Phật Thuyết

 Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh

Giảng Kư

Phần 6

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)

Khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 25

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười một, bắt đầu từ ḍng thứ tư. Trước hết, tôi niệm một đoạn kinh văn:

 

          (Kinh) Chúng bảo quốc độ, nhất nhất giới thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu. Kỳ lâu các trung, hữu vô lượng chư thiên, tác thiên kỹ nhạc. Hựu hữu nhạc khí, huyền xử hư không, như thiên bảo tràng, bất cổ tự minh. Thử chúng âm trung, giai thuyết niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng. Thử tưởng thành dĩ, danh vi thô kiến Cực Lạc thế giới bảo thụ, bảo địa, bảo tŕ, thị vi Tổng Quán Tưởng, danh đệ lục Quán. Nhược kiến thử giả, trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, mạng chung chi hậu, tất sanh bỉ quốc. Tác thị quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha quán giả, danh vi Tà Quán.

()眾寶國土,一一界上,有五百億寶樓。其樓閣中,有無量諸天,作天伎樂。又有樂器,懸處虛空,如天寶幢,不鼓自鳴。此眾音中,皆說念佛念法念比丘僧。此想成已,名為麤見極樂世界寶樹寶地寶池,是為總觀想,名第六觀。若見此者,除無量億劫極重惡業,命終之後,必生彼國。作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。

(Kinh: Trong cơi nước bằng các thứ báu, nơi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu. Trong các lầu gác ấy, có vô lượng chư thiên trỗi kỹ nhạc trời. Lại có nhạc khí treo lơ lửng trên hư không, như tràng báu cơi trời, không đánh mà tự kêu. Trong các âm thanh ấy, đều nói niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng. Tưởng này đă thành th́ gọi là “thấy cây báu, đất báu, ao báu về phần thô trong thế giới Cực Lạc”, là phép Tổng Quán Tưởng, gọi là phép Quán thứ sáu. Nếu thấy điều này, sẽ trừ ác nghiệp cực nặng trong vô lượng ức kiếp. Sau khi mạng chung, ắt sanh về cơi ấy. Quán như vậy th́ gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi th́ là Tà Quán).

IV.2.2.7. Phép Quán thứ sáu, Tổng Quán

 

          Hôm nay, chiếu theo thứ tự, tôi nói về phép Quán thứ sáu trong mười sáu phép Quán. Phép Quán thứ sáu vẫn thuộc về [quán tưởng] y báo trong thế giới Cực Lạc. Nói “y báo” (依報) là nói tới hoàn cảnh để chúng sanh dựa vào đó ḥng sanh tồn, như trong thế gian có đại địa nâng đỡ chúng ta. Đó là y báo. Đối với y báo trong thế giới Cực Lạc, trong các phần trước, bắt đầu từ phép Quán thứ nhất là quán mặt trời lặn, phép Quán thứ hai là quán nước; sau đấy, [tiếp tục quán tưởng] nước lại biến thành băng, biến thành lưu ly, toàn thể đại địa trong thế giới Cực Lạc [đều bằng lưu ly]. Quán đại địa đă thành công, bèn quán cây cối trong thế giới Cực Lạc, lại quán ao bảy báu. Quán theo từng bước một, quán cho tới phần được nói trong ngày hôm nay là quán lầu báu trong thế giới Cực Lạc. Phép Quán này là Tổng Quán, quán từ đại địa cho đến ao bảy báu, đối với mỗi phương diện đều phân biệt để quán. Quán [mỗi phương diện] đă thành công, hôm nay tổng hợp lại, giống như trong nhà trường học một loại học vấn nào đó, khi giảng được một khoảng thời gian, [thầy] bèn tổng hợp những điều đă nói trong các phần trước để ôn tập. Hôm nay, nói đến phép Quán này, chính là ôn tập tổng hợp những điều đă liễu giải về y báo trong thế giới Cực Lạc kể từ khi bắt đầu tác quán cho tới hiện thời.

          Ư nghĩa quan trọng nhất trong việc nghiên cứu Quán Kinh là khiến cho chúng ta liễu giải đạo lư trong pháp môn Tịnh Độ của đức Phật. Ngoài ra, nói theo phương diện tu tŕ: “Dùng phương pháp và đạo lư này để giúp chúng ta tŕ danh niệm Phật”; đó là quan niệm trọng yếu nhất. Đă là như vậy, đương nhiên là chúng ta chẳng cần dựa theo phương pháp trong kinh này để tác quán, nhưng lúc b́nh thường, cần phải chiếu theo các trạng huống tốt đẹp như kinh văn đă dạy [để suy tưởng], ư niệm thường đặt nơi thế giới Cực Lạc, như vậy th́ sẽ có ích hết sức to lớn cho chúng ta, có thể khiến cho chúng ta tŕ danh niệm Phật rất dễ đắc nhất tâm bất loạn. Chúng ta phải liễu giải công dụng này. Một điểm nữa, y theo kinh văn để tu Quán, sau khi quán mặt trời lặn [thành công], v́ sao có thể thật sự thấy y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc? Đó là điều trọng yếu nhất trong Quán pháp. Khi tác quán, ắt phải sửa đổi tâm lư, tâm phải đặt nơi thế giới Cực Lạc, coi chính ḿnh là người trong thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc là cố hương sẵn có, [chính ḿnh đang] là người làm khách trong thế giới Sa Bà, [Sa Bà] chẳng phải là chỗ để cư ngụ lâu dài được! Dùng tâm lư ấy để dụng công th́ sẽ tốt đẹp, tín tâm, nguyện lực và công phu tŕ danh nhất định sẽ tinh tấn cao hơn, chẳng bị thoái chuyển, mà công phu cũng dễ dàng đạt được. Nếu chẳng thay đổi tâm lư, cứ ngỡ thế giới Sa Bà là chân thật, sẽ chẳng thể ĺa khỏi thế giới này. Như vậy th́ một đóa hoa hay một nhánh cỏ trong thế giới Sa Bà đều có thể trói buộc chúng ta, khiến cho chúng ta dây dưa ở nơi đây, làm cách nào cũng chẳng thể văng sanh thế giới Cực Lạc! V́ vậy, chuyển biến tâm lư hết sức trọng yếu! Hễ tâm chuyển biến, đối với những thứ tốt đẹp đến mấy đi nữa trong thế gian này, [chẳng hạn như xét theo] phương diện tiếng tăm, dẫu làm một vị đại hoàng đế, chúng ta cũng chẳng ham. Về phương diện tiền tài, cho chúng ta vài cái ngân hàng, chúng ta cũng chẳng cần. Những thứ ấy đều là pháp sanh diệt, như kinh Kim Cang đă nói “như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Mỗi thứ trong thế giới này đều giống như mộng, huyễn, bọt, bóng, chính ḿnh chẳng thể nắm bắt tí nào. Dẫu nắm được, sẽ ngay lập tức tuột mất, trọn chẳng đáng tin cậy! Liễu giải sự thật này, chúng ta hăy nên coi nơi này là chốn tạm trú, chẳng phải là cố hương (sự thật là như thế, chẳng phải là như vậy th́ cũng không được). Tâm phải đặt vững nơi thế giới Cực Lạc, nhất tâm niệm Phật tŕ danh. Hễ dấy khởi Phật hiệu, nó có thể dấy khởi tín tâm và nguyện lực của chúng ta. Hết thảy đều hồi hướng thế giới Cực Lạc. Tâm lư ắt cần phải điều chỉnh như thế đó.

          Chúng ta xem kinh văn: “Chúng bảo quốc độ, nhất nhất giới thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu” (Trong cơi nước bằng các thứ báu, nơi mỗi khu vực đều có năm trăm ức lầu báu). Ba câu này đă nêu ra điểm khái yếu trong phép Tổng Quán. “Chúng bảo quốc độ” là cơi nước được thành tựu bằng các thứ báu. Trong phần trước đă quán thấy toàn thể cơi Cực Lạc do các thứ báu hợp thành. Toàn thể đại địa, trên mặt đất, hết thảy đều do các thứ báu hợp thành. Đối với nơi cư trụ và đường sá, mỗi giới hạn đều dùng hoàng kim làm giới tuyến. “Nhất nhất giới thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu”: Chỉ rơ trong giới hạn của mỗi khu cư trú, mỗi “giới” (, tức là trong phạm vi của một khu vực) có năm trăm ức lầu báu. Lầu cũng là do các thứ báu tạo thành, số đến năm trăm ức. “Nhất nhất giới thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu” chính là nói đến toàn thể các lầu báu trong toàn thể quốc độ của thế giới Cực Lạc.

          “Kỳ lâu các trung, hữu vô lượng chư thiên, tác thiên kỹ nhạc. Hựu hữu nhạc khí, huyền xử hư không, như thiên bảo tràng, bất cổ tự minh” (Trong các lầu gác ấy, có vô lượng chư thiên tấu các kỹ nhạc cơi trời. Lại có các nhạc khí treo lơ lửng trên hư không như tràng báu cơi trời, chẳng đánh mà tự kêu). Đó là nói tới âm nhạc trong thế giới Cực Lạc. Trước hết, nói đến âm nhạc trong lầu gác. Trong lầu gác của lầu báu, có vô lượng chư thiên đang “tác thiên kỹ nhạc” (tấu các kỹ nhạc). “Kỹ” () là khéo léo, “kỹ nhạc” (伎樂) là âm nhạc hay khéo. V́ sao trong kinh chỉ nói tới âm nhạc, chẳng nói tới những nghệ thuật khác? V́ nghệ thuật âm nhạc có thể điều ḥa tánh t́nh của con người hữu hiệu nhất, có công hiệu cải biến tâm lư của chúng ta đầy đủ nhất. Trong thế gian này, chúng ta xem những nghệ thuật khác, xem một bức tranh cũng thế, mà xem một bức thư pháp cũng thế, đều chẳng có tác dụng cảm động ḷng người như âm nhạc. Âm nhạc lọt vào tai, trong tâm sẽ phát sanh sự biến hóa thuận theo âm nhạc. Âm nhạc trong thế giới Cực Lạc rất nhiều: Tiếng nước chảy cũng là âm nhạc, tiếng gió lùa cũng là âm nhạc. Ở đây, chư thiên tấu kỹ nhạc, tức là “thiên kỹ nhạc”, đúng là quá hay khéo! Nay loại âm nhạc mà chúng ta có thể nghe chính là những thứ do các nhà âm nhạc trong nhân gian dùng ca xướng hoặc tấu trỗi các nhạc khí mà thành. Vẫn phải là do một âm nhạc gia thật sự lỗi lạc diễn tấu tác phẩm âm nhạc hay nhất th́ mới đáng để thưởng thức. Nếu chẳng phải là do một vị đại âm nhạc gia diễn tấu, lại c̣n chơi nhạc hiện thời, sẽ chẳng gọi là âm nhạc! C̣n thiên nhạc th́ sao? Dẫu là âm nhạc do một âm nhạc gia vĩ đại trong nhân gian diễn tấu cũng chẳng thể sánh bằng âm nhạc cơi trời. Ở đây, [kinh văn] nói trong lầu gác nơi thế giới Cực Lạc diễn tấu thiên nhạc, lại c̣n có bao nhiêu người diễn tấu loại âm nhạc cơi trời ấy? “Hữu vô lượng chư thiên”, [nói] “chư thiên” tức là không chỉ có một vị trời. Lấy ngay Dục Giới Thiên để nói th́ có sáu tầng trời, [vậy th́] âm nhạc cơi trời được diễn tấu sẽ là bao nhiêu? Vô lượng! Chẳng thể tính rơ con số! Có chư thiên nhiều ngần ấy tấu nhạc.

Trong lầu gác, ngoại trừ những vị trời nhiều ngần ấy đang tấu nhạc, “hựu hữu nhạc khí” (lại có nhạc khí). Trong thế giới này (cơi Sa Bà), nhạc khí có đàn cầm, tiêu, đàn sắt, tỳ bà v.v… cũng chẳng quá mấy chục loại, số lượng lèo tèo! Nhạc khí trong thế giới Cực Lạc chẳng thể kể xiết! Những nhạc khí ấy “huyền xử hư không” (treo lơ lửng trên hư không), quư vị xem đó: Trong thế giới này, chẳng hề có quang cảnh ấy, trong hư không có nhạc khí ư? Nếu có một cây đàn tỳ bà lơ lửng trong hư không, kỳ quái thay! Khắp nơi trên hư không trong thế giới Cực Lạc đều là nhạc khí treo lơ lửng. “Như thiên bảo tràng”: Những nhạc khí ấy treo lơ lửng trong hư không, giống như tràng báu của cơi trời. Ngoài ra, ai khảy tấu những nhạc khí ấy? Trong thế giới [Sa Bà] này, chuông phải có người thỉnh, trống phải có người gơ, giộng chuông, đánh trống; thế giới Cực Lạc th́ “bất cổ tự minh” (chẳng tấu mà tự kêu), “cổ” () là khảy, gơ. “Bất cổ” (不鼓) là chẳng cần phải khảy, gơ, chẳng cần đến sức người, nhạc khí tự động tấu nhạc, [đó là ư nghĩa của chữ] “tự minh” (自鳴). Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng t́nh h́nh này, trong thế giới Sa Bà chẳng có [chuyện ấy].

          Phải thấy rơ từng tầng lớp trong kinh văn: Chư thiên diễn tấu âm nhạc trong lầu gác; nhạc khí treo lơ lửng trong hư không ở ngoài lầu gác. Đấy là hai tầng. Nhạc khí ở bên ngoài giống như tràng báu cơi trời, không tấu mà tự phát ra tiếng, âm nhạc tự nhiên, đương nhiên là càng hay! Nhạc do chư thiên tấu trong lầu gác là thiên nhạc. Thiên nhạc rốt cuộc hay đẹp ở chỗ nào? Chúng tôi nêu một tỷ dụ. Âm thanh xướng tán trong đạo tràng được gọi là “phạm âm” (梵音). “Phạm” nghĩa là thuộc về cơi trời. Thuở đó, âm nhạc hay nhất tại Ấn Độ là phạm âm trên cơi trời. V́ sao người Ấn Độ biết phạm âm trên cơi trời? V́ người học Phật và tu những tôn giáo khác tại Ấn Độ vào thuở đó đều có công phu khá sâu. Người có công phu sâu đích thân nghe âm nhạc cơi trời, ghi chép lại, diễn tấu, ca xướng trong nhân gian, gọi nó là “phạm âm”, [nghĩa là] âm thanh thanh tịnh. Chúng ta nghe các loại tán tụng trong đạo tràng, nghe xong bèn dấy khởi đạo tâm, trong tâm tự nhiên rất thanh tịnh. Do vậy, có thể suy ra để thấy: Thiên nhạc tuyệt đối chẳng giống như âm nhạc trong nhân gian, nó có thể “tịnh hóa” cái tâm của chúng ta, tức là trong tâm được cảm hóa thanh tịnh. Nh́n vào hai đoạn trên đây, trong tâm bèn suy nghĩ: Đấy chỉ là một lầu gác trong ấy, đối với các lầu gác như vậy, trong mỗi “giới” (, tức là trong một khu vực) có năm trăm ức lầu báu. Có bao nhiêu “giới”? Chẳng thể kể xiết! Trọn khắp thế giới Cực Lạc đều có lầu báu, âm nhạc cũng đều trọn khắp mọi nơi. Trong tâm chúng ta phải có cách nghĩ như vậy. Lầu báu ở khắp mọi nơi trong toàn thể thế giới Cực Lạc, khắp mọi nơi đều là thiên nhạc và nhạc khí tự nhiên diễn tấu. Diễn tấu những thứ âm nhạc ấy th́ có lợi ích ǵ? Tiếp đó, [kinh văn] đă nói rơ:

          “Thử chúng âm trung, giai thuyết niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng” (Trong các âm thanh ấy, đều nói niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng). Nghe những thứ âm nhạc ấy, hoàn toàn chẳng phải chỉ là cảm thấy êm tai mà thôi. Chúng ta nghe âm nhạc trong thế giới này, trong tâm chỉ cảm thấy rất đẹp, rất hay, nhưng âm nhạc trong thế giới Cực Lạc không chỉ là mỹ cảm, mà c̣n có thể tuyên dương pháp âm. Trong nhiều thứ âm nhạc như vậy, có ư nghĩa được bao hàm trong ấy, ư nghĩa ǵ vậy? Âm nhạc ấy có thể khiến cho người trong thế giới Cực Lạc sau khi nghe xong, tự nhiên phát khởi cái tâm niệm Tam Bảo, tự nhiên có ư niệm niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng. Loại âm nhạc này thật sự tốt đẹp! Trong thế giới này, ngoài các thứ xướng tán trong đạo tràng ra, trong các thứ âm nhạc thường nghe ngoài đời, có loại nhạc nào có công dụng [phát khởi đạo tâm] như vậy? Âm nhạc [trong cơi Cực Lạc] dạy chúng ta niệm Tam Bảo. Trong phép Quán trước đó, chúng ta đă liễu giải Tam Bảo:

1) Niệm Phật, Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hễ niệm Phật, trong tâm hướng đến giác ngộ. Hễ giác ngộ, những tà tri tà kiến trong thế gian sẽ tự nhiên chẳng dấy khởi. V́ thế, trong cái tâm niệm Phật, sẽ dấy lên sự giác ngộ.

2) Niệm Pháp, Pháp là phương pháp tu tŕ, bao gồm các đạo lư và các thứ phương pháp. Liễu giải pháp, sẽ có thể đoạn trừ các thứ mê hoặc, điên đảo và phiền năo. Ai nấy đều có vô cùng vô tận phiền năo. Chẳng có Phật pháp, sẽ chẳng thể đoạn những phiền năo ấy. Niệm Pháp có thể đoạn phiền năo. Hễ đoạn phiền năo, sẽ có thể minh tâm kiến tánh, tức là sẽ có thể thành Phật.

3) Niệm Tăng, “Tăng” là nói khi đức Phật chẳng c̣n tại thế, Tăng là người có thể truyền pháp cho người khác biết tới [Phật pháp] (hóa độ chúng sanh phải cậy vào Tăng Bảo). Niệm Tăng, cung kính Tăng là học pháp. Tăng lại đại diện cho phước điền. Gieo phước giống như gieo trồng trong ruộng. Niệm Tăng là gieo trồng nơi vô thượng phước điền, có thể đạt được các thứ phước báo. Đối với người niệm Phật, đạt được phước báo rất quan trọng! Rất nhiều người niệm Phật, niệm đến khi tương lai sắp văng sanh bèn gặp đủ mọi nỗi chướng ngại, điều này chứng tỏ [người ấy] phước báo không đủ. Người có phước báo thường là có rất ít chướng ngại, tu tŕ rất thuận lợi, tới khi lâm chung, cũng chẳng có các thứ chướng ngại. Đó là phước báo. Niệm Tăng sẽ có những thứ phước báo ấy.

          Sau khi đă văng sanh Cực Lạc, vẫn phải niệm Tăng, vẫn cần có phước báo. V́ sao? Ngoài việc chính ḿnh tiếp tục tu cao hơn cho đến khi thành Phật ra, trong tương lai, sẽ độ chúng sanh. Để hóa độ chúng sanh, cũng cần phải có phước báo. Chẳng có phước báo [sẽ gặp đủ mọi nỗi khó khăn]. Nếu như chúng ta khuyên kẻ khác niệm Phật, quư vị vừa khuyên, người ta liền tin tưởng, chịu niệm Phật, chứng tỏ quư vị có phước báo, có thể độ chúng sanh. Chẳng đủ phước báo, khuyên người khác niệm Phật, người ta chẳng chịu niệm, chứng tỏ là [bản thân chúng ta] hành Bồ Tát đạo có chướng ngại, chẳng đủ phước báo! V́ vậy, đến thế giới Cực Lạc, vẫn phải tiếp tục tu phước báo. Lại nói theo một tầng ư nghĩa sâu hơn, đến thế giới Cực Lạc, Tam Bảo như chúng ta đang nói hiện thời chính là Biệt Thể Tam Bảo. Nói đến chỗ sâu nhất, sẽ là: Ngay trong một niệm của chúng sanh, đă trọn đủ Phật, Pháp, Tăng, bản tánh của chúng ta là Phật. Trong bản tánh có các pháp, tức là pháp để giác ngộ. Bản tánh chính là Tăng. Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo Nhất Thể, đều trọn đủ trong tâm tánh của chúng ta. Do vậy, niệm Tam Bảo trong thế giới Cực Lạc chẳng giống như niệm Tam Bảo trong thế gian này. Ở trong thế giới [Sa Bà] này, mà có thể cung kính niệm Biệt Thể Tam Bảo sẽ là rất khá, sẽ là bậc cao nhân, công phu tu tŕ rất lỗi lạc! Tạm thời chẳng nói đến Nhất Thể Tam Bảo, ở trong thế giới này mà nói Nhất Thể Tam Bảo th́ sẽ chẳng thực hiện được. Chỉ có thể nói tới Biệt Thể Tam Bảo, hễ trông thấy tượng Phật trong chánh điện của chùa miếu bèn coi như Phật thật sự, niệm Phật, lạy Phật. Thấy kinh điển, bèn cung kính tôn kính kinh (tôn kính Pháp). Thấy Tăng Bảo bèn cung kính kính trọng Tăng. Có thể ǵn giữ chữ Kính này, chúng ta sẽ có thể khai trí huệ.

          “Thử tưởng thành dĩ, danh vi thô kiến Cực Lạc thế giới bảo thụ, bảo địa, bảo tŕ” (Tưởng này đă thành, gọi là thấy cây báu, đất báu, ao báu trong thế giới Cực Lạc về phần thô). Câu nói tổng quát trong đoạn Tổng Quán này được dùng làm tiểu kết, tức là: Sau khi đă thành tựu phép quán tưởng này, sẽ gọi là “thô kiến Cực Lạc thế giới”. Nói “thô kiến” (粗見), nghĩa là thấy khái lược, chẳng phải là thấy tường tận. Thấy tường tận th́ do tâm lư và tâm nhăn của chúng sanh trong thế giới này quá nhỏ, tưởng tượng nhiều như vậy, cặn kẽ như vậy, đơn giản là chẳng thể dung nạp, chỉ có thể “thô kiến”, tức là thấy đại khái cây báu, đất báu, và ao báu trong thế giới Cực Lạc như đă nói trong phần trước. Trong phần trước, đă nói khá chi tiết, ở đây là Tổng Quán, tức là chỉ nắm lấy những điều quan trọng khái lược, nghĩa là: Thế giới Cực Lạc là một thế giới lưu ly, toàn thể đại địa là lưu ly. Điều trọng yếu nhất trên khối lưu ly ấy là cây báu. Kế đó là đất báu. Trên đất báu, vạch ra giới tuyến, và ao sen bảy báu. Hăy nắm chắc mấy điểm quan trọng này, suy nghĩ từng tầng một. Câu này bao gồm những hoàn cảnh đă được quán thành công trong phần trước: Ao báu, đất báu, cây báu đều đă được nói trong phần trước; ở đây là phần tiểu kết luận. Do trong phần trước đă quán, hễ nhắc tới cây báu, trong tâm ngay lập tức nghĩ tới t́nh huống của cây báu như đă nói trong phần trước. [Đối với] đất báu, cũng là như vậy. Như trong phần trước đă nói tới ao báu, mười bốn con kênh, ao có nước tám công đức, đáy kênh có kim cang nhiều màu, nước chảy rót quanh hoa sen. Hễ nhắc tới ao báu, sẽ tưởng đến toàn thể [những điều] liên quan đă được nói trong phần trước. Đó là một điểm quan trọng.

Lại nữa, chúng ta phải liễu giải: Chúng ta xem kinh văn th́ phải “tùy văn nhập quán”, [nghĩa là] thuận theo những đạo lư do kinh văn đă nói, tâm bèn suy tưởng, quán tưởng. Khi quán tưởng, tâm nhất định phải rộng mở! Cái tâm hiện thời của chúng ta quán kiểu nào cũng chẳng thể quán được, vấn đề ở chỗ nào? Do chẳng mở rộng tâm lượng. Nhất định là phải mở rộng tâm lượng. Tâm chẳng mở rộng, chúng ta ngỡ đại địa trong thế gian này to ngần ấy, chẳng biết: Toàn thể địa cầu đặt trong ao sen của thế giới Cực Lạc, sẽ chẳng thấy đâu hết! Đối với từng cánh sen, chúng ta ngỡ diện tích của Đài Loan cũng khá lắm, thế mà đặt [Đài Loan] vào trong một cánh hoa sen nơi ao bảy báu, chỉ sợ vẫn là chẳng thấy chi cả! Cây cao bao nhiêu do-tuần, đối với một phiến lá trên cây, cậy vào tâm lượng [hẹp ḥi] của chúng ta [trong hiện tại], sẽ chẳng trông thấy ngằn mé. Do vậy, nhất định là phải mở rộng tâm lượng.

          Mở rộng cái tâm như thế nào? Tâm chúng ta chẳng mở rộng, vấn đề ở chỗ nào? Trong quá khứ, mỗi lần thầy chúng ta khai thị trong Phật Thất, nói đến cuối cùng, lăo nhân gia đều bảo: “Buông xuống vạn duyên, một câu Phật hiệu một mực tŕ măi”. Nhất loạt dặn ḍ mấy câu như thế đó! Bất luận chúng ta tŕ danh niệm Phật, hay nghiên cứu Quán Kinh, ư niệm của chúng ta phải đặt nơi thế giới Cực Lạc, cũng [có nghĩa là] phải buông xuống hết thảy mọi duyên trong thế giới này, phải buông xuống vạn duyên. Chẳng buông xuống vạn duyên, tâm sẽ bị các thứ nhân duyên trong thế giới này che lấp, chẳng có cách nào tiếp xúc và cảm ứng thế giới Cực Lạc. Vấn đề ở ngay chỗ này. Do vậy, điều quan trọng nhất là chúng ta nghiên cứu kinh này, nhất là khi tŕ danh, nhất định phải buông xuống vạn duyên. Bất luận thế giới này tốt đẹp cỡ nào, cố nhiên là chẳng tham luyến nó. Đối với chuyện khổ sở nhất, chẳng tốt đẹp nhất trong thế giới này, chúng ta cũng chẳng cần đau khổ v́ nó. Chúng ta vốn giống như khách qua đường trong thế giới này, chẳng phải là dân cư đă lâu, đau khổ v́ những giả tướng sanh sanh diệt diệt ấy để làm ǵ? Hăy buông hết thảy xuống! Thuận cảnh cũng thế, mà nghịch cảnh cũng thế, hết thảy đều buông xuống! Mở mang tâm lượng như vậy. Hễ tâm rộng mở, trông thấy cây báu trong thế giới Cực Lạc cũng thế, đất báu cũng thế, ao báu cũng thế, chúng to ngần nào, quư vị sẽ có thể thấy nó to ngần ấy. Đó là điểm quan trọng nhất.

          “Thị vi Tổng Quán tưởng, danh đệ lục Quán” (Đó là phép quán tưởng Tổng Quán, gọi là phép Quán thứ sáu). Những điều đă nói trên đây, từ cơi nước bằng các thứ báu cho đến thấy đại lược cây báu, đất báu, ao báu trong thế giới Cực Lạc, được gọi là Tổng Quán Tưởng, tức là đối với những điều quán tưởng đă nói trong phần trước, đều gộp chung lại để quán tưởng, mệnh danh là phép Quán thứ sáu. [Các phép Quán y báo] nói đến đây là hết. Đă quán tưởng toàn thể y báo trong thế giới Cực Lạc xong, tiếp theo đây, sẽ nói về chánh báo trang nghiêm, [tức là] nói cách quán A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát như thế nào. Ở đây, dùng câu nói “danh đệ lục Quán” để tổng kết.

          “Nhược kiến thử giả, trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, mạng chung chi hậu, tất sanh bỉ quốc” (Nếu thấy những điều này, sẽ trừ ác nghiệp cực nặng trong vô lượng ức kiếp, sau khi mạng chung, ắt sanh về cơi ấy). Đoạn này nói đến sự thành tựu trong quán tưởng, trông thấy cây báu, đất báu, ao báu v.v… trong thế giới Cực Lạc, sẽ đạt được nhiều lợi ích ngần ấy. “Nhược kiến thử giả” (Nếu thấy những điều này), [nghĩa là] có thể quán thành công những điều đă nói trên đây, sẽ có thể thấy đại lược thế giới Cực Lạc. Tuy là thấy đại lược thế giới Cực Lạc, đă tuyệt diệu lắm rồi! Trông thấy đại lược t́nh h́nh của cây cối, đất đai, và ao nước trong thế giới Cực Lạc, sẽ đạt được lợi ích là có thể trừ ác nghiệp cực nặng. Chúng ta là chúng sanh phàm phu trong thế gian này, chẳng có ai không tạo ác nghiệp. Ác nghiệp có nặng và nhẹ. Ác nghiệp nặng nề, nói theo Ngũ Giới cũng thế, mà nói theo Bồ Tát Giới cũng thế, mọi người đều biết “giết, trộm, dâm” đều là ác nghiệp nặng nề. Nếu nói đến [ác nghiệp] cực trọng, trong phần trước của bộ kinh này đă nói: Giết cha là ác nghiệp cực trọng. Vào thời đại loạn lạc ở Trung Hoa thuở xưa, những đứa loạn thần tặc tử giết cha, giết vua cũng là tạo ác nghiệp cực trọng. Trong thế gian này, v́ sao có lắm kẻ tạo ác nghiệp cực nặng dường ấy? Chủ yếu là do tâm tham quá nặng! Tham, sân, si, mạn, nghi: Tham là tâm tham, Si là ngu si, chẳng thấy rơ sự thật, Mạn là tự ḿnh ngạo mạn, khinh thường kẻ khác, cứ nghĩ ư kiến của chính ḿnh là đúng, người khác đều sai be bét. Tâm sân hận lại càng tệ hơn, lại c̣n có nghi hoặc (hoài nghi). Bất cứ chúng sanh nào cũng đều có những phiền năo cực nặng ấy, hễ có cơ hội bèn tạo ác nghiệp. Chúng ta trông thấy những kẻ loạn thần tặc tử giết cha, giết vua trong lịch sử, đừng có thấy họ làm chuyện đó, c̣n chúng ta chẳng làm, bèn cảm thấy chính ḿnh lỗi lạc lắm. [Thật ra], chúng ta [không làm là v́] chẳng có cơ hội! Hễ có cơ hội, sẽ giết vua, giết cha giống y hệt! Trong lịch sử, Đường Thái Tông là một vị hoàng đế tốt, do tranh đoạt ngôi vua mà giết chết anh ḿnh[1], tạo thành trọng tội cực nặng! Trong lịch sử, cùng một gia tộc, anh em do tranh giành ngôi vị đế vương bèn cừu hận, sát hại lẫn nhau rất nhiều! Có lớn hay nhỏ, lớn th́ tạo đại tội nghiệp, nhỏ th́ tạo tiểu tội nghiệp. Nói chung, trong thế gian này, chỉ cần là phàm phu, ai nấy đều có thể tạo ác nghiệp trọng đại.

          Nếu có thể thấy đại lược thế giới Cực Lạc, sẽ có thể trừ được ác nghiệp cực trọng ấy. Không chỉ là diệt trừ, lại c̣n là diệt trừ ác nghiệp đă tạo trong đời đời kiếp kiếp từ vô lượng ức kiếp tới nay, hăy nghĩ đi! Trong vài chục năm ngắn ngủi, chúng ta đă tạo ác nghiệp khôn xiết, huống hồ là nhiều đời nhiều kiếp chồng chất! Ác nghiệp đă gây tạo, tích lũy trong vô lượng ức kiếp, hễ có thể trông thấy đại lược thế giới Cực Lạc, bèn có thể diệt trừ. Hăy ngẫm xem: Lợi ích ấy to cỡ nào? Hơn nữa, càng quan trọng hơn là “mạng chung chi hậu, tất sanh bỉ quốc” (sau khi mạng chung, ắt sanh về cơi ấy). Mỗi người chúng ta bất luận thọ mạng dài cỡ nào, nói theo thọ mạng của kẻ b́nh phàm, có người thọ bảy mươi mấy tuổi, có người tám mươi mấy tuổi, có người chín mươi tuổi, cũng có người sống hơn trăm tuổi. Dẫu sống hơn trăm năm, vẫn có lúc kết thúc. Sau khi mạng chung, rốt cuộc những kẻ b́nh phàm ấy sẽ đi về đâu? Họ chẳng biết! Người học Phật mà chẳng học Tịnh Độ Tông, chẳng hoàn toàn đoạn Kiến Tư Hoặc, đời sau sẽ sanh về đâu? Họ cũng chẳng nắm chắc. Ưu điểm của pháp môn Niệm Phật trong Tịnh Độ Tông là như thế này: Sau khi mạng chung, sẽ có chỗ quy túc, trở về nơi đâu? Về nhà, tức là trở về thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là nhà của chính ḿnh. Do đó, sau khi mạng chung, “tất sanh bỉ quốc”, [nghĩa là] tất nhiên văng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu chẳng có công phu ấy, dẫu muốn về nhà, sẽ có đủ mọi nỗi chướng ngại, chẳng quay về được, vẫn là chẳng được rồi! Ắt phải quét sạch chướng ngại (kể cả ác nghiệp), hết thảy đều trừ khử sạch. Sau khi mạng chung, tất nhiên là nhất định có thể sanh về thế giới Cực Lạc. Hễ sanh về thế giới Cực Lạc, đương nhiên là thoát khỏi lục đạo luân hồi trong thế gian. Càng đáng quư hơn nữa là sanh về cơi kia, sẽ có thể thành Phật rất mau chóng! Ở trong thế giới này, chúng ta tu hành thành Phật khó khăn như thế đó! Để tu hành thành Phật trong thế gian này, Thích Ca Mâu Ni Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, nhọc nhằn thay! Kẻ b́nh phàm có thể làm được hay không? Đến thế giới Cực Lạc, sẽ có chuyện tốt đẹp như thế ấy! Đoạn này nói đến lợi ích sẽ đạt được [do tu phép Quán này].

          “Tác thị Quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tác tha quán, danh vi Tà Quán” (Quán như vậy th́ gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi, sẽ gọi là Tà Quán). Đoạn này phân định Quán có chánh và tà. Tà là ǵ? Hoàn toàn chiếu theo phương pháp ở đây để dụng công, để quán, th́ gọi là Chánh Quán. Nếu sử dụng phương pháp không đúng pháp, “không đúng pháp” là chẳng giống như kinh dạy, th́ gọi là “tha quán”. Tha Quán (quán khác đi) chính là Tà Quán! Tà Quán sẽ hại người! Tà Quán không chỉ là chẳng thể trừ khử ác nghiệp cực nặng nhiều ngần ấy, thậm chí c̣n tạo ác nghiệp. Tà và chánh hết sức trọng yếu, nói như thế nào? Tuy chúng ta tŕ danh niệm Phật, chẳng tu pháp Quán này, nhưng chúng ta chẳng thể không liễu giải. Nếu như chúng ta chẳng liễu giải pháp Quán Tưởng Niệm Phật, hiện thời, khắp nơi người ta đều nói: “Quán như thế này, Quán như thế nọ, phương pháp rất nhiều”. C̣n nói: “Có thể thành tựu rất nhanh, không tin th́ hăy hành thử xem!” Họ có lắm cách nói, dẫn dụ học nhân học theo họ. Nhưng nếu bảo họ mở Quán Kinh ra xem, nêu câu hỏi yêu cầu họ giải thích, ngay cả văn tự trong kinh văn họ cũng chẳng thông! Hiện thời, hạng người như vậy đông lắm! Nếu chúng ta chưa từng xem kinh văn, chưa nghiên cứu, chẳng liễu giải, nghe lời lẽ dường như đúng nhưng thật ra sai be bét ấy, sẽ suy nghĩ: “Chính ḿnh tŕ danh niệm Phật đă lâu như vậy, dường như chẳng đạt được cảnh giới chi hết, cũng chẳng có tiến bộ chi cả. Người ta đă nói [tu Quán] tốt đẹp dường ấy, thành tựu nhanh như vậy, hăy thử học xem sao”. Hễ học thử tức là đă mắc lừa mất rồi! Đă bước vào đường tà, đáng sợ lắm! Ắt phải liễu giải điều này!

          Sau khi chúng ta đă liễu giải phương pháp được dạy trong Quán Kinh, ngàn muôn phần đừng coi thường rồi tu Quán. Cố nhiên là chúng ta chẳng học theo Tà Quán do kẻ khác nói, [thế nhưng] chính ḿnh dựa theo kinh này để tự tu, có được hay không? Cũng chẳng thể làm như vậy được! Chuyện này giống như chúng ta học bơi lội, mở sách dạy bơi ra xem, có bơi được hay không? Vô dụng! Thật sự học bơi th́ vẫn phải được huấn luyện viên chỉ dạy bơi lội từng bước một mới được! Chẳng được huấn luyện viên chỉ dạy, cứ nhảy ùm ngay xuống nước, chẳng thể nào không chết đuối! Cùng một đạo lư, nếu chúng ta học pháp môn quán tưởng mà chẳng có một vị thiện tri thức từng thật sự tu Quán, thật sự quán thành công chỉ dạy, ngàn muôn phần đừng tự ḿnh tu mù luyện đui! Trước hết, phải liễu giải: Chớ nên tin theo tà thuyết của những kẻ bên ngoài[2]. Kế đó, phải liễu giải: Tuy hiểu phương pháp, chớ nên tự tu, chúng ta phải kiên tŕ học Tŕ Danh Niệm Phật; nhưng thông hiểu phương pháp và đạo lư trong Quán Kinh, sẽ có ích, cũng có nghĩa là khi tâm niệm của chúng ta không niệm Phật, trong tâm hăy tưởng hoàn cảnh tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc, chẳng có vấn đề ǵ! Quen thuộc với hoàn cảnh ấy, trong tương lai, khi thọ mạng đă hết, hễ văng sanh bèn “tựu lộ hoàn gia” (就路還家, theo đường về nhà). Tổ sư nói như vậy, văng sanh bèn hết sức thuận lợi!

 

Tập 26

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười một, bắt đầu từ hàng cuối cùng. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị nhữ phân biệt giải thuyết trừ khổ năo pháp. Nhữ đẳng ức tŕ, quảng vị đại chúng, phân biệt giải thuyết”.

          ()佛告阿難,及韋提希:諦聽諦聽,善思念之,吾當為汝分別解說除苦惱法。汝等憶持,廣為大眾,分別解說。

          (Kinh: Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Lắng nghe, lắng nghe! Hăy khéo suy niệm. Ta sẽ v́ các vị phân biệt, giải nói cách trừ khổ năo. Các vị hăy nên ghi nhớ, ǵn giữ, rộng v́ đại chúng phân biệt, giải nói”).    

 

IV.2.2.8. Phép Quán thứ bảy, Hoa Ṭa Quán

 

Bộ kinh này có tất cả mười sáu phép Quán; trong phần trước, đă nói sáu phép Quán. Phép Quán thứ sáu là Tổng Quán, quán chung y báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là toàn thể hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc, từ quán mặt trời lặn cho đến đại địa, ao báu, và cây cối v.v… trong thế giới Cực Lạc. Sau khi đều đă quán xong, cho đến [phép Quán] được nói trong lần trước chính là tổng hợp toàn thể để quán tưởng lần nữa. Hôm nay, lại bắt đầu sang một giai đoạn mới, nói về chánh báo. “Chánh báo” (正報) là nói tới A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc. Quán chánh báo tinh vi, kín nhiệm hơn y báo đă nói trong những phần trước. Do vậy, đây là một giai đoạn khác. Xét theo phương diện dụng công trong phương pháp Quán th́ càng phải chuyên tâm hơn!

          Phép Quán thứ bảy là quán chánh báo, nhưng vẫn chưa nói đến thân tướng của đức Phật, mà trước hết là quán tọa vị để ngồi của đức Phật. Phép Quán này có tên là Hoa Ṭa Quán. Phải quán theo thứ tự. Chẳng có thứ tự, sẽ không thể quán được. Trước hết là phải quán minh bạch hoa ṭa (“hoa” là hoa sen), tức là ṭa hoa sen của đức Phật, sau đấy mới quán thân Phật. Do vậy, phép Quán này được gọi là Hoa Ṭa Quán (華座觀).

          Trước hết, chúng ta xem đoạn kinh văn thứ nhất: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy”, [nghĩa là] Thích Ca Mâu Ni Phật bảo hai vị tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy, “đế thính, đế thính”, [nghĩa là] phải dụng tâm khéo nghe, “thiện tư niệm chi”, [nghĩa là] nghe xong, c̣n phải khéo suy niệm. “Thiện tư niệm” là khéo nghiên cứu, suy nghĩ. Học Phật pháp là Văn, Tư, Tu. “Đế thính, đế thính” thuộc về phương diện Văn. “Thiện tư niệm chi” là Tư. Suy nghĩ, nghiên cứu đạo lư và phương pháp đă được nghe, cần phải dụng tâm suy xét. Sau khi suy xét, mới có thể tu tŕ đúng pháp. Chẳng có Văn và Tư, sẽ chẳng có cách nào Tu. V́ thế, ở đây nói là “đế thính, đế thính, thiện tư niệm chi” (lắng nghe, lắng nghe, hăy khéo suy niệm). “Ngô đương vị nhữ phân biệt giải thuyết” (Ta sẽ v́ người phân biệt, giải nói), “ngô” (, ta) là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, xưng hô chính ḿnh, “đương vị nhữ”: Sẽ v́ quư vị. “Phân biệt giải thuyết”: Giải nói từng tầng một! Giải nói những ǵ? “Trừ khổ năo pháp” (cách trừ khổ năo). Trong phần trước, phu nhân Vi Đề Hy đă nói: Thế gian này quá khổ, muốn t́m một chỗ chẳng có khổ năo. Do vậy, đức Phật phải phân biệt, giải nói pháp trừ khổ năo. Nói cách khác, phương pháp này có thể diệt trừ khổ năo. “Nhữ đẳng ức tŕ”, “nhữ đẳng” (汝等) là các vị, chỉ tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy, “ức tŕ” (憶持) nói gộp chung với “đế thính, đế thính” tức Văn và “thiện tư niệm chi” tức Tư trong phần trước th́ Ức Tŕ là Tu. Ba bộ phận Văn, Tư, Tu đều bao gồm trong ấy. Ức Tŕ để làm ǵ? “Quảng vị đại chúng, phân biệt giải thuyết” (Rộng v́ đại chúng, phân biệt giải nói): Dùng pháp trừ diệt khổ năo do ta đă nói để học, trải qua sự tu học Văn Tư Tu, sau đấy, sẽ độ chúng sanh rộng khắp, rộng v́ đại chúng phân biệt giải nói.

          Trong đoạn kinh văn này, có những danh từ chúng ta phải đặc biệt chú ư; nếu không, sẽ chẳng thể liễu giải thâm nhập ư nghĩa trong kinh. Ví như đă nói xong mấy phép Quán trong phần trước, tới đây bèn đặc biệt nói “đế thính, đế thính”, v́ đây là một giai đoạn khác: Sẽ quán chánh báo. Quán chánh báo chẳng giống như y báo. Đương nhiên là y báo cũng chẳng dễ quán, nhưng so sánh giữa y báo và chánh báo, y báo thô thiển hơn một tí. Ví như so sánh giữa thế giới, núi, sông, đại địa và thân người, nghiên cứu núi, sông, đại địa sẽ dễ hơn nghiên cứu thân người. Rốt cuộc là núi, sông, đại địa thô thiển hơn! Nếu nghiên cứu thân người, nói theo phương diện sinh lư th́ đă [quá phức tạp] đủ cho chúng ta nghiên cứu. Thân thể có các thứ bệnh trạng, bệnh do đâu mà có? Măi cho đến hiện thời, rất nhiều loại bệnh tật vẫn chưa t́m ra nguyên nhân, có thể thấy là khó khăn [đến mức độ nào]. Đấy vẫn là xét theo phương diện sinh lư. Nói theo phương diện tâm lư và tinh thần, con người có lúc vui sướng, có lúc buồn khổ. Nho gia nói “hỷ, nộ, ai, lạc” (mừng, giận, buồn, vui), những thứ t́nh tự tâm lư ấy, đừng nói là kẻ khác chẳng có cách nào nghiên cứu, ngay cả chính ḿnh mong hiểu rơ, muốn khống chế, đều rất khó! Có thể thấy là chánh báo khó hơn y báo rất nhiều! Do vậy, muốn thực hiện công phu tác quán, đă quán thành công y báo trong phần trước, cũng thấy hoàn cảnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp ngần ấy, quan trọng nhất vẫn phải là quán chánh báo. Chánh báo vi tế hơn y báo, cho nên càng khó quán. Do vậy, trước hết, đức Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy: “Đế thính, đế thính”. Nói “đế thính” (諦聽) có nghĩa là bảo [hai vị ấy và những người sẽ tu pháp Quán này trong tương lai] phải hoàn toàn dốc hết tinh thần tập trung, phải nghe lời Phật dạy sao cho hoàn toàn rơ ràng, tâm tư chớ nên rong ruổi tán loạn. Nghe xong, c̣n phải khéo suy niệm. Sau khi nghe xong pháp này, hoàn toàn chẳng phải là vừa nghe bèn hiểu rơ ngay, trong tâm c̣n phải khéo suy xét: V́ sao đức Phật phải giảng pháp này? Rốt cuộc là tốt đẹp ở chỗ nào? Dụng công như thế nào? Đều suy xét những điều ấy! V́ thế, khi sắp nói đến phép Quán chánh báo, [đức Phật] mới đặc biệt thêm vào từ này (“đế thính”) khiến cho họ chú ư nghe. Sau khi nghe xong, c̣n phải khéo suy xét.

          Tiếp đó, nói: “Ngô đương vị nhữ phân biệt, giải thuyết trừ khổ năo pháp” (Ta sẽ v́ các vị phân biệt, giải nói cách trừ khổ năo). Đối với chữ “khổ năo” (苦惱) trong câu “trừ khổ năo pháp”, “khổ” () là thống khổ, “năo” () là phiền năo. Chúng sanh trong thế giới Sa Bà, bất luận là bất cứ chúng sanh nào cũng đều có khổ năo. Khổ năo có thể nói theo hai phương diện là y báo và chánh báo. Y báo là hoàn cảnh của chúng sanh, hoàn cảnh cũng tạo cho chúng ta đủ mọi nỗi khổ năo. Ví như xét theo phương diện thời tiết th́ có gió, mưa, lạnh, nóng, nhiệt độ buổi sáng và buổi tối v.v… sai khác quá lớn (buổi sáng vả buổi tối rất lạnh, giữa trưa lại rất nóng), người trẻ tuổi chẳng cảm thấy, chứ năng lực thích ứng nơi thân thể người già khá kém, sẽ cảm nhận đủ mọi nỗi khổ năo. Ở đây, chỉ nêu ra một phương diện mà thôi! Lại ví như động đất, băo lốc, thủy tai, hạn hán v.v… rất nhiều! Chẳng có chỗ nào không đem lại khổ năo cho chúng ta. Đó là xét theo phương diện y báo.

          Về phương diện chánh báo th́ sao? Bản thân của bất cứ chúng sanh nào cũng đều có các thứ khổ năo. Xét theo phương diện thân thể, thân thể xét theo tánh chất tiên thiên[3] rất suy yếu, hoặc là thân thể thuộc về tánh hậu thiên chẳng khỏe, năng lực thích ứng rất kém cỏi, sẽ đều tạo thành những nỗi khổ năo cho chúng ta. Lại nói đến sự cư xử giữa con người với nhau, mỗi người có ư kiến riêng, chẳng thể điều ḥa. Chúng sanh phàm phu luôn có Ngă Chấp và Pháp Chấp, chấp trước hết sức dữ dội. Chấp trước càng dữ dội, khổ năo càng nặng nề! Có chúng sanh phàm phu nào mà chẳng có Ngă Chấp và Pháp Chấp? Đừng tưởng chúng ta học Phật đă nhiều năm, sẽ chẳng có Ngă Chấp và Pháp Chấp, chẳng có chuyện ấy đâu nhé! Chỉ cần chẳng đoạn Hoặc, Ngă Chấp và Pháp Chấp thảy đều đầy ắp! V́ lẽ ấy, Tịnh Độ Tông là đới nghiệp văng sanh. Nếu chẳng đới nghiệp văng sanh, bọn phàm phu chúng ta mong đoạn phiền năo trong thế gian này đúng là quá đỗi khó khăn! V́ thế nói: Sự khổ năo nơi chánh báo của chúng ta quá nhiều!

          Chữ “khổ năo” nói trong [đoạn] kinh văn [trên đây chính là sự khổ năo nơi] chánh báo và y báo. Có phương pháp nào để giải trừ những nỗi khổ năo ấy hay không? Có phương pháp! Phương pháp ấy là phương pháp trừ khổ năo do Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ nói. Vậy th́ hăy ngay lập tức tu quán chánh báo, hăy tu Quán. Nói cách khác, tu phép Quán này thành công, sẽ có thể trừ khổ năo. Chúng ta hiểu phương pháp này, công dụng và sức mạnh của phép Tŕ Danh Niệm Phật sẽ lộ ra. Trong chúng ta, có rất nhiều người thường ngày tŕ danh niệm Phật, cảm thấy rất tốt, niệm rành rẽ, rơ ràng, trong tâm rất b́nh lặng. Một ngày nào đó, hễ có chuyện ǵ phiền phức hoặc khổ năo xảy đến, Phật hiệu bèn chẳng thể niệm nổi! Lúc tại thế, Tuyết công lăo sư thường nói: “Khi có phiền năo, hăy dùng Phật hiệu để chèn ép”, nhưng đôi khi chúng ta cảm thấy rất hổ thẹn, Phật hiệu chẳng thể giằn ép phiền năo! V́ sao? Chúng ta chẳng hoàn toàn liễu giải ư nghĩa của Phật hiệu. Nếu đối với ư nghĩa, công đức và sức mạnh bao hàm trong Phật hiệu đều liễu giải, hễ Phật hiệu dấy lên, chúng ta sẽ có sức mạnh ngàn cân[4], ngay lập tức có thể đè nén phiền năo, có công đức to như thế ấy!

          Khi c̣n tại thế, thầy chúng ta cũng từng nói một tỷ dụ. Ví như chúng ta đọc kinh sách của Nho gia. Nho gia thông thường là đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh. Sách Đại Học trong Tứ Thư mở đầu bằng câu: “Đại học chi đạo, tại minh Minh Đức” (Đạo học vấn to lớn là ở chỗ làm sáng tỏ cái đức sáng). Dùng ngay bốn chữ “đại học chi đạo” để nói, một đứa học tṛ tiểu học đọc câu “đại học chi đạo” và một vị lăo nho (một nhà Nho tuổi đă rất cao) đă đọc câu ấy nhiều năm, người ấy có công phu tu tập vài chục năm, đối với nghĩa lư của Nho học cũng liễu giải rất nhiều, lại c̣n dụng công nhiều năm, miệng người ấy đọc câu “đại học chi đạo”, và một đứa trẻ chưa tới mười tuổi đọc câu “đại học chi đạo”, [tŕnh độ liễu giải của] hai bên chẳng thể so sánh được! Đứa bé đọc câu “đại học chi đạo” là miệng đọc suông mà thôi, chẳng có sức mạnh chi hết! Vị lăo nho hễ nói tới “đại học chi đạo”, trong tâm ngay lập tức phát sanh tác dụng nhất định. Hễ nói tới bốn chữ “đại học chi đạo”, toàn bộ ư nghĩa trong sách Đại Học liền hiện ra, dấy lên hiện hành trong tâm.

          Suy nghiệm từ tỷ dụ này, [sẽ biết] sau khi chúng ta đă hiểu rơ phương pháp và đạo lư quán tưởng, sẽ giúp chúng ta liễu giải Tŕ Danh Niệm Phật, liễu giải một câu danh hiệu A Di Đà Phật. Khi đó, sự liễu giải danh hiệu A Di Đà Phật của chúng ta chẳng phải là nông cạn, hời hợt, đơn giản như thế. Dấy lên một câu Phật hiệu, [sẽ là như] tổ sư Ấn Quang đă dạy: “Tất cả giáo lư của Tam Tạng mười hai bộ cùng với công phu tu tŕ hoàn toàn đều bao gồm trong một câu Phật hiệu”. Nếu chúng ta thật sự có thể hiểu rơ đạo lư này, lại thêm công phu tu tŕ của chính ḿnh trong lúc thường ngày đều quy vào một câu Phật hiệu, hăy ngẫm xem: Hễ dấy lên một câu Phật hiệu, sẽ có sức mạnh to lớn ngần nào! Đừng nói là có thể đè nén phiền năo, mà đoạn phiền năo cũng cậy vào một câu Phật hiệu này! Chúng ta công phu không đủ, chẳng thể đoạn phiền năo, nhưng đè nén phiền năo sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Cậy vào chuyện này để đới nghiệp văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng trong thế giới Cực Lạc, vẫn là niệm câu Phật hiệu này. Tới khi đó, niệm Phật hiệu sẽ là thật sự đoạn phiền năo. Do vậy, đây là cách trừ khổ năo!

          Nêu ra phương pháp này, công dụng quá lớn! Do vậy, [đức Phật] nói “nhữ đẳng ức tŕ”, [nghĩa là] sau khi quư vị đă nghe xong, hăy nên khéo suy nghĩ, khéo nghiên cứu, tư duy, sau đấy ức tŕ. “Tŕ” () là trong lúc chánh thức dụng công, “Ức” () là khi chẳng dụng công, trong tâm vẫn phải nhớ nghĩ, suy tưởng, chớ nên ĺa khỏi phương pháp này, như vậy th́ mới có thể thành tựu. Sau khi thành tựu, “quảng vị đại chúng phân biệt, giải thuyết” (rộng v́ đại chúng phân biệt, giải nói): “V́ đại chúng phân biệt, giải nói” chẳng phải là nghe xong bèn nói với người khác. Cố nhiên là cũng có thể nói, nhưng tiếng nói sẽ chẳng đủ trọng lượng, ắt là chính ḿnh phải ức tŕ, có công phu kha khá th́ nói ra, người nghe mới có thể thật sự nghe ra ư nghĩa trong ấy. Thông thường, nếu chỉ nghe, chẳng dụng công, sẽ chẳng đủ sức mạnh; v́ thế, nhất định là phải ức tŕ. Trong đoạn này, chúng ta phải hiểu rơ mấy tầng ư nghĩa này, phải ức tŕ pháp trừ khổ năo!

          Trong đoạn trên đây, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với hai vị ấy, đó là chỗ phải chú ư. Đoạn kinh văn dưới đây cho biết: Khi đức Phật nói những lời này, h́nh tượng của Tây Phương Tam Thánh xuất hiện. Trước hết, tôi đọc kinh văn một lượt:

 

          (Kinh) Thuyết thị ngữ thời, Vô Lượng Thọ Phật, trụ lập không trung. Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, thị nhị đại sĩ, thị lập tả hữu, quang minh xí thịnh, bất khả cụ kiến, bách thiên Diêm Phù Đàn kim sắc, bất đắc vi tỷ.

()說是語時,無量壽佛,住立空中。觀世音,大勢至,是二大士,侍立左右。光明熾盛,不可具見。百千閻浮檀金色,不得為比。

(Kinh: Nói lời ấy xong, Vô Lượng Thọ Phật đứng trên không trung. Hai vị đại sĩ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng hầu hai bên. Quang minh chói lọi, chẳng thể thấy trọn, màu sắc của trăm ngàn loại vàng Diêm Phù Đàn đều chẳng thể sánh bằng).

 

          Đoạn này tường thuật A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát (Tây Phương Tam Thánh) xuất hiện trong không trung. “Thuyết thị ngữ thời” tức là ngay sau lúc Thích Ca Mâu Ni Phật vừa nói xong lời ấy, “Vô Lượng Thọ Phật” là A Di Đà Phật, “trụ lập không trung”: Ngay lập tức hiện ra trong hư không. Ngoài ra, “Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, “thị nhị đại sĩ”, hai vị Pháp Thân đại sĩ ấy. Pháp Thân đại sĩ là bậc Đại Bồ Tát đă hiển lộ Pháp Thân. Hai vị ấy “thị lập tả hữu”, [nghĩa là] một vị [đứng hầu] bên trái, một vị ở bên phải, ở hai bên A Di Đà Phật. Ba vị thánh nhân ấy (cố nhiên, Phật là thánh nhân, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát cũng là thánh nhân), các Ngài “quang minh xí thịnh” (quang minh chói lọi). Danh hiệu A Di Đà Phật có nghĩa là “vô lượng quang, vô lượng thọ”. Nói “quang minh xí thịnh” nghĩa là quang minh tận hết sức tỏa ra ngoài, càng tỏa ra ngoài càng rực rỡ, quang minh càng nhiều! “Bất khả cụ kiến” (Chẳng thể thấy trọn): Phàm phu b́nh phàm chẳng có cách nào thấy trọn vẹn. “Cụ kiến” (具見) là trông thấy hoàn toàn. Nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta chẳng thể thấy hoàn toàn được. Làm sao có thể thấy quang minh phát ra từ thân Phật và hai vị đại sĩ cho được? Bất quá, tuy là chẳng trông thấy, nhưng quang minh ấy chẳng giống như ánh sáng mặt trời trong thế giới này. Ánh nắng mặt trời chói rực, mắt chúng ta nh́n vào chẳng chịu nổi! Ví như khi trời nắng gắt, nếu nhục nhăn của chúng ta nh́n thẳng vào ánh nắng, sẽ chịu không nổi, bị nhức mắt không chịu nổi! Chúng ta có thể nh́n thử xem, khi tiết trời quang đăng, ánh nắng gay gắt, mắt chúng ta nh́n thẳng vào mặt trời, nh́n chẳng được mấy chốc, mắt đă chịu không nổi, xuất hiện mọi nỗi khổ sở như váng đầu hoa mắt!

          Điều này cho thấy chúng ta chẳng thể chịu nổi, ánh sáng mặt trời quá mạnh mẽ, nhưng quang minh của Tây Phương Tam Thánh chẳng phải là như vậy! Quang minh ấy nhu ḥa, mắt của bọn phàm phu chúng ta có thể nh́n được. Nếu không, sẽ chẳng thấy được. Phu nhân Vi Đề Hy đă thấy (do sức của Thích Ca Mâu Ni Phật, cảm động Tam Thánh từ thế giới Cực Lạc hiện đến, khiến cho phu nhân Vi Đề Hy trông thấy). Phu nhân Vi Đề Hy trông thấy quang minh, tuyệt đối chẳng [cảm thấy] chói gắt như ánh nắng. Ánh sáng mặt trời hữu hạn, ánh sáng mặt trời so với quang minh của A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát, đơn giản là chẳng thể nào sánh bằng! Tuy chẳng thấy trọn vẹn quang minh nơi tượng Tam Thánh, nhưng khi nh́n vào, mắt chẳng bị kích thích, càng nh́n càng thấy dễ chịu, càng nh́n tṛng mắt càng thoải mái. Đấy là chỗ khác biệt rất lớn giữa quang minh của đức Phật và ánh sáng mặt trời.

          V́ sao quang minh của đức Phật và hai vị đại sĩ chẳng giống ánh sáng mặt trời? Chúng ta biết ánh nắng do mặt trời phát ra, quang minh của Phật và quang minh của hai vị đại sĩ Quán Âm, Thế Chí từ đâu phát ra? Từ bản tánh phát ra; ánh nắng hoặc ánh đèn điện tuyệt đối chẳng thể sánh bằng tánh quang, những thứ ấy đều là vật chất. V́ sao bọn phàm phu chúng ta niệm Phật có thể cảm ứng? Tu quán tưởng cũng có thể cảm ứng ư? Niệm Phật cũng thế, mà tu quán tưởng cũng thế, tuyệt đối chẳng phảỉ là trong tâm tán loạn, rối nùi mà có thể niệm Phật tốt đẹp được. Trong tâm tán loạn mà mong quán tưởng tốt đẹp, chẳng thể nào được! Nhất định là phải chuyên tâm, tập trung ư niệm trong tâm, buông xuống hết thảy mọi chuyện trong thế gian, buông xuống vạn duyên! V́ sao phải buông xuống vạn duyên? Chẳng buông xuống vạn duyên, tâm chúng ta sẽ bị duyên lôi đến chỗ này, kéo sang chỗ nọ, chẳng có cách nào tĩnh lặng được, công phu vô dụng. Ắt phải buông xuống vạn duyên th́ tâm mới có thể định được. Sau khi đă định, quang minh trong bản tánh của chúng ta mới có thể hiển lộ. Nếu phan duyên khắp nơi, tánh quang đă bị vọng niệm phan duyên từng tầng một che lấp, tánh quang chẳng thể thấu lộ! Vậy th́ làm sao có thể cảm ứng Phật quang cho được? Ắt phải buông xuống vạn duyên. Sau khi buông xuống vạn duyên, quán tưởng cũng thế, mà tŕ danh niệm Phật cũng thế, tánh quang trong bản tánh mới thấu lộ. Khi ấy, mới cảm ứng Phật quang của A Di Đà Phật và đại sĩ quang trong thế giới Cực Lạc. Đấy là cảm ứng đạo giao. Ở đây, phu nhân Vi Đề Hy tuy vẫn chưa có công phu cảm ứng Phật quang, nhưng do Phật lực khiến cho bà ta có thể trông thấy, đă là tuyệt diệu lắm rồi. V́ thế, bà ta trông thấy quang minh [của Phật và Bồ Tát]. Tuy thấy, vẫn chưa thể thấy trọn vẹn, chưa thấy hoàn toàn. Rốt cuộc, phu nhân Vi Đề Hy và tất cả bọn phàm phu chúng ta vẫn thấy hữu hạn. V́ sao? V́ chúng ta mở ḷng quá hẹp, chẳng thấy xa rộng, chẳng thâm nhập ngần ấy! Lư do chẳng thể thấy trọn vẹn là v́ lẽ này!

          “Bách thiên Diêm Phù Đàn kim sắc”: Trong phần trước, tôi đă có nói về vàng Diêm Phù Đàn. Tại Ấn Độ, có một con sông tên là Diêm Phù Đàn, tức là sông Diêm Phù. Vàng xuất phát từ con sông ấy tốt nhất. Loại vàng ấy có ánh đỏ, tức là màu của chất vàng rất đậm. Chúng ta thường thấy màu của vàng là màu hoàng kim, c̣n sắc vàng của loại vàng này gần như là đỏ, đặc biệt tốt, cho nên gọi là “Diêm Phù Đàn kim sắc”. Màu vàng của Diêm Phù Đàn không phải chỉ là một loại, mà là có tới trăm ngàn loại. “Bất đắc vi tỷ” (chẳng thể sánh bằng): Chẳng thể dùng nhiều vàng như vậy để sánh ví quang minh của Tây Phương Tam Thánh! V́ sao chẳng có cách nào so sánh? Trong phần trước, tôi đă có nói: Quang minh của Tam Thánh là tánh quang, vàng Diêm Phù Đàn là một thứ sắc pháp, là vật chất trong thế giới này. Cố nhiên, vàng quư báu; dẫu quư báu, vẫn là vật chất. Do vậy, chẳng thể sánh ví được! Chẳng có cách nào sánh ví. Tuy chẳng có cách nào sánh ví, nhưng có thể dùng như một biện pháp ḥng làm nổi bật ư nghĩa, khiến cho chúng ta liễu giải. Những kẻ b́nh phàm như bọn chúng ta cứ ngỡ màu sắc của vàng Diêm Phù Đàn là đẹp nhất, nhưng màu sắc đẹp đẽ nhất vẫn chẳng thể sánh bằng quang minh của Tam Thánh. [Do vậy, mọi người nghe xong có thể tưởng tượng] quang minh của Tam Thánh tốt đẹp đến mức độ nào!

          Đoạn kinh văn này nói về h́nh tượng Tam Thánh và quang minh do h́nh tượng Tam Thánh phát ra, quang minh của bất cứ chất báu nào trong thế gian cũng đều chẳng có cách nào sánh bằng. Đoạn này có ư nghĩa ǵ? Phải chú ư câu “thuyết thị ngữ thời” (khi nói lời ấy), [nghĩa là] ngay trong lúc Thích Ca Mâu Ni Phật nói với tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy những lời ấy, Tây Phương Tam Thánh ngay lập tức hiển hiện tại không trung. Điều này chứng tỏ: Bất cứ chúng sanh nào, chỉ cần có thể liễu giải Phật pháp, phát nguyện học pháp môn này, hễ công phu đến nơi đến chốn, sẽ có thể cảm ứng, tới khi mạng chung, tuyệt đối có thể văng sanh. [Tam Thánh hiện thân] nhằm chứng minh: Khi Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, Tây Phương Tam Thánh ngay lập tức hiển hiện để học nhân biết sự thật này. V́ thế, trong mấy vị tổ sư Tịnh Độ Tông vào thời cổ, có vị niệm một câu Phật hiệu, miệng bèn phóng quang, có vị niệm Phật bèn hiện ra tượng Phật. V́ sao có thể như vậy? Khi công phu đến nơi đến chốn, buông xuống vạn duyên, công phu sử dụng rất thuần thục, sẽ có những sự cảm ứng như thế ấy. Đương nhiên là trong khi chúng ta dụng công, tâm chớ nên mong cảm ứng. Nếu trong tâm quư vị mong tưởng cảm ứng, sẽ chẳng phải là nhất tâm niệm Phật, mà là nhị tâm, tam tâm, đâm ra chẳng đạt được nhất tâm! Khi niệm, chỉ quan tâm niệm. Khi tổ sư niệm Phật, [các Ngài] cũng chỉ quan tâm niệm, hoàn toàn chẳng nghĩ “niệm một câu Phật hiệu, miệng bèn phóng ra một tia sáng”. Trong tâm các Ngài chẳng nghĩ như vậy. Nếu nghĩ như vậy, đâm ra hỏng bét, chẳng thể như vậy được! V́ thế, khi dụng công, phải thuần túy dụng công, buông xuống vạn duyên, nhất tâm bất loạn tŕ danh, tŕ đến khi công phu đạt mức th́ mới có thể cảm ứng. Tuy chẳng thấy Phật, nói theo đạo lư, chỉ cần Tín, Nguyện, Hạnh, có tín tâm, có nguyện tâm, dựa trên tín tâm và nguyện tâm để dấy khởi Phật hiệu, ba tư lương đều trọn đủ. Dẫu lúc niệm Phật, chẳng thấy Phật quang, bản thân chúng ta đă ở ngay trong Phật quang. Hiểu lư, bèn có lợi ích này, chẳng cần quan tâm chính ḿnh có thấy quang minh (Phật quang) hay không! Chỉ cần dấy lên một câu Phật hiệu, chúng ta đă ở ngay trong vô lượng quang của Phật. V́ thế, đoạn này là dùng sự thật để chứng minh, chiếu theo pháp để tu tập, b́nh thường sẽ cảm nhận Phật quang gia bị. Tới khi mạng chung, nhờ vào Phật quang, sẽ có thể văng sanh thế giới Cực Lạc.

          Trước hết, tôi đọc kinh văn của đoạn tiếp theo một lượt:

 

(Kinh) Thời Vi Đề Hy, kiến Vô Lượng Thọ Phật dĩ, tiếp túc tác lễ, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă kim nhân Phật lực cố, đắc kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị Bồ Tát. Vị lai chúng sanh, đương vân hà quán Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị Bồ Tát?”

()時韋提希,見無量壽佛已,接足作禮。白佛言:世尊,我今因佛力故,得見無量壽佛,及二菩薩。未來眾生,當云何觀無量壽佛,及二菩薩?

(Kinh: Khi ấy, Vi Đề Hy thấy Vô Lượng Thọ Phật rồi bèn làm lễ sát chân đức Phật, bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nay do Phật lực được thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát. Chúng sanh trong vị lai sẽ nên quán Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát như thế nào?”)

 

Đoạn này khiến cho chúng ta biết căn cơ của phu nhân Vi Đề Hy (trong phần kinh văn trước đó đă có nói [điều này]) và quốc vương [Tần Bà Sa La] khác nhau. Quốc vương là căn cơ Tiểu Thừa, phu nhân Vi Đề Hy là căn cơ Đại Thừa. V́ sao nói bà ta là căn cơ Đại Thừa? Chính bà ta được thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị đại sĩ, đương nhiên là trong tâm hoan hỷ. Ngay trong lúc ấy, không chỉ là v́ chính ḿnh trông thấy bèn hoan hỷ, mà cũng mong những kẻ khác [cũng được hưởng niềm hoan hỷ ấy]. Không chỉ là trong khi ấy, mà c̣n nghĩ đến những chúng sanh trong đời vị lai măi cho đến chúng ta trong đời hiện tại. Nghĩ thay cho bao nhiêu chúng sanh trong thuở vị lai, đó là bậc Đại Thừa Bồ Tát, chẳng phải là căn cơ Tiểu Thừa. V́ thế, đoạn này chủ yếu nói: Sau khi bà ta đă thấy Phật, Bồ Tát, đă nghĩ ngay tới rất nhiều chúng sanh trong đời vị lai phải làm như thế nào th́ mới có thể thấy Tây Phương Tam Thánh giống như bà ta.

          “Thời Vi Đề Hy”: Khi ấy, phu nhân Vi Đề Hy, “kiến Vô Lượng Thọ Phật dĩ”: Phu nhân Vi Đề Hy đă thấy Vô Lượng Thọ Phật trong không trung. “Dĩ” () là sau khi đă thấy. Đương nhiên là hễ nói tới Vô Lượng Thọ, sẽ bao gồm hai vị đại sĩ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. “Tiếp túc tác lễ”: Đừng nghĩ Tam Thánh ở trên hư không, làm sao [bà Vi Đề Hy] lễ bái sát chân các Ngài cho được? “Tiếp túc” chẳng phải là hướng về Vô Lượng Thọ Phật làm lễ, mà là hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật làm lễ, lạy Thích Ca Mâu Ni Phật. “Tiếp túc” (接足) là dùng tay nâng hai chân đức Phật. Nay chúng ta lễ Phật, lật ngửa bàn tay lên, biểu thị dùng tay nâng chân Phật, gọi là “tiếp túc”. Như thế là “tác lễ”, tức lễ Phật. Lễ Phật xong, “bạch Phật ngôn”, “bạch” () là thưa tŕnh, bẩm cáo, hướng về đức Phật thưa thốt. Chữ “Phật” ở đây chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. “Thế Tôn” (Bhagavā): Thế Tôn là một trong các danh hiệu của đức Phật. “Ngă kim nhân Phật lực cố”: Nay con cậy vào Phật lực, “đắc kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị Bồ Tát”, có thể trông thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí; đó là sự may mắn to nhất của con. “Vị lai chúng sanh” th́ sao? Điều này có nghĩa là: Trong tương lai, lúc đức Phật chẳng c̣n trụ trong thế gian, đông đảo chúng sanh trong vị lai “đương vân hà quán Vô Lượng Thọ Phật cập nhị Bồ Tát?” “Vân hà” (云何) là làm thế nào, “quán” là thấy, [nghĩa là] làm thế nào để có thể trông thấy, quán tưởng Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát? Nói lời này là do ư nghĩa: V́ chúng sanh trong đời vị lai, thỉnh cầu đức Phật hăy dùng phương pháp nào để dạy dỗ chúng sanh trong thuở vị lai. Khi đức Phật chẳng c̣n trụ thế, họ làm như thế nào để có thể quán thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị đại sĩ? Thỉnh cầu đức Phật hăy dạy một phương pháp.

          V́ sao mong thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát? Phật và Bồ Tát đều có quang minh. Thấy quang minh có lợi ích ǵ? Thấy quang minh của Phật, Bồ Tát, sẽ dẫn khởi tánh quang của chính chúng ta. Nếu từng tia tánh quang của chính chúng ta thấu lộ, sẽ tuyệt diệu lắm. Trong tánh quang, muốn ǵ có nấy! Bọn phàm phu chúng ta trong thế gian này đáng thương quá! Suốt ngày truy cầu thứ này, thứ nọ bên ngoài, lại c̣n chưa chắc đă truy cầu được! Dẫu truy cầu được, sau khi đă nắm trong tay, sẽ lại chuyển biến. Đấy là pháp sanh diệt, sanh sanh diệt diệt, chẳng đáng tin cậy. Sau khi quang minh trong bản tánh hiển lộ, trong phần sau sẽ nói đến các thứ quư báu trong quang minh. Ṭa hoa sen của đức Phật trong thế giới Cực Lạc có quang minh nhiều ngần ấy, trong bản tánh của chúng ta cũng có y hệt! V́ thế, chỉ cần sau khi quang minh của chúng ta hiển hiện, những ǵ đáng nên có, sẽ có trọn hết. Lần sau, tôi sẽ nói tiếp, hôm nay chỉ có thể giảng đến đoạn này.

 

Tập 27

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười hai, bắt đầu từ ḍng thứ năm. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn.

 

        (Kinh) Phật cáo Vi Đề Hy: “Dục quán bỉ Phật giả, đương khởi tưởng niệm, ư thất bảo địa thượng, tác liên hoa tưởng, linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng, tác bách bảo sắc. Hữu bát vạn tứ thiên mạch, do như thiên họa. Mạch hữu bát vạn tứ thiên quang, liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến. Hoa diệp tiểu giả, tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần. Như thị liên hoa, cụ hữu bát vạn tứ thiên diệp”.

()佛告韋提希:欲觀彼佛者,當起想念,於七寶地上,作蓮華想。令其蓮華,一一葉上,作百寶色。有八萬四千脈,猶如天畫。脈有八萬四千光,了了分明,皆令得見。華葉小者,縱廣二百五十由旬。如是蓮華,具有八萬四千葉。

          (Kinh: Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Muốn quán đức Phật ấy, hăy nên khởi tưởng niệm, trên đất bảy báu tưởng một hoa sen, sao cho mỗi cánh hoa sen ấy có màu sắc của trăm thứ báu, có tám vạn bốn ngàn đường gân, giống như nét vẽ thiên nhiên. Mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn quang minh, [quán tưởng sao cho] rành rẽ phân minh, thảy đều trông thấy. Cánh hoa nhỏ đă có bề ngang và bề dọc là hai trăm năm mươi do-tuần. Hoa sen như vậy có đủ cả tám vạn bốn ngàn cánh”).

 

          Đoạn này vẫn là Hoa Ṭa Quán, “hoa ṭa” là ṭa hoa sen. Trong đoạn kinh văn trước đó, trước hết, đức Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy hăy lắng nghe. V́ sao? Bắt đầu từ chỗ này, [đức Phật] chánh thức giảng về cách quán tưởng chánh báo. Những phần trước đó đều nói về y báo, thô thiển hơn một chút, nhưng quán tưởng chánh báo vi tế hơn. Do vậy, phải “đế thính, đế thính” (lắng nghe, lắng nghe). Sau đó, A Di Đà Phật cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát đều xuất hiện trong không trung. Phu nhân Vi Đề Hy vừa thấy, hết sức hoan hỷ; sau đấy, nghĩ chính ḿnh có thể trông thấy [cảnh tượng ấy] quá tốt đẹp. Do vậy, bà bèn v́ chúng sanh trong đời vị lai thỉnh cầu, cũng là thỉnh cầu pháp này: Chúng sanh trong đời vị lai phải làm như thế nào th́ mới có thể thấy A Di Đà Phật và hai vị đại sĩ? Đó chính là sự thỉnh pháp đă được nói trong lần trước. [Trong đoạn kinh văn] vừa mới niệm, đức Phật dạy phu nhân Vi Đề Hy: Muốn quán A Di Đà Phật, trước tiên, cần phải quán tưởng theo phương pháp sau đây. Hôm nay, tôi nói tiếp [nội dung] của buổi giảng lần trước.

          Dưới đây là một tiểu đoạn, hăy xem tiểu đoạn ấy. “Phật cáo Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy, Ngài nói ǵ vậy? “Dục quán bỉ Phật giả”: Muốn quán tưởng Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, phải như thế nào th́ mới có thể quán được? Tiếp đó, Ngài nói một đạo lư và cũng là một phương pháp quan trọng nhất, tức là “đương khởi tưởng niệm”, [nghĩa là] người tác quán phải dấy lên sự tưởng niệm. Tưởng niệm th́ mục tiêu quán tưởng sẽ đặt vững ở nơi đâu? “Ư thất bảo địa thượng” (Trên mặt đất bảy báu): Ngay trong thế giới Cực Lạc, quán tưởng y báo trong các phần trước đă thành công, bèn quán trên mặt đất bảy báu trong thế giới Cực Lạc, “tác liên hoa tưởng”, [nghĩa là] trong tâm tưởng có hoa sen trên mặt đất. Đấy là nguyên tắc quan trọng nhất!

          Kinh A Di Đà nói hoa sen sanh trong ao bảy báu. Hoa sen trong ao bảy báu là nói đối với người văng sanh. Ví như chúng ta từ thế giới Sa Bà văng sanh thế giới Cực Lạc, lại c̣n có những chúng sanh văng sanh thế giới Cực Lạc từ những thế giới khác, đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Ở đây, [hoa sen] trên đất bảy báu là nói về [hoa sen của] đức Phật, c̣n có những đóa sen do các vị đại Bồ Tát sử dụng. Ṭa sen để đức Phật ngồi hay đứng đều ở trên đất bảy báu. Đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy và hết thảy chúng sanh tu pháp môn này trong đời mai sau: Muốn quán thấy A Di Đà Phật, trước hết, phải quán hoa sen trên đất bảy báu. Bởi lẽ, quán tưởng chánh báo của đức Phật, Báo Thân của Phật vừa to, vừa tinh vi, hết sức vi tế, nếu ngay lập tức quán, sẽ chẳng thể [quán tưởng] rơ ràng. Do vậy, trước hết, hăy quán ṭa hoa sen do đức Phật sử dụng.

          Cách quán như thế nào? Dùng tưởng niệm: Tưởng hoa sen trên đất bảy báu. Do đó, chữ Tưởng () hết sức trọng yếu. Dựa theo cách giảng kinh Pháp Hoa của tông Thiên Thai, tâm tánh của lũ chúng sanh chúng ta bao la vạn tượng. Hết thảy các pháp đều được bao hàm trong tâm tánh, mà cũng là nói theo đạo lư th́ cái tâm của chúng ta trọn đủ hết thảy. Đấy là nguyên lư quan trọng nhất được giảng trong Phật pháp. Trong văn hóa Trung Hoa, Nho gia cũng nói như thế: “Vạn vật giai bị ư ngă” (Vạn vật đều trọn đủ nơi ta), “vạn vật” là muôn vật trong vũ trụ. Vạn sự vạn tượng đều ở trong tâm chúng ta, hoàn toàn trọn đủ. V́ thế, nói theo Nho học và Phật học, sẽ có chung một chân lư.

          Sau khi đă hiểu chân lư, dựa theo phương pháp do đức Phật đă nêu dạy để dụng công, sẽ có thể trông thấy. Bộ kinh này giảng khá cặn kẽ. Chúng ta liễu giải bộ kinh này sẽ [hữu ích] rất quan trọng cho việc liễu giải kinh A Di Đà. Kinh văn của kinh A Di Đà nói đơn giản, nhưng chú giải của tổ sư đă chỉ ra: Đối với hoa sen trong ao bảy báu, người học Tịnh Độ Tông chúng ta, nếu phát tâm, có tín tâm, có nguyện tâm, khi bắt đầu niệm Phật, lúc đó, trong ao bảy báu sẽ nẩy sanh một đóa hoa sen. Hoa sen ấy là do ai [tạo tác]? Sanh ra như thế nào? Nay chúng ta nh́n vào Quán Kinh, bèn biết: Đấy chính là nói tới quán tưởng. Dụng công quán tưởng, sẽ tưởng ra được. Tŕ danh niệm Phật giống hệt như quán tưởng. Phát tâm tŕ danh niệm Phật, trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh, khi vừa niệm, do cái tâm “có thể ức niệm”, nơi ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc bèn trổ sanh một đóa hoa sen. V́ thế, đối với lời chú giải của tổ sư, [ta biết chuyện ấy đă được] bộ kinh này nói rơ ràng. Do đức Phật nói như thế, cho nên tổ sư căn cứ vào đạo lư do đức Phật đă dạy [để chú giải như vậy], chẳng phải là chú giải tùy tiện! V́ sao vừa tưởng, bèn có thể tưởng ra? Vừa phát tâm niệm Phật, hoa sen trong ao bảy báu bèn nẩy sanh, [nguyên nhân là do] cái tâm của chúng ta trọn đủ hết thảy.

          Tâm chúng ta chẳng tưởng thế giới Cực Lạc, bèn tưởng thế giới Sa Bà và hết thảy mọi thứ trong nhân gian. Tưởng hết thảy mọi thứ trong nhân gian, tâm chúng ta sẽ ở trong nhân gian. Chúng ta biết nhân gian là như vậy. Nói theo Phật pháp, sanh trong thế gian này, hết thảy đều thống khổ. Thống khổ được tạo thành như thế nào? Chính là do thân tâm của chúng sanh tạo tác các tội nghiệp như giết, trộm, dâm, dối v.v… Tạo tác tội nghiệp thành công, trong tương lai, sẽ hứng chịu quả báo chiêu cảm từ tội nghiệp đă tạo trong thế gian này. Do tâm lư phàm phu, ở trong thế gian, đều chẳng thể tránh khỏi tạo nghiệp, thọ báo. V́ sao tạo nghiệp? V́ trong tâm mê hoặc, điên đảo; do vậy, khởi Hoặc, tạo nghiệp, chịu báo, tuần hoàn chẳng dứt, sanh tử không ngừng. Đấy là cái nhân khiến cho bọn phàm phu chúng ta thọ báo trong thế gian này!

Nếu ư niệm của chúng ta chẳng đặt trong nhân gian, mà đặt nơi thế giới Cực Lạc, đặt trong ao hoa sen, nay nói đến quán tưởng chánh báo của Phật, quán tưởng hoa sen được sử dụng bởi đức Phật ở ngay trên đất bảy báu. Hoa ấy từ đâu mà có? Từ tịnh pháp (pháp thanh tịnh) trong tâm tưởng ra. Sau khi đă liễu giải lư này, [sẽ biết] hoa sen có bao nhiêu cánh, hoa quang (quang minh tỏa ra từ hoa sen) và các thứ báu được nói trong phần sau đều là do như vậy mà có. Chỉ cần dùng đúng phương pháp, sẽ có thể trông thấy. Sau khi đă liễu giải lư này, những điều kế đó đều dễ dàng.

          V́ sao trong tâm chúng ta vừa tưởng, bèn có thể thấy hoa sen trong thế giới Cực Lạc? Trong tâm lư của chúng ta có cảnh giới như thế nào, sau đấy mới có thể thấy, mới có thể cảm ứng cảnh giới như thế ấy. Trong tâm phàm phu chỉ có thế giới Sa Bà, ắt phải chuyển biến tâm lư phàm phu th́ mới có thể trông thấy thế giới Cực Lạc. V́ vậy, khi dụng công quán tưởng, ắt phải buông xuống vạn duyên. “Vạn duyên” là nói tới ư niệm của chúng ta. Ư niệm của chúng ta chẳng có một giờ, một khắc nào không vương vấn thế giới Sa Bà và những sự việc trong nhân gian. Khi chúng ta dụng công, mong thấy thế giới Cực Lạc, đối với các thứ thị phi, danh lợi, hết thảy mọi thứ thảy đều phải buông xuống. Khi ấy, cái tâm của chính ḿnh mới có thể giao thoa chiếu rọi và cảm ứng thế giới Cực Lạc. Hăy tiếp tục xem kinh văn.

          Đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy, muốn tưởng hoa sen th́ tưởng như thế nào? “Linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng, tác bách bảo sắc” (Tưởng sao cho hoa sen ấy, mỗi cánh đều có màu sắc của trăm thứ báu). Khi tưởng, trước tiên, hăy tưởng một đóa hoa sen to trên đất bảy báu trong thế giới Cực Lạc. Tức là trước hết, tưởng ra h́nh dạng bên ngoài của một đóa sen to. Sau đấy, quán tưởng từng cánh hoa sen. “Diệp” () chính là cánh hoa sen. Trên mỗi cánh hoa, có màu sắc của trăm thứ báu. Bảo sắc (màu sắc của chất báu) có tới một trăm thứ, đủ các loại màu. Trong thế gian này, màu sắc chỉ có mấy loại. Màu cơ bản là xanh dương, vàng, đỏ, trắng, đen, năm thứ; sau đấy, phối hợp lại. Thế mà trên cánh hoa sen có màu của trăm thứ báu. Lại c̣n “hữu bát vạn tứ thiên mạch” (có tám vạn bốn ngàn đường gân). “Mạch” () là đường gân. Lá cây cũng thế, mà cánh hoa cũng thế, có từng đường gân một, giống như mạch máu trong thân thể con người. Có bao nhiêu? Có tám vạn bốn ngàn, chẳng phải như chúng ta thấy hoa sen trong thế gian này rối loạn, chẳng có lớp lang! Chúng phối hợp hết sức khéo léo, phối hợp “do như thiên họa” (giống như nét vẽ thiên nhiên). “Thiên họa” (天畫) là nét vẽ được h́nh thành tự nhiên. Trong thế giới này, Quốc Họa của Trung Hoa cũng thế, mà hội họa của Âu Tây cũng thế, đều do sức người vẽ ra. Hội họa của con người đều là mô phỏng thiên nhiên. Hết thảy các loại nghệ thuật đều là như vậy. Nghệ thuật là mô phỏng thiên nhiên, hội họa cũng là mô phỏng thiên nhiên, âm nhạc cũng là mô phỏng âm nhạc của thiên nhiên. Do đó, [âm nhạc trong thiên nhiên] được gọi là “thiên lại” (天籟). V́ thế, âm thanh đẹp nhất là âm thanh tự nhiên. Trên mỗi cánh sen đều có tám vạn bốn ngàn đường mạch; thoạt nh́n toàn thể, giống như một bức họa thiên nhiên, đẹp đẽ quá! Đấy là nói mỗi cánh sen đều có tám vạn bốn ngàn đường mạch!

          Mỗi một “mạch hữu bát vạn tứ thiên quang” (mạch có tám vạn bốn ngàn quang minh). Quư vị hăy ngẫm xem, từ mỗi đường mạch, lại tỏa ra quang minh nhiều ngần ấy. Những quang minh ấy bao gồm màu sắc của các chất báu. Từ trên mỗi mạch, tỏa ra quang minh. Khi quán tưởng, phải “liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến” (sao cho đều thấy rành rẽ, rơ ràng). Trên mỗi cánh hoa có bảo sắc nhiều ngần ấy, có các đường mạch nhiều ngần ấy, đều thấy hết sức triệt để, hết sức rơ ràng. Đó là “liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến”. Những cánh hoa ấy to cỡ nào? Đương nhiên là có lớn, có nhỏ. Chẳng cần nói tới cánh hoa lớn, mà nói “hoa diệp tiểu giả, tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần” (cánh hoa nhỏ th́ bề dài, bề ngang đều là hai trăm năm mươi do-tuần), “tung” () là bề dài, “quảng” () là bề rộng. Chiều dọc, chiều ngang đến hai trăm năm mươi do-tuần, to như thế đó, rộng như thế đó! “Như thị liên hoa, cụ hữu bát vạn tứ thiên diệp” (Hoa sen như vậy có tám vạn bốn ngàn cánh). Nói gộp cả hai câu này lại th́ một đóa sen to ấy có bao nhiêu cánh hoa? Có tám vạn bốn ngàn cánh! Mỗi đóa hoa sen đều có tám vạn bốn ngàn cánh!

          Đoạn kinh kể từ câu “linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng” (sao cho mỗi cánh hoa sen ấy) nói rơ hoa sen có bao nhiêu cánh, bao nhiêu đường mạch, bao nhiêu quang minh, cánh hoa to cỡ nào! Trước hết, phải quán tưởng phần này!

 

        (Kinh) Nhất nhất diệp gian, hữu bách ức ma-ni châu vương, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất ma-ni châu, phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất bảo hợp thành, biến phú địa thượng. Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo, dĩ vi kỳ đài. Thử liên hoa đài, bát vạn kim cang chân thúc ca bảo, phạm ma-ni bảo, diệu chân châu vơng, dĩ vi hiệu sức.

()一一葉間,有百億摩尼珠王,以為映飾。一一摩尼珠,放千光明。其光如蓋,七寶合成,遍覆地上。釋迦毘楞伽寶,以為其臺。此蓮花臺,八萬金剛甄叔迦寶,梵摩尼寶,妙真珠網,以為校飾。

          (Kinh: Giữa mỗi cánh, có trăm ức ma-ni bảo châu vương trang hoàng chói ngời. Mỗi một ma-ni châu tỏa ngàn quang minh. Quang minh ấy như cái lọng, do bảy báu hợp thành, che trọn khắp mặt đất. Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già dùng để làm đài. Đài hoa sen ấy có tám vạn bốn ngàn chất báu Chân Thúc Ca, báu Phạm Ma-ni, lưới kết bằng diệu chân châu để trang hoàng).

 

          “Nhất nhất diệp gian”: Giữa mỗi cánh hoa, “hữu bách ức ma-ni châu vương, dĩ vi ánh sức” (có trăm ức ma-ni châu vương trang hoàng chói ngời): Giữa các cánh hoa, c̣n có các thứ trang hoàng. Có những thứ trang hoàng ǵ vậy? Có một trăm ức ma-ni châu vương. Ma-ni châu là Như Ư Châu, muốn ǵ bèn có nấy. “Ma-ni châu vương” chính là vua của các ma-ni châu. Có đến trăm ức viên châu như vậy, dùng chúng để làm “ánh sức”. “Ánh sức” (映飾) là dùng quang minh chiếu rọi chói ngời giữa các cánh hoa. “Nhất nhất ma-ni châu” nghĩa là mỗi ma-ni châu đều “phóng thiên quang minh”, tỏa ra một ngàn tia quang minh, quang minh ấy lại đặc biệt lắm nghe! “Kỳ quang như cái” (Quang minh ấy như cái lọng): Trong thế gian này, dù được gọi là “cái” (). Bất quá, “dù” dùng ở Ấn Độ chẳng giống như dù sử dụng ở Trung Hoa. [Dù của Ấn Độ] gồm nhiều tầng chồng lên nhau, rủ xuống. Tầng cao nhất được gọi là Cái (). Quang minh tụ hợp lại giống như h́nh dạng của từng cái lọng một. Lại c̣n là do “thất bảo hợp thành”. Điều này lại càng đặc biệt, quang minh do bảy báu ḥa hợp tạo thành, “biến phú địa thượng” (che phủ trọn khắp mặt đất): Các quang minh chiếu khắp mặt đất. Chiếu như thế nào? Quang minh giống như tàn lọng, che phủ toàn thể đại địa trong thế giới Cực Lạc. Nh́n như thế, khắp mọi nơi đều là hoa sen. Mỗi hoa sen có tám vạn bốn ngàn cánh. Giữa mỗi cánh, có ma-ni châu vương nhiều ngần ấy. Mỗi viên ma-ni châu vương tỏa ra quang minh nhiều ngần ấy. Quang minh ấy chiếu sáng giống như tàn lọng, lại c̣n do bảy báu hợp thành, toàn thể chiếu trọn khắp đại địa. Đấy là nói về các thứ quang minh giữa những cánh hoa.

          “Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo, dĩ vi kỳ đài” (Dùng báu Thích Ca Tỳ Lăng Già làm đài hoa). Đây là nói về một đóa hoa sen to. Trước hết, hăy nh́n vào “hoa diệp” tức là cánh hoa. Lại nh́n vào “hoa tâm” ở chính giữa hoa. Ở đây, “hoa tâm” (花心) được gọi là “hoa ṭa”. Đức Phật ngồi giữa hoa sen, cũng tức là [ngồi trên] liên hoa đài. Liên hoa đài dùng vật ǵ để tạo thành? Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già. Cái gọi là Thích Ca Tỳ Lăng Già (Śakrābhi Langa-mani-ratna), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Năng Thắng (能勝), [hàm nghĩa] có thể trỗi vượt hết thảy các thứ báu. Chất báu này tốt đẹp hơn hết thảy các thứ báu, do trỗi vượt các thứ báu, nên gọi là Năng Thắng Bảo. Dùng chất báu ấy “dĩ vi kỳ đài” (làm thành đài hoa). Trong thế gian này, chẳng phải là chúng ta cũng đă từng thấy hoa sen ư? Chính giữa hoa sen là nơi kết hạt sen, c̣n trong thế giới Cực Lạc, [chính giữa hoa sen] là liên hoa đài để đức Phật sử dụng, dùng các thứ báu kết thành. Hoa đài cũng được trang hoàng, trang hoàng như thế nào? “Thử liên hoa đài”: Đài hoa sen ấy có “bát vạn Kim Cang Chân Thúc Ca bảo, Phạm ma-ni bảo, diệu chân châu vơng, dĩ vi hiệu sức” (tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca, báu Phạm ma-ni, lưới kết bằng diệu chân châu để trang hoàng). Đài hoa sen ấy được trang hoàng bằng tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca. Chân Thúc Ca là ǵ? Tại Ấn Độ, có một loại cây tên là cây Chân Thúc Ca (Kinśukajālē). Cây nở hoa màu đỏ, tức là “hồng sắc hoa”. Hoa ấy hết sức xinh xắn, hết sức đẹp đẽ. Loại chất báu kim cang ấy có màu đỏ rực giống như màu hoa cây Chân Thúc Ca. Do vậy, chất báu này được gọi là “Kim Cang Chân Thúc Ca bảo”.

          “Phạm ma-ni bảo”: “Phạm” () là rất thanh tịnh. Ma-ni (摩尼) là một loại báu Như Ư, lại c̣n trong suốt. Báu Như Ư đă thanh tịnh, lại c̣n trong suốt, được gọi là “Phạm ma-ni bảo”. C̣n có “diệu chân châu vơng”, cái lưới ấy dùng chân châu để kết thành, từng viên chân châu được xâu lại thành một tấm lưới lớn ngần ấy. Hơn nữa, chân châu là “diệu chân châu”. Dùng những thứ báu ấy và lưới diệu chân châu đ“hiệu sức”. “Hiệu sức” (校飾) là trang hoàng. Dùng những thứ báu ấy và lưới báu để trang hoàng liên hoa đài. Có thể tưởng tượng để thấy đài hoa sen do đức Phật ngồi trang nghiêm ngần nào! Trên đây là nói về những thứ báu và lưới trang sức trên hoa ṭa.

 

          (Kinh) Ư kỳ đài thượng, tự nhiên nhi hữu tứ trụ bảo tràng. Nhất nhất bảo tràng, như bách thiên vạn ức Tu Di sơn. Tràng thượng bảo mạn, như Dạ Ma thiên cung. Phục hữu ngũ bách ức vi diệu bảo châu, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất bảo châu, hữu bát vạn tứ thiên quang. Nhất nhất quang, tác bát vạn tứ thiên dị chủng kim sắc.

          ()於其臺上,自然而有四柱寶幢。一一寶幢,如百千萬億須彌山。幢上寶幔,如夜摩天宮。復有五百億微妙寶珠,以為映飾。一一寶珠,有八萬四千光。一一光,作八萬四千異種金色。

          (Kinh: Ở trên đài ấy, tự nhiên có bốn trụ tràng báu. Mỗi một tràng báu như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Màn báu trên tràng như cung trời Dạ Ma. Lại có năm trăm ức bảo châu vi diệu để trang hoàng chói ngời. Mỗi một bảo châu có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn loại sắc vàng khác nhau).

 

          “Ư kỳ đài thượng, tự nhiên nhi hữu tứ trụ bảo tràng”, [nghĩa là] ở trên đài hoa sen ấy, ngoại trừ lưới báu để trang sức, trên đài tự nhiên lại có tràng báu. “Tứ trụ” (四柱) là bốn cây tràng báu. Tràng to như cây cột vậy. “Nhất nhất bảo tràng”, [nghĩa là] mỗi một trụ bảo tràng, “như bách thiên vạn ức Tu Di sơn” (như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di), có thể suy ra mà biết tràng báu ấy to cỡ nào! Kẻ b́nh phàm thường bảo núi Tu Di là núi Hỷ Mă Lạp Nhă (Himalayas). Thật ra, chẳng phải vậy! Bọn phàm phu chúng ta chẳng trông thấy núi Tu Di. Chẳng nh́n thấy, chẳng phải là nó không có! Không nói chi khác, lấy ngay cái bàn này để nói, do mắt con kiến chẳng nh́n thấy, chẳng thể dựa trên lập trường “con kiến chẳng nh́n thấy” để không thừa nhận cái bàn. Mắt loài người chúng ta nh́n núi Tu Di cũng giống như con kiến nh́n cái bàn, chẳng trông thấy! Cảnh giới và tâm lư của chúng ta quá nhỏ; bởi lẽ, núi Tu Di thật sự chẳng nhỏ như núi Hỷ Mă Lạp Nhă. Trên đài hoa sen ấy, có bốn tràng báu, mỗi tràng báu to cỡ nào? Như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Một quả núi Tu Di mà bọn phàm phu chúng ta c̣n chưa thấy, huống hồ nhiều đến trăm ngàn vạn ức núi Tu Di như vậy! Hăy ngẫm xem, một tràng báu đă to như vậy, bốn tràng báu gộp lại sẽ to cỡ nào?

Hơn nữa, “tràng thượng bảo mạn” nghĩa là trên tràng báu có màn báu. “Mạn” () là tấm màn vải dài thường treo nơi Phật đường. Trên tràng có màn báu. Màn báu “như Dạ Ma Thiên cung”, cung trời Dạ Ma (Yāma) là tầng trời thứ ba trong Dục Giới Thiên. [Dạ Ma] dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thiện Thời (善時). V́ sao gọi là Thiện Thời? V́ quang minh trong tầng trời thứ ba của Dục Giới hết sức tốt đẹp, quang minh chiếu soi chẳng có ngày đêm. Nhân gian chúng ta có ngày và đêm, Dạ Ma Thiên bất luận ngày hay đêm đều là một bầu quang minh. Màn báu treo trên tràng đẹp đẽ như cung trời Dạ Ma.

          “Phục hữu ngũ bách ức vi diệu bảo châu, dĩ vi ánh sức” (Lại có năm trăm ức bảo châu vi diệu, trang hoàng chói ngời): Màn báu giống như cung trời Dạ Ma, lại có bảo châu vi diệu nhiều đến năm trăm ức. Những bảo châu ấy hết sức vi diệu. Do tốt đẹp đến tột cùng, nên gọi là “vi diệu”. Có những bảo châu ấy để trang hoàng sáng rực, chiếu rọi lẫn nhau để trang hoàng. V́ sao chúng có thể chiếu rọi? V́ “nhất nhất bảo châu, hữu bát vạn tứ thiên quang” (mỗi một viên bảo châu có tám vạn bốn ngàn quang minh), nhưng “nhất nhất quang, tác bát vạn tứ thiên dị chủng kim sắc” (mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn loại sắc vàng khác nhau). Hoàn toàn phải cậy vào sức tưởng tượng, v́ chúng ta thấy màu của chất vàng là màu hoàng kim, nhưng kim sắc trong cơi ấy có đến tám vạn bốn ngàn loại khác nhau. “Dị chủng” (異種) là các chủng loại màu sắc khác nhau. Trong kim sắc, c̣n có tám vạn bốn ngàn loại kim sắc, trong thế gian này, chúng ta chẳng thể tưởng tượng nổi! Đoạn này nói về sự trang nghiêm nơi tràng báu: Trên ṭa hoa sen, có bốn tràng báu. Trên tràng báu c̣n trang nghiêm nhiều ngần ấy.

          Bắt đầu từ câu “linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng” (sao cho mỗi một cánh của hoa sen ấy) cho đến đây mới hết. Đoạn lớn [chánh kinh] này dạy: Trước hết, quán một đóa hoa sen, cánh hoa sen, quang minh của các viên châu giữa các cánh hoa. Lại nh́n vào đài hoa trong hoa sen, trên đài hoa có tràng báu. Cả đoạn kinh này trần thuật các thứ trạng huống của đài hoa sen. Nếu phân tích cặn kẽ trạng huống này, [sẽ thấy ṭa hoa sen của A Di Đà Phật] vừa cao to lại vừa rộng răi. Đơn giản là tâm phàm phu chẳng thể quán nổi, nhưng căn cứ theo lời dạy của tổ sư trong phần trước: Chúng ta chẳng trông thấy là v́ tâm lượng phàm phu hẹp nhỏ! Đừng nói là thấy trọn hết, thấy một cánh sen cũng chẳng thấy rơ ràng; nhưng chỉ cần có thể dụng công, buông xuống vạn duyên, buông những giả pháp dụ dỗ, mê hoặc trong thế gian này xuống, nhập Định, có định lực, tâm lư bèn mở rộng. Tâm lượng hễ mở rộng, sẽ có thể thấy thế giới Cực Lạc rơ ràng, rành rẽ. Cảm thấy chẳng nh́n rơ lắm, chẳng thể nh́n thấy nhiều ngần ấy, chúng ta hăy buông xuống vạn duyên để nh́n, để tưởng, sẽ tự nhiên có thể tiến nhập t́nh huống.

 

          (Kinh) Nhất nhất kim sắc, biến kỳ bảo độ, xứ xứ biến hóa, các tác dị tướng, hoặc vi kim cang đài, hoặc tác chân châu vơng, hoặc tác tạp hoa vân, ư thập phương diện, tùy ư biến hiện, thi tác Phật sự. Thị vi Hoa Ṭa Tưởng, danh đệ thất Quán.

()一一金色,遍其寶土,處處變化,各作異相。或為金剛臺,或作真珠網,或作雜華雲,於十方面,隨意變現,施作佛事。是為華座想,名第七觀。

(Kinh: Mỗi một kim sắc trọn khắp cơi báu ấy, biến hóa khắp nơi, ở mỗi nơi đều hiện tướng lạ, hoặc là đài kim cang, hoặc biến thành lưới chân châu, hoặc hóa ra các loại hoa nhiều như mây, tùy ư biến hiện trong mười phương, thực hiện Phật sự. Đó là Hoa Ṭa Tưởng, gọi là phép Quán thứ bảy).

 

          Chúng ta thấy đài hoa rơ ràng, đài hoa sen tốt đẹp dường ấy, có châu quang (quang minh phát ra từ các bảo châu) v.v… nhiều dường ấy, có tác dụng ǵ? Tiếp đó, [kinh văn] nói: “Nhất nhất kim sắc, biến kỳ bảo độ” (Mỗi một kim sắc trọn khắp cơi báu ấy), tức là tám vạn bốn ngàn loại kim sắc khác nhau, mỗi một thứ kim sắc chiếu trọn khắp toàn thể cơi báu thế giới Cực Lạc. Chiếu trong cơi báu “xứ xứ biến hóa”, [nghĩa là] ánh sáng kim sắc chiếu trọn khắp mặt đất, tại các nơi đều dấy lên sự biến hóa. Biến hóa những ǵ? “Các tác dị tướng” [nghĩa là] hóa thành đủ loại h́nh dạng khác nhau! Những h́nh dạng ǵ vậy? “Hoặc vi kim cang đài” [nghĩa là] dùng kim cang làm thành hoa đài. “Hoặc tác chân châu vơng, hoặc tác tạp hoa vân” [nghĩa là] hoặc biến thành lưới chân châu, hoặc từ các loại hoa kết thành áng mây. Những thứ ấy đều quán thành công.

          “Ư thập phương diện”, “thập phương diện” là đối với thế giới Cực Lạc mà nói, tức là mười phương thế giới ở ngoài thế giới Cực Lạc. “Tùy ư biến hiện, thi tác Phật sự” (Tùy ư biến hiện, thực hiện Phật sự): Đă quán hoa đài thành công, có thể thấy mười phương thế giới, thấy rơ ràng Phật sự được thực hiện trong các loại thế giới. Trông thấy Phật sự, tuyệt diệu quá! Kinh Tiểu A Di Đà có nói: Chúng sanh trong thế giới Cực Lạc thường vào sáng sớm cúng dường chư Phật trong mười vạn ức cơi Phật ở các phương khác. V́ sao cúng dường Phật? V́ để học Phật pháp. Quán như vậy thành công, có thể trông thấy, tùy ư biến hiện Phật sự trong mười phương thế giới. Trông thấy Phật sự, sẽ có thể học tập phương pháp của Phật, đó là lợi ích sẽ đạt được. Trong đoạn kinh văn vừa nói này, điều chủ yếu là tu thành công, thấy hoa đài sẽ học các Phật pháp.

          “Thị vi Hoa Ṭa Tưởng, danh đệ thất Quán” (Đây là Hoa Ṭa Tưởng, gọi là phép Quán thứ bảy): Tổng kết những điều đă nói trên đây là Hoa Ṭa Quán, chính là phép Quán thứ bảy trong mười sáu phép Quán. Những hoa ṭa và sự biến hóa ấy do đâu mà có? Tiếp đó, [kinh văn] bèn nói:

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: “Như thử diệu hoa, thị bổn Pháp Tạng tỳ-kheo nguyện lực sở thành”.

        ()佛告阿難,如此妙華,是本法藏比丘願力所成。

          (Kinh: Đức Phật bảo A Nan: “Diệu hoa như thế, vốn là do nguyện lực của tỳ-kheo Pháp Tạng tạo thành”).

 

          “Phật cáo A Nan”: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan, “như thử diệu hoa”, hoa sen đẹp đẽ, tuyệt diệu ấy, “thị bổn Pháp Tạng tỳ-kheo nguyện lực sở thành” (vốn là do nguyện lực của tỳ-kheo Pháp Tạng tạo thành). Tỳ-kheo Pháp Tạng là [tiền thân của] A Di Đà Phật. Trong quá khứ, vào thời Thế Tự Tại Vương Phật, Ngài xuất gia làm tỳ-kheo, có danh hiệu là tỳ-kheo Pháp Tạng. Ngài đối trước Thế Tự Tại Vương Phật phát ra bốn mươi tám đại nguyện, trong số đó, có nguyện này. Sau đấy, mới do nguyện lực mà thành Phật, cũng tạo thành thế giới Cực Lạc. Toàn thể thế giới Cực Lạc, khắp cả đại địa là hoa sen, là do nguyện lực của Ngài mà thành tựu. Đoạn lớn này nói về lai lịch của ṭa hoa sen.

 

(Kinh) Nhược dục niệm bỉ Phật giả, đương tiên tác thử hoa ṭa tưởng. Tác thử tưởng thời, bất đắc tạp quán, giai ưng nhất nhất quán chi, nhất nhất diệp, nhất nhất châu, nhất nhất quang, nhất nhất đài, nhất nhất tràng, giai linh phân minh, như ư kính trung, tự kiến diện tượng. Thử tưởng thành giả, diệt trừ ngũ vạn ức kiếp sanh tử chi tội, tất định đương sanh Cực Lạc thế giới.

()若欲念彼佛者,當先作此華座想。作此想時,不得雜觀,皆應一一觀之,一一葉,一一珠,一一光,一一臺,一一幢,皆令分明。如於鏡中,自見面像。此想成者,滅除五萬億劫生死之罪,必定當生極樂世界。

(Kinh: Nếu muốn niệm đức Phật ấy, hăy nên trước hết tưởng hoa ṭa này. Khi tưởng điều này, chẳng được tạp quán, đều nên quán từng điều một, mỗi một cánh hoa, mỗi một viên châu, mỗi một quang minh, mỗi một đài, mỗi một tràng, thảy đều rơ ràng, như từ trong gương tự thấy khuôn mặt. Tưởng này đă thành, có thể diệt trừ tội trong năm vạn ức kiếp sanh tử, nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc).

 

          Trên đây là những lời dạy của đức Phật dành cho tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy trong lúc ấy. Phu nhân Vi Đề Hy v́ chúng sanh trong đời vị lai mà thỉnh pháp; kế đó, [đức Phật] dạy những lợi ích mà chúng sanh trong đời vị lai sẽ đạt được. “Nhược dục niệm bỉ Phật giả” (nếu muốn niệm đức Phật ấy), [phải chú ư] “niệm bỉ Phật” là quán tưởng. Nếu muốn quán tưởng A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc, “đương tiên tác thử Hoa Ṭa Tưởng” [nghĩa là] trước hết, hăy nên quán tưởng hoa ṭa. “Tác thử tưởng thời”: Khi quán tưởng những điều này, “bất đắc tạp quán”, [nghĩa là] chẳng được quán tạp loạn, phải thuận theo thứ tự, có thứ tự. Chiếu theo thứ tự như thế nào? “Giai ưng nhất nhất quán chi”: Chiếu theo những điều đă nói trên đây để tác quán từng tầng một. Quán theo từng tầng một như thế nào? “Nhất nhất diệp, nhất nhất châu”, đối với mỗi cánh hoa, mỗi viên bảo châu, châu tỏa ra “nhất nhất quang, nhất nhất đài, nhất nhất tràng, giai linh phân minh” (mỗi quang minh, mỗi đài, mỗi tràng, đều quán sao cho phân minh). Quán theo thứ tự, nói cách khác, dựa theo thứ tự từ cánh hoa, bảo châu, quang minh, đài hoa, [cho đến] tràng báu để [quán tưởng sao cho] trông thấy rơ ràng, rành rẽ, phân minh, chớ nên rối loạn. Chẳng thể nói ta thấy quang minh trước, sau đấy thấy cánh hoa, chẳng được! Ắt phải là trước hết phải thấy cánh hoa, sau đó thấy châu, thấy quang minh, thấy đài, thấy tràng, thấy rơ ràng, rành rẽ!

          “Như ư kính trung, tự kiến diện tượng” (Như từ trong gương tự thấy khuôn mặt): Chiếu theo thứ tự để thấy, giống như cầm gương soi diện mạo của chính ḿnh, trông thấy rơ ràng, rành rẽ. Thấy rơ ràng, rành rẽ như vậy, sau đấy mới “thử tưởng thành giả” (tưởng này đă thành), phép quán tưởng này, tức là quán tưởng hoa ṭa đă thành công, sẽ đạt được lợi ích khôn cùng! Tiếp đó, [đức Phật] bèn nói: “Diệt trừ ngũ vạn ức kiếp sanh tử chi tội” (Diệt trừ tội trong năm vạn ức kiếp sanh tử). Trong thế gian, sanh mạng của lũ chúng sanh chúng ta chẳng phải chỉ là một đời hiện tại này, trước đời này có bao nhiêu đời? Từ vô thỉ tới nay, chúng ta có nhiều kiếp sống, mỗi kiếp sống đều tạo tội nghiệp sanh tử, có bao nhiêu đời? Chính ḿnh chẳng thể tính biết rơ ràng! Hễ quán tưởng thành công, sẽ có thể diệt trừ những tội nghiệp ấy, diệt trừ tội nghiệp trong năm vạn ức kiếp. Nói cách khác, sanh mạng của chúng ta sống sống chết chết, cộng lại có thể nhiều đến năm vạn ức kiếp. Tội nghiệp sanh tử trong nhiều đời to lớn ngần ấy; hễ quán tưởng thành công, sẽ có thể diệt trừ tội sanh tử nhiều ngần ấy! Ngoài chuyện diệt tội nhiều như thế, c̣n có lợi ích lớn nhất khác nữa là “tất định đương sanh Cực Lạc thế giới” (nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc). Nghiệp chướng của chúng ta quá nặng. Nghiệp chướng quá nặng, quá nhiều, [cho nên] văng sanh có vấn đề, phải cầu nghiệp chướng giảm nhẹ, khi thọ mạng chấm dứt, chính ḿnh mới có thể làm chủ. Công phu hơi kém một chút, có kẻ khác trợ niệm, sẽ tự ḿnh dấy khởi chánh niệm rất nhanh chóng, có thể văng sanh. Công phu ấy lỗi lạc thay! Do v́ quán tưởng thành tựu, chính mắt trông thấy đài hoa sen do đức Phật ngự trong thế giới Cực Lạc, tất nhiên là có thể sanh về thế giới Cực Lạc.

 

          (Kinh) Tác thị quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha quán giả, danh vi Tà Quán.

        ()作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。

          (Kinh: Tác quán như vậy gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi th́ gọi là Tà Quán).

 

Tác thị quán giả” tức là tu tập phép Hoa Ṭa Quán. Chiếu theo phương pháp đă nói trên đây để quán như vậy, “danh vi Chánh Quán” (gọi là Chánh Quán). Cái gọi là Quán Tưởng Niệm Phật chẳng dễ dàng đâu nhé! Mọi người chẳng có cách nào dùng phương pháp này để tác quán, bất quá, liễu giải cũng tốt! Liễu giải có thể giúp chúng ta tŕ danh niệm Phật [dễ dàng hơn]. Liễu giải rất nhiều đạo lư th́ gọi là Chánh Quán. “Nhược tha quán giả” (Nếu quán khác đi), “tha quán” là [quán tưởng hoặc liễu giải] chẳng giống như kinh văn đă nói, chẳng liễu giải phương pháp hoặc đạo lư được dạy trong Quán Kinh. Nhất là trong thời đại Mạt Pháp hiện nay, người ta có [lắm tṛ bày vẽ quán tưởng] kiểu này, kiểu nọ, rốt cuộc kiểu nào là tốt đẹp? Nếu chẳng tác quán như vậy, quán khác đi, “danh vi Tà Quán”, sẽ là Tà Quán. Chẳng đúng pháp th́ là Tà Quán. Tà Quán th́ chẳng được đâu nhé! Ngàn muôn phần chớ nên! Cuối cùng nói rơ, biện định Chánh là ǵ, Tà là ǵ? Điều này đối với Quán Tưởng Niệm Phật và Tŕ Danh Niệm Phật đều hết sức trọng yếu! Hôm nay, tôi giảng tới đến chỗ này!

 

Tập 28

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười bốn, bắt đầu từ hàng thứ hai. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Kiến thử sự dĩ, thứ đương tưởng Phật. Sở dĩ giả hà? Chư Phật Như Lai, thị pháp giới thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung. Thị cố, nhữ đẳng tâm tưởng Phật thời, thị tâm tức thị tam thập nhị tướng, bát thập tùy h́nh hảo. Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải, tùng tâm tưởng sanh”.

()佛告阿難,及韋提希:見此事已,次當想佛。所以者何?諸佛如來,是法界身,入一切眾生心想中。是故汝等心想佛時,是心即是三十二相,八十隨形好。是心作佛,是心是佛。諸佛正遍知海,從心想生。

(Kinh: Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Đă thấy sự ấy xong, kế đó, hăy nên tưởng Phật, v́ cớ sao vậy? Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. V́ thế, khi tâm các vị tưởng Phật, tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo. Tâm này là Phật, tâm này làm Phật, biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng”).

 

IV.2.2.9. Phép Quán thứ tám, quán Tam Thánh Tượng (quán h́nh tượng Tam Thánh)

 

          Hôm nay, tôi bắt đầu giảng đoạn này là phép Quán thứ tám trong Thập Lục Quán Kinh. Trong các phép Quán trước, từ phép Quán thứ bảy bèn bắt đầu quán chánh báo. Sáu phép Quán trước phép Quán thứ bảy là quán y báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là [quán tưởng] hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc. Trước khi chánh thức quán chánh báo, trong phép Quán thứ bảy, quán ṭa hoa sen để đức Phật ngồi (liên hoa đài), lần trước đă nói xong. Hôm nay, tôi nói đến phép Quán thứ tám, là phép quán Vô Lượng Thọ Phật. Trong phép Quán này, chia thành ba đoạn lớn. Đoạn vừa mới đọc chính là đoạn lớn thứ nhất. Đoạn lớn thứ nhất nêu ra nguyên lư trọng yếu trong pháp môn Quán Tưởng. Đối với cách tu quán tưởng, điều quan trọng nhất là phải hiểu rơ nguyên lư. Sau khi đă hiểu rơ nguyên lư, tiếp theo đó, trong đoạn lớn thứ hai, sẽ từ sự thật, chiếu theo phương pháp được nêu ra trong kinh văn để tu Quán. Đoạn [chánh kinh] vừa mới đọc tuy văn tự không nhiều, nhưng ư nghĩa được bao hàm trong ấy hết sức sâu rộng, cần phải vận dụng tâm tư nhiều hơn để liễu giải lư luận trong ấy. V́ không chỉ là phép Quán thứ tám, phép Quán thứ chín, mà măi cho đến [các phép Quán] sau đó, đều chẳng ĺa khỏi lư này!

          Trước khi chánh thức giảng giải, chúng ta phải liễu giải: Phật pháp bất luận tông nào, đều là do chính miệng Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên nói. Do đó, bất luận tông nào, cũng đều có một lư chung là “vạn pháp duy tâm”. Cũng có nghĩa là “hết thảy đều do tâm tạo”. Ví như nói bọn chúng sanh chúng ta v́ sao sanh vào nhân gian? V́ tâm chúng ta hướng đến nhân gian, cho nên mới sanh làm người trong nhân gian. Hoàn cảnh trong nhân gian mà chúng ta được tiếp xúc bao gồm thiên nhiên, bao gồm hoàn cảnh nhân sự trong xă hội loài người. Chẳng có chuyện ǵ không do cái tâm của chúng ta tạo ra. Đó là đạo lư phổ quát. Nói đến chỗ cao sâu nhất, v́ sao chúng ta học Phật? Quư vị hỏi người theo tôn giáo khác: “V́ sao quư vị học tôn giáo này?” Họ chẳng thốt ra lời được! Tối đa là nói “v́ trong tương lai có thể sanh lên thiên quốc!” Đạo gia Trung Hoa học đạo để tận sức kéo dài sanh mạng, truy cầu trường sanh bất lăo, trên thực tế, chẳng thể làm được! Con người luôn có lúc thọ mạng chấm hết. Dẫu tu tập, tu theo phương pháp của họ, sống tới mấy trăm năm, hoặc một ngàn năm, giống như Lữ Động Tân của Đạo gia, nhưng tới cuối cùng, sanh mạng vẫn có lúc chấm dứt. Tất cả hết thảy các tôn giáo khác, nói theo Phật pháp, đều chẳng hiểu “tâm pháp”. Nếu Phật tử hỏi: “V́ sao chúng ta học Phật?” Nói một câu triệt để, sẽ là “chúng ta muốn thành Phật”, bản thân chúng ta sẽ làm Phật. Những tôn giáo khác đều chẳng dám nói chuyện này! Trong những tôn giáo khác, nếu nói quư vị học tôn giáo ấy, trong tương lai sẽ làm giáo chủ, họ có dám nói hay không? Họ chẳng dám nói. Nhưng đối với Phật giáo, trong tương lai, chúng ta sẽ thành Phật! Nhờ vào đâu để thành Phật? Nhờ vào cái tâm của chúng ta để thành Phật! V́ thế, nói “tâm pháp quan trọng nhất”. Bất luận tông phái nào trong nhà Phật cũng đều phải nói tới lư này!

          Nay xin quư vị xem kinh văn: “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. “Kiến thử sự dĩ” (Đă thấy chuyện này), chữ “thử sự” (此事) chỉ phép Quán thứ bảy trong phần trước, đối với t́nh huống tráng lệ nơi ṭa hoa sen đức Phật ngự [đă quán tưởng thành công]. Sau khi [đă quán tưởng] phép Quán thứ bảy rơ ràng, tiếp đó, “thứ đương tưởng Phật” (kế đó, hăy nên tưởng Phật). Ṭa hoa sen ấy chính là liên hoa đài để đức Phật ngồi. Quư vị quán thấy cái đài ấy, thấy rành mạch rơ ràng. Sau đó, tiến thêm bước nữa là tưởng Phật. Do vậy, hai câu này nhằm nối kết phần trước với phần sau, một mặt nhằm nhắc lại ư nghĩa trong phần trước đó, mặt khác là khơi mở phần kinh văn sau đó.

 

IV.2.2.9.1 Pháp giới thân

 

          “Sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy)? V́ sao là “kế đó, hăy nên tưởng Phật”? “Chư Phật Như Lai”: “Chư Phật” là hết thảy các vị Phật, bất luận là vị Phật nào. Như Lai (Tathāgata) là một trong các danh hiệu của Phật. Chư Phật Như Lai, “thị pháp giới thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung” (là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh). V́ sao tưởng Phật? Chúng ta thường nói “tưởng điều ǵ đó”, quư vị dựa vào ǵ để tưởng? Quư vị có thể tưởng được không? Phải đầy đủ những điều kiện nào th́ mới có thể tưởng được? Bởi lẽ, “chư Phật Như Lai thị pháp giới thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung” (Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh), hai câu này chỉ rơ: Chỉ sợ là chúng ta không tưởng. Chứ nếu chúng ta chịu tưởng, sẽ có thể tưởng được. V́ sao nếu chịu tưởng th́ sẽ có thể tưởng được? Nguyên lư ở ngay trong hai câu này!

Pháp giới thân” là ǵ? (Xin coi đề cương bài giảng). “Pháp giới” (法界) là nói tới cảnh giới giáo hóa của chư Phật, tức là nói tới chúng sanh giới. Chúng sanh giới là pháp giới, mà cũng là đối tượng giáo hóa của chư Phật. Trước hết, chúng ta liễu giải điều này, sau đấy mới nói tới thân, tức là thân của chư Phật. [Cái thân ấy] có thể giáo hóa. Hóa cảnh trong phần trước là thứ được biến hóa ra; chúng sanh tiếp nhận sự giáo hóa của đức Phật, đó là nói theo phía chúng sanh. “Thân” [trong “pháp giới thân”] là nói tới chư Phật, là chủ thể có thể giáo hóa, tức là thân của chư Phật. Trước hết, đă hiểu rơ pháp giới và thân rồi, sau đấy, sẽ lại giảng giải, sẽ càng dễ dàng liễu giải ư nghĩa. Pháp giới và thân, trong và ngoài phân biệt như thế. Chư Phật Như Lai là pháp giới thân (nói gộp lại). Nói gộp lại, sẽ là Năng và Sở. [Sở là] cảnh giới được hóa độ, c̣n thân Phật có thể hóa độ [chính là Năng], đó chính là “pháp giới thân”. Hễ nói đến “pháp giới”, chúng ta biết có mười pháp giới. Trong mười pháp giới, Phật pháp giới được coi là rốt ráo nhất. Ngoài Phật pháp giới ra, chín pháp giới kia đều là đối tượng hóa độ của Phật, đều là những cảnh giới được hóa độ.

          V́ sao đức Phật có thể giáo hóa, hóa độ phổ biến như vậy? Đừng nói chín pháp giới khác, [chỉ nói] trong lục đạo, [có thể hóa độ] chúng sanh thuộc về nhân đạo là đă tuyệt diệu lắm rồi. Nếu kể thêm thiên đạo, sẽ càng chẳng thể nói trọn hết được! Sở dĩ đức Phật có thể phổ độ chúng sanh (xin coi đề cương bài giảng), thứ nhất là “tâm biến” (心遍), [nghĩa là] tâm có thể trọn khắp. Quư vị hăy nói xem “tâm Phật ở nơi đâu?” Ở nơi chúng ta ư? Có ở nơi khác hay không? Ở Trung Hoa, hay ở ngoại quốc? Ở tại Trung Hoa, tại ngoại quốc, hay trong loài người chúng ta, hễ thuộc về “nhân đạo” sẽ đều có Phật tâm. Ngoài loài người ra, súc sanh đạo có [Phật tâm] hay không? Quỷ đạo có [Phật tâm] hay không? Trong địa ngục đạo, có Phật tâm hay không? Nếu quư vị suy đoán theo từng tầng một, [sẽ thấy] tâm Phật không đâu chẳng tồn tại, chỗ nào cũng đều là Phật tâm. Không chỉ là hữu t́nh chúng sanh ở trong Phật tâm, mà vô t́nh như trúc biếc, hoa vàng cũng đều là [Phật tâm]. Đúng như cổ nhân đă nói: “Thúy trúc, hoàng hoa vô phi Bát Nhă” (Trúc biếc, hoa vàng, không ǵ chẳng phải là Bát Nhă), “Bát Nhă” là Phật (là một loại thân Phật[5]). Không chỗ nào chẳng phải là thân Phật, không chỗ nào chẳng phải là tâm Phật. Tâm Phật trọn khắp hết thảy mọi nơi, đó là “tâm biến” (心遍), tức là tâm trọn khắp. Tâm tồn tại nơi đâu, thân bèn tồn tại nơi đó. Ví như nói bọn chúng sanh phàm phu ta, tâm tưởng đến chỗ nào; tiếp đó, thân thể chúng ta nghe theo sự chỉ huy của cái tâm, thân thể bèn tới đó. Ví như nói: V́ sao thân thể mọi người tới nơi này? Chính là v́ trong tâm chúng ta vừa nghĩ “ngay trong thời gian này, chúng ta đang nghiên cứu Quán Kinh”, thân thể bèn nghe theo sự dẫn dắt của cái tâm mà đến nơi đây. Đấy là điều nông cạn dễ thấy nhất. Thân và tâm của phàm phu có mối quan hệ liên đới. C̣n như đối với người đă thành Phật, bất luận là Thích Ca Mâu Ni Phật cũng thế, mà A Di Đà Phật cũng thế, những vị Phật khác cũng thế, đều là tuyệt diệu. Do tâm trọn khắp hết thảy, thân cũng thuận theo tâm mà trọn khắp hết thảy. Đó là “thân biến” (身遍, thân trọn khắp).

          Lại c̣n một ư nghĩa nữa: V́ sao có tâm và thân trọn khắp? V́ đă thành Phật, sẽ chẳng có hết thảy chướng ngại. Thân thể và tâm lư của bọn phàm phu chúng ta luôn có chướng ngại. Chẳng hạn như tâm lư của chúng ta có chướng ngại ǵ vậy? Những thứ chúng ta liễu giải chỉ thuộc về chuyện thế gian; đă vậy, chuyện thế gian cũng liễu giải quá ít. Chuyện trước mắt có thấy rơ hay không vẫn là có vấn đề! Những chuyện không nh́n thấy, hoặc chuyện bên ngoại quốc đều chẳng liễu giải. Ví như trong quá khứ, khi Y Lạp Khắc (Iraq) và Mỹ đánh nhau, chúng ta chỉ biết lúc tác chiến tử vong bao nhiêu người. Số người tử vong được đăng tải trong tin tức trên báo chí hoặc nhật tŕnh rất hữu hạn, chẳng có bao nhiêu. Tin tức trên báo chí c̣n có thể hoàn toàn tin cậy hay không? Nếu chúng ta tin theo báo chí, [trong cuộc chiến ấy] chỉ bị chết có ngần ấy người thôi ư? Thật ra, đă chết bao nhiêu người, chúng ta có biết hay không? Chúng ta không biết! Cùng một thời gian, mà [những sự kiện phát sinh ở] chỗ xa xôi chúng ta đều chẳng biết, vẫn là phải tốn một thời gian dài! Chúng ta thuộc về thời hiện đại, [những ǵ xảy ra] trước hiện thời sẽ là lịch sử. Chuyện trong lịch sử chúng ta lại biết được bao nhiêu? Đương nhiên là có những sử gia biên chép lịch sử, [nhưng những ǵ được họ] ghi lại cũng chỉ là đôi chút, chẳng thể đều hoàn toàn biết trọn! Do vậy, chúng sanh liễu giải chuyện trong thế gian này quá ư ít ỏi. V́ sao? Đó là do chướng ngại. Những chuyện chúng ta biết, kể cả phương diện tâm lư lẫn phương diện thân thể, những điều chúng ta được tiếp xúc ít đến nỗi đáng thương, quá ít ỏi! Đó là v́ chúng ta có quá nhiều chướng ngại, tâm lư chẳng thể rộng mở. Tâm lượng quá nhỏ, tri thức và năng lực kiến giải đều nhỏ tí ngần ấy. Do đó, ở bất cứ nơi đâu, cũng đều bị hạn chế, chúng ta chẳng có cách nào. V́ thế, học Phật th́ phải học sao cho tâm linh của chính ḿnh được mở rộng như Phật vậy, hoàn toàn mở rộng tâm linh của chính ḿnh, mở rộng đến tột cùng! Tất cả các chướng ngại đều chẳng có, đương nhiên là “vô ngại”. Đă là vô ngại, cho nên tâm cũng trọn khắp, thân thể cũng trọn khắp, trọn khắp hết thảy. Khi đă trọn khắp hết thảy, người ấy chẳng có ǵ không biết, bất cứ chuyện ǵ người ấy cũng đều biết. Nói theo phương diện năng lực, sẽ là “không ǵ chẳng thể!”

          Nay chúng ta đă thấy công phu ấy, đức Phật đúng là phi phàm thay! Chúng ta có thể làm được hay không? Đương nhiên là làm được! Nếu chẳng làm được, chúng ta học Phật để làm ǵ? Chúng ta học Phật, tuyệt đối chẳng phải là chỉ để cầu b́nh an, cầu hết thảy thuận lợi, có thể thăng quan phát tài, con cháu đông đầy, chẳng phải là để cầu những điều ấy! Những điều đó là phụ thuộc. Người học Phật mà học tốt đẹp, ở trong nhân gian, hết thảy đều rất thuận lợi, hết thảy đều rất b́nh an, nhưng mục đích không phải chỉ là những điều ấy. Mục đích cao nhất trong việc học Phật là mong thành Phật, giống chư Phật tâm trọn khắp, thân trọn khắp, vô ngại, đắc đại tự tại, hết thảy tự do tự tại, có thể tự chủ. Hiện thời, ai trong chúng ta có thể tự chủ? Quốc gia dân chủ chú trọng t́m cầu dân chủ, cầu dân chủ loại nào? Chẳng hiểu Phật pháp mà mong cầu dân chủ th́ đúng là phạm vi quá nhỏ. Một người mong cầu bất tử, có được hay không? Trong một quốc gia dân chủ, nói đến dân chủ, [thế mà] c̣n chẳng có ai dám nói “ta mong bất tử, ta cầu tự do tự tại”, cầu sao chính ḿnh bất tử, cầu vĩnh cửu bất sanh bất diệt, người ấy có nằm mơ cũng chẳng tưởng được! Nhưng Phật pháp nói điều này: “Tâm có thể trọn khắp, thân có thể trọn khắp, vô ngại, tức là đă thành Phật”, thật sự tự do tự tại. Đấy là nói về pháp giới thân. Chư Phật đều chứng đắc pháp giới thân; chúng ta học Phật cũng là v́ mong chứng đắc pháp giới thân. Biết ư nghĩa của pháp giới thân và nguyên lư quán tưởng Phật cũng giống như vậy. Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, pháp giới thân có trọn đủ ba loại ư nghĩa như đă nói trong phần trước.     

Nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung”, có nghĩa là khi chúng sanh phàm phu tưởng Phật, pháp giới thân của Phật liền vào trong tâm tưởng của chúng ta. V́ sao chúng ta vừa tưởng, Pháp Thân của Phật bèn có thể vào trong tâm của chúng ta? Trong phần trước, đề cương bài giảng có ghi: “Phật là tâm trọn khắp, thân trọn khắp, vô ngại”. “Vô ngại” có nghĩa là trí huệ của Phật vô ngại. Trong khi tâm chúng ta vừa tưởng, Phật đă là thân tâm vô ngại, đều là trọn khắp. Bất cứ chúng sanh nào, chẳng động niệm th́ thôi, hễ động niệm, Phật liền biết ngay, Phật bèn vào trong tâm tưởng của chúng ta. V́ sao chúng sanh vừa tưởng, Phật liền vào trong tâm của chúng ta? Chữ “nhập” () này, lũ b́nh phàm chúng ta thoạt nh́n có ai mà chẳng nhận biết? Nhưng trong kinh văn, hễ gặp chữ này, chúng ta phải đặc biệt nghiên cứu, v́ nó liên quan đến chuyện nghiên cứu phép quán tâm này, rất quan trọng! V́ sao chúng ta vừa tưởng, Phật bèn vào trong tâm của chúng ta? Nói theo phía Phật, tâm Ngài trọn khắp, thân cũng là trọn khắp, trí huệ vô ngại. Do đó, tâm chúng ta vừa tưởng, Ngài liền biết. Hễ biết, tức là vào trong tâm của chúng ta. Nói theo phía chúng sanh, chúng sanh phàm phu đông như vậy, người mong học Phật, trong tâm phải nghĩ tới Phật th́ mới có thể thấy Phật, Phật mới có thể vào trong tâm. Quán Kinh dạy về Quán Tưởng Niệm Phật, trong đạo tràng Đài Trung của chúng ta, mọi người học pháp môn Niệm Phật theo lối Tŕ Danh Niệm Phật. Tŕ Danh Niệm Phật cũng giống như vậy, khi chúng ta dấy niệm, vừa dấy khởi Phật hiệu, Phật liền biết ngay. Điều này có nghĩa là: Tâm chúng sanh ắt phải “tưởng”, chẳng tưởng sẽ không có cách nào! Chẳng tưởng, Phật ở ngay trước mắt, chúng ta cũng chẳng nhận biết Phật. V́ thế, “tưởng” hết sức trọng yếu!

          “Tưởng” th́ cũng chẳng phải là lập tức có thể tưởng thành công. Ví như chúng ta tŕ danh niệm Phật, mong đắc nhất tâm bất loạn; thế nhưng, chúng ta tŕ danh niệm Phật, đă niệm rất nhiều năm, vẫn chẳng đạt được nhất tâm bất loạn, do nguyên nhân nào? Ở đây, đă nói rất rơ ràng, tổ sư chú giải hết sức rơ ràng: “Hàng phục”. Tŕ danh niệm Phật, cái tâm ắt phải hết sức thanh tịnh. Khi đó, mới có thể cảm nhận Phật vào trong tâm của chúng ta. V́ thế, chữ Nhập này, nói theo hai phía, [sẽ là] nếu bên chúng sanh “cảm”, tức cảm nhận, nơi Phật bèn “ứng”. Thông thường, chúng ta nói Quán Thế Âm Bồ Tát “có cầu ắt ứng”. Không chỉ là Quán Thế Âm Bồ Tát có cầu ắt ứng, mà bất luận vị Phật nào, cũng đều là “có cầu ắt ứng”. “Có cầu ắt ứng”: Nói theo phía Phật là Ứng, nhưng phải tùy thuộc bên phía chúng sanh có Cảm hay không! Như thế mới là “cảm ứng”. Chúng ta thường nói niệm Phật có cảm ứng hay không, cảm ứng nhất định là có! Phật nhất định ứng, nhưng người niệm Phật chúng ta có cảm hay không? Hễ cảm trọn đủ, nhất định là sẽ có ứng. Đó gọi là “cảm ứng đạo giao”! Có người niệm Phật có thể cảm nhận, có kẻ chẳng thể cảm nhận, vấn đề là cái tâm của chúng ta có thanh tịnh hay không? Thanh tịnh là ǵ? Chẳng thanh tịnh là ǵ? Tuy miệng niệm Phật, tâm chẳng đặt nơi Phật hiệu, tâm dốc tận hết sức suy nghĩ chuyện trong nhân gian: Làm thế nào để cầu được của cải? Làm thế nào cầu danh (thanh danh)? Đă tới lúc ăn cơm, bèn nghĩ phải ăn cơm. Đă đến lúc ngủ, bèn nghĩ phải ngủ nghỉ. Nếu tâm lư của chúng ta chỉ xoay vần trong những phương diện đó, những chuyện ấy sẽ khiến cho cái tâm của chúng ta chẳng thể thanh tịnh. Tâm chúng ta đặt nơi các giả pháp trong nhân gian. Muốn có thể thanh tịnh, chính là như tổ sư đă khai thị “buông xuống vạn duyên”. Tâm chúng ta phan duyên cái này, phan duyên cái nọ; ắt phải buông xuống vạn duyên trong thế gian, tâm mới thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, sẽ có thể cảm nhận Phật vào trong tâm chúng ta. Đó là cảm ứng.

          Trên đây, lư “vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh” là như thế: Một đằng là chúng sanh cảm, một đằng là chư Phật ứng. Ứng () là Phật dùng thân Ngài để vào trong tâm chúng sanh. Phật có ba thân, chúng ta thấy Phật đều là trông thấy Ứng Thân Phật. Ở đây, tôi nhắc đến một tỷ dụ của cổ nhân: Vầng trăng trên bầu trời ví như Pháp Thân của Phật, là bản thể. Tướng do đâu mà có? Tướng từ bản thể mà có. Chỉ có một vầng trăng trên bầu trời, Ứng Thân th́ vô lượng vô biên, rất nhiều. Chúng ta ở trên địa cầu, Hoàng Hà, Trường Giang, bất cứ chỗ nào có nước, chỉ cần nước thanh tịnh, trăng liền hiện bóng. Nước thanh tịnh ví như cái tâm thanh tịnh của bọn chúng sanh chúng ta. Chỉ cần tâm chúng sanh thanh tịnh, sẽ giống như một bến nước thanh tịnh. Pháp Thân của Phật như vầng trăng có thể hiện bóng. Nếu nước chẳng thanh tịnh, trong ấy vừa có bùn, vừa có cát, lại có cỏ, tạp vật quá nhiều, có thể soi bóng trong ấy hay không? Chẳng thể soi bóng được! V́ thế, từ tỷ dụ này, chúng ta có thể liễu giải: Chúng ta quán tưởng niệm Phật cũng thế, tŕ danh niệm Phật cũng thế, ắt phải do bản thân chúng ta dụng công. Phật là đấng đại từ đại bi, chẳng có vấn đề! Bất luận kẻ nào chỉ cần tâm tưởng Phật, niệm Phật, Phật sẽ ứng. Nếu tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, chẳng thể trách Phật, chỉ trách cái tâm của chính ḿnh chẳng thể cảm. Sở dĩ tâm chẳng thể cảm là v́ tâm chúng ta chẳng thanh tịnh như nước, trong ấy có bùn, cát, khiến cho nó bị ô nhiễm, làm sao có thể chiếu soi cho được?

          Tỷ dụ này vừa khéo khiến cho chúng ta liễu giải: Chúng ta niệm Phật, nếu mong cảm ứng đạo giao, nhất định là phải sửa đổi cái tâm. V́ lẽ đó, thuở tại thế, thầy chúng ta nói: “Mọi người niệm Phật, nhất định là phải biến đổi tâm lư”. Mức độ biến đổi tâm lư thấp nhất là đừng nên năo hại chúng sanh. Làm thế nào để chẳng năo hại chúng sanh? Đối với tài vật trong thế gian cũng thế, danh vị cũng thế, đều là hữu hạn. Chúng ta mong tranh giành tài vật, tranh chấp danh vị, chính ḿnh đă có, kẻ khác chẳng có, xâm chiếm của người khác, làm như vậy chẳng phải là năo hại chúng sanh ư? C̣n tiến hơn bước nữa, cướp thứ ǵ của kẻ khác, trộm thứ ǵ của người ta, dùng mọi thứ phương pháp để hăm hại người khác, những điều này đều là năo hại chúng sanh. Nếu chúng ta mong niệm Phật có thể cảm ứng, những chuyện này thảy đều chẳng cần nữa, chớ nên năo hại bất cứ chúng sanh nào! Như vậy th́ cái tâm của chúng ta mới có thể rỗng rang được!

          Sau khi đă liễu giải đạo lư này, sẽ biết “vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh”, chính là trong khi quán tưởng, trong tâm nhất định phải thanh tịnh. “Thị cố nhữ đẳng tâm tưởng Phật thời” (V́ vậy, khi tâm các vị tưởng Phật), đức Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy (bao gồm tất cả người học Phật về sau như chúng ta), trong khi tâm quư vị tưởng Phật, tức là khi quán tưởng. “Thị tâm tức thị tam thập nhị tướng, bát thập tùy h́nh hảo” [nghĩa là] trong khi tâm chư vị tưởng Phật, cái tâm có thể tưởng Phật (năng tưởng tâm) của quư vị, [kinh văn gọi nó là] “thị tâm” (cái tâm ấy), “tức thị” (chính là), nghĩa là cái tâm ấy chính là ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng là Ứng Thân của Phật. Ứng Thân của Phật luôn có ba mươi hai tướng. Ngoài những tướng ấy ra, c̣n có tám mươi tùy h́nh hảo, kèm theo ba mươi hai tướng mà có các “hảo”. Thật sự có thể tưởng Phật như vậy, tâm sẽ có thể chuyển biến, có thể trông thấy ba mươi hai tướng và tám mươi tùy h́nh hảo.

          Ở đây, chẳng cần nói chi tiết về “ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo”. Nói cặn kẽ, sẽ chẳng đủ thời gian. Mọi người trong đạo tràng Đài Trung đều biết ba mươi hai tướng. Nếu chẳng biết trọn vẹn, có thể tra cứu Phật Học Từ Điển sẽ biết. Kinh văn dạy “tâm này chính là ba mươi hai tướng”. Tâm quư vị vừa tưởng, Ứng Thân của Phật bèn hiện ra, ư nghĩa là ở chỗ này. Ứng Thân của Phật xuất hiện như thế nào? Tâm đặt nơi tướng. Trong tâm quư vị tưởng tướng ấy của Phật, tâm quư vị và ba mươi hai tướng của Phật sẽ hoàn toàn kết hợp lại, vậy th́ ba mươi hai tướng của Phật sẽ chuyển biến cảnh giới nơi cái tâm của quư vị, chính từ trong tâm xuất hiện. Đây cũng là nói với người học Phật: “Khi tưởng Phật, nếu tưởng Báo Thân của Phật, sẽ là tưởng ba mươi hai tướng”. Chú giải của tổ sư có giải thích: Ba mươi hai tướng [được quán tưởng] từ đỉnh đầu đức Phật. Trước hết, quán Vô Kiến Đảnh Tướng của Phật; sau đấy, quán khuôn mặt đức Phật, rồi quán thân thể Phật, măi cho đến quán chân Phật (dưới ḷng bàn chân đức Phật). Đó là ba mươi hai tướng. Chẳng hạn như nh́n lông mày của đức Phật: Giữa hai lông mày có bạch hào. Đó là một trong ba mươi hai tướng. Bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di” (Bạch hào cuộn tṛn to như năm quả núi Tu Di). Đấy là bạch hào nơi Báo Thân đức Phật; tướng bạch hào ấy quá to. Chúng ta quán tưởng Ứng Thân của Phật chẳng to ngần ấy, nhưng quư vị quán tưởng bạch hào rất cụ thể, trong tâm tưởng như vậy. Mắt th́ sao? “Cám mục trừng thanh tứ đại hải” (Mắt biếc trong veo như bốn biển lớn), quan sát từng tướng một trong ba mươi hai tướng. Quan sát ḷng bàn chân Phật có “thiên bức luân tướng” (千輻輪相, tướng bánh xe ngàn căm). Trong Phật Học Từ Điển có nói rành rẽ những điều này. Ngoài ba mươi hai tướng ra, c̣n có tám mươi tùy h́nh hảo, [tức là] ngoài các tướng ra, c̣n có các thứ vẻ đẹp trang nghiêm. Chỉ cần tâm quư vị vừa tưởng, những tướng ấy bèn trồi lên, hiện ra trong tâm quư vị. V́ thế, nói: “Thị tâm tức thị tam thập nhị tướng, bát thập tùy h́nh hảo” (Tâm này chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo). Điều này rất quan trọng!

Tâm chúng ta thời thời khắc khắc tưởng ba mươi hai tướng của Phật, tâm chúng ta sẽ hoàn toàn nhất trí với ba mươi hai tướng nơi thân Phật, tâm chúng ta sẽ chẳng ở trong thế gian này. Nếu tâm chúng ta đặt nơi thế gian, sẽ chịu khổ trong nhân gian. Nhân gian có đủ mọi nỗi khổ năo, tâm chúng ta đặt nơi đây, sẽ cùng cảm nhận [các thứ khổ năo giống như mọi người]. Tâm chẳng đặt nơi nhân gian, mà đặt nơi ba mươi hai tướng, chúng ta sẽ được thọ dụng giống hệt như ba mươi hai tướng. Đấy chính là đạo lư “vạn pháp duy tâm”. Ắt phải liễu giải điều này, sau đấy quán tưởng Phật mới có thể tiến bộ, mới có thể quán tốt đẹp.

          Hai câu sau đó: “Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật” (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật). Trong phần trước đă nói, khi tưởng Phật, tâm của quư vị là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo. Hai câu này chỉ ra: Cái tâm của quư vị đang làm Phật. Không chỉ là tâm làm Phật, mà tâm quư vị c̣n là Phật! V́ thế, hôm nay, trước khi bắt đầu chánh thức giảng vào kinh văn, tôi đă nhắc nhở “vạn pháp duy tâm”. Các tông đều là “hết thảy chỉ là do tâm tạo”, Tịnh Độ Tông cũng là duy tâm tạo. Tông này khác với các tông thông thường ở chỗ nào? Ở đây, phải đặc biệt chú ư. Nếu không chú ư chỗ này, sẽ giảng [pháp môn] Tịnh Độ thành pháp môn thông thường!

          Tam Luận Tông cũng thế, mà Duy Thức Tông cũng thế, Thiên Thai Tông cũng thế, các pháp môn thông thường đều nói tới tâm pháp. Cách nói chung [trong các tông] là “chớ nên chấp trước tướng, phải ĺa khỏi tướng”. Kinh Kim Cang dạy: “Chẳng thể dùng ba mươi hai tướng để thấy Như Lai. Nếu dùng ba mươi hai tướng để thấy Như Lai, sẽ là hành tà đạo, chẳng phải là chánh pháp”. Ở đây, chúng ta nói: “Tâm này chính là ba mươi hai tướng”, hoàn toàn tương phản với cách nói trong Kim Cang. Phải biết: Kinh Kim Cang và những pháp môn [thông thường] khác đều có cùng một nguyên tắc, đều là “chớ nên chấp tướng”. Hễ chấp tướng, tâm sẽ chẳng thanh tịnh. Tịnh Độ Tông là pháp môn đặc biệt, đặc biệt ở chỗ nào? Chúng ta phải liễu giải. Những điều khác chẳng cần phải nói, lấy ngay cái tâm hiện thời của chúng ta để nói: Chúng ta có quá nhiều ư niệm, ư niệm chẳng ngoài tưởng cái này, nghĩ cái kia, toàn là nghĩ tưởng chuyện trong nhân gian. Muốn khiến cho ư niệm chẳng nghĩ tới những chuyện ấy có được hay không? [Đối với bọn phàm phu hạ căn], tuyệt đối là không được. Quư vị có thể thử xem, nếu giữ cho ư niệm chẳng nghĩ tới hết thảy mọi chuyện trong nhân gian, sẽ tuyệt đối là chẳng được. Nhưng chiếu theo pháp môn thông thường, dẫu quư vị không thể, cũng phải bài trừ ư niệm! Đó gọi là “ly niệm”, tức là ĺa khỏi các ư niệm! Sau khi ly niệm, bản tánh của quư vị, tức Tự Tánh Phật mới có thể hiển hiện. Đó là điểm chung của các pháp môn thông thường.

          Thích Ca Mâu Ni Phật quá từ bi, v́ công phu này quá khó khăn. Đă là chẳng thể ly tướng, vậy th́ bèn chấp tướng. Đă là chẳng thể, [tức là] chẳng thể ĺa [các tướng], vậy th́ chấp tướng. Chấp tướng nào vậy? Chấp vào ba mươi hai tướng của Phật. Đó là diệu nghĩa mầu nhiệm nhất, đặc biệt nhất, là pháp đặc biệt nhất. Quư vị chấp vào ba mươi hai tướng. Trong tâm vừa tưởng, ba mươi hai tướng sẽ xuất hiện. Ba mươi hai tướng xuất hiện, sẽ giống như tâm quư vị đang làm Phật. “Tác” (làm) chính là tu. Quư vị tu pháp môn này, tưởng thấy Phật, [tức là thấy] ba mươi hai tướng của Phật. Trong tâm quư vị tưởng, trong tâm bèn xuất hiện [những tướng ấy]. Trong tâm quư vị tưởng, [các tướng ấy] xuất hiện trong tâm, [đó chính là] quư vị đang làm Phật, cái tâm ấy đang làm Phật. Làm Phật rất tự nhiên, rất thuần túy, sau đấy mới hoảng nhiên đại ngộ: Vị Phật mà chúng ta trông thấy vốn là A Di Đà Phật, là Thích Ca Mâu Ni Phật, là chư Phật. Sau khi đă tưởng ba mươi hai tướng, tưởng thuần thục tự nhiên, ba mươi hai tướng sẽ là của chính ḿnh, bản thân ta là ba mươi hai tướng. “Thị tâm thị Phật” (tâm này là Phật): Không chỉ là tâm làm Phật, mà c̣n “tâm này là Phật”. Quư vị có thể liễu giải “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Vừa tưởng, bèn tưởng được, so sánh với các pháp môn thông thường phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể làm được. Quư vị tưởng như vậy bèn tưởng được! Đặc biệt ngần ấy, vi diệu ngần ấy!

          Lại nói đôi chút về câu “thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật” theo học lư. V́ sao trong ba kinh Tịnh Độ, Quán Kinh đặc biệt trọng yếu? Là do hai câu này đă nói triệt để nhất. Bất cứ lư luận trong kinh điển Đại Thừa nào cũng đều tương thông hai câu này. Ví như kinh Lăng Nghiêm chính là một bộ đại kinh khai huệ, giảng về bản tánh của chúng sanh, giảng về Như Lai Tạng “phi nhân duyên, phi tự nhiên”, [nghĩa là] bản tánh đă chẳng phải là pháp nhân duyên, mà cũng chẳng phải là tự nhiên mà có, rất khó hiểu! Dùng hai câu “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” để nói, sẽ dễ hiểu! Tâm này làm Phật, [tức là] chẳng phải là tự nhiên. Nếu nói vị Phật ấy là tự nhiên, chúng ta sẽ chẳng cần phải học (tự nhiên Thích Ca), mọi người đều là Thích Ca Mâu Ni Phật rồi, c̣n học làm chi nữa? Chẳng cần phải tu! Như vậy th́ sẽ nẩy sanh vấn đề to lớn! Chúng sanh trong thế gian tuy có Chân Như bản tánh, nhưng nhất định là phải tu! Chẳng tu, Phật ở chỗ nào? Chẳng có tác dụng chi hết! Chẳng thể thành Phật. Nếu chỉ chú trọng “chẳng phải là tự nhiên”, tức là phải tu, chúng ta hăy tu thành Phật! Nhưng do chẳng hiểu nguyên lư căn bản, chẳng hiểu tâm pháp, tức là chẳng hiểu “tâm này là Phật”, vậy th́ lại chẳng được rồi! Kinh Lăng Nghiêm ví von “chử sa thành phạn” (nấu cát thành cơm). Nếu chẳng hiểu nguyên lư, ví như nấu cát hoặc đá, đến năm nào, tháng nào th́ mới có thể nấu nó thành cơm? Chẳng thể nấu được! V́ thế, “tâm này là Phật” chính là liễu giải cái tâm của chúng ta vốn sẵn là Phật, có Phật Tánh. Chúng ta thấy hai câu ấy, “tâm này làm Phật” là nói đến bản tánh của chúng ta, chẳng phải là tự nhiên, ắt cần phải tu. “Tâm này là Phật”: Hiểu Phật chẳng phải là pháp nhân duyên. Chẳng phải là nhân duyên, [bởi lẽ] chúng ta ai nấy vốn sẵn có Phật tánh. V́ vậy, nếu nói theo học lư, hai câu này thông với hết thảy tâm pháp Đại Thừa.

          “Chư Phật Chánh Biến Tri hải, tùng tâm tưởng sanh” (Biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng), “chư Phật” là hết thảy các vị Phật. “Chánh Biến Tri” (Samyak-sambōdhi) là một trong mười hiệu của đức Phật. Bậc đă thành Phật, đối với bất cứ chuyện nào trong thế gian, tâm của hết thảy chúng sanh, Ngài đều biết. V́ thế, khi lũ chúng sanh chúng ta tưởng Phật, Phật bèn dùng Chánh Biến Tri, có thể biết trọn khắp trí huệ nơi tâm lư của chúng sanh. [Cái tâm ấy] từ trong tâm tưởng của chúng ta, sanh từ trong tâm tưởng. Nói “Chánh Biến Tri hải”, đối với chữ Hải, người ta thường liễu giải “biển không có ngằn mé”. Dùng Biển để h́nh dung Chánh Biến Tri của Phật, bất cứ điều ǵ cũng đều thấu biết trọn khắp. “Tùng tâm tưởng sanh” (Sanh từ tâm tưởng), nói “sanh” có nghĩa là từ trong tâm tưởng của chúng sanh mà xuất hiện, hiển hiện. Đó gọi là “sanh”.

          Nguyên lư được giảng trong đoạn lớn này chính là: Kể cả hết thảy chư Phật, “vạn pháp duy tâm”, nguyên lư là nhất trí. Chỗ bất đồng là phải đặc biệt liễu giải: Ở đây, nói tới ba mươi hai tướng, nói những tướng ấy sanh từ tâm tưởng, nhằm dạy chúng ta “tạ Phật tướng lai tu tŕ” (nhờ vào Phật tướng để tu tŕ). Pháp môn này tuy được Thích Ca Mâu Ni Phật dạy trong thời đại Chánh Pháp, cho đến thời đại hiện thời là Mạt Pháp, nay chúng ta cảm thấy tu pháp môn quán tưởng này rất khó! Nếu tu pháp môn thông thường, nói đến “ly tướng” (chẳng chấp tướng) sẽ hết sức khó khăn! Chẳng phải là không thể, chẳng phải là không thực hiện được, nhưng thời gian [tu tập] rất dài, chẳng trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, sẽ chẳng thể! Pháp môn này của chúng ta có thể thực hiện [hoàn măn] ngay trong một đời. Do vậy, đây là phương pháp đặc biệt, đặt căn bản trên trụ tướng, học bằng cách chấp tướng, học nhanh nhất. Giống như các nhà đại nghệ thuật, học âm nhạc cũng thế, học hội họa cũng thế, trước hết là phải có tướng để mô phỏng theo, sau đấy mới [có thể học] nhanh chóng!

Trong đoạn kinh văn này, phải đặc biệt chú ư hai điều: Một là nguyên lư “vạn pháp duy tâm”, hai là “nhờ vào Phật tướng để tu tŕ”. Cổ nhân nói “nhất sanh thành biện” (hoàn thành ngay trong một đời). “Hoàn thành trong một đời” nên hiểu như thế nào? Trong một đời này, chúng ta có thể văng sanh thế giới Cực Lạc. Hễ văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ có thể thành Phật ngay trong một đời. Đó là ư nghĩa chủ yếu. Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này bèn ngưng.

 

Tập 29

         

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười bốn, bắt đầu từ hàng thứ năm. Tôi đọc trước một tiểu đoạn kinh văn:

 

          (Kinh) Thị cố ưng đương nhất tâm hệ niệm, đế quán bỉ Phật Đa Đà A Già Độ, A La Ha, Tam Miệu Tam Phật Đà.

          ()是故應當一心繫念,諦觀彼佛多陀阿伽度,阿羅訶,三藐三佛陀。

          (Kinh: Do vậy, hăy nên nhất tâm hệ niệm, quán chắc thật đức Phật Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác ấy).

 

          Tiếp tục nói về phép Quán Tưởng Phật trong lần trước. Đây là phép Quán thứ tám, phép Quán này hết sức quan trọng. Lần trước, tôi đă nói: Nguyên lư Quán Tưởng Niệm Phật được giảng hết sức thấu triệt trong kinh này (nguyên lư của Tŕ Danh Niệm Phật cũng giống như vậy). Nguyên lư này, trong lần trước đă nói là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Ư nghĩa được bao hàm trong hai câu này không chỉ là Tịnh Độ Tông, mà những ư nghĩa được nói trong các bộ kinh lớn của các tông khác đều chẳng vượt ra ngoài ư nghĩa của hai câu này.

          “Tâm này làm Phật” là nói theo phương diện Tu Đức. Chúng ta đều biết chính ḿnh có Chân Như bản tánh, bản tánh của chúng ta là Phật; nhưng tuy có bản tánh Phật, nếu quư vị chẳng tu, sẽ chẳng phát ra tác dụng. Giống như ánh sáng của vầng trăng trên bầu trời bị từng tầng mây che lấp, ánh trăng chẳng lộ ra được! Bản tánh của chúng ta cũng giống như thế. Đó là tỷ dụ. Chúng ta nhất định phải tu, phải đoạn trừ từng tầng một tập khí ác nhiễm của chính ḿnh từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, khiến cho vị Phật trong bản tánh của chúng ta hiển lộ. Chuyện này cần đến công phu tu tŕ. Chẳng có công phu tu tŕ ấy, sẽ chẳng được. Đó là “thị tâm tác Phật” (tâm này làm Phật). “Thị tâm thị Phật” (Tâm này là Phật) nghĩa là chúng ta ắt phải nhận biết chính ḿnh vốn sẵn có Phật tánh. Nếu chẳng nhận biết Phật tánh sẵn có của chính ḿnh, sẽ tu bằng cách nào? “Thị tâm thị Phật” là nói tới vị Phật chúng ta vốn sẵn có. “Tu”: Như trong phần trước đă nói, “tác Phật” là tu thành công sẽ thấy! Chúng ta vốn chính là vị Phật ấy. Hai câu này nói rất đơn giản, nhưng nguyên lư trong ấy đă bao gồm giáo lư của hết thảy các tông môn.

          Chúng ta đă liễu giải lư luận trong lần trước; kế đó, đoạn kinh văn vừa mới đọc chính là nói phương pháp Quán như thế nào! Đối với phương pháp Quán, [những điều được] nói trong lần trước chính là tánh chất chung, tức là nói: Nếu muốn tưởng bất cứ vị Phật nào, nguyên lư đều giống nhau. Hôm nay, chúng tôi sẽ bắt đầu chuyên nói về cách quán A Di Đà Phật. Từ đây trở đi là nói về phương pháp Quán ấy.

          “Thị cố ưng đương nhất tâm hệ niệm, đế quán bỉ Phật” (V́ thế, hăy nên nhất tâm hệ niệm, quán chắc thật vị Phật ấy). Đây là nói về người tu học pháp môn Quán Tưởng. “Ưng đương nhất tâm”: Tâm tư của chúng ta hệ niệm chuyên nhất. Hăy quy các ư niệm về một niệm, chớ nên tạp loạn. Quy nơi một niệm, chuyên môn “đế quán bỉ Phật”. Chữ “bỉ Phật” chỉ A Di Đà Phật. V́ sao chỉ cần quán A Di Đà Phật, chẳng cần quán mười phương ba đời chư Phật nhiều ngần ấy? Điều này nhằm nói lên [ư nghĩa] “phải nhất tâm hệ niệm”. Khi chúng ta tu tŕ, bất luận là Quán Tưởng Niệm Phật hay Tŕ Danh Niệm Phật, điều quan trọng nhất là phải làm cho cái tâm của chúng ta có thể định. Nếu tâm chẳng định, sẽ chẳng quán tưởng thành công. Tâm nếu định, sẽ có thể quán tưởng A Di Đà Phật thành công. Hơn nữa, so sánh cách nào đi nữa, thế giới Sa Bà đều chẳng sánh bằng thế giới Cực Lạc! Dẫu làm đại hoàng đế trong thế gian này, làm hoàng đế suốt đời, của cải nhiều đến mấy đi nữa, quyền lực to cỡ nào đi nữa, hễ chết rồi, thứ ǵ cũng chẳng mang theo được! Do vậy, nhất định phải tới thế giới Cực Lạc. Hễ đến nơi đó, toàn thể t́nh huống sẽ hoàn toàn khác hẳn nơi đây, sẽ đoạn dứt sanh tử, chẳng giống như lũ chúng ta đang ở trong lục đạo, sanh sanh diệt diệt chẳng ngừng, nếm trải trọn hết nỗi đau khổ sanh tử, ắt cần phải sanh về thế giới Cực Lạc. A Di Đà Phật là giáo chủ trong thế giới Cực Lạc. Trong quá khứ, Ngài đă từng phát đại nguyện: “Nếu có chúng sanh muốn sanh về Tây Phương, phát nguyện tŕ danh, cho đến nhất tâm quán tưởng, tới khi lâm chung, ắt được Phật đến tiếp dẫn”. V́ mối quan hệ ấy, chúng ta nhất định phải “đế quán bỉ Phật”, tức là chuyên tâm quán Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật.

          Tiếp đó, kinh văn ghi“Đa-đà-a-già-độ” (Tathāgata) đây là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Như Lai. “A-la-ha” (Arhat) cũng là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Ứng Cúng. “Tam-miểu tam-Phật-đà” (Samyak-sambōdhi) dịch sang tiếng Hán là Chánh Biến Tri. Ba danh từ Như Lai, Ứng Cúng, và Chánh Biến Tri đều là đức hiệu của Phật. Bất cứ chúng sanh nào sau khi đă thành Phật, đều có mười loại danh hiệu ấy. Ở đây, nêu ra ba danh hiệu là Như Lai, Ứng Cúng, và Chánh Biến Tri. Nêu ra ba loại danh hiệu đều nhằm ư nghĩa “khởi tác dụng”. Có tác dụng ǵ vậy? Chính là quán tưởng. Bộ kinh này nói đến quán tưởng. Nương theo chú giải của tông Thiên Thai, nói tới Quán th́ chính là diệu quán Nhất Tâm Tam Quán, tức là viên dung cả ba phép Quán Không, Giả, Trung, có thể quán thành công cùng một lúc.

          Nói “Không Quán” chính là phàm phu chúng ta chẳng hiểu chân tướng, ngỡ hết thảy các hiện tượng trong thế gian đều là những thứ chân thật. Luôn thấy của cải, danh vọng, quyền lợi v.v… là thật sự tồn tại. V́ thế, trong xă hội, tranh đoạt cùng người khác, làm những chuyện thương thiên hại lư, khiến cho nhân cách đọa lạc. Hễ chuyển sang đời khác, chẳng thể giữ được thân người, đáng thương quá! Phép Quán thứ nhất trong Phật pháp nhằm dạy chúng ta thấy những điều ấy là Không, những thứ ấy đều là giả pháp, đều chẳng thật sự tồn tại.

Phép Quán thứ hai là Giả Quán, c̣n gọi là Tục Quán. Tuy hết thảy thế gian đều là rỗng không, nhưng ở trong thế gian, vẫn chẳng thể phá hoại các thứ trật tự trong thế gian. Chuyện chánh đáng trong thế gian như pháp luật quốc gia, luân thường đạo đức giữa con người với nhau, đều phải nên duy tŕ, bảo vệ. Vẫn phải tuân theo những trật tự thế tục trong thế gian ấy, đó gọi là Giả Quán.

Cuối cùng là Trung Quán, có nghĩa là: Bất luận là Không cũng thế, mà Giả cũng thế. Trung là chẳng lệch về một bên nào. Chẳng thiên Không mà cũng chẳng thiên Giả, đó là Trung Đạo.

          Nhất Tâm Tam Quán: Khi nói, ba thứ ấy được nói phân biệt. Nếu là kẻ b́nh phàm công phu nông cạn, chỉ có thể quán từng bước một theo thứ tự. Bước đầu tiên là phải thấy rơ ràng các giả pháp trong thế gian này. Tiếp đó, [quán tưởng theo] từng bước một. Người có công phu tốt đẹp (người có tŕnh độ cao) có thể quán viên dung [cả ba phép Quán] cùng một lúc. Đó gọi là Nhất Tâm Tam Quán. Kinh văn nêu ra ba danh hiệu, Như Lai biểu thị Trung Quán, tức Trung Đế, Ứng Cúng biểu thị Giả Quán, tức Tục Đế, Chánh Biến Tri biểu thị Không Quán, tức Chân Đế. Dùng ba danh hiệu ấy để làm ba đối tượng quán tưởng. Nói đến đối tượng là nói tới Đế, [Tam Quán] chính là Tam Đế. Người quán tưởng được gọi là Quán, đối tượng để quán gọi là Đế, cho nên gọi là Tam Đế. V́ thế, ba danh xưng ấy biểu thị ư nghĩa ấy. “Đế quán bỉ Phật”, chúng ta là người muốn tu Quán, quán A Di Đà Phật. Trong mười danh hiệu của A Di Đà Phật, nêu ra ba danh hiệu để làm đối tượng cho sự quán tưởng. Căn cứ trên ba danh hiệu ấy để quán thành tựu, ba phép Quán Không, Giả, Trung có thể quán hoàn thành, ư nghĩa ở chỗ này.

          Trong tiểu đoạn trên đây, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy người quán tưởng phải nhất tâm quán A Di Đà Phật, nguyên tắc là như vậy. Dưới đây, Ngài chánh thức giảng cách Quán, chia thành mấy phương diện để giảng, chúng tôi nói từng đoạn một.

          Tôi đọc một đoạn kinh văn ngắn.

 

          (Kinh) Tưởng bỉ Phật giả, tiên đương tưởng tượng, bế mục, khai mục, kiến nhất bảo tượng, như Diêm Phù Đàn kim sắc, tọa bỉ hoa thượng. Kiến tượng tọa dĩ, tâm nhăn đắc khai, liễu liễu phân minh, kiến Cực Lạc quốc thất bảo trang nghiêm. Bảo địa, bảo tŕ, bảo thụ hàng liệt. Chư thiên bảo mạn, di phú kỳ thượng. Chúng bảo la vơng, măn hư không trung. Kiến như thử sự, cực linh minh liễu, như quán chưởng trung.

        ()想彼佛者,先當想像。閉目開目,見一寶像,如閻浮檀金色,坐彼華上。見像坐已,心眼得開,了了分明。見極樂國七寶莊嚴寶地寶池,寶樹行列。諸天寶幔,彌覆其上,眾寶羅網,滿虛空中。見如此事,極令明了,如觀掌中。

(Kinh: Tưởng đức Phật ấy, trước hết nên tưởng h́nh tượng [của Ngài]. Nhắm mắt, mở mắt, thấy một tượng báu, như sắc vàng Diêm Phù Đàn, ngồi trên hoa ấy. Thấy tượng ngồi ấy rồi, tâm nhăn đă mở, rành rẽ, phân minh. Thấy nước Cực Lạc bảy báu trang nghiêm, đất báu, ao báu, cây báu xếp thành hàng. Màn báu của chư thiên che khắp trên đó. Các lưới mành báu, đầy ắp trong hư không. Thấy chuyện như vậy, sao cho tột cùng rành rẽ, như thấy ḷng bàn tay).

 

          Đoạn này nhằm dạy người quán tưởng hăy chuyên môn quán tượng A Di Đà Phật. “Tưởng bỉ Phật giả” (Tưởng đức Phật ấy), Thích Ca Mâu Ni Phật dạy kẻ tu Quán chúng ta, lúc quán tưởng A Di Đà Phật, “tiên đương tưởng tượng”, [nghĩa là] trước hết hăy tưởng một bức tượng của A Di Đà Phật. Chúng ta chưa hề thấy h́nh tượng [thật sự của] A Di Đà Phật, nhưng vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật (lúc giảng kinh này), phu nhân Vi Đề Hy và tôn giả A Nan đều đă thấy. A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát đều xuất hiện trong hư không, nhưng nay chúng ta chẳng thấy, chẳng có phước ấy! Chẳng thấy được! Nhưng chúng ta thường thấy tượng A Di Đà Phật thờ trong đạo tràng, chúng ta dùng phương pháp phương tiện ấy: Khi quán tưởng, hăy chiếu theo tượng A Di Đà Phật để tưởng tượng. Trong tâm chiếu theo tượng ấy để tưởng.

          Khi tưởng bèn nhắm mắt, nhắm mắt lại để tưởng, mở mắt, tức là mở banh mắt ra. Bất luận “bế mục, khai mục” (nhắm mắt, mở mắt), trong sự tưởng tượng của quư vị đều có thể “kiến nhất bảo tượng” (thấy một tượng báu). “Bảo” () là Phật Bảo, lại c̣n là tượng Phật trang nghiêm bằng bảy báu đang ở trong không trung. Tượng báu “như Diêm Phù Đàn kim sắc” (như sắc vàng Diêm Phù Đàn). Diêm Phù Đàn có màu đỏ, loại vàng tốt nhất là vàng có sắc đỏ. “Tọa bỉ hoa thượng”: Ngồi ở trên đài hoa sen.

          “Kiến tượng tọa dĩ” (Đă thấy tượng ngồi), thấy tượng Phật và ṭa hoa sen, “tâm nhăn đắc khai” (tâm nhăn được mở mang), nói tới “tâm nhăn đắc khai”, tuyệt diệu lắm! Mắt [trí huệ] của chúng ta chưa mở, nhục nhăn thế tục của chúng ta chướng ngại tầng tầng. Mở [tâm nhăn] như thế nào? Do người ấy chẳng có chướng ngại, cho nên tâm nhăn mở mang. Khi tâm nhăn đă mở, “liễu liễu phân minh” (rành rẽ, rơ ràng) nghĩa là bèn thấy hết sức rơ ràng, hết sức thấu triệt.

          “Kiến Cực Lạc quốc thất bảo trang nghiêm”: Ngoại trừ tượng Phật và hoa ṭa của Phật ra, liên đới trông thấy toàn thể thế giới Cực Lạc là một bầu thế giới trang nghiêm bằng bảy báu. “Bảo địa, bảo tŕ”: Hoàn cảnh trong thế giới Cực Lạc là đất báu lưu ly được trang hoàng bởi các thứ báu, ao sen bảy báu. “Bảo thụ hàng liệt”: Cây báu xếp thành từng hàng. “Chư thiên bảo mạn, di phú kỳ thượng”: Ngoài ra, có các màn báu cơi trời, “mạn” () là một loại màn để căng. Những thứ màn báu ấy “di phú kỳ thượng”, [nghĩa là] che phủ phía trên cây báu. Những ao báu và cây báu ấy dùng màn báu che phủ phía trên. “Chúng bảo la vơng, măn hư không trung”: Rất nhiều kỳ trân diệu bảo kết thành lưới mành, đầy ắp hư không.

Trong phần trên đă nói về y báo, sao ở đây lại nhắc tới? V́ người tu quán tưởng, đă thấy A Di Đà Phật rành rẽ, phân minh, sẽ liên đới thấy đất báu, ao báu, lưới mành, cây cối v.v… trong cơi Cực Lạc. Nhưng những điều nói ở đây lại chẳng giống như phần trước. Những điều đă thấy trong phần trước nhỏ hơn, những điều được thấy ở đây thuận theo cái tâm của người quán tưởng đă mở rộng, khi tâm nhăn vừa khai, cảnh giới của chính ḿnh lại được nâng cao hơn. Hễ cảnh giới được nâng cao hơn, sẽ thấy đất, cây báu v.v… lại càng cao lớn hơn trước.

          “Kiến như thử sự” (Thấy những sự như vậy), chữ “sự” () bao gồm đất báu, ao báu v.v… “cực linh minh liễu” (sao cho hết sức sáng tỏ), “cực” () có nghĩa là đạt tới tột bậc, đều thấy hết sức thấu triệt, thấu triệt đến mức độ nào? “Như quán chưởng trung” (Như xem trong ḷng bàn tay): Thấy các vật báu như đất báu, ao báu, cây báu bày hàng v.v…. trọn khắp hư không nhiều đến cỡ nào? Chúng ta muốn thấy, cũng chẳng thấy rơ ràng cho lắm, nhưng chỉ cần tâm nhăn vừa khai, cảnh giới sẽ được nâng cao, thấy những chuyện ấy như trông thấy bàn tay của chính ḿnh. Duỗi bàn tay của chính chúng ta ra xem, bàn tay quá nhỏ bé! Do vậy, điều này hiển thị: Hễ quán tưởng thành công, tâm lượng của chúng ta to cỡ nào? Thường nói là “tâm bao thái hư”, [nghĩa là] tâm lượng của chúng ta có thể bao trùm vũ trụ. Vũ trụ so sánh với thế giới Cực Lạc lại nhỏ bé đến nỗi chẳng đáng nói tới! Người ấy thấy những chuyện trong thế giới Cực Lạc như nh́n vào bàn tay của chính ḿnh. [Điều này] hiển thị tâm lượng của chúng ta to cỡ nào? Ắt phải vận dụng công phu đến mức độ ấy, tự nhiên sẽ phát hiện.

          Từ đầu tới cuối, chúng ta phải ghi nhớ một nguyên tắc, chính là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, đạo lư “vạn pháp duy tâm”. Bản thân chúng ta chẳng có công đức ấy, bản thân chẳng có năng lực ấy, làm sao chúng ta có thể quán ra được? Bản thân của chúng ta vốn là như thế đó, có tâm lượng to ngần ấy. Nhờ vào quán tưởng để nhập Định, mở mang tâm nhăn, cho nên có công đức to lớn dường ấy hiển lộ. Người chẳng liễu giải phương pháp này, suốt ngày từ sáng đến tối cứ ngỡ tâm lượng nhỏ hẹp trong thế gian này là tuyệt diệu lắm! Loài người chúng ta thấy những con kiến ở dưới đất đáng thương quá! Bé tí như vậy đó! Sau khi văng sanh thế giới Cực Lạc, quay đầu nh́n lại thế giới Sa Bà, sẽ phát giác chúng ta c̣n chẳng bằng con kiến nữa kia! Quá nhỏ bé! Sau khi nghĩ như thế, chúng ta nghiên cứu bộ kinh này, tu đạo này, tức là học pháp môn Niệm Phật, bất luận như thế nào, chúng ta được làm thân người, và cũng đă được nghe Phật pháp, ngàn vạn phần chớ nên bỏ lỡ! Trong thế gian, bất luận là thuận cảnh cũng thế, mà nghịch cảnh cũng thế, đều chẳng thể ảnh hưởng sự tu đạo của chúng ta, ắt là phải tu như vậy!

          Đoạn trên đây là quán tượng Phật. Đoạn tiếp theo sẽ là quán Bồ Tát. Kinh văn [như sau]:

 

          (Kinh) Kiến thử sự dĩ, phục đương cánh tác nhất đại liên hoa, tại Phật tả biên, như tiền liên hoa, đẳng vô hữu dị. Phục tác nhất đại liên hoa, tại Phật hữu biên. Tưởng nhất Quán Thế Âm Bồ Tát tượng, tọa tả hoa ṭa, diệc tác kim sắc, như tiền vô dị. Tưởng nhất Đại Thế Chí Bồ Tát tượng, tọa hữu hoa ṭa.

()見此事已,復當更作一大蓮華,在佛左邊,如前蓮華,等無有異。復作一大蓮華,在佛右邊。想一觀世音菩薩像,坐左華座,亦作金色,如前無異。想一大勢至菩薩像,坐右華座。

(Kinh: Đă thấy những sự ấy, lại nên tưởng một hoa sen to ở bên trái đức Phật giống như hoa sen trên đây, chẳng khác biệt. Lại tưởng một hoa sen to ở bên phải đức Phật. Tưởng một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên hoa ṭa bên trái, cũng là kim sắc giống như trước không khác. Tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi trên hoa ṭa bên phải).

 

          “Kiến thử sự dĩ” nghĩa là đă thấy tượng A Di Đà Phật và các chuyện trong thế giới Cực Lạc. Sau khi đă thấy, “phục đương cánh tác nhất đại liên hoa, tại Phật tả biên, như tiền liên hoa”: Lại tưởng có một đóa hoa sen to khác nữa ở bên trái đức Phật, giống hệt như ṭa hoa sen của đức Phật đă nói trong phần trước. “Đẳng vô hữu dị” nghĩa là hoàn toàn giống như ṭa hoa sen đức Phật ngự, chẳng có chút nào khác biệt! “Phục tác nhất đại liên hoa, tại Phật hữu biên”: Ngoài ra, lại tưởng một đóa hoa sen to ở bên phải đức Phật. Hai đóa hoa sen to ấy, một ở bên trái đức Phật, một ở bên phải đức Phật.

          Ngự trên hoa sen là ai? “Tưởng nhất Quán Thế Âm Bồ Tát tượng”: Quán tưởng một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. “Tọa tả hoa ṭa, diệc tác kim sắc”: Ngồi trên ṭa hoa sen bên trái, trên thân cũng tỏa ra kim sắc, giống như tượng A Di Đà Phật đă nói trong phần trước, tức là sắc vàng Diêm Phù Đàn, “như tiền vô dị” nghĩa là giống hệt như Phật, chẳng có phân biệt! “Tưởng nhất Đại Thế Chí Bồ Tát tượng, tọa hữu hoa ṭa”: Ngoài ra, c̣n có một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát giống như tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài ngồi trên hoa ṭa bên phải. Đây là quán tưởng hai vị Bồ Tát, mỗi vị ở một bên đức Phật, ngồi trên ṭa hoa sen.

          Hai đoạn này, một đoạn là [quán tưởng] tượng Phật, đoạn kia là [quán tưởng] tượng hai vị Bồ Tát, cũng tức là tượng Tây Phương Tam Thánh. Đă quán thành công, đều đă trông thấy.

 

          (Kinh) Thử tưởng thành thời, Phật, Bồ Tát tượng, giai phóng quang minh. Kỳ quang kim sắc, chiếu chư bảo thụ. Nhất nhất thụ hạ, diệc hữu tam liên hoa. Chư liên hoa thượng, các hữu nhất Phật nhị Bồ Tát tượng, biến măn bỉ quốc.

          ()此想成時,佛菩薩像,皆放光明。其光金色,照諸寶樹。一一樹下,亦有三蓮華。諸蓮華上,各有一佛二菩薩像,遍滿彼國。

(Kinh: Khi tưởng này đă thành, tượng Phật và Bồ Tát đều tỏa quang minh. Quang minh ấy sắc vàng chiếu các cây báu. Dưới mỗi gốc cây, cũng có ba đóa hoa sen. Trên các hoa sen, đều có tượng một đức Phật và hai vị Bồ Tát, trọn khắp cơi ấy).

 

          Tượng Phật và Bồ Tát được nói trong đoạn này chẳng phải là tượng chúng ta thường thấy trong chùa miếu. Tượng Phật và tượng Bồ Tát ở đây đều phóng đại quang minh.

          “Thử tưởng thành thời”: Khi quán tưởng tượng Tây Phương Tam Thánh đă thành tựu, “Phật, Bồ Tát tượng, giai phóng quang minh”: Tượng Phật và tượng Bồ Tát thảy đều phóng quang minh, phóng quang minh ǵ vậy? Đương nhiên là chẳng như ánh mặt trời trong thế gian này chỉ có một loại quang minh. “Kỳ quang kim sắc”: Quang minh ấy có màu của vàng Diêm Phù Đàn, tức là màu sắc của loại vàng tốt nhất. Loại quang minh kim sắc ấy “chiếu chư bảo thụ”, chiếu sáng rực các cây báu trong thế giới Cực Lạc. Mà “nhất nhất thụ hạ”, [tức là] dưới mỗi cội cây, “diệc hữu tam liên hoa”, đều có ba ṭa hoa sen. “Chư liên hoa thượng”, trên mỗi ṭa hoa sen, “các hữu nhất Phật nhị Bồ Tát tượng” (đều có tượng của một vị Phật và hai vị Bồ Tát), điều này khiến cho chúng ta liễu giải: Hai đoạn trên đây là nói về cùng một chuyện, phép quán tưởng đơn nhất đă thành tựu. Trong thế giới Cực Lạc, có bao nhiêu tượng Tam Thánh giống như vậy? Dưới mỗi cội cây, trên ṭa hoa sen đều có tượng một đức Phật, hai vị Bồ Tát “biến măn bỉ quốc” (đầy ắp cơi ấy), rất tuyệt vời! Trọn khắp toàn thể thế giới Cực Lạc.

          V́ sao chúng ta vừa đến thế giới Cực Lạc bèn thành Phật nhanh chóng ngần ấy? Trong thế giới này, sau khi chúng ta đă đoạn Kiến Hoặc, chỉ cần phải đoạn Tư Hoặc, thoát khỏi lục đạo luân hồi, [thế mà] vẫn phải trải qua bảy lần sanh tử, khó khăn quá! Huống hồ thành Phật ư? Thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Hễ đến thế giới Cực Lạc, sẽ giống như thoát khỏi lục đạo, đó là một loại công đức cơ bản nhất. Sau khi đă thoát khỏi lục đạo, mục tiêu lớn nhất là thành Phật. Thành Phật chẳng cần lâu xa như vậy, có thể thành Phật ngay trong một đời! V́ sao có thể thành Phật ngay trong một đời? Quư vị thấy đó, v́ trọn khắp cơi ấy đều là tượng Tam Thánh, [chúng sanh trong cơi ấy] chẳng có lúc nào, chẳng có nơi nào không ở cùng một chỗ với tượng Tây Phương Tam Thánh, rất tự nhiên, chúng ta sẽ tu thành cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Hằng ngày chúng ta học theo công đức của Phật, công đức của Bồ Tát, thời thời khắc khắc ở cùng một chỗ với Phật, Bồ Tát. Do vậy, mới nhanh chóng ngần ấy.

          C̣n phải liễu giải một điều trong đoạn này, đoạn này nói đến chuyện phóng quang minh. V́ sao phóng quang minh là trọng yếu? Phóng quang, chúng ta trông thấy quang minh của Phật, Bồ Tát, sẽ có thể liễu giải các giả tướng trong thế giới này. Chẳng hạn như nói: Đối với thế giới Sa Bà này, lấy ngay quả địa cầu này để nói, ban ngày có ánh sáng, ban đêm chẳng có ánh sáng. Ban ngày và ban đêm hợp thành một ngày gồm hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ba mươi ngày hợp thành một tháng, mười hai tháng hợp thành một năm. Một người sống đến một trăm tuổi (tức là một trăm năm), một trăm năm ấy tính toán theo từng ngày. Đối với cách tính từng ngày một ấy, quư vị nghĩ xem: Theo khoa học hiện thời, mọi người đều biết địa cầu chuyển động. Nếu nó quay chậm hơn một chút, thời gian sẽ bị kéo dài. Quay nhanh hơn một chút, thời gian sẽ bị rút ngắn. Trên địa cầu hiện thời, tốc độ [xoay chuyển] là như thế. Ngoài địa cầu, trong không gian, trong Thái Dương Hệ c̣n có khá nhiều tinh cầu khác, như Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh v.v… Trong những tinh cầu ấy, tốc độ xoay chuyển chẳng giống [địa cầu của chúng ta], có thể thấy: Chúng ta tính toán tuổi thọ, năm, tháng [trên địa cầu], những thứ ấy đều là giả tướng, nhờ vào ánh sáng mặt trời mà hiển hiện. Chúng ta chẳng biết chân diện mục ở chỗ nào? Chân diện mục chẳng có tối tăm, toàn là quang minh, bản tánh của chúng sanh luôn có quang minh. Đă là quang minh, sẽ chẳng có ban đêm, chẳng có tối tăm. Hỏi quư vị tuổi tác đă cao, “thọ” ở chỗ nào? Chẳng nói được! Thọ đă là chẳng nói được, vậy th́ sanh tử cũng chẳng có cách nào tính toán, chẳng có sanh tử! Quư vị hăy ngẫm xem, trong thế giới Cực Lạc, đức Phật phóng quang minh, Bồ Tát tỏa quang minh. Trong phần trước có nói cây cối cũng tỏa ánh sáng. Hễ chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc, mỗi cá nhân đều phóng quang minh. Quang minh ấy do đâu mà có? Từ trong bản tánh mà ra, đều là quang minh vốn sẵn có. Đă thấy bản tánh, vậy th́ c̣n có sanh tử giống như trong thế gian của chúng ta hay không? Chỉ có ngày càng nâng cao cảnh giới, khiến cho tâm tánh được hoàn toàn tỏ lộ triệt để, sẽ thành Phật. Do vậy, phóng quang minh có ư nghĩa này.

          Tiếp theo đây, [kinh văn sẽ] nói tới chuyện thuyết pháp, nghe pháp. Kinh văn [như sau]:

 

          (Kinh) Thử tưởng thành thời, hành giả đương văn thủy lưu quang minh, cập chư bảo thụ, phù, nhạn, uyên ương, giai thuyết diệu pháp. Xuất Định, nhập Định, hằng văn diệu pháp. Hành giả sở văn, xuất Định chi thời, ức tŕ bất xả, linh dữ Tu-đa-la hợp. Nhược bất hợp giả, danh vi vọng tưởng. Nhược dữ hợp giả, danh vi thô tưởng kiến Cực Lạc thế giới. Thị vi Tượng Tưởng, danh đệ bát Quán.

()此想成時,行者當聞水流光明,及諸寶樹,鳧鴈鴛鴦,皆說妙法。出定入定,恆聞妙法。行者所聞,出定之時,憶持不捨,令與修多羅合。若不合者,名為妄想。若與合者,名為麤想見極樂世界。是為像想,名第八觀。

(Kinh: Khi tưởng này đă thành, hành giả sẽ nghe nước chảy, quang minh, và các cây báu, le, nhạn, uyên ương đều nói diệu pháp. Xuất Định, nhập Định, thường nghe pháp mầu. Đối với những ǵ hành giả đă nghe, khi xuất Định, nhớ giữ chẳng bỏ, phải phù hợp với Tu-đa-la. Nếu chẳng phù hợp, sẽ gọi là vọng tưởng. Nếu như phù hợp, sẽ gọi là “thấy thế giới Cực Lạc về phần thô”. Đấy gọi là quán tưởng tượng Phật, gọi là phép Quán thứ tám).

 

          Trong đoạn cuối cùng này, đức Phật dạy: Người quán tưởng không chỉ thấy tượng Phật, tượng Bồ Tát và quang minh, lại c̣n nghe Phật pháp. “Thử tưởng thành thời” nghĩa là khi quán tưởng tượng Tây Phương Tam Thánh đă thành công, cũng đă quán thành công tượng Phật, Bồ Tát thảy đều phóng quang minh. Khi ấy, “hành giả” tức người tu quán tưởng, “đương văn” nghĩa là ngay khi ấy, hành giả ngay lập tức có thể nghe “thủy lưu quang minh” tức là các ḍng nước trong ao bảy báu tỏa ra quang minh. “Cập chư bảo thụ”, [nghĩa là] cùng với các loại cây báu, “phù nhạn uyên ương”: “Phù” (, le le) là một loài thủy điểu sống ở ven nước, người ở nội địa (Trung Hoa Đại Lục) gọi nó là “thủy áp tử” (水鴨子, vịt nước). “Nhạn” () chính là chim nhạn bay trên trời. “Uyên ương” (鴛鴦) cũng là một loại chim nổi trên mặt nước. Kẻ b́nh phàm trông thấy những loại chim ấy, trong tâm cũng rất vui thích, ưa chuộng, tán thưởng. Trong thế giới Cực Lạc, những loài chim ấy rất nhiều. Không chỉ là rất nhiều, mà le le cũng thế, nhạn cũng thế, uyên ương cũng thế, “giai thuyết diệu pháp” (đều nói diệu pháp). Le, nhạn, uyên ương là hữu t́nh, c̣n có ḍng nước, quang minh hiện ra, cho đến các hàng cây báu là vô t́nh, đều đang nói diệu pháp.

          Diễn nói diệu pháp, trong kinh A Di Đà có nhắc đến ba mươi bảy trợ đạo phẩm. Tùy thuộc cảnh giới [của người nghe] đă học đến mức độ nào, mà diệu pháp có thể nói đến mức độ ấy. Tông Thiên Thai nói Tạng, Thông, Biệt, Viên, tŕnh độ khác nhau! Ở đây, tuy chẳng nói chi tiết như vậy, nhưng nội dung cũng giống y hệt. Nói theo toàn thể, sẽ là dạy chúng ta giác ngộ. Sau khi tất cả các pháp đều giác ngộ (đều hiểu rơ), bèn chiếu theo cái hạnh chân thật để tu tŕ, bèn có thể thành Phật. Đó là diệu pháp.

          Khi nghe diệu pháp, “xuất Định, nhập Định, hằng văn diệu pháp” (xuất Định, nhập Định, luôn nghe diệu pháp), khi quán tưởng, chẳng phải là trong tâm tán loạn mà có thể quán tưởng thành công. Nhất định là quán tưởng nhập tam-muội, nhập Định th́ mới có thể thấy được. Ở trong Định, quán tưởng những chuyện ấy đều thành công, cũng nghe những diệu pháp ấy. Khi nhập Định, cố nhiên là nghe thấy. Sau khi xuất Định, vẫn nghe thấy, cho nên “xuất Định, nhập Định, hằng văn diệu pháp”, một mực luôn nghe diệu pháp. V́ thế, chúng ta nói “tŕ danh niệm Phật đắc nhất tâm bất loạn”. Có đạt được nhất tâm bất loạn hay không, chính ḿnh hăy nên tự biết! [Muốn khẳng định một] người thật sự đắc nhất tâm bất loạn, thật sự đoạn Hoặc, chúng ta chẳng thể nói được, ai trong chúng ta cũng đều chưa đoạn Hoặc, chỉ có thể nói là “tương tự nhất tâm bất loạn”, [v́] đă chế phục Hoặc.

          Chúng ta tŕ danh niệm Phật có thể chế phục Hoặc, Phật hiệu bèn ở ngay trong đó. Khi quư vị niệm Phật, cố nhiên là niệm Phật. Lúc chẳng niệm Phật, tai cũng nghe thấy có âm thanh Phật hiệu trong đó. Chỉ cần có lúc rảnh rỗi, Phật hiệu liền từ trong tâm dấy lên. Đó gọi là “hằng văn diệu pháp” (luôn nghe diệu pháp). Khi quư vị đắc nhất tâm bất loạn, tịnh niệm tiếp nối, niệm Phật hiệu sẽ là một mực liên tục. Điều này có thể khiến cho chúng ta liễu giải công phu tŕ danh niệm Phật của chính ḿnh.

          Hiện thời, lúc chúng ta tŕ danh niệm Phật, thông thường là công khóa sáng tối, khi niệm, vẫn cảm thấy [chính ḿnh] niệm rất rơ ràng. Hễ khi nào có phiền năo, hoặc chuyện vui thích đưa đến, liền quên bẵng Phật hiệu. Nhất là khi phiền năo dấy lên, cũng biết dùng Phật hiệu để giằn ép, nhưng chẳng thể giằn ép được! Phiền năo vẫn có sức mạnh to ngần ấy! V́ sao chẳng thể giằn ép được? Chính là do trong tâm chúng ta vẫn chẳng thấy thấu suốt chuyện hư giả trong thế gian. Đối với Tam Đế Tam Quán như đă nói trong phần trước, thô thiển nhất là Không Quán, chúng ta vẫn chẳng thể nhập môn được! Không Quán là thấy hết thảy chuyện trong thế gian là Không. Tôi vừa mới nói đến ngày đêm, thọ mạng của con người dài hay ngắn, những thứ ấy đều là giả. Thấy rơ ràng những điều ấy, những chuyện “ta, ngươi”, những ư kiến trong thế gian do đâu mà có? Thảy đều là do tâm lư phàm phu, coi ư kiến của chính ḿnh là đúng, nghĩ người khác trật lất. Mọi người đều nghĩ theo kiểu đó, vậy th́ thiên hạ c̣n có thể thái b́nh hay chăng? Do vậy, nhất định là phải thấy rơ ràng. Sau khi đă hiểu rơ đạo lư này, chớ nên chấp trước. Đă thấy thấu suốt th́ khi đó, quư vị niệm Phật hiệu mới có thể giằn ép [phiền năo] được! Nếu chẳng thấy rơ điều này, Phật hiệu cũng chẳng thể giằn ép [phiền năo] được! Phải liễu giải đạo lư này, phải dần dần chuyển biến tâm lư. Đă biết hết thảy mọi chuyện trong thế gian đều là giả, chúng ta cần ǵ phải có kiến giải giống như những kẻ b́nh phàm? Khi ấy, phiền năo sẽ giảm thiểu. Đôi khi, nó dấy lên, vừa dấy lên Phật hiệu bèn khống chế được nó. Chúng ta dụng công, phải thường xuyên nhắc nhở chính ḿnh như vậy.

          “Hành giả sở văn” nghĩa là người quán tưởng (trong khi nhập Định), nghe những diệu pháp ấy, “xuất Định chi thời” là sau khi xuất Định, “ức tŕ bất xả” [nghĩa là], vẫn ghi nhớ, một mực chấp tŕ, chớ nên buông bỏ. “Linh dữ Tu Đa La hợp” (Sao cho phù hợp Tu Đa La), Tu Đa La (Sūtra) là kinh. Trong Định, quư vị nghe diệu pháp, phải đối chiếu với kinh điển, có phù hợp với kinh văn hay không? Những ǵ quư vị thấy hoặc nghe trong Định, phải phù hợp với những điều đă dạy trong kinh văn. “Nhược bất hợp giả, danh vi vọng tưởng”: Chẳng phù hợp với những ǵ kinh đă dạy, đó chính là vọng tưởng. Phải đặc biệt chú ư điều này! Nhất là hiện thời chính là thời đại Mạt Pháp, có rất nhiều kẻ nói: “Ta nhập Định, thấy rất nhiều tướng”. Tôi gặp những kẻ ấy, bèn bảo họ: “Trước nay, tôi chưa hề thấy tướng nào hết”. Kẻ đó thấy tướng, tôi bảo kẻ đó: “Quư vị phải đối chiếu với kinh điển, xem có phù hợp kinh văn hay không!” Phù hợp th́ là hiện tượng tốt, chẳng phù hợp th́ là vọng tưởng! Chẳng phải là hảo tướng! “Nhược dữ hợp giả” nghĩa là nếu hoàn toàn phù hợp những ǵ kinh văn đă dạy, “danh vi thô tưởng kiến Cực Lạc thế giới” [nghĩa là] quán tưởng thô thiển, trông thấy thế giới Cực Lạc, vẫn là quán tưởng thấy t́nh h́nh đại lược (càng nói về sau, càng vi tế). “Thị vi Tượng Tưởng, danh đệ bát Quán”, phép Quán tưởng tượng Phật, Bồ Tát này được gọi là Tượng Tưởng, chính là phép Quán thứ tám.

          Trong lần giảng trước, từ “Phật cáo A Nan” (đức Phật bảo A Nan) cho đến “chư Phật Chánh Biến Tri hải tùng tâm tưởng sanh” (biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng) chính là đoạn lớn thứ nhất. Đoạn lớn thứ nhất giảng về nguyên lư. Hôm nay, tôi nói tới đoạn lớn thứ hai, chủ yếu là nói về phương pháp quán tưởng. Phần phương pháp [quán tưởng] có tất cả bốn tiểu đoạn. Sau đây, hăy c̣n có một đoạn lớn thứ ba. Tôi đọc trước kinh văn một lượt.

 

          (Kinh) Tác thị quán giả, trừ vô lượng ức kiếp sanh tử chi tội, ư hiện thân trung, đắc Niệm Phật tam-muội.

          ()作是觀者,除無量億劫生死之罪,於現身中,得念佛三昧。

(Kinh: Người tác quán như vậy, sẽ trừ tội trong vô lượng ức kiếp sanh tử, nơi thân hiện tại, đắc Niệm Phật tam-muội).

 

          Đoạn này nói về lợi ích sẽ đạt được do tu quán tưởng. “Tác thị Quán giả” nghĩa là hễ tu phép quán tưởng tượng Phật này, quán thành tựu, sẽ “trừ vô lượng ức kiếp sanh tử chi tội”. Nói tới “sanh tử chi tội” th́ bất cứ chúng sanh nào, trong một đời này, chúng ta tạo nghiệp đă quá ư là nhiều. Xét theo sự biểu hiện thật sự, mỗi một chuyện cố nhiên là một phen sanh tử. Nói đến chỗ vi tế, hễ hiểu Duy Thức Học, quư vị sẽ biết: Mỗi lần dấy lên một ư niệm chính là một phen sanh tử. Vậy th́ trong một đời, chúng ta có bao nhiêu niệm? Phàm là ư niệm “tổn người, lợi ḿnh”, sẽ đều dẫn chúng ta đọa lạc trong sanh tử. Ư niệm dấy lên, sẽ bị đọa lạc, huống hồ c̣n biểu hiện thành sự thật? Hễ dấy lên ư niệm “giết, trộm, dâm, dối”, sẽ đều là tội ác. Trong tâm khởi lên sát tâm, c̣n chưa trở thành sự thật, đă đọa lạc trong sanh tử, huống hồ là những kẻ thật sự phạm tội giết người trong xă hội? Hăy ngẫm xem: Tội ấy lớn dường nào? Tội sanh tử như vậy trong một đời này đă là khôn xiết kể, huống hồ c̣n có vô lượng ức kiếp, tính toán số kiếp số lại càng khôn xiết! Đối với tội sanh tử trong vô lượng kiếp tới nay, nếu tu thành tựu phép Quán Phật tượng, sẽ có thể đều diệt trừ hết sạch. Sau đấy “ư hiện thân trung, đắc Niệm Phật tam-muội” (nơi thân hiện tại, đắc Niệm Phật tam-muội). Kinh A Di Đà gọi Niệm Phật tam-muội là “nhất tâm bất loạn”. Nhất tâm bất loạn có Sự nhất tâm và Lư nhất tâm, đoạn Hoặc là đă chứng quả. Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này bèn ngưng.

 

Tập 30

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười lăm, xem từ ḍng thứ hai đếm ngược lên. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

(Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Thử tưởng thành dĩ, thứ đương cánh quán Vô Lượng Thọ Phật thân tướng quang minh. A Nan đương tri! Vô Lượng Thọ Phật, thân như bách thiên vạn ức Dạ Ma Thiên Diêm Phù Đàn kim sắc. Phật thân cao lục thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. My gian bạch hào, hữu toàn uyển chuyển, như ngũ Tu Di sơn. Phật nhăn như tứ đại hải thủy, thanh bạch phân minh.

()佛告阿難,及韋提希:此想成已,次當更觀無量壽佛身相光明。阿難當知!無量壽佛,身如百千萬億夜摩天閻浮檀金色。佛身高六十萬億那由他恆河沙由旬。眉間白毫,右旋宛轉,如五須彌山。佛眼如四大海水,青白分明。

(Kinh: Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Tưởng này đă thành, kế đó, hăy nên quán thân tướng và quang minh của Vô Lượng Thọ Phật. A Nan hăy nên biết: Vô Lượng Thọ Phật có thân màu như vàng Diêm Phù Đàn trong trăm ngàn vạn ức cơi trời Dạ Ma. Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Tướng bạch hào giữa hai mày uyển chuyển xoay theo chiều phải như năm quả núi Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển cả, xanh trắng phân minh”).

 

IV.2.2.10. Phép Quán thứ chín, Phật Thân Quán

 

          Phép Quán nay chúng ta đang đọc chính là phép Quán thứ chín. Phép Quán thứ chín chánh thức dạy chúng ta quán thân tướng và quang minh của A Di Đà Phật. Trước phép Quán này, [đức Phật] dạy quán hoa ṭa, khởi sự quán chánh báo, chỉ là nói khái lược. Phép Quán nói hôm nay chính là chánh thức quán Phật. Thông thường, chúng ta niệm công khóa, niệm kệ Tán Phật, trong ấy có mấy câu kệ là do dựa vào phép Quán này mà soạn ra.

          Trong hai câu kinh văn đầu tiên, “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. “Thử tưởng thành dĩ”, [nghĩa là] phép Quán thứ tám trước đó đă thành tựu. Khởi đầu phép Quán thứ chín, nói hai câu trên đây xong, bèn nói tới phần kinh văn kế tiếp. Phần kinh văn kế tiếp là “thứ đương cánh quán Vô Lượng Thọ Phật thân tướng quang minh”, “thứ” () là kế tiếp. Tiến thêm bước nữa là quán thân tướng và quang minh của A Di Đà Phật. Câu này nói khái lược, mỗi đoạn kế tiếp là nói tách ra [từng chi tiết một]: Thân tướng, quang minh của Phật, nói cặn kẽ từng điều một. Trước hết là quán thân tướng của Phật.

          Đoạn kinh văn “A Nan đương tri! Vô Lượng Thọ Phật, thân như bách thiên vạn ức Dạ Ma Thiên Diêm Phù Đàn kim sắc. Phật thân cao lục thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. My gian bạch hào, hữu toàn uyển chuyển, như ngũ Tu Di sơn. Phật nhăn như tứ đại hải thủy, thanh bạch phân minh” (A Nan hăy nên biết, Vô Lượng Thọ Phật có màu như vàng Diêm Phù Đàn trong trăm ngàn vạn ức cơi trời Dạ Ma. Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Tướng bạch hào giữa hai mày uyển chuyển xoay theo chiều phải, như năm quả núi Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển cả, xanh trắng phân minh) được chia thành hai tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói về thân sắc (màu sắc nơi thân) của Phật, tiểu đoạn thứ hai nói về thân lượng (vóc dáng, chiều cao thân thể) của Phật.

          Trước hết, hăy xem tiểu đoạn thứ nhất. Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “A Nan đương tri”, [nghĩa là] ông hăy nên biết, “Vô Lượng Thọ Phật” là A Di Đà Phật. Thân tướng của Ngài có màu sắc như thế nào? “Thân như bách thiên vạn ức”, “thân như” là thân giống như, “trăm ngàn vạn ức”: Con số này rất lớn, rất khó nói trọn. Trăm ngàn vạn ức “Dạ Ma Thiên”, chúng ta biết trong tam giới có Dục Giới Thiên. Dục Giới Thiên có sáu tầng. Trong Lục Dục Thiên, Dạ Ma Thiên là tầng thứ ba, [Dạ Ma] dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thời Phân (時分), [hàm nghĩa] “biết là lúc nào”, c̣n dịch là Thiện Phân (善分), [nghĩa là] khéo biết thời gian, chiếu theo thời gian. V́ [chư thiên] trong Dục Giới Thiên hưởng thụ ngũ dục, nhưng trong tầng trời này, [chư thiên] biết lúc nào th́ mới hưởng thụ ngũ dục; cho nên gọi là Dạ Ma Thiên. Nói tới Dạ Ma Thiên để làm ǵ? Chính là [muốn nói tới] “Diêm Phù Đàn kim sắc” trong Dạ Ma Thiên. Trong nhân gian cũng có màu vàng Diêm Phù Đàn, màu của các loại vàng thông thường chẳng thể sánh bằng màu của loại vàng thượng đẳng trong sông Diêm Phù Đàn. Màu của chất vàng ấy là tối thượng đẳng. Đó là nói về màu của chất vàng Diêm Phù Đàn trong nhân gian. Sắc vàng Diêm Phù Đàn của nhân gian là thượng đẳng khi so với màu sắc của những loại vàng thông thường, nhưng nó chẳng thể sánh bằng sắc vàng Diêm Phù Đàn trong Dạ Ma Thiên. Sắc vàng Diêm Phù Đàn trong tầng trời thứ ba của Dục Giới (Dạ Ma Thiên) so với vàng Diêm Phù Đàn trong nhân gian lại không biết tốt đẹp hơn bao nhiêu lần! Lại dùng sắc vàng Diêm Phù Đàn của Dạ Ma Thiên để sánh ví kim sắc nơi thân A Di Đà Phật. V́ vậy, chúng ta thấy tượng Phật trong đạo tràng, thấy tượng A Di Đà Phật là kim sắc, nhưng chỉ là màu của chất vàng thông thường mà thôi! Để tưởng tượng kim sắc thật sự của A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ có cách lấy màu của chất vàng trong Dạ Ma Thiên của Dục Giới để tỷ dụ. Chúng ta chưa từng trông thấy, chỉ biết là nó tốt đẹp hơn kim sắc trong nhân gian chẳng biết bao nhiêu vạn lần! Đấy là một tiểu đoạn nói về thân sắc của Phật.

          Tiểu đoạn thứ hai nói thân lượng của Phật to lớn cỡ nào. “Phật thân cao lục thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần” (Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần). Thân chúng sanh phàm phu chỉ cao mấy thước, mọi người đều biết [điều này]. Phật cao bao nhiêu? “Lục thập vạn ức na-do-tha”, “na-do-tha” (Nayuta) dịch sang tiếng Hán là Ức. Đây là một danh từ trong tiếng Ấn Độ. Vào thuở đó, đối với chữ Ức trong câu “bách thiên vạn ức” có ba cách giải thích: Nhỏ nhất, mười vạn là một Ức; cũng có cách giải thích khác, coi một trăm vạn là một Ức. Nhiều nhất, một ngàn vạn là một Ức. Bất luận xét theo loại nào, nói theo cách hiểu nhỏ nhất, tức mười vạn là một Ức, quư vị tính thử độ cao sáu mươi vạn ức na-do-tha (ức), mọi người có thể tính toán thử xem! Lại c̣n kèm thêm “do-tuần”, trong phần trước đă nói về do-tuần: Chiếu theo hành tŕnh của một người để nói, hành tŕnh mỗi ngày là bao nhiêu dặm đường, dùng điều đó để tính toán độ cao. Tính như vậy th́ đơn giản là chẳng có cách nào tính toán độ cao nơi thân Phật. Huống chi trong kinh văn có con số tỷ dụ “Hằng hà sa” (cát sông Hằng). Nếu tính gộp cả “Hằng hà sa”, đơn giản là chẳng thể nào tính được, chẳng biết là bao nhiêu! Theo như Trí Giả đại sư chú giải, Ngài cho rằng: Ba chữ “Hằng hà sa” có thể là sai sót khi phiên dịch, chớ nên thêm vào. Nếu thêm vào ba chữ “Hằng hà sa”, đơn giản là chẳng có cách nào tính toán được! Nhưng chúng ta biết th́ biết vậy, vẫn dựa theo kinh văn để nói như thế. Nói chung, thân Phật cao lớn, dẫu là kẻ giỏi toán cách mấy, cũng chẳng có cách nào tính toán. Đấy là nói thân Phật cao lớn đến mức độ nào!

          Tiếp đó là nói về “my gian bạch hào”. Hăy xem tượng Phật trong đạo tràng: Giữa hai chân mày có một điểm trắng, gọi là “bạch hào” (白毫). Sợi bạch hào ấy dài, cuộn tṛn lại. “Hữu toàn uyển chuyển” nghĩa là cuộn tṛn theo chiều bên phải (cuộn theo chiều kim đồng hồ), cuộn lại bèn lớn cỡ nào? “Như ngũ Tu Di sơn”: Lớn bằng năm quả núi Tu Di. Đây là nói tới tướng bạch hào trong ba mươi hai tướng của đức Phật. “Phật nhăn như tứ đại hải thủy” (Mắt Phật như nước bốn biển lớn), đây cũng là tỷ dụ. Chúng ta thấy một đại dương đă to khôn cùng, nh́n chẳng thấy bờ mé. Nước trong bốn biển gộp lại, quư vị thấy mắt Phật to cỡ nào! Mắt Phật “thanh bạch phân minh”. Mắt người Hoa là đen trắng phân minh, chẳng giống các nước khác. Nhưng tṛng mắt Phật là “cám thanh sắc” (紺青色, sắc xanh có ánh hồng), lại có thêm “bạch sắc”. Bài kệ Tán Phật có câu “bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải” chính là phát xuất từ tiểu đoạn thứ hai trong kinh văn của kinh này. Thân Phật cao lớn, bạch hào giữa hai mày và mắt to dường ấy. Toàn bộ đoạn này đều nhằm trần thuật sự to lớn nơi thân Phật. Khi chúng ta quán tưởng, ắt cần phải quán tâm Phật to lớn dường ấy!

          Đoạn tiếp theo chính là quán tưởng quang minh phát ra (phóng ra) từ thân Phật.

 

          (Kinh) Thân chư mao khổng, diễn xuất quang minh, như Tu Di sơn. Bỉ Phật viên quang, như bách ức tam thiên đại thiên thế giới. Ư viên quang trung, hữu bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật. Nhất nhất Hóa Phật, diệc hữu chúng đa vô số Hóa Bồ Tát, dĩ vi thị giả.

()身諸毛孔,演出光明,如須彌山。彼佛圓光,如百億三千大千世界。於圓光中,有百萬億那由他恆河沙化佛。一一化佛,亦有眾多無數化菩薩,以為侍者。

(Kinh: Các lỗ chân lông trên thân diễn xuất quang minh như núi Tu Di. Viên quang của đức Phật ấy như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Ở trong viên quang, có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có đông đảo vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả).

 

          “Thân chư mao khổng, diễn xuất quang minh”: Nơi các lỗ chân lông khắp thân A Di Đà Phật, từ mỗi lỗ chân lông đều tỏa ra quang minh. Quang minh nơi mỗi lỗ chân lông “như Tu Di sơn”, to ngần ấy! “Bỉ Phật viên quang” (Viên quang của đức Phật ấy), “viên quang” (圓光) là nói tới điều ǵ? Ví như chúng ta xem h́nh vẽ đức Phật, thường thấy phía sau đầu tượng Phật luôn có một vầng sáng tṛn xoe. Quang minh ấy từ đâu tỏa ra? Từ nơi cổ. Quang minh ấy chính là “hạng quang” (項光, quang minh phát ra từ cổ). Nói thông thường, “hạng” () chính là cổ. [Hạng quang] là quang minh phát ra từ cổ. Vầng quang minh tṛn ở phía sau tượng Phật được gọi là “viên quang”. Viên quang của A Di Đà Phật “như bách ức tam thiên đại thiên thế giới” (như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới). Nay chúng ta thấy viên quang nơi tượng Phật chẳng lớn ngần ấy. Trên thực tế, trong thế giới Cực Lạc, viên quang của A Di Đà Phật tới một trăm ức tam thiên đại thiên thế giới, phạm vi to ngần ấy! “Ư viên quang trung” [nghĩa là] ở trong viên quang. “Hữu bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật” (Có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật), có Hóa Phật nhiều ngần ấy. Con số này khó thể tính toán được! “Nhất nhất Hóa Phật”, mỗi vị Phật hóa hiện ra, “diệc hữu chúng đa vô số Hóa Bồ Tát”, cũng có đông đảo vô số Bồ Tát được biến hóa ra, “dĩ vi thị giả”, để làm thị giả của Phật, [đứng hầu] hai bên đức Phật. Đây là nói từ trên thân Phật phóng ra quang minh, trong quang minh lại có Hóa Phật, mà cũng có Hóa Bồ Tát. Mọi người xướng bài kệ tán Phật, [trong ấy có câu] “quang trung Hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên” cũng là dựa theo phần kinh văn này. Tiếp theo đây là quán tướng hảo của Phật.

 

          (Kinh) Vô Lượng Thọ Phật, hữu bát vạn tứ thiên tướng, nhất nhất tướng trung, các hữu bát vạn tứ thiên tùy h́nh hảo. Nhất nhất hảo trung, phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh. Nhất nhất quang minh, biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả.

()無量壽佛,有八萬四千相。一一相中,各有八萬四千隨形好。一一好中,復有八萬四千光明。一一光明,遍照十方世界念佛眾生,攝取不捨。

(Kinh: Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi một tướng đều có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo. Trong mỗi một hảo, lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ).

 

          “Vô Lượng Thọ Phật, hữu bát vạn tứ thiên tướng” (Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng), nói thông thường là “ba mươi hai tướng”. V́ sao ở đây nói là tám vạn bốn ngàn tướng? Ba mươi hai tướng là nói tới Ứng Thân Phật! Ở đây, chẳng phải là quán Ứng Thân Phật. Phép Quán thứ tám đă quán thành công, phép Quán thứ chín là quán Báo Thân Phật. Đă là quán Báo Thân Phật, số lượng tướng hảo của đức Phật sẽ nhiều. Do đó, nói là “có tám vạn bốn ngàn tướng”. Đă thế, “nhất nhất tướng trung, các hữu bát vạn tứ thiên tùy h́nh hảo” (trong mỗi một tướng, có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo): “Tướng” là nói theo đại thể, tướng là khái lược. Trong mỗi một tướng khái lược, lại có những thứ “hảo” rất vi tế tùy thuộc tướng ấy mà hiện ra (“hảo” là tốt đẹp). “Nhất nhất hảo trung, phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh”: Trong mỗi tùy h́nh hảo, lại tỏa ra tám vạn bốn ngàn loại quang minh. “Nhất nhất quang minh, biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sanh”: Mỗi một loại quang minh đều chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới (mười phương thế giới đều có chúng sanh niệm Phật), “nhiếp thủ bất xả” (nhiếp thủ chẳng bỏ). Nhiếp thọ họ, đó cũng là Phật hộ niệm chúng sanh niệm Phật. Chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới đều được quang minh của Phật nhiếp thọ, khi sống th́ được b́nh an, tự tại, đến lúc mạng chung, sẽ có thể văng sanh.

          Kinh văn nói về chuyện quán tưởng Phật thân. Từ màu sắc nơi thân, độ cao lớn của thân, quang minh phát ra từ thân và các thứ tướng hảo. Khi quán tưởng những điều này, phải dùng phương pháp ǵ để quán tưởng? Trong phép Quán thứ tám đă nói “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Lư trong hai câu ấy tối cao vô thượng. Bất luận tông nào trong Phật pháp cũng đều chẳng thể vượt khỏi nguyên lư trong hai câu nói ấy. Do vậy, trong phép Quán thứ chín, quán thân tướng, quang tướng, tướng hảo v.v… của A Di Đà Phật, đều phải dựa trên nguyên lư này để quán tưởng th́ mới có thể quán các thứ tướng hảo thành công. Nếu không, tâm lư phàm phu sẽ chẳng có cách nào quán tưởng được. Đó là một tầng [ư nghĩa].

          Kế đến là tầng thứ hai như tôi vừa mới nói: Đức Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo, lại c̣n có tám vạn bốn ngàn quang minh. V́ sao luôn nói là “tám vạn bốn ngàn”? Đấy là v́ chúng sanh luôn có tám vạn bốn ngàn phiền năo. Đức Phật hóa độ chúng sanh, đối ứng với tám vạn bốn ngàn trần lao của chúng sanh mà hiển lộ công đức. Nói theo phía chúng sanh, bèn có tám vạn bốn ngàn loại Phiền Năo Chướng, cho nên đức Phật bèn có tám vạn bốn ngàn tướng hảo quang minh để phá trừ những chướng ngại ấy cho chúng sanh. Thật ra, quang minh và tướng hảo của Phật là vô số, chẳng có cách nào nói rơ số lượng được. Đây chỉ là v́ chúng sanh có trần lao phiền năo nhiều ngần ấy mà nói, cho nên mới nói ra con số “tám vạn bốn ngàn”.

          C̣n một điều nữa, kinh văn nói “biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả” (chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ). Nói theo sự chiếu soi nơi quang minh của Phật, Phật quang lẽ ra phải là chiếu soi b́nh đẳng bất cứ chúng sanh nào, nhưng kinh văn nói là “chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật”. “Nhiếp thủ” (攝取) th́ cũng là nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, há chẳng phải là Phật quang chẳng b́nh đẳng ư? Chẳng phải là Phật quang bất b́nh đẳng, mà là v́ chúng sanh nào chịu niệm Phật, người ấy mới có thể cảm ứng quang minh của Phật gia bị. Không niệm Phật, giống như trong thế giới Sa Bà trông thấy ánh sáng mặt trời. Tuy ánh sáng mặt trời cũng chiếu khắp không gian trên đại địa, nhưng nếu chúng ta quay lưng với ánh sáng mặt trời, hoặc ẩn tránh trong chỗ tối tăm, vậy th́ chẳng phải là ánh sáng mặt trời không chiếu tới chúng ta, mà là bản thân chúng ta chẳng nghênh tiếp ánh sáng mặt trời. “Chúng sanh niệm Phật” được nói trong kinh văn cũng giống như vậy. Chỉ cần chúng ta phát nguyện niệm Phật, biểu thị cái tâm của chúng ta hướng về A Di Đà Phật, sẽ có thể cảm nhận quang minh của A Di Đà Phật. Người không học Phật, thậm chí kẻ học Phật mà chẳng học Tịnh Độ Tông, do chẳng biết niệm Phật, cho nên người ấy chẳng thể cảm nhận quang minh. V́ lẽ đó, kinh văn mới nói là “nhiếp thủ bất xả” chúng sanh niệm Phật. Điều này vẫn tùy thuộc sự giác ngộ của chính chúng sanh. Chúng ta giác ngộ điều này, sẽ biết: Mỗi câu niệm Phật của chúng ta, quang minh trong tâm của chính ḿnh và quang minh của A Di Đà Phật có thể chiếu rọi lẫn nhau, công đức ấy to lớn khôn cùng! Tâm quang của chúng ta và quang minh của A Di Đà Phật đôi bên chiếu rọi lẫn nhau, có vấn đề nào trong nhân gian chẳng thể giải quyết được? Quang minh chiếu lẫn nhau, Phật quang vừa gia bị chúng ta, Phật quang và tâm quang đôi bên cảm ứng lẫn nhau, lập tức thấy thấu suốt giả tướng sanh tử, phá trừ chúng. V́ thế, đến khi lâm chung, chỉ cần biết niệm Phật, nhất định là sẽ có thể văng sanh. Phải đặc biệt chú ư điều này!

          Đoạn dưới đây nói: Quán thành công sẽ có thể thấy Phật.

 

          (Kinh) Kỳ quang tướng hảo, cập dữ Hóa Phật, bất khả cụ thuyết, đản đương ức tưởng, linh tâm nhăn kiến. Kiến thử sự giả, tức kiến thập phương nhất thiết chư Phật. Dĩ kiến chư Phật cố, danh Niệm Phật tam-muội.

()其光相好,及與化佛,不可具說。但當憶想,令心眼見。見此事者,即見十方一切諸佛。以見諸佛故,名念佛三昧。

(Kinh: Quang minh, tướng hảo ấy và Hóa Phật chẳng thể nói trọn. Chỉ nên ức tưởng sao cho tâm nhăn trông thấy. Đă thấy chuyện ấy, liền thấy mười phương hết thảy chư Phật. Do trông thấy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật tam-muội).

 

          “Kỳ quang tướng hảo, cập dữ Hóa Phật”: Quán thành tựu từng điều một trên đây, quang minh, tám vạn bốn ngàn tướng, tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo của A Di Đà Phật, cùng với Hóa Phật biến hóa trong quang minh. “Bất khả cụ thuyết”, “cụ” () là đầy đủ, “cụ thuyết” (具說) là nói trọn vẹn. “Bất khả cụ thuyết” nghĩa là quá nhiều, chẳng có cách nào nói trọn hết được! “Đản đương ức tưởng” [nghĩa là] chỉ có thể thời thời khắc khắc ức tưởng (nghĩ nhớ) trong tâm, “linh tâm nhăn kiến” (khiến cho tâm nhăn trông thấy): Dùng ǵ để thấy? Nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta có thể trông thấy hay chăng? Nhục nhăn của phàm phu chỉ thấy rất hạn hẹp, nhưng tâm chẳng bị hạn chế, dùng tâm nhăn để thấy. Hễ tâm rộng mở, tất cả đều thấy rơ ràng! “Kiến thử sự giả” (Đă thấy những chuyện ấy): Quư vị dùng tâm nhăn thấy tướng hảo và quang minh của A Di Đà Phật nhiều ngần ấy. Thấy A Di Đà Phật, “tức kiến thập phương nhất thiết chư Phật”, [nghĩa là] quư vị có thể thấy tất cả chư Phật trong mười phương thế giới. “Dĩ kiến chư Phật cố, danh Niệm Phật tam-muội”, [ư nói] do v́ trông thấy mười phương chư Phật, cho nên gọi là Niệm Phật tam-muội, đắc Niệm Phật Đại Định, đắc nhất tâm bất loạn. Đây là đoạn lớn thứ hai.

 

        (Kinh) Tác thị quán giả, danh quán nhất thiết Phật thân. Dĩ quán Phật thân cố, diệc kiến Phật tâm. Phật tâm giả, đại từ bi thị. Dĩ vô duyên từ, nhiếp chư chúng sanh.

()作是觀者,名觀一切佛身。以觀佛身故,亦見佛心。佛心者,大慈悲是。以無緣慈,攝諸眾生。

(Kinh: Quán như thế gọi là “quán thân của hết thảy chư Phật”. Do quán thân Phật, cũng thấy Phật tâm. Phật tâm là đại từ bi, dùng vô duyên từ để nhiếp thọ các chúng sanh).

 

          “Tác thị quán giả” [nghĩa là] tu những phép Quán đă nói trên đây, “danh quán nhất thiết Phật thân” (gọi là “quán thân của hết thảy chư Phật”): V́ quư vị trước hết là bắt đầu bằng quán thân A Di Đà Phật. Quán thành công, trông thấy A Di Đà Phật chính là thấy mười phương thế giới hết thảy chư Phật. V́ thế, gọi là “quán nhất thiết Phật thân”. “Dĩ quán Phật thân cố”: Do quư vị quán thân Phật, thân Phật do đâu mà có? Thân Phật từ tâm Phật mà ra. Quư vị thấy thân Phật “diệc kiến Phật tâm”, nói cách khác, thấy thân tướng của Phật, sẽ thấy tâm Phật. Tâm Phật là ǵ? “Phật tâm giả, đại từ bi thị”: Tâm Phật là đại từ bi. Đại từ bi là ǵ? Là vô duyên đại từ bi. Đức Phật “dĩ vô duyên từ, nhiếp chư chúng sanh”, [nghĩa là] đức Phật dùng vô duyên đại từ để hóa độ, nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Đây là đoạn lớn thứ ba.

 

IV.2.2.10.1. Ba thứ từ bi

 

          Đối với đại từ bi và vô duyên từ, ở đây, tôi chỉ giải thích đôi chút. Từ bi có:

1) Chúng sanh duyên từ bi: Hàng Bồ Tát b́nh phàm chưa đoạn phiền năo [sẽ có ḷng từ bi này]. Ví như người học Phật chúng ta thọ Bồ Tát Giới, hành Bồ Tát đạo, chúng ta muốn hóa độ chúng sanh, nói chung là phải có duyên với chúng sanh th́ mới độ được. Hữu duyên chúng sanh mới có thể độ, [chúng sanh] chẳng có duyên th́ độ bằng cách nào?

2) Loại khác là pháp duyên từ bi: Hàng Bồ Tát đă đoạn phiền năo, đương nhiên là bậc đại Bồ Tát. Các Ngài hóa độ chúng sanh, ḷng từ bi càng to lớn hơn, sức mạnh của ḷng từ bi ấy lại to hơn.

3) Vô duyên từ là ḷng từ bi của Phật. Vô duyên là ǵ? Tâm Phật là đại từ bi. Phật tâm đại từ bi chính là vô duyên đại từ, vô duyên đại bi. Vô duyên đại từ nghĩa là Phật và chúng sanh đồng thể. Đă là đồng thể, tâm Phật không đâu chẳng tồn tại. Nếu hỏi Phật trụ ở chỗ nào ư? Đức Phật không chỗ nào chẳng tồn tại. Chỉ cần chúng sanh niệm Phật, tự nhiên Ngài nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Do vậy, người niệm Phật phải hiểu rơ: Chúng ta niệm một câu Phật hiệu, có thể dẫn khởi ḷng vô duyên đại từ của Phật, được Phật tâm chiếu cố chúng ta. Hết thảy chư Phật đều là vô duyên đại từ.

          Trong đoạn lớn thứ tư dưới đây, bắt đầu từ “tác thử Quán giả” (người tu phép Quán này) cho đến “danh đệ cửu Quán” (gọi là phép Quán thứ chín) sẽ nêu ra những lợi ích sẽ đạt được do tu phép Quán này.

 

          (Kinh) Tác thử quán giả, xả thân tha thế, sanh chư Phật tiền, đắc Vô Sanh Nhẫn. Thị cố trí giả, ưng đương hệ tâm, đế quán Vô Lượng Thọ Phật. Quán Vô Lượng Thọ Phật giả, tùng nhất tướng hảo nhập. Đản quán my gian bạch hào, cực linh minh liễu. Kiến my gian bạch hào tướng giả, bát vạn tứ thiên tướng hảo, tự nhiên đương hiện. Kiến Vô Lượng Thọ Phật giả, tức kiến thập phương vô lượng chư Phật. Đắc kiến vô lượng chư Phật cố, chư Phật hiện tiền thọ kư. Thị vi biến quán nhất thiết sắc thân tướng, danh đệ cửu Quán.

()作此觀者,捨身他世,生諸佛前,得無生忍。是故智者,應當繫心,諦觀無量壽佛。觀無量壽佛者,從一相好入。但觀眉間白毫,極令明了。見眉間白毫相者,八萬四千相好,自然當現。見無量壽佛者,即見十方無量諸佛。得見無量諸佛故,諸佛現前授記。是為遍觀一切色身相,名第九觀。

(Kinh: Người tu phép Quán này, bỏ thân sanh sang đời sau, sẽ sanh trước chư Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn. V́ thế, người trí hăy nên buộc tâm quán chắc thật Vô Lượng Thọ Phật. Để quán Vô Lượng Thọ Phật, hăy quán từ một tướng hảo. Chỉ quán tướng bạch hào giữa hai mày sao cho hết sức rành rẽ. Đă thấy tướng bạch hào giữa hai mày th́ tám vạn bốn ngàn tướng hảo sẽ tự nhiên hiện ra. Người thấy Vô Lượng Thọ Phật, sẽ thấy mười phương vô lượng chư Phật. Do được thấy vô lượng chư Phật, chư Phật hiện tiền thọ kư. Đây gọi là quán trọn khắp hết thảy sắc thân tướng, gọi là phép Quán thứ chín).

 

IV.2.2.10.2. Vô Sanh Nhẫn

 

          Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Tác thử quán giả”, đă quán thành công phép Quán trên đây, “xả thân tha thế” (bỏ thân, sanh sang đời khác). Bất luận người nào trong chúng ta sống đến bao nhiêu tuổi đi nữa, sẽ luôn có lúc phải xả thân, thọ mạng luôn có lúc kết thúc, “tha thế” (他世) là đời thứ hai, tức một đời khác. Khi đó, người tu Quán sẽ chẳng đầu thai trong nhân gian nữa, mà cũng chẳng ở trong lục đạo. “Sanh chư Phật tiền”, [nghĩa là] sẽ nhất định có thể văng sanh thế giới Cực Lạc. V́ sao nói là “sanh chư Phật tiền”? V́ hễ văng sanh thế giới Cực Lạc, sẽ giống như trông thấy hết thảy chư Phật. V́ thế, nói là “sanh chư Phật tiền”. “Đắc Vô Sanh Nhẫn”: Đối với lư bất sanh, bất diệt, có thể hoàn toàn thông hiểu, an trụ trong lư bất sanh bất diệt, sẽ chẳng bị lay động. Chứng đắc đạo lư ấy th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn. Nói theo Viên Giáo Bồ Tát, Sơ Trụ có thể đắc [Vô Sanh Nhẫn]. Nói theo Biệt Giáo Bồ Tát, phải đạt tới Sơ Địa (Đăng Địa Bồ Tát) th́ mới có thể đắc. Nói theo Biệt Giáo Bồ Tát, bèn có hai cách nói: Có khi nói là đạt lên Sơ Địa sẽ có thể đắc; có khi nói phải là từ Thất Địa trở lên th́ mới có thể đắc. Bất luận nói theo kiểu nào, hễ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, công phu ấy cũng rất lỗi lạc, có thể thấy Pháp Thân của Phật. Đoạn này nói về lợi ích sẽ đạt được [do tu phép Quán này].

          Tiếp đó, [kinh văn] chép: “Thị cố trí giả” (V́ thế, người có trí). Chữ “trí giả” chỉ người đă nhập Quán. Người tu phép Quán này, nếu chẳng phải là bậc có trí, sẽ chẳng chịu tác quán. “Ưng đương hệ tâm” nghĩa là hăy nên tập trung cái tâm, đặt yên nơi sự quán tưởng. “Hệ tâm” (繫心) là chuyên tâm. Chuyên tâm “đế quán Vô Lượng Thọ Phật”, [nghĩa là] nhất tâm quán A Di Đà Phật. “Quán Vô Lượng Thọ Phật giả”: Quán Vô Lượng Thọ Phật th́ quán như thế nào? Trong phần trước, [kinh văn] đă nói thân Phật cao ngần ấy, từ lỗ chân lông phóng ra quang minh nhiều ngần ấy, tám vạn bốn ngàn tướng có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo, đơn giản là tâm lư bọn phàm phu chúng ta chẳng có cách nào quán được! V́ thế, kế đó, [đức Phật] dạy một phương pháp Quán: Để quán Vô Lượng Thọ Phật, “tùng nhất tướng hảo nhập”, [nghĩa là] đối với tám vạn bốn ngàn tướng và tám vạn bốn ngàn hảo, chẳng biết khởi sự thực hiện như thế nào? Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta một phương pháp: Hăy quán từ một tướng hoặc một hảo để nhập (khởi sự tu Quán). Từ tướng hảo nào để nhập? Đức Phật chọn lựa, “đản quán my gian bạch hào, cực linh minh liễu”: Quư vị chỉ quán tướng bạch hào giữa hai mày của đức Phật là được rồi, quán bạch hào rành rẽ, sao cho tột bậc phân minh, thấy rơ ràng. Quán bạch hào thành công, “kiến my gian bạch hào tướng giả” nghĩa là thật sự thấy tướng bạch hào giữa hai mày. “Bát vạn tứ thiên tướng hảo, tự nhiên đương hiện”: Đă quán bạch hào thành công, tám vạn bốn ngàn tướng hảo kia sẽ tự nhiên hiện ra, nhất định là sẽ liên đới hiện ra. Quư vị thấy phương pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật cao minh như thế đó!

          Do vậy, chúng ta học Phật, trong quá khứ, Tuyết công ân sư[6] lúc c̣n tại thế đă dạy: “Đối với chuyện học rộng, nghiên cứu lư luận th́ có thể học rộng răi, nhưng dụng công th́ nhất định phải là thâm nhập một môn”. Đạo tràng Đài Trung của chúng ta tu pháp môn Niệm Phật, Quán Kinh dạy Quán Tưởng Niệm Phật, Tuyết công lăo sư dạy chúng ta Tŕ Danh Niệm Phật. Đừng nghĩ “Quán Tưởng Niệm Phật hay quá”, “Quán Tượng Niệm Phật hay quá”, “Thật Tướng Niệm Phật hay quá”, c̣n Tŕ Danh Niệm Phật th́ sao? Chỉ cần tŕ danh tốt đẹp, sẽ giống hệt như các môn niệm Phật khác. “Phương tiện có nhiều môn, về nguồn chẳng hai đường”. Quán thành công, Quán Tưởng Niệm Phật là quán một tướng [thành công], những tướng khác đều hiện. Tŕ danh mà tŕ thành công th́ cũng có cùng đạo lư, cũng là hết thảy đều tự nhiên hiện ra. Chỉ cần đạt đến nhất tâm bất loạn, sẽ hoàn toàn giống hệt. V́ thế, cương lănh chủ yếu này hết sức quan trọng: Vận dụng công phu, nhất định là phải thâm nhập một môn, đừng bị bên ngoài nói pháp môn này hay, pháp môn kia hay [mà dao động]. Thấy người ta tham Thiền hay quá, bèn học tham Thiền. Thấy người ta niệm chú siêng năng, bèn học niệm chú. Chẳng phải là tŕ chú không hay, cũng chẳng phải là tham Thiền không hay, mà là chúng ta chọn lựa pháp môn phải phù hợp với căn cơ của chúng ta. Đă chọn lựa ổn thỏa, chúng ta bèn chuyên tu một môn ấy, sẽ có thành tựu. Nếu không, năm nay học pháp này, sang năm học pháp kia, chẳng thành được chuyện ǵ! Điều này hết sức trọng yếu!

          Tám vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện ra, đấy là nói về một đức Phật. Tám vạn bốn ngàn tướng hảo của A Di Đà Phật hiện ra, sẽ thấy toàn thể Vô Lượng Thọ Phật, thật sự trông thấy, tức là thấy Báo Thân của A Di Đà Phật, tuyệt diệu lắm! Ai có thể thấy Báo Thân Phật? Người thật sự chứng quả vị đại Bồ Tát th́ mới có thể thấy Báo Thân Phật, phàm phu chẳng trông thấy. Có thể thấy Báo Thân Phật, chứng tỏ công phu quán tưởng của chính ḿnh đă đạt tới địa vị đại Bồ Tát. Không chỉ là trông thấy một ḿnh A Di Đà Phật, “kiến Vô Lượng Thọ Phật giả, tức kiến thập phương vô lượng chư Phật”: Sau khi đă thấy Vô Lượng Thọ Phật, cũng sẽ thấy mười phương thế giới vô lượng chư Phật. “Đắc kiến vô lượng chư Phật cố, chư Phật hiện tiền thọ kư”: Có thể trông thấy vô lượng chư Phật trong mười phương thế giới, ở trước vô lượng chư Phật, sẽ được thọ kư. Thọ kư ǵ vậy? Huyền kư quư vị tới khi nào sẽ có thành tựu như thế nào, đến lúc nào sẽ thành Phật, điều này tuyệt diệu thay! Chúng ta học Phật, học tới khi đức Phật thọ kư cho chúng ta, tuyệt diệu lắm! V́ thế, quán thành công, không chỉ là thấy A Di Đà Phật, mà c̣n thấy vô lượng chư Phật. Lại c̣n ở trước vô lượng chư Phật, lập tức được chư Phật thọ kư. “Thị vi biến quán nhất thiết sắc thân tướng, danh đệ cửu Quán”: Đây là quán trọn khắp hết thảy sắc thân tướng của Phật, gọi là phép Quán thứ chín.

          Chúng ta ở đạo tràng Đài Trung, vừa bắt đầu, bèn học Tịnh Độ Tông, lại c̣n học Tŕ Danh Niệm Phật. Đă là Tŕ Danh Niệm Phật, c̣n phải học Quán Tưởng Niệm Phật của Quán Kinh để làm ǵ? Điều này có nghĩa là: Bất cứ pháp môn nào, cũng đều có Chánh, có Trợ. Chánh và Trợ phải song tu. Tŕ Danh Niệm Phật là công phu chánh yếu. Ngoài công phu chánh yếu ra, chúng ta c̣n phải có trợ công phu. Trợ công phu là ǵ? Phàm những ǵ có thể giúp cho công phu chánh yếu, đều gọi là trợ công phu. V́ sao chánh công phu cần có trợ công phu? Người đă dụng công đều biết: Khi chúng ta dấy khởi Phật hiệu, niệm A Di Đà Phật, lúc b́nh thường c̣n có thể niệm được, nhưng khi chính ḿnh có chuyện vui sướng, hoặc có chuyện chẳng vừa ư, hoặc lúc phiền năo dấy lên, dấy khởi câu Phật hiệu, cảm thấy chẳng có sức mạnh ǵ, Phật hiệu chẳng đè ép [những vọng niệm, t́nh thức] được. V́ sao chẳng đè ép được? V́ chẳng có sức mạnh nào giúp đỡ! Sức mạnh giúp đỡ chính là liễu giải những đạo lư này, liễu giải A Di Đà Phật. Sau khi đă liễu giải lư, chúng ta ở trong đạo tràng, thấy tượng Phật, chúng ta tưởng tượng, nhờ vào tượng Phật ấy để quán tưởng Báo Thân Phật của A Di Đà Phật to dường ấy, quang minh nhiều ngần ấy, toàn thể mười phương thế giới đều ở trong đại quang minh ấy. Lập cách suy tưởng như vậy, có phiền năo ǵ mà chẳng thể khắc phục? Có vấn đề nào chẳng thể giải trừ? Không chỉ là phiền năo b́nh thường, ngay cả khi đại vấn đề sanh tử xảy đến, quang minh của Phật vừa chiếu như thế, hết thảy các chướng ngại đối với việc văng sanh đều bị phá trừ. V́ thế, đây là một sự giúp đỡ, giúp cho chúng ta có thể dấy khởi Phật hiệu. Nếu chẳng liễu giải đạo lư này, khởi niệm Phật hiệu sẽ chẳng có sức mạnh, nhẹ tênh! Sau khi đă hiểu đạo lư này, Phật hiệu vừa dấy khởi, ngay lập tức có thể đè nén bất cứ phiền năo nào! Trước khi chúng ta niệm Phật, đều phải xướng kệ Tán Phật, hăy đối chiếu lời kệ với phép Quán thứ chín: “A Di Đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng luân”. Phần lớn [các ư nghĩa trong bài kệ ấy] đều xuất phát từ phép Quán này. Đối chiếu với kinh văn này, thuận theo đó để quán tưởng, tuyệt đối chẳng phải là ba mươi hai tướng, mà là tướng của Báo Thân Phật xuất hiện trong tâm của chúng ta. Sau đấy, mới tiếp tục tŕ danh niệm Phật, sức mạnh ấy to lớn ngần nào! Đoạn dưới đây nhằm kết thúc phép Quán này.

 

          (Kinh) Tác thị Quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tác tha quán, danh vi Tà Quán.

        ()作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。

          (Kinh: Quán như vậy gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi th́ gọi là Tà Quán).

 

          Cuối cùng là dặn ḍ. “Tác thị quán giả” nghĩa là nếu dựa theo phương pháp quán tưởng vừa nói trên đây, “danh vi Chánh Quán”, sẽ là quán tưởng chánh xác. “Nhược tha quán giả”: Nếu [tu tập] chẳng giống như phương pháp Quán đă nói trong phần trên đây, “danh vi Tà Quán”. Tà quán th́ sẽ chẳng đạt được lợi ích. Chúng ta nhất định phải chú ư mấy câu ở phần sau này! V́ sao? Trong hiện thời, chánh và tà chẳng thể phân biệt rất nhiều. Cùng là học Phật, thậm chí là niệm Phật, chẳng thể chọn lựa một môn để từ pháp môn ấy mà tu tập, lại c̣n thêm vào các pháp khác, khiến cho cái tâm của chính ḿnh bị “tu” đến nỗi loạn tùng phèo. Chúng ta tŕ danh niệm Phật ḥng cầu nhất tâm bất loạn, nếu thêm vào các pháp khác, làm sao có thể đắc nhất tâm bất loạn cho được? V́ thế, ở đây nói tới quán tưởng, quán như vậy là chánh. Chẳng đúng như vậy, sẽ là tà. Tŕ Danh Niệm Phật cũng là như vậy. Trong quá khứ, thầy chúng ta khai thị, thường bảo phải “thật thà niệm Phật”. Thật thà niệm Phật là thuần túy tŕ một câu danh hiệu, vận dụng công phu này. Đối với điểm phân biệt chánh và tà này, phải đặc biệt chú ư.

          Chúng ta liễu giải một nguyên tắc là “vạn pháp duy tâm”. Tâm chúng ta đặt ở nơi nào? Chúng ta đạt được pháp ǵ? Kẻ chẳng học Phật, thậm chí kẻ chẳng học pháp môn Niệm Phật, tâm luôn rong ruổi. Chúng ta đặt vững cái tâm nơi Phật hiệu A Di Đà Phật, tâm chúng ta và quang minh của Phật kết hợp lại. Ví như nay chúng ta sắp ăn Tết, trong dịp Tết, mọi người đều mong cầu tốt lành, có phước, có huệ, quư vị có thể quán tưởng Phật, niệm Phật. Phật là hết thảy phước đức, hết thảy trí huệ viên măn, tâm chúng ta đặt nơi Phật, chúng ta cũng là hết thảy phước huệ đều viên măn, đạt được công đức giống hệt như Phật! Hôm nay, tôi nói xong, mọi người nghỉ học về ăn Tết, hăy đặt tâm nơi những điều này, hết thảy đều là phước đức, trí huệ viên măn. Hôm nay, tôi nói đến đây bèn ngưng.

Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 6 hết

 

 

 

 



[1] Đường Thái Tông (Lư Thế Dân) có anh cả là thái tử Lư Kiến Thành, và hai em trai là Lư Huyền Bá và Lư Nguyên Cát. Lư Thế Dân thể hiện bản lănh quân sự từ nhỏ, từng cầm quân khi mới mười sáu tuổi, lập nhiều công trạng hiển hách. Dần dần, Lư Thế Dân lấn át uy quyền của Lư Kiến Thành. Đường Cao Tổ (Lư Uyên) nghi ngờ, cắt giảm quyền lực của Lư Thế Dân. Đồng thời Kiến Thành và Nguyên Cát liên minh với nhau, chống phá và nhiều lần mưu toan sát hại Lư Thế Dân. Khi quyền lực bị cắt giảm, trước những âm mưu hăm hại của anh và em trai, Lư Thế Dân quyết định ra tay trước. Khi Lư Uyên gọi ba con trai vào cung để chất vấn, Lư Thế Dân đă đặt phục binh tại cửa Huyền Vũ của hoàng thành. Lư Kiến Thành bị Lư Thế Dân bắn chết, c̣n Lư Nguyên Cát bị Uất Tŕ Kính Đức giết chết. Sợ bị trả thù, sau đó, Lư Thế Dân c̣n cho người giết chết năm con trai của Lư Kiến Thành và Lư Nguyên Cát, tức là giết sạch mười đứa cháu trai. Trước t́nh h́nh đă rồi, Lư Uyên khôn khéo rút lui, lên làm Thái Thượng Hoàng, nhường ngôi cho Lư Thế Dân.

[2] “Kẻ bên ngoài” ở đây là nói tới những kẻ chẳng học, chẳng hành pháp môn quán tưởng nói riêng, hoặc là kẻ chẳng hành tŕ, thật sự tu chứng pháp môn Tịnh Độ nói chung, chỉ biết nói lư thuyết suông! Thậm chí hiểu biết sai lệch, suy diễn tùy tiện như có kẻ thấy kinh văn nói sanh về Cực Lạc phải qua vài kiếp hoa sen mới nở bèn nói là ‘văng sanh Cực Lạc sẽ bị ngồi tù trong hoa sen’!

[3] Ở đây, “tiên thiên” có nghĩa là điều kiện, t́nh trạng thân thể khi được cha mẹ vừa sanh ra. C̣n “hậu thiên” là những điều kiện, t́nh huống nơi thân thể do quá tŕnh nuôi dưỡng và tập luyện.

[4] Nguyên văn “thiên quân chi lực” (千鈞之力). Quân () là một đơn vị đo lường thời cổ. Mỗi Quân bằng ba mươi Cân. Một Cân dao động từ 500g đến 600g (tùy theo cách sử dụng tại Hoa Lục hay Đài Loan). Như vậy “thiên quân” là ba chục ngàn Cân, nhưng chúng tôi thuận theo cách nói phổ biến “sức mạnh ngàn cân” để chuyển ngữ câu này.

[5] Nói “Bát Nhă là một loại Phật thân” tức là nói theo kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm nói Phật có mười thân, một thân trong ấy là Trí Thân, tức Bát Nhă.

[6] Cụ Lư Bỉnh Nam có hiệu là Tuyết Lư, nên học tṛ thường gọi là “Tuyết sư” hoặc “Tuyết công lăo sư”.