, [tức là] đă quán nước thành công. V́ sao suy tưởng thấy nước là tưởng đă thành công? Tổ sư đă chú giải khiến cho chúng ta thấu hiểu: Trong bản tánh của chúng ta, có đủ mọi thứ. Sau khi đă hiểu rơ đạo lư này, người học Phật chúng ta chẳng giống phàm phu trong thế gian! Phàm phu trong thế gian chẳng nhận biết những ǵ chính ḿnh thật sự có, tự ḿnh mê muội, chẳng hiểu rơ, cứ truy cầu những thứ giả trất bên ngoài! Bên ngoài có những thứ ǵ? Như tiền tài, địa vị (bao gồm địa vị chánh trị) v.v…, hết thảy các vật ngoài thân đều là giả tướng do nhân duyên ḥa hợp. Hễ nhân duyên chia rẽ, giả tướng thảy đều chẳng tồn tại. Phàm phu b́nh phàm chẳng hiểu rơ những thứ ấy là giả, vẫn tận lực tranh thủ từ bên ngoài, tranh đoạt cùng kẻ khác, thậm chí hy sinh mạng sống của chính ḿnh cũng chẳng tiếc nuối ḥng tranh đoạt những thứ đó, oan uổng quá, đáng đau xót quá! Thấu hiểu Phật pháp, ắt sẽ chẳng cầu những thứ ấy, mà hướng vào trong nội tâm của chính ḿnh để cầu. Nội tâm thứ ǵ cũng đều có. Chỉ cần hiểu rơ đạo lư ấy, noi theo đạo lư ấy để cầu, sẽ tưởng ǵ bèn có nấy! Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất rành mạch [đạo lư ấy]. Sau khi đă hiểu rơ, lại nh́n vào mười sáu phép Quán, đối với bất luận phép Quán nào, chúng ta đều biết rơ nguyên tắc trọng yếu.

          Kinh Lăng Nghiêm đă nói: Thế gian có đất, nước, gió, lửa. Địa (đất) là chất rắn. Cỏ cây, núi, sông đại địa đều là các thứ đại diện cho Địa. Thủy là nước trong đại dương và sông ng̣i. Hỏa: Vật chất bốc cháy là Hỏa. Phong là không khí lưu động. C̣n có hư không cũng là một loại. Đó là nói theo cảnh giới tự nhiên. Nói theo thân thể của bọn chúng sanh chúng ta, có năm căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Ngoài năm căn ra, c̣n có hiện tượng tâm lư, tức là Thức, chia thành tám thức. Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Căn, Thức là Thất Đại. V́ sao bảy thứ ấy được gọi là Thất Đại? Đối với bảy thứ ấy, chẳng cần bàn tới Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, [v́] Không là vô lượng vô biên. Chúng ta biết Không (Không Đại là hư không) chẳng có ngằn mé, Địa, Thủy, Hỏa, Phong cũng là chẳng có ngằn mé. Căn thân và chủng tử của các căn v.v… đều là trọn khắp pháp giới, không chỗ nào chẳng có Thất Đại. Nói cách khác, bảy loại ấy (bao gồm vật chất lẫn tinh thần) đều trọn khắp toàn thể pháp giới, nhưng toàn thể pháp giới lại ở chỗ nào? Toàn thể pháp giới ở ngay trong tâm chúng sanh, gọi là Nhất Chân pháp giới. Kẻ mê hoặc, điên đảo chẳng có cách nào vận dụng Thất Đại của chính ḿnh. Thất Đại đều là những thứ ở trong tự tâm của chúng ta, mà cũng là những thứ bản thân chúng ta vốn sẵn có. Chúng sanh phàm phu mê hoặc, điên đảo, chẳng thể vận dụng, nhưng người hiểu Phật pháp th́ biết. Những thứ ấy đều ở trong tự tâm của chúng ta. Sau khi chúng ta đă giác ngộ, muốn ứng dụng như thế nào bèn ứng dụng như thế ấy! Văn học gia Tô Đông Pha đời Tống cũng học Phật, đă nói: “Có một thứ ở giữa trời đất, lấy chẳng hết, dùng chẳng cạn kiệt”. Quư vị lấy thế nào cũng chẳng hết, dùng thế nào cũng chẳng có lúc dùng cạn. Đó là do dựa theo Phật học [để nói]. Chúng ta hiểu rơ trong cái tâm của chính ḿnh, hết thảy đều hoàn toàn hoàn măn, trọn đủ, luôn luôn là “muốn ứng dụng như thế nào, bèn ứng dụng như thế ấy”. Do vậy, khi đă hiểu rơ nguyên tắc này, Thất Đại đă vốn sẵn có trong tâm chúng ta, khi chúng ta tưởng nước, chỉ cần chiếu theo phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy để làm, vừa tưởng, bèn tưởng thấy nước. Đấy chẳng phải là chuyện rất phù hợp khoa học ư?

 

IV.2.2.3.1. Cách quán nước

 

          Câu “kiến thủy trừng thanh” (thấy nước trong lặng) dạy chúng ta một phương pháp để quán nước. Quư vị hăy xem biểu đồ được phát ra trong ngày hôm nay. Phần đầu là đề mục: “Nhị, Thủy Quán” (Phép quán thứ hai, quán nước). Phần kế đó là phương pháp để quán nước, “kiến thủy trừng thanh”. “Trừng thanh” (澄清) là nước hết sức thanh khiết, chẳng có chút cát đá hoặc thứ ǵ [xen lẫn]! Loại nước ấy chúng ta cũng thường đă từng thấy. Trong thiên nhiên, chỗ có núi và nước tốt lành, hoặc ở nơi văn cảnh, khi đến đó du ngoạn, sẽ thấy nước hết sức tốt lành. Chúng tôi đă từng thấy có những chỗ nước tạo ra ấn tượng ấy. Hiện thời, ở trong nhà dụng công tác quán, hoàn toàn chẳng ra ngoài đồng hoang, đến bên bờ hồ lớn, hoặc biển cả. Phép quán nước có ba đặc điểm quan trọng:

          1) Điểm quan trọng thứ nhất là “thủ tướng” (取相, giữ lấy tướng). Trước hết, hiểu rơ cách tĩnh tọa, giống hệt như cách thực hiện trong phần quán mặt trời thuộc phần trước. Tiếp đó, lấy một cái chén lớn, đựng đầy nước trong, đặt trên mặt đất trong một căn pḥng yên tĩnh (khi tĩnh tọa, ở trong một căn nhà rất an tĩnh), theo đúng phương pháp để tĩnh tọa. Trên mặt, ở chính giữa hai lông mày, đính một cái chấm trắng to cỡ bằng hạt đậu lên đó, ngồi trên giường (tọa cụ (坐具) cũng gọi là “sàng” (, giường), tức là “tọa điếm” (座墊, đệm ngồi)), soi mặt ḿnh vào trong cái bát đựng đầy nước ấy, mắt chỉ nh́n vào cái chấm trắng giữa hai mày. Đây là một phương pháp “thủ tướng”. Phương pháp này nhằm khiến cho người tác quán đối trước nước nh́n thấy rất rơ ràng, rành mạch, “diệc linh minh liễu, vô phân tán ư” (cũng tưởng cho rơ ràng, ư chẳng phân tán), khiến cho cái tâm tập trung, chuyên chú ư niệm nơi chấm trắng.

          2) Điểm quan trọng thứ hai [được nêu] trong biểu đồ: Quư vị đă ngồi như vậy, nước trong chén cũng đă sắp đặt ổn thỏa, soi mặt ḿnh vào nước để xem (nước vừa mới đặt xuống đó). Mặt khác, nhờ vào nước trong bát để “quán tưởng” ḥng phóng đại chén nước, tưởng tượng nó là hồ đầm hay ao nước lớn.

          Dựa trên kinh nghiệm thông thường do nh́n thấy nước ở bên ngoài, nước trong hồ luôn có gió thổi, khiến cho nước xao động, gợn sóng. Khi bắt đầu quán tưởng, trên mặt nước c̣n gợn sóng lăn tăn. Thong thả nhờ vào nước trong chén (bát đặt ở đó trong trạng thái bất động, nước cũng yên tĩnh), lại tưởng tượng nó giống nước trong một cái hồ to ở bên ngoài, cũng dần dần ngưng lặng, chấm trắng giữa hai mày cũng hiển hiện. Phải biết: Hồ ở bên ngoài đă to ngần ấy, ao nước to ngần ấy, đương nhiên là khuôn mặt hiển hiện của chúng ta cũng biến thành to lớn. Nhưng diện mạo được hiển hiện, không chỉ là chấm trắng giữa hai mày. Chúng ta dùng gương hoặc dùng nước để soi, [sẽ thấy] trên mặt có mắt, tai, mũi, miệng v.v… Những thứ ấy chẳng cần phải quán, chớ nên phan duyên, hăy nhất tâm nhất ư chỉ nh́n vào chấm trắng giữa hai mày. Đây là dạy chúng ta một phương pháp quán tưởng. Chỉ nắm lấy điểm ấy để quán tưởng. Nghĩ một chén nước là rất lớn, quán tưởng tất cả những con sóng đều b́nh lặng. Đối trước nước b́nh lặng, chỉ nh́n vào chấm trắng giữa hai mày. Đó là rèn luyện, tức là huấn luyện công năng nhập Định cho chính ḿnh.    

3) Khi quán, nếu chính ḿnh cảm thấy đă quán rành rẽ, chấm trắng giữa hai mày cũng thấy rơ ràng, rành rẽ, cũng có thể nghĩ chính ḿnh quán tốt đẹp, nhưng đừng nghĩ tự ḿnh đă quán thành công, vẫn phải kiểm tra, thí nghiệm. Do vậy, điều trọng yếu thứ ba trong biểu đồ là “nghiệm cảnh” (驗境), tức là phải thí nghiệm xem cảnh giới do chính ḿnh quán đă đạt tới mức độ nào? Phải thí nghiệm như thế nào? Trong khi chúng ta quán, lúc bắt đầu quán, gần như là nước đă tĩnh lặng, ư niệm của chính ḿnh cũng tập trung vào đó, quán cũng bất động. Khi đă thấy chấm trắng rơ ràng, rành rẽ, có thể cầm một hạt gạo (hạt gạo rất nhỏ) ném vào trong chén nước. Tuy hạt gạo rất nhỏ, hễ hạt gạo rơi xuống, chén nước vẫn gợn sóng một tí, [nếu như] nước trong tâm cũng cuộn sóng, chứng tỏ công phu vẫn chưa được. Nước vẫn lay động! Ném gạo xong lại luyện, [luyện tới khi] ném gạo vào [chén nước, nước trong tâm vẫn] bất động. Lại đổi sang ném thứ to hơn gạo một chút, như hạt đậu (hạt đậu to gấp đôi, gấp ba hạt gạo). Ném hạt đậu vào, nước lại xao động, lại tập luyện cho đến khi ném hạt đậu vào, nước chẳng động. Lại dùng thứ lớn hơn nữa, như hồng táo, hắc táo[1] v.v… [những thứ ấy] đều lớn hơn hạt đậu, ném vào, đương nhiên là nước lại xao động, lại gợn sóng. Huấn luyện đến cuối cùng, bất luận ném thứ ǵ vào đó (ném vào trong bát), bất luận nước [trong bát] như thế nào, nước trong tâm của quư vị vẫn chẳng có động tĩnh. Sau khi đă ném, [nước trong tâm] bất động, chứng tỏ công phu định lực, tức định lực quán nước đă khá lắm!

          V́ sao phải thí nghiệm như vậy? Ném những thứ như hạt gạo, hạt đậu v.v… là để thí nghiệm cái tâm năng tưởng (tâm quán tưởng) của người dụng công nhập quán có c̣n phan duyên ngũ trần bên ngoài hay không? Chỉ cần nước bị dao động, chứng tỏ cái tâm năng tưởng vẫn rong ruổi lung tung. Khi vẫn chưa đạt tới định th́ vẫn c̣n phan duyên ngũ dục lục trần khắp nơi! Phải măi cho đến khi đạt tới bất động, mới chứng tỏ “tâm đă ngưng lặng”. Quán là Chỉ Quán, cái tâm tới khi ấy mới có thể ngưng lại, mới có thể đắc Định. Nói tới đây, chúng ta mới hiểu rơ: Trong Lục Tổ Đàn Kinh có chép, Lục Tổ đến một đạo tràng, là nơi giảng kinh, gặp hai người đang biện luận. Gió thổi lá phan ngoài cửa lay động, một người bảo là do gió thổi nên phan mới động; người kia bảo “bản thân lá phan đang động”. Lục Tổ bảo: “Chẳng phải là gió động, mà cũng chẳng phải là phan động, mà là do cái tâm của chính nhân giả đang động”. Thông thường, chúng ta chẳng hiểu rơ. Do học lư giải thích như thế, chúng ta mới biết: Kẻ chẳng dụng công, trong tâm chẳng có thời khắc nào chẳng động. Tâm một mực động mà quư vị mong thế giới chẳng loạn, chẳng động, có được hay chăng? Muốn thế giới chẳng loạn, chẳng động, nhất định là phải định cái tâm trước đă, phải là bất động trước đă! Chỉ cần chúng ta học Phật bèn có thể nhập Định. Tâm đă định, cảnh giới bèn xuất hiện, chẳng phải là cảnh giới chúng ta đang thấy như trong hiện thời. Trong lời chú giải kinh Hoa Nghiêm, [tổ sư] đă nêu thí dụ: “Giang hà cạnh chú nhi bất lưu” (Hoàng Hà và Trường Giang đua nhau tuôn rót, nhưng chẳng chảy xuôi), “giang hà” chỉ Trường Giang và Hoàng Hà, “cạnh” () là giống như đua tài vậy, “chú” () là chảy xuôi. Trong cái nh́n của phàm phu, nước Trường Giang và Hoàng Hà chảy mau dường ấy, luôn trong trạng thái chuyển động. Nhưng khi nhập Định, người đang nhập Định thấy những con sông ấy chẳng lưu động, luôn ở trong trạng thái tuyệt đối tĩnh lặng. C̣n có một câu nữa là nói đến gió. Chúng ta thấy gió cũng là động, nhưng khi nhập Định bèn thấy gió lặng yên!

          Đời Minh, Hám Sơn đại sư v́ chứng minh cảnh giới này mà nhập Định (cổ nhân xem sách chẳng giống như người hiện thời, [người hiện thời] hễ đọc hiểu văn tự là được rồi. Cổ nhân nếu chẳng thể chứng minh cảnh giới trong sách, [sẽ không coi là đă hiểu sách], phải đích thân thể nghiệm trạng huống thực tại th́ mới tính là đọc thông suốt). Ngài cảm thấy câu nói ấy khó hiểu, bèn nhập Định, đạt được công phu định lực. Lũ b́nh phàm chúng ta thấy gió thổi lá bay, lá bay là từ trên cao chấp chới rơi xuống, Ngài thấy chiếc lá lặng yên bất động! Bản thân Ngài đến nhà vệ sinh tiểu tiện, tiểu tiện là chảy xuống, nhưng Ngài chẳng thấy có hiện tượng lưu động. Như thế th́ Ngài mới thật sự hiểu rơ cảnh giới được nói trong kinh. V́ thế, chỉ cần tâm và cảnh của bọn chúng sanh chúng ta xoay chuyển, hăy thâu hồi cái tâm thường xuyên rối loạn nháo nhào lại, nhập định cảnh, cảnh giới sẽ lập tức chuyển theo. Tâm cảnh vừa chuyển biến, hoàn cảnh thiên nhiên bên ngoài cũng chuyển biến theo, hoàn toàn chẳng giống với thế giới chúng ta đang thấy trong hiện tại. Từ điểm này, có thể thấy quán nước, quán mặt trời, thật sự có thể dựa theo những phương pháp này để tập trung tâm niệm; khi đă đắc công phu định lực, cảnh giới sẽ lập tức hiển hiện.

          Chúng ta hiểu rơ điều này, sẽ có tác dụng ǵ? Chúng ta chẳng cần tu mười sáu phép Quán, cũng chẳng cần phải quán mặt trời, cũng chẳng cần quán nước, nhưng [hiểu rơ Quán Kinh] sẽ có lợi cho chúng ta. Khi thầy chúng ta c̣n tại thế, vừa khởi đầu, Ngài bèn dạy chúng ta học Tŕ Danh Niệm Phật, nhưng lăo nhân gia giảng kinh cũng hoàn toàn chẳng phải là chỉ giảng một bộ Tiểu Bổn A Di Đà Kinh! Cả ba kinh đều giảng. Không chỉ là ba kinh đều giảng, mà những loại kinh khác cũng đều giảng. Ví như kinh Kim Cang, kinh Duy Ma, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, Đại Thừa Khởi Tín Luận, những bộ đại kinh, đại luận ấy thầy đều giảng. Bất luận giảng một bộ kinh nào, đều nhằm giúp chúng ta tŕ danh niệm Phật. Điều này chính là chỗ đặc biệt trong việc giảng kinh của đạo tràng Đài Trung. Ví như chúng tôi vừa mới nhắc đến Thủy Tưởng, điều quan trọng trong khi tu Thủy Tưởng là “diệc linh minh liễu, vô phân tán ư” (cũng tưởng cho rơ ràng, ư chẳng phân tán), tức là an định tâm ư, tức là ư thức được an định. Chuyện tệ nhất là làm thế nào, ư thức (thức thứ sáu) của bọn chúng sanh phàm phu chúng ta cũng chẳng thể an định được! Trong khi chúng ta tŕ danh niệm Phật, niệm một hồi, ư niệm chạy lung tung, thức thứ sáu chạy khắp nơi, chẳng đến chỗ này, bèn tạt qua chỗ kia. Kiểu nào cũng chẳng thể tĩnh lặng được!

Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, khi tŕ danh niệm Phật, hăy giữ lấy một câu Phật hiệu, ngay khi ấy là Chỉ Quán. “Chỉ” () là ngưng dứt hết thảy vọng niệm, giống như quán nước: Hết thảy những thứ khác đều chẳng giữ lấy, hết thảy vọng niệm đều ngưng dứt, tập trung tâm lực để quán cái chấm trắng giữa hai mày. Cũng vậy, chúng ta tŕ danh niệm Phật, ngưng dứt hết thảy vọng niệm, niệm măi từng câu Phật hiệu sao cho rành rẽ, phân minh. Đó là Quán, nguyên tắc giống như nhau. Chúng ta hiểu phương pháp nhiều ngần ấy là để tham khảo, không ǵ chẳng nhằm giúp chúng ta niệm câu Phật hiệu tốt đẹp. Chẳng hiểu rơ đạo lư này, thường là khi niệm Phật, niệm tới, niệm lui, ư niệm lạc đâu mất, mong đắc nhất tâm bất loạn hết sức khó khăn! Nhưng quư vị hiểu phương pháp và nguyên lư này, tập trung tâm niệm để niệm Phật. Niệm tới, niệm lui, khi đă có định lực, sẽ có thể cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Chẳng hiểu rơ đạo lư này, sẽ rất khó khăn!

          Đối với mấy câu trên đây: “Kiến thủy trừng thanh, diệc linh minh liễu, vô phân tán ư”, quán nước thành công, trong tâm tưởng nước, nước đă xuất hiện. Sau khi đă tưởng được, sẽ dễ dàng. “Kư kiến thủy dĩ, đương khởi băng tưởng” [nghĩa là] đă trông thấy nước, đă tưởng được nước, lại tiến thêm bước nữa, tưởng nước ngưng đọng thành băng (băng là do nước ngưng đọng thành). Có thể quán tưởng nước thành băng hay chăng? Đương nhiên là có thể. Nếu chẳng thể, đức Phật c̣n nói như vậy hay sao? Vấn đề là điều kiện tiên quyết “phải tưởng cho ra nước đă”. Sau khi đă có thể tưởng nước, chứng minh Thất Đại (đất, nước, lửa, gió, không, căn, thức) trong tâm chúng ta đều có. Tưởng ra nước, chuyển nước thành băng, quư vị thích chuyển biến thế nào, sẽ chuyển biến như thế ấy! Nhất định là có thể chuyển biến, đại tiền đề là “chúng ta có thể nhập Định hay không?” Có thể nhập Định th́ tâm niệm hoàn toàn tập trung, có thể lộ ra sức mạnh kinh người! Có thể thuận theo ư nghĩ của quư vị, tưởng ǵ sẽ biến nấy. Do vậy, quư vị có thể biến ra nước, chứng tỏ định lực của quư vị đă có thành tựu. Lại dùng định lực để tưởng nước đóng thành băng, nhất định là sẽ có thể làm được!

          “Kiến băng ánh triệt, tác lưu ly tưởng” (Thấy băng trong suốt, tưởng là lưu ly): Biến nước thành băng, băng là chất rắn, kiên cố. Thấy băng là một khối trong suốt, “ánh triệt” (映徹) là trong suốt. Thấy là một khối băng rành rành, từ mặt này có thể nh́n xuyên sang mặt kia. Khi ấy, có thể tưởng nó là lưu ly. Lưu ly (Vaiḍūrya, phệ lưu ly, tỳ lưu ly) ở Trung Hoa rất ít, ở Ấn Độ th́ có. Vào thời cổ, các vị đại sư nói, nếu muốn tưởng tượng lưu ly, hăy nh́n lên bầu trời khi rất trong trẻo, chẳng có mây phủ (mây che thành tầng), cả bầu trời quang đăng, có màu xanh dương. Nếu màu xanh dương đậm hơn một chút nữa [so với màu trời khi ấy] sẽ giống như màu lưu ly. Từ hiện tượng băng trong suốt, tưởng tượng thành một khối lưu ly. Quán tưởng kiểu ấy, nói cách khác, từ băng lại quán thành một khối lưu ly, [tức là] tưởng lưu ly. “Thử tưởng thành dĩ” (tưởng điều này thành công), từ băng tưởng thành lưu ly th́ phép Quán ấy thành công! “Kiến lưu ly địa” nghĩa là cái được thấy chính là một cơi đại địa bằng lưu ly. “Nội ngoại ánh triệt” (Trong ngoài thấu suốt), nói “ánh triệt” chính là một vầng quang minh thanh tịnh. “Lưu ly địa” là sánh ví Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          Tây Phương Cực Lạc thế giới là một bầu thanh tịnh quang minh. V́ chúng ta chẳng hiểu, cho nên trong phần trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đă từng bảo phu nhân Vi Đề Hy: Nếu mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trước hết, phải hiểu rơ hoàn cảnh. Hiểu rơ như thế nào? Tâm lượng của phàm phu quá nhỏ hẹp, cho nên trước hết phải lập đủ mọi thí dụ, dùng những thứ tương tự trong thế gian này khiến cho chúng ta hiểu rơ trước đă. Ví như từ một chén nước mà thấy nước trong một cái hồ to nhiều như thế đó. Lại từ nước trong một cái hồ lớn mà tưởng thành một khối băng. Lại từ băng tưởng thành một cuộc đất lưu ly. Lại từ cuộc đất lưu ly ấy, tưởng toàn thể thế giới Cực Lạc là một cuộc đất lưu ly, trong ngoài đều là một vầng đại địa quang minh thanh tịnh. Nhờ vào sự tưởng tượng để trước hết hiểu rơ hoàn cảnh mà ta muốn đến. Nếu không, đối với chỗ ta muốn đến, sẽ cảm thấy xa lạ, tới đó bằng cách nào? Trong tâm chẳng chuẩn bị sẵn, đột nhiên đến nơi đó ngay lập tức, sẽ chẳng thể thích ứng được. V́ thế, tâm lư phải có chuẩn bị trước, trước hết là phải mở rộng tâm lượng của chính ḿnh.

          Chúng ta ở trong thế giới Sa Bà, những ǵ trông thấy đều là vụn vặt, ngay cả bản thân cũng nhỏ nhoi, thấy đại địa cũng nhỏ, thấy được một mảnh đất cũng nhỏ khôn cùng. Mọi người vẫn ở trong ấy tranh đoạt chẳng ngớt, “các ngươi tranh, ta cũng tranh!” Tranh đến nỗi vỡ đầu chảy máu, vẫn chẳng buông bỏ. Thật ra, nếu chúng ta so sánh với thế giới Cực Lạc: Đem toàn thể đại địa [của thế giới Sa Bà] đặt trong ao bảy báu, đặt trong một cánh sen, bất quá như một bọt nước bé tí mà thôi! Bé đến đáng thương! Nhưng tâm lượng của chúng sanh phàm phu bé tí như thế, đức Phật dạy chúng ta hăy phóng to cái tâm lượng bé nhỏ, tận hết sức phóng to. Phóng to chính là Quán. Sau khi đă phóng to, tâm lư có thể thích ứng, cũng có công phu định lực và có nguyện lực. Trong tương lai, đến khi mạng chung, c̣n tuyệt đối có thể nắm chắc văng sanh. Nếu chẳng như vậy, có cách nào để có thể văng sanh cho được? A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, chúng ta vẫn chẳng nỡ ra đi! Ở đây, chúng ta c̣n có khá nhiều vàng, bạc, của cải, c̣n có quyền lực, dục vọng, chẳng thể vứt bỏ được, không buông xuống được. Chẳng thể buông xuống, sẽ chẳng thể văng sanh, trách được ai cơ chứ? Hăy tự trách ḿnh chẳng hề chuyển biến tâm lư phàm phu. Khi thọ mạng đă hết, chẳng văng sanh thế giới Cực Lạc, sẽ vào trong tam đồ. Ở trong thế giới này, mọi người chẳng mong sanh vào tam đồ, mong sanh vào thiên đường ư? Chẳng có chuyện đó đâu nhé! Cậy vào cái tâm của con người trong hiện thời mà có thể đến thiên đường ư? Đến nhân gian cũng rất khó khăn! Chỉ có nước vào trong tam đồ!

          Chúng ta ắt cần phải hiểu rơ kinh văn, nhất định phải mở rộng tâm lượng. Lúc thường nhật, chớ nên suy tưởng giống như kẻ b́nh phàm. Họ tưởng như thế nào, cứ mặc họ tưởng như thế ấy, chúng ta chẳng cần phải có cách nghĩ giống hệt như họ. Phật pháp nói chuyện này là “trong cộng nghiệp bèn có bất cộng nghiệp”. Đối với cộng nghiệp, trong tương lai họ gây tạo thế giới [bại hoại] đến mức độ nào, biến toàn thể nhân gian thành tam đồ, chúng ta chẳng bị cộng nghiệp ảnh hưởng, chẳng bị liên lụy bởi nó. Chúng ta có biệt nghiệp riêng, chúng ta phải nắm chắc văng sanh. Phần kế tiếp sẽ nói về trạng huống thực tế, sự an lập của thế giới Cực Lạc v.v… Lần sau, chúng tôi sẽ nói tiếp.

 

Tập 20

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ bảy, hàng thứ hai từ dưới đếm lên, xem từ phần sau của câu cuối cùng. Trước hết, tôi đọc kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Hạ hữu kim cang thất bảo kim tràng, ḱnh lưu ly địa. Kỳ tràng bát phương, bát lăng cụ túc, nhất nhất phương diện, bách bảo sở thành, nhất nhất bảo châu, hữu thiên quang minh. Nhất nhất quang minh, bát vạn tứ thiên sắc, ánh lưu ly địa, như ức thiên nhật, bất khả cụ kiến.

          ()下有金剛七寶金幢,擎琉璃地。其幢八方,八楞具足。一一方面,百寶所成。一一寶珠,有千光明。一一光明,八萬四千色,映琉璃地。如億千日,不可具見

(Kinh: Phía dưới có tràng vàng bảy báu kim cang, nâng đỡ đất lưu ly. Tràng ấy có tám mặt, tám cạnh đầy đủ, mỗi mặt đều do trăm thứ báu hợp thành. Mỗi một bảo châu có ngàn quang minh. Mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn sắc, tỏa sáng đất lưu ly, như ức ngàn mặt trời, chẳng thể thấy trọn).

 

          Tạm thời hăy đọc tiểu đoạn này. Đoạn này tiếp theo phần Thủy Quán được nói trong lần trước. Thủy Quán là trước tiên tưởng một khối nước lớn, đương nhiên là nước hết sức trong lặng. Nước đă quán thành tựu, sau đấy mới quán tưởng nước đóng thành băng. Đă quán băng thành tựu, lại tiến thêm một bước nữa là quán tưởng băng biến thành đất lưu ly. Hôm nay, tôi nói tiếp về đất lưu ly.

          “Quán tưởng”: Phần kinh văn ở đây cho biết [đức Phật] dạy phu nhân Vi Đề Hy hăy theo thứ tự quán tưởng hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc từng tầng một. Quán đă thành công, xác thực trông thấy thế giới Cực Lạc. Khi chúng ta học kinh, v́ chúng ta tu pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật, đương nhiên là chẳng “tác quán” (tác quán hết sức khó khăn). Tuy chẳng tu pháp môn quán tưởng, nhưng [t́m hiểu] pháp môn này, sẽ giúp ích rất lớn cho [sự tu học] của chúng ta. Khi chúng ta học kinh A Di Đà, cũng nói tới y báo trang nghiêm. Trong bộ kinh ấy, y báo trang nghiêm được nói rất đơn giản, rất tóm tắt, nhưng ở nơi đây, kinh nói hết sức tỉ mỉ. Chúng ta biết càng nhiều, càng cặn kẽ, đối với việc tŕ danh niệm Phật, phát nguyện trong tương lai văng sanh thế giới ấy, đối với hoàn cảnh bên đó, càng hiểu rơ càng tốt. Tuy chẳng vận dụng công phu quán tưởng, chúng ta hiểu rơ th́ cũng hết sức hữu dụng. Những điều tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc sẽ được nói tới ngay lập tức trong phần sau.

          Trước khi bàn đến những điều đó, phải hiểu rơ một nguyên tắc quan trọng, mà cũng một lư trọng yếu. Lư ấy là: Bất luận bộ đại kinh nào trong Phật pháp, đều nói “vạn pháp duy tâm”. Nói “vạn pháp duy tâm” nghĩa là hết thảy các thế giới, các thứ trang nghiêm, đều do tâm tạo ra. Lũ b́nh phàm chúng ta chẳng dễ ǵ hiểu rơ cho lắm. Ví như trong thế giới Sa Bà này, những kẻ nói theo chủ nghĩa duy vật cho rằng địa cầu là một tinh cầu trong không gian, tồn tại khách quan trong tự nhiên, chẳng dính dáng ǵ đến cái tâm của chúng ta. Đó là cách nói theo chủ nghĩa duy vật, họ chẳng thấu hiểu. Văn hóa Trung Hoa chẳng nói theo kiểu đó. Văn hóa Trung Hoa nói “tâm vật hợp nhất”. Nho gia, Đạo gia, Mặc gia đều là “tâm vật như một”, văn hóa Trung Hoa là như vậy đó! Nói theo Phật pháp, sẽ là “vạn pháp duy tâm”, hoặc là “vạn pháp duy thức”. Nói theo vạn pháp duy thức hoặc duy tâm, núi, sông, đại địa như chúng ta đă thấy, đều là những hiện tượng hiển hiện từ cái tâm của chúng sanh. Như chúng ta trông thấy một quả núi hay một cái biển rộng, chúng đều là những tướng hiển hiện từ cái tâm của chúng ta. Thế nhưng kẻ b́nh phàm chẳng thừa nhận. Họ nghĩ những thứ ấy tồn tại khách quan, chẳng thừa nhận những hiện tượng ấy được hiển hiện từ nội tâm. Nếu quư vị hiểu rơ chân lư này, nhất định là sẽ học tập văn hóa truyền thống, nhất là Phật pháp. Sau khi đă hiểu rơ chân lư, sẽ tự nhiên hiểu rơ chúng vốn là những thứ mà bản thân chúng ta sẵn có!

Nghiên cứu Duy Thức Học, mọi người đều biết: Duy Thức Học bảo tâm có bốn phần. Từ trong bốn phần, [bắt đầu là] Kiến Phần rồi từng bước hướng ra ngoài bèn có Tướng Phần [sau đấy là Tự Chứng Phần và Chứng Tự Chứng Phần]. Tướng Phần là có tướng trạng. Trong tâm có thể phản ứng, có tướng trạng có thể trông thấy được. Chúng ta thấy núi, sông, đại địa, những thứ ấy đều là Tướng Phần trong thức thứ tám của chúng ta. Nhưng kẻ b́nh phàm do mê hoặc, điên đảo, nên chẳng hiểu rơ. Thật ra, toàn thể thế giới Sa Bà là do tâm của tất cả chúng sanh tạo thành. Bất quá, tuy tạo ra thế giới Sa Bà, bọn phàm phu chúng ta chẳng tạo dựng theo kế hoạch, chẳng tạo dựng lư tưởng cho lắm. Chúng ta tạo ra thế giới dựa theo nghiệp lực của các nghiệp thiện ác đă gây tạo. Thế gian này do nghiệp lực của mỗi cá nhân cùng ḥa hợp tạo thành. Những người tạo nghiệp lực trong loài người bèn sanh trong nhân gian. Do tâm lư con người mà thấy núi, sông, đại địa. Những kẻ gây tạo nghiệp lực súc sanh đạo, bèn sanh vào súc sanh đạo, súc sanh thấy núi, sông, đại địa chẳng giống như loài người. Tướng Phần trong thức thứ tám của súc sanh chẳng giống loài người chúng ta. Hoàn cảnh y báo do toàn thể chúng sanh trong lục đạo đă tạo, mỗi đường đều khác nhau. Bồ Tát giới là do những vị tạo Bồ Tát pháp giới [mà h́nh thành]. Phật giới là [cảnh giới của những vị] tạo Phật pháp giới, đó là [hoàn cảnh y báo] cao nhất. Do vậy, chúng ta có thể biết: Những ǵ chúng ta trông thấy trong hiện thời đều do tâm tạo, vạn pháp duy thức, hoặc vạn pháp duy tâm.

          Thế giới Cực Lạc th́ sao? Thế giới Cực Lạc vẫn do cái tâm của chúng ta tạo thành, bất quá chẳng phải là do nghiệp lực tạo, mà là do nguyện lực tạo ra. Thế giới Cực Lạc vốn do A Di Đà Phật đă phát ra bốn mươi tám nguyện. Đại nguyện của Ngài thành tựu, tạo thành thế giới Cực Lạc. Sau đấy, nhiều vị Bồ Tát và những người văng sanh thế giới Cực Lạc (phàm ai muốn văng sanh thế giới Cực Lạc mà chẳng phát nguyện, sẽ không được. Do nguyện lực thành công, bèn đến thế giới Cực Lạc), đến được thế giới Cực Lạc cũng là do nguyện lực của mọi người cùng nhau tạo thành, cho nên thành công! Thế gian mà chúng ta đang sống là do nghiệp lực của phàm phu cùng chung nhau tạo thành. Thế gian do nghiệp lực tạo thành này có khổ, có vui. Trong thế gian có tám khổ, ba khổ, đủ mọi nỗi khổ khác nhau. [Thế giới] tạo thành từ nguyện lực thuần túy là vui, nên gọi là Cực Lạc, chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui. Sau khi đă hiểu rơ nguyên lư trọng yếu này, tiếp tục nh́n, dẫu thấy các thứ trạng huống và hoàn cảnh tốt đẹp, chớ nên [cảm thấy] kinh ngạc, lạ lùng! Chỉ cần chúng ta có nguyện lực như vậy, tất nhiên là sẽ có hoàn cảnh tốt đẹp dường ấy! Chúng ta không hiểu rơ những điều tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc, là do bị nghiệp lực của phàm phu chướng ngại. Không chỉ là chúng ta chẳng nh́n thấy, mà thậm chí ngay cả nghĩ tới cũng chẳng dám nghĩ! Giống như trong thế giới này, trong những khu vực lạc hậu, đói nghèo, ngay cả cơm cũng chẳng có mà ăn, áo cũng chẳng có để mặc, có người bảo cho họ biết tiêu chuẩn cuộc sống của chúng ta ở nơi đây tốt đẹp ngần ấy, họ cũng chẳng dám tưởng tượng, v́ họ chẳng đạt đến mức độ ấy, chẳng thể tưởng tượng được! Sau khi đă hiểu rơ đạo lư này, trong các phần sau, chúng ta sẽ thấy Cực Lạc tốt đẹp ngần ấy, các thứ quang minh, các thứ báu, bao nhiêu là của báu trong cơi ấy, đơn giản là chúng ta đều chẳng thể tưởng tượng nổi! [Đối với những điều tốt đẹp ấy, do đă] hiểu rơ nguyện lực tốt đẹp dường ấy, chỉ cần chúng ta phát nguyện (nhất trí với nguyện lực của đức Di Đà), tất nhiên là có thể trông thấy, trong tương lai có thể sanh về hoàn cảnh ấy.

          Sau khi đă hiểu rơ đạo lư, chúng ta phát nguyện, nguyện của ta và nguyện của A Di Đà Phật nhất trí. Sau khi đă có nguyện, đối với phương pháp dụng công được nói trong kinh, điều quan trọng nhất là có thể tập trung cái tâm, chớ nên có tạp niệm, chuyên tâm nhất trí, vận dụng công phu quán tưởng. Trong công phu quán tưởng, trong phần trước đă nói cách quán mặt trời. Quán mặt trời thành công, nay là quán nước. Quán nước theo từng bước một, từ nước là chất lỏng, sau đó chuyển biến, từ nước đến băng, từ băng đến lưu ly, lưu ly là cả một vùng đại địa. Thế giới Cực Lạc là cả một vùng đất bằng lưu ly, mà lưu ly là trong ngoài thấu suốt. Nói “nội ngoại ánh triệt” (trong ngoài thấu suốt), nghĩa là từ trên mặt đất có thể thấy thấu suốt toàn thể đại địa. Toàn thể [cơi đất] trong ngoài thấu suốt, toàn thể đại địa trong thế giới Cực Lạc là lưu ly. [Thấy như vậy] tức là quán tưởng thành tựu.

          Lưu ly đại địa to ngần ấy, nó được đặt ở đâu? Trong đoạn kế tiếp có nói rơ, dùng thứ ǵ để nâng đỡ đại địa. “Hạ hữu kim cang thất bảo kim tràng” (Phía dưới có một tràng vàng kim cang bảy báu). Đối với toàn thể đất lưu ly trong thế giới Cực Lạc, phía dưới đất lưu ly có một cái tràng. Trên thực tế, cái tràng ấy là một cây cột to. V́ sao cây cột to được gọi là “tràng” ()? V́ cây cột to ấy hết sức kiên cố, lại thấy rơ ràng[2]. Toàn thể cây cột ấy do bảy báu và kim cang hợp thành, kim sắc (có màu sắc như vàng ṛng). Nó “ḱnh lưu ly địa” (nâng đỡ đất lưu ly). “Ḱnh” () là nâng đỡ, chống đỡ. Kim cang là bất hoại, bất cứ vật chất nào cũng đều chẳng thể phá hoại kim cang, nó là vĩnh cửu kiên cố nhất. Hăy ngẫm xem, trong thế gian này, thế giới Sa Bà chẳng vĩnh cửu, thành, trụ, hoại, không, tuần hoàn chẳng ngừng. Cơi kia là kim cang, kim cang là bất hoại. Cây cột kim tràng bằng bảy báu và kim cang chống đỡ đất lưu ly không có ngằn mé. Đất trong thế giới Cực Lạc to lớn khôn cùng!

          Cái tràng ấy có h́nh dạng ǵ? “Kỳ tràng bát phương” (Tràng ấy có tám mặt), “bát phương” là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam, bốn phương và bốn góc hợp thành tám phương. “Bát lăng cụ túc” (tám cạnh đầy đủ), “lăng” () là góc cạnh. Tràng ấy có tám mặt, tám cạnh đầy đủ (tràng có h́nh bát giác). “Nhất nhất phương diện”, mỗi mặt đều do “bách bảo sở thành”, [nghĩa là] mỗi mặt đều do rất nhiều thứ trang sức quư báu hợp thành. Một mặt trong tám mặt của tràng kim cang đều có trăm thứ báu trang hoàng. “Bách bảo” là trăm thứ báu. Thật ra, không phải chỉ là một trăm thứ báu, mà là rất nhiều. Những thứ báu ấy do đâu mà có? Tổ sư chú giải, “bách” biểu thị số lượng nhiều như trần sa. Các thứ báu nhiều như trần sa (cát, bụi) do đâu mà có? Đều trọn đủ trong bản tánh của chúng sanh. Bản tánh trọn đủ, nói theo học lư của tông Thiên Thai sẽ là “tánh cụ” (性具). Tánh () là bản tánh, “cụ” () là đầy đủ. “Tánh cụ” là bản tánh trọn đủ, có ư nghĩa hoàn bị. Nói đến các thứ báu, kim cang cũng thế, bảy báu cũng thế, trăm thứ báu cũng thế, đều là bản tánh trọn đủ. Phàm phu b́nh phàm chẳng thấu hiểu “bản tánh trọn đủ”, cho nên chẳng chịu hướng nội cầu nơi tâm, chỉ hướng ra ngoài cầu tài, cầu danh. Kẻ b́nh phàm theo đuổi danh lợi, khi chưa truy cầu được, bèn nghĩ trọn mọi phương pháp tổn người, lợi ḿnh, hứng chịu bao nhiêu nỗi khổ mới có thể đạt được. Sau khi đă truy cầu được, chớp mắt đă mất đi. Do vậy, danh lợi trong thế gian này đều là pháp hư giả, chẳng đáng tin cậy, thời thời khắc khắc đều chuyển biến, chính ḿnh chẳng có cách nắm giữ nó. Chỉ có tự tâm vốn trọn đủ mới là thực tại, phải dùng phương pháp ǵ để khai phát những thứ châu báu chân thật ấy? Tổ sư chú giải đă giảng rất rơ ràng: Phải gieo các duyên. Hễ có duyên bèn có thể khai phát. Nội tâm giống như kho báu (tức là cái nhân), phải có công cụ là ch́a khóa (duyên) th́ mới có thể mở toang kho báu được.

          Duyên là ǵ? Ở đây nói đến Quán, tức là quán tưởng. Chớ nên có những tạp niệm khác, hăy tập trung tâm lực để quán tưởng. Trong tâm quư vị đă có rất nhiều của báu, muốn thứ ǵ có thể tưởng ra thứ nấy, nhất định là như vậy! Do vậy, những thứ báu được nói kế đó đều là do quán tưởng mà có. Quán tưởng mỗi mặt [của kim tràng] có trăm thứ báu. “Nhất nhất bảo châu, hữu thiên quang minh”: Trong mỗi thứ báu đều có bảo châu; mỗi viên bảo châu đều phóng quang minh. Có ngàn thứ quang minh; không chỉ là quang minh, mà c̣n có các thứ màu sắc. “Nhất nhất quang minh, bát vạn tứ thiên sắc”: Mỗi quang minh đều có tám vạn bốn ngàn thứ màu sắc. Chúng ta xem kinh A Di Đà, [sẽ thấy] hoa sen trong ao bảy báu, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng. Có bốn màu, bốn thứ ánh sáng. Đó là nói rất vắn tắt. Nói thật ra, [sẽ là] trăm thứ báu có ngàn loại quang minh, mỗi quang minh có tám vạn bốn ngàn màu. Những ánh sáng và màu sắc ấy “ánh lưu ly địa” (chói ngời đất lưu ly), tức là cây cột nâng đỡ thế giới Cực Lạc có tám mặt, mỗi mặt đều có chất báu. Trên mỗi báu có châu, từ châu lại tỏa ra ánh sáng, phát ra màu sắc. Những thứ quang minh và màu sắc ấy đều chiếu sáng rực đất lưu ly trong thế giới Cực Lạc.

          Bọn phàm phu chúng ta nh́n vào kinh văn, đơn giản là chẳng có cách nào tưởng tượng được! Thích Ca Mâu Ni Phật nêu tỷ dụ, chúng ta chưa hề thấy những thứ quang minh ấy, chỉ thấy ánh sáng mặt trời. Phải biết: Thế giới mà chúng ta đang sống thuộc về Thái Dương Hệ (trừ Thái Dương Hệ này ra, c̣n có rất nhiều Thái Dương Hệ. Tuy Thái Dương Hệ rất nhiều, chúng ta chỉ thấy một mặt trời). Đối với ánh sáng do mặt trời phát ra, chúng ta cũng chẳng thấy trọn hết. Không chỉ là chẳng thấy trọn hết quang minh, mà đối với màu sắc cũng chẳng thấy trọn hết. Mặt trời tỏa ra rất nhiều loại quang minh và màu sắc, bất quá nhục nhăn của chúng ta chỉ thấy một màu trắng. Thật ra, dùng công cụ [như lăng kính] để phản chiếu, trong ấy, các thứ màu sắc đều có, có các màu như màu tím, màu đỏ v.v… Lại c̣n có tử ngoại tuyến, hồng ngoại tuyến. Những quang sắc ấy nhục nhăn đều chẳng thể thấy được. Đối với quang minh và màu sắc do một mặt trời tỏa ra, chúng ta chỉ thấy một phần nhỏ bé của một phần nhỏ nhoi, hết sức nhỏ nhoi. Huống hồ quang minh trong thế giới Cực Lạc vẫn chẳng phải là do mặt trời tỏa ra, mà là do các bảo châu phóng ra. Quang minh phát ra, mỗi quang minh ấy có tám vạn bốn ngàn sắc. Tuy chẳng thấy, hăy suy tưởng trong tâm! Đó là điều cần thiết! Tuy hiện thời chưa thấy, trong tương lai, văng sanh thế giới Cực Lạc, nhất định sẽ thấy quang minh và màu sắc ấy. Hiện thời, trong tâm hăy suy tưởng sẵn.

          Thích Ca Mâu Ni Phật sánh ví các thứ quang minh và màu sắc ấy “như ức thiên nhật” (như ức ngàn vầng mặt trời). Nay chúng ta [chỉ có thể] thấy một mặt trời; ở đây là ức ngàn vầng. Ánh sáng mặt trời nhiều ngần ấy, trong quang minh lại c̣n hiển lộ màu sắc, ta biết là hết sức nhiều. V́ thế, bảo là “bất khả cụ kiến” (chẳng thể thấy trọn). “Cụ” () là hoàn bị, hoàn toàn. Có thể thấy trọn hết hay không? Người đă đến thế giới Cực Lạc, do công phu đă đạt mức, vừa nh́n bèn có thể thấy trọn đủ. Phàm phu chẳng thể thấy trọn vẹn, v́ tâm lượng của phàm phu hẹp ḥi, nhỏ nhen, cho nên chẳng thể thấy trọn hết. Tuy chẳng thể thấy trọn hết, nhưng trong tâm nghĩ tới, có quang minh và màu sắc nhiều ngần ấy. Như vậy th́ sẽ có thể tưởng tượng thế giới ấy là một thế giới tốt đẹp dường nào! Chúng ta chẳng đến thế giới ấy, cứ ở trong thế giới này tranh tới, tranh lui cùng kẻ khác! Hoàn cảnh ở nơi đây chẳng tốt đẹp, di dân sang ngoại quốc. Di dân sang Mỹ, hoặc sang quốc gia nào vẫn thế, vẫn ở trên quả địa cầu này. Dẫu tốt đẹp cách mấy, vẫn chẳng sánh bằng Cực Lạc, c̣n chẳng sánh bằng một loại quang minh ở trong ấy, huống hồ có tám vạn bốn ngàn quang sắc! Nghĩ đến chỗ này, chẳng phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn mong ở trong thế giới này, đơn giản chỉ là đem bản thân làm tṛ đùa, đối xử chẳng ra ǵ đối với chính ḿnh!

          Quán tưởng theo thứ tự, từng tầng một. Trong đoạn vừa mới giảng này, tức là từ câu “hạ hữu kim cang thất bảo kim tràng” cho đến câu “như ức thiên nhật, bất khả cụ kiến” nói rơ: Cây cột kim tràng to chống đỡ đất lưu ly. Cây cột to ấy cũng là vô lượng vô biên. Sau khi đă quán tưởng xong, lại tiếp tục quán tưởng phía trên đất lưu ly. Trước hết, tôi đọc tiểu đoạn tiếp theo một lượt:

 

          (Kinh) Lưu ly địa thượng, dĩ hoàng kim thằng, tạp xí gián thác, dĩ thất bảo giới, phận tề phân minh.

()琉璃地上,以黃金繩,雜廁間錯,以七寶界,分齊分明。

(Kinh: Trên đất lưu ly, dùng dây vàng ṛng, xen kẽ ḥa lẫn, dùng bảy báu làm ranh giới, phân chia rơ ràng).

 

          Đây là nói về các thứ trang nghiêm trên mặt đất trong thế giới Cực Lạc. Sau khi đă thấy phía dưới đại địa trong thế giới Cực Lạc, hăy chuyển tâm nhăn lên trên mặt đất. “Lưu ly địa thượng, dĩ hoàng kim thằng” (Trên đất lưu ly, dùng dây bằng vàng ṛng). Toàn thể đại địa trong thế giới Cực Lạc có màu lưu ly, toàn là đất lưu ly b́nh ổn. Trên mặt đất lưu ly, dùng dây bằng vàng ṛng để ngăn thành đường qua lại. Lưu ly là một chỉnh thể (entity), trên mặt đất có từng con đường một (đường trong thế gian này, trong quá khứ là bùn đất. Đường sá tối đa là dùng đá để lót. Đường sá hiện thời đúc bằng xi-măng, hoặc rải nhựa đường, cũng được lắm! Đường sá trong cơi kia làm bằng hoàng kim). Dùng vàng ṛng làm thành từng con đường một, trạng huống giống như dùng dây ngăn thành từng khoảng. V́ thế, thoạt trông giống như [từng khu được ngăn] bởi các sợi dây vậy. “Tạp xí gián thác” (雜廁間錯): Nói “tạp xí gián thác” [nghĩa là] không chỉ là vàng ṛng, mà có khi là vàng ṛng, có khi dùng ngọc màu trắng, hoặc là tử kim (vàng có sắc đỏ tía), hoặc bạc trắng, hoặc dùng các thứ báu… tổ sư chú giải như vậy. Nói cách khác, đường sá do các thứ báu hợp thành, có ngang, có dọc, có ư nghĩa “ngang dọc đan chéo nhau, xen kẽ ḥa lẫn”. Các thứ báu bất cứ màu nào cũng đều được phối hợp với nhau rất khéo, hết sức có trật tự. Toàn thể đường sá được quy hoạch giống như hoa thêu gấm dệt! “Dĩ thất bảo giới” (Dùng bảy báu làm ranh giới), lại dùng bảy báu để vạch thành giới tuyến. Giữa con đường này và con đường kia đều có giới tuyến. Các giới tuyến ấy dùng bảy báu để phân chia. “Phận tề phân minh”: Chữ “phận tề” (分齊) chỉ giới tuyến. Mỗi con đường đều có lề đường, lề đường do bảy báu hợp thành, phân định ranh giới rất rơ ràng. Chữ Phân () trong câu trước nên đọc giọng Khứ Thanh, tức là đọc như Phận (). Chữ Phân () trong câu dưới đọc giọng b́nh thanh (không dấu). Tiểu đoạn này nêu ra các thứ trang nghiêm trên mặt đất trong thế giới Cực Lạc, đường sá dùng vàng ṛng và bảy báu v.v… hợp thành!

          Tôi đọc trước đoạn kinh văn kế tiếp một lượt.

 

          (Kinh) Nhất nhất bảo trung, hữu ngũ bách sắc quang. Kỳ quang như hoa, hựu tự tinh nguyệt, huyền xử hư không, thành quang minh đài. Lâu các thiên vạn, bách bảo hợp thành.

()一一寶中,有五百色光。其光如華,又似星月。懸處虛空,成光明臺。樓閣千萬,百寶合成。

(Kinh: Trong mỗi thứ báu, có quang minh năm trăm màu. Quang minh ấy như hoa, lại như các ngôi sao, hoặc mặt trăng, treo lơ lửng trên không, tạo thành đài quang minh. Lầu gác ngàn vạn, do trăm thứ báu hợp thành).

 

          Đoạn này nói quang minh từ mặt đất tỏa lên không trung. Quang minh lại từ trong không trung biến thành cảnh tượng lầu gác trang nghiêm. “Nhất nhất bảo trung, hữu ngũ bách sắc quang” (Trong mỗi thứ báu, có quang minh năm trăm màu), ư nói: Các thứ báu trên mặt đất, mỗi món báu đều có năm trăm thứ màu sắc và quang minh. Những quang minh và màu sắc ấy giống như ǵ? Nếu đức Phật chẳng tỷ dụ, chúng ta không thể hiểu rơ. Nhằm làm cho chúng ta hiểu rơ, đức Phật bảo: “Kỳ quang như hoa”, [ư nói] mỗi một loại báu phóng ra năm trăm màu, năm trăm quang minh. Mỗi thứ quang minh giống như hoa (chữ Hoa () trong kinh điển [có ư nghĩa] giống như chữ Hoa (, bông hoa)). Chúng ta thấy [ánh sáng của] mặt trời trong thế gian này chỉ là ánh nắng mà thôi, chẳng thấy h́nh dạng. Cơi kia đặc biệt, các thứ quang minh chiếu lên không trung, giống như từng đóa hoa xinh đẹp. Từ mặt đất ngó lên, trong mỗi quang minh, hiển hiện các loại màu sắc, hoa nhiều ngần ấy, ngay cả gọi tên c̣n chẳng xuể; v́ thế nói: “Kỳ quang như hoa” (quang minh ấy như hoa). “Hựu tự tinh nguyệt” (Lại giống như các ngôi sao và mặt trăng), thoạt nh́n giống như hoa, do nó treo lơ lửng trên cao. V́ nó là quang minh, cho nên sáng ngời, lại có đủ mọi màu sắc, thoạt nh́n giống như tinh tú hoặc mặt trăng trên bầu trời. Trong thế giới này, vào ban đêm, chúng ta chỉ thấy ánh trăng, ánh sáng của các ngôi sao rất nhỏ bé. Chúng ta chưa từng thấy quang minh từ các chất báu trong thế giới Cực Lạc, làm sao thông hiểu cho được? Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật đành phải dùng các thứ tỷ dụ, dùng các thứ tương tự trong thế gian để biểu hiện, ḥng làm cho chúng ta hiểu rơ. Đó là biện pháp bất đắc dĩ, chỉ có thể dùng tinh tú và mặt trăng để sánh ví (thật ra, các quang minh ấy đẹp đẽ hơn ánh sáng của tinh tú và mặt trăng chẳng biết bao nhiêu lần), khiến cho chúng ta hiểu [những quang minh ấy] giống như ánh sáng của tinh tú và mặt trăng. Những quang minh ấy vừa giống như hoa, vừa giống như tinh tú, mặt trăng. Thông thường, chúng ta đă chẳng thấy, cũng chẳng thể tưởng tượng được. Làm thế nào để có thể thấy được, tưởng được? Phải chú ư: Ắt cần phải nhập Định. Có công phu định lực th́ mới có thể thấy được; bọn phàm phu chúng ta chẳng có công phu định lực, làm sao thấy được? Phàm phu chẳng có công phu định lực, bị nghiệp lực ước thúc. Xét theo một phương diện, nghiệp lực chính là tư tưởng của chúng ta bị trói buộc bởi tri kiến. Nhất là người hiện thời do chịu ảnh hưởng của giáo dục, lúc nào cũng đ̣i hỏi phải có chứng cớ. Hễ nói tới “chứng cớ” th́ phải là chính mắt trông thấy mới chịu thừa nhận. Chẳng trông thấy, sẽ không thừa nhận, người nói kiểu đó rất nhiều. Thông thường, giới học thuật luôn là như vậy. Thật ra, điều đó biểu lộ tâm lượng nhỏ bé đến mức đáng thương, tầm nh́n cũng hạn hẹp, nông cạn đáng thương. Đó đều là do bị nghiệp lực hạn chế. Tâm phàm phu nhỏ nhoi như thế, chẳng nghiên cứu Phật học, chẳng nghiên cứu văn hóa truyền thống! Dẫu là tất cả các nhà đại tư tưởng đă từng nghiên cứu tất cả các học thuật trên khắp thế giới, tâm lượng vẫn là nhỏ bé đến mức đáng thương!

          Làm thế nào để mở rộng tâm lượng của mỗi cá nhân? Ắt cần phải hiểu rơ chính ḿnh. Những ǵ chúng ta mắt thấy, tai nghe đều bị hạn chế bởi Nhăn Căn và Nhĩ Căn, thấy chẳng xa, nh́n chẳng rộng. Ví như đối với ánh sáng, chúng ta chỉ thấy được một loại t́nh huống. Nếu nhiều hơn, sẽ nh́n chẳng ra! Tai nghe âm thanh, cũng bị Nhĩ Căn hạn chế; nếu nghe nhiều âm thanh, cũng nghe chẳng ra. Chẳng nghe được xa, mà âm thanh nhỏ nhất ở gần cũng chẳng nghe được, chỉ nghe được đôi chút. Đó đều là v́ bị các căn hạn chế. Năm căn như mắt, tai, thân v.v… đều do dựa trên nghiệp lực mà có. Nghiệp lực hạn chế bản thân chúng ta. Nếu nhập Định, có công phu định lực, sẽ chẳng bị căn và nghiệp lực hạn chế. Phá vỡ hạn chế, sẽ thấy được những thứ trước nay chưa hề thấy! Các vị thiện tri thức và cao tăng đại đức thời cổ thường từ trong Định mà thấy này nọ, kẻ b́nh phàm chẳng thể thấy được. Ví như nói Trí Giả đại sư của Thiên Thai Tông từ trong Định có thể thấy t́nh h́nh Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh Pháp Hoa cho các đệ tử trong hội Linh Sơn vào mấy ngàn năm trước. “Trí Giả đại sư ở trong Định, thấy một hội Linh Sơn chưa tan”. Nay mọi người đọc đến câu này sẽ chẳng tin tưởng. Hễ [đạt đến] cảnh giới có thể nhập Định giống như Trí Giả đại sư th́ sẽ tin, v́ quư vị cũng trông thấy. Từ trong Định, có thể thấy các thứ hoàn cảnh như hoa, chất báu, mặt trăng v.v… Trước mắt, công phu của chúng ta chưa đạt tới mức, hăy tận hết sức mở rộng tâm lượng. Từ lư luận, chúng ta nhận biết đây là tưởng các h́nh tướng; càng tưởng nhiều, tri kiến càng rộng, càng thấy thâm nhập. Khi đă có công phu, sẽ tự nhiên trông thấy. Đương nhiên là chúng ta chẳng tu pháp môn quán tưởng, mà là tu Tŕ Danh Niệm Phật; Tŕ Danh Niệm Phật cũng giống như thế. Khi tu Tŕ Danh Niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, biểu hiện của nhất tâm bất loạn là “đắc Niệm Phật Đại Định” cũng sẽ giống như thế, có thể thấy giống như vậy đó!

          Tiếp đó, [kinh văn] nói những hoa ấy lại giống như quang minh và màu sắc của tinh tú và mặt trăng, “huyền xử hư không”, “huyền” () là treo lơ lửng, [“huyền xử hư không” là] treo lơ lửng trong hư không. Càng đặc biệt hơn là “thành quang minh đài”, [nghĩa là] những quang sắc ấy chiếu rọi hư không, lơ lửng [trong không trung], trở thành đài quang minh. “Lâu các thiên vạn” (lầu gác ngàn vạn), trên đài có lầu, có gác, tức là h́nh thành cái thường được gọi là “không trung lâu các” (lầu gác trong hư không). Kẻ b́nh phàm sẽ nói lầu gác trong không trung là chuyện hoàn toàn chẳng có ư nghĩa ǵ! Trong hư không, há có lầu gác? Chẳng có chỗ nào để an lập! Những quang sắc ấy ở trong hư không, trở thành từng đài quang minh một. Trên mỗi đài, lại là tầng tầng lớp lớp những ngôi lầu. “Các” () là lầu không phải chỉ có một tầng[3], mà là lầu rất cao. Những lầu gác ấy số đến ngàn vạn ngôi (“ngàn vạn” hoàn toàn chẳng phải là một ngàn ngôi hay một vạn ngôi, mà nhằm biểu thị “vô số”). Ngàn vạn lầu gác đều do “bách bảo hợp thành” (trăm thứ báu hợp thành). Trong quang minh hiện lầu gác, lầu gác đều do các thứ báu kết hợp tạo thành.

          Đoạn kinh văn này nói trong hư không có các đài và lầu gác do quang sắc thành tựu, các thứ báu trang nghiêm các lầu gác trong không trung. Hăy ngẫm xem, trong thế gian này, nh́n vào không trung, sẽ thấy như thế nào? Chúng ta có thể thấy trong hư không có mấy áng mây là khá lắm rồi! Hiện thời, thường là c̣n chưa thấy bầu trời xanh biếc, há có thấy quang hoa (quang minh như hoa) rực rỡ, quang minh và màu sắc của trăm thứ báu ư? Những điều trên đây đều nói về sự trang nghiêm trên không trung trong thế giới Cực Lạc. Phần kinh văn tiếp theo lại nói:

 

          (Kinh) Ư đài lưỡng biên, các hữu bách ức hoa tràng, vô lượng nhạc khí, dĩ vi trang nghiêm.

          ()於臺兩邊,各有百億華幢,無量樂器,以為莊嚴。

(Kinh: Ở hai bên đài, mỗi bên đều có trăm ức tràng hoa, vô lượng nhạc khí dùng để trang nghiêm).

 

          Đoạn này nói về tràng phan lộng lẫy và các thứ nhạc khí trang nghiêm. “Ư đài lưỡng biên”: Chữ “đài” () chỉ các đài quang minh do ánh sáng tạo thành trên hư không. Ở hai bên của mỗi đài quang minh (hai bên trái và phải), “các hữu bách ức hoa tràng”, có các loại hoa dùng làm tràng. [Ở đây], chữ “tràng” () chỉ tràng phan. Tràng phan trong đạo tràng của chúng ta chỉ là do nhân gian mô phỏng h́nh dáng ấy mà thôi. Tràng trong thế giới Cực Lạc vừa to, vừa lộng lẫy, thế gian này làm sao chế được? Tương tự mà thôi! Có bao nhiêu tràng phan rực rỡ như vậy? Có đến trăm ức, hai bên đều có. Ngoài ra, c̣n có “vô lượng nhạc khí”, “nhạc” () là âm nhạc. Người học âm nhạc đều biết: Trong thế gian, có nhạc khí của Âu Tây như kèn Tuba[4], Quốc Nhạc Trung Hoa có các loại nhạc khí như đàn Cầm, Sênh, Tiêu v.v… Bất quá là mấy chục loại mà thôi, hữu hạn! Nhạc khí trong thế giới Cực Lạc tuyệt diệu lắm! Có đến vô lượng, tính đếm chẳng xuể! Mỗi loại nhạc khí có thể dùng để diễn tấu rất nhiều âm nhạc. Dùng đàn Cầm trong thế gian này để nói, đàn Cầm có thể tấu rất nhiều điệu, đàn Sắt[5] cũng thế, Vu cũng thế, mỗi loại nhạc khí đều có thể tấu rất nhiều thứ nhạc. Cơi kia có vô lượng nhạc khí, hăy ngẫm xem, chẳng như trong thế giới Sa Bà, mỗi loại nhạc khí chỉ có thể dùng để chơi mấy thể loại âm nhạc. Cơi kia có vô lượng nhạc khí, mỗi loại nhạc khí lại có thể diễn tấu vô lượng âm nhạc. Vô lượng nhạc khí diễn tấu vô lượng âm nhạc! Nay chúng ta vẫn chưa đạt đến hoàn cảnh ấy, chẳng có cách nào tiếp nhận t́nh huống này. Có thể là trước hết trong tâm hăy suy nghĩ, âm nhạc có bao nhiêu loại? Hơn nữa, đối với những loại âm nhạc ấy, âm nhạc thế gian này đều chẳng thể sánh bằng! Âm nhạc do chúng ta diễn tấu trong thế gian này chẳng ngoài bi, hoan, ly, hợp, chỉ nhằm giải tỏa t́nh cảm trong ḷng mà thôi! Đối với âm nhạc trong thế giới Cực Lạc, mỗi loại âm nhạc đều là một loại pháp. Nghe âm nhạc giống như nghe pháp, giống như xướng tán trong đạo tràng. Khi các loại tán tụng được xướng lên, người hiểu Phật pháp vừa nghe, [sẽ nhận thấy] giống như nghe Phật pháp, tâm được an tĩnh (so với loại nhạc giao hưởng của Âu Tây, rốt ráo bất đồng). Trong cơi ấy, vô lượng nhạc khí diễn tấu vô lượng âm nhạc, giống như vô lượng Phật pháp [đồng thời được tuyên nói]. “Dĩ vi trang nghiêm” (Dùng để trang nghiêm), hăy ngẫm xem sự trang nghiêm ấy là t́nh huống như thế nào!

          Trong phép Thủy Quán trên đây, từ nước tưởng băng, lưu ly đại địa, tràng kim cang ở dưới mặt đất, [các thứ trang nghiêm] trên mặt đất và trên hư không v.v… quán tưởng từng tầng một. Chiếu theo phương pháp, các thứ t́nh huống đều có thể quán tưởng. Cuối cùng, [chánh kinh] c̣n một đoạn nữa là “thuyết pháp” vẫn chưa giảng xong, tôi chừa lại cho buổi giảng sau.

 

Tập 21

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ tám, bắt đầu từ hàng thứ năm. Tôi đọc trước một lượt.

 

          (Kinh) Bát chủng thanh phong, tùng quang minh xuất, cổ thử nhạc khí, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă chi âm. Thị vi Thủy Tưởng, danh đệ nhị Quán.

          ()八種清風,從光明出,鼓此樂器,演說苦、空、無常、無我之音。是為水想,名第二觀。

(Kinh: Tám thứ gió mát, xuất phát từ quang minh, tấu những nhạc khí ấy, diễn nói các âm thanh Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă. Đó là thủy tưởng, gọi là phép Quán thứ hai).

 

          Phép Quán thứ hai nói theo tổng thể sẽ là Thủy Quán. Phép Thủy Quán th́ trước hết là quán tưởng nước. Quán nước thành công, sẽ lại quán nước ngưng đọng thành băng. Lại quán tưởng băng trở thành lưu ly (“lưu ly” là nói toàn thể đại địa trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là đất lưu ly). Đă quán thành công phép Quán này, sẽ liên đới quán cả đại địa nơi thế giới Cực Lạc trong ấy. Từ khởi đầu của phép Quán này cho đến đoạn kinh văn vừa mới niệm, có mấy tầng lớp. Trước hết là từ nước quán thành đất lưu ly. Sau khi đă quán đất lưu ly thành công, bèn tiếp tục quán dưới mặt đất của toàn thể thế giới Cực Lạc có tràng kim cang bằng bảy báu (do tràng kim cang ấy chống đỡ toàn thể thế giới Cực Lạc). Kim tràng ấy có các thứ báu. Mỗi thứ báu lại có các thứ quang minh. Sau khi đă tưởng kim tràng ở dưới mặt đất xong, lại tưởng các thứ trang nghiêm trên mặt đất của thế giới Cực Lạc. Quư vị có thể phối hợp với y báo được nói trong kinh Tiểu A Di Đà để tưởng các thứ tốt đẹp trên mặt đất. Trong đoạn kế tiếp, [kinh văn chép] từ các thứ báu trên mặt đất tỏa ra quang minh. Các thứ màu sắc, các thứ quang minh chiếu lên không trung. Lại từ trong các quang minh ấy, hiện ra tầng tầng lầu gác trong không trung. Lầu gác vừa giống như hoa, vừa giống như tinh tú và mặt trăng trên bầu trời. Sau đấy, lại quán hai bên lầu gác có rất nhiều hoa tràng, rất nhiều nhạc khí. [Nói] “rất nhiều nhạc khí” nghĩa là có vô lượng nhạc khí! Trong thế gian của chúng ta, nhạc khí hữu hạn, chỉ có mấy loại. Trong thế giới Cực Lạc, nhạc khí trong không trung đều là vô lượng, chẳng thể đếm xuể! Lại c̣n đều là nhạc khí tự nhiên, [tức là] chẳng cần phải tốn sức người chế tạo. Từ đoạn kinh văn [chúng ta] vừa mới đọc tiếp theo phần nói về các nhạc khí, [chúng ta thấy] những món nhạc khí ấy phát ra các loại âm nhạc chẳng giống như âm nhạc trong thế giới này. Đối với âm nhạc trong thế giới của chúng ta, người hiểu âm nhạc có thể nghe ra một vài đạo lư; nhưng âm nhạc trong thế giới Cực Lạc diễn tấu âm thanh đều là diễn thuyết Phật pháp. Đấy là chỗ đặc biệt. Đối với các thứ trang nghiêm như tôi vừa mới nói, lúc thông thường, chúng ta chỉ cần có thời gian, bèn có thể dùng tư tưởng để tưởng “tướng”. Bất luận chúng ta có tu pháp môn quán tưởng hay không, lúc thông thường, chúng ta cứ tưởng tượng hoàn cảnh tốt đẹp ấy, giống như chính ḿnh sẽ đến nơi đó. Trước hết, phải nhận biết hoàn cảnh, điều này sẽ đặc biệt có lợi!

 

IV.2.2.3.2. Bốn tướng của Khổ Đế

 

          Nay xin quư vị hăy xem phần kinh văn dành cho buổi hôm nay. “Bát chủng thanh phong” (Tám loại gió mát), “bát chủng” là từ tám phương. Ví như trong thế gian của chúng ta có Đông, Tây, Nam, Bắc, lại c̣n có bốn góc, hợp thành tám phương. Gió từ mỗi phương đều có tên gọi riêng. Các vị nghiên cứu văn hóa Trung Hoa sẽ biết, chẳng hạn như trong sách Hoài Nam Tử[6] có nói gió từ Đông Bắc là gió ǵ, gió từ phương Đông là ǵ, từ Đông Nam lại là gió ǵ. Bốn phương và bốn góc hợp thành tám thứ gió, mỗi loại đều có danh xưng riêng[7]. Đối với hoàn cảnh tốt đẹp của thế giới Cực Lạc, nếu Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn chiếu theo thực tại để nói, th́ nói thật ra, chúng ta chẳng hiểu! Ngài cũng chỉ có thể dùng những t́nh huống mà kẻ b́nh phàm trong thế gian này có thể liễu giải để nói, ngơ hầu chúng ta sẽ liễu giải. Đấy là tám thứ gió mát. “Thanh phong” (清風) là nói gió trong Tịnh Độ hết sức thanh tịnh. Trong thế giới Sa Bà của chúng ta, trong tám loại gió khác nhau, có Cự Phong và Viêm Phong là những loại gió rất nóng bức, khác hẳn! [Gió trong] cơi kia đều là gió mát; có thể suy ra mà biết sự thù thắng này! “Tùng quang minh xuất” (Từ quang minh mà tỏa ra), tám thứ gió mát do đâu mà có? Điều này lại càng đặc biệt! Tám thứ gió mát ấy từ quang minh phát ra. Trong câu trước có nói: Hai bên đài [quang minh] có các thứ nhạc khí. Những cái đài ấy do các thứ báu trên mặt đất tỏa sáng, chiếu lên không trung hiện ra. Quang minh ấy lại phát ra tám thứ gió mát. Từ tám thứ gió mát, “cổ thử nhạc khí” (tấu các nhạc khí ấy). “Cổ” () là thổi, đánh. Gió mát thổi qua, lay động vô lượng nhạc khí. Những thứ nhạc khí ấy là tự nhiên, chẳng như những thứ do công sức của con người làm ra (Trang Tử cũng từng nói, có thiên lại (天籟) và địa lại (地籟)[8]. Thiên lại và địa lại là tự nhiên. [Các nhạc khí] tự nhiên [trong cơi Cực Lạc] c̣n hay hơn thiên lại và địa lại).

“Diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă chi âm”: Tám loại gió mát ấy lay động những món nhạc khí, chúng liền phát ra âm thanh, những âm thanh ấy có ư nghĩa ǵ? Có sự diễn nói. Diễn nói các pháp âm Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă. Kinh văn nói Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă. Mấy loại này là Phật pháp thuộc loại cơ bản nhất. Trên thực tế, sẽ là diễn nói vô cùng vô tận Phật pháp, giống như Ba Mươi Bảy Trợ Đạo Phẩm đă nói trong kinh A Di Đà đều được diễn tấu. Ở đây, chỉ nói bốn loại. Bốn loại này chỉ là tượng trưng mà thôi!

          Xin các vị xem phần biểu đồ đă phát trong lần trước, tức biểu đồ thuộc trang thứ năm (tức là trang biểu đồ nói về phép quán nước). Đoạn thứ hai trong biểu đồ ấy nói về bốn tướng của Khổ Đế.

Khổ Đế là ǵ? Khổ Đế là một loại trong Tứ Đế. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Phật pháp, khởi đầu là giảng pháp môn Tứ Đế, một mực giảng cho đến cuối cùng, rất nhiều bộ kinh lớn vẫn là giảng pháp môn Tứ Đế. Pháp môn Tứ Đế [có mức độ] cạn hay sâu chẳng giống nhau. Có tŕnh độ nông cạn, có tŕnh độ cao sâu. Điều thứ nhất trong Tứ Đế là Khổ Đế, mỗi Đế trong Tứ Đế đều có bốn loại cảnh giới. Cảnh giới là tướng. Khổ Đế có bốn thứ tướng, gọi là “tứ hành tướng”. Khổ Đế có bốn hành tướng, hành tướng (行相) là ǵ? Ư nói: Bất luận là ai trong chúng ta cũng đều có thể dấy lên tư tưởng, đều có tác dụng tâm lư. Khi một tâm niệm của chúng ta dấy lên, mắt thấy những vật bên ngoài, tai nghe các âm thanh bên ngoài, thậm chí nếm hương vị của những món này nọ, các thứ cảm giác do thân thể tiếp xúc, thảy đều có Tướng! Khi chúng ta tiếp xúc, cố nhiên sẽ cảm nhận tướng ấy. Khi chẳng tiếp xúc, lúc tư tưởng của chúng ta vừa dấy lên, trong tư tưởng bèn có các trạng huống, những trạng huống đó gọi là Tướng. “Hành” () là hoạt động của tâm lư. Trong hoạt động tâm lư của mỗi người, sẽ có các thứ h́nh trạng [xuất hiện] trong tâm lư của người ấy giống như một tấm gương! Tâm chính là một tấm gương. Gương nhất định sẽ hiện bóng rất nhiều tướng! “Hành tướng” có nghĩa là trong tâm mỗi người chúng ta, nếu chẳng dấy lên tư tưởng th́ thôi; hễ dấy niệm, niệm ấy bèn rơi vào các thứ tướng trạng. V́ thế, những kẻ b́nh phàm chẳng dụng công, tâm phan duyên cái này, phan duyên cái nọ, tưởng tượng cái này hoặc cái nọ khắp mọi nơi. Người dụng công th́ sao? Chỉ tập trung hoạt động tâm lư vào một chỗ, chẳng để cho nó rong ruổi lung tung!

          Khi nói tới Khổ Đế th́ Khổ Đế có bốn loại hành tướng. Quư vị phải chuyên tưởng trạng huống của bốn tướng nơi Khổ Đế. Tưởng những trạng huống ấy; sau đấy, cầu giác ngộ. Đó gọi là “tứ hành tướng”. Tứ hành tướng là bốn thứ cương lănh; nếu nói suy rộng ra (nói cặn kẽ), sẽ chẳng thể nói hết được! V́ thế, bảo là “quảng diễn bất khả cụ thuyết”, [nghĩa là] nếu quư vị nói cặn kẽ, càng nói càng nhiều, nói cho đến tận mai sau, chẳng có cách nào nói hết. Đó gọi là “bất khả cụ thuyết” (chẳng thể nói trọn). Tuy bảo là “chẳng thể nói trọn”, nhưng đối với bốn điều dưới đây, cũng chính là bốn điều được nêu ra trong kinh văn, chúng ta liễu giải khái lược đôi chút, sẽ có ích rất lớn trong việc tu hành pháp môn Tịnh Độ.

          Thứ nhất là nói đến Khổ. Hành tướng của Khổ rất nhiều. Ở đây, tôi dựa trên những ǵ đă nói trong kinh văn để chia thành ba loại:

          1) Loại thứ nhất là Khổ Khổ. Nói Khổ Khổ chính là các thứ khổ năo mà mọi người đều biết. Trong dấu ngoặc có thuyết minh đơn giản, ngắn gọn: “Ở trong nghịch cảnh mà chẳng thể thoát ly”. Nghịch cảnh là ǵ? Nghịch cảnh là những ǵ chẳng hợp với tâm lư của chúng ta. Chúng sanh phàm phu luôn mong hưởng lạc tốt lành, chẳng mong chịu khổ. Do vậy, nói: Phàm hết thảy những chuyện mà tâm lư chúng ta chẳng mong tiếp nhận, đều gọi là “nghịch cảnh” (“nghịch cảnh” là tương phản với tâm lư của chúng ta). Ví như chúng ta chẳng mong thấy điều ǵ, chẳng mong gặp kẻ nào, thế mà cứ một mực trông thấy. Đó gọi là “nghịch cảnh”. Mong ăn thức ăn ngon mà cứ phải ăn những món dở tệ, ăn những thứ thô tháp, đều là khổ cả! Những điều được gọi là “nghịch cảnh” rất nhiều, nói tách bạch ra, sẽ là rất nhiều. Đại khái, chúng bao gồm trong Bát Khổ, chẳng thể thoát khỏi những thứ ấy! Quư vị chẳng mong gặp phải nghịch cảnh, nói cách khác, cũng là chẳng mong hứng chịu những nỗi khổ ấy, thế nhưng, kẻ nào có thể tránh được? Sanh, lăo, bệnh, tử, những thứ này đều là các nỗi khổ cơ bản lớn nhất. Sanh, tử, ai cũng chẳng thể tránh được! Lăo: Một người về già sẽ có đủ mọi nỗi khổ. Quư vị thấy người già, thân thể rất khỏe, hết thảy cũng đều b́nh thường, nhưng cơ năng nơi thân thể đă thoái hóa. Đó là chuyện khiến cho những kẻ tuổi c̣n rất trẻ chẳng có cách nào liễu giải! Bệnh khổ th́ mọi người đều biết. Có ai mong mỏi bị bệnh hay chăng? Nhưng ai cũng chẳng tránh khỏi ngă bệnh. Đó đều là nghịch cảnh. Ái Biệt Ly, Oán Tắng Hội v.v… không ǵ chẳng phải là nghịch cảnh, bất cứ kẻ nào mong thoát ĺa cũng đều chẳng thể thoát ĺa được! Nói cách khác, chúng ta ở trong lục đạo của thế giới Sa Bà này. Trong thiện đạo, ngoài thiên đạo th́ là nhân đạo, nhân đạo kể như cũng rất tốt đẹp, nhưng nhân đạo vẫn phải hứng chịu những nỗi đau khổ. Quư vị hăy nghĩ xem! So sánh những nỗi đau khổ [trong thế giới Sa Bà] với [những niềm vui trong] thế giới Cực Lạc, hai thứ [tâm lư] “hân, yếm” (yêu thích, chán ghét) sẽ được tăng mạnh. Đó là điều thứ nhất, phải liễu giải Khổ Khổ.

          2) Loại thứ nh́ là Hoại Khổ. Hoại Khổ là ǵ? Cảnh vui trước mắt chẳng thể giữ được. Lạc cảnh và nghịch cảnh tương phản. Nghịch cảnh là cảnh giới chẳng mong thấy; hễ nó xảy đến, đương nhiên là khổ. Lạc cảnh là những điều suy nghĩ hoặc mong cầu trong tâm lư. Chẳng hạn như nói trong tâm lư của người b́nh phàm, [thường là] mong cầu có địa vị chánh trị rất cao, nhưng chưa chắc là ai cũng đều có thể cầu được. Mọi người đều mong phát tài, chưa chắc ai nấy đều có thể trở thành đại phú ông. Dẫu phát tài có rất nhiều tiền, chẳng giữ được, chẳng biết khi nào sẽ bị kẻ khác cướp đoạt hoặc trộm mất, rất khó nói! Nói đến địa vị, từ xưa cho đến hiện thời, hiện nay là thời đại dân chủ, chức vụ Tổng Thống của một quốc gia phải tranh cử. Đă đắc cử, bất quá là mấy năm, hễ hết nhiệm kỳ là phải chuyển giao! Đại hoàng đế thời cổ chẳng cần bầu bán, nhưng hoàng đế cũng chẳng thoải mái đâu nhé! Thời thời khắc khắc sợ hăi, một mặt sợ ngoại nhân xâm lược, mặt khác lại lo có những kẻ trong nước tạo phản, địa vị của nhà vua sẽ chẳng ổn định. Do vậy, kinh Bát Đại Nhân Giác đă nói rơ ràng “quốc độ nguy thúy” (quốc độ mong manh). Đối với lănh thổ của quốc gia, nước lớn cũng thế, nước nhỏ cũng thế, đều chẳng vĩnh cửu yên ổn, hết sức nguy hiểm, hết sức mong manh!

Các vị đọc lịch sử đă biết: Ngoại trừ, vua Nghiêu, vua Thuấn trong tâm rất thản nhiên, t́m một người hiền năng giao phó đất nước, trong tâm chẳng hề hoảng sợ; [những ông vua khác] cho tới lúc độc chiếm thiên hạ, làm hoàng đế mà trong tâm vẫn chẳng an được, để giành lấy thiên hạ, đă giết bao nhiêu người? Đă đoạt được thiên hạ, giao cho con cháu, chẳng được mấy đời, con cháu của kẻ đó lại bị người khác lật đổ, bị kẻ khác giết hại, mỗi triều đại đều là như vậy. Quư vị hăy nghĩ xem, có ư nghĩa ǵ chăng? Khi làm hoàng đế, đoạt được thiên hạ, có vui sướng hay không? Đương nhiên là vui sướng chứ! Tất cả mọi người có ai dám chẳng nghe lệnh vua? Kẻ có tiền, tiền nhiều ngần ấy, chính ḿnh muốn sử dụng thế nào bèn dùng như thế ấy, có vui hay không? Đương nhiên là vui sướng. Nếu chẳng vui, cớ sao những kẻ b́nh phàm đều tâm tâm niệm niệm mong cầu những thứ ấy? Nhưng bất luận là như thế nào, từ tài sản cá nhân của một người, cho đến quyền lực của kẻ làm một vị đại hoàng đế, đều chẳng có cách nào giữ măi! Trong chớp mắt đă chuyển biến. Tấm gương rơ rệt nhất mà mọi người đều biết chính là Tần Thủy Hoàng. Thủy Hoàng (始皇) [có nghĩa là] chính ông ta khởi đầu làm hoàng đế, bắt đầu từ ông ta là Nhất Thế, [những vị vua kế tiếp] sẽ là Nhị Thế, Tam Thế… măi cho đến vạn thế, vạn thế vẫn cứ tiếp tục măi! Nhưng ông ta vừa chết, Nhị Thế[9] cũng tiêu luôn, há có ǵ là vạn thế? Những chuyện này đều là cảnh giới vui sướng chẳng giữ được! Đó gọi là Hoại. Hoại Khổ cũng rất khó chịu đựng! Mọi người chúng ta đều là kẻ b́nh phàm, chẳng làm hoàng đế, quan to cũng chẳng làm. Sau khi đă làm quan to, sẽ biết: Khi mất chức, trong tâm chẳng dễ ǵ thích ứng được. Thuở tại vị, ra khỏi cửa là có xe, muốn sai phái kẻ nào, bèn sai phái kẻ đó. Sau khi bị mất chức, giao quyền lại, thứ ǵ cũng đều chẳng có! Trở thành dân chúng b́nh phàm, hết thảy đều chẳng quen, đó là Hoại Khổ. Quư vị nói xem: Những thứ Hoại Khổ ấy có tránh được hay không? Chẳng tránh được đâu nhé! Bất cứ ai cũng đều chẳng tránh được. Nếu có thể tránh né, đă chẳng phải là thế giới Sa Bà! Thế giới Sa Bà có hiện tượng này!

          3) Loại thứ ba là Hành Khổ, “Hành” () là nỗi khổ ǵ vậy? Vạn hữu trong vũ trụ đổi dời biến hóa. Vạn hữu trong vũ trụ bao gồm hết thảy thời gian và không gian, hết thảy đều thiên lưu biến hóa (đổi dời biến hóa). Thiên () là chẳng ở yên, từ chỗ này chuyển dời qua chỗ nọ. Lưu () là giống như ḍng nước chảy, chẳng yên. “Thiên lưu” là biến hóa chẳng ngừng. Khổng Tử từng bảo: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (Cái đă qua giống như vậy đó, ngày đêm chẳng bỏ). Ngài thấy nước sông, nước chảy suốt ngày từ sáng đến tối chẳng phân biệt ngày đêm, lưu động chẳng ngừng. Ngài nghĩ đến “thệ giả” (逝者, cái đă qua đi), “cái đă qua đi” chính là vạn hữu trong vũ trụ đều giống như nước, luôn luôn lưu động chẳng ngừng. Thánh nhân Trung Hoa nói như vậy. Các triết gia của Cổ Hy Lạp cũng đă nói: Quư vị rửa chân nơi một con sông, nhúng chân xuống sông để rửa; rửa xong, rút chân lên. Sau khi đă rút chân lên, nước vẫn đang chảy, lại tḥng chân xuống, nước trước đó đă sớm chảy đi mất rồi, bây giờ lại rửa, nước lại từ thượng nguồn chảy xuống. V́ thế, “trú túc cấp lưu, trừu túc phục nhập, dĩ phi tiền thủy” (đút chân vào ḍng nước chảy xiết, rút chân lên rồi lại nhúng chân vào, đă chẳng phải là nước trước đó). Có thể thấy là các triết gia Cổ Hy Lạp cũng nghĩ đến điều này. Phàm là người có suy nghĩ, chịu hướng đến phương diện tâm lư để học tập, sẽ đều phát hiện sự thật này. Quư vị hăy ngẫm xem, vạn hữu trong vũ trụ, kể cả đại địa, trong cái nh́n của phàm phu, dường như đại địa là thật sự đáng tin cậy nhất! Họ chẳng ngờ: Đại địa giống hệt như ḍng nước chảy, chẳng đáng tin cậy chút nào, trong chớp mắt đă sớm nẩy sanh biến hóa. Đại địa là như thế, đối với quốc gia và nhân sự trong thế gian, quốc dân trong một nước, một đại đoàn thể, một tiểu đoàn thể, hay một gia đ́nh, nếu quư vị mong vĩnh viễn giữ măi bất biến, chẳng có chuyện đó đâu nhé! Thời thời khắc khắc đều biến hóa. Sự biến hóa ấy thuận theo tâm lư cá nhân. Chỉ cần tâm lư vừa biến động, trạng huống trong hiện tại sẽ biến động. Kẻ chẳng vận dụng tâm tư, sẽ chẳng nh́n thấy được!

          Đối với người vận dụng tâm tư, quư vị hăy nghĩ kỹ xem: Có thời khắc nào chẳng đang biến động? Đă là biến động, nếu chúng ta mong nắm lấy, sẽ chẳng nắm được, cũng giống như nói quư vị duỗi tay ra để níu nước lại, giữ cho nó đừng chảy, có làm được hay không? Chẳng làm được! Ở trong thế gian này, mọi người cư xử rất tốt, chúng ta mong vĩnh viễn đoàn tụ cùng một chỗ, có được hay không? Chẳng thể nào! Không chỉ là bản thân, mà hoàn cảnh khách quan, hết thảy đều luôn biến hóa, giống hệt như nước chảy! Đó là vạn hữu trong vũ trụ đổi dời biến hóa. Loại [biến hóa] này chẳng thể nói là khổ, hay vui, nhưng quư vị sẽ cảm nhận nó là một nỗi khổ. Nếu nói theo phạm vi nhỏ hơn, đối với bản thân mỗi người chúng ta, quư vị hăy nghĩ xem: Đối với trạng huống sinh lư và tâm lư của chính ḿnh, quư vị có thể tự ḿnh khống chế hay chăng? Chính ḿnh chẳng thể khống chế được! Nếu quư vị có thể khống chế trạng huống sinh lư, sẽ chẳng bị ngă bệnh. Ai nấy đều có bệnh, có thể thấy là ai nấy cũng đều chẳng thể khống chế sinh lư, tâm lư lại càng chẳng thể khống chế được! Khi chúng ta niệm Phật, niệm tới, niệm lui, chẳng biết đă niệm tới đâu mất rồi! Điều này chứng tỏ cái tâm chúng ta tán loạn, chẳng thể khống chế được! Chuyện này gọi là Hành Khổ.

          Thứ hai là nói Không. Nên giải thích Không như thế nào? Đối với hiện tượng của cái Không, nói theo học lư trong Phật học, trong mắt bọn phàm phu chúng ta, sẽ thấy trong thế giới này, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, núi, sông, đại địa, những hiện tượng ấy đều là rất thực tại, nhưng phải liễu giải, Phật pháp đă nói rất rơ ràng: Chúng do các duyên ḥa hợp mà có. Bọn phàm phu chúng ta ngỡ những hiện tượng ấy là thật sự có, bất quá đều là do các thứ nhân duyên ḥa hợp với nhau rồi mới hiện ra giả tướng ấy. Thân thể và sanh mạng của mỗi người chúng ta v́ sao mà có? Xét theo phương diện vật chất, sanh mạng do các thứ thuộc về sinh lư ḥa hợp. Xét theo phương diện tinh thần, có hiện tượng tâm lư. Tinh thần, vật chất v.v… ḥa hợp với nhau, do các duyên ḥa hợp mới có sanh mạng của chúng ta. Chẳng có những duyên ấy, hoặc là bất cứ một duyên nào trong các duyên ấy phát sanh biến hóa, sanh mạng liền biến hóa theo. Chẳng hạn như nói thân thể của người hiện thời mắc phải căn bệnh nào đó, bệnh ǵ vậy? Hoặc là do công năng miễn dịch bị mất đi; [v́ thế] chẳng thể chống lại những tấn công bên ngoài. Hễ công năng miễn dịch mất đi, những duyên phận ấy chẳng thể phối hợp. Có vài duyên biến động, biến động [đến nỗi] khiến cho hiện tượng sanh mạng chẳng thể tiếp tục tồn tại. Những loại t́nh huống bệnh tật khác cũng đều là do các thứ duyên phát sanh biến hóa. Do vậy, đối với các duyên ḥa hợp, hăy chú trọng một chữ Ḥa. Kết hợp rất hài ḥa với nhau th́ mới có thể duy tŕ t́nh huống hiện thời. Trong các duyên, nếu có bất cứ duyên nào bất ḥa, sẽ ngay lập tức biến hóa, chẳng thể tồn tại. Sanh mạng một người là như vậy, mà một đoàn thể cũng là như vậy. Trong đoàn thể, hễ có một hai gă tiểu nhân xen vào, đoàn thể ấy cũng tiêu đời! Một quốc gia cũng là như vậy, quốc gia có kẻ tiểu nhân nắm quyền, trong chánh phủ có kẻ tiểu nhân chen chân vào, quốc gia ấy cũng hỏng bét! V́ sao hỏng bét? Duyên bất ḥa. Các duyên chẳng thể ḥa.

          Dẫu các duyên ḥa hợp, tạm thời bèn có, cũng là duy tŕ trong một thời kỳ ngắn ngủi, tạm bợ đó thôi, chẳng thể vĩnh cửu! Do vậy, ở đây nói: Giả tướng do các duyên ḥa hợp mà có, giống như mộng, huyễn, bọt, bóng. Có những giả tướng ấy th́ vẫn giống như nằm mộng vậy. C̣n có ǵ nữa? Như huyễn, “huyễn” () là nhà ảo thuật thực hiện vài huyễn pháp biến hiện. Thoạt nh́n dường như là thật sự tồn tại. Trong chớp mắt, lại chẳng thấy nữa! Lại như bọt nước, bong bóng (bọt nước) nổi trên mặt nước, sẽ tiêu mất rất nhanh. Như ảnh (h́nh bóng), h́nh bóng giả dối, càng giả hơn! Chúng ta thấy vạn sự vạn vật trong thế gian đều do các duyên ḥa hợp mà có, bất quá đều như mộng, như huyễn, như bọt nước, như h́nh ảnh, những thứ ấy đều là giả tướng. Người chẳng thể giác ngộ luôn thấy chúng thật sự tồn tại, “ngươi tranh, ta đoạt”. Càng tranh đoạt, càng tạo ác nghiệp, đáng sợ quá! Người có kiến giải, tức là người có giác ngộ đôi chút, vừa thấy, bèn biết những thứ ấy là những thứ rỗng tuếch, cần ǵ mà phải tranh đoạt nữa? Quư vị hăy ngẫm xem, đó chính là Không Tướng. Nói tới Khổ Đế, ắt phải liễu giải Không Tướng. Chẳng liễu giải Không Tướng, học Phật sẽ chẳng có cách nào nhập môn!

          Đối với Không, trong phần trước đă nói: “Do các duyên ḥa hợp mà có các giả tướng mộng, huyễn, bọt, bóng”. Đó là nói rơ, c̣n điều sau đó, tức “thật vô chân thể, duyên biến phục không” (thật sự chẳng có cái Thể chân thật, hễ duyên biến đổi, lại trở thành Không), chính là kết luận. Bởi lẽ, đều là [các duyên] ḥa hợp, như mộng, như huyễn, như bọt nước, như ảnh, có nghĩa là phàm phu ngỡ chúng thật sự tồn tại; thật ra, đúng là chẳng có thực thể! Chẳng có một cái Thể chân thật, đều là giả tướng ḥa hợp mà thôi. Đối với đạo học vấn, hăy nên biết Thể, Tướng, Dụng. Những ǵ chúng ta liễu giải, tiếp xúc đều là giả tướng. Chẳng có giả tướng nào là chân thể. V́ sao? “Duyên biến phục không”, nghĩa là nhân duyên vừa chuyển biến, lập tức là không. Ví như từ thời Lục Triều[10] tới nay, hoàng đế toàn là kiến lập kinh đô của đế vương tại Nam Kinh. Tới đời Đường, thi nhân bèn thấy: “Lục triều như mộng điểu không đề” (Sáu triều như mộng, chim kêu suông)[11]. Thời Lục Triều, Nam Kinh rất phồn hoa, triều đại nào cũng đều là thịnh vượng tột bậc, nổi tiếng lắm! Kẻ làm hoàng đế bèn làm hoàng đế, kẻ làm quan to trong triều đ́nh bèn làm quan to, thịnh vượng hơn bất cứ nơi nào! Kết quả th́ sao? Người đời sau thấy bất quá giống như một giấc mộng mà thôi! C̣n sót lại ǵ? C̣n sót lại chim đậu trên cành kêu hót vang vọng trong không trung, cũng là rỗng tuếch! Dùng sự thật này để suy nghiệm, quư vị đọc thơ ca thế gian cũng thế, mà đọc bất cứ sách ǵ cũng vậy, đâu đâu cũng đều nh́n theo kiểu phân tích “nhân duyên ḥa hợp”, [sẽ thấy] mỗi chuyện đều chẳng có cái Thể chân thật. Sau khi chúng ta liễu giải đạo lư này, quư vị chẳng có khổ năo. Khi làm quan to, lúc nắm quyền bèn chuẩn bị cho lúc mất quyền. Tới khi ngă ngựa, trong tâm chẳng có đau khổ chi hết. Nếu chẳng chuẩn bị tâm lư, lúc thăng tấn rất sung sướng, sau khi ngă ngựa, sẽ là Hoại Khổ! Đó là v́ chẳng hiểu đạo lư Không. Hết thảy mọi chuyện đều có thể nh́n theo kiểu như vậy. Có thể nh́n theo cách như vậy, người tu đạo chúng ta có thể chẳng bị ảnh hưởng bởi danh lợi thế gian, hoặc [bị ảnh hưởng bởi] những chuyện tạo nghiệp do phàm phu trong thế gian tranh chấp lẫn nhau. Chẳng bị ảnh hưởng, chúng ta mới có thể tu đạo tốt đẹp. Nếu không, chúng ta có tri thức và kiến giải b́nh phàm như mọi người. Họ đă khổ năo, ta c̣n khổ năo hơn họ nữa, tu đạo nỗi ǵ? V́ thế, ắt là phải liễu giải đạo lư Không.

          Thứ ba là Vô Thường. Vô Thường là chẳng vĩnh hằng. Vĩnh cửu tồn tại th́ gọi là Thường, chẳng có chuyện ấy đâu nhé! V́ sao nói là vô thường? Toàn thể thế gian đều là Thành, Trụ, Hoại, Không. Thành () là trong quá khứ chẳng có thế giới này, các thứ nhân duyên dần dần thành tựu. Thành tựu đến khi rất tốt đẹp th́ gọi là Trụ (), tức là duy tŕ hiện trạng (t́nh trạng trong hiện thời). Hiện trạng ấy duy tŕ chẳng bao lâu, sau đó sẽ là Hoại (). Khi hư hoại, bèn có các hiện tượng hư hoại xuất hiện. Khi hoại đến một lúc nào đó, sẽ là Không (). Chuyện này chẳng cần phải nói cặn kẽ, quư vị đều biết cả rồi! Trong bốn đại kiếp ấy, trong mỗi đại kiếp đều có trung kiếp và tiểu kiếp, [mỗi kiếp] đều có Thành, Trụ, Hoại, Không, có các giai đoạn rành rẽ, rơ ràng. Bất cứ thời gian nào, bất cứ lúc nào, đều có Thành, Trụ, Hoại, Không tuần hoàn; đó gọi là “vô thường”. Nói theo phía con người, sẽ là sanh, trụ, dị, diệt. Thành, Trụ, Hoại, Không, sanh, trụ, dị, diệt, các hiện tượng ấy đều là vô thường. Nếu quư vị chú trọng Thường, chỗ nào sẽ có? Các hiện tượng trong thế gian đều là như thế, ắt phải liễu giải điều này! Nếu chẳng liễu giải, sẽ chấp trước “có thường trong vô thường”, sẽ có phiền năo! Trong hiện thời, có người nào trong bọn chúng ta chẳng chấp trước vô thường là thường? Đối với bất cứ thứ ǵ, cũng đều coi nó là thứ chính ḿnh sẽ có thể giữ ǵn vĩnh viễn, toàn là kẻ si nói mớ trong mộng vậy!

          Thứ tư là Vô Ngă. Vô Ngă là “chẳng có ta”, [tức là] chẳng có cái Ngă của chính ḿnh. “Ngă” chính là cái giả ngă mà phàm phu chấp trước, chẳng phải là một cái chân ngă nào khác. Chân ngă là Chân Như bản tánh, phải phân biệt rơ ràng điều này! Phàm phu chẳng nhận biết chính ḿnh có Chân Như bản tánh, luôn chấp trước giả ngă. Phật pháp dạy kẻ phàm phu: Giả ngă là chẳng có (vô ngă). V́ sao chẳng có giả ngă? V́ sao nói là vô ngă? “Quá vị” (過未) là quá khứ và vị lai. Quá khứ là đối với đời trước của đời này, đời trước lại có đời trước nữa, bản thân chúng ta cũng chẳng thể nói rơ ràng. Vị lai là bất luận ai trong chúng ta cũng có lúc chết, sau khi đă chết th́ sao? Hoàn toàn chẳng có chuyện kết thúc, chẳng phải là nói theo kiểu chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật ngỡ con người chết rồi sẽ chẳng có ǵ nữa, chủ nghĩa ấy gây nên mê hoặc càng dữ dội hơn! Kẻ b́nh phàm đều biết: Con người sau khi đă chết, linh hồn vẫn tồn tại. Khi linh hồn ĺa khỏi nhục thể đă tử vong, vẫn phải tới một nơi khác để chuyển thế, đó là vị lai. Vị lai hăy c̣n có vị lai. Có quá khứ, có vị lai, nay chúng ta đang ở trong loài người, trong quá khứ đă thuộc vào đường nào? Chúng ta không biết; vị lai sẽ lại vào đường nào? Chúng ta cũng không biết! Phàm phu bất luận sống trong đường nào, cũng đều chẳng thoát khỏi lục đạo.

          Chỗ bất hảo nhất trong lục đạo là địa ngục. Đỡ hơn địa ngục đôi chút là ngạ quỷ đạo. Lại tốt hơn ngạ quỷ đạo một chút là súc sanh đạo, sau đấy là A Tu La đạo (trong nhân đạo cũng có A Tu La đạo! Kẻ dễ cáu bẳn nhất, hở ra là tranh chấp, đấu đá với người khác, hạng người ấy chính là A Tu La đạo trong loài người. Trong loài súc sanh cũng có A Tu La đạo, trong cơi trời cũng có. Trong loài súc sanh, cũng có loài súc sanh dễ nổi sân, cũng có loài tánh khí sân hận, rất dũng mănh, rất hung tợn. Những loài đó đều thuộc A Tu La đạo). Sau đấy mới là nhân đạo, rồi đến thiên đạo. Luân hồi chẳng ra ngoài lục đạo. Trong lục đạo, hễ sanh vào đường nào trong lục đạo, thân lẫn tâm đều biến đổi. Trong nhân đạo, chúng ta có thân thể và tâm lư của con người. Từ đó suy ra, ở trong súc sanh đạo, biến thành chó, thân thể chó chẳng giống thân thể con người, tâm lư chó cũng chẳng giống tâm lư loài người! Có nghĩa là: Một chúng sanh trong quá khứ, vị lai, qua lại biến hóa, biến huyễn trong lục đạo. “Biến huyễn” (變幻) là chính ḿnh chẳng thể làm chủ, quư vị muốn t́m chân ngă ư? Nếu bảo là thật sự có ngă, chính ḿnh sẽ chẳng phải biến huyễn, có được hay không? Ai bằng ḷng biến huyễn như vậy? Nhưng chẳng thể được, không biến đổi không được! Điều này cho thấy: “Chẳng có ngă!” Đó là nói theo quá khứ và vị lai, c̣n hiện tại th́ sao? Thân thể chúng ta trong hiện tiền là thân Tứ Đại giả hợp. Tứ Đại là Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Thân thể này của chúng ta có thịt, có xương, có nước, có hơi ấm, có hơi thở ra vào (hơi thở được gọi là Phong); do những thứ vật chất ấy giả hợp lại. Những thứ vật chất Địa, Thủy, Hỏa, Phong ấy, bất cứ vật chất nào biến động, [thân thể] sẽ mắc bệnh! Trị bệnh chẳng lành, sẽ mất mạng, đấy cũng là chẳng có ngă vậy! Nếu thật sự có ngă làm chủ trong ấy, sẽ chẳng thể có những hiện tượng ấy xuất hiện. Do có những hiện tượng giả hợp ấy, [tức là] chẳng do chính ḿnh tự làm chủ, ngay trong hiện thời cũng chẳng t́m được ngă! V́ thế, bất luận là quá khứ, hiện tại, hay vị lai, chẳng t́m thấy chân ngă. Đó là vô ngă. Những thứ ấy đều là giả, là giả huyễn, [thế mà] bất luận kẻ nào cũng đều coi nó là chân ngă!

          Phàm phu b́nh phàm chẳng biết chân tướng sự thật, ngỡ khổ là lạc, tưởng không là chẳng không, ngỡ vô thường là thường, tưởng vô ngă là ngă. V́ thế, Phật pháp nói [Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă] để chúng ta liễu giải: Đó là Khổ, đó là Không, Vô Thường, Vô Ngă, ắt cần phải có nhận thức ấy th́ mới có thể nhận biết khổ. Sau đấy, chuyển khổ thành vui, biến Không thành chân thật, chuyển vô thường thành thường, chuyển vô ngă thành chân ngă. Nơi phàm phu là tứ điên đảo, Phật pháp biến cải tứ điên đảo thành tứ tịnh đức. Nơi phàm phu là tứ điên đảo, vừa được Phật pháp chuyển, liền trở thành tứ tịnh đức. Đối với chữ Không trong tứ tịnh đức, phàm phu là bất tịnh, v́ sao ở đây gọi là Không? Sau khi trừ bỏ tứ điên đảo, chẳng c̣n bất tịnh, chẳng c̣n chấp trước th́ gọi là Không. Tướng Không hiển lộ, biến thành chân thật.

          V́ sao âm nhạc trong thế giới Cực Lạc diễn tấu bốn tịnh đức, diễn tấu pháp Tứ Đế? Do có tác dụng! Thế giới Cực Lạc diễn tấu những pháp ấy, nói theo thế giới Sa Bà, người tu pháp môn Quán Tưởng Niệm Phật trong thế giới Sa Bà có thể nghe thấy. Thật sự dụng công đắc Định, sẽ có thể nghe các pháp ấy. Khi nghe những pháp ấy, công phu sẽ tiến bộ nhanh hơn. Lại nói theo thế giới Cực Lạc, đă văng sanh thế giới Cực Lạc, c̣n cần đến âm nhạc để làm ǵ? Nói theo cơi ấy, người đới nghiệp văng sanh (là những kẻ chẳng đoạn Hoặc trong thế gian này, mang theo nghiệp để sanh về thế giới Cực Lạc) vẫn phải nghe pháp để cầu ngộ. Do vậy, trong thế giới Cực Lạc phải diễn vô lượng pháp môn. Trong vô lượng pháp môn, có pháp môn Tứ Đế; trong pháp môn Tứ Đế, có Khổ Đế.

 

IV.2.2.3.3. Phàm thánh duyên cảnh

 

          Các vị xem biểu đồ: “Phàm thánh duyên cảnh”. “Phàm” () là phàm phu. “Thánh” () nếu nói rộng răi, phàm quư vị học Phật pháp, tin sâu Phật pháp, chẳng nghi, chánh tri, chánh kiến, đều được xem là thánh. Lấy phàm phu để nói, đối với bốn tướng của Khổ Đế, họ đều chẳng chịu nổi! Ví như nói khi “duyên khổ”, [tức là] bị khổ, bất luận là Khổ Khổ, Hoại Khổ, hay Hành Khổ, nhất là Khổ Khổ, kẻ ấy liền oán hận. Hoại Khổ đương nhiên cũng là như vậy, oán hận giống hệt. V́ thế, khi bị khổ, liền dấy lên tâm lư oán hận. Họ liễu giải sự thật về Không, vốn chấp trước Không, nhưng khi sự thật thuộc về Không phát sanh, chịu không nổi, cảm thấy bi ai. V́ thế, có rất nhiều kẻ bi quan, thấy những sự thật thuộc về Không phát sanh, họ chịu không nổi ảnh hưởng, cảm thấy bi ai. Duyên vô thường th́ sao? Hễ chuyện vô thường phát sanh, liền cảm thấy thất vọng. Đối với vô ngă, khi chuyện vô ngă xảy ra, tâm lư cảm thấy sợ hăi. Lúc b́nh thường, thấy hết thảy đều là ngă, hết thảy có ngă. Trong lúc bệnh nặng, hoặc lúc sắp chết, họ sợ hăi; đó là hiện tượng nơi mọi kẻ phàm phu. Người thật sự có đạo, chẳng giống như vậy. Người có đạo đă sớm biết vô ngă, chẳng sợ hăi ǵ, chết là chuyện đương nhiên, chính ḿnh đă sớm chuẩn bị sẵn, có nơi để đến; v́ vậy, chẳng sợ hăi. Thánh nhân là người đă ngộ giải thoát, là người học Phật thành công, là bậc có chánh tri chánh kiến, bất luận là Khổ, là Không, là Vô Thường, hay Vô Ngă, họ đều sớm liễu giải, tâm lư đă sớm chuẩn bị sẵn, đă sớm ngộ. Họ ngộ những lư ấy, [cho nên] có thể giải thoát.

          Tám thứ gió mát đă nói trên đây, lay động, tấu các nhạc khí, diễn thuyết pháp âm. “Thị vi Thủy Tưởng, danh đệ nhị Quán” (Đó gọi là tưởng nước, là phép Quán thứ hai). Đây là lời kết luận. Trong phép Quán thứ hai, có thể quán y báo trang nghiêm, điều quan trọng nhất chính là pháp âm như vừa mới nói. Hôm nay tôi giảng đến chỗ này th́ ngưng!

 

Tập 22

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin hăy mở kinh bổn, trang thứ tám, bắt đầu từ hàng thứ bảy. Trước hết, tôi đọc đoạn kinh văn này.

 

          (Kinh) Thử tưởng thành thời, nhất nhất quán chi, cực linh liễu liễu, bế mục, khai mục, bất linh tán thất. Duy trừ thực thời, hằng ức thử sự. Như thử tưởng giả, danh vi thô kiến Cực Lạc quốc địa. Nhược đắc tam- muội, kiến bỉ quốc địa, liễu liễu phân minh, bất khả cụ thuyết. Thị vi Địa Tưởng, danh đệ tam Quán.

()此想成時,一一觀之,極令了了。閉目開目,不令散失。唯除食時,恒憶此事。如此想者,名為麤見極樂國地。若得三昧,見彼國地,了了分明,不可具說。是為地想,名第三觀。

          (Kinh: Khi tưởng này thành, quán từng điều một, sao cho hết sức rơ ràng. Nhắm mắt, mở mắt, chẳng để tan mất. Chỉ trừ khi ăn, luôn nhớ chuyện này. Tưởng như vậy gọi là thấy đất đai trong cơi Cực Lạc về phần thô. Nếu đắc tam-muội, sẽ thấy đất trong cơi ấy rành rẽ, phân minh, chẳng thể nói trọn. Đó là tưởng đất, gọi là phép Quán thứ ba).

 

IV.2.2.4. Phép Quán thứ ba, Địa Quán

 

          Tạm thời hăy đọc hai tiểu đoạn này. Mười sáu phép Quán giảng cho tới hôm nay, bắt đầu giảng về phép Quán thứ ba, tức là quán đại địa trong thế giới Cực Lạc. Lần trước, chỉ mới nói xong Thủy Quán. Quán Thủy Quán thành công, nói cách khác, là từ nước biến thành băng, từ băng lại biến thành lưu ly. Quán đất lưu ly thành công, quán đất trong toàn thể thế giới Cực Lạc cũng đă quán thành tựu. Hôm nay nói về Địa Quán, dựa trên những điều đă được quán trước đó, lại nói tiếp về hai tầng cảnh giới trong Địa Quán:

- Tầng thứ nhất là dùng những điều đă tưởng trong tâm, tưởng thấy lănh thổ Cực Lạc.

- Tầng thứ hai là đắc tam-muội (đại định), hoàn toàn thấy toàn thể đại địa trong cơi Cực Lạc. Trọng điểm của phép Địa Quán được nói trong ngày hôm nay chính là nói về điều này!

          Câu đầu tiên mở đầu đoạn kinh văn này là “thử tưởng thành thời” (khi tưởng này đă thành), tiếp nối những điều đă nói trong đoạn trước. Trong đoạn trước đă nói do quán nước mà quán toàn thể đại địa bằng lưu ly, lại quán các thứ trang nghiêm trên mặt đất, cùng với hoa tràng, nhạc khí v.v… [“thử tưởng thành thời”] là lúc quán tưởng [những điều trang nghiêm ấy] đă thành tựu. Câu “thử tưởng thành thời” có nghĩa là khi đă thành tựu phép quán tưởng Thủy Quán. Sau đấy, tiếp tục “nhất nhất quán chi” (quán từng điều một). “Nhất nhất quán chi” là đối với những thứ đă được quán ấy, tức là đại địa và hết thảy cảnh vật trên đại địa, [đều quán] “cực linh liễu liễu”, “cực” () là đạt tới tột cùng, đă đạt tới chỗ cùng cực. Chữ Liễu () trong câu “linh liễu liễu” có nghĩa là hiểu rơ, thật sự hết sức triệt để, hết sức rơ rệt. Lại thêm vào một chữ Liễu nữa với dụng ư nhấn mạnh, [hàm nghĩa quán tưởng từng thứ trang nghiêm] rơ ràng nhất và triệt để nhất. Quán sát như vậy cho đến mức độ nào? “Bế mục, khai mục, bất linh tán thất” (nhắm mắt, mở mắt, chẳng để cho tan mất): Nhắm mắt, cố nhiên là tưởng t́nh huống ấy, tưởng rành rẽ, phân minh. Mở banh mắt ra, vẫn là thấy rơ ràng, phân minh. V́ sao phải nhắm mắt, mở mắt? Chúng ta b́nh thường cũng có thể dụng công như vậy để thử xem, chúng ta đang tưởng thế giới Cực Lạc đó nghe! Chúng ta dựa theo cảnh giới y báo trang nghiêm được nói trong kinh A Di Đà: Cảnh tượng các thứ trang nghiêm trong ao bảy báu, bắt đầu nhắm mắt tưởng. Nhắm mắt lại sẽ dễ tưởng hơn, mà cũng tưởng rơ ràng hơn, nhưng mở mắt th́ sao? Chúng ta trông thấy hoàn cảnh thực tại trong thế giới Sa Bà! V́ thế, thường là nhắm mắt bèn có thể tưởng thấy y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc; hễ mở mắt, bèn chẳng tưởng được. Mở mắt th́ Nhăn Căn của chúng ta sẽ đối diện hoàn cảnh hiện thực trong thế giới này, t́nh huống sẽ khác hẳn. Ở đây th́ sao? Bất luận nhắm mắt hay mở mắt, đều có thể trông thấy. Hễ có thể thấy [cảnh được quán] th́ phép Quán này thành tựu. Nếu chẳng thành tựu, nhắm mắt tưởng, có thể tưởng ra h́nh dạng lớp lang rơ rệt. Vừa mở mắt, do tưởng chẳng được bèn chẳng thấy nữa. Do vậy, người ấy (người đă tu thành tựu phép Quán này) nhắm mắt hay mở mắt, đều là [thấy cảnh quán tưởng] rành rẽ, phân minh, chẳng để [cảnh tượng ấy] bị “tán thất” (đừng để nó tan tác, thất lạc), tức là các thứ trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc thường ở trước mắt, có thể thưởng xuyên trông thấy!

          “Duy trừ thực thời”: Chỉ trừ lúc ăn cơm ra. Ăn cơm th́ đương nhiên là phải ăn này nọ, chẳng thể quán tưởng được! Lúc chẳng ăn th́ sao? “Hằng ức thử sự” (Luôn nghĩ đến chuyện này), thường xuyên vĩnh viễn quán tưởng. “Ức” () là ghi nhớ. Ghi nhớ những điều đă nói trên đây, chẳng để tan mất. Chữ “thử sự” chỉ những thứ cảnh tượng trang nghiêm đă được quán tưởng thành tựu. Nói cách khác, trừ lúc ăn cơm ra, trong hết thảy những khi khác, luôn phải giữ sao cho những cảnh tượng trang nghiêm đă quán thành công đều trông thấy rơ ràng, chẳng bị mất đi. “Như thử tưởng giả” (Tưởng như thế), luôn nhớ những chuyện đúng như vừa nói trên đây, bất luận nhắm mắt hay mở mắt, cảnh tượng nơi y báo đều ở trước mắt. Quư vị quán tưởng như vậy, gọi là ǵ? Gọi là “thô kiến Cực Lạc quốc địa” (thấy đất đai trong cơi Cực Lạc về phần thô). “Thô” () là khá thô thiển, chẳng phải là rất vi tế. Thấy đất trong cơi Cực Lạc về phần thô, đó là quán tưởng từng bước một. Từ quán nước cho đến quán đất lưu ly, từng tầng một dần dần tưởng đất trong cơi Cực Lạc. Tuy là thấy về phần thô, cũng là tuyệt diệu lắm!

          Trong đoạn tiếp theo: “Nhược đắc tam-muội, kiến bỉ quốc địa, liễu liễu phân minh, bất khả cụ thuyết”. Tức là nếu đắc tam-muội, tiến hơn bước nữa là khi đă đắc tam-muội, “kiến bỉ quốc độ”, thật sự thấy cơi nước ấy. Chữ Bỉ () chỉ thế giới Cực Lạc. Khi đắc tam-muội, thấy đất trong cơi Cực Lạc, thật sự trông thấy đại địa của cơi Cực Lạc, thấy rơ ràng, phân minh, chẳng thể nói trọn! Đoạn nói đến chuyện thấy đất đai trong cơi Cực Lạc về phần thô trên đây vẫn là thuần túy dựa vào sự quán tưởng trong tâm mà có (từ trong tâm tưởng mà quán tưởng ra). Khi ấy, thật sự đắc tam-muội. Tam-muội là ǵ? Tam-muội (Samadhi) c̣n gọi là Tam-ma-đề, c̣n gọi là Tam-ma-địa, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Định. [Đắc] tam-muội là “nhập Định”. Trong bộ kinh này, trong phần trước, phu nhân Vi Đề Hy đă thỉnh cầu đức Phật hăy dạy cho bà ta: “Chánh Thọ là như thế nào?” Tam-muội c̣n gọi là Chánh Thọ (正受). V́ sao gọi là Chánh Thọ? Thật sự tiếp nhận pháp do quư vị đă quán, bèn gọi là Chánh Thọ, nói thông tục là “nhập đại định”.

Đại định c̣n gọi là Tam-muội. Do dựa theo các thứ pháp môn tu Định [sai khác] mà [tam-muội] có tên gọi sai khác, thật ra, đều là đại định. Chẳng hạn như nói: Pháp môn Niệm Phật dựa theo phương pháp được dạy trong kinh Tiểu A Di Đà để tu Tŕ Danh Niệm Phật, đắc nhất tâm bất loạn, cũng là “đắc tam-muội”. Tam-muội ấy được gọi là Tŕ Danh Niệm Phật tam-muội. Ở đây, tam-muội được nói trong Quán Kinh là ǵ? Là Quán Tưởng Niệm Phật tam-muội. Tam-muội là danh xưng chung được nói trong các bộ kinh Đại Thừa. Trong Tịnh Độ Tông, các tam-muội ấy được gọi chung là Niệm Phật tam-muội. Trong Niệm Phật tam-muội, lại chia thành Tŕ Danh Niệm Phật tam-muội, Quán Tưởng Niệm Phật tam-muội… Đắc tam-muội sẽ tuyệt diệu lắm. Cảnh giới trông thấy [trong tam-muội] và cảnh giới được trông thấy về phần thô [do quán tưởng] vừa nói trên đây hoàn toàn bất đồng. Đă đắc tam-muội, sẽ thấy đại địa trong thế giới Cực Lạc, thấy rơ ràng, rành rẽ. “Rơ ràng, rành rẽ” là thấy đại địa trong toàn thể thế giới Cực Lạc rơ ràng, rành rẽ, chẳng có chỗ nào không thấy. Cảnh tượng trang nghiêm đă nhiều như thế, hoàn cảnh trang nghiêm trên đại địa lại tốt đẹp dường ấy, chẳng thể nói trọn. “Chẳng thể nói trọn” là chẳng có cách nào nói hoàn toàn! Dẫu quư vị có thần thông to đến cỡ nào, tất cả những điểm tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc đều nói chẳng cùng tận, đó gọi là “bất khả cụ thuyết”.

          Ở đây, cần nghiên cứu đôi chút. V́ sao khi đắc tam-muội, thấy đất đai trong cơi ấy rành rẽ, rơ ràng, mà chẳng thể nói trọn? Trước khi đắc tam-muội, tuy là thấy, chỉ là thấy cơi nước Cực Lạc về phần thô. Hai điều này khác biệt ở chỗ nào? Thích Ca Mâu Ni Phật đă từng giảng về sự khác biệt giữa “đă đắc tam-muội” và “chưa đắc tam-muội”. Đức Phật nêu tỷ dụ: Trong quá khứ, chính Ngài học bắn tên. Khi mới bắt đầu học, phải chuyên tâm nhất trí chú ư, tập trung tinh thần, tập trung sức chú ư, nhắm chuẩn xác mục tiêu để bắn. Sau khi đă luyện tập thành thạo, hễ chú ư, mỗi phát đều là bách phát bách trúng. Chỉ cần tùy tiện cầm lấy cung tên, vừa chú ư liền bắn trúng mục tiêu. Về sau, dần dần công phu tiến hơn một tầng nữa, dẫu chẳng cần chú ư, chỉ cần bắn, không lúc nào chẳng trúng. Thoạt đầu là phải chú ư, vẫn phải dùng một chút sức, vẫn phải vận dụng công phu; về sau, trở thành tự nhiên, chẳng cần chú ư, tự nhiên bách phát bách trúng, tùy ư có thể đạt tới công phu luyện tập thành thạo. Điều này có nghĩa là: Một đằng vẫn cần phải dụng công, một đằng là công phu chín muồi, [tức là] khi đă đạt tới chỗ chẳng cần dụng công, nghĩa là khi đă đạt tới vô công dụng hạnh, bản thân quư vị chẳng chú ư, không sao hết, tùy ư cầm lấy cung tên, sẽ tự nhiên là hễ bắn liền trúng, trúng ngay mục tiêu. Trong tiểu đoạn trước, thấy đất đai cơi Cực Lạc về phần thô, giống như bắn tên: Khi khởi đầu, phải tập trung tinh thần, trừ lúc ăn cơm ra, trong hết thảy những thời điểm khác, đều phải tập trung tâm lực, thường quán tưởng chuyện này. Sau khi đă đắc tam-muội, chẳng cần dụng công như vậy, mà là tự nhiên, thật sự trông thấy. Có chút phân biệt này.

          Lại nói đến các quốc độ trong thế giới Cực Lạc, chúng ta đều biết thế giới Cực Lạc có bốn quốc độ. Quốc độ được nói trong đoạn giảng về “thấy đất đai Cực Lạc về phần thô” chính là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu đắc tam-muội, quốc độ được thấy trong thế giới Cực Lạc sẽ là Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Những ǵ được thấy trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư tuy cũng hết sức trang nghiêm (ví như nói thế giới Sa Bà cho đến mười phương thế giới, bất cứ thế giới nào cũng đều chẳng sánh bằng), nhưng cơi Thật Báo Trang Nghiêm càng trang nghiêm hơn nữa. V́ sao gọi là Thật Báo Trang Nghiêm Độ? “Độ” (quốc độ) là y báo. Cơi Thật Báo Trang Nghiêm chính là y báo để Báo Thân Phật nương vào. Nói thông thường, hàng đại Bồ Tát có công phu có thể thấy thân Phật. Thân Phật do hàng đại Bồ Tát nh́n thấy cũng thế, mà thân Phật do chúng sanh b́nh phàm trông thấy cũng thế, đều gọi chung là Tha Thọ Dụng Thân.

Tha Thọ Dụng Thân chính là Ứng Thân, do ứng theo ḷng mong cầu của chúng sanh mà ứng hiện ra, nên gọi là Ứng Thân. Thông thường, phàm phu trông thấy Ứng Thân hết sức nhỏ. Chẳng hạn như nói tới [thân tướng của đức Phật mà chúng sanh] được thấy trong thế giới Sa Bà. Vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật, [thân tướng của] Thích Ca Mâu Ni Phật như các hàng đệ tử và người trong thế tục (tức là phàm phu) trông thấy đều là Ứng Thân. Ứng Thân ấy được gọi là Liệt Ứng Thân (劣應身), Liệt () là khá kém cỏi. C̣n có thân nào nữa? Thắng Ứng Thân. Thắng () là thù thắng, vượt trỗi Liệt Ứng Thân. Bọn phàm phu tầm thường chúng ta chẳng thể thấy Ứng Thân thù thắng, hàng Bồ Tát b́nh phàm cũng chẳng thể thấy được! Ắt phải là đă đạt tới Địa Thượng Bồ Tát th́ mới có thể thấy Thắng Ứng Thân. Đối với Thắng Ứng Thân, nói theo ba thân của Phật, th́ là Báo Thân Phật, mà cũng là Ứng Thân. Ứng Thân do Báo Thân phân thân xuất hiện để ứng hóa th́ thuộc về Thắng Ứng Thân. [Đối với người đă] đắc tam-muội, quốc độ do [người ấy trông thấy] trong thế giới Cực Lạc sẽ là cơi nước nơi Thắng Ứng Thân của A Di Đà Phật cư trụ, và cũng là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, [tức là cơi nước] được trang nghiêm bằng thật báo. Do có mối quan hệ này, ắt phải là đă đắc tam-muội, [th́ mới] thật sự trông thấy đại địa, thấy rành mạch, rơ ràng. Tuy thấy rành mạch, rơ ràng, nhưng chẳng thể nói trọn hết được!

          “Thị vi Địa Tưởng, danh đệ tam Quán” (Đấy gọi là tưởng đất, gọi là phép Quán thứ ba). Có thể đắc tam-muội, thấy đại địa, tức cơi đất trong thế giới Cực Lạc như vậy th́ gọi là Địa Tưởng. Trong mười sáu phép Quán, [phép Quán này] được gọi là phép Quán thứ ba.

          Trong hai tiểu đoạn trên đây, từ “nhất nhất quán chi” (quán từng điều một) cho đến “thô kiến Cực Lạc quốc địa” (thấy đất đai Cực Lạc về phần thô) chính là dần dần quán tưởng thành tựu, [cho nên] gọi là Tiệm Tưởng Quán. Tiểu đoạn từ “nhược đắc tam-muội” cho đến “danh đệ tam Quán” được gọi là Xứng Thật Quán. Xứng Thật (稱實) là hoàn toàn thật sự quán thấy thế giới Cực Lạc, chẳng phải là do tưởng ra, mà là thật sự trông thấy. Lại c̣n thấy cơi Thật Báo Trang Nghiêm là nơi Thắng Ứng Thân của A Di Đà Phật ngự.

          Trong đoạn kinh văn tiếp theo, đức Phật sẽ nói tới những lợi ích mà người tu học, hành tŕ pháp Quán ấy sẽ đạt được. Tôi đọc kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: “Nhữ tŕ Phật ngữ, vị vị lai thế nhất thiết đại chúng, dục thoát khổ giả, thuyết thị Quán Địa pháp. Nhược quán thị địa giả, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội. Xả thân tha thế, tất sanh tịnh quốc, tâm đắc vô nghi”.

()佛告阿難,汝持佛語,為未來世一切大眾,欲脫苦者,說是觀地法。若觀是地者,除八十億劫生死之罪。捨身他世,必生淨國,心得無疑。

(Kinh: Đức Phật bảo A Nan: “Ông tŕ lời Phật, v́ hết thảy đại chúng trong đời vị lai, đối với những người muốn thoát khổ, hăy nói pháp quán đất này. Nếu quán cơi đất ấy, sẽ trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Xả thân, sanh sang đời sau, ắt sanh về cơi tịnh, tâm chẳng nghi ngờ”).

 

          Đoạn này nêu ra lợi ích của pháp quán đất. [Trong câu] “Phật cáo A Nan”, chữ “Phật” chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan: “Nhữ tŕ Phật ngữ”, “nhữ” () là ông, “tŕ” () là thọ tŕ. Ông thọ tŕ pháp ta đă giảng, căn cứ trên lời ta đă dạy để làm theo. “Vị vị lai thế nhất thiết đại chúng” (V́ hết thảy đại chúng trong đời vị lai): Ông hăy v́ tất cả chúng sanh trong đời vị lai, không chỉ là hiện tại. Trong hiện tại, ta là Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ phu nhân Vi Đề Hy giảng pháp này, trong tương lai th́ sao? Đấy chính là đời vị lai! Đời vị lai lâu dài cỡ nào? Từ thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật măi cho đến thời đại hiện tại, đều gọi là “vị lai thế”. Nói cách khác, [đức Phật] đă v́ lũ chúng sanh chúng ta trong hiện thời mà nói bộ kinh này. Đức Phật bảo tôn giả A Nan, ông phải v́ hết thảy đại chúng trong đời vị lai, “nhất thiết đại chúng” nghĩa là tất cả chúng sanh. “Tất cả chúng sanh” là nói tới những chúng sanh nào? “Dục thoát khổ giả” (Những người muốn thoát khổ). Những kẻ chẳng mong thoát khổ th́ chẳng cần phải nói! Có nói cũng vô dụng, họ chẳng mong thoát khổ! Phàm là những người mong thoát khổ th́ sao? Chính là hết thảy đại chúng mong thoát khổ trong đời vị lai. Ông hăy nên “thuyết thị Quán Địa pháp”, [nghĩa là] hăy nói cho họ biết phép Quán đại địa trong pháp môn quán thế giới Cực Lạc. Về sau, tôn giả A Nan ghi chép các pháp do đức Phật đă nói (tôn giả A Nan hoàn toàn ghi nhớ). Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Niết Bàn, ngài A Nan bèn kết tập, dùng văn tự ghi chép thành kinh điển. Có kinh điển th́ hết thảy đại chúng trong đời vị lai mới có thể liễu giải pháp này. Đây là pháp thuyết cho hết thảy đại chúng trong đời vị lai, chính là bộ Quán Kinh này!

          Nay nói tới pháp quán đất; v́ sao phải nói pháp quán đất? “Người muốn thoát khổ” [mong] thoát những nỗi khổ nào? Chúng ta ắt cần phải tăng cường nhận thức! Mỗi người chúng ta đều có cảm nhận, mức độ cảm nhận có cạn, có sâu, chẳng đồng đều, nhưng đều có đau khổ. Những nỗi thống khổ của chúng sanh trong Dục Giới, nhất là nhân gian có tám thứ đại khổ, chẳng cần phải nói cặn kẽ, mọi người đều biết cả rồi! Trong tám thứ khổ to lớn ấy, bất luận kẻ nào cũng đều chẳng tránh được sanh, lăo, bệnh, tử, lại c̣n Ái Biệt Ly (愛別離) tức là người nhà chẳng thể đoàn tụ, Oán Tắng Hội (怨憎會) là những kẻ chẳng hợp nhau, cứ một mực oan gia tụ hội. Quư vị nói xem, có đau khổ hay là không?

          Lại có Cầu Bất Đắc (求不得), [nghĩa là] những thứ quư vị mong cầu mà chẳng đạt được. Chúng sanh phàm phu tham cầu quá nhiều, bất cứ những ǵ quư vị mong cầu mà chẳng đạt được, chẳng thể thỏa măn, đều là đau khổ, rất nhiều! Đó là nỗi khổ trong nhân gian. Lại nói đến cơi trời, trên trời có đủ mọi niềm lạc thú, hưởng thụ rất tốt đẹp! Toàn thể thời gian [trên cơi trời] được tính toán như thế nào? Thời gian trên cơi trời dài hơn trong nhân gian của chúng ta khá nhiều. Thời gian một ngày trong nhân gian, đến cơi trời, bất quá chỉ bằng một cái khảy ngón tay ngắn ngủi, tạm bợ. Chúng ta ở trong nhân gian vài chục năm, bất quá cũng chỉ là thời gian một ngày hoặc nửa ngày trên trời mà thôi. V́ thế, thời gian trên cơi trời dài hơn nhân gian quá nhiều, nhưng thời gian trên cơi trời trong thế giới Sa Bà đem so với thời gian trong thế giới Cực Lạc sẽ chẳng thấm vào đâu cả! Dẫu chúng sanh làm rất nhiều sự nghiệp từ thiện, sanh lên Dục Giới Thiên, hưởng báo ứng tốt đẹp, có đủ mọi sự hưởng thụ vui sướng, chẳng được bao lâu đă hết (chết đi). Hưởng hết phước, sanh mạng cũng hết. Ở trên cơi trời, hưởng thụ một khoảng thời gian, nhưng so sánh với thế giới Cực Lạc, bất quá cũng là ngắn ngủi, tạm bợ như trong một cái khảy ngón tay. Hăy ngẫm xem, có ích ǵ chăng? Huống hồ mong sanh lên cơi trời vẫn là chẳng dễ dàng cho lắm! Nếu mong cậy vào tâm lư của bọn phàm phu chúng ta trong hiện thời để sanh thiên, đừng nói là nằm mộng, đời sau mong giữ được thân người cũng chẳng dễ dàng cho mấy! Hăy xem người trong xă hội hiện thời, xem xét những ǵ tâm họ suy tưởng và hành vi biểu hiện ra, họ làm sao có thể sanh thiên cho được? Làm sao có thể trở lại nhân gian cho được? Thích Ca Mâu Ni Phật đă sớm dự liệu điều này! Họ chẳng thể sanh thiên, mà cũng chẳng thể giữ nổi thân người, sẽ sanh trong tam đồ. Hăy thừa dịp hiện thời c̣n chưa mất thân người, ngay lập tức phải giác ngộ! Nắm chắc thân người, vẫn c̣n chưa mất cơ hội. Đối với người hiểu Phật pháp, hiểu pháp môn Tịnh Độ, công đức lớn nhất là phải khuyên kẻ khác niệm Phật, khuyên người ta phát tâm văng sanh thế giới Cực Lạc. Chúng ta đừng nghe những kẻ bên ngoài nói: “Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới xa xôi ngần ấy, chẳng thà kiến lập Tịnh Độ trong nhân gian th́ tốt hơn”. Đó toàn là những lời lẽ dường như đúng, nhưng thật ra sai be bét! Kiến lập nhân gian Tịnh Độ bằng cách nào? Nhân gian uế độ! Loài người trong nhân gian ngay cả cơi nước của con người [đúng nghĩa] c̣n chưa thể kiến lập được, c̣n mong [kiến tạo] nhân gian Tịnh Độ ư? Đúng là lời lẽ cuồng vọng! V́ thế, chúng ta đă hiểu pháp môn này, chẳng nói ǵ khác, nếu quư vị mong thật sự làm công đức, phải khuyên người khác phát nguyện cho nhiều, phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc, ắt phải niệm Phật, phát nguyện, cầu sanh về đó.

          Trong bộ kinh này, [đức Phật] đă v́ chúng sanh trong đời vị lai nói pháp quán đất, đó là v́ đại chúng mong thoát khổ trong đời vị lai [mà nói]. Nỗi khổ ấy chính là sanh tử đại khổ do luân hồi trong lục đạo. Nh́n vào trạng huống trước mắt của chúng sanh luân hồi trong lục đạo, [ta thấy] chẳng phải là luân hồi trong lục đạo, mà là luân hồi trong tam đồ, càng khổ sở hơn nữa! Do vậy, sau khi chúng ta đă liễu giải, sẽ biết đức Phật quá đỗi từ bi, mong lưu truyền kinh này (pháp này) cho hậu thế, ḥng khiến cho chúng ta liễu giải. Liễu giải pháp này th́ mới biết có pháp nào để có thể thoát khổ. [Nếu Ngài] chẳng nói pháp này, quư vị thoát ĺa bằng cách nào? Tới đâu để thoát? Không có chỗ nào để có thể thoát. V́ thế, đoạn này khiến cho chúng ta hiểu rơ một điểm quan trọng nhất: Chính ḿnh phải cảnh giác, ắt là chính ḿnh mong thoát khổ. Chính ḿnh chẳng mong thoát khổ, dẫu Thích Ca Mâu Ni Phật có giảng giải, cũng chẳng có cách nào cả!

          C̣n có những bản chú giải của tổ sư giúp chúng ta liễu giải đôi chút, liễu giải điều ǵ? Một mặt là liễu giải chính ḿnh, mặt khác là liễu giải: Để khuyên lơn kẻ khác, cũng phải liễu giải “lai lịch” của kẻ khác. Có nghĩa là sao? Ví như chúng ta khuyên người khác: “Quư vị phải tin pháp môn Tịnh Độ nhé! Phải niệm Phật, phải cầu sanh thế giới Cực Lạc”. Chúng ta nói th́ cứ nói, đối phương cũng nghe, nhưng nghe mà cũng như chẳng nghe! Quư vị bảo họ hăy tin tưởng, họ chẳng thể tin tưởng, họ chỉ là ậm ừ qua quít ngoài miệng! Tổ sư bảo hạng người ấy là kẻ vừa mới từ tam đồ thoát ra, đời này mới được làm thân người, hăy c̣n rất nhiều nghiệp chướng trong quá khứ ngăn trở kẻ đó, chẳng thể dấy nổi tín tâm! Điều này có thể giúp cho chúng ta quán sát căn cơ! Chúng ta khuyên kẻ khác niệm Phật, thường là gặp t́nh h́nh ấy. Trong xă hội hiện thời, người như vậy rất nhiều. Thậm chí họ niệm Phật bề ngoài, họ niệm Phật là niệm cho quư vị thấy; trên thực tế, chẳng phải là như vậy! Trên thực tế, về căn bản, kẻ đó chẳng tin có thế giới Cực Lạc, hạng người ấy đáng ngại lắm! Họ giả vờ cậy vào niệm Phật để mong cầu chuyện khác, có thể nói là [những người như vậy] đều có chướng ngại, nghiệp chướng rất nặng. Đó là quán người khác. Lại c̣n kèm theo là quán tưởng chính ḿnh, liễu giải chính ḿnh, có nghĩa là: Vừa nghe nói pháp môn Tịnh Độ có những điều tốt đẹp, hiểu rơ từng điều một trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nh́n lại thế giới Sa Bà, bên kia vui sướng dường ấy, bên này khổ sở ngần ấy. So sánh hai bên, phát khởi tín tâm quyết định, lại c̣n phát khởi cái tâm hết sức hoan hỷ. Đối với cái tâm hoan hỷ ấy, bất cứ điều ǵ tốt lành cỡ nào đi nữa trong thế giới Sa Bà cũng chẳng có cách nào thay đổi cái tâm hoan hỷ ấy. Cũng có nghĩa là tôi đem toàn bộ một quốc gia tốt đẹp nhất trong thế giới Sa Bà tặng cho quư vị, cho quư vị làm đại tổng thống quốc gia ấy. Nhiệm kỳ làm đại tổng thống được mấy năm đă hết, chẳng cần! [Dẫu cho] quư vị làm đại tổng thống suốt đời, chẳng cần phải bầu bán, giống như làm hoàng đế trong quá khứ vậy, để cho quư vị một mực làm măi. Quư vị phải liễu giải những điều tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc, liễu giải những điểm bất hảo trong thế giới Sa Bà: [Dẫu] vĩnh viễn làm đại hoàng đế trong Sa Bà, một mực làm miết đến chết mới thôi; vẫn phải chết đó nghe! Do vậy, quư vị vẫn chẳng cần, bảo quư vị đừng văng sanh thế giới, hăy làm đại hoàng đế, quư vị thà nguyện chẳng làm, vẫn mong văng sanh thế giới Cực Lạc. Quư vị là người như vậy đó, có tín tâm và quyết tâm như vậy đó! Có thể biết: Chẳng phải là đời này quư vị mới bắt đầu học Phật, mà là từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ đă từng nghe Phật pháp, sớm có nhân duyên đối với pháp môn Tịnh Độ. Do vậy, hiện nay vừa mới nghe pháp môn Tịnh Độ bèn có cái tâm hoan hỷ, có quyết tâm như vậy. Đối với hai loại người như tổ sư đă chú giải, nếu chúng ta thuộc về loại này, chính ḿnh sẽ cảm thấy rất an ủi, phải ǵn giữ cái tâm ấy! Mặt khác, muốn làm công đức, quư vị hăy khuyên nhiều người học pháp môn Tịnh Độ, đến khi hết tuổi thọ, sẽ chẳng có vấn đề, tuyệt đối có thể văng sanh thế giới Cực Lạc.

          Trong tiểu đoạn tiếp theo, có nói: “Nhược quán thị địa giả, trừ bát thập ức kiếp sanh tử chi tội” (Nếu ai quán đất ấy, sẽ trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử). Chúng ta biết chúng sanh sanh tử chẳng ngừng, v́ chính ḿnh đă tạo rất nhiều tội nghiệp. Do bị tội nghiệp chướng ngại, khiến cho chúng ta sanh tử chẳng ngừng. Sanh rồi chết, chết rồi sanh, vĩnh cửu ở trong lục đạo, xoay chuyển qua lại chẳng thể xong! Dùng công phu quán đất sẽ có thể giải trừ, giải trừ điều ǵ? Tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Đối với mỗi người chúng ta, tội nghiệp đă tạo trong một đời đă là vô lượng vô biên khôn xiết, huống hồ một kiếp! Một kiếp dài ngần ấy! Một kiếp vẫn chưa thấm vào đâu, tám mươi ức kiếp đấy nhé! Quư vị hăy ngẫm xem, thời gian ấy quá dài! Tội đă tạo trong tám mươi ức kiếp sanh tử, đă gây tạo cái tội sanh tử đó nghe! Nếu quư vị có thể tu pháp quán đất, sẽ có thể trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Cớ sao có thể trừ tội sanh tử đă tạo trong một khoảng thời gian dài như vậy? Do v́ tu pháp quán đất. Hăy chú ư chuyện “đắc tam-muội” đă nói trong phần trước, đấy mới là thật sự thấy pháp quán đất. Nếu chúng ta thật sự trông thấy, tất nhiên là trừ tội. V́ sao? Thật sự thấy, [tức là đă] đắc tam-muội, sẽ thấy đại địa trong Cực Lạc, đó là vô lậu, tức là đại địa vô lậu trong thế giới Cực Lạc. Ở trong thế gian này, v́ sao bọn chúng sanh chúng ta tạo tội nghiệp? Không ǵ chẳng ngoài ham muốn cầu danh, cầu lợi. Các thứ danh cũng thế, mà lợi cũng thế, đều là hữu lậu, chẳng rốt ráo, luôn sanh diệt, biến hóa trong mọi lúc. V́ những thứ danh lợi ấy mà tạo tội nghiệp ư? Tội nghiệp ấy cũng là hữu lậu. Khi chưa đạt được pháp vô lậu từ nơi pháp hữu lậu, mọi người chúng ta sẽ là từ đầu đến cuối luôn bị chướng ngại, khiến cho chúng ta chẳng thể liễu thoát. Chỉ cần chúng ta một mai thấy được pháp vô lậu, tội hữu lậu sẽ ngay lập tức bị pháp vô lậu xua đuổi, giống như ǵ? Giống như tại nội địa, vào mùa Đông ở phương Bắc, trời đổ một trận tuyết lớn, tuyết rơi ngưng đọng rất dầy. Nhưng đến mùa Xuân, mặt trời vừa chiếu, thảy đều bị tan mất. Đây là điều phải chú ư trong pháp quán đất. Quư vị đạt được tam-muội, trên thực tế đă quán thấy đất, không có trọng tội sanh tử lớn nhất nào chẳng bị tiêu trừ!

          Ở đây, nói về pháp quán đất. Thật sự đắc pháp quán đất th́ phải đắc tam-muội, đắc tam-muội th́ mới có thể đạt được. Chúng ta tu Tŕ Danh Niệm Phật, như trong phần trước đă nói, tŕ danh niệm Phật đắc nhất tâm bất loạn cũng giống như vậy. Thật sự Tŕ Danh Niệm Phật đắc nhất tâm bất loạn, có Sự nhất tâm và Lư nhất tâm, tuyệt lắm! [Tŕ danh niệm Phật có] công dụng giống như quán đất. Cho nên chúng ta xem phép quán đất đang nói ở đây, có thể dung hợp với những điều đă nói trong kinh Tiểu Di Đà, công đức hoàn toàn như nhau, phải liễu giải điều này.

Đoạn kế tiếp là nói: Sau khi tội đă tiêu trừ, “xả thân tha thế, tất sanh tịnh quốc” (bỏ thân, sanh sang đời khác, ắt sanh về cơi tịnh). Xả thân: Bất cứ chúng sanh nào cũng đều có lúc tử vong. Nói về chúng sanh thuộc nhân loại trong nhân gian, chúng sanh thuộc nhân loại có thân thể loài người, thân thể ấy chẳng tồn tại vĩnh cửu. Thọ mạng đă hết, thân thể con người sẽ chẳng thể giữ được, phải bỏ đi. Tới khi mạng chung, sau khi vứt bỏ thân thể này, sẽ chuyển thế. Điều này gọi là “tha thế” (他世, đời khác), tức là đời tiếp theo. Đời tiếp theo sẽ đi về đâu? Kẻ chẳng tín ngưỡng Phật pháp, tiền đồ mờ mịt, chẳng biết sẽ đi vào đường nào. Do vậy, tới khi mạng chung, người ấy dấy ḷng sợ hăi, sẽ đi về đâu, theo đường nào? Người ấy chẳng biết. Người học Phật mà chẳng học Tịnh Độ Tông, học theo các pháp môn thông thường, chẳng chứng quả, tuy đọc kinh Phật rất nhiều, cũng biết giảng, nhưng chẳng có công phu! Cho đến lúc ấy, kẻ đó vẫn bị hăm trong nỗi kinh hoảng y hệt! Tổ sư đă dạy rơ ràng, rành rẽ: Khá nhiều kẻ thường cho là chính ḿnh có học vấn, đă liễu giải Phật pháp, lại c̣n biết rất nhiều. Tới khi lâm chung, đều là chân cuống, tay loạn, các vị tổ sư đă trông thấy [t́nh cảnh ấy] quá nhiều! Chỉ có người học Tịnh Độ Tông, do lúc thường ngày đă có tín tâm, có nguyện lực, có công phu tốt đẹp, chỉ cần niệm Phật tốt đẹp, khi xả thân, người ấy ắt sanh về cơi tịnh, sẽ chẳng đến nơi khác, chỉ có văng sanh cơi nước thanh tịnh là Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          Chữ Tất () trong “tất sanh tịnh quốc”, [hàm nghĩa] đó là chuyện tất nhiên: Tất nhiên sanh về thế giới Cực Lạc. “Tâm đắc vô nghi” nghĩa là: Người ấy sanh về cơi tịnh, tâm có thể đạt được chẳng nghi ngờ. “Vô nghi” là chẳng có một tí hoài nghi nào, kiến lập tín tâm tuyệt đối. Theo kinh Đại A Di Đà, tức là kinh Vô Lượng Thọ đă nói, người học Tịnh Độ Tông, cũng là học niệm Phật, nhưng dẫu vừa học, vừa niệm, trong tâm c̣n hoài nghi: “Thật sự có thế giới Cực Lạc hay không? Bất luận là có hay không, ta cứ tạm thời niệm rồi mới nói sau”. Trong tâm bán tín bán nghi, cũng có hạng người như vậy đấy! Hạng người ấy có công phu niệm Phật tốt đẹp, quư vị nói xem người ấy có tin tưởng hay không? Cũng tin tưởng đôi chút, quư vị nói người ấy hoàn toàn tin tưởng ư? Người ấy vẫn ôm giữ thái độ hoài nghi, vẫn chẳng thể triệt để tin tưởng. Nếu người ấy lúc lâm chung, công phu tốt đẹp, nhân duyên cũng thế th́ cũng có thể văng sanh, văng sanh nơi đâu? Văng sanh vào Biên Địa của thế giới Cực Lạc, tức là vùng phụ cận của thế giới Cực Lạc. Chẳng thật sự đến thế giới Cực Lạc th́ gọi là Biên Địa. Biên Địa cũng khá lắm. Trong kinh tỷ dụ [sanh vào] Biên Địa giống như vào trong bào thai, tức nhập thai. Nhập thai bao nhiêu năm cũng chẳng thể thoát ra, ở trong cái thai ấy. Cái thai ấy được gọi là “thai cung” (胎宮), đương nhiên là một nơi rất tốt đẹp! Hết sức hưởng thụ, c̣n tốt đẹp hơn hoàng cung trong nhân gian! Không chỉ là tốt đẹp hơn hoàng cung trong nhân gian, mà c̣n tốt đẹp hơn thiên cung của Thiên Đế trên cơi trời. Bất quá, phải tốn khá nhiều thời gian mới có thể thoát ra, lại thật sự chuyển sanh về thế giới Cực Lạc, cùng các vị thượng thiện nhân câu hội một chỗ. V́ sao phải bỏ lỡ nhiều thời gian ngần ấy? V́ trong tâm c̣n có chút nghi hoặc. Hễ có nghi hoặc, sẽ gây trở ngại. Chúng ta nói tu hành Tịnh Độ Tông phải có ba tư lương là Tín, Nguyện, Hạnh, chữ Tín trong Tín, Nguyện, Hạnh được coi trọng nhất. Chẳng tin th́ nguyện cũng chẳng thể phát ra được, Tín đương nhiên là rất quan trọng. Khi kẻ ấy “tâm đắc vô nghi” chính là Tín Thành Tựu (tín tâm đă thành tựu). Đoạn trên đây nhằm dạy người học Phật chúng ta liễu giải những chỗ tốt đẹp, mà cũng là lợi ích [của phép Quán này].

          Sau đấy, lại là một đoạn nữa:

 

          (Kinh) Tác thị quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha quán giả, danh vi Tà Quán.

()作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。

(Kinh: Quán như thế gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi th́ gọi là Tà Quán).

 

          Đoạn này nhằm làm cho chúng ta liễu giải “Quán chánh xác” là ǵ, “Quán chẳng chánh xác” là ǵ? Do vậy, tu Quán Tưởng Niệm Phật chẳng dễ dàng. Ắt phải chiếu theo kinh văn để liễu giải t́nh huống đă được nói. Hễ có tí ti nào chẳng phù hợp th́ chẳng được rồi. “Tác thị quán giả” (Quán như thế) là nói tới phần kinh văn trước đó. Trong phần trước, quán mặt trời, quán nước, quán tưởng từng tầng một. Khi quư vị quán tưởng, chiếu theo từng tầng một để quán, bèn đắc tam-muội. “Danh vi Chánh Quán” (Th́ gọi là Chánh Quán), sự thật hoàn toàn nhất trí, đều phù hợp với những điều đă nói trong kinh văn th́ gọi là Chánh Quán. “Nhược tác tha quán, danh vi Tà Quán” (Nếu quán khác đi th́ gọi là Tà Quán). Nếu không giống như vậy, [tức là] quư vị quán pháp này mà thấy những điều khác, cảnh tượng trong ấy chẳng giống như kinh điển đă nói, th́ gọi là Tà Quán. Tà Quán sẽ chẳng thể văng sanh thế giới Cực Lạc. Phải liễu giải chánh và tà, phải phân định rơ ràng! A! Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này bèn ngưng!

 

Tập 23

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang thứ chín, bắt đầu từ hàng thứ ba. Tôi niệm trước kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy, Địa Tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thụ. Quán bảo thụ giả, nhất nhất quán chi, tác thất trùng hàng thụ tưởng. Nhất nhất thụ, cao bát thiên do-tuần. Kỳ chư bảo thụ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ túc.

()佛告阿難,及韋提希。地想成已,次觀寶樹。觀寶樹者,一一觀之,作七重行樹想。一一樹,高八千由旬。其諸寶樹,七寶華葉,無不具足。

(Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan và bà Vi Đề Hy: “Tưởng đất đă thành, kết đó là quán cây báu. Quán cây báu, quán từng điều một, tưởng bảy hàng cây. Mỗi một cây cao tám ngàn do-tuần. Các cây báu ấy có hoa lá bằng bảy báu, không ǵ chẳng trọn đủ”).

 

IV.2.2.5. Phép quán thứ tư, Thụ Quán (quán cây báu)

 

          Hăy tạm niệm đến đoạn này thôi. Ba phép Quán trong phần trước là quán mặt trời, quán nước và quán đất, ba phép Quán ấy đều quán thành công, nay nói phép Quán thứ tư, quán cây cối trong thế giới Cực Lạc, gọi là Thụ Quán (樹觀). Kinh văn mở đầu bằng câu: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy”, trong phép Quán thứ ba (Địa Quán), khi giảng xong, đức Phật đă bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy, “Địa Tưởng thành dĩ”, [nghĩa là] sau khi đă quán tưởng đất thành công. “Thứ quán bảo thụ”: “Thứ” () là tiếp theo. Sau khi đă quán đất, lại quán cây báu. Mấy câu này nhằm thừa tiếp ư nghĩa trong phần trên, là những lời chuyển tiếp từ phép quán đất sang quán cây. Mấy phép Quán đầu trong mười sáu phép Quán đều là quán y báo trong thế giới Cực Lạc.

          Đạo tràng Đài Trung của chúng ta tu Tŕ Danh Niệm Phật. Tuy chẳng tu Quán Tưởng Niệm Phật, nhưng nghiên cứu Quán Kinh sẽ có lợi. Trước khi chúng ta nghiên cứu bộ Quán Kinh này, mọi người đă nghiên cứu kinh A Di Đà. Trong kinh A Di Đà, có nói tới sự trang nghiêm nơi y báo: Bảy hàng cây báu, gió thổi qua cây diễn pháp. Cây cối được nói ở đây so với những ǵ đă nói trong kinh A Di Đà càng nói cặn kẽ hơn, khiến cho chúng ta liễu giải nhiều hơn.

          Lại nghiên cứu ở một mức cao hơn, chúng ta c̣n chưa đến thế giới Cực Lạc, quán tưởng những cây ấy có tác dụng ǵ? Người đọc sách đều biết: “Đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường”. B́nh thường, chúng ta chỉ đọc sách, nếu chẳng tham quan thực địa bên ngoài, sẽ chẳng có cách nào ấn chứng những chuyện đă nói trong sách. V́ thế, sau khi đọc sách, đi ra ngoài, tham quan cảnh vật cụ thể, thấy rơ ràng, rành rẽ, quay về xem lại những sự việc hoặc lư luận đă nói trong sách, hai đằng phối hợp lại th́ sẽ hữu dụng. Xưa nay, các văn nhân hoặc triết gia đều chú trọng văn cảnh bên ngoài. Văn nhân đến thăm cảnh sắc thiên nhiên bên ngoài, quay về, sáng tác văn chương sẽ khác hẳn. Các vị đại âm nhạc gia đến thăm các nơi núi cao, sông lớn, nước chảy tự nhiên; sau khi thăm thú, quay về, sáng tác những khúc nhạc khác hẳn những khúc nhạc được viết trước khi du lăm danh sơn đại xuyên! V́ sao? Sau khi đă viếng thăm, bụng dạ sẽ khác hẳn những kẻ b́nh phàm!

          Do vậy, nghiên cứu bộ kinh này, tuy chúng ta không tu Quán Tưởng Niệm Phật, nhưng sẽ có thể hữu ích cho việc tŕ danh niệm Phật, giúp chúng ta liễu giải y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc. V́ sao? Giả sử trong thường nhật, tâm tư chẳng nghĩ đến những ưu điểm trong thế giới Cực Lạc, tâm chúng ta đặt nơi thế giới Sa Bà, đến bất cứ đâu trong thế giới Sa Bà, trông thấy những hoàn cảnh y báo cũng thế, mà chánh báo chúng sanh cũng thế, đều là ô uế! Thấy những thứ ô uế ấy, trong tâm càng bị nhuốm bẩn thêm, tŕ danh niệm Phật sẽ chẳng dễ đắc nhất tâm bất loạn. Nếu muốn đắc nhất tâm bất loạn, phải đặt tâm nơi y báo trong thế giới Cực Lạc. Khi niệm Phật, tâm niệm thuận theo từng câu Phật hiệu là tốt nhất, dẫu ngẫu nhiên tán loạn, cũng chẳng thể tán loạn trong sắc, thanh, vị, xúc, danh văn, lợi dưỡng của thế giới này, mà sẽ tán trong y báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc. Chuyện này vẫn giúp cho chúng ta niệm Phật, có ưu điểm này!

“Quán bảo thụ giả, nhất nhất quán chi” (Quán cây báu th́ quán từng điều một). Từ đây trở đi, kinh văn sẽ chia thành từng tầng lớp để nói, giới thiệu từng tầng một, dạy chúng ta quán tưởng cây báu trong thế giới Cực Lạc như thế nào! Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói, đơn giản là chúng ta chẳng thể tưởng tượng được! Ví như người hiện thời thường là đến các nước du ngoạn văn cảnh, những thứ quư báu trong các nước rất nhiều, nhưng nói về phía cây cối, trên khắp toàn cầu cũng chẳng t́m ra cây giống như [trong thế giới Cực Lạc] được! Trên núi cao của Đài Loan có thần mộc mấy ngàn năm, hết sức quư báu, nhưng đem so sánh với cây báu trong thế giới Cực Lạc, quá ư vặt vănh!

          “Quán bảo thụ giả” là quán cây báu trong thế giới Cực Lạc. “Nhất nhất quán chi”: Đối với mỗi cây, đều quán theo cách như thế. Cây quá ư là nhiều, quư vị quán cây, mỗi mỗi đều quán như thế. “Tác thất trùng hàng thụ tưởng” (Tưởng bảy hàng cây): Tổ sư chú giải kinh A Di Đà đơn giản, ngắn gọn; ở đây, chú giải khá cặn kẽ. Ví như Thiện Đạo đại sư bảo: Nói tới “bảy hàng” trong “bảy hàng cây” chính là quan sát cây cối trong thế giới Cực Lạc. Trước hết quan sát gốc cây, thân cây, cành cây, nhánh cây, lá cây, lại quan sát hoa, lại quan sát quả. Đối với mỗi cây, chia thành bảy bộ phận ấy [để quan sát]. V́ thế, “thất trùng” (bảy hàng) chính là chia một cây thành bảy bộ phận để quán tưởng. Mà trong bảy bộ phận ấy, gốc cây làm bằng hoàng kim, thân cây cũng là vàng, nhưng màu sắc khác nhau, [thân cây] màu vàng tía. Cành cây bằng bạc, nhánh cây lại dùng các chất báu khác tạo thành, chẳng hạn như mă năo, san hô, chân châu v.v… Mỗi cây chia thành mấy phần, do các thứ chất báu (bảy báu) nhiều dường ấy hợp thành. Đó là “thất trùng hàng thụ”.

Thân cây cao cỡ nào? “Nhất nhất thụ, cao bát thiên do-tuần”: Mỗi cây cao đến tám ngàn do-tuần. Nói tới “do-tuần” (yojana), tại Ấn Độ, chẳng có cách tính toán đồng nhất. Do-tuần dùng để tính lộ tŕnh xa hay gần. Có khi nói tám mươi dặm là một do-tuần, hoặc nói bốn mươi dặm là một do-tuần, cũng có lúc nói ba mươi dặm[12] là một do-tuần. Nói chung, một do-tuần có ư nghĩa “rất xa”. Ở đây, dùng cách tính lộ tŕnh để tính độ cao. Nếu dùng con số nhỏ nhất là ba mươi dặm làm đơn vị, gộp vào [tám ngàn do-tuần sẽ là] tám ngàn lần ba mươi dặm (8.000x30 = 240.000 dặm). Mỗi cây cao đến tám ngàn do-tuần; hăy ngẫm xem, những cây ấy cao cỡ nào! “Kỳ chư bảo thụ”: Cây cối do các vật báu hợp thành ấy, có “thất bảo hoa diệp” (hoa lá bằng bảy báu): Cây trổ hoa hoặc đâm lá đều là bảy báu. “Vô bất cụ túc” (Không ǵ chẳng trọn đủ), bất luận cây nào cũng đều trọn đủ các thứ báu. Đoạn kinh văn từ “quán bảo thụ giả” cho đến “vô bất cụ túc” nhằm nói về bản thể của cây, tức là h́nh trạng khái quát của những cây ấy.

          Tiếp đó, [kinh văn] nói phân biệt: Cây có hoa, lá, có t́nh huống như thế nào. Trước khi nói đến những điều đó, chúng ta phải liễu giải một đạo lư. Khi giảng kinh A Di Đà, tôi đă nhắc đến đạo lư ấy. Chúng ta hăy nhớ lại đôi chút: Kinh A Di Đà nói y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc đều do A Di Đà Phật thành tựu “như thị công đức trang nghiêm” (công đức trang nghiêm như thế). V́ sao A Di Đà Phật thành tựu công đức trang nghiêm như thế? Trong quá khứ, khi c̣n chưa thành Phật, A Di Đà Phật đă phát ra bốn mươi tám nguyện. Sau đấy, tu hành thành tựu, mới trang nghiêm tạo thành thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc do Ngài đă trải qua nhiều đời nhiều kiếp tu thành công, do công đức của Ngài mà thành tựu. Nếu nói theo Lư, Ngài thành tựu như thế nào? Ngài đă thành Phật, tự nhiên thành tựu y báo và chánh báo. Khi chúng ta giảng kinh hoặc xem kinh, phải phân biệt để thấy, phải phân biệt để nghiên cứu. Sau khi đă nghiên cứu, trong khi quan sát, lư giải, xem xét viên dung, [sẽ thấy] y báo và chánh báo chính là một Thể viên dung.

          Trong quá khứ, khi giảng kinh, thầy chúng ta thường nói kinh A Di Đà là Tiểu Hoa Nghiêm Kinh. Lư được giảng trong kinh Hoa Nghiêm là “Sự Sự vô ngại, Lư Sự vô ngại”. Nói Lư Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại có nghĩa là chánh báo và y báo là một chỉnh thể (Entity), mà cũng là “thân và cơi như nhau”, thân là chánh báo, quốc độ là y báo, đă đạt tới cảnh giới viên dung nhất như, toàn thể là Nhất Chân pháp giới. Sau khi đă liễu giải đạo lư Nhất Chân pháp giới (thân và cơi nước như nhau), [sẽ biết] tự thể của cây cối như vừa mới nói là do đâu mà có? Chính là do A Di Đà Phật tu thành công, từ tâm tánh vô lậu của Ngài lưu lộ, kể cả đại địa cho đến những cây báu trên mặt đất, không ǵ chẳng phải là từ tâm pháp vô lậu của A Di Đà Phật lưu lộ. Do tâm Phật là vô lậu, cho nên cây cối cũng là vô lậu. Liễu giải lư này, quan sát cây cối sẽ giống như quan sát A Di Đà Phật. Tâm tưởng của chúng ta đặt vào những điều trên đây, sẽ là Quán Tưởng Niệm Phật. Từ quán cây bèn thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật, [đó là] pháp vô lậu “thân và cơi như nhau”. Quán tưởng tường tận pháp vô lậu của A Di Đà Phật, cái tâm vô lậu của chúng ta bèn được dẫn phát. Cái tâm b́nh phàm của chúng ta luôn là hữu lậu, luôn là sanh diệt, thấy đại địa, nhân vật, động vật trong thế gian này, làm cách nào cũng chẳng thể chuyển biến thành vô lậu. Thấy bất cứ thứ ǵ cũng liền chấp trước, tham luyến; nhưng pháp vô lậu chẳng phải là như vậy! Chúng ta quán cây báu vô lậu, toàn thể cảnh giới trong tâm rạng ngời. Hễ trong tâm rạng ngời, quay lại nh́n cảnh giới trong thế gian này, dẫu dùng nhiều vật báu đến mấy để khuyên chúng ta đừng văng sanh thế giới Cực Lạc mà hăy ở trong thế giới này, khuyên chúng ta cách nào đi nữa, chúng ta cũng không chịu! Nhất định là phải phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, chẳng có thứ ǵ trong thế giới này có thể sánh bằng thế giới Cực Lạc! Chúng ta phải liễu giải đạo lư này.

          Phần kinh văn dưới đây nói về hoa và lá:

 

          (Kinh) Nhất nhất hoa diệp, tác dị bảo sắc. Lưu ly sắc trung, xuất kim sắc quang. Pha lê sắc trung, xuất hồng sắc quang. Mă năo sắc trung, xuất xa cừ quang. Xa cừ sắc trung, xuất lục chân châu quang. San hô, hổ phách, nhất thiết chúng bảo, dĩ vi ánh sức. Diệu chân châu vơng, di phú thụ thượng. Nhất nhất thụ thượng, hữu thất trùng vơng. Nhất nhất vơng gian, hữu ngũ bách ức diệu hoa cung điện, như Phạm vương cung.

()一一華葉,作異寶色。琉璃色中,出金色光。玻璃色中,出紅色光。瑪瑙色中,出硨磲光。硨磲色中,出綠真珠光。珊瑚琥珀,一切眾寶,以為映飾。妙真珠網,彌覆樹上。一一樹上,有七重網。一一網間,有五百億妙華宮殿,如梵王宮。

(Kinh: Mỗi một hoa và lá có màu của các thứ báu khác nhau. Trong màu lưu ly, hiện quang minh sắc vàng. Trong màu pha lê, hiện quang minh sắc đỏ. Trong màu mă năo, hiện quang minh màu xa cừ. Trong màu xa cừ, hiện quang minh màu lục chân châu. San hô, hổ phách, hết thảy các thứ báu, dùng để trang hoàng chói ngời. Lưới bằng diệu chân châu phủ kín trên cây. Trên mỗi cây có bảy lớp lưới. Giữa mỗi lớp lưới, có năm trăm ức diệu hoa cung điện, như cung điện của Phạm Vương).

 

          Đoạn này nói về tướng trang nghiêm nơi hoa và lá của cây. Mỗi cây có bao nhiêu hoa, bao nhiêu lá? “Nhất nhất hoa diệp” tức là trong mỗi đóa hoa, trong mỗi phiến lá. Hoa và lá đều là “tác dị bảo sắc”, “dị bảo sắc” là màu sắc của các thứ báu [khác nhau]. “Dị bảo sắc” là như thế nào? “Lưu ly sắc trung, xuất kim sắc quang” (Trong màu lưu ly, tỏa quang minh sắc vàng), lá có màu lưu ly, màu lưu ly phóng quang, từ trong màu lưu ly tỏa ra kim sắc quang (ánh sáng có màu như vàng ṛng). “Pha lê sắc trung, xuất hồng sắc quang”: Từ trong màu pha lê, tỏa ra quang minh có màu đỏ. Pha lê (Sphāṭika) ở đây chẳng phải là thủy tinh[13] như chúng ta thấy nơi cửa sổ hiện thời. Theo chú giải của tổ sư, có loại pha lê giống như thủy tinh Ấn Độ, có các màu đỏ, trắng, h́nh thành tự nhiên, c̣n pha lê trong thế gian là do thợ làm ra. “Mă năo sắc trung, xuất xa cừ quang”: Từ trong màu mă năo, tỏa ra quang minh màu xa-cừ. Xa cừ (Musāragalva) là một thứ báu sắc trắng. “Xa cừ sắc trung, xuất lục chân châu quang”: Xa cừ màu trắng, từ trong màu trắng lại xuất hiện quang minh màu lục chân châu, rất đặc biệt, rất lạ lùng, hiếm có! “San hô, hổ phách” nghĩa là từ trong màu san hô tỏa ra quang minh màu hổ phách. “Nhất thiết chúng bảo” (Hết thảy các thứ báu): Tất cả các thứ báu. Trên đây chỉ nêu đơn giản vài thứ, nếu thật sự nói [chi tiết], sẽ là nói chẳng cùng tận ([do đó phải] thêm vào chữ Chúng). “Dĩ vi ánh sức”: “Ánh” () là những màu và quang minh ấy chiếu sáng rực. Dùng những ánh sáng và quang minh chói ngời ấy để trang nghiêm. “Sức” () là trang nghiêm. Đối với màu sắc và quang minh do các thứ báu tỏa ra, quư vị hăy từ mấy thứ vừa nêu trên đây mà suy tưởng cảnh sắc sẽ như thế nào! Sau khi đă tưởng, quay đầu nh́n lại thế giới của chúng ta, những thứ khác chẳng cần nói tới, hăy nh́n vào ánh sáng đèn điện. Đối với màu sắc như thế, đèn thờ Phật dùng một cái chụp màu đỏ phủ lên, sẽ có ánh sáng màu đỏ mà thôi, nhưng từ màu đỏ lại tỏa ra quang minh màu lục chân châu, [trong thế gian này] chẳng thể làm được. Từ trong màu trắng, nếu phát ra quang minh màu lục điểm hồng, lại chẳng làm được. So sánh giữa hai đằng, ánh sáng trong thế giới này quá đơn điệu, chẳng đáng để xem! Chúng ta trong khi tưởng, trong khi thấy, phải nên nh́n và tưởng theo cách đối chiếu.

          Sau khi đă nói về ánh sáng và màu sắc của hoa lá, tiếp đó [kinh văn] bèn nói: “Diệu chân châu vơng, di phú thụ thượng” (Lưới bằng diệu chân châu, phủ kín trên cây). Ngoài hoa và lá cây xinh xắn ngần ấy ra, c̣n có lưới chân châu. Tạm thời chẳng cần biết lưới to cỡ nào, lưới ấy toàn là do chân châu kết thành, lại thêm một chữ Diệu. Diệu () là tốt đẹp cùng cực. Lưới ấy “di phú thụ thượng” (che phủ trên cây). Trong phần trước, khi nói về tự thể của cây, [đă có nói] cây cao đến tám ngàn do-tuần. Cây cao tám ngàn do-tuần ấy có bao nhiêu hoa lá, bao nhiêu cành nhánh? Lưới báu chân châu che phủ, “di” () là trải khắp, “phú” () là che đậy. Lưới chân châu bao trọn cây to lớn như vậy, tất cả hoa lá đều được bọc lại.

          “Nhất nhất thụ thượng, hữu thất trùng vơng” (Trên mỗi cây có bảy tầng lưới): Trên mỗi cây có lưới, không phải chỉ là một tầng lưới, mà là có bảy tầng. “Nhất nhất vơng gian, hữu ngũ bách ức diệu hoa cung điện”: Giữa mỗi tầng lưới, có năm trăm ức diệu hoa cung điện, chuyện này lại càng kỳ diệu hơn! “Diệu hoa cung điện” là ǵ? Giống như chữ Diệu do đức Phật nói trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Ví như nói hoa sen là hoa và quả đồng thời. Chữ Diệu biểu thị Phật pháp là pháp viên dung, mầu nhiệm giống như “hoa và quả đồng thời”, chẳng có phân biệt trước hay sau. Diệu hoa ở đây tuy chẳng phải là hoa sen, nhưng hoa và lá trên cây giống như hoa sen. “Diệu hoa cung điện” (Cung điện giống như diệu hoa), có bao nhiêu? Có năm trăm ức. Giữa mỗi tầng lưới, có năm trăm ức diệu hoa cung điện. Đẹp đến mức độ nào? Đức Phật sánh ví cung điện ấy “như Phạm vương cung”. “Phạm vương” là Đại Phạm Thiên Vương. Phía trên Dục Giới, trong Sơ Thiền Thiên thuộc Sắc Giới Thiên, có cung điện của Phạm Vương, tức là cung điện để Phạm Vương ngự. Trong ấy xinh đẹp tới mức độ nào? Có thể tưởng tượng là bất cứ hoàng cung trong nhân gian nào cũng đều chẳng thể sánh bằng cung Phạm Vương! Cung Phạm Vương là một hoàng cung to, vô cùng xinh đẹp! Dẫu là đem cung A Pḥng của Tần Thủy Hoàng so sánh, sẽ [thấy cung A Pḥng] giống như tổ kiến dưới đất, giống như một cái hang nhỏ bé dưới mặt đất, bẩn thỉu, nhỏ hẹp ngần ấy! Nơi hoa và lá trong cây báu của thế giới Cực Lạc hiển hiện cung điện diệu hoa nhiều ngần ấy, tốt đẹp như cung điện của Phạm Vương.

          Đoạn trên đây nói tới hoa lá trên cây và lưới chân châu phủ trên hoa lá, giữa mỗi tầng lưới chân châu đều có năm trăm ức diệu hoa cung điện, chia thành mấy bộ phận để quán tưởng. Đoạn dưới đây nói về nhân vật:

 

          (Kinh) Chư thiên đồng tử, tự nhiên tại trung. Nhất nhất đồng tử, ngũ bách ức Thích Ca Tỳ Lăng Già ma-ni, dĩ vi anh lạc. Kỳ ma-ni quang, chiếu bách do-tuần, do như ḥa hợp bách ức nhật nguyệt, bất khả cụ danh. Chúng bảo gián thác, sắc trung thượng giả.

          ()諸天童子,自然在中。一一童子,五百億釋迦毗楞伽摩尼,以為瓔珞。其摩尼光,照百由旬,猶如和合百億日月,不可具名。眾寶閒錯,色中上者。

(Kinh: Chư thiên đồng tử tự nhiên ở trong ấy. Mỗi một đồng tử dùng năm trăm ức Thích Ca Tỳ Lăng Già ma-ni làm anh lạc. Quang minh của ma-ni chiếu sáng một trăm do-tuần, ví như ḥa hợp trăm ức mặt trời, mặt trăng, chẳng thể kể xiết. Các báu xen lẫn, màu sắc tột bậc trong các màu sắc).

          Đoạn này nói đến chư thiên đồng tử, tức là nhân vật trong thế giới Cực Lạc. “Chư thiên đồng tử, tự nhiên tại trung” (Chư thiên đồng tử tự nhiên ở trong ấy), ở nơi đâu? Ở trong cung điện diệu hoa. Nói “tự nhiên tại trung” nghĩa là chẳng giống như trong nhân gian chúng ta, là [do cha mẹ] sanh ra (hễ có sanh ra th́ là pháp sanh diệt), nó tự nhiên hiển hiện. Cung điện diệu hoa vừa hiển hiện, tự nhiên c̣n có chư thiên đồng tử ở trong ấy. “Nhất nhất đồng tử”, lại nói đến mỗi vị đồng tử. Đồng tử trang sức như thế nào? Có “năm trăm ức Thích Ca Tỳ Lăng Già ma-ni” (Śakrābhi-lagna-maṇiratna). Ma-ni (Maṇi) là một thứ bảo châu, gọi là “ma-ni châu” (摩尼珠). Thích Ca Tỳ Lăng Già có nghĩa là Năng Thắng (能勝), [ngụ ư] có thể vượt trỗi tất cả các báu, là một loại ma-ni bảo châu tốt nhất. Tốt ở chỗ nào? Chẳng có mảy may nhiễm ô nào! Quang minh báu hết sức thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Lại dịch sang một nghĩa tiếng Hán khác là Tăng Trưởng (增長). Phàm chỗ nào có món báu này, bất luận kẻ nào sau khi tiếp cận, sẽ tự nhiên tăng tấn oai đức. Thuở đầu [cổ đức] dịch kinh, do chiếu theo ư nghĩa [mặt chữ], cho nên Ma-ni châu lại được dịch nghĩa là Như Ư Châu (如意珠), [hàm nghĩa] “đúng như ư muốn của con người”, muốn ǵ có nấy, hoàn toàn thuận theo ư con người, nên gọi là Như Ư Châu. Những đồng tử ấy, mỗi đồng tử đều có năm trăm ức ma-ni bảo châu, “dĩ vi anh lạc”, dùng [các thứ ma-ni bảo châu ấy] làm anh lạc trang sức để trang nghiêm thân họ. “Kỳ ma-ni quang” (Quang minh của các ma-ni ấy), ma-ni châu có thể phóng quang, chiếu sáng bao xa? “Chiếu bách do-tuần”, nó chiếu sáng một trăm do-tuần cao ngần ấy, xa ngần ấy! Trong thế giới này, bất quá là quang minh của một mặt trời, một mặt trăng, thế mà quang minh của các ma-ni ấy “do như ḥa hợp bách ức nhật nguyệt”, giống như ḥa hợp ánh sáng của một trăm ức mặt trời và một trăm ức mặt trăng. Ánh sáng mặt trời có ưu điểm của ánh sáng mặt trời, ánh trăng có ưu điểm của ánh trăng, hai bên chẳng thể hoàn toàn giống nhau. Nếu nhiều mặt trời, mặt trăng ngần ấy ḥa hợp với nhau, quư vị ngẫm xem! “Bất khả cụ danh”: Chẳng có cách nào kể rơ danh xưng! Những quang minh từ ma-ni ấy nhiều như thế, giống như trăm ức mặt trời và mặt trăng ḥa hợp. Ngoài những thứ ấy ra, “chúng bảo gián thác”: Từ trong các thứ báu xen trộn lẫn nhau (xen tạp), trong quang minh có nhiều chất báu như vậy, trong chất báu lại có các thứ màu sắc. Những thứ báu ấy đều là “sắc trung thượng giả”. Nói “sắc trung thượng giả” nghĩa là thứ tối thượng đẳng trong hết thảy các sắc, chẳng phải là màu sắc cấp thấp, mà cũng chẳng phải là sắc bậc trung. Lại xem kinh văn:

 

          (Kinh) Thử chư bảo thụ, hàng hàng tương đương, diệp diệp tương thứ. Ư chúng diệp gian, sanh chư diệu hoa, hoa thượng tự nhiên hữu thất bảo quả. Nhất nhất thụ diệp, tung quảng chánh đẳng nhị thập ngũ do-tuần. Kỳ diệp thiên sắc, hữu bách chủng họa, như thiên anh lạc. Hữu chúng diệu hoa, tác Diêm Phù Đàn kim sắc, như toàn hỏa luân, uyển chuyển diệp gian, dũng sanh chư quả, như Đế Thích b́nh.

()此諸寶樹,行行相當,葉葉相次。於眾葉間,生諸妙華,華上自然有七寶果。一一樹葉,縱廣正等二十五由旬。其葉千色,有百種畫,如天瓔珞。有眾妙華,作閻浮檀金色。如旋火輪,宛轉葉間。涌生諸果,如帝釋瓶。

(Kinh: Các cây báu ấy, từng hàng ngang nhau, các lá tương xứng. Giữa các lá, sanh ra các hoa đẹp, trên hoa tự nhiên có quả bằng bảy báu. Mỗi một lá cây, có kích thước chừng bằng hai mươi lăm do-tuần. Lá ấy có ngàn sắc, có trăm loại h́nh vẽ, giống như anh lạc cơi trời. Có các thứ hoa kỳ diệu, có màu như vàng Diêm Phù Đàn, giống như vầng lửa xoay, xoay tṛn giữa lá, trồi lên các quả giống như cái b́nh của Đế Thích).

 

          “Thử chư bảo thụ”: Các cây do những thứ báu thành tựu ấy có rối loạn hay không? Chẳng phải vậy! Chẳng giống cây cối trong thế gian này, chỗ này một cây, chỗ kia một gốc, tản mạn, chẳng chỉnh tề. “Hàng hàng tương đương”: Từng hàng một, hàng cây này ngay ngắn với hàng cây kia. Không chỉ là [cây mọc] hàng này đối xứng với hàng kia, mà là trên mỗi cây “diệp diệp tương thứ”, [nghĩa là] mỗi chiếc lá cũng mọc hết sức có thứ tự, hết sức chỉnh tề, hăy ngẫm xem! Ở trong nhiều thứ như thế mà có sự chỉnh tề, trên thế gian này chẳng thể t́m thấy được! “Ư chúng diệp gian, sanh chư diệu hoa”: Giữa các lá nhiều ngần ấy, sanh ra diệu hoa. V́ sao nói là diệu hoa? “Hoa thượng tự nhiên hữu thất bảo quả” (Trên hoa tự nhiên có quả bằng bảy báu). Hoa b́nh phàm trong thế gian, hoàn toàn chẳng có hoa nào vừa nở liền kết quả. Phải là nở hoa trước, hoa rụng rồi sau đó mới kết quả. Lại c̣n là quả bằng bảy báu. Phần trên đă nói cây có độ cao ngần ấy, nay nói lá cây to cỡ nào: “Nhất nhất thụ diệp, tung quảng chánh đẳng nhị thập ngũ do-tuần” (Mỗi lá cây chiều ngang, chiều dọc vừa đúng hai mươi lăm do-tuần), “tung” () là bề dài, “quảng” () là bề ngang. “Tung quảng chánh đẳng”, chiều ngang và chiều dọc đều là hai mươi lăm do-tuần, lá có diện tích to ngần ấy. “Kỳ diệp thiên sắc, hữu bách chủng họa, như thiên anh lạc” [nghĩa là] những chiếc lá ấy có hơn một ngàn thứ màu sắc. Những màu sắc ấy lại hiển lộ trăm loại nét vẽ, giống như tranh vẽ của người trong thế gian vậy, nhưng những nét vẽ ấy tự nhiên sanh ra. Lá là tranh; không chỉ là tranh, mà c̣n có màu sắc nhiều ngần ấy. “Như thiên anh lạc”: Anh lạc trong nhân gian chẳng thể sánh bằng! Thiên anh lạc là anh lạc trên cơi trời, là một thứ báu. Các nét vẽ trên lá giống như thiên anh lạc. “Hữu chúng diệu hoa, tác Diêm Phù Đàn kim sắc”: Giữa các lá ấy, có nhiều loại hoa cực đẹp, hiển hiện màu sắc như chất vàng Diêm Phù Đàn. Diêm Phù (Jāmbū) là tên gọi của một giống cây. Tại Ấn Độ, có một giống cây tên là Diêm Phù. Cách cây ấy không xa, có một gịng sông, người Ấn Độ gọi sông là Đàn. Do vậy, con sông ấy có tên là Diêm Phù Đàn (Jāmbūnada, sông Diêm Phù). Loại vàng ở trong sông ấy hết sức tốt, được gọi là “vàng Diêm Phù Đàn” (Jāmbūnada-suvarṇa). Màu sắc của vàng là “hồng hoàng sắc”, tức là màu vàng có ánh đỏ sậm. Những thứ diệu hoa ấy có màu sắc giống như vàng Diêm Phù Đàn. “Như toàn hỏa luân” (Như ṿng lửa xoay): Các màu sắc ấy chiếu rọi lẫn nhau, xoay tṛn chiếu sáng ngời, giống như ṿng lửa xoay. “Uyển chuyển diệp gian” (Xoay vần trong lá), chỗ này chiếu sang chỗ kia, chiếu rọi lẫn nhau, di chuyển quanh khắp trong lá, giống như vầng lửa xoay, chuyển tới, chuyển lui. “Dũng sanh chư quả, như Đế Thích b́nh”: Những hoa ấy sanh ra rất nhiều quả, chẳng giống như trong thế gian là từ từ sanh ra, mà là “dũng sanh” (涌生), [tức là] giống như nước, ngay lập tức phun ra. Do chúng ta chẳng thể tưởng tượng quả ấy tốt đẹp ngần nào, [đức Phật] bèn nói tỷ dụ: “Như Đế Thích b́nh” (Như cái b́nh của Đế Thích). “B́nh” () là cái b́nh. Quả giống như cái b́nh đột ngột trồi ra. “Đế Thích” chính là Thích Đề Hoàn Nhân (Śakro-devānām Indrah) được nói trong kinh A Di Đà. Thích Đề Hoàn Nhân có một cái b́nh báu; muốn ǵ, cái b́nh ấy bèn hiện ra thứ ấy, quá hay khéo! Quả trồi ra, muốn có quả ǵ bèn có quả đó, giống như cái b́nh của Đế Thích, đúng theo ư của quư vị mà trồi ra. Tiếp theo đó, lại có một đoạn kinh văn khác nữa.

 

          (Kinh) Hữu đại quang minh, hóa thành tràng phan, vô lượng bảo cái. Thị bảo cái trung, ánh hiện tam thiên đại thiên thế giới, nhất thiết Phật sự, thập phương Phật quốc, diệc ư trung hiện. Kiến thử thụ dĩ, diệc đương thứ đệ, nhất nhất quán chi. Quán kiến thụ hành chi diệp hoa quả, giai linh phân minh. Thị vi Thụ Tưởng, danh đệ tứ Quán.

()有大光明,化成幢旛無量寶蓋。是寶蓋中,映現三千大千世界,一切佛事,十方佛國,亦於中現。見此樹已,亦當次第一一觀之。觀見樹莖枝葉華果,皆令分明。是為樹想,名第四觀。

(Kinh: Có đại quang minh hóa thành tràng phan, vô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy, hiện bóng tam thiên đại thiên thế giới, hết thảy Phật sự, mười phương cơi Phật, cũng hiện trong ấy. Đă thấy những cây ấy, cũng nên theo thứ tự quán từng điều một. Quán thấy thân, cành, lá, hoa, quả của cây sao cho đều rơ ràng. Đó là tưởng cây, là phép Quán thứ tư).

 

          Những cây báu do các thứ báu thành tựu ấy, “hữu đại quang minh, hóa thành tràng phan vô lượng bảo cái”. Những đại quang minh ấy đều từ những cây đó phóng ra, lại c̣n hóa thành tràng, phan, vô số lọng báu. Tại Ấn Độ, tràng phan là thứ trang sức để cúng dường Phật. Tràng () h́nh tṛn, Phan () chẳng tṛn; c̣n có vô lượng bảo cái (寶蓋, lọng báu). “Thị bảo cái trung”, ở trong những lọng báu ấy, “ánh hiện tam thiên đại thiên thế giới”: Những thứ bảo cái ấy có h́nh dáng giống như cái tán (, dù), phản chiếu tam thiên đại thiên thế giới. Vẫn không phải chỉ là như thế! “Nhất thiết Phật sự, thập phương Phật quốc, diệc ư trung hiện”, [nghĩa là] hết thảy những Phật sự trong tam thiên đại thiên thế giới, các thứ thuyết pháp, các thứ pháp môn tu tŕ đều được chiếu soi trong ấy, các quốc độ trong mười phương thế giới cũng đều hiển hiện trong ấy. “Kiến thử thụ dĩ”, [nghĩa là] sau khi đă thấy những cây ấy, “diệc đương thứ đệ, nhất nhất quán chi” nghĩa là chiếu theo thứ tự vừa nói trên đây, một lần nữa, xem xét toàn thể h́nh dáng của cây. Sau đấy, quán sát lá cây, hoa v.v… nhất định là phải dựa theo thứ tự ấy để quán. “Quán kiến thụ hành, chi, diệp, hoa, quả, giai linh phân minh” (Quán thấy thân, cành, lá, hoa của cây sao cho phân minh). Cách quán theo thứ tự là như thế nào? Chính là quán tưởng thấy cây trong thế giới Cực Lạc, gốc cây, thân cây, cành cây, nhánh cây, lá cây, hoa, quả, từng tầng một, “giai linh phân minh” (sao cho đều phân minh), quán tưởng rành mạch, rơ ràng. Tổ sư dạy người tu Quán, b́nh thường bất luận đi, đứng, ngồi, nằm, hăy thường vận dụng ư niệm quán tưởng cây. Nhưng chúng ta tu Tŕ Danh Niệm Phật, b́nh thường là niệm Phật. Khi chẳng niệm Phật, hăy ngẫm nghĩ những hàng cây ấy, sẽ giống như giúp cho chúng ta tŕ danh niệm Phật. Hễ quán tưởng như vậy, ư niệm của chúng ta sẽ chẳng thể rong ruổi tới những nơi chẳng tốt lành trong thế giới Sa Bà. Đó là một phương pháp dụng công. Hai câu kế đó là lời kết: “Thị vi Thụ Tưởng, danh đệ tứ Quán”, [nghĩa là] quán tưởng cây cối chính là phép Quán thứ tư. Lần sau, tôi sẽ nói tới phép Quán thứ năm.

 

Tập 24

         

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn trang thứ mười, xem bắt đầu từ hàng thứ tư từ dưới lên. Tôi đọc trước kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Thứ đương tưởng thủy. Dục tưởng thủy giả, Cực Lạc quốc độ hữu bát tŕ thủy, nhất nhất tŕ thủy, thất bảo sở thành. Kỳ bảo nhu nhuyễn, tùng Như Ư Châu Vương sanh, phân vi thập tứ chi. Nhất nhất chi, tác thất bảo diệu sắc. Hoàng kim vi cừ, cừ hạ giai dĩ tạp sắc kim cang, dĩ vi để sa. Nhất nhất thủy trung, hữu lục thập ức thất bảo liên hoa. Nhất nhất liên hoa, đoàn viên chánh đẳng thập nhị do-tuần.

()次當想水。欲想水者,極樂國土,有八池水。一一池水,七寶所成。其寶柔軟,從如意珠王生,分為十四支。一一支,作七寶妙色。黃金為渠,渠下皆以雜色金剛,以為底沙。一一水中,有六十億七寶蓮華。一一蓮華,團圓正等十二由旬。

(Kinh: Kế đến, hăy nên tưởng nước. Muốn tưởng nước th́ [hăy quán tưởng] trong quốc độ Cực Lạc có ao chứa nước tám công đức. Nước trong mỗi một ao do bảy báu hợp thành. Các thứ báu ấy mềm mại, sanh từ Như Ư Châu Vương, chia thành mười bốn nhánh. Mỗi nhánh có màu sắc bảy báu xinh đẹp. Vàng ṛng để làm kênh, đáy kênh dùng kim cang đủ màu để làm cát trải đáy. Trong mỗi ao nước, có sáu mươi ức hoa sen bằng bảy báu. Mỗi một hoa sen tṛn trặn bằng đúng mười hai do-tuần).

 

IV.2.2.6. Phép Quán thứ năm, Tŕ Quán (quán ao)

 

          Tạm thời niệm đến đoạn này thôi. Quán Kinh chủ yếu giảng về mười sáu phương pháp Quán; trong phần trước, chúng tôi đă nói bốn phép Quán. Hôm nay, bắt đầu nói về phép Quán thứ năm. Trong phần trước, có quán mặt trời lặn, quán nước, c̣n có quán đất, quán cây… Theo thứ tự ấy, từng phép Quán đă thành công, phép Quán hôm nay là “thứ đương tưởng thủy” (kế đến sẽ quán nước). Thủy ở đây và chữ Thủy trong Thủy Quán ở phần trước khác nhau! Thủy trong Thủy Quán là một pháp tiền phương tiện để quán đại địa trong thế giới Cực Lạc; trước hết, quán nước thành công, [sau đấy] lại quán toàn thể đất đai trong thế giới Cực Lạc. Hôm nay, tôi nói phép Quán thứ năm chính là nói về [cách quán tưởng] nước trong ao bảy báu nơi thế giới Cực Lạc.

          Đoạn kinh văn này khởi đầu bằng câu: “Thứ đương tưởng thủy”, “thứ” () là tiếp theo phép Quán thứ tư đă nói trong phần trước. Quán thành phép Quán thứ tư, theo thứ tự, tiếp đó sẽ là “tưởng thủy”. V́ sao Quán mà gọi là Tưởng? Chúng ta học Phật đều biết “vạn pháp duy tâm”, phàm phu làm chuyện ǵ cũng đều là dùng tư tưởng để nghĩ ra. Bất quá, tâm phàm phu là hữu lậu, những chuyện họ suy tưởng đều là pháp sanh diệt, chẳng rốt ráo. Dựa theo Phật pháp để tưởng, khai phát trí huệ quang minh vốn sẵn có trong tâm của chúng ta, Tưởng ấy là vô lậu. Cũng có nghĩa là dùng cái tâm tưởng để phát huy công dụng của Phật pháp, bèn có công năng định lực để nhập Định. Dùng phương pháp thù thắng, đặc biệt để tập trung tâm tư, sẽ có thể “tưởng ǵ bèn có nấy”. Nay tập trung tâm tư, tưởng nước trong ao bảy báu nơi thế giới Cực Lạc; chỉ cần dựa theo phương pháp này, nhất định là sẽ có thể tưởng thành công.

          Trong phần trước, tôi đă thưa cùng quư vị. Đạo tràng Đài Trung của chúng ta trong quá khứ luôn học Tŕ Danh Niệm Phật với Tuyết công lăo sư (thầy Lư Bỉnh Nam), nay nói đến Quán, tức là Quán Tưởng Niệm Phật, tuy phương pháp bất đồng, nhưng nguyên lư vẫn nhất trí. Cũng có nghĩa là: Chúng ta tŕ danh niệm Phật chính là tập trung tâm tư, tập trung cái tâm tư có thể quán tưởng nơi danh hiệu Phật. Nay quán tưởng Tŕ Quán (quán ao), khi quán tưởng, hăy tập trung tâm tư nơi ao bảy báu. Do những điều này, sẽ có thể nhập Định, nguyên tắc và công năng là nhất trí. Do vậy, chúng ta biết phương pháp dụng công như thế nào, liễu giải đạo lư và phương pháp, sẽ là một sự giúp đỡ rất trọng yếu cho việc tŕ danh niệm Phật của chúng ta.

          Câu kinh văn đầu tiên nhằm mào đầu: Phép Quán thứ tư trong phần trước đă hoàn thành, tiếp theo là “tưởng nước” (quán nước th́ vẫn phải dụng tâm để tưởng). Câu thứ hai khởi sự giới thiệu toàn thể ao bảy báu. “Dục tưởng thủy giả, Cực Lạc quốc độ, hữu bát tŕ thủy” (Muốn tưởng nước th́ trong cơi nước Cực Lạc có ao chứa nước tám công đức). Ba câu này nêu ra danh xưng tổng thể của ao bảy báu. Muốn quán nước th́ quán nước ở chỗ nào? Quán nước trong thế giới Cực Lạc. Trong quốc độ của thế giới Cực Lạc có ao bảy báu. Ở đây nói “hữu bát tŕ thủy”, để chú giải chữ “bát tŕ thủy”:

1) Các vị tổ sư có vị luận theo tổng tướng (tổng báo tŕ): Phàm phu từ mười phương thế giới cùng với các vị Bồ Tát thuộc địa vị rất cao, hễ sanh vào thế giới Cực Lạc đều coi như là Báo, tức tổng báo. Nói theo tổng báo, bất luận chúng sanh từ thế giới nào, hễ đă đến thế giới Cực Lạc, đều sanh trong một cái ao toàn thể to lớn bằng bảy báu.

2) Ngoài ra là nói theo biệt tướng (biệt báo tŕ), tuy là cùng sanh vào thế giới Cực Lạc, nhưng người sanh về đó do công phu có sâu hay cạn, nên sẽ hiện ra ao bảy báu cũng chẳng giống nhau. Ao có lớn, hay nhỏ, hoa sen cũng có lớn hay nhỏ, mỗi thứ đều khác nhau.

Ở đây là nói đến tổng tướng của ao bảy báu, chữ “bát” trong “bát tŕ thủy” chỉ trong ao có nước tám công đức. Đó là nói theo tổng báo. Nếu nói theo biệt tướng, cũng có thể nói là có tám cái ao bằng bảy báu, nhóm theo từng cụm một, một cụm ở chỗ này có tám ao nước bảy báu, chỗ kia cũng có một cụm gồm tám cái ao nước bảy báu. Có vô số cụm [như vậy]. Các vị tổ sư chú giải dựa theo hai phương diện ấy để nói, cho nên có các cách giải thích khác nhau.

          V́ sao đối với ao bảy báu lại nói theo tổng báo và biệt báo? Tổ sư chú giải kinh văn đă có chú thích: Chúng sanh trong thế giới này, nghe nói trong thế giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, có thể tin sâu, sau đấy phát tâm niệm Phật, mong phát nguyện văng sanh thế giới ấy. Sau khi đă phát cái tâm ấy, trong ao bảy báu nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ nẩy một cành sen. Bất quá cành hoa sen ấy c̣n chưa nở. Tùy thuộc nguyện lực của người niệm Phật càng mạnh, công phu niệm Phật càng tốt đẹp, cành sen ấy ngày càng tươi tốt. Trong tương lai, tới khi lâm chung, A Di Đà Phật dẫn theo nhiều vị đại Bồ Tát tới đón tiếp, đóa sen Ngài cầm trên tay chính là đóa sen do chúng ta niệm Phật đă nẩy sanh trong ao bảy báu. Hoa sen, nói theo toàn thể ao sen, chính là tịnh nghiệp niệm Phật do người niệm Phật đă tu trong thường ngày. Do tịnh nghiệp thành tựu, bèn đạt được báo, tức là toàn thể tổng báo do sanh về thế giới Cực Lạc (tới hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu chính là tổng báo). Nói theo ư nghĩa này, quán ao sen bảy báu chính là quán chỗ chúng ta sẽ sanh về trong tương lai, [quán tưởng] chỗ thuộc về tổng báo. V́ thế, đối với người tu Tŕ Danh Niệm Phật mà nói, phép Quán này hết sức thân thiết.

          Khi giảng kinh Di Đà, “bát công đức thủy” đă được giảng rồi, danh từ này cũng rất quen thuộc. Ở đây, cần phải hiểu rơ: Bát công đức thủy có đủ tám công đức. Sanh về cơi ấy, bất luận là ai, đều cậy vào nước tám công đức để trưởng dưỡng công đức. Năm căn tiếp xúc nước ấy, không chỉ là năm căn, mà đối tượng tiếp xúc của Ư Căn cũng được gộp trong nước tám công đức. Lục trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều được bao gồm trong ấy. Ví như nói nước rất thanh tịnh, rất thanh khiết, quư vị thấy màu sắc thanh tịnh, đó cũng là một thứ cảm giác tiếp xúc. Uống vào, nước lại hết sức ngon ngọt, có một loại hương vị; v́ thế, có thể nói là bao gồm lục trần. Lục trần ấy chẳng phải là lục trần trong thế giới Sa Bà, lục trần trong cơi kia có thể khiến cho chúng sanh sau khi đă tiếp xúc đều có thể khai phát trí huệ, đắc pháp vô lậu. V́ thế, gọi là “công đức thủy”.

          Tiếp đó là “nhất nhất tŕ thủy, thất bảo sở thành” (nước trong mỗi ao do bảy báu hợp thành), Tây Phương Cực Lạc thế giới có rất nhiều ao bảy báu. Nước trong mỗi ao bảy báu đều do bảy báu tạo thành. Trong [khi giảng] kinh Di Đà, tôi cũng đă nói về bảy báu. Bảy báu tạo thành những ǵ? Bốn phía bờ ao bảy báu đều do bảy báu hợp thành. Trong thế giới này, bờ biển thiên nhiên cũng thế, bờ các sông ng̣i cũng thế, ngay cả các hồ bơi trong hiện thời cũng thế, bờ của chúng làm bằng ǵ? Dùng những thứ như đá hoặc bùn đất để làm thành. Hồ bơi trong hiện thời tiến bộ hơn, bất quá cũng là dùng vật liệu do sức người chế tạo như gạch men v.v… để làm, chẳng thể dùng các thứ báu để làm thành. Ao trong thế giới Cực Lạc do bảy báu hợp thành. Không chỉ là bảy báu hợp thành, phải chú ư câu tiếp đó: “Kỳ bảo nhu nhuyễn” (Báu ấy mềm mại), điều này lại càng đặc biệt! Chất báu trong thế gian này như vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.v… cho đến xa cừ, xích châu, trong thế gian này đều có, nhưng thứ nào cũng đều chẳng thể nào sánh bằng bảy báu trong thế giới Cực Lạc! V́ sao? Những vật phẩm làm bằng kim loại trong thế giới này đều cứng chắc. Bảy báu trong thế giới Cực Lạc mềm mại, hết sức nhu ḥa, hết sức mềm mịn, đó là điều khác biệt. Vàng trong thế giới này, thậm chí kim cương cũng thế, tuy rất quư báu, nhưng chẳng cẩn thận, hễ đụng vào đầu, sẽ nguy hiểm. Đụng vào bất cứ bộ phận nào trên thân thể cũng sẽ bị thương. Nhưng các chất báu trong Cực Lạc mềm mịn, bất cứ bảo vật nào trong thế giới này cũng đều chẳng sánh bằng. V́ sao những thứ báu ấy mềm mại? “Tùng Như Ư Châu Vương sanh” (Sanh từ Như Ư Châu Vương): Những thứ báu ấy chẳng giống các báu vật trong thế gian này, có thứ sanh từ núi non, có thứ sanh từ nước, có khi sanh ra từ những con trai (“trân châu”, tức ngọc trai). Báu vật được nói ở đây từ như ư châu sanh ra, lại c̣n là Như Ư Châu Vương. Từ Như Ư Châu Vương sanh ra, sẽ khác biệt rất lớn. Như Ư Châu (Cintāmaṇi) là tiếng Hán, tiếng Phạn là Ma-ni Châu. Ma-ni bảo châu dịch sang tiếng Hán là Như Ư Châu, [hàm nghĩa] “đúng như ư nghĩ của chúng ta”. Chúng ta muốn ǵ, nó liền hiện đúng như ư nghĩ của chúng ta. Đó là Như Ư Châu Vương.

 

IV.2.2.6.1. Mười bốn nhánh

 

          Từ Như Ư Châu Vương sanh ra ǵ? “Phân vi thập tứ chi, nhất nhất chi, tác thất bảo diệu sắc” (chia thành mười bốn nhánh, mỗi nhánh đều có màu sắc bảy báu đẹp tuyệt vời). Những thứ thất bảo ấy đều từ Như Ư Châu Vương sanh ra. Nó sanh ra những thứ báu ấy, hợp thành bờ của ao bảy báu, rồi mới chia thành mười bốn chi (xin xem biểu đồ). [Đối với ư nghĩa của] mười bốn chi trong ao bảy báu của thế giới Cực Lạc, [nếu] so sánh với thế giới Sa Bà, chúng ta thuộc về nhân gian. Từ nhân gian trở lên có Dục Giới Thiên, từ nhân gian cho đến Dục Giới Thiên đều có mười bốn Căn. Bất cứ chúng sanh nào cũng đều có mười bốn Căn. Mười bốn Căn đối ứng với mười bốn chi. Mười bốn Căn là ǵ vậy? Nhăn căn, nhĩ căn, tỵ căn, thiệt căn, thân căn là năm căn. Đă thế, trong tâm lư của bọn phàm phu chúng ta c̣n có năm thứ cảm thụ (bao gồm sự cảm nhận nơi thân và tâm), tức là các cảm thụ như có ưu sầu, hoan hỷ, đau khổ, vui sướng… Lại c̣n có những thứ cảm thụ chẳng thể nói là ưu, hỷ, khổ, hay vui sướng được, thường là thản nhiên, đó chính là Xả. Tổng cộng có năm thứ cảm thụ (ưu, hỷ, khổ, lạc, xả). Năm căn cộng thêm năm thứ cảm thụ, trở thành mười điều. Ngoài ra, lại c̣n có nam căn, nữ căn, ư căn, mạng căn, gộp chung lại thành mười bốn Căn. Từ mười bốn Căn ấy, bất cứ phàm phu nào mắt thấy những cái tốt đẹp bên ngoài, tai nghe âm thanh tốt đẹp [bên ngoài], đều có thể dẫn khởi cái tâm tham cầu của bọn phàm phu. Nói theo năm thứ cảm nhận, chúng cũng có thể dẫn khởi cái tâm tham cầu của chúng sanh. C̣n như bốn căn nam, nữ, ư, mạng, lại càng chẳng cần phải nói nữa, đều dẫn khởi căn bản tạo nghiệp trong tâm.

Nói toàn thể, phàm phu ở trong Dục Giới có mười bốn căn, đều là “rừng sâu, vực thẳm” tội nghiệp (nơi hồ lớn hoặc trong rừng rậm đều có chứa rất nhiều thứ. Rừng sâu và vực thẳm là nơi các loại thú và cá phân theo từng loại sinh sống. Thú ở trong rừng, cá ở dưới vực. Tội nghiệp phát xuất từ mười bốn Căn). Chúng ta tạo tội nghiệp quá ư là nhiều, vô cùng, vô tận. Vô cùng vô tận tội nghiệp do ai tạo? Chính là từ mười bốn Căn ấy tạo nên! V́ thế, trong kinh, đức Phật đă dạy: Từ vô thỉ kiếp đến nay, tội nghiệp do bọn chúng sanh phàm phu chúng ta đă tạo nếu có h́nh trạng, toàn thể hư không đều chẳng thể dung nạp được! Có thể biết là chúng ta đă tạo tội nghiệp sâu nặng dường ấy! Đấy là t́nh h́nh tạo nghiệp của chúng sanh trong Dục Giới của thế giới Sa Bà!

Dục Giới có mười bốn Căn, Sắc Giới (ở phía trên Dục Giới) có bốn Thiền Thiên, có mười bốn thứ biến hóa. Nói cách khác, sanh về Sắc Giới Thiên, bất luận là Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, hay Tứ Thiền, đều có những sự biến hóa ấy. Trong Sơ Thiền Thiên có hai thứ biến hóa, Nhị Thiền Thiên có ba thứ biến hóa, Tam Thiền Thiên có bốn thứ biến hóa, Tứ Thiền Thiên có năm thứ biến hóa. Biến hóa ǵ vậy? Nói theo Sơ Thiền Thiên, v́ sao sanh vào Sơ Thiền Thiên? Hoàn cảnh trong Sơ Thiền Thiên hết sức tốt đẹp. Chúng ta biết “vạn pháp duy tâm”, có thể nhập Định (công phu định lực thành tựu), đạt tới công phu thuộc Sơ Thiền Thiên, sẽ sanh vào Sơ Thiền Thiên, có thể có tác dụng biến hóa ấy. V́ vậy, toàn thể Sơ Thiền Thiên đều có thể biến hóa, đương nhiên là đối với Dục Giới ở dưới Sơ Thiền Thiên cũng có thể biến hóa. V́ thế, người thuộc vào Sơ Thiền Thiên có hai loại biến hóa: Một là biến trong Sơ Thiền Thiên, hai là biến hóa trong Dục Giới thiên. Đă đạt tới Nhị Thiền Thiên, năng lực biến hóa lại càng lớn hơn. Vị ấy có thể biến hóa trong Nhị Thiền Thiên, cũng như trong Sơ Thiền Thiên và Dục Giới Thiên ở dưới, cho nên có ba thứ biến hóa. Càng tiến lên tầng cao hơn, biến hóa càng nhiều. Tam Thiền Thiên lại có nhiều hơn một loại nữa, tức là [ngoài những sự biến hóa trong Nhị Thiền Thiên, có thêm sự biến hóa] thuộc Tam Thiền Thiên. Tứ Thiền Thiên lại nhiều hơn một thứ nữa, bao gồm [sự biến hóa] thuộc Tứ Thiền Thiên. Gộp chung bốn thứ Thiền Thiên ấy, bèn có mười bốn thứ biến hóa. Nhưng mười bốn thứ biến hóa ấy, bất luận là Sơ Thiền cũng thế, mà cho đến Tứ Thiền cũng thế, những sự biến hóa ấy đều nhằm hưởng lạc. Tuy có công phu Thiền Định, nhưng chẳng giống như trong thế giới Cực Lạc. Đại định trong thế giới Cực Lạc là xuất thế gian; [đại định trong] Sắc Giới Thiên là thế gian Thiền. Tuy có công phu định lực, vẫn là một thứ hưởng lạc. Chẳng hưởng lạc th́ biến hóa Dục Giới Thiên để làm ǵ?

          Đối chiếu với mười bốn chi trong thế giới Cực Lạc: Mười bốn Căn trong Dục Giới là tạo nghiệp, là vực sâu, rừng rậm tội nghiệp. Mười bốn thứ biến hóa trong Sắc Giới là để hưởng lạc. Đă hưởng thụ xong, v́ là pháp hữu lậu, vẫn phải sanh tử. Mười bốn chi trong thế giới Cực Lạc chẳng phải như vậy. Mười bốn chi trong thế giới Cực Lạc là nước ao có đủ tám công đức, nó là công đức, [có thể] thuyết pháp. Nước có tám thứ công đức; không chỉ là công đức, mà c̣n có tác dụng thuyết pháp. V́ thế, khác nhau rất lớn.

          Chúng ta nghiên cứu kinh văn, từ trạng huống nơi ao bảy báu như kinh văn đă giảng, hăy thuận theo kinh văn để tưởng tượng hoàn cảnh trong ao bảy báu, nước ao do bảy báu hợp thành. Bảy báu sanh từ Như Ư Châu Vương, xuất sanh các thứ báu đều có quang minh. Các thứ báu tỏa quang minh, từ trên bờ ao chiếu rọi lẫn nhau thấu đến mặt ao, quư vị ngẫm xem! Nước trong ao rực rỡ, sáng ngời, toàn thể đều trong suốt. Nước ao như vậy chính là nước báu. Nước báu ấy chia thành mười bốn “chi”, “chi” là chi lưu (支流, nhánh rẽ), hoặc chi phái. Mỗi chi đều có màu sắc tuyệt đẹp của bảy báu, bất cứ nhánh nước nào cũng đều có bảy báu phát ra diệu sắc!

          “Hoàng kim vi cừ”, “cừ”“cừ đạo” (渠道, con kênh). Dùng vàng ṛng để làm ven bờ cho con kênh. Nguyên lai nói đến toàn thể một cái ao to, ao to lại chia thành các nhánh [kênh], ven bờ của các nhánh kênh ấy dùng vàng ṛng để làm thành. “Cừ hạ giai dĩ tạp sắc kim cang, dĩ vi để sa”: Dưới mặt nước của mỗi con kênh, đều có kim cang nhiều màu để làm cát trải đáy. Điều này chính là như kinh Di Đà Tiểu Bổn đă nói: “Tŕ để thuần dĩ kim sa bố địa” (Đáy ao thuần dùng cát vàng để trải đáy). Cát dưới đáy bằng kim cang nhiều màu. V́ sao gọi là kim cang? Kim cang (Vajra) là tỷ dụ: Bất cứ vật chất nào cũng đều chẳng thể phá hủy kim cang, dùng điều này để tỷ dụ pháp vô lậu. Tất cả các pháp trong thế gian này đều là pháp sanh diệt, pháp hữu lậu. Ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc là vô lậu, kể cả ao, bờ ao, đáy ao, bảy báu v.v… cùng với các thứ diệu sắc đều là vô lậu. Cát nơi đáy ao bảy báu bằng kim cang nhiều màu, vĩnh cửu tồn tại, chẳng giống như thế gian của chúng ta. Cổ nhân có nói một câu thành ngữ: “Thương hải tang điền” (Biển xanh, ruộng dâu), một vùng biển cả, sau bao nhiêu năm có thể biến thành ruộng trồng dâu. Ruộng dâu sau bao nhiêu năm có thể biến thành biển xanh. Đấy là biến hóa bất định, chẳng đáng tin cậy! Ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc chẳng giống như vậy, chẳng phải là “biển xanh, ruộng dâu” biến hóa vô thường. Nó là pháp vô lậu, vĩnh cửu chân thật bất biến. V́ thế, dùng kim cang nhiều màu để tỷ dụ. Đáy kênh dùng kim cang nhiều màu làm cát trải đáy. “Nhất nhất thủy trung” nghĩa là nước trong mỗi nhánh kênh có bao nhiêu hoa sen? “Hữu lục thập ức thất bảo liên hoa”, có tới sáu mươi ức [hoa sen bằng bảy báu]. “Nhất nhất liên hoa” (Mỗi một hoa sen), trong mỗi đóa hoa sen, “đoàn viên chánh đẳng thập nhị do-tuần”, “đoàn viên” (團圓) nghĩa là mỗi đóa sen tṛn xoe, “chánh đẳng” (正等) là nói đến diện tích của hoa sen: Hoa to đến mười hai do-tuần. Để tính toán do-tuần tại Ấn Độ, có các cách nói [khác nhau]. Có khi nói là bốn mươi dặm, có khi nói là tám mươi dặm. Dẫu coi như là bốn mươi dặm th́ cũng quá tuyệt diệu! Nó to mười hai do-tuần (tức là bốn trăm tám mươi dặm), có diện tích to gần tới năm trăm dặm như vậy. Một đóa hoa sen đă to ngần ấy, thế mà có tới sáu mươi ức đóa sen, hăy ngẫm xem, con kênh ấy lớn cỡ nào? Mười bốn con kênh có tất cả bao nhiêu hoa sen?

          Đọc kinh văn tới đây, trong tâm quán tưởng chỗ này. Tuy chẳng chiếu theo kinh văn để thật sự tu tập công phu quán chiếu, nhưng chúng ta dùng sự suy tưởng thông thường để suy ngẫm, cũng rất tuyệt vời! Tâm cảnh của chúng ta bèn sáng sủa, chúng ta phải liễu giải đạo lư này: Ḷng dạ quư vị to hơn, biểu thị trí huệ to hơn. Tâm lượng có thể dung nạp bao nhiêu người, quư vị có thể có bấy nhiêu trí tuệ của người khác. V́ thế, khi bụng dạ của quư vị rộng mở, trí huệ của quư vị sẽ tuyệt diệu lắm, toàn thể mọi chuyện đều liễu giải. Do vậy, chúng ta hăy tưởng tượng ao báu như vậy, không chỉ nói là toàn thể ao báu, mà c̣n thêm vào mười bốn con kênh th́ càng tuyệt diệu!

          V́ sao nói là mười bốn nhánh? Chẳng nhiều hơn mà cũng chẳng ít hơn? “A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp” (Từ khi A Di Đà Phật thành Phật đến nay đă là mười kiếp). Trong thời gian mười kiếp dài lâu như thế, có bao nhiêu chúng sanh văng sanh thế giới Cực Lạc? Dựa theo Đại Di Đà Kinh, tức là như kinh Vô Lượng Thọ đă nói, có rất nhiều ức Bồ Tát (là hàng Bất Thoái Chuyển Bồ Tát) đă văng sanh thế giới Cực Lạc. Ngoài những chúng sanh phàm phu và hàng đại Bồ Tát từ thế giới Sa Bà văng sanh cơi Cực Lạc ra, c̣n có những chúng sanh từ các cơi Phật khác văng sanh cơi Cực Lạc. Ngoài ra c̣n có chúng sanh từ mười ba cơi Phật (cũng là có rất nhiều ức chúng sanh, bao gồm đại Bồ Tát và phàm phu chúng sanh), cộng thêm thế giới của chúng ta, [cho nên] có các chúng sanh từ tất cả mười bốn cơi Phật đă văng sanh thế giới Cực Lạc thế giới. V́ thế, ở đây nói là “có mười bốn chi”. Đối với những người sẽ văng sanh trong tương lai, do mười phương thế giới đều có chúng sanh từ các cơi Phật văng sanh cơi kia, cho nên có thể suy ra: Trong tương lai, há chỉ có mười bốn chi? Càng về sau, sẽ càng nhiều. Chúng ta phải liễu giải ư nghĩa của mười bốn chi!

          Đoạn trên đây, từ “nhất nhất tŕ thủy” cho đến “đoàn viên chánh đẳng thập nhị do-tuần” nói về t́nh h́nh đẹp đẽ nơi ao bảy báu để chúng ta quán tưởng [rồi nhận biết] “chẳng thể nào không cầu văng sanh”. Trong thế gian này, chúng ta chẳng t́m thấy hoàn cảnh ấy. Thời cổ chẳng t́m thấy, hiện thời cũng chẳng t́m thấy, tương lai vẫn chẳng t́m thấy. Người hiện thời thường nói: “Hoàn cảnh nơi đây chẳng tốt, đông người quá, hăy t́m một nơi rộng răi, ít người để làm một kiều dân cho rồi!” Kiều dân cũng không được đâu nhé! Trong tương lai, dân số trên địa cầu ngày càng đông, không gian sanh tồn ngày càng chật hẹp. Đấy là chuyện nhỏ! Điều quan trọng nhất là thọ mạng loài người chỉ ngắn ngủi ngần ấy, sống chẳng được bao nhiêu năm, dẫu có thể sống tới tám chín chục tuổi, thậm chí sống hơn trăm tuổi, [rốt cuộc] vẫn phải chết ngắc, có ích chi đâu? Ắt cần phải phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quư vị chỉ nghĩ đến t́nh huống tốt đẹp như thế ấy nơi ao báu [trong Cực Lạc, sẽ hiểu rơ]: Chẳng cầu sanh về nơi ấy, đúng là ngu si đến cùng cực!

 

          (Kinh) Kỳ ma-ni thủy, lưu chú hoa gian, tầm thụ thượng hạ.

          () 其摩尼水,流注華間,尋樹上下。

          (Kinh: Nước ma-ni ấy, chảy luồn quanh hoa, theo thân cây lên cao xuống thấp).

 

          Ba câu này nói về nước trong ao bảy báu, tức như ư thủy! “Kỳ ma-ni thủy” là nước sanh từ Như Ư Bảo Châu, cũng là nước ma-ni, “lưu chú hoa gian” (chảy luồn quanh hoa), “lưu” () là chuyển động qua lại, “chú” () là tưới, rót, “hoa” () là hoa sen. Tưới rót, chảy ṿng quanh trong hoa. Chuyện này vẫn chưa đáng kể! “Tầm thụ thượng hạ” (lượn quanh theo thân cây lên xuống) cây không mọc ở trong ao, mà là ở trên đất liền. Lại nữa, trong thế giới này, chúng ta chẳng thấy chuyện này! Nước không chỉ là không ngừng chảy ṿng quanh, tưới rót giữa các hoa sen trong ao, lại c̣n chảy tới đất liền trên bờ ao. Trên mặt đất có cây cối, nước bèn chảy rót theo thân cây lên cao, xuống thấp, chảy rót trên dưới nơi đó. Hăy nghĩ xem, trong thế giới này của chúng ta, có nước như vậy hay không? Nước trong thế giới này chỉ có thể chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp, chẳng hề chảy từ thấp lên cao. Nước ma-ni có thể chảy xuống, mà cũng có thể chảy ngược lên. V́ thế, nó có thể ṿng theo thân cây mà lên cao xuống thấp. Trong cơi này, chúng ta chẳng thấy cảnh quan ấy! Tại Đông Kinh của Nhật Bản hoặc khu vui chơi Địch Tư Nại (Disneyland) của Mỹ, có lẽ có thể thấy nước từ dưới vọt lên trên, nhưng phải dùng điện lực do con người chế tạo để điều khiển, chẳng phải là tự nhiên có thể lưu động như vậy. Điều này cho thấy nước ma-ni tốt đẹp ngần ấy. Chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc hết sức tốt đẹp, trong tâm mong nước như thế nào, nước bèn có thể [thuận theo ḷng muốn mà biểu hiện đúng] như thế ấy. Quư vị thấy dường như cây bên bờ ao đơn điệu, trong tâm vừa nghĩ, nước ngay lập tức chảy lên cây. Nước ấy là bảy báu, các thứ diệu sắc đều có. Nước chảy lên cây, uốn lượn qua lại, tưới rót cao thấp, cây cối lại càng tuyệt diệu khôn sánh! Thật sự là thuận theo ḷng muốn! Ba câu này đă nói rơ nước có thể thuận theo ḷng muốn. Trong tâm quư vị tưởng như thế nào, nước sẽ làm theo như thế ấy!

 

(Kinh) Kỳ thanh vi diệu, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, chư Ba La Mật. Phục hữu tán thán chư Phật tướng hảo giả. Như Ư Châu Vương, dũng xuất kim sắc, vi diệu quang minh. Kỳ quang hóa vi bách bảo sắc điểu, ḥa minh ai nhă, thường tán niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

()其聲微妙,演說苦、空、無常、無我、諸波羅蜜。復有讚歎諸佛相好者。如意珠王,涌出金色,微妙光明。其光化為百寶色鳥,和鳴哀雅,常讚念佛、念法、念僧。

(Kinh: Tiếng ấy vi diệu, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, các Ba La Mật. Lại c̣n tán thán tướng hảo của chư Phật. Như Ư Châu Vương tỏa ra quang minh vi diệu kim sắc. Những quang minh ấy hóa thành chim có màu sắc của trăm thứ báu, tiếng hót du dương, trong trẻo, thanh nhă, thường ca ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng).

 

          Đoạn này nói đến các thứ lợi ích nơi ao bảy báu. Không chỉ là diệu sắc của các báu đẹp đẽ như vậy, mà c̣n đạt được lợi ích tốt đẹp hơn nữa. Lợi ích ấy đă được nói rơ trong đoạn này.

          “Kỳ thanh vi diệu” (Tiếng ấy vi diệu): Âm thanh ấy do đâu mà có? Trong thế gian này, mọi người lên núi ngắm thác nước, cao sơn, lưu thủy, đó là âm nhạc tự nhiên, hết sức êm tai. Trong thế giới Cực Lạc, nước ma-ni từ Như Ư Bảo Châu chảy ra, chảy luồn quanh giữa các hoa sen, lại c̣n có thể chảy lên cao xuống thấp quanh thân cây. Lúc nước chuyển động c̣n có âm thanh êm dịu. Âm thanh ấy chẳng giống như âm thanh của thác nước trong thế gian này. Âm thanh ấy vi diệu! Âm thanh ấy vi diệu ở chỗ nào? Có thể thuyết pháp. Thuyết những Phật pháp ǵ vậy? “Diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, chư Ba La Mật”, diễn thuyết các pháp Khổ, Không, Vô Thường, pháp Vô Ngă, c̣n có các Ba La Mật. “Ba La Mật” là Lục Độ, tức là sáu loại pháp Đại Thừa Ba La Mật gồm bố thí, tŕ giới v.v… “Phục hữu tán thán chư Phật tướng hảo giả”: Lại c̣n tán thán ba mươi hai tướng của chư Phật, tám mươi thứ tùy h́nh hảo. Âm thanh vi diệu, diễn thuyết những pháp ấy. Vẫn chưa hết, hăy c̣n có chuyện mầu nhiệm hơn! “Như Ư Châu Vương, dũng xuất kim sắc, vi diệu quang minh” (Như Ư Châu Vương túa ra quang minh kim sắc vi diệu), ma-ni bảo châu “dũng xuất” (“dũng” () là trào vọt ra) quang minh vi diệu kim sắc, quang minh có màu như chất vàng. Chúng ta chẳng thấy có [quang minh như vậy] trong thế giới này! “Kỳ quang hóa vi bách bảo sắc điểu”: Quang minh ấy biến hóa, biến hóa thành những con chim có màu sắc của trăm thứ báu. Những con chim có màu trăm báu ấy “ḥa minh ai nhă”: Âm thanh của chúng phát ra, đă êm ả, lại c̣n ai nhă (哀雅, trong trẻo, thanh nhă), khiến cho người nghe biết đạo lư Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă. Nhă () là rất thanh lịch. “Thường tán niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”, khiến cho người nghe sau khi đă nghe âm thanh hài ḥa, trong trẻo, thanh nhă của chúng (chúng nó đang tán thán). Vừa nghe tán thán bèn biết niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tức là niệm Tam Bảo.

 

IV.2.2.6.2. Tam Bảo

 

          Niệm Tam Bảo có một tầng ư nghĩa mà chúng ta phải liễu giải. Ở trong thế giới Sa Bà, chúng ta không niệm Tam Bảo, không niệm Phật, sẽ chẳng thể văng sanh. Sau khi đă văng sanh tới cơi đó, v́ sao vẫn phải niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng? Nói thật ra, chúng ta ở nơi đây niệm Phật, thật sự là mức độ rất nông cạn! Chẳng thể nói là chân chánh niệm Phật, [mà là] miễn cưỡng đè nén tâm lư phàm phu, có thể đới nghiệp văng sanh th́ là đă khá lắm rồi! V́ thế, đến thế giới Cực Lạc, nghe âm thanh của nước, quang minh và hóa điểu (chim do quang minh biến hóa ra), do chúng tán thán, “tán thán” nhằm dạy chúng ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, khi ấy, chúng ta mới thật sự biết niệm Phật. Biết niệm Phật, trong thế giới này, chúng ta chỉ có thể đới nghiệp văng sanh, chẳng thể đoạn Hoặc! Sang bên đó, niệm Tam Bảo. Vừa niệm, ngay lập tức đoạn Hoặc, ư nghĩa trọng yếu ở ngay chỗ này! V́ sao vừa niệm liền đoạn Hoặc? Theo như tổ sư chú giải, hễ nói tới Tam Bảo:

- Phật Bảo: Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật là Phật Bảo.

- Pháp Bảo: Những pháp do đức Phật đă giảng và Tam Tạng mười hai bộ kinh được ghi chép lại, chính là Pháp Bảo.

- Tăng Bảo là ḥa hợp chúng. Người xuất gia hợp thành đoàn thể ḥa hợp cùng nhau tu đạo là Tăng Bảo.

Đấy là nói hết sức thô thiển, đơn giản. Đó chính là Biệt Thể Tam Bảo (Tam Bảo được nói theo kiểu phân biệt). Tam Bảo nói theo lư thật sự, sẽ là Đồng Thể Tam Bảo, [nghĩa là] Tam Bảo đều ở trong cái tâm của người niệm Phật. Trong tâm chúng ta đă là Phật Bảo, lại là Pháp Bảo, lại là Tăng Bảo. Nhưng đối với Đồng Thể Tam Bảo, trong thế gian này, khi chúng ta nói về chuyện quy y [Đồng Thể Tam Bảo], có mấy ai có thể lănh hội, thật sự liễu giải? Chẳng cần nói đến Đồng Thể Tam Bảo, ngay cả Biệt Thể (biệt tướng) Tam Bảo mà c̣n chưa liễu giải! Thật sự liễu giải Biệt Tướng Tam Bảo, sẽ là như tổ sư Ấn Quang đă dạy: Một chữ Kính. Đối với Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, chúng ta dấy lên cái tâm cung kính th́ sẽ tuyệt diệu lắm, ngay lập tức được thọ dụng. Thử hỏi trong hiện thời, mấy ai có thể làm được chữ Kính? Chẳng làm được! Chẳng làm được tức là chẳng biết Tam Bảo! Biệt Thể Tam Bảo mà c̣n chẳng liễu giải, huống hồ Đồng Thể Tam Bảo! Đến thế giới Cực Lạc, vừa nghe tiếng chim, tiếng nước tán thán như vậy, tự nhiên liền thấu hiểu Đồng Thể Tam Bảo. Do vậy, trí huệ lập tức mở mang, ngay lập tức đoạn Hoặc. Những điều vừa nói trên đây đều là lợi ích đạt được do nghe pháp từ nước tám công đức và ao bảy báu.

          Thỉ tổ khai sơn của Tịnh Độ Tông Trung Hoa là ngài Huệ Viễn. Tổ ở Lư Sơn kiến lập Tịnh Độ đạo tràng, chính ḿnh hết sức dụng công. Ngài liên tục suốt mười một năm chuyên tưởng ao bảy báu, từng ba lượt tự thấy ao bảy báu. Những điều Ngài trông thấy giống hệt như trong kinh văn đă nói: Ḍng nước ma-ni chảy rót vào giữa các hoa, có mười bốn nhánh kênh, âm thanh của nước và chim diễn thuyết các pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă. Lần cuối cùng, Ngài thấy A Di Đà Phật thân to trọn khắp hư không, đến bảo Ngài: “Ông nhân duyên đă viên măn. Sau bảy ngày nữa, ông có thể sanh về quốc độ của ta”. Chuyện này được chép rành rẽ trong truyện kư của Viễn công. Do vậy, chúng ta nghiên cứu phép quán tưởng này, lại c̣n có chuyện thật sự của Viễn công [để làm chứng cớ], bèn liễu giải: Chúng ta tŕ danh niệm Phật, lúc b́nh thường, tâm tư hăy hướng tới những chuyện này, đừng nên hướng về những hiện tượng trong nhân gian, tự nhiên sẽ có thành tựu.

          Niệm Tam Bảo có lợi ích ǵ? (Xin xem lại biểu đồ, phần Tam Bảo). Niệm Phật th́ Phật là vô thượng đại sư, Ngài có thể trừ tà hướng về chánh, Chúng ta hễ niệm Phật th́ tà tri tà kiến chẳng c̣n nữa, tâm đă chánh. Niệm Pháp, Pháp là vô thượng diệu dược, có thể đoạn phiền năo. Bất cứ thuốc men ǵ trong thế gian trọn chẳng thể đoạn trừ phiền năo của chúng ta. Chỉ có Phật pháp mới có thể khiến cho phiền năo đoạn trừ! Niệm Tăng, Tăng là vô thượng phước điền, có thể đạt được các thứ trang nghiêm. Đấy là những điều tốt lành do niệm Tam Bảo.

 

          Thị vi bát công đức thủy tưởng, danh đệ ngũ Quán.   

          ()是為八功德水想,名第五觀。

(Kinh: Đó là tưởng nước tám công đức, gọi là phép Quán thứ năm).

 

          Hai câu cuối cùng này chính là tổng kết. Cách tưởng trên đây chính là tưởng nước tám công đức, gọi là phép Quán thứ năm. Hôm nay, tôi nói đến chỗ này bèn ngưng.

          Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 5 hết

 

 

 

 



[1] Hồng Táo (c̣n gọi là Đại Táo, tên tiếng Anh là Jujube), ta thường gọi là táo Tàu. Trái nhỏ bằng đầu ngón tay, to nhất là bằng ngón chân cái, có hạt to cứng ở giữa, h́nh bầu dục. Khi chưa chín, thường có màu xanh nhạt, hoặc vàng nhạt. Khi chín, sẽ chuyển sang màu đỏ sậm hoặc nâu đỏ. Có thể dùng để ăn sống, hoặc phơi khô, tẩm đường làm mứt v.v... Đông Y thường dùng Hồng Táo để làm thuốc bổ v́ họ tin là có tác dụng bổ khí, an thần, đặc biệt là dùng trong các bài thuốc chữa chứng tỳ vị hư thoát. Ngay cả cái nhân trong hạt táo cũng được dùng làm thuốc với danh xưng Táo Nhân.

Hắc Táo (c̣n gọi là Đậu Thị, Nhuyễn Táo, Quân Thiên Tử, tên khoa học là Diospyros Lotus), là một loại trái thuộc họ Mận, trái có h́nh cầu, to cỡ chừng một hoặc hai mi-li- mét. Trái non màu vàng úa, lúc chín, ngả sang màu đen, bề ngoài có lớp phấn trắng như sáp. Quả chín vào tháng Mười hoặc tháng Mười Một. Loại cây này mọc nhiều tại Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đông, Chiết Giang, Hồ Bắc, Giang Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam… Trái chín thường đem phơi khô. Đông y dùng Hắc Táo để tiêu khát, trị phiền nhiệt, chữa bệnh phổi v.v…

[2] Tràng (Dhvaja) theo nghĩa nguyên thủy là một loại cờ hiệu, có h́nh tṛn, được treo cao cho dễ thấy. Từ h́nh thức cờ hiệu, về sau, tràng biến thành những cột cao, khắc các kư hiệu, đặc biệt là các tràng khắc kinh chú mang ư nghĩa bảo vệ, cầu phước.

[3] Nói “lầu một tầng” chính là nhà hai tầng, nhưng không kể tầng trệt.

[4] Nguyên văn là “đại lạt bát” (大喇叭), tức là kèn Tuba. Đây là một loại kèn đồng có kích thước lớn nhất và âm vực trầm nhất trong dàn kèn đồng của Âu Tây, thường dùng trong nhạc giao hưởng. Kèn này do hai nhạc công Wilhelm Friedrich Wieprecht và Johahn Moritz sáng chế vào thế kỷ 19. Kèn có hệ thống khóa đóng mở rất phức tạp, rất to lớn và cồng kềnh, phải là người có luồng hơi mạnh mới thổi được.

[5] Sắt () có ngoại h́nh gần giống như đàn Cầm và đàn Tranh, nhưng Sắt có hai mươi lăm dây căng song song (trong khi Cầm chỉ có từ bảy đến mười lăm dây, và thân đàn Cầm có eo, trong khi đàn Tranh và đàn Sắt không thắt eo). Mỗi dây đều có trục đỡ (con sáo, nhạn trụ) có thể di động để điều chỉnh âm thanh. Cũng như Cầm và đàn Tranh, khi tấu, đàn Sắt được đặt nằm ngang. Theo cổ thư, Phục Hy chế ra đàn Sắt và đàn Sắt thời cổ có đến năm mươi dây. Vào đầu thế kỷ 20, Trịnh Cẩn Văn lại cải tiến, chế ra đàn Sắt có đến một trăm dây, nhưng chẳng được phổ biến. Đàn Sắt ít khi tấu một ḿnh mà thường hợp tấu với Cầm, hoặc Sênh. Thông thường, các nhà nghiên cứu cho rằng đàn Tranh chính là dạng nhỏ và đơn giản hơn của đàn Sắt.

Vu () là một thứ nhạc khí thời cổ, cũng là một loại sênh, nên c̣n gọi là Đại Sinh (大笙). Đôi khi người ta gọi Sênh lớn là Vu, Sênh cỡ nhỏ là Ḥa (). Vu gồm nhiều ống trúc có gắn lưỡi gà bằng tre, cắm vào một quả bầu để làm bầu cộng hưởng. Thời cổ, trong dàn nhạc thường dùng nhiều Vu để ḥa âm. Do đó, có thành ngữ “lạm vu sung số” (ư nói người không có tài cán mà vẫn được trọng dụng) dựa theo một điển cố: Thời Tề Tuyên Vương, vua thích nghe thổi Vu, đôi khi dùng đến ba trăm nhạc công thổi Vu cùng một lúc. Có người không biết thổi Vu, lo lót để được dự vào hàng ngũ ấy để kiếm cơm. Khi Tuyên Vương chết, con là Mẫn Vương chỉ thích nghe thổi Vu đơn độc, cho nên anh chàng ấy sợ tội, phải bỏ trốn.

[6] Hoài Nam Tử (淮南子) là một bộ sách cổ, c̣n gọi là Hồng Liệt, hoặc Hoài Nam Hồng Liệt do Hoài Nam Vương Lưu An (chú của Hán Vũ Đế) và tân khách biên soạn vào thời Tây Hán. Sách được soạn xong vào năm 139 trước Công Nguyên, có tên gọi ban đầu là Hồng Liệt, ngụ ư “to lớn, rực rỡ”. Nội dung sách gồm hai mươi mốt thiên, bao gồm các chủ đề về chính trị, triết học, thiên văn, địa lư, tự nhiên, dưỡng sinh, quân sự, dung hợp tư tưởng của chư tử thời Tiên Tần, nhưng lấy tư tưởng Đạo Gia làm chủ, biến đổi tư tưởng vô vi của Đạo gia thành lư luận chính trị, phát huy học thuyết “thiên nhân cảm ứng”. Sách này được coi là một loại tiểu bách khoa từ điển thời cổ, tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến trường phái Lư Học sau này, và được đưa vào Chánh Thống Đạo Tạng.

[7] Sách Hoài Nam Tử viết: “Tám gió là ǵ? Phương Đông Bắc gọi là Viêm Phong, phương Đông là Điều Phong, phương Đông Nam là Cảnh Phong, phương Nam là Cự Phong, phương Tây là Lương Phong, phương Tây Bắc là Lệ Phong, phương Bắc là Hàn Phong”. Lă Thị Xuân Thu và Thái B́nh Ngự Lăm chép tên gọi của gió từ tám phương hơi khác: Viêm Phong, Thao Phong, Huân Phong, Cự Phong, Thê Phong, Liêu Phong, Lệ Phong, và Hàn Phong.

[8] Thiên lại, địa lại và nhân lại là những thuật ngữ do Trang Tử đặt ra trong thiên Tề Vật Luận sách Trang Tử. “Thiên Lại” để chỉ các âm thanh trong tự nhiên, như tiếng gió, tiếng chim, tiếng nước chảy, tiếng tuyết rơi, tiếng mưa rơi, tiếng lá rụng v.v… “Địa Lại” là tiếng gió lùa qua những nơi hang rỗng phát ra âm thanh. “Nhân Lại” là các thứ nhạc khí do con người diễn tấu. Chữ Lại () chỉ cái lưỡi gà hoặc màng rung trong các loại nhạc khí thổi, về sau, thường dùng để chỉ chung các loại nhạc khí.

[9] Tần Nhị Thế tên thật là Doanh Hồ Hợi, là con thứ mười tám trong hai mươi mấy người con của Tần Thủy Hoàng (Doanh Chính). Từ bé, ông được cha yêu quư, giao cho hoạn quan Triệu Cao dạy dỗ. Khi Tần Thủy Hoàng ngă bệnh, đă viết thư gọi thái tử Doanh Phù Tô về kinh tổ chức đám tang. Thừa tướng Lư Tư và Triệu Cao đă lập mưu triệt hạ Phù Tô và đưa Hồ Hợi lên làm vua, xưng hiệu là Tần Nhị Thế. Nhị Thế tin dùng Triệu Cao và dưới sự thao túng của gă này đă trở thành một ông vua hoàn toàn bù nh́n. Nghe lời Triệu Cao, Nhị Thế giết hại các anh em, kể cả những quan chức của họ, dùng những biện pháp khốc liệt để cai trị, xây dựng những cung điện và lăng mộ lộng lẫy, to lớn. Triệu Cao thao túng triều chính đến nỗi có lần hắn sai người dâng một con hươu lên vua, bảo đó là ngựa quư. Nhị Thế không tin, hỏi các quan có phải là con hươu hay không. Các quan đều nem nép trả lời đó là con ngựa! Cuối cùng, Triệu Cao sai Diễm Nhạc giết chết Nhị Thế, để lập Doanh Tử Anh lên ngôi vua, nhưng chỉ bốn mươi sáu ngày sau, Lưu Bang tiến quân vào Hàm Dương, nhà Tần sụp đổ sau bốn mươi lăm năm tồn tại. Nhị Thế chỉ làm vua được ba năm!

[10] Lục Triều là sáu triều đại liên tiếp nhau, gồm Đông Ngô (do Tôn Quyền sáng lập), Đông Tấn (Tư Mă Duệ khai sáng), Lưu Tống (do Lưu Dụ sáng lập), Nam Tề (do Tiêu Đạo Thành sáng lập), Lương (do Tiêu Diễn sáng lập), Trần (do Trần Bá Tiên sáng lập). Sáu triều đại này đều đóng đô ở Kiến Khang (Nam Kinh). Nam Kinh c̣n có một tên gọi cổ là Kim Lăng.

[11] Đây là một câu thơ trong bài thơ vịnh Đài Thành của Vi Trang đời Đường, có tên là Kim Lăng Đồ. Đài Thành nằm bên hồ Huyền Vũ ở Nam Kinh, vốn là cung điện riêng của hoàng hậu nước Ngô. Trong niên hiệu Hàm Ḥa, Tấn Thành Đế từng xây cung điện ở nơi đây. Bài thơ chỉ có bốn câu như sau: “Giang vũ phi phi giang thảo tề, lục triều như mộng điểu không đề, vô t́nh tối thị Đài Thành liễu, y cựu yên lung thập lư đề” (tạm dịch: “Bên sông cỏ biếc đẫm mưa phùn, sáu triều như mộng, tiếng chim suông, Đài Thành liễu rủ vô t́nh nhất, đê dài khói phủ vẫn như xưa).

[12] Một Lư (thường dịch là “dặm”) tại Trung Hoa thường tính như thế này: Một Lư () là ba trăm Bộ (), một bộ là sáu Xích (). Tức là một Lư gồm một ngàn tám trăm Xích. Một Xích biến động từ 0.1675 m từ đời Thương cho đến lớn nhất là 33cm vào đời Thanh. Do vậy, Lư biến động từ 301 mét cho đến 504 mét. Do kinh Phật dịch chủ yếu từ thời Hán đến Đường, một Lư tối đa là 400 mét hiện thời. Chữ Lư này khác với “công lư” (公里) tức một km (một cây số), cũng khác với hải lư (Nautical mile, 1.852 mét, 海里 hoặc ) và Anh Lư (Mile, 1.609,44 mét, thường ghi là ). Hiện thời, để tiện tính toán, Hoa Lục quy định một Lư (một dặm Tàu) là 500 mét.

[13] Thủy Tinh ở đây không phải là thủy tinh (Glass) theo nghĩa thông thường, mà là các loại đá thạch anh (Quartz) kết tinh hoặc những khoáng chất oxide sillicate trong suốt. Tùy theo các hàm lượng kim loại khác biệt, chẳng hạn như nhôm hoặc sắt lẫn vào, các loại khoáng thạch này sẽ có màu vàng, trắng, tím, đỏ, lam, màu khói nhạt, xanh biếc, xanh lục, hồng phấn v.v…