Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ
Phật Kinh
Giảng Kư
Phần 6
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ
giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
Khởi
giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 25
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười một,
bắt đầu từ ḍng thứ tư. Trước hết,
tôi niệm một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Chúng bảo quốc độ, nhất nhất giới
thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu. Kỳ lâu
các trung, hữu vô lượng chư thiên, tác thiên kỹ nhạc.
Hựu hữu nhạc khí, huyền xử hư không,
như thiên bảo tràng, bất cổ tự minh. Thử
chúng âm trung, giai thuyết niệm Phật, niệm Pháp, niệm
tỳ-kheo Tăng. Thử tưởng thành dĩ, danh vi thô
kiến Cực Lạc thế giới bảo thụ, bảo
địa, bảo tŕ, thị vi Tổng Quán Tưởng,
danh đệ lục Quán. Nhược kiến thử giả,
trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp,
mạng chung chi hậu, tất sanh bỉ quốc. Tác thị
quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha quán giả, danh
vi Tà Quán.
(經)眾寶國土,一一界上,有五百億寶樓。其樓閣中,有無量諸天,作天伎樂。又有樂器,懸處虛空,如天寶幢,不鼓自鳴。此眾音中,皆說念佛念法念比丘僧。此想成已,名為麤見極樂世界寶樹寶地寶池,是為總觀想,名第六觀。若見此者,除無量億劫極重惡業,命終之後,必生彼國。作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。
(Kinh: Trong cơi
nước bằng các thứ báu, nơi mỗi khu vực
có năm trăm ức lầu báu. Trong các lầu gác ấy,
có vô lượng chư thiên trỗi kỹ nhạc trời.
Lại có nhạc khí treo lơ lửng trên hư không,
như tràng báu cơi trời, không đánh mà tự kêu. Trong các
âm thanh ấy, đều nói niệm Phật, niệm Pháp,
niệm tỳ-kheo Tăng. Tưởng này đă thành th́ gọi
là “thấy cây báu, đất báu, ao báu về phần thô
trong thế giới Cực Lạc”, là phép Tổng Quán
Tưởng, gọi là phép Quán thứ sáu. Nếu thấy
điều này, sẽ trừ ác nghiệp cực nặng
trong vô lượng ức kiếp. Sau khi mạng chung, ắt
sanh về cơi ấy. Quán như vậy th́ gọi là Chánh
Quán. Nếu quán khác đi th́ là Tà Quán).
IV.2.2.7. Phép Quán thứ sáu,
Tổng Quán
Hôm
nay, chiếu theo thứ tự, tôi nói về phép Quán thứ
sáu trong mười sáu phép Quán. Phép Quán thứ sáu vẫn thuộc
về [quán tưởng] y báo trong thế giới Cực Lạc.
Nói “y báo” (依報) là nói tới hoàn cảnh để chúng sanh
dựa vào đó ḥng sanh tồn, như trong thế gian có
đại địa nâng đỡ chúng ta. Đó là y báo.
Đối với y báo trong thế giới Cực Lạc,
trong các phần trước, bắt đầu từ phép
Quán thứ nhất là quán mặt trời lặn, phép Quán thứ
hai là quán nước; sau đấy, [tiếp tục quán tưởng]
nước lại biến thành băng, biến thành lưu
ly, toàn thể đại địa trong thế giới Cực
Lạc [đều bằng lưu ly]. Quán đại địa
đă thành công, bèn quán cây cối trong thế giới Cực
Lạc, lại quán ao bảy báu. Quán theo từng bước
một, quán cho tới phần được nói trong ngày hôm
nay là quán lầu báu trong thế giới Cực Lạc. Phép
Quán này là Tổng Quán, quán từ đại địa cho
đến ao bảy báu, đối với mỗi
phương diện đều phân biệt để quán.
Quán [mỗi phương diện] đă thành công, hôm nay tổng
hợp lại, giống như trong nhà trường học
một loại học vấn nào đó, khi giảng được
một khoảng thời gian, [thầy] bèn tổng hợp
những điều đă nói trong các phần trước
để ôn tập. Hôm nay, nói đến phép Quán này, chính là
ôn tập tổng hợp những điều đă liễu
giải về y báo trong thế giới Cực Lạc kể
từ khi bắt đầu tác quán cho tới hiện thời.
Ư
nghĩa quan trọng nhất trong việc nghiên cứu Quán
Kinh là khiến cho chúng ta liễu giải đạo lư trong
pháp môn Tịnh Độ của đức Phật. Ngoài
ra, nói theo phương diện tu tŕ: “Dùng phương pháp và
đạo lư này để giúp chúng ta tŕ danh niệm Phật”;
đó là quan niệm trọng yếu nhất. Đă là
như vậy, đương nhiên là chúng ta chẳng cần
dựa theo phương pháp trong kinh này để tác quán,
nhưng lúc b́nh thường, cần phải chiếu theo các
trạng huống tốt đẹp như kinh văn đă
dạy [để suy tưởng], ư niệm thường
đặt nơi thế giới Cực Lạc, như vậy
th́ sẽ có ích hết sức to lớn cho chúng ta, có thể
khiến cho chúng ta tŕ danh niệm Phật rất dễ
đắc nhất tâm bất loạn. Chúng ta phải liễu
giải công dụng này. Một điểm nữa, y theo
kinh văn để tu Quán, sau khi
quán mặt trời lặn [thành công], v́
sao có thể thật sự thấy y báo trang nghiêm trong
thế giới Cực Lạc? Đó là điều trọng
yếu nhất trong Quán pháp. Khi tác quán, ắt phải sửa
đổi tâm lư, tâm phải đặt nơi thế giới
Cực Lạc, coi chính ḿnh là người trong thế giới
Cực Lạc, thế giới Cực Lạc là cố
hương sẵn có, [chính ḿnh đang] là người làm
khách trong thế giới Sa Bà, [Sa Bà] chẳng phải là chỗ
để cư ngụ lâu dài được! Dùng tâm lư ấy
để dụng công th́ sẽ tốt đẹp, tín tâm,
nguyện lực và công phu tŕ danh nhất định sẽ
tinh tấn cao hơn, chẳng bị thoái chuyển, mà công
phu cũng dễ dàng đạt được. Nếu chẳng
thay đổi tâm lư, cứ ngỡ thế giới Sa Bà là
chân thật, sẽ chẳng thể ĺa khỏi thế giới
này. Như vậy th́ một đóa hoa hay một nhánh cỏ
trong thế giới Sa Bà đều có thể trói buộc
chúng ta, khiến cho chúng ta dây dưa ở nơi đây, làm
cách nào cũng chẳng thể văng sanh thế giới Cực
Lạc! V́ vậy, chuyển biến tâm lư hết sức trọng
yếu! Hễ tâm chuyển biến, đối với những
thứ tốt đẹp đến mấy đi nữa
trong thế gian này, [chẳng hạn như xét theo]
phương diện tiếng tăm, dẫu làm một vị
đại hoàng đế, chúng ta cũng chẳng ham. Về
phương diện tiền tài, cho chúng ta vài cái ngân hàng,
chúng ta cũng chẳng cần. Những thứ ấy đều
là pháp sanh diệt, như kinh Kim Cang đă nói “như mộng, huyễn, bọt,
bóng”. Mỗi thứ trong thế giới này đều giống
như mộng, huyễn, bọt, bóng, chính ḿnh chẳng thể
nắm bắt tí nào. Dẫu nắm được, sẽ ngay
lập tức tuột mất, trọn chẳng đáng tin
cậy! Liễu giải sự thật này, chúng ta hăy nên coi
nơi này là chốn tạm trú, chẳng phải là cố
hương (sự thật là như thế, chẳng phải
là như vậy th́ cũng không được). Tâm phải
đặt vững nơi thế giới Cực Lạc, nhất
tâm niệm Phật tŕ danh. Hễ dấy khởi Phật hiệu,
nó có thể dấy khởi tín tâm và nguyện lực của
chúng ta. Hết thảy đều hồi hướng thế
giới Cực Lạc. Tâm lư ắt cần phải điều
chỉnh như thế đó.
Chúng
ta xem kinh văn: “Chúng bảo quốc
độ, nhất nhất giới thượng, hữu
ngũ bách ức bảo lâu” (Trong cơi nước bằng
các thứ báu, nơi mỗi khu vực đều có năm
trăm ức lầu báu). Ba câu này đă nêu ra điểm
khái yếu trong phép Tổng Quán. “Chúng
bảo quốc độ” là cơi nước được
thành tựu bằng các thứ báu. Trong phần trước
đă quán thấy toàn thể cơi Cực Lạc do các thứ
báu hợp thành. Toàn thể đại địa, trên mặt
đất, hết thảy đều do các thứ báu hợp
thành. Đối với nơi cư trụ và đường
sá, mỗi giới hạn đều dùng hoàng kim làm giới
tuyến. “Nhất nhất giới
thượng, hữu ngũ bách ức bảo lâu”: Chỉ
rơ trong giới hạn của mỗi khu cư trú, mỗi “giới” (界, tức
là trong phạm vi của một khu vực) có năm trăm
ức lầu báu. Lầu cũng là do các thứ báu tạo
thành, số đến năm trăm ức. “Nhất nhất giới thượng,
hữu ngũ bách ức bảo lâu” chính là nói đến
toàn thể các lầu báu trong toàn thể quốc độ của
thế giới Cực Lạc.
“Kỳ lâu các trung, hữu vô
lượng chư thiên, tác thiên kỹ nhạc. Hựu hữu
nhạc khí, huyền xử hư không, như thiên bảo
tràng, bất cổ tự minh” (Trong các lầu gác ấy,
có vô lượng chư thiên tấu các kỹ nhạc cơi trời.
Lại có các nhạc khí treo lơ lửng trên hư không
như tràng báu cơi trời, chẳng đánh mà tự kêu).
Đó là nói tới âm nhạc trong thế giới Cực Lạc.
Trước hết, nói đến âm nhạc trong lầu
gác. Trong lầu gác của lầu báu, có vô lượng
chư thiên đang “tác thiên kỹ
nhạc” (tấu các kỹ nhạc). “Kỹ” (伎) là khéo léo, “kỹ nhạc” (伎樂) là âm nhạc hay khéo.
V́ sao trong kinh chỉ nói tới âm nhạc, chẳng nói tới
những nghệ thuật khác? V́ nghệ thuật âm nhạc
có thể điều ḥa tánh t́nh của con người hữu
hiệu nhất, có công hiệu cải biến tâm lư của
chúng ta đầy đủ nhất. Trong thế gian này,
chúng ta xem những nghệ thuật khác, xem một bức
tranh cũng thế, mà xem một bức thư pháp cũng
thế, đều chẳng có tác dụng cảm động
ḷng người như âm nhạc. Âm nhạc lọt vào tai,
trong tâm sẽ phát sanh sự biến hóa thuận theo âm nhạc.
Âm nhạc trong thế giới Cực Lạc rất nhiều:
Tiếng nước chảy cũng là âm nhạc, tiếng
gió lùa cũng là âm nhạc. Ở đây, chư thiên tấu
kỹ nhạc, tức là “thiên
kỹ nhạc”, đúng là quá hay khéo! Nay loại âm nhạc
mà chúng ta có thể nghe chính là những thứ do các nhà âm nhạc
trong nhân gian dùng ca xướng hoặc tấu trỗi các nhạc
khí mà thành. Vẫn phải là do một âm nhạc gia thật
sự lỗi lạc diễn tấu tác phẩm âm nhạc
hay nhất th́ mới đáng để thưởng thức.
Nếu chẳng phải là do một vị đại âm nhạc
gia diễn tấu, lại c̣n chơi nhạc hiện thời,
sẽ chẳng gọi là âm nhạc! C̣n thiên nhạc th́ sao?
Dẫu là âm nhạc do một âm nhạc gia vĩ đại
trong nhân gian diễn tấu cũng chẳng thể sánh bằng
âm nhạc cơi trời. Ở đây, [kinh văn] nói trong lầu
gác nơi thế giới Cực Lạc diễn tấu
thiên nhạc, lại c̣n có bao nhiêu người diễn tấu
loại âm nhạc cơi trời ấy? “Hữu vô lượng chư thiên”, [nói] “chư thiên” tức là không chỉ
có một vị trời. Lấy ngay Dục Giới Thiên
để nói th́ có sáu tầng trời, [vậy th́] âm nhạc
cơi trời được diễn tấu sẽ là bao nhiêu?
Vô lượng! Chẳng thể tính rơ con số! Có chư
thiên nhiều ngần ấy tấu nhạc.
Trong lầu
gác, ngoại trừ những vị trời nhiều ngần
ấy đang tấu nhạc, “hựu
hữu nhạc khí” (lại có nhạc khí). Trong thế giới
này (cơi Sa Bà), nhạc khí có đàn cầm, tiêu, đàn sắt,
tỳ bà v.v… cũng chẳng quá mấy chục loại, số
lượng lèo tèo! Nhạc khí trong thế giới Cực Lạc
chẳng thể kể xiết! Những nhạc khí ấy “huyền xử hư không”
(treo lơ lửng trên hư không), quư vị xem đó: Trong
thế giới này, chẳng hề có quang cảnh ấy,
trong hư không có nhạc khí ư? Nếu có một cây đàn
tỳ bà lơ lửng trong hư không, kỳ quái thay! Khắp
nơi trên hư không trong thế giới Cực Lạc
đều là nhạc khí treo lơ lửng. “Như thiên bảo tràng”: Những nhạc khí ấy
treo lơ lửng trong hư không, giống như tràng báu của
cơi trời. Ngoài ra, ai khảy tấu những nhạc khí ấy?
Trong thế giới [Sa Bà] này, chuông phải có người
thỉnh, trống phải có người gơ, giộng chuông,
đánh trống; thế giới Cực Lạc th́ “bất cổ tự minh” (chẳng
tấu mà tự kêu), “cổ”
(鼓) là khảy, gơ. “Bất
cổ” (不鼓) là chẳng
cần phải khảy, gơ, chẳng cần đến sức
người, nhạc khí tự động tấu nhạc,
[đó là ư nghĩa của chữ] “tự minh” (自鳴). Chúng ta chỉ có thể
tưởng tượng t́nh h́nh này, trong thế giới Sa
Bà chẳng có [chuyện ấy].
Phải
thấy rơ từng tầng lớp trong kinh văn: Chư
thiên diễn tấu âm nhạc trong lầu gác; nhạc khí
treo lơ lửng trong hư không ở ngoài lầu gác. Đấy
là hai tầng. Nhạc khí ở bên ngoài giống như tràng
báu cơi trời, không tấu mà tự phát ra tiếng, âm nhạc
tự nhiên, đương nhiên là càng hay! Nhạc do chư
thiên tấu trong lầu gác là thiên nhạc. Thiên nhạc rốt
cuộc hay đẹp ở chỗ nào? Chúng tôi nêu một tỷ
dụ. Âm thanh xướng tán trong đạo tràng được
gọi là “phạm âm” (梵音). “Phạm”
nghĩa là thuộc về cơi trời. Thuở đó, âm nhạc
hay nhất tại Ấn Độ là phạm âm trên cơi trời.
V́ sao người Ấn Độ biết phạm âm trên cơi
trời? V́ người học Phật và tu những tôn giáo
khác tại Ấn Độ vào thuở đó đều có
công phu khá sâu. Người có công phu sâu đích thân nghe âm nhạc
cơi trời, ghi chép lại, diễn tấu, ca xướng
trong nhân gian, gọi nó là “phạm
âm”, [nghĩa là] âm thanh thanh tịnh. Chúng ta nghe các loại
tán tụng trong đạo tràng, nghe xong bèn dấy khởi
đạo tâm, trong tâm tự nhiên rất thanh tịnh. Do vậy,
có thể suy ra để thấy: Thiên nhạc tuyệt
đối chẳng giống như âm nhạc trong nhân gian,
nó có thể “tịnh hóa” cái
tâm của chúng ta, tức là trong tâm được cảm
hóa thanh tịnh. Nh́n vào hai đoạn trên đây, trong tâm bèn
suy nghĩ: Đấy chỉ là một lầu gác trong ấy,
đối với các lầu gác như vậy, trong mỗi “giới” (界, tức
là trong một khu vực) có năm trăm ức lầu báu.
Có bao nhiêu “giới”? Chẳng
thể kể xiết! Trọn khắp thế giới Cực
Lạc đều có lầu báu, âm nhạc cũng đều
trọn khắp mọi nơi. Trong tâm chúng ta phải có cách
nghĩ như vậy. Lầu báu ở khắp mọi
nơi trong toàn thể thế giới Cực Lạc, khắp
mọi nơi đều là thiên nhạc và nhạc khí tự
nhiên diễn tấu. Diễn tấu những thứ âm nhạc
ấy th́ có lợi ích ǵ? Tiếp đó, [kinh văn] đă
nói rơ:
“Thử chúng âm trung, giai thuyết
niệm Phật, niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng” (Trong
các âm thanh ấy, đều nói niệm Phật, niệm
Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng). Nghe những thứ âm nhạc
ấy, hoàn toàn chẳng phải chỉ là cảm thấy êm
tai mà thôi. Chúng ta nghe âm nhạc trong thế giới này, trong
tâm chỉ cảm thấy rất đẹp, rất hay,
nhưng âm nhạc trong thế giới Cực Lạc không
chỉ là mỹ cảm, mà c̣n có thể tuyên dương pháp
âm. Trong nhiều thứ âm nhạc như vậy, có ư
nghĩa được bao hàm trong ấy, ư nghĩa ǵ vậy?
Âm nhạc ấy có thể khiến cho người trong thế
giới Cực Lạc sau khi nghe xong, tự nhiên phát khởi
cái tâm niệm Tam Bảo, tự nhiên có ư niệm niệm Phật,
niệm Pháp, niệm tỳ-kheo Tăng. Loại âm nhạc này
thật sự tốt đẹp! Trong thế giới này,
ngoài các thứ xướng tán trong đạo tràng ra, trong
các thứ âm nhạc thường nghe ngoài đời, có loại
nhạc nào có công dụng [phát khởi đạo tâm] như
vậy? Âm nhạc [trong cơi Cực Lạc] dạy chúng ta niệm
Tam Bảo. Trong phép Quán trước đó, chúng ta đă liễu
giải Tam Bảo:
1) Niệm
Phật, Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Hễ niệm Phật, trong tâm hướng đến
giác ngộ. Hễ giác ngộ, những tà tri tà kiến trong
thế gian sẽ tự nhiên chẳng dấy khởi. V́ thế,
trong cái tâm niệm Phật, sẽ dấy lên sự giác ngộ.
2) Niệm
Pháp, Pháp là phương pháp tu tŕ, bao gồm các đạo lư
và các thứ phương pháp. Liễu giải pháp, sẽ có
thể đoạn trừ các thứ mê hoặc, điên
đảo và phiền năo. Ai nấy đều có vô cùng vô tận
phiền năo. Chẳng có Phật pháp, sẽ chẳng thể
đoạn những phiền năo ấy. Niệm Pháp có thể
đoạn phiền năo. Hễ đoạn phiền năo, sẽ
có thể minh tâm kiến tánh, tức là sẽ có thể thành
Phật.
3) Niệm
Tăng, “Tăng” là nói khi
đức Phật chẳng c̣n tại thế, Tăng là
người có thể truyền pháp cho người khác biết
tới [Phật pháp] (hóa độ chúng sanh phải cậy
vào Tăng Bảo). Niệm Tăng, cung kính Tăng là học
pháp. Tăng lại đại diện cho phước
điền. Gieo phước giống như gieo trồng
trong ruộng. Niệm Tăng là gieo trồng nơi vô
thượng phước điền, có thể đạt
được các thứ phước báo. Đối với
người niệm Phật, đạt được
phước báo rất quan trọng! Rất nhiều người
niệm Phật, niệm đến khi tương lai sắp
văng sanh bèn gặp đủ mọi nỗi chướng ngại,
điều này chứng tỏ [người ấy] phước
báo không đủ. Người có phước báo thường
là có rất ít chướng ngại, tu tŕ rất thuận lợi,
tới khi lâm chung, cũng chẳng có các thứ chướng
ngại. Đó là phước báo. Niệm Tăng sẽ có
những thứ phước báo ấy.
Sau
khi đă văng sanh Cực Lạc, vẫn phải niệm
Tăng, vẫn cần có phước báo. V́ sao? Ngoài việc
chính ḿnh tiếp tục tu cao hơn cho đến khi thành Phật
ra, trong tương lai, sẽ độ chúng sanh. Để
hóa độ chúng sanh, cũng cần phải có phước
báo. Chẳng có phước báo [sẽ gặp đủ mọi
nỗi khó khăn]. Nếu như chúng ta khuyên kẻ khác niệm
Phật, quư vị vừa khuyên, người ta liền tin
tưởng, chịu niệm Phật, chứng tỏ quư vị
có phước báo, có thể độ chúng sanh. Chẳng
đủ phước báo, khuyên người khác niệm Phật,
người ta chẳng chịu niệm, chứng tỏ là
[bản thân chúng ta] hành Bồ Tát đạo có chướng
ngại, chẳng đủ phước báo! V́ vậy,
đến thế giới Cực Lạc, vẫn phải
tiếp tục tu phước báo. Lại nói theo một tầng
ư nghĩa sâu hơn, đến thế giới Cực Lạc,
Tam Bảo như chúng ta đang nói hiện thời chính là Biệt
Thể Tam Bảo. Nói đến chỗ sâu nhất, sẽ
là: Ngay trong một niệm của chúng sanh, đă trọn
đủ Phật, Pháp, Tăng, bản tánh của chúng ta là
Phật. Trong bản tánh có các pháp, tức là pháp để
giác ngộ. Bản tánh chính là Tăng. Phật, Pháp, Tăng
Tam Bảo Nhất Thể, đều trọn đủ
trong tâm tánh của chúng ta. Do vậy, niệm Tam Bảo trong
thế giới Cực Lạc chẳng giống như niệm
Tam Bảo trong thế gian này. Ở trong thế giới [Sa
Bà] này, mà có thể cung kính niệm Biệt Thể Tam Bảo
sẽ là rất khá, sẽ là bậc cao nhân, công phu tu tŕ rất
lỗi lạc! Tạm thời chẳng nói đến Nhất
Thể Tam Bảo, ở trong thế giới này mà nói Nhất
Thể Tam Bảo th́ sẽ chẳng thực hiện
được. Chỉ có thể nói tới Biệt Thể
Tam Bảo, hễ trông thấy tượng Phật trong chánh
điện của chùa miếu bèn coi như Phật thật
sự, niệm Phật, lạy Phật. Thấy kinh điển,
bèn cung kính tôn kính kinh (tôn kính Pháp). Thấy Tăng Bảo bèn
cung kính kính trọng Tăng. Có thể ǵn giữ chữ Kính
này, chúng ta sẽ có thể khai trí huệ.
“Thử tưởng thành dĩ,
danh vi thô kiến Cực Lạc thế giới bảo thụ,
bảo địa, bảo tŕ” (Tưởng này đă
thành, gọi là thấy cây báu, đất báu, ao báu trong thế
giới Cực Lạc về phần thô). Câu nói tổng
quát trong đoạn Tổng Quán này được dùng làm tiểu
kết, tức là: Sau khi đă thành tựu phép quán tưởng
này, sẽ gọi là “thô kiến
Cực Lạc thế giới”. Nói “thô kiến” (粗見), nghĩa là thấy
khái lược, chẳng phải là thấy tường tận.
Thấy tường tận th́ do tâm lư và tâm nhăn của chúng
sanh trong thế giới này quá nhỏ, tưởng tượng
nhiều như vậy, cặn kẽ như vậy,
đơn giản là chẳng thể dung nạp, chỉ có
thể “thô kiến”, tức
là thấy đại khái cây báu, đất báu, và ao báu trong
thế giới Cực Lạc như đă nói trong phần
trước. Trong phần trước, đă nói khá chi tiết,
ở đây là Tổng Quán, tức là chỉ nắm lấy
những điều quan trọng khái lược, nghĩa
là: Thế giới Cực Lạc là một thế giới
lưu ly, toàn thể đại địa là lưu ly.
Điều trọng yếu nhất trên khối lưu ly ấy
là cây báu. Kế đó là đất báu. Trên đất báu, vạch
ra giới tuyến, và ao sen bảy báu. Hăy nắm chắc mấy
điểm quan trọng này, suy nghĩ từng tầng một.
Câu này bao gồm những hoàn cảnh đă được quán
thành công trong phần trước: Ao báu, đất báu, cây
báu đều đă được nói trong phần trước;
ở đây là phần tiểu kết luận. Do trong phần
trước đă quán, hễ nhắc tới cây báu, trong tâm
ngay lập tức nghĩ tới t́nh huống của cây báu
như đă nói trong phần trước. [Đối với]
đất báu, cũng là như vậy. Như trong phần
trước đă nói tới ao báu, mười bốn con
kênh, ao có nước tám công đức, đáy kênh có kim cang
nhiều màu, nước chảy rót quanh hoa sen. Hễ nhắc
tới ao báu, sẽ tưởng đến toàn thể [những
điều] liên quan đă được nói trong phần
trước. Đó là một điểm quan trọng.
Lại nữa,
chúng ta phải liễu giải: Chúng ta xem kinh văn th́ phải
“tùy văn nhập quán”,
[nghĩa là] thuận theo những đạo lư do kinh văn
đă nói, tâm bèn suy tưởng, quán tưởng. Khi quán
tưởng, tâm nhất định phải rộng mở!
Cái tâm hiện thời của chúng ta quán kiểu nào cũng
chẳng thể quán được, vấn đề ở
chỗ nào? Do chẳng mở rộng tâm lượng. Nhất
định là phải mở rộng tâm lượng. Tâm chẳng
mở rộng, chúng ta ngỡ đại địa trong thế
gian này to ngần ấy, chẳng biết: Toàn thể địa
cầu đặt trong ao sen của thế giới Cực
Lạc, sẽ chẳng thấy đâu hết! Đối với
từng cánh sen, chúng ta ngỡ diện tích của Đài Loan
cũng khá lắm, thế mà đặt [Đài Loan] vào trong
một cánh hoa sen nơi ao bảy báu, chỉ sợ vẫn
là chẳng thấy chi cả! Cây cao bao nhiêu do-tuần, đối
với một phiến lá trên cây, cậy vào tâm lượng
[hẹp ḥi] của chúng ta [trong hiện tại], sẽ chẳng
trông thấy ngằn mé. Do vậy, nhất định là phải
mở rộng tâm lượng.
Mở
rộng cái tâm như thế nào? Tâm chúng ta chẳng mở rộng,
vấn đề ở chỗ nào? Trong quá khứ, mỗi lần
thầy chúng ta khai thị trong Phật Thất, nói đến
cuối cùng, lăo nhân gia đều bảo: “Buông xuống vạn duyên, một câu Phật hiệu
một mực tŕ măi”. Nhất loạt dặn ḍ mấy
câu như thế đó! Bất luận chúng ta tŕ danh niệm
Phật, hay nghiên cứu Quán Kinh, ư niệm của chúng ta phải
đặt nơi thế giới Cực Lạc, cũng [có
nghĩa là] phải buông xuống hết thảy mọi
duyên trong thế giới này, phải buông xuống vạn
duyên. Chẳng buông xuống vạn duyên, tâm sẽ bị các
thứ nhân duyên trong thế giới này che lấp, chẳng
có cách nào tiếp xúc và cảm ứng thế giới Cực
Lạc. Vấn đề ở ngay chỗ này. Do vậy,
điều quan trọng nhất là chúng ta nghiên cứu kinh
này, nhất là khi tŕ danh, nhất định phải buông xuống
vạn duyên. Bất luận thế giới này tốt đẹp
cỡ nào, cố nhiên là chẳng tham luyến nó. Đối
với chuyện khổ sở nhất, chẳng tốt
đẹp nhất trong thế giới này, chúng ta cũng chẳng
cần đau khổ v́ nó. Chúng ta vốn giống như
khách qua đường trong thế giới này, chẳng phải
là dân cư đă lâu, đau khổ v́ những giả tướng
sanh sanh diệt diệt ấy để làm ǵ? Hăy buông hết
thảy xuống! Thuận cảnh cũng thế, mà nghịch
cảnh cũng thế, hết thảy đều buông xuống!
Mở mang tâm lượng như vậy. Hễ tâm rộng
mở, trông thấy cây báu trong thế giới Cực Lạc
cũng thế, đất báu cũng thế, ao báu cũng
thế, chúng to ngần nào, quư vị sẽ có thể thấy
nó to ngần ấy. Đó là điểm quan trọng nhất.
“Thị vi Tổng Quán tưởng,
danh đệ lục Quán” (Đó là phép quán tưởng Tổng
Quán, gọi là phép Quán thứ sáu). Những điều
đă nói trên đây, từ cơi nước bằng các thứ
báu cho đến thấy đại lược cây báu,
đất báu, ao báu trong thế giới Cực Lạc, được
gọi là Tổng Quán Tưởng, tức là đối với
những điều quán tưởng đă nói trong phần
trước, đều gộp chung lại để quán
tưởng, mệnh danh là phép Quán thứ sáu. [Các phép Quán y
báo] nói đến đây là hết. Đă quán tưởng
toàn thể y báo trong thế giới Cực Lạc xong, tiếp
theo đây, sẽ nói về chánh báo trang nghiêm, [tức là] nói
cách quán A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát
như thế nào. Ở đây, dùng câu nói “danh đệ lục Quán” để tổng kết.
“Nhược kiến thử giả,
trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp,
mạng chung chi hậu, tất sanh bỉ quốc” (Nếu
thấy những điều này, sẽ trừ ác nghiệp
cực nặng trong vô lượng ức kiếp, sau khi mạng
chung, ắt sanh về cơi ấy). Đoạn này nói đến
sự thành tựu trong quán tưởng, trông thấy cây báu, đất báu, ao báu v.v… trong thế
giới Cực Lạc, sẽ đạt được
nhiều lợi ích ngần ấy. “Nhược kiến thử giả” (Nếu thấy
những điều này), [nghĩa là] có thể quán thành công
những điều đă nói trên đây, sẽ có thể thấy
đại lược thế giới Cực Lạc. Tuy là
thấy đại lược thế giới Cực Lạc,
đă tuyệt diệu lắm rồi! Trông thấy đại
lược t́nh h́nh của cây cối, đất đai, và
ao nước trong thế giới Cực Lạc, sẽ đạt
được lợi ích là có thể trừ ác nghiệp cực
nặng. Chúng ta là chúng sanh phàm phu trong thế gian này, chẳng
có ai không tạo ác nghiệp. Ác nghiệp có nặng và nhẹ.
Ác nghiệp nặng nề, nói theo Ngũ Giới cũng thế,
mà nói theo Bồ Tát Giới cũng thế, mọi người
đều biết “giết, trộm, dâm” đều là ác
nghiệp nặng nề. Nếu nói đến [ác nghiệp]
cực trọng, trong phần trước của bộ
kinh này đă nói: Giết cha là ác nghiệp cực trọng.
Vào thời đại loạn lạc ở Trung Hoa thuở
xưa, những đứa loạn thần tặc tử
giết cha, giết vua cũng là tạo ác nghiệp cực
trọng. Trong thế gian này, v́ sao có lắm kẻ tạo
ác nghiệp cực nặng dường ấy? Chủ yếu
là do tâm tham quá nặng! Tham, sân, si, mạn, nghi: Tham là tâm tham, Si là ngu si, chẳng thấy
rơ sự thật, Mạn là tự ḿnh ngạo mạn, khinh
thường kẻ khác, cứ nghĩ ư kiến của
chính ḿnh là đúng, người khác đều sai be bét. Tâm
sân hận lại càng tệ hơn, lại c̣n có nghi hoặc
(hoài nghi). Bất cứ chúng sanh nào cũng đều có những
phiền năo cực nặng ấy, hễ có cơ hội
bèn tạo ác nghiệp. Chúng ta trông thấy những kẻ
loạn thần tặc tử giết cha, giết vua trong lịch
sử, đừng có thấy họ làm chuyện đó, c̣n
chúng ta chẳng làm, bèn cảm thấy chính ḿnh lỗi lạc
lắm. [Thật ra], chúng ta [không làm là v́] chẳng có cơ hội!
Hễ có cơ hội, sẽ giết vua, giết cha giống
y hệt! Trong lịch sử, Đường Thái Tông là một
vị hoàng đế tốt, do tranh đoạt ngôi vua mà giết
chết anh ḿnh[1], tạo
thành trọng tội cực nặng! Trong lịch sử,
cùng một gia tộc, anh em do tranh giành
ngôi vị đế vương bèn cừu hận, sát hại
lẫn nhau rất nhiều! Có lớn hay nhỏ, lớn th́
tạo đại tội nghiệp, nhỏ th́ tạo tiểu
tội nghiệp. Nói chung, trong thế gian này, chỉ cần
là phàm phu, ai nấy đều có thể tạo ác nghiệp
trọng đại.
Nếu
có thể thấy đại lược thế giới Cực
Lạc, sẽ có thể trừ được ác nghiệp
cực trọng ấy. Không chỉ là diệt trừ, lại
c̣n là diệt trừ ác nghiệp đă tạo trong đời
đời kiếp kiếp từ vô lượng ức kiếp
tới nay, hăy nghĩ đi! Trong vài chục năm ngắn
ngủi, chúng ta đă tạo ác nghiệp khôn xiết, huống
hồ là nhiều đời nhiều kiếp chồng chất!
Ác nghiệp đă gây tạo, tích lũy trong vô lượng ức
kiếp, hễ có thể trông thấy đại lược
thế giới Cực Lạc, bèn có thể diệt trừ.
Hăy ngẫm xem: Lợi ích ấy to cỡ nào? Hơn nữa,
càng quan trọng hơn là “mạng
chung chi hậu, tất sanh bỉ quốc” (sau khi mạng
chung, ắt sanh về cơi ấy). Mỗi người chúng
ta bất luận thọ mạng dài cỡ nào, nói theo thọ
mạng của kẻ b́nh phàm, có người thọ bảy
mươi mấy tuổi, có người tám mươi mấy
tuổi, có người chín mươi tuổi, cũng có
người sống hơn trăm tuổi. Dẫu sống
hơn trăm năm, vẫn có lúc kết
thúc. Sau khi mạng chung, rốt cuộc những kẻ b́nh
phàm ấy sẽ đi về đâu? Họ chẳng biết!
Người học Phật mà chẳng học Tịnh
Độ Tông, chẳng hoàn toàn đoạn Kiến Tư Hoặc,
đời sau sẽ sanh về đâu? Họ cũng chẳng
nắm chắc. Ưu điểm của pháp môn Niệm
Phật trong Tịnh Độ Tông là như thế này: Sau
khi mạng chung, sẽ có chỗ quy túc, trở về nơi
đâu? Về nhà, tức là trở về thế giới Cực
Lạc. Thế giới Cực Lạc là nhà của chính
ḿnh. Do đó, sau khi mạng chung, “tất
sanh bỉ quốc”, [nghĩa
là] tất nhiên văng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu
chẳng có công phu ấy, dẫu muốn về nhà, sẽ
có đủ mọi nỗi chướng ngại, chẳng
quay về được, vẫn là chẳng được
rồi! Ắt phải quét sạch chướng ngại (kể
cả ác nghiệp), hết thảy đều trừ khử
sạch. Sau khi mạng chung, tất nhiên là nhất định
có thể sanh về thế giới Cực Lạc. Hễ
sanh về thế giới Cực Lạc, đương
nhiên là thoát khỏi lục đạo luân hồi trong thế
gian. Càng đáng quư hơn nữa là sanh về cơi kia, sẽ
có thể thành Phật rất mau chóng! Ở trong thế giới
này, chúng ta tu hành thành Phật khó khăn như thế
đó! Để tu hành thành Phật trong thế gian này, Thích
Ca Mâu Ni Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, nhọc nhằn thay! Kẻ b́nh phàm có thể làm
được hay không? Đến thế giới Cực Lạc,
sẽ có chuyện tốt đẹp như thế ấy!
Đoạn này nói đến lợi ích sẽ đạt
được [do tu phép Quán này].
“Tác thị Quán giả, danh vi Chánh
Quán. Nhược tác tha quán, danh vi Tà Quán” (Quán như vậy
th́ gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi, sẽ gọi là
Tà Quán). Đoạn này phân định Quán có chánh và tà. Tà là
ǵ? Hoàn toàn chiếu theo phương pháp ở đây để
dụng công, để quán, th́ gọi là Chánh Quán. Nếu sử
dụng phương pháp không đúng pháp, “không đúng pháp” là chẳng giống như kinh dạy,
th́ gọi là “tha quán”. Tha Quán
(quán khác đi) chính là Tà Quán! Tà Quán sẽ hại người!
Tà Quán không chỉ là chẳng thể trừ khử ác nghiệp
cực nặng nhiều ngần ấy, thậm chí c̣n tạo
ác nghiệp. Tà và chánh hết sức trọng yếu, nói
như thế nào? Tuy chúng ta tŕ danh niệm Phật, chẳng
tu pháp Quán này, nhưng chúng ta chẳng thể không liễu giải.
Nếu như chúng ta chẳng liễu giải pháp Quán Tưởng
Niệm Phật, hiện thời, khắp nơi người
ta đều nói: “Quán như thế này, Quán như thế nọ,
phương pháp rất nhiều”. C̣n nói: “Có thể thành tựu rất nhanh, không tin th́ hăy
hành thử xem!” Họ có lắm cách nói, dẫn dụ học
nhân học theo họ. Nhưng nếu bảo họ mở
Quán Kinh ra xem, nêu câu hỏi yêu cầu họ giải thích,
ngay cả văn tự trong kinh văn họ cũng chẳng
thông! Hiện thời, hạng người như vậy
đông lắm! Nếu chúng ta chưa từng xem kinh văn,
chưa nghiên cứu, chẳng liễu giải, nghe lời lẽ
dường như đúng nhưng thật ra sai be bét ấy,
sẽ suy nghĩ: “Chính ḿnh tŕ danh niệm Phật đă lâu
như vậy, dường như chẳng đạt
được cảnh giới chi hết, cũng chẳng
có tiến bộ chi cả. Người ta đă nói [tu Quán]
tốt đẹp dường ấy, thành tựu nhanh
như vậy, hăy thử học xem sao”. Hễ học thử
tức là đă mắc lừa mất rồi! Đă bước
vào đường tà, đáng sợ lắm! Ắt phải
liễu giải điều này!
Sau
khi chúng ta đă liễu giải phương pháp được
dạy trong Quán Kinh, ngàn muôn phần đừng coi thường
rồi tu Quán. Cố nhiên là chúng ta chẳng học theo Tà Quán
do kẻ khác nói, [thế nhưng] chính ḿnh dựa theo kinh này
để tự tu, có được hay không? Cũng chẳng
thể làm như vậy được! Chuyện này giống
như chúng ta học bơi lội, mở sách dạy
bơi ra xem, có bơi được hay không? Vô dụng! Thật
sự học bơi th́ vẫn phải được huấn
luyện viên chỉ dạy bơi lội từng bước
một mới được! Chẳng được huấn
luyện viên chỉ dạy, cứ nhảy ùm ngay xuống
nước, chẳng thể nào không chết đuối!
Cùng một đạo lư, nếu chúng ta học pháp môn quán
tưởng mà chẳng có một vị thiện tri thức
từng thật sự tu Quán, thật sự quán thành công chỉ
dạy, ngàn muôn phần đừng tự ḿnh tu mù luyện
đui! Trước hết, phải liễu giải: Chớ
nên tin theo tà thuyết của những kẻ bên ngoài[2]. Kế
đó, phải liễu giải: Tuy hiểu phương
pháp, chớ nên tự tu, chúng ta phải kiên tŕ học Tŕ Danh
Niệm Phật; nhưng thông hiểu phương pháp và
đạo lư trong Quán Kinh, sẽ có ích, cũng có nghĩa là
khi tâm niệm của chúng ta không niệm Phật, trong tâm
hăy tưởng hoàn cảnh tốt đẹp trong thế
giới Cực Lạc, chẳng có vấn đề ǵ! Quen
thuộc với hoàn cảnh ấy, trong tương lai, khi thọ
mạng đă hết, hễ văng sanh bèn “tựu lộ hoàn gia” (就路還家, theo đường
về nhà). Tổ sư nói như vậy, văng sanh bèn hết
sức thuận lợi!
Tập 26
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười một,
bắt đầu từ hàng cuối cùng. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Đế thính,
đế thính, thiện tư niệm chi, ngô
đương vị nhữ phân biệt giải thuyết
trừ khổ năo pháp. Nhữ đẳng ức tŕ, quảng
vị đại chúng, phân biệt giải thuyết”.
(經)佛告阿難,及韋提希:諦聽諦聽,善思念之,吾當為汝分別解說除苦惱法。汝等憶持,廣為大眾,分別解說。
(Kinh:
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Lắng
nghe, lắng nghe! Hăy khéo suy niệm. Ta sẽ v́ các vị
phân biệt, giải nói cách trừ khổ năo. Các vị hăy
nên ghi nhớ, ǵn giữ, rộng v́ đại chúng phân biệt,
giải nói”).
IV.2.2.8. Phép Quán thứ bảy,
Hoa Ṭa Quán
Bộ
kinh này có tất cả mười sáu phép Quán; trong phần
trước, đă nói sáu phép Quán. Phép Quán thứ sáu là Tổng
Quán, quán chung y báo trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, tức là toàn thể hoàn cảnh trong thế giới
Cực Lạc, từ quán mặt trời lặn cho đến
đại địa, ao báu, và cây cối v.v… trong thế giới
Cực Lạc. Sau khi đều đă quán xong, cho đến
[phép Quán] được nói trong lần trước chính là
tổng hợp toàn thể để quán tưởng lần
nữa. Hôm nay, lại bắt đầu sang một giai
đoạn mới, nói về chánh báo. “Chánh báo” (正報) là nói tới
A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát trong thế
giới Cực Lạc. Quán chánh báo tinh vi, kín nhiệm
hơn y báo đă nói trong những phần trước. Do vậy,
đây là một giai đoạn khác. Xét theo phương diện
dụng công trong phương pháp Quán th́ càng phải chuyên tâm
hơn!
Phép
Quán thứ bảy là quán chánh báo, nhưng vẫn chưa nói
đến thân tướng của đức Phật, mà
trước hết là quán tọa vị để ngồi
của đức Phật. Phép Quán này có tên là Hoa Ṭa Quán. Phải
quán theo thứ tự. Chẳng có thứ tự, sẽ không
thể quán được. Trước hết là phải
quán minh bạch hoa ṭa (“hoa”
là hoa sen), tức là ṭa hoa sen của đức Phật, sau đấy
mới quán thân Phật. Do vậy, phép Quán này được
gọi là Hoa Ṭa Quán (華座觀).
Trước
hết, chúng ta xem đoạn kinh văn thứ nhất: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề
Hy”, [nghĩa là] Thích Ca Mâu Ni Phật bảo hai vị tôn
giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy, “đế thính, đế thính”, [nghĩa là] phải
dụng tâm khéo nghe, “thiện
tư niệm chi”, [nghĩa
là] nghe xong, c̣n phải khéo suy niệm. “Thiện tư niệm” là khéo nghiên cứu, suy
nghĩ. Học Phật pháp là Văn, Tư, Tu. “Đế thính, đế thính” thuộc
về phương diện Văn. “Thiện tư niệm chi” là Tư. Suy nghĩ,
nghiên cứu đạo lư và phương pháp đă
được nghe, cần phải dụng tâm suy xét. Sau khi
suy xét, mới có thể tu tŕ đúng pháp. Chẳng có Văn
và Tư, sẽ chẳng có cách nào Tu. V́ thế, ở đây
nói là “đế thính, đế
thính, thiện tư niệm chi” (lắng nghe, lắng
nghe, hăy khéo suy niệm). “Ngô
đương vị nhữ phân biệt giải thuyết”
(Ta sẽ v́ người phân biệt, giải nói), “ngô” (吾, ta) là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng,
xưng hô chính ḿnh, “đương
vị nhữ”: Sẽ v́ quư vị. “Phân biệt giải thuyết”: Giải nói từng
tầng một! Giải nói những ǵ? “Trừ khổ năo pháp” (cách trừ khổ năo).
Trong phần trước, phu nhân Vi Đề Hy đă nói: Thế
gian này quá khổ, muốn t́m một chỗ chẳng có khổ
năo. Do vậy, đức Phật phải phân biệt, giải
nói pháp trừ khổ năo. Nói cách khác, phương pháp này có
thể diệt trừ khổ năo. “Nhữ đẳng ức tŕ”, “nhữ đẳng” (汝等) là các vị, chỉ tôn giả A Nan và phu
nhân Vi Đề Hy, “ức tŕ”
(憶持) nói gộp chung với “đế thính, đế thính” tức Văn và “thiện tư niệm chi” tức
Tư trong phần trước th́ Ức Tŕ là Tu. Ba bộ
phận Văn, Tư, Tu đều bao gồm trong ấy. Ức
Tŕ để làm ǵ? “Quảng vị
đại chúng, phân biệt giải thuyết” (Rộng
v́ đại chúng, phân biệt giải nói): Dùng pháp trừ
diệt khổ năo do ta đă nói để học, trải
qua sự tu học Văn Tư Tu, sau đấy, sẽ
độ chúng sanh rộng khắp, rộng v́ đại
chúng phân biệt giải nói.
Trong
đoạn kinh văn này, có những danh từ chúng ta phải
đặc biệt chú ư; nếu không, sẽ chẳng thể
liễu giải thâm nhập ư nghĩa trong kinh. Ví như
đă nói xong mấy phép Quán trong phần trước, tới
đây bèn đặc biệt nói “đế
thính, đế thính”, v́ đây là một giai đoạn
khác: Sẽ quán chánh báo. Quán chánh báo chẳng giống như
y báo. Đương nhiên là y báo cũng chẳng dễ quán,
nhưng so sánh giữa y báo và chánh báo, y báo thô thiển
hơn một tí. Ví như so sánh giữa thế giới,
núi, sông, đại địa và thân người, nghiên cứu
núi, sông, đại địa sẽ dễ hơn nghiên cứu
thân người. Rốt cuộc là núi, sông, đại địa
thô thiển hơn! Nếu nghiên cứu thân người, nói
theo phương diện sinh lư th́ đă [quá phức tạp]
đủ cho chúng ta nghiên cứu. Thân thể có các thứ bệnh
trạng, bệnh do đâu mà có? Măi cho đến hiện thời,
rất nhiều loại bệnh tật vẫn chưa t́m
ra nguyên nhân, có thể thấy là khó khăn [đến mức
độ nào]. Đấy vẫn là xét theo phương diện
sinh lư. Nói theo phương diện tâm lư và tinh thần, con
người có lúc vui sướng, có lúc buồn khổ. Nho
gia nói “hỷ, nộ, ai, lạc”
(mừng, giận, buồn, vui), những thứ t́nh tự
tâm lư ấy, đừng nói là kẻ khác chẳng có cách nào
nghiên cứu, ngay cả chính ḿnh mong hiểu rơ, muốn khống
chế, đều rất khó! Có thể thấy là chánh báo
khó hơn y báo rất nhiều! Do vậy, muốn thực
hiện công phu tác quán, đă quán thành công y báo trong phần
trước, cũng thấy hoàn cảnh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp
ngần ấy, quan trọng nhất vẫn phải là quán
chánh báo. Chánh báo vi tế hơn y báo, cho nên càng khó quán. Do vậy,
trước hết, đức Phật bảo tôn giả A
Nan và phu nhân Vi Đề Hy: “Đế
thính, đế thính”. Nói “đế
thính” (諦聽) có
nghĩa là bảo [hai vị ấy và những người
sẽ tu pháp Quán này trong tương lai] phải hoàn toàn dốc
hết tinh thần tập trung, phải nghe lời Phật
dạy sao cho hoàn toàn rơ ràng, tâm tư chớ nên rong ruổi
tán loạn. Nghe xong, c̣n phải khéo suy niệm. Sau khi nghe
xong pháp này, hoàn toàn chẳng phải là vừa nghe bèn hiểu rơ ngay, trong tâm c̣n phải khéo suy xét:
V́ sao đức Phật phải giảng pháp này? Rốt cuộc
là tốt đẹp ở chỗ nào? Dụng công như thế
nào? Đều suy xét những điều ấy! V́ thế,
khi sắp nói đến phép Quán chánh báo, [đức Phật]
mới đặc biệt thêm vào từ này (“đế thính”) khiến cho họ chú ư nghe.
Sau khi nghe xong, c̣n phải khéo suy xét.
Tiếp
đó, nói: “Ngô đương vị
nhữ phân biệt, giải thuyết trừ khổ năo
pháp” (Ta sẽ v́ các vị phân biệt, giải nói cách trừ
khổ năo). Đối với chữ “khổ năo” (苦惱) trong câu
“trừ khổ năo pháp”, “khổ” (苦) là thống
khổ, “năo” (惱) là phiền
năo. Chúng sanh trong thế giới Sa Bà, bất luận là bất
cứ chúng sanh nào cũng đều có khổ năo. Khổ
năo có thể nói theo hai phương diện là y báo và chánh
báo. Y báo là hoàn cảnh của chúng sanh, hoàn cảnh cũng tạo
cho chúng ta đủ mọi nỗi khổ năo. Ví như xét
theo phương diện thời tiết th́ có gió, mưa, lạnh,
nóng, nhiệt độ buổi sáng và buổi tối v.v…
sai khác quá lớn (buổi sáng vả buổi tối rất
lạnh, giữa trưa lại rất nóng), người trẻ
tuổi chẳng cảm thấy, chứ năng lực
thích ứng nơi thân thể người già khá kém, sẽ
cảm nhận đủ mọi nỗi khổ năo. Ở
đây, chỉ nêu ra một phương diện mà thôi! Lại
ví như động đất, băo lốc, thủy tai, hạn
hán v.v… rất nhiều! Chẳng có chỗ nào không đem lại
khổ năo cho chúng ta. Đó là xét theo phương diện y
báo.
Về
phương diện chánh báo th́ sao? Bản thân của bất
cứ chúng sanh nào cũng đều có các thứ khổ
năo. Xét theo phương diện thân thể, thân thể xét
theo tánh chất tiên thiên[3] rất
suy yếu, hoặc là thân thể thuộc về tánh hậu
thiên chẳng khỏe, năng lực thích ứng rất kém
cỏi, sẽ đều tạo thành những nỗi khổ
năo cho chúng ta. Lại nói đến sự cư xử giữa
con người với nhau, mỗi người có ư kiến
riêng, chẳng thể điều ḥa. Chúng sanh phàm phu luôn có
Ngă Chấp và Pháp Chấp, chấp trước hết sức
dữ dội. Chấp trước càng dữ dội, khổ
năo càng nặng nề! Có chúng sanh phàm phu nào mà chẳng có Ngă
Chấp và Pháp Chấp? Đừng tưởng chúng ta học
Phật đă nhiều năm, sẽ chẳng có Ngă Chấp
và Pháp Chấp, chẳng có chuyện ấy đâu nhé! Chỉ
cần chẳng đoạn Hoặc, Ngă Chấp và Pháp Chấp
thảy đều đầy ắp! V́ lẽ ấy, Tịnh
Độ Tông là đới nghiệp văng sanh. Nếu chẳng
đới nghiệp văng sanh, bọn phàm phu chúng ta mong đoạn
phiền năo trong thế gian này đúng là quá đỗi khó
khăn! V́ thế nói: Sự khổ năo nơi chánh báo của
chúng ta quá nhiều!
Chữ
“khổ năo” nói trong [đoạn]
kinh văn [trên đây chính là sự khổ năo nơi] chánh
báo và y báo. Có phương pháp nào để giải trừ
những nỗi khổ năo ấy hay không? Có phương
pháp! Phương pháp ấy là phương pháp trừ khổ
năo do Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ nói. Vậy th́ hăy ngay lập
tức tu quán chánh báo, hăy tu Quán. Nói cách khác, tu phép Quán này thành
công, sẽ có thể trừ khổ năo. Chúng ta hiểu
phương pháp này, công dụng và sức mạnh của
phép Tŕ Danh Niệm Phật sẽ lộ ra. Trong chúng ta, có rất
nhiều người thường ngày tŕ danh niệm Phật,
cảm thấy rất tốt, niệm rành rẽ, rơ ràng,
trong tâm rất b́nh lặng. Một ngày nào đó, hễ có
chuyện ǵ phiền phức hoặc khổ năo xảy
đến, Phật hiệu bèn chẳng thể niệm nổi!
Lúc tại thế, Tuyết công lăo sư thường nói: “Khi có phiền năo, hăy dùng Phật
hiệu để chèn ép”, nhưng đôi khi chúng ta cảm
thấy rất hổ thẹn, Phật hiệu chẳng thể
giằn ép phiền năo! V́ sao? Chúng ta chẳng hoàn toàn liễu
giải ư nghĩa của Phật hiệu. Nếu đối
với ư nghĩa, công đức và sức mạnh bao hàm
trong Phật hiệu đều liễu giải, hễ Phật
hiệu dấy lên, chúng ta sẽ có sức mạnh ngàn cân[4], ngay
lập tức có thể đè nén phiền năo, có công đức
to như thế ấy!
Khi
c̣n tại thế, thầy chúng ta cũng từng nói một
tỷ dụ. Ví như chúng ta đọc kinh sách của Nho
gia. Nho gia thông thường là đọc Tứ Thư,
Ngũ Kinh. Sách Đại Học trong Tứ Thư mở
đầu bằng câu: “Đại
học chi đạo, tại minh Minh Đức” (Đạo
học vấn to lớn là ở chỗ làm sáng tỏ cái
đức sáng). Dùng ngay bốn chữ “đại học chi đạo” để nói, một
đứa học tṛ tiểu học đọc câu “đại học chi đạo”
và một vị lăo nho (một nhà Nho tuổi đă rất
cao) đă đọc câu ấy nhiều năm, người
ấy có công phu tu tập vài chục năm, đối với
nghĩa lư của Nho học cũng liễu giải rất
nhiều, lại c̣n dụng công nhiều năm, miệng
người ấy đọc câu “đại học chi đạo”, và một đứa
trẻ chưa tới mười tuổi đọc câu “đại học chi đạo”,
[tŕnh độ liễu giải của] hai bên chẳng thể
so sánh được! Đứa bé đọc câu “đại học chi đạo”
là miệng đọc suông mà thôi, chẳng có sức mạnh
chi hết! Vị lăo nho hễ nói tới “đại học chi đạo”, trong tâm ngay lập
tức phát sanh tác dụng nhất định. Hễ nói tới
bốn chữ “đại học
chi đạo”, toàn bộ ư nghĩa trong sách Đại Học
liền hiện ra, dấy lên hiện hành trong tâm.
Suy
nghiệm từ tỷ dụ này, [sẽ biết] sau khi
chúng ta đă hiểu rơ phương pháp và đạo lư quán
tưởng, sẽ giúp chúng ta liễu giải Tŕ Danh Niệm
Phật, liễu giải một câu danh hiệu A Di Đà Phật.
Khi đó, sự liễu giải danh hiệu A Di Đà Phật
của chúng ta chẳng phải là nông cạn, hời hợt,
đơn giản như thế. Dấy lên một câu Phật
hiệu, [sẽ là như] tổ sư Ấn Quang đă dạy:
“Tất cả giáo lư của Tam
Tạng mười hai bộ cùng với công phu tu tŕ hoàn
toàn đều bao gồm trong một câu Phật hiệu”.
Nếu chúng ta thật sự có thể hiểu rơ đạo
lư này, lại thêm công phu tu tŕ của chính ḿnh trong lúc thường
ngày đều quy vào một câu Phật hiệu, hăy ngẫm
xem: Hễ dấy lên một câu Phật hiệu, sẽ có sức
mạnh to lớn ngần nào! Đừng nói là có thể
đè nén phiền năo, mà đoạn phiền năo cũng cậy
vào một câu Phật hiệu này! Chúng ta công phu không đủ,
chẳng thể đoạn phiền năo, nhưng đè nén
phiền năo sẽ chẳng có vấn đề ǵ. Cậy
vào chuyện này để đới nghiệp văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng trong thế giới Cực Lạc, vẫn
là niệm câu Phật hiệu này. Tới khi đó, niệm
Phật hiệu sẽ là thật sự đoạn phiền
năo. Do vậy, đây là cách trừ khổ năo!
Nêu
ra phương pháp này, công dụng quá lớn! Do vậy, [đức
Phật] nói “nhữ đẳng
ức tŕ”, [nghĩa là] sau khi quư vị đă nghe xong, hăy
nên khéo suy nghĩ, khéo nghiên cứu, tư duy, sau đấy ức
tŕ. “Tŕ” (持) là trong
lúc chánh thức dụng công, “Ức”
(憶) là khi chẳng dụng công, trong tâm vẫn
phải nhớ nghĩ, suy tưởng, chớ nên ĺa khỏi
phương pháp này, như vậy th́ mới có thể thành
tựu. Sau khi thành tựu, “quảng
vị đại chúng phân biệt, giải thuyết” (rộng
v́ đại chúng phân biệt, giải nói): “V́ đại chúng phân biệt, giải nói” chẳng
phải là nghe xong bèn nói với người khác. Cố nhiên
là cũng có thể nói, nhưng tiếng nói sẽ chẳng
đủ trọng lượng, ắt là chính ḿnh phải ức
tŕ, có công phu kha khá th́ nói ra, người nghe mới có thể
thật sự nghe ra ư nghĩa trong ấy. Thông thường,
nếu chỉ nghe, chẳng dụng công, sẽ chẳng
đủ sức mạnh; v́ thế, nhất định là
phải ức tŕ. Trong đoạn này, chúng ta phải hiểu
rơ mấy tầng ư nghĩa này, phải ức tŕ pháp trừ
khổ năo!
Trong
đoạn trên đây, Thích Ca Mâu Ni Phật nói với hai vị
ấy, đó là chỗ phải chú ư. Đoạn kinh văn
dưới đây cho biết: Khi đức Phật nói những
lời này, h́nh tượng của Tây Phương Tam Thánh
xuất hiện. Trước hết, tôi đọc kinh
văn một lượt:
(Kinh)
Thuyết thị ngữ thời, Vô Lượng Thọ Phật,
trụ lập không trung. Quán Thế Âm, Đại Thế
Chí, thị nhị đại sĩ, thị lập tả hữu,
quang minh xí thịnh, bất khả cụ kiến, bách thiên
Diêm Phù Đàn kim sắc, bất đắc vi tỷ.
(經)說是語時,無量壽佛,住立空中。觀世音,大勢至,是二大士,侍立左右。光明熾盛,不可具見。百千閻浮檀金色,不得為比。
(Kinh: Nói lời
ấy xong, Vô Lượng Thọ Phật đứng trên
không trung. Hai vị đại sĩ Quán Thế Âm và Đại
Thế Chí đứng hầu hai bên. Quang minh chói lọi, chẳng
thể thấy trọn, màu sắc của trăm ngàn loại
vàng Diêm Phù Đàn đều chẳng thể sánh bằng).
Đoạn
này tường thuật A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ
Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát (Tây Phương Tam
Thánh) xuất hiện trong không trung. “Thuyết thị ngữ thời” tức là ngay sau
lúc Thích Ca Mâu Ni Phật vừa nói xong lời ấy, “Vô Lượng Thọ Phật”
là A Di Đà Phật, “trụ lập
không trung”: Ngay lập tức hiện ra trong hư không.
Ngoài ra, “Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí”, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế
Chí Bồ Tát, “thị nhị
đại sĩ”, hai vị Pháp Thân đại sĩ ấy.
Pháp Thân đại sĩ là bậc Đại Bồ Tát
đă hiển lộ Pháp Thân. Hai vị ấy “thị lập tả hữu”,
[nghĩa là] một vị [đứng hầu] bên trái, một
vị ở bên phải, ở hai bên A Di Đà Phật. Ba vị
thánh nhân ấy (cố nhiên, Phật là thánh nhân, Quán Thế
Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát cũng là thánh
nhân), các Ngài “quang minh xí thịnh”
(quang minh chói lọi). Danh hiệu A Di Đà Phật có
nghĩa là “vô lượng quang,
vô lượng thọ”. Nói “quang
minh xí thịnh” nghĩa là quang minh tận hết sức
tỏa ra ngoài, càng tỏa ra ngoài càng rực rỡ, quang minh
càng nhiều! “Bất khả cụ
kiến” (Chẳng thể thấy trọn): Phàm phu b́nh
phàm chẳng có cách nào thấy trọn vẹn. “Cụ kiến” (具見) là trông thấy
hoàn toàn. Nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta chẳng thể
thấy hoàn toàn được. Làm sao có thể thấy
quang minh phát ra từ thân Phật và hai vị đại
sĩ cho được? Bất quá, tuy là chẳng trông thấy,
nhưng quang minh ấy chẳng giống như ánh sáng mặt
trời trong thế giới này. Ánh nắng mặt trời
chói rực, mắt chúng ta nh́n vào chẳng chịu nổi!
Ví như khi trời nắng gắt, nếu nhục nhăn của
chúng ta nh́n thẳng vào ánh nắng, sẽ chịu không nổi,
bị nhức mắt không chịu nổi! Chúng ta có thể
nh́n thử xem, khi tiết trời quang đăng, ánh nắng
gay gắt, mắt chúng ta nh́n thẳng vào mặt trời,
nh́n chẳng được mấy chốc, mắt đă
chịu không nổi, xuất hiện mọi nỗi khổ
sở như váng đầu hoa mắt!
Điều
này cho thấy chúng ta chẳng thể chịu nổi, ánh
sáng mặt trời quá mạnh mẽ, nhưng quang minh của
Tây Phương Tam Thánh chẳng phải là như vậy!
Quang minh ấy nhu ḥa, mắt của bọn phàm phu chúng ta có
thể nh́n được. Nếu không, sẽ chẳng thấy
được. Phu nhân Vi Đề Hy đă thấy (do sức
của Thích Ca Mâu Ni Phật, cảm động Tam Thánh từ
thế giới Cực Lạc hiện đến, khiến
cho phu nhân Vi Đề Hy trông thấy). Phu nhân Vi Đề
Hy trông thấy quang minh, tuyệt đối chẳng [cảm
thấy] chói gắt như ánh nắng. Ánh sáng mặt trời
hữu hạn, ánh sáng mặt trời so với quang minh của
A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế
Chí Bồ Tát, đơn giản là chẳng thể nào sánh bằng!
Tuy chẳng thấy trọn vẹn quang minh nơi tượng
Tam Thánh, nhưng khi nh́n vào, mắt chẳng bị kích thích,
càng nh́n càng thấy dễ chịu, càng nh́n tṛng mắt càng
thoải mái. Đấy là chỗ khác biệt rất lớn
giữa quang minh của đức Phật và ánh sáng mặt
trời.
V́
sao quang minh của đức Phật và hai vị đại
sĩ chẳng giống ánh sáng mặt trời? Chúng ta biết
ánh nắng do mặt trời phát ra, quang minh của Phật
và quang minh của hai vị đại sĩ Quán Âm, Thế
Chí từ đâu phát ra? Từ bản tánh phát ra; ánh nắng
hoặc ánh đèn điện tuyệt đối chẳng
thể sánh bằng tánh quang, những thứ ấy đều
là vật chất. V́ sao bọn phàm phu chúng ta niệm Phật
có thể cảm ứng? Tu quán tưởng cũng có thể
cảm ứng ư? Niệm Phật cũng thế, mà tu
quán tưởng cũng thế, tuyệt đối chẳng
phảỉ là trong tâm tán loạn, rối nùi mà có thể niệm
Phật tốt đẹp được. Trong tâm tán loạn
mà mong quán tưởng tốt đẹp, chẳng thể
nào được! Nhất định là phải chuyên tâm,
tập trung ư niệm trong tâm, buông xuống hết thảy
mọi chuyện trong thế gian, buông xuống vạn duyên!
V́ sao phải buông xuống vạn duyên? Chẳng buông xuống
vạn duyên, tâm chúng ta sẽ bị duyên lôi đến chỗ
này, kéo sang chỗ nọ, chẳng có cách nào tĩnh lặng
được, công phu vô dụng. Ắt phải buông xuống
vạn duyên th́ tâm mới có thể định được.
Sau khi đă định, quang minh trong bản tánh của
chúng ta mới có thể hiển lộ. Nếu phan duyên khắp
nơi, tánh quang đă bị vọng niệm phan duyên từng
tầng một che lấp, tánh quang chẳng thể thấu
lộ! Vậy th́ làm sao có thể cảm ứng Phật
quang cho được? Ắt phải buông xuống vạn
duyên. Sau khi buông xuống vạn duyên, quán tưởng
cũng thế, mà tŕ danh niệm Phật cũng thế,
tánh quang trong bản tánh mới thấu lộ. Khi ấy, mới
cảm ứng Phật quang của A Di Đà Phật và
đại sĩ quang trong thế giới Cực Lạc.
Đấy là cảm ứng đạo giao. Ở đây,
phu nhân Vi Đề Hy tuy vẫn chưa có công phu cảm ứng
Phật quang, nhưng do Phật lực khiến cho bà ta có
thể trông thấy, đă là tuyệt diệu lắm rồi.
V́ thế, bà ta trông thấy quang minh [của Phật và Bồ
Tát]. Tuy thấy, vẫn chưa thể thấy trọn vẹn,
chưa thấy hoàn toàn. Rốt cuộc, phu nhân Vi Đề
Hy và tất cả bọn phàm phu chúng ta vẫn thấy hữu
hạn. V́ sao? V́ chúng ta mở ḷng quá hẹp, chẳng thấy
xa rộng, chẳng thâm nhập ngần ấy! Lư do chẳng
thể thấy trọn vẹn là v́ lẽ này!
“Bách thiên Diêm Phù Đàn kim sắc”:
Trong phần trước, tôi đă có nói về vàng Diêm Phù
Đàn. Tại Ấn Độ, có một con sông tên là Diêm
Phù Đàn, tức là sông Diêm Phù. Vàng xuất phát từ con
sông ấy tốt nhất. Loại vàng ấy có ánh đỏ,
tức là màu của chất vàng rất đậm. Chúng ta
thường thấy màu của vàng là màu hoàng kim, c̣n sắc
vàng của loại vàng này gần như là đỏ, đặc
biệt tốt, cho nên gọi là “Diêm
Phù Đàn kim sắc”. Màu vàng của Diêm Phù Đàn không phải
chỉ là một loại, mà là có tới trăm ngàn loại.
“Bất đắc vi tỷ”
(chẳng thể sánh bằng): Chẳng thể dùng nhiều
vàng như vậy để sánh ví quang minh của Tây
Phương Tam Thánh! V́ sao chẳng có cách nào so sánh? Trong phần
trước, tôi đă có nói: Quang minh của Tam Thánh là tánh
quang, vàng Diêm Phù Đàn là một thứ sắc pháp, là vật
chất trong thế giới này. Cố nhiên, vàng quư báu; dẫu
quư báu, vẫn là vật chất. Do vậy, chẳng thể
sánh ví được! Chẳng có cách nào sánh ví. Tuy chẳng
có cách nào sánh ví, nhưng có thể dùng như một biện
pháp ḥng làm nổi bật ư nghĩa, khiến cho chúng ta liễu
giải. Những kẻ b́nh phàm như bọn chúng ta cứ
ngỡ màu sắc của vàng Diêm Phù Đàn là đẹp nhất,
nhưng màu sắc đẹp đẽ nhất vẫn chẳng
thể sánh bằng quang minh của Tam Thánh. [Do vậy, mọi
người nghe xong có thể tưởng tượng]
quang minh của Tam Thánh tốt đẹp đến mức
độ nào!
Đoạn
kinh văn này nói về h́nh tượng Tam Thánh và quang minh do
h́nh tượng Tam Thánh phát ra, quang minh của bất cứ
chất báu nào trong thế gian cũng đều chẳng có
cách nào sánh bằng. Đoạn này có ư nghĩa ǵ? Phải
chú ư câu “thuyết thị ngữ
thời” (khi nói lời ấy), [nghĩa là] ngay trong lúc
Thích Ca Mâu Ni Phật nói với tôn giả A Nan và phu nhân Vi
Đề Hy những lời ấy, Tây Phương Tam Thánh
ngay lập tức hiển hiện tại không trung. Điều
này chứng tỏ: Bất cứ chúng sanh nào, chỉ cần
có thể liễu giải Phật pháp, phát nguyện học
pháp môn này, hễ công phu đến nơi đến chốn,
sẽ có thể cảm ứng, tới khi mạng chung, tuyệt
đối có thể văng sanh. [Tam Thánh hiện thân] nhằm
chứng minh: Khi Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, Tây
Phương Tam Thánh ngay lập tức hiển hiện
để học nhân biết sự thật này. V́ thế,
trong mấy vị tổ sư Tịnh Độ Tông vào thời
cổ, có vị niệm một câu Phật hiệu, miệng
bèn phóng quang, có vị niệm Phật bèn hiện ra tượng
Phật. V́ sao có thể như vậy? Khi công phu đến
nơi đến chốn, buông xuống vạn duyên, công phu
sử dụng rất thuần thục, sẽ có những sự
cảm ứng như thế ấy. Đương nhiên là
trong khi chúng ta dụng công, tâm chớ nên mong cảm ứng.
Nếu trong tâm quư vị mong tưởng cảm ứng, sẽ
chẳng phải là nhất tâm niệm Phật, mà là nhị
tâm, tam tâm, đâm ra chẳng đạt được nhất
tâm! Khi niệm, chỉ quan tâm niệm. Khi tổ sư niệm
Phật, [các Ngài] cũng chỉ quan tâm niệm, hoàn toàn chẳng
nghĩ “niệm một câu Phật hiệu, miệng bèn
phóng ra một tia sáng”. Trong tâm các Ngài chẳng nghĩ như
vậy. Nếu nghĩ như vậy, đâm ra hỏng bét,
chẳng thể như vậy được! V́ thế,
khi dụng công, phải thuần túy dụng công, buông xuống
vạn duyên, nhất tâm bất loạn tŕ danh, tŕ đến
khi công phu đạt mức th́ mới có thể cảm ứng.
Tuy chẳng thấy Phật, nói theo đạo lư, chỉ cần
Tín, Nguyện, Hạnh, có tín tâm, có nguyện tâm, dựa trên
tín tâm và nguyện tâm để dấy khởi Phật hiệu,
ba tư lương đều trọn đủ. Dẫu
lúc niệm Phật, chẳng thấy Phật quang, bản
thân chúng ta đă ở ngay trong Phật quang. Hiểu lư, bèn
có lợi ích này, chẳng cần quan tâm chính ḿnh có thấy
quang minh (Phật quang) hay không! Chỉ cần dấy lên một
câu Phật hiệu, chúng ta đă ở ngay trong vô lượng
quang của Phật. V́ thế, đoạn này là dùng sự
thật để chứng minh, chiếu theo pháp để
tu tập, b́nh thường sẽ cảm nhận Phật
quang gia bị. Tới khi mạng chung, nhờ vào Phật
quang, sẽ có thể văng sanh thế giới Cực Lạc.
Trước
hết, tôi đọc kinh văn của đoạn tiếp
theo một lượt:
(Kinh) Thời Vi Đề
Hy, kiến Vô Lượng Thọ Phật dĩ, tiếp túc
tác lễ, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngă kim nhân Phật
lực cố, đắc kiến Vô Lượng Thọ Phật,
cập nhị Bồ Tát. Vị lai chúng sanh, đương
vân hà quán Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị Bồ
Tát?”
(經)時韋提希,見無量壽佛已,接足作禮。白佛言:世尊,我今因佛力故,得見無量壽佛,及二菩薩。未來眾生,當云何觀無量壽佛,及二菩薩?
(Kinh: Khi ấy,
Vi Đề Hy thấy Vô Lượng Thọ Phật rồi
bèn làm lễ sát chân đức Phật, bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Con nay do Phật lực được
thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ
Tát. Chúng sanh trong vị lai sẽ nên quán Vô Lượng Thọ
Phật và hai vị Bồ Tát như thế nào?”)
Đoạn
này khiến cho chúng ta biết căn cơ của phu nhân Vi
Đề Hy (trong phần kinh văn trước đó
đă có nói [điều này]) và quốc vương [Tần
Bà Sa La] khác nhau. Quốc vương là căn cơ Tiểu
Thừa, phu nhân Vi Đề Hy là căn cơ Đại Thừa.
V́ sao nói bà ta là căn cơ Đại Thừa? Chính bà ta được
thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị đại
sĩ, đương nhiên là trong tâm hoan hỷ. Ngay trong lúc ấy,
không chỉ là v́ chính ḿnh trông thấy bèn hoan hỷ, mà
cũng mong những kẻ khác [cũng được
hưởng niềm hoan hỷ ấy]. Không chỉ là trong
khi ấy, mà c̣n nghĩ đến những chúng sanh trong
đời vị lai măi cho đến chúng ta trong đời
hiện tại. Nghĩ thay cho bao nhiêu chúng sanh trong thuở
vị lai, đó là bậc Đại Thừa Bồ Tát, chẳng
phải là căn cơ Tiểu Thừa. V́ thế, đoạn
này chủ yếu nói: Sau khi bà ta đă thấy Phật, Bồ
Tát, đă nghĩ ngay tới rất nhiều chúng sanh trong
đời vị lai phải làm như thế nào th́ mới
có thể thấy Tây Phương Tam Thánh giống như bà
ta.
“Thời Vi Đề Hy”: Khi ấy,
phu nhân Vi Đề Hy, “kiến
Vô Lượng Thọ Phật dĩ”: Phu nhân Vi Đề
Hy đă thấy Vô Lượng Thọ Phật trong không
trung. “Dĩ” (已) là sau
khi đă thấy. Đương nhiên là hễ nói tới Vô
Lượng Thọ, sẽ bao gồm hai vị đại
sĩ Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. “Tiếp túc tác lễ”: Đừng nghĩ Tam Thánh ở
trên hư không, làm sao [bà Vi Đề Hy] lễ bái sát chân các
Ngài cho được? “Tiếp
túc” chẳng phải là hướng về Vô Lượng
Thọ Phật làm lễ, mà là hướng về Thích Ca Mâu
Ni Phật làm lễ, lạy Thích Ca Mâu Ni Phật. “Tiếp túc” (接足) là dùng
tay nâng hai chân đức Phật. Nay chúng ta lễ Phật,
lật ngửa bàn tay lên, biểu thị dùng tay nâng chân Phật,
gọi là “tiếp túc”.
Như thế là “tác lễ”,
tức lễ Phật. Lễ Phật xong, “bạch Phật ngôn”, “bạch”
(白) là thưa tŕnh, bẩm cáo, hướng về
đức Phật thưa thốt. Chữ “Phật” ở đây chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật.
“Thế Tôn” (Bhagavā): Thế
Tôn là một trong các danh hiệu của đức Phật.
“Ngă kim nhân Phật lực cố”:
Nay con cậy vào Phật lực, “đắc
kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập nhị Bồ
Tát”, có thể trông thấy Vô Lượng Thọ Phật
và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí;
đó là sự may mắn to nhất của con. “Vị lai chúng sanh” th́ sao?
Điều này có nghĩa là: Trong tương lai, lúc đức
Phật chẳng c̣n trụ trong thế gian, đông đảo
chúng sanh trong vị lai “đương
vân hà quán Vô Lượng Thọ Phật cập nhị Bồ
Tát?” “Vân hà” (云何) là làm thế nào, “quán” là thấy, [nghĩa là]
làm thế nào để có thể trông thấy, quán tưởng
Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ Tát? Nói lời
này là do ư nghĩa: V́ chúng sanh trong đời vị lai, thỉnh
cầu đức Phật hăy dùng phương pháp nào để
dạy dỗ chúng sanh trong thuở vị lai. Khi đức
Phật chẳng c̣n trụ thế, họ làm như thế
nào để có thể quán thấy Vô Lượng Thọ Phật
và hai vị đại sĩ? Thỉnh cầu đức Phật
hăy dạy một phương pháp.
V́
sao mong thấy Vô Lượng Thọ Phật và hai vị Bồ
Tát? Phật và Bồ Tát đều có quang minh. Thấy quang
minh có lợi ích ǵ? Thấy quang minh của Phật, Bồ
Tát, sẽ dẫn khởi tánh quang của chính chúng ta. Nếu
từng tia tánh quang của chính chúng ta thấu lộ, sẽ
tuyệt diệu lắm. Trong tánh quang, muốn ǵ có nấy!
Bọn phàm phu chúng ta trong thế gian này đáng thương
quá! Suốt ngày truy cầu thứ này, thứ nọ bên
ngoài, lại c̣n chưa chắc đă truy cầu được! Dẫu truy cầu được, sau khi
đă nắm trong tay, sẽ lại chuyển biến. Đấy
là pháp sanh diệt, sanh sanh diệt diệt, chẳng đáng
tin cậy. Sau khi quang minh trong bản tánh hiển lộ,
trong phần sau sẽ nói đến các thứ quư báu trong
quang minh. Ṭa hoa sen của đức Phật trong thế
giới Cực Lạc có quang minh nhiều ngần ấy,
trong bản tánh của chúng ta cũng có y hệt! V́ thế,
chỉ cần sau khi quang minh của chúng ta hiển hiện,
những ǵ đáng nên có, sẽ có trọn hết. Lần
sau, tôi sẽ nói tiếp, hôm nay chỉ có thể giảng
đến đoạn này.
Tập 27
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười hai, bắt
đầu từ ḍng thứ năm. Tôi đọc trước
một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Phật cáo Vi Đề Hy: “Dục quán bỉ Phật giả,
đương khởi tưởng niệm, ư thất
bảo địa thượng, tác liên hoa tưởng, linh
kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng, tác bách
bảo sắc. Hữu bát vạn tứ thiên mạch, do
như thiên họa. Mạch hữu bát vạn tứ thiên
quang, liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến.
Hoa diệp tiểu giả, tung quảng nhị bách ngũ
thập do-tuần. Như thị liên hoa, cụ hữu bát vạn
tứ thiên diệp”.
(經)佛告韋提希:欲觀彼佛者,當起想念,於七寶地上,作蓮華想。令其蓮華,一一葉上,作百寶色。有八萬四千脈,猶如天畫。脈有八萬四千光,了了分明,皆令得見。華葉小者,縱廣二百五十由旬。如是蓮華,具有八萬四千葉。
(Kinh:
Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: “Muốn quán
đức Phật ấy, hăy nên khởi tưởng niệm,
trên đất bảy báu tưởng một hoa sen, sao cho mỗi
cánh hoa sen ấy có màu sắc của trăm thứ báu, có
tám vạn bốn ngàn đường gân, giống như
nét vẽ thiên nhiên. Mỗi đường gân có tám vạn
bốn ngàn quang minh, [quán tưởng sao cho] rành rẽ phân
minh, thảy đều trông thấy. Cánh hoa nhỏ đă có
bề ngang và bề dọc là hai trăm năm mươi
do-tuần. Hoa sen như vậy có đủ cả tám vạn
bốn ngàn cánh”).
Đoạn
này vẫn là Hoa Ṭa Quán, “hoa ṭa” là
ṭa hoa sen. Trong đoạn kinh văn trước đó,
trước hết, đức Phật bảo tôn giả A
Nan và phu nhân Vi Đề Hy hăy lắng nghe. V́ sao? Bắt
đầu từ chỗ này, [đức Phật] chánh thức
giảng về cách quán tưởng chánh báo. Những phần
trước đó đều nói về y báo, thô thiển
hơn một chút, nhưng quán tưởng chánh báo vi tế
hơn. Do vậy, phải “đế
thính, đế thính” (lắng nghe, lắng nghe). Sau
đó, A Di Đà Phật cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát
và Đại Thế Chí Bồ Tát đều xuất hiện
trong không trung. Phu nhân Vi Đề Hy vừa thấy, hết
sức hoan hỷ; sau đấy, nghĩ chính ḿnh có thể
trông thấy [cảnh tượng ấy] quá tốt đẹp.
Do vậy, bà bèn v́ chúng sanh trong đời
vị lai thỉnh cầu, cũng là thỉnh cầu pháp
này: Chúng sanh trong đời vị lai phải làm như thế
nào th́ mới có thể thấy A Di Đà Phật và hai vị
đại sĩ? Đó chính là sự thỉnh pháp đă
được nói trong lần trước. [Trong đoạn
kinh văn] vừa mới niệm, đức Phật dạy
phu nhân Vi Đề Hy: Muốn quán A Di Đà Phật, trước
tiên, cần phải quán tưởng theo phương pháp sau
đây. Hôm nay, tôi nói tiếp [nội dung] của buổi giảng
lần trước.
Dưới
đây là một tiểu đoạn, hăy xem tiểu đoạn
ấy. “Phật cáo Vi Đề
Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy,
Ngài nói ǵ vậy? “Dục quán bỉ
Phật giả”: Muốn quán tưởng Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật, phải như thế nào
th́ mới có thể quán được? Tiếp đó, Ngài
nói một đạo lư và cũng là một phương pháp
quan trọng nhất, tức là “đương
khởi tưởng niệm”, [nghĩa là] người
tác quán phải dấy lên sự tưởng niệm. Tưởng
niệm th́ mục tiêu quán tưởng sẽ đặt vững
ở nơi đâu? “Ư thất
bảo địa thượng” (Trên mặt đất
bảy báu): Ngay trong thế giới Cực Lạc, quán
tưởng y báo trong các phần trước đă thành
công, bèn quán trên mặt đất bảy báu trong thế giới
Cực Lạc, “tác liên hoa
tưởng”, [nghĩa là] trong tâm tưởng có hoa sen
trên mặt đất. Đấy là nguyên tắc quan trọng
nhất!
Kinh
A Di Đà nói hoa sen sanh trong ao bảy báu. Hoa sen trong ao bảy
báu là nói đối với người văng sanh. Ví như
chúng ta từ thế giới Sa Bà văng sanh thế giới Cực
Lạc, lại c̣n có những chúng sanh văng sanh thế giới
Cực Lạc từ những thế giới khác, đều
hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu. Ở đây, [hoa sen]
trên đất bảy báu là nói về [hoa sen của] đức
Phật, c̣n có những đóa sen do các vị đại Bồ
Tát sử dụng. Ṭa sen để đức Phật ngồi
hay đứng đều ở trên đất bảy báu.
Đức Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy và hết
thảy chúng sanh tu pháp môn này trong đời mai sau: Muốn
quán thấy A Di Đà Phật, trước hết, phải
quán hoa sen trên đất bảy báu. Bởi lẽ, quán
tưởng chánh báo của đức Phật, Báo Thân của
Phật vừa to, vừa tinh vi, hết sức vi tế, nếu
ngay lập tức quán, sẽ chẳng thể [quán tưởng]
rơ ràng. Do vậy, trước hết, hăy quán ṭa hoa sen do
đức Phật sử dụng.
Cách
quán như thế nào? Dùng tưởng niệm: Tưởng
hoa sen trên đất bảy báu. Do đó, chữ Tưởng
(想) hết sức trọng yếu. Dựa theo
cách giảng kinh Pháp Hoa của tông Thiên Thai, tâm tánh của
lũ chúng sanh chúng ta bao la vạn tượng. Hết thảy
các pháp đều được bao hàm trong tâm tánh, mà cũng
là nói theo đạo lư th́ cái tâm của chúng ta trọn đủ
hết thảy. Đấy là nguyên lư quan trọng nhất
được giảng trong Phật pháp. Trong văn hóa
Trung Hoa, Nho gia cũng nói như thế: “Vạn vật giai bị ư ngă” (Vạn vật
đều trọn đủ nơi ta), “vạn vật” là muôn vật trong vũ trụ.
Vạn sự vạn tượng đều ở trong tâm
chúng ta, hoàn toàn trọn đủ. V́ thế, nói theo Nho học
và Phật học, sẽ có chung một chân lư.
Sau
khi đă hiểu chân lư, dựa theo phương pháp do đức
Phật đă nêu dạy để dụng công, sẽ có thể
trông thấy. Bộ kinh này giảng khá cặn kẽ. Chúng
ta liễu giải bộ kinh này sẽ [hữu ích] rất
quan trọng cho việc liễu giải kinh A Di Đà. Kinh
văn của kinh A Di Đà nói đơn giản, nhưng
chú giải của tổ sư đă chỉ ra: Đối
với hoa sen trong ao bảy báu, người học Tịnh
Độ Tông chúng ta, nếu phát tâm, có tín tâm, có nguyện
tâm, khi bắt đầu niệm Phật, lúc đó, trong ao
bảy báu sẽ nẩy sanh một đóa hoa sen. Hoa sen ấy
là do ai [tạo tác]? Sanh ra như thế nào? Nay chúng ta nh́n vào
Quán Kinh, bèn biết: Đấy chính là nói tới quán tưởng.
Dụng công quán tưởng, sẽ tưởng ra
được. Tŕ danh niệm Phật giống hệt như
quán tưởng. Phát tâm tŕ danh niệm Phật, trọn
đủ Tín, Nguyện, Hạnh, khi vừa niệm, do cái
tâm “có thể ức niệm”,
nơi ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc bèn trổ
sanh một đóa hoa sen. V́ thế, đối với lời
chú giải của tổ sư, [ta biết chuyện ấy
đă được] bộ kinh này nói rơ ràng. Do đức
Phật nói như thế, cho nên tổ sư căn cứ
vào đạo lư do đức Phật đă dạy [để
chú giải như vậy], chẳng phải là chú giải
tùy tiện! V́ sao vừa tưởng, bèn có thể tưởng
ra? Vừa phát tâm niệm Phật, hoa sen trong ao bảy báu
bèn nẩy sanh, [nguyên nhân là do] cái tâm của chúng ta trọn
đủ hết thảy.
Tâm
chúng ta chẳng tưởng thế giới Cực Lạc,
bèn tưởng thế giới Sa Bà và hết thảy mọi
thứ trong nhân gian. Tưởng hết thảy mọi thứ
trong nhân gian, tâm chúng ta sẽ ở trong nhân gian. Chúng ta biết
nhân gian là như vậy. Nói theo Phật pháp, sanh trong thế
gian này, hết thảy đều thống khổ. Thống
khổ được tạo thành như thế nào? Chính là
do thân tâm của chúng sanh tạo tác các tội nghiệp
như giết, trộm, dâm, dối v.v… Tạo tác tội
nghiệp thành công, trong tương lai, sẽ hứng chịu
quả báo chiêu cảm từ tội nghiệp đă tạo
trong thế gian này. Do tâm lư phàm phu, ở trong thế gian, đều
chẳng thể tránh khỏi tạo nghiệp, thọ báo.
V́ sao tạo nghiệp? V́ trong tâm mê hoặc, điên đảo;
do vậy, khởi Hoặc, tạo nghiệp, chịu báo, tuần
hoàn chẳng dứt, sanh tử không ngừng. Đấy là
cái nhân khiến cho bọn phàm phu chúng ta thọ báo trong thế
gian này!
Nếu ư
niệm của chúng ta chẳng đặt trong nhân gian, mà
đặt nơi thế giới Cực Lạc, đặt
trong ao hoa sen, nay nói đến quán tưởng chánh báo của
Phật, quán tưởng hoa sen được sử dụng
bởi đức Phật ở ngay trên đất bảy
báu. Hoa ấy từ đâu mà có? Từ tịnh pháp (pháp thanh
tịnh) trong tâm tưởng ra. Sau khi đă liễu giải
lư này, [sẽ biết] hoa sen có bao nhiêu cánh, hoa quang (quang minh
tỏa ra từ hoa sen) và các thứ báu được nói trong
phần sau đều là do như vậy mà có. Chỉ cần
dùng đúng phương pháp, sẽ có thể trông thấy.
Sau khi đă liễu giải lư này, những điều kế
đó đều dễ dàng.
V́
sao trong tâm chúng ta vừa tưởng, bèn có thể thấy
hoa sen trong thế giới Cực Lạc? Trong tâm lư của
chúng ta có cảnh giới như thế nào, sau đấy mới
có thể thấy, mới có thể cảm ứng cảnh
giới như thế ấy. Trong tâm phàm phu chỉ có thế
giới Sa Bà, ắt phải chuyển biến tâm lư phàm phu
th́ mới có thể trông thấy thế giới Cực Lạc.
V́ vậy, khi dụng công quán tưởng, ắt phải
buông xuống vạn duyên. “Vạn
duyên” là nói tới ư niệm của chúng ta. Ư niệm của
chúng ta chẳng có một giờ, một khắc nào không
vương vấn thế giới Sa Bà và những sự việc
trong nhân gian. Khi chúng ta dụng công, mong thấy thế giới
Cực Lạc, đối với các thứ thị phi, danh
lợi, hết thảy mọi thứ thảy đều
phải buông xuống. Khi ấy, cái tâm của chính ḿnh mới
có thể giao thoa chiếu rọi và cảm ứng thế
giới Cực Lạc. Hăy tiếp tục xem kinh văn.
Đức
Phật bảo phu nhân Vi Đề Hy, muốn tưởng
hoa sen th́ tưởng như thế nào? “Linh kỳ liên hoa, nhất nhất diệp thượng,
tác bách bảo sắc” (Tưởng sao cho hoa sen ấy, mỗi
cánh đều có màu sắc của trăm thứ báu). Khi
tưởng, trước tiên, hăy tưởng một
đóa hoa sen to trên đất bảy báu trong thế giới
Cực Lạc. Tức là trước hết, tưởng
ra h́nh dạng bên ngoài của một đóa sen to. Sau đấy,
quán tưởng từng cánh hoa sen. “Diệp” (葉) chính là cánh hoa sen. Trên mỗi
cánh hoa, có màu sắc của trăm thứ báu. Bảo sắc
(màu sắc của chất báu) có tới một trăm thứ,
đủ các loại màu. Trong thế gian này, màu sắc chỉ
có mấy loại. Màu cơ bản là xanh dương, vàng,
đỏ, trắng, đen, năm thứ; sau đấy,
phối hợp lại. Thế mà trên cánh hoa sen có màu của
trăm thứ báu. Lại c̣n “hữu
bát vạn tứ thiên mạch” (có tám vạn bốn ngàn
đường gân). “Mạch” (脈) là
đường gân. Lá cây cũng thế, mà cánh hoa cũng thế,
có từng đường gân một, giống như mạch
máu trong thân thể con người. Có bao nhiêu? Có tám vạn bốn
ngàn, chẳng phải như chúng ta thấy hoa sen trong thế
gian này rối loạn, chẳng có lớp lang! Chúng phối
hợp hết sức khéo léo, phối hợp “do như thiên họa” (giống
như nét vẽ thiên nhiên). “Thiên
họa” (天畫) là nét vẽ
được h́nh thành tự nhiên. Trong thế giới này,
Quốc Họa của Trung Hoa cũng thế, mà hội họa
của Âu Tây cũng thế, đều do sức người
vẽ ra. Hội họa của con người đều
là mô phỏng thiên nhiên. Hết thảy các loại nghệ
thuật đều là như vậy. Nghệ thuật là mô
phỏng thiên nhiên, hội họa cũng là mô phỏng thiên
nhiên, âm nhạc cũng là mô phỏng âm nhạc của thiên
nhiên. Do đó, [âm nhạc trong thiên nhiên] được gọi
là “thiên lại” (天籟). V́ thế,
âm thanh đẹp nhất là âm thanh tự nhiên. Trên mỗi
cánh sen đều có tám vạn bốn ngàn đường mạch;
thoạt nh́n toàn thể, giống như một bức họa
thiên nhiên, đẹp đẽ quá! Đấy là nói mỗi
cánh sen đều có tám vạn bốn ngàn đường mạch!
Mỗi
một “mạch hữu bát vạn
tứ thiên quang” (mạch có tám vạn bốn ngàn quang
minh). Quư vị hăy ngẫm xem, từ mỗi đường
mạch, lại tỏa ra quang minh nhiều ngần ấy.
Những quang minh ấy bao gồm màu sắc của các chất
báu. Từ trên mỗi mạch, tỏa ra quang minh. Khi quán
tưởng, phải “liễu
liễu phân minh, giai linh đắc kiến” (sao cho đều
thấy rành rẽ, rơ ràng). Trên mỗi cánh hoa có bảo sắc
nhiều ngần ấy, có các đường mạch nhiều
ngần ấy, đều thấy hết sức triệt
để, hết sức rơ ràng. Đó là “liễu liễu phân minh, giai linh đắc kiến”.
Những cánh hoa ấy to cỡ nào?
Đương nhiên là có lớn, có nhỏ. Chẳng cần
nói tới cánh hoa lớn, mà nói “hoa
diệp tiểu giả,
tung quảng nhị bách ngũ thập do-tuần” (cánh
hoa nhỏ th́ bề dài, bề ngang đều là hai trăm
năm mươi do-tuần), “tung”
(縱) là bề dài, “quảng”
(廣) là bề rộng. Chiều dọc, chiều
ngang đến hai trăm năm mươi do-tuần, to
như thế đó, rộng như thế đó! “Như thị liên hoa, cụ hữu
bát vạn tứ thiên diệp” (Hoa sen như vậy có tám
vạn bốn ngàn cánh). Nói gộp cả hai câu này lại
th́ một đóa sen to ấy có bao nhiêu cánh hoa? Có tám vạn
bốn ngàn cánh! Mỗi đóa hoa sen đều có tám vạn
bốn ngàn cánh!
Đoạn
kinh kể từ câu “linh kỳ
liên hoa, nhất nhất diệp thượng” (sao cho mỗi
cánh hoa sen ấy) nói rơ hoa sen có bao nhiêu cánh, bao nhiêu đường
mạch, bao nhiêu quang minh, cánh hoa to cỡ nào! Trước hết,
phải quán tưởng phần này!
(Kinh)
Nhất nhất diệp gian, hữu bách ức ma-ni châu
vương, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất ma-ni châu,
phóng thiên quang minh. Kỳ quang như cái, thất bảo hợp
thành, biến phú địa thượng. Thích Ca Tỳ
Lăng Già bảo, dĩ vi kỳ đài. Thử liên hoa
đài, bát vạn kim cang chân thúc ca bảo, phạm ma-ni bảo,
diệu chân châu vơng, dĩ vi hiệu sức.
(經)一一葉間,有百億摩尼珠王,以為映飾。一一摩尼珠,放千光明。其光如蓋,七寶合成,遍覆地上。釋迦毘楞伽寶,以為其臺。此蓮花臺,八萬金剛甄叔迦寶,梵摩尼寶,妙真珠網,以為校飾。
(Kinh:
Giữa mỗi cánh, có trăm ức ma-ni bảo châu
vương trang hoàng chói ngời. Mỗi một ma-ni châu tỏa
ngàn quang minh. Quang minh ấy như cái lọng, do bảy báu
hợp thành, che trọn khắp mặt đất. Báu Thích
Ca Tỳ Lăng Già dùng để làm đài. Đài hoa sen ấy
có tám vạn bốn ngàn chất báu Chân Thúc Ca, báu Phạm
Ma-ni, lưới kết bằng diệu chân châu để
trang hoàng).
“Nhất nhất diệp gian”:
Giữa mỗi cánh hoa, “hữu
bách ức ma-ni châu vương, dĩ vi ánh sức” (có
trăm ức ma-ni châu vương trang hoàng chói ngời): Giữa
các cánh hoa, c̣n có các thứ trang hoàng. Có những thứ trang
hoàng ǵ vậy? Có một trăm ức ma-ni châu vương.
Ma-ni châu là Như Ư Châu, muốn ǵ bèn có nấy. “Ma-ni châu vương” chính là
vua của các ma-ni châu. Có đến trăm ức viên châu
như vậy, dùng chúng để làm “ánh sức”. “Ánh sức” (映飾) là dùng
quang minh chiếu rọi chói ngời giữa các cánh hoa. “Nhất nhất ma-ni châu”
nghĩa là mỗi ma-ni châu đều “phóng thiên quang minh”, tỏa ra một ngàn tia quang
minh, quang minh ấy lại đặc biệt lắm nghe! “Kỳ quang như cái” (Quang
minh ấy như cái lọng): Trong thế gian này, dù
được gọi là “cái” (蓋). Bất quá,
“dù” dùng ở Ấn Độ
chẳng giống như dù sử dụng ở Trung Hoa. [Dù
của Ấn Độ] gồm nhiều tầng chồng
lên nhau, rủ xuống. Tầng cao nhất được
gọi là Cái (蓋). Quang minh tụ hợp lại giống
như h́nh dạng của từng cái lọng một. Lại
c̣n là do “thất bảo hợp
thành”. Điều này lại càng đặc biệt, quang
minh do bảy báu ḥa hợp tạo thành, “biến phú địa thượng” (che phủ trọn
khắp mặt đất): Các quang minh chiếu khắp mặt
đất. Chiếu như thế nào? Quang minh giống
như tàn lọng, che phủ toàn thể đại địa
trong thế giới Cực Lạc. Nh́n như thế, khắp
mọi nơi đều là hoa sen. Mỗi hoa sen có tám vạn
bốn ngàn cánh. Giữa mỗi cánh, có ma-ni châu vương
nhiều ngần ấy. Mỗi viên ma-ni châu vương tỏa
ra quang minh nhiều ngần ấy. Quang minh ấy chiếu
sáng giống như tàn lọng, lại c̣n do bảy báu hợp
thành, toàn thể chiếu trọn khắp đại địa.
Đấy là nói về các thứ quang minh giữa những
cánh hoa.
“Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo,
dĩ vi kỳ đài” (Dùng báu Thích Ca Tỳ Lăng Già làm
đài hoa). Đây là nói về một đóa hoa sen to. Trước
hết, hăy nh́n vào “hoa diệp”
tức là cánh hoa. Lại nh́n vào “hoa
tâm” ở chính giữa hoa. Ở đây, “hoa tâm” (花心) được
gọi là “hoa ṭa”. Đức
Phật ngồi giữa hoa sen, cũng tức là [ngồi trên]
liên hoa đài. Liên hoa đài dùng vật ǵ để tạo
thành? Báu Thích Ca Tỳ Lăng Già. Cái gọi là Thích Ca Tỳ
Lăng Già (Śakrābhi Langa-mani-ratna), dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Năng Thắng (能勝), [hàm
nghĩa] có thể trỗi vượt hết thảy các thứ
báu. Chất báu này tốt đẹp hơn hết thảy
các thứ báu, do trỗi vượt các thứ báu, nên gọi
là Năng Thắng Bảo. Dùng chất báu ấy “dĩ vi kỳ đài” (làm
thành đài hoa). Trong thế gian này, chẳng phải là chúng
ta cũng đă từng thấy hoa sen ư? Chính giữa hoa
sen là nơi kết hạt sen, c̣n trong thế giới Cực
Lạc, [chính giữa hoa sen] là liên hoa đài để đức
Phật sử dụng, dùng các thứ báu kết thành. Hoa
đài cũng được trang hoàng, trang hoàng như thế
nào? “Thử liên hoa đài”:
Đài hoa sen ấy có “bát vạn
Kim Cang Chân Thúc Ca bảo, Phạm ma-ni bảo,
diệu chân châu vơng, dĩ vi hiệu sức” (tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca, báu Phạm
ma-ni, lưới kết bằng diệu chân châu để
trang hoàng). Đài hoa sen ấy được trang hoàng
bằng tám vạn báu Kim Cang Chân Thúc Ca. Chân Thúc Ca là ǵ? Tại
Ấn Độ, có một loại cây tên là cây Chân Thúc Ca (Kinśukajālē). Cây nở hoa màu
đỏ, tức là “hồng
sắc hoa”. Hoa ấy hết sức xinh xắn, hết
sức đẹp đẽ. Loại chất báu kim cang
ấy có màu đỏ rực giống như màu hoa cây Chân
Thúc Ca. Do vậy, chất báu này được gọi là “Kim Cang Chân
Thúc Ca bảo”.
“Phạm ma-ni bảo”: “Phạm” (梵) là rất
thanh tịnh. Ma-ni (摩尼) là một
loại báu Như Ư, lại c̣n trong suốt. Báu Như Ư
đă thanh tịnh, lại c̣n trong suốt, được
gọi là “Phạm ma-ni bảo”.
C̣n có “diệu chân châu vơng”,
cái lưới ấy dùng chân châu để kết thành, từng
viên chân châu được xâu lại thành một tấm
lưới lớn ngần ấy. Hơn nữa, chân châu là
“diệu chân châu”. Dùng những
thứ báu ấy và lưới diệu chân châu để “hiệu sức”.
“Hiệu sức” (校飾) là trang
hoàng. Dùng những thứ báu ấy và lưới báu để
trang hoàng liên hoa đài. Có thể tưởng tượng
để thấy đài hoa sen do đức Phật ngồi
trang nghiêm ngần nào! Trên đây là nói về những thứ
báu và lưới trang sức trên hoa ṭa.
(Kinh)
Ư kỳ đài thượng, tự nhiên nhi hữu tứ
trụ bảo tràng. Nhất nhất bảo tràng, như bách
thiên vạn ức Tu Di sơn. Tràng thượng bảo mạn,
như Dạ Ma thiên cung. Phục hữu ngũ bách ức vi
diệu bảo châu, dĩ vi ánh sức. Nhất nhất bảo
châu, hữu bát vạn tứ thiên quang. Nhất nhất
quang, tác bát vạn tứ thiên dị chủng kim sắc.
(經)於其臺上,自然而有四柱寶幢。一一寶幢,如百千萬億須彌山。幢上寶幔,如夜摩天宮。復有五百億微妙寶珠,以為映飾。一一寶珠,有八萬四千光。一一光,作八萬四千異種金色。
(Kinh:
Ở trên đài ấy, tự nhiên có bốn trụ tràng
báu. Mỗi một tràng báu như trăm ngàn vạn ức
núi Tu Di. Màn báu trên tràng như cung trời Dạ Ma. Lại
có năm trăm ức bảo châu vi diệu để trang
hoàng chói ngời. Mỗi một bảo châu có tám vạn bốn
ngàn quang minh. Mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn
loại sắc vàng khác nhau).
“Ư kỳ đài thượng,
tự nhiên nhi hữu tứ trụ bảo tràng”, [nghĩa là] ở trên đài
hoa sen ấy, ngoại trừ lưới báu để trang
sức, trên đài tự nhiên lại có tràng báu. “Tứ trụ” (四柱) là bốn
cây tràng báu. Tràng to như cây cột vậy. “Nhất nhất bảo tràng”, [nghĩa là] mỗi
một trụ bảo tràng, “như
bách thiên vạn ức Tu Di sơn” (như trăm ngàn vạn
ức núi Tu Di), có thể suy ra mà biết tràng báu ấy to cỡ
nào! Kẻ b́nh phàm thường bảo núi Tu Di là núi Hỷ
Mă Lạp Nhă (Himalayas). Thật ra, chẳng phải vậy! Bọn
phàm phu chúng ta chẳng trông thấy núi Tu Di. Chẳng nh́n thấy,
chẳng phải là nó không có! Không nói chi khác,
lấy ngay cái bàn này để nói, do mắt con kiến chẳng
nh́n thấy, chẳng thể dựa trên lập trường
“con kiến chẳng nh́n thấy” để không thừa nhận
cái bàn. Mắt loài người chúng ta nh́n núi Tu Di cũng giống
như con kiến nh́n cái bàn, chẳng trông thấy! Cảnh
giới và tâm lư của chúng ta quá nhỏ; bởi lẽ, núi
Tu Di thật sự chẳng nhỏ như núi Hỷ Mă Lạp
Nhă. Trên đài hoa sen ấy, có bốn tràng báu, mỗi tràng
báu to cỡ nào? Như trăm ngàn vạn ức núi Tu Di. Một
quả núi Tu Di mà bọn phàm phu chúng ta c̣n chưa thấy, huống
hồ nhiều đến trăm ngàn vạn ức núi Tu Di
như vậy! Hăy ngẫm xem, một tràng báu đă to như
vậy, bốn tràng báu gộp lại sẽ to cỡ nào?
Hơn nữa,
“tràng thượng bảo mạn”
nghĩa là trên tràng báu có màn báu. “Mạn” (幔)
là tấm màn vải dài thường treo nơi Phật
đường. Trên tràng có màn báu. Màn báu “như Dạ Ma Thiên cung”, cung trời Dạ Ma (Yāma) là tầng trời thứ ba trong Dục
Giới Thiên. [Dạ Ma] dịch sang nghĩa tiếng Hán là
Thiện Thời (善時).
V́ sao gọi là Thiện Thời? V́ quang minh trong tầng trời
thứ ba của Dục Giới hết sức tốt
đẹp, quang minh chiếu soi chẳng có ngày đêm. Nhân
gian chúng ta có ngày và đêm, Dạ Ma Thiên bất luận ngày
hay đêm
đều là một bầu quang minh. Màn báu treo trên tràng
đẹp đẽ như cung trời Dạ Ma.
“Phục hữu ngũ bách ức
vi diệu bảo châu, dĩ vi ánh sức” (Lại có
năm trăm ức bảo châu vi diệu, trang hoàng chói ngời):
Màn báu giống như cung trời Dạ Ma, lại có bảo
châu vi diệu nhiều đến năm trăm ức. Những
bảo châu ấy hết sức vi diệu. Do tốt đẹp
đến tột cùng, nên gọi là “vi diệu”. Có những bảo châu ấy để
trang hoàng sáng rực, chiếu rọi lẫn nhau để
trang hoàng. V́ sao chúng có thể chiếu rọi? V́ “nhất nhất bảo châu, hữu
bát vạn tứ thiên quang” (mỗi một viên bảo
châu có tám vạn bốn ngàn quang minh), nhưng “nhất nhất quang, tác bát vạn
tứ thiên dị chủng kim sắc” (mỗi một
quang minh có tám vạn bốn ngàn loại sắc vàng khác
nhau). Hoàn toàn phải cậy vào sức tưởng tượng,
v́ chúng ta thấy màu của chất vàng là màu hoàng kim,
nhưng kim sắc trong cơi ấy có đến tám vạn bốn
ngàn loại khác nhau. “Dị chủng”
(異種) là các chủng
loại màu sắc khác nhau. Trong kim sắc, c̣n có tám vạn bốn
ngàn loại kim sắc, trong thế gian này, chúng ta chẳng
thể tưởng tượng nổi! Đoạn này nói
về sự trang nghiêm nơi tràng báu: Trên ṭa hoa sen, có bốn
tràng báu. Trên tràng báu c̣n trang nghiêm nhiều ngần ấy.
Bắt
đầu từ câu “linh kỳ
liên hoa, nhất nhất diệp thượng” (sao cho mỗi
một cánh của hoa sen ấy) cho đến đây mới
hết. Đoạn lớn [chánh kinh] này dạy: Trước
hết, quán một đóa hoa sen, cánh hoa sen, quang minh của
các viên châu giữa các cánh hoa. Lại nh́n vào đài hoa trong
hoa sen, trên đài hoa có tràng báu. Cả đoạn kinh này trần
thuật các thứ trạng huống của đài hoa sen. Nếu
phân tích cặn kẽ trạng huống này, [sẽ thấy
ṭa hoa sen của A Di Đà Phật] vừa cao to lại vừa
rộng răi. Đơn giản là tâm phàm phu chẳng thể
quán nổi, nhưng căn cứ theo lời dạy của
tổ sư trong phần trước: Chúng ta chẳng trông thấy
là v́ tâm lượng phàm phu hẹp nhỏ! Đừng nói là
thấy trọn hết, thấy một cánh sen cũng chẳng
thấy rơ ràng; nhưng chỉ cần có thể dụng
công, buông xuống vạn duyên, buông những giả pháp dụ
dỗ, mê hoặc trong thế gian này xuống, nhập Định,
có định lực, tâm lư bèn mở rộng. Tâm lượng
hễ mở rộng, sẽ có thể thấy thế giới
Cực Lạc rơ ràng, rành rẽ. Cảm thấy chẳng
nh́n rơ lắm, chẳng thể nh́n thấy nhiều ngần
ấy, chúng ta hăy buông xuống vạn duyên để nh́n,
để tưởng, sẽ tự nhiên có thể tiến
nhập t́nh huống.
(Kinh)
Nhất nhất kim sắc, biến kỳ bảo độ,
xứ xứ biến hóa, các tác dị tướng, hoặc
vi kim cang đài, hoặc tác chân châu vơng, hoặc tác tạp
hoa vân, ư thập phương diện, tùy ư biến hiện,
thi tác Phật sự. Thị vi Hoa Ṭa Tưởng, danh đệ
thất Quán.
(經)一一金色,遍其寶土,處處變化,各作異相。或為金剛臺,或作真珠網,或作雜華雲,於十方面,隨意變現,施作佛事。是為華座想,名第七觀。
(Kinh: Mỗi
một kim sắc trọn khắp cơi báu ấy, biến hóa
khắp nơi, ở mỗi nơi đều hiện
tướng lạ, hoặc là đài kim cang, hoặc biến
thành lưới chân châu, hoặc hóa ra các loại hoa nhiều
như mây, tùy ư biến hiện trong mười
phương, thực hiện Phật sự. Đó là Hoa Ṭa
Tưởng, gọi là phép Quán thứ bảy).
Chúng
ta thấy đài hoa rơ ràng, đài hoa sen tốt đẹp
dường ấy, có châu quang (quang minh phát ra từ các bảo
châu) v.v… nhiều dường ấy, có tác dụng ǵ? Tiếp
đó, [kinh văn] nói: “Nhất
nhất kim sắc, biến kỳ bảo độ” (Mỗi
một kim sắc trọn khắp cơi báu ấy), tức là
tám vạn bốn ngàn loại kim sắc khác nhau, mỗi một
thứ kim sắc chiếu trọn khắp toàn thể cơi
báu thế giới Cực Lạc. Chiếu trong cơi báu “xứ xứ biến hóa”,
[nghĩa là] ánh sáng kim sắc chiếu trọn khắp mặt
đất, tại các nơi đều dấy lên sự biến
hóa. Biến hóa những ǵ? “Các
tác dị tướng” [nghĩa là] hóa thành đủ loại
h́nh dạng khác nhau! Những h́nh dạng ǵ vậy? “Hoặc vi kim cang đài” [nghĩa
là] dùng kim cang làm thành hoa đài. “Hoặc
tác chân châu vơng, hoặc tác tạp hoa vân” [nghĩa là] hoặc
biến thành lưới chân châu, hoặc từ các loại
hoa kết thành áng mây. Những thứ ấy đều quán
thành công.
“Ư thập phương diện”, “thập phương diện”
là đối với thế giới Cực Lạc mà nói, tức
là mười phương thế giới ở ngoài thế
giới Cực Lạc. “Tùy ư biến
hiện, thi tác Phật sự” (Tùy ư biến hiện, thực
hiện Phật sự): Đă quán hoa đài thành công, có thể
thấy mười phương thế giới, thấy rơ
ràng Phật sự được thực hiện trong các
loại thế giới. Trông thấy Phật sự, tuyệt
diệu quá! Kinh Tiểu A Di Đà có nói: Chúng sanh trong thế
giới Cực Lạc thường vào sáng sớm cúng
dường chư Phật trong mười vạn ức
cơi Phật ở các phương khác. V́ sao cúng dường
Phật? V́ để học Phật pháp. Quán như vậy
thành công, có thể trông thấy, tùy ư biến hiện Phật
sự trong mười phương thế giới. Trông thấy
Phật sự, sẽ có thể học tập phương
pháp của Phật, đó là lợi ích sẽ đạt
được. Trong đoạn kinh văn vừa nói này,
điều chủ yếu là tu thành công, thấy hoa đài sẽ
học các Phật pháp.
“Thị vi Hoa Ṭa Tưởng, danh
đệ thất Quán” (Đây là Hoa Ṭa Tưởng, gọi
là phép Quán thứ bảy): Tổng kết những điều
đă nói trên đây là Hoa Ṭa Quán, chính là phép Quán thứ bảy
trong mười sáu phép Quán. Những hoa ṭa và sự biến
hóa ấy do đâu mà có? Tiếp đó, [kinh văn] bèn nói:
(Kinh)
Phật cáo A Nan: “Như thử diệu hoa, thị bổn Pháp
Tạng tỳ-kheo nguyện lực sở thành”.
(經)佛告阿難,如此妙華,是本法藏比丘願力所成。
(Kinh:
Đức Phật bảo A Nan: “Diệu hoa như thế,
vốn là do nguyện lực của tỳ-kheo Pháp Tạng
tạo thành”).
“Phật cáo A Nan”: Thích Ca Mâu Ni
Phật bảo tôn giả A Nan, “như
thử diệu hoa”, hoa sen đẹp đẽ, tuyệt
diệu ấy, “thị bổn
Pháp Tạng tỳ-kheo nguyện lực sở thành” (vốn
là do nguyện lực của tỳ-kheo Pháp Tạng tạo
thành). Tỳ-kheo Pháp Tạng là [tiền thân của] A Di
Đà Phật. Trong quá khứ, vào thời Thế Tự Tại
Vương Phật, Ngài xuất gia làm tỳ-kheo, có danh hiệu
là tỳ-kheo Pháp Tạng. Ngài đối trước Thế
Tự Tại Vương Phật phát ra bốn mươi
tám đại nguyện, trong số đó, có nguyện này.
Sau đấy, mới do nguyện lực mà thành Phật,
cũng tạo thành thế giới Cực Lạc. Toàn thể
thế giới Cực Lạc, khắp cả đại
địa là hoa sen, là do nguyện lực của Ngài mà thành
tựu. Đoạn lớn này nói về lai lịch của
ṭa hoa sen.
(Kinh) Nhược dục
niệm bỉ Phật giả, đương tiên tác thử
hoa ṭa tưởng. Tác thử tưởng thời, bất
đắc tạp quán, giai ưng nhất nhất quán chi, nhất
nhất diệp, nhất nhất châu, nhất nhất quang,
nhất nhất đài, nhất nhất tràng, giai linh phân
minh, như ư kính trung, tự kiến diện tượng.
Thử tưởng thành giả, diệt trừ ngũ vạn
ức kiếp sanh tử chi tội, tất định
đương sanh Cực Lạc thế giới.
(經)若欲念彼佛者,當先作此華座想。作此想時,不得雜觀,皆應一一觀之,一一葉,一一珠,一一光,一一臺,一一幢,皆令分明。如於鏡中,自見面像。此想成者,滅除五萬億劫生死之罪,必定當生極樂世界。
(Kinh: Nếu
muốn niệm đức Phật ấy, hăy nên trước
hết tưởng hoa ṭa này. Khi tưởng điều
này, chẳng được tạp quán, đều nên quán từng
điều một, mỗi một cánh hoa, mỗi một
viên châu, mỗi một quang minh, mỗi một đài, mỗi
một tràng, thảy đều rơ ràng, như từ trong
gương tự thấy khuôn mặt. Tưởng này
đă thành, có thể diệt trừ tội trong năm vạn
ức kiếp sanh tử, nhất định sẽ sanh về
thế giới Cực Lạc).
Trên
đây là những lời dạy của đức Phật
dành cho tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy trong lúc ấy.
Phu nhân Vi Đề Hy v́ chúng sanh trong đời vị lai mà
thỉnh pháp; kế đó, [đức Phật] dạy những
lợi ích mà chúng sanh trong đời vị lai sẽ đạt
được. “Nhược dục
niệm bỉ Phật giả” (nếu muốn niệm đức
Phật ấy), [phải chú ư] “niệm
bỉ Phật” là quán tưởng. Nếu muốn quán
tưởng A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc,
“đương tiên tác thử Hoa
Ṭa Tưởng” [nghĩa là] trước hết, hăy nên
quán tưởng hoa ṭa. “Tác thử
tưởng thời”: Khi quán tưởng những điều
này, “bất đắc tạp
quán”, [nghĩa là] chẳng được quán tạp loạn,
phải thuận theo thứ tự, có thứ tự. Chiếu
theo thứ tự như thế nào? “Giai ưng nhất nhất quán chi”: Chiếu theo những điều đă nói trên
đây để tác quán từng tầng một. Quán theo từng
tầng một như thế nào? “Nhất nhất diệp, nhất nhất châu”,
đối với mỗi cánh hoa, mỗi viên bảo châu,
châu tỏa ra “nhất nhất
quang, nhất nhất đài, nhất nhất tràng, giai linh
phân minh” (mỗi quang minh, mỗi đài, mỗi tràng,
đều quán sao cho phân minh). Quán theo thứ tự, nói cách
khác, dựa theo thứ tự từ cánh hoa, bảo châu,
quang minh, đài hoa, [cho đến] tràng báu để [quán
tưởng sao cho] trông thấy rơ ràng, rành rẽ, phân minh,
chớ nên rối loạn. Chẳng thể nói ta thấy
quang minh trước, sau đấy thấy cánh hoa, chẳng
được! Ắt phải là trước hết phải
thấy cánh hoa, sau đó thấy châu, thấy quang minh, thấy
đài, thấy tràng, thấy rơ ràng, rành rẽ!
“Như ư kính trung, tự kiến
diện tượng” (Như từ trong gương tự
thấy khuôn mặt): Chiếu theo thứ tự để
thấy, giống như cầm gương soi diện mạo
của chính ḿnh, trông thấy rơ ràng, rành rẽ. Thấy rơ
ràng, rành rẽ như vậy, sau đấy mới “thử tưởng thành giả”
(tưởng này đă thành), phép quán tưởng này, tức
là quán tưởng hoa ṭa đă thành công, sẽ đạt
được lợi ích khôn cùng! Tiếp đó, [đức
Phật] bèn nói: “Diệt trừ
ngũ vạn ức kiếp sanh tử chi tội” (Diệt
trừ tội trong năm vạn ức kiếp sanh tử).
Trong thế gian, sanh mạng của lũ chúng sanh chúng ta chẳng
phải chỉ là một đời hiện tại này,
trước đời này có bao nhiêu đời? Từ vô thỉ
tới nay, chúng ta có nhiều kiếp sống, mỗi kiếp
sống đều tạo tội nghiệp sanh tử, có bao
nhiêu đời? Chính ḿnh chẳng thể tính biết rơ ràng!
Hễ quán tưởng thành công, sẽ có thể diệt trừ
những tội nghiệp ấy, diệt trừ tội
nghiệp trong năm vạn ức kiếp. Nói cách khác, sanh
mạng của chúng ta sống sống chết chết, cộng
lại có thể nhiều đến năm vạn ức
kiếp. Tội nghiệp sanh tử trong nhiều đời
to lớn ngần ấy; hễ quán tưởng thành công, sẽ
có thể diệt trừ tội sanh tử nhiều ngần
ấy! Ngoài chuyện diệt tội nhiều như thế,
c̣n có lợi ích lớn nhất khác nữa là “tất định
đương sanh Cực Lạc thế giới” (nhất
định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc).
Nghiệp chướng của chúng ta quá nặng. Nghiệp
chướng quá nặng, quá nhiều, [cho nên] văng sanh có vấn
đề, phải cầu nghiệp chướng giảm
nhẹ, khi thọ mạng chấm dứt, chính ḿnh mới
có thể làm chủ. Công phu hơi kém một chút, có kẻ
khác trợ niệm, sẽ tự ḿnh dấy khởi chánh niệm
rất nhanh chóng, có thể văng sanh. Công phu ấy lỗi lạc
thay! Do v́ quán tưởng thành tựu, chính mắt trông thấy
đài hoa sen do đức Phật ngự trong thế giới
Cực Lạc, tất nhiên là có thể sanh về thế giới
Cực Lạc.
(Kinh)
Tác thị quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha quán giả,
danh vi Tà Quán.
(經)作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。
(Kinh:
Tác quán như vậy gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác
đi th́ gọi là Tà Quán).
“Tác thị quán giả” tức
là tu tập phép Hoa Ṭa Quán. Chiếu theo phương pháp
đă nói trên đây để quán như vậy, “danh vi Chánh Quán” (gọi là Chánh
Quán). Cái gọi là Quán Tưởng Niệm Phật chẳng
dễ dàng đâu nhé! Mọi người chẳng có cách nào
dùng phương pháp này để tác quán, bất quá, liễu
giải cũng tốt! Liễu giải có thể giúp chúng
ta tŕ danh niệm Phật [dễ dàng hơn]. Liễu giải
rất nhiều đạo lư th́ gọi là Chánh Quán. “Nhược tha quán giả” (Nếu
quán khác đi), “tha quán” là
[quán tưởng hoặc liễu giải] chẳng giống
như kinh văn đă nói, chẳng liễu giải phương
pháp hoặc đạo lư được dạy trong Quán
Kinh. Nhất là trong thời đại Mạt Pháp hiện nay,
người ta có [lắm tṛ bày vẽ quán tưởng] kiểu
này, kiểu nọ, rốt cuộc kiểu nào là tốt
đẹp? Nếu chẳng tác quán như vậy, quán khác
đi, “danh vi Tà Quán”, sẽ
là Tà Quán. Chẳng đúng pháp th́ là Tà Quán. Tà Quán th́ chẳng
được đâu nhé! Ngàn muôn phần chớ nên! Cuối
cùng nói rơ, biện định Chánh là ǵ, Tà là ǵ? Điều
này đối với Quán Tưởng Niệm Phật và Tŕ
Danh Niệm Phật đều hết sức trọng yếu!
Hôm nay, tôi giảng tới đến chỗ này!
Tập 28
Thưa các vị giáo sư, các vị đại
đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn,
trang mười bốn, bắt đầu từ hàng thứ
hai. Tôi đọc trước một đoạn kinh
văn một lượt.
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Kiến thử sự
dĩ, thứ đương tưởng Phật. Sở
dĩ giả hà? Chư Phật Như Lai, thị pháp giới
thân, nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung.
Thị cố, nhữ đẳng tâm tưởng Phật
thời, thị tâm tức thị tam thập nhị tướng,
bát thập tùy h́nh hảo. Thị tâm tác Phật, thị tâm
thị Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải, tùng
tâm tưởng sanh”.
(經)佛告阿難,及韋提希:見此事已,次當想佛。所以者何?諸佛如來,是法界身,入一切眾生心想中。是故汝等心想佛時,是心即是三十二相,八十隨形好。是心作佛,是心是佛。諸佛正遍知海,從心想生。
(Kinh: Đức
Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Đă thấy sự
ấy xong, kế đó, hăy nên tưởng Phật, v́ cớ
sao vậy? Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, vào
trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. V́ thế,
khi tâm các vị tưởng Phật, tâm ấy chính là ba
mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo. Tâm
này là Phật, tâm này làm Phật, biển Chánh Biến Tri của
chư Phật sanh từ tâm tưởng”).
IV.2.2.9. Phép Quán thứ tám,
quán Tam Thánh Tượng (quán h́nh tượng Tam Thánh)
Hôm
nay, tôi bắt đầu giảng đoạn này là phép Quán
thứ tám trong Thập Lục Quán Kinh. Trong các phép Quán
trước, từ phép Quán thứ bảy bèn bắt đầu
quán chánh báo. Sáu phép Quán trước phép Quán thứ bảy là
quán y báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tức là [quán tưởng] hoàn cảnh trong thế giới
Cực Lạc. Trước khi chánh thức quán chánh báo,
trong phép Quán thứ bảy, quán ṭa hoa sen để đức
Phật ngồi (liên hoa đài), lần trước đă nói
xong. Hôm nay, tôi nói đến phép Quán thứ tám, là phép quán Vô
Lượng Thọ Phật. Trong phép Quán này, chia thành ba
đoạn lớn. Đoạn vừa mới đọc
chính là đoạn lớn thứ nhất. Đoạn lớn
thứ nhất nêu ra nguyên lư trọng yếu trong pháp môn Quán
Tưởng. Đối với cách tu quán tưởng,
điều quan trọng nhất là phải hiểu rơ nguyên
lư. Sau khi đă hiểu rơ nguyên lư, tiếp theo đó, trong
đoạn lớn thứ hai, sẽ từ sự thật,
chiếu theo phương pháp được nêu ra trong kinh
văn để tu Quán. Đoạn [chánh kinh] vừa mới
đọc tuy văn tự không nhiều, nhưng ư nghĩa
được bao hàm trong ấy hết sức sâu rộng,
cần phải vận dụng tâm tư nhiều hơn
để liễu giải lư luận trong ấy. V́ không chỉ
là phép Quán thứ tám, phép Quán thứ chín, mà măi cho đến
[các phép Quán] sau đó, đều chẳng ĺa khỏi lư này!
Trước
khi chánh thức giảng giải, chúng ta phải liễu giải:
Phật pháp bất luận tông nào, đều là do chính miệng
Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên nói. Do đó, bất luận tông
nào, cũng đều có một lư chung là “vạn pháp duy tâm”. Cũng có nghĩa là “hết thảy đều do tâm
tạo”. Ví như nói bọn chúng sanh chúng ta v́ sao sanh vào
nhân gian? V́ tâm chúng ta hướng đến nhân gian, cho nên mới
sanh làm người trong nhân gian. Hoàn cảnh trong nhân gian mà
chúng ta được tiếp xúc bao gồm thiên nhiên, bao gồm
hoàn cảnh nhân sự trong xă hội loài người. Chẳng
có chuyện ǵ không do cái tâm của chúng ta tạo ra. Đó là
đạo lư phổ quát. Nói đến chỗ cao sâu nhất,
v́ sao chúng ta học Phật? Quư vị hỏi người
theo tôn giáo khác: “V́ sao quư vị học tôn giáo này?” Họ chẳng
thốt ra lời được! Tối đa là nói “v́
trong tương lai có thể sanh lên thiên quốc!” Đạo
gia Trung Hoa học đạo để tận sức kéo
dài sanh mạng, truy cầu trường sanh bất lăo, trên
thực tế, chẳng thể làm được! Con
người luôn có lúc thọ mạng chấm hết. Dẫu
tu tập, tu theo phương pháp của họ, sống tới
mấy trăm năm, hoặc một ngàn năm, giống
như Lữ Động Tân của Đạo gia, nhưng
tới cuối cùng, sanh mạng vẫn có lúc chấm dứt.
Tất cả hết thảy các tôn giáo khác, nói theo Phật
pháp, đều chẳng hiểu “tâm
pháp”. Nếu Phật tử hỏi: “V́ sao chúng ta học Phật?” Nói một câu triệt
để, sẽ là “chúng ta muốn
thành Phật”, bản thân chúng ta sẽ làm Phật. Những
tôn giáo khác đều chẳng dám nói chuyện này! Trong những
tôn giáo khác, nếu nói quư vị học tôn giáo ấy, trong
tương lai sẽ làm giáo chủ, họ có dám nói hay không?
Họ chẳng dám nói. Nhưng đối với Phật
giáo, trong tương lai, chúng ta sẽ thành Phật! Nhờ
vào đâu để thành Phật? Nhờ vào cái tâm của
chúng ta để thành Phật! V́ thế, nói “tâm pháp quan trọng nhất”. Bất luận tông
phái nào trong nhà Phật cũng đều phải nói tới
lư này!
Nay
xin quư vị xem kinh văn: “Phật
cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”: Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. “Kiến thử sự dĩ” (Đă thấy chuyện
này), chữ “thử sự”
(此事) chỉ
phép Quán thứ bảy trong phần trước, đối
với t́nh huống tráng lệ nơi
ṭa hoa sen đức Phật ngự [đă quán tưởng thành
công]. Sau khi [đă quán tưởng] phép Quán thứ bảy rơ
ràng, tiếp đó, “thứ
đương tưởng Phật” (kế đó, hăy
nên tưởng Phật). Ṭa hoa sen ấy chính là liên hoa
đài để đức Phật ngồi. Quư vị quán
thấy cái đài ấy, thấy rành mạch rơ ràng. Sau
đó, tiến thêm bước nữa là tưởng Phật.
Do vậy, hai câu này nhằm nối kết phần trước
với phần sau, một mặt nhằm nhắc lại ư
nghĩa trong phần trước đó, mặt khác là khơi
mở phần kinh văn sau đó.
IV.2.2.9.1 Pháp giới thân
“Sở dĩ giả hà” (v́ cớ
sao vậy)? V́ sao là “kế
đó, hăy nên tưởng Phật”? “Chư Phật Như Lai”: “Chư Phật”
là hết thảy các vị Phật, bất luận là vị
Phật nào. Như Lai (Tathāgata) là một trong các danh hiệu
của Phật. Chư Phật Như Lai, “thị pháp giới thân, nhập nhất thiết
chúng sanh tâm tưởng trung” (là thân pháp giới, vào trong
tâm tưởng của hết thảy chúng sanh). V́ sao tưởng
Phật? Chúng ta thường nói “tưởng điều ǵ
đó”, quư vị dựa vào ǵ để
tưởng? Quư vị có thể tưởng được
không? Phải đầy đủ những điều kiện
nào th́ mới có thể tưởng được? Bởi
lẽ, “chư Phật Như
Lai thị pháp giới thân,
nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung”
(Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm
tưởng của hết thảy chúng sanh), hai câu này chỉ
rơ: Chỉ sợ là chúng ta không tưởng. Chứ nếu
chúng ta chịu tưởng, sẽ có thể tưởng
được. V́ sao nếu chịu tưởng th́ sẽ
có thể tưởng được? Nguyên lư ở ngay
trong hai câu này!
“Pháp giới thân” là ǵ? (Xin coi đề
cương bài giảng). “Pháp
giới” (法界) là nói tới cảnh giới
giáo hóa của chư Phật, tức là nói tới chúng sanh
giới. Chúng sanh giới là pháp giới, mà cũng là đối
tượng giáo hóa của chư Phật. Trước hết,
chúng ta liễu giải điều này, sau đấy mới
nói tới thân, tức là thân của chư Phật. [Cái thân ấy]
có thể giáo hóa. Hóa cảnh trong phần trước là thứ
được biến hóa ra; chúng sanh tiếp nhận sự
giáo hóa của đức Phật, đó là nói theo phía chúng
sanh. “Thân” [trong “pháp giới thân”] là nói tới
chư Phật, là chủ thể có thể giáo hóa, tức là
thân của chư Phật. Trước hết, đă hiểu
rơ pháp giới và thân rồi, sau đấy, sẽ lại giảng
giải, sẽ càng dễ dàng liễu giải ư nghĩa.
Pháp giới và thân, trong và ngoài phân biệt như thế.
Chư Phật Như Lai là pháp giới thân (nói gộp lại).
Nói gộp lại, sẽ là Năng và Sở. [Sở là] cảnh
giới được hóa độ, c̣n thân Phật có thể
hóa độ [chính là Năng], đó chính là “pháp giới thân”. Hễ nói đến “pháp giới”,
chúng ta biết có mười pháp giới. Trong mười
pháp giới, Phật pháp giới được coi là rốt
ráo nhất. Ngoài Phật pháp giới ra, chín pháp giới kia
đều là đối tượng hóa độ của
Phật, đều là những cảnh giới được
hóa độ.
V́
sao đức Phật có thể giáo hóa, hóa độ phổ
biến như vậy? Đừng nói chín pháp giới khác,
[chỉ nói] trong lục đạo, [có thể hóa độ]
chúng sanh thuộc về nhân đạo là đă tuyệt diệu
lắm rồi. Nếu kể thêm thiên đạo, sẽ
càng chẳng thể nói trọn hết được! Sở
dĩ đức Phật có thể phổ độ chúng
sanh (xin coi đề cương bài giảng), thứ nhất
là “tâm biến” (心遍), [nghĩa là] tâm có thể
trọn khắp. Quư vị hăy nói xem “tâm Phật ở
nơi đâu?” Ở nơi chúng ta ư? Có ở nơi khác
hay không? Ở Trung Hoa, hay ở ngoại quốc? Ở tại
Trung Hoa, tại ngoại quốc, hay trong loài người
chúng ta, hễ thuộc về “nhân đạo” sẽ đều
có Phật tâm. Ngoài loài người ra, súc sanh đạo có
[Phật tâm] hay không? Quỷ đạo có [Phật tâm] hay
không? Trong địa ngục đạo, có Phật tâm hay
không? Nếu quư vị suy đoán theo từng tầng một,
[sẽ thấy] tâm Phật không đâu chẳng tồn tại,
chỗ nào cũng đều là Phật tâm. Không chỉ là hữu
t́nh chúng sanh ở trong Phật tâm, mà vô t́nh như trúc biếc,
hoa vàng cũng đều là [Phật tâm]. Đúng như cổ
nhân đă nói: “Thúy trúc, hoàng hoa
vô phi Bát Nhă” (Trúc biếc, hoa vàng, không ǵ chẳng phải
là Bát Nhă), “Bát Nhă” là Phật
(là một loại thân Phật[5]).
Không chỗ nào chẳng phải là thân Phật, không chỗ
nào chẳng phải là tâm Phật. Tâm Phật trọn khắp
hết thảy mọi nơi, đó là “tâm biến” (心遍), tức
là tâm trọn khắp. Tâm tồn tại nơi đâu, thân
bèn tồn tại nơi đó. Ví như nói bọn chúng sanh
phàm phu ta, tâm tưởng đến chỗ nào; tiếp
đó, thân thể chúng ta nghe theo sự chỉ huy của cái
tâm, thân thể bèn tới đó. Ví như nói: V́ sao thân thể
mọi người tới nơi này? Chính là v́ trong tâm chúng
ta vừa nghĩ “ngay trong thời gian này, chúng ta đang
nghiên cứu Quán Kinh”, thân thể bèn nghe theo sự dẫn dắt
của cái tâm mà đến nơi đây. Đấy là
điều nông cạn dễ thấy nhất. Thân và tâm của
phàm phu có mối quan hệ liên đới. C̣n như đối
với người đă thành Phật, bất luận là
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng thế, mà A Di Đà Phật
cũng thế, những vị Phật khác cũng thế,
đều là tuyệt diệu. Do tâm trọn khắp hết
thảy, thân cũng thuận theo tâm mà trọn khắp hết
thảy. Đó là “thân biến”
(身遍, thân trọn khắp).
Lại
c̣n một ư nghĩa nữa: V́ sao có tâm và thân trọn khắp?
V́ đă thành Phật, sẽ chẳng có hết thảy
chướng ngại. Thân thể và tâm lư của bọn phàm
phu chúng ta luôn có chướng ngại. Chẳng hạn
như tâm lư của chúng ta có chướng ngại ǵ vậy?
Những thứ chúng ta liễu giải chỉ thuộc về
chuyện thế gian; đă vậy, chuyện thế gian cũng
liễu giải quá ít. Chuyện trước mắt có thấy
rơ hay không vẫn là có vấn đề! Những chuyện
không nh́n thấy, hoặc chuyện bên ngoại quốc
đều chẳng liễu giải. Ví như trong quá khứ,
khi Y Lạp Khắc (Iraq) và Mỹ đánh nhau, chúng ta chỉ
biết lúc tác chiến tử vong bao nhiêu người. Số
người tử vong được đăng tải
trong tin tức trên báo chí hoặc nhật tŕnh rất hữu
hạn, chẳng có bao nhiêu. Tin tức trên báo chí c̣n có thể
hoàn toàn tin cậy hay không? Nếu chúng ta tin theo báo chí, [trong
cuộc chiến ấy] chỉ bị chết có ngần ấy
người thôi ư? Thật ra, đă chết bao nhiêu
người, chúng ta có biết hay không? Chúng ta không biết!
Cùng một thời gian, mà [những sự kiện phát sinh ở]
chỗ xa xôi chúng ta đều chẳng biết, vẫn là
phải tốn một thời gian dài! Chúng ta thuộc về
thời hiện đại, [những ǵ xảy ra] trước
hiện thời sẽ là lịch sử. Chuyện trong lịch
sử chúng ta lại biết được bao nhiêu?
Đương nhiên là có những sử gia biên chép lịch
sử, [nhưng những ǵ được họ] ghi lại
cũng chỉ là đôi chút, chẳng thể đều hoàn
toàn biết trọn! Do vậy, chúng sanh liễu giải chuyện
trong thế gian này quá ư ít ỏi. V́ sao? Đó là do chướng
ngại. Những chuyện chúng ta biết, kể cả
phương diện tâm lư lẫn phương diện thân
thể, những điều chúng ta được tiếp
xúc ít đến nỗi đáng thương, quá ít ỏi!
Đó là v́ chúng ta có quá nhiều chướng ngại, tâm lư
chẳng thể rộng mở. Tâm lượng quá nhỏ,
tri thức và năng lực kiến giải đều nhỏ
tí ngần ấy. Do đó, ở bất cứ nơi
đâu, cũng đều bị hạn chế, chúng ta chẳng
có cách nào. V́ thế, học Phật th́ phải học sao
cho tâm linh của chính ḿnh được mở rộng
như Phật vậy, hoàn toàn mở rộng tâm linh của
chính ḿnh, mở rộng đến tột cùng! Tất cả
các chướng ngại đều chẳng có,
đương nhiên là “vô ngại”.
Đă là vô ngại, cho nên tâm cũng trọn khắp, thân thể
cũng trọn khắp, trọn khắp hết thảy.
Khi đă trọn khắp hết thảy, người ấy
chẳng có ǵ không biết, bất cứ chuyện ǵ người
ấy cũng đều biết. Nói theo phương diện
năng lực, sẽ là “không ǵ chẳng thể!”
Nay
chúng ta đă thấy công phu ấy, đức Phật
đúng là phi phàm thay! Chúng ta có thể làm được hay
không? Đương nhiên là làm được! Nếu chẳng
làm được, chúng ta học Phật để làm ǵ?
Chúng ta học Phật, tuyệt đối chẳng phải
là chỉ để cầu b́nh an, cầu hết thảy
thuận lợi, có thể thăng quan phát tài, con cháu
đông đầy, chẳng phải là để cầu những
điều ấy! Những điều đó là phụ thuộc.
Người học Phật mà học tốt đẹp, ở
trong nhân gian, hết thảy đều rất thuận lợi,
hết thảy đều rất b́nh an, nhưng mục
đích không phải chỉ là những điều ấy. Mục
đích cao nhất trong việc học Phật là mong thành Phật,
giống chư Phật tâm trọn khắp, thân trọn khắp,
vô ngại, đắc đại tự tại, hết thảy
tự do tự tại, có thể tự chủ. Hiện thời,
ai trong chúng ta có thể tự chủ? Quốc gia dân chủ
chú trọng t́m cầu dân chủ, cầu dân chủ loại
nào? Chẳng hiểu Phật pháp mà mong cầu dân chủ th́
đúng là phạm vi quá nhỏ. Một người mong cầu
bất tử, có được hay không? Trong một quốc
gia dân chủ, nói đến dân chủ, [thế mà] c̣n chẳng
có ai dám nói “ta mong bất tử, ta cầu tự do tự tại”,
cầu sao chính ḿnh bất tử, cầu vĩnh cửu bất
sanh bất diệt, người ấy có nằm mơ
cũng chẳng tưởng được! Nhưng Phật
pháp nói điều này: “Tâm có thể trọn khắp, thân có
thể trọn khắp, vô ngại, tức là đă thành Phật”,
thật sự tự do tự tại. Đấy là nói về
pháp giới thân. Chư Phật đều chứng đắc
pháp giới thân; chúng ta học Phật cũng là v́ mong chứng
đắc pháp giới thân. Biết ư nghĩa của pháp giới
thân và nguyên lư quán tưởng Phật cũng giống
như vậy. Chư Phật Như Lai là pháp giới thân, pháp
giới thân có trọn đủ ba loại ư nghĩa như
đă nói trong phần trước.
“Nhập nhất thiết chúng sanh tâm tưởng
trung”,
có nghĩa là khi chúng sanh phàm phu tưởng Phật, pháp giới
thân của Phật liền vào trong tâm tưởng của
chúng ta. V́ sao chúng ta vừa tưởng, Pháp Thân của Phật
bèn có thể vào trong tâm của chúng ta? Trong phần trước,
đề cương bài giảng có ghi: “Phật là tâm trọn khắp, thân trọn khắp,
vô ngại”. “Vô ngại”
có nghĩa là trí huệ của Phật vô ngại. Trong khi
tâm chúng ta vừa tưởng, Phật đă là thân tâm vô ngại,
đều là trọn khắp. Bất cứ chúng sanh nào, chẳng
động niệm th́ thôi, hễ động niệm, Phật
liền biết ngay, Phật bèn vào trong tâm tưởng của
chúng ta. V́ sao chúng sanh vừa tưởng, Phật liền
vào trong tâm của chúng ta? Chữ “nhập”
(入) này,
lũ b́nh phàm chúng ta thoạt nh́n có ai mà chẳng nhận biết?
Nhưng trong kinh văn, hễ gặp chữ này, chúng ta phải
đặc biệt nghiên cứu, v́ nó liên quan đến chuyện
nghiên cứu phép quán tâm này, rất quan trọng! V́ sao chúng ta
vừa tưởng, Phật bèn vào trong tâm của chúng ta?
Nói theo phía Phật, tâm Ngài trọn khắp, thân cũng là trọn
khắp, trí huệ vô ngại. Do đó, tâm chúng ta vừa
tưởng, Ngài liền biết. Hễ biết, tức là
vào trong tâm của chúng ta. Nói theo phía chúng sanh, chúng sanh phàm phu
đông như vậy, người mong học Phật, trong
tâm phải nghĩ tới Phật th́ mới có thể thấy
Phật, Phật mới có thể vào trong tâm. Quán Kinh dạy
về Quán Tưởng Niệm Phật, trong đạo
tràng Đài Trung của chúng ta, mọi người học
pháp môn Niệm Phật theo lối Tŕ Danh Niệm Phật.
Tŕ Danh Niệm Phật cũng giống như vậy, khi
chúng ta dấy niệm, vừa dấy khởi Phật hiệu,
Phật liền biết ngay. Điều này có nghĩa là:
Tâm chúng sanh ắt phải “tưởng”,
chẳng tưởng sẽ không có cách nào! Chẳng tưởng,
Phật ở ngay trước mắt, chúng ta cũng chẳng
nhận biết Phật. V́ thế, “tưởng” hết sức trọng yếu!
“Tưởng” th́ cũng chẳng
phải là lập tức có thể tưởng thành công. Ví
như chúng ta tŕ danh niệm Phật, mong đắc nhất
tâm bất loạn; thế nhưng, chúng ta tŕ danh niệm Phật,
đă niệm rất nhiều năm, vẫn chẳng đạt
được nhất tâm bất loạn, do nguyên nhân nào? Ở
đây, đă nói rất rơ ràng, tổ sư chú giải hết
sức rơ ràng: “Hàng phục”.
Tŕ danh niệm Phật, cái tâm ắt phải hết sức
thanh tịnh. Khi đó, mới có thể cảm nhận Phật
vào trong tâm của chúng ta. V́ thế, chữ Nhập này, nói
theo hai phía, [sẽ là] nếu bên chúng sanh “cảm”, tức cảm nhận, nơi Phật
bèn “ứng”. Thông thường,
chúng ta nói Quán Thế Âm Bồ Tát “có
cầu ắt ứng”. Không chỉ là Quán Thế Âm Bồ
Tát có cầu ắt ứng, mà bất luận vị Phật
nào, cũng đều là “có cầu
ắt ứng”. “Có cầu ắt
ứng”: Nói theo phía Phật là Ứng, nhưng phải
tùy thuộc bên phía chúng sanh có Cảm hay không! Như thế
mới là “cảm ứng”.
Chúng ta thường nói niệm Phật có cảm ứng hay
không, cảm ứng nhất định là có! Phật nhất
định ứng, nhưng người niệm Phật
chúng ta có cảm hay không? Hễ cảm trọn đủ,
nhất định là sẽ có ứng. Đó gọi là “cảm ứng đạo giao”!
Có người niệm Phật có thể cảm nhận, có
kẻ chẳng thể cảm nhận, vấn đề là
cái tâm của chúng ta có thanh tịnh hay không? Thanh tịnh là
ǵ? Chẳng thanh tịnh là ǵ? Tuy miệng niệm Phật,
tâm chẳng đặt nơi Phật hiệu, tâm dốc tận
hết sức suy nghĩ chuyện trong nhân gian: Làm thế
nào để cầu được của cải? Làm thế
nào cầu danh (thanh danh)? Đă tới lúc ăn cơm, bèn
nghĩ phải ăn cơm. Đă đến lúc ngủ,
bèn nghĩ phải ngủ nghỉ. Nếu tâm lư của chúng
ta chỉ xoay vần trong những phương diện
đó, những chuyện ấy sẽ khiến cho cái tâm của
chúng ta chẳng thể thanh tịnh. Tâm chúng ta đặt
nơi các giả pháp trong nhân gian. Muốn có thể thanh tịnh,
chính là như tổ sư đă khai thị “buông xuống vạn duyên”. Tâm chúng ta phan duyên cái
này, phan duyên cái nọ; ắt phải buông xuống vạn duyên
trong thế gian, tâm mới thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, sẽ
có thể cảm nhận Phật vào trong tâm chúng ta. Đó là
cảm ứng.
Trên
đây, lư “vào trong tâm tưởng
của hết thảy chúng sanh” là như thế: Một
đằng là chúng sanh cảm, một đằng là chư
Phật ứng. Ứng (應) là Phật
dùng thân Ngài để vào trong tâm chúng sanh. Phật có ba thân,
chúng ta thấy Phật đều là trông thấy Ứng
Thân Phật. Ở đây, tôi nhắc đến một tỷ
dụ của cổ nhân: Vầng trăng trên bầu trời
ví như Pháp Thân của Phật, là bản thể. Tướng
do đâu mà có? Tướng từ bản thể mà có. Chỉ
có một vầng trăng trên bầu trời, Ứng Thân
th́ vô lượng vô biên, rất nhiều. Chúng ta ở trên
địa cầu, Hoàng Hà, Trường Giang, bất cứ
chỗ nào có nước, chỉ cần nước thanh tịnh,
trăng liền hiện bóng. Nước thanh tịnh ví
như cái tâm thanh tịnh của bọn chúng sanh chúng ta. Chỉ
cần tâm chúng sanh thanh tịnh, sẽ giống như một
bến nước thanh tịnh. Pháp Thân của Phật
như vầng trăng có thể hiện bóng. Nếu nước
chẳng thanh tịnh, trong ấy vừa có bùn, vừa có
cát, lại có cỏ, tạp vật quá nhiều, có thể
soi bóng trong ấy hay không? Chẳng thể soi bóng được!
V́ thế, từ tỷ dụ này, chúng ta có thể liễu
giải: Chúng ta quán tưởng niệm Phật cũng thế,
tŕ danh niệm Phật cũng thế, ắt phải do bản
thân chúng ta dụng công. Phật là đấng đại từ
đại bi, chẳng có vấn đề! Bất luận
kẻ nào chỉ cần tâm tưởng Phật, niệm Phật,
Phật sẽ ứng. Nếu tâm chúng ta chẳng thanh tịnh,
chẳng thể trách Phật, chỉ trách cái tâm của chính
ḿnh chẳng thể cảm. Sở dĩ tâm chẳng thể
cảm là v́ tâm chúng ta chẳng thanh tịnh như nước,
trong ấy có bùn, cát, khiến cho nó bị ô nhiễm, làm sao
có thể chiếu soi cho được?
Tỷ
dụ này vừa khéo khiến cho chúng ta liễu giải:
Chúng ta niệm Phật, nếu mong cảm ứng đạo
giao, nhất định là phải sửa đổi cái
tâm. V́ lẽ đó, thuở tại thế, thầy chúng ta
nói: “Mọi người niệm
Phật, nhất định là phải biến đổi tâm
lư”. Mức độ biến đổi tâm lư thấp nhất
là đừng nên năo hại chúng sanh. Làm thế nào để
chẳng năo hại chúng sanh? Đối với tài vật
trong thế gian cũng thế, danh vị cũng thế,
đều là hữu hạn. Chúng ta mong tranh giành tài vật,
tranh chấp danh vị, chính ḿnh đă có, kẻ khác chẳng
có, xâm chiếm của người khác, làm như vậy chẳng
phải là năo hại chúng sanh ư? C̣n tiến hơn bước
nữa, cướp thứ ǵ của kẻ khác, trộm thứ
ǵ của người ta, dùng mọi thứ phương
pháp để hăm hại người khác, những điều
này đều là năo hại chúng sanh. Nếu chúng ta mong niệm
Phật có thể cảm ứng, những chuyện này thảy
đều chẳng cần nữa, chớ nên năo hại bất
cứ chúng sanh nào! Như vậy th́ cái tâm của chúng ta mới
có thể rỗng rang được!
Sau
khi đă liễu giải đạo lư này, sẽ biết “vào trong tâm tưởng của hết
thảy chúng sanh”, chính là
trong khi quán tưởng, trong tâm nhất định phải
thanh tịnh. “Thị cố nhữ
đẳng tâm tưởng Phật thời” (V́ vậy,
khi tâm các vị tưởng Phật), đức Phật bảo
tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy (bao gồm tất cả
người học Phật về sau như chúng ta), trong
khi tâm quư vị tưởng Phật, tức là khi quán tưởng.
“Thị tâm tức thị tam thập
nhị tướng, bát thập tùy h́nh hảo” [nghĩa
là] trong khi tâm chư vị tưởng Phật, cái tâm có thể
tưởng Phật (năng tưởng tâm) của quư vị,
[kinh văn gọi nó là] “thị
tâm” (cái tâm ấy), “tức
thị” (chính là), nghĩa
là cái tâm ấy chính là ba mươi hai tướng. Ba
mươi hai tướng là Ứng Thân của Phật. Ứng
Thân của Phật luôn có ba mươi hai tướng. Ngoài
những tướng ấy ra, c̣n có tám mươi tùy h́nh hảo,
kèm theo ba mươi hai tướng mà có các “hảo”. Thật sự có thể tưởng Phật
như vậy, tâm sẽ có thể chuyển biến, có thể
trông thấy ba mươi hai tướng và tám mươi
tùy h́nh hảo.
Ở
đây, chẳng cần nói chi tiết về “ba mươi hai tướng, tám
mươi tùy h́nh hảo”. Nói cặn kẽ, sẽ chẳng
đủ thời gian. Mọi người trong đạo
tràng Đài Trung đều biết ba mươi hai tướng.
Nếu chẳng biết trọn vẹn, có thể tra cứu
Phật Học Từ Điển sẽ biết. Kinh
văn dạy “tâm này chính là ba
mươi hai tướng”. Tâm quư vị vừa tưởng,
Ứng Thân của Phật bèn hiện ra, ư nghĩa là ở
chỗ này. Ứng Thân của Phật xuất hiện
như thế nào? Tâm đặt nơi tướng. Trong tâm
quư vị tưởng tướng ấy của Phật,
tâm quư vị và ba mươi hai tướng của Phật
sẽ hoàn toàn kết hợp lại, vậy th́ ba
mươi hai tướng của Phật sẽ chuyển
biến cảnh giới nơi cái tâm của quư vị, chính
từ trong tâm xuất hiện. Đây cũng là nói với người
học Phật: “Khi tưởng Phật, nếu tưởng
Báo Thân của Phật, sẽ là tưởng ba mươi
hai tướng”. Chú giải của tổ sư có giải
thích: Ba mươi hai tướng [được quán
tưởng] từ đỉnh đầu đức Phật.
Trước hết, quán Vô Kiến Đảnh Tướng
của Phật; sau đấy, quán khuôn mặt đức
Phật, rồi quán thân thể Phật, măi cho đến
quán chân Phật (dưới ḷng bàn chân đức Phật).
Đó là ba mươi hai tướng. Chẳng hạn
như nh́n lông mày của đức Phật: Giữa hai lông
mày có bạch hào. Đó là một trong ba mươi hai tướng.
Bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch
hào uyển chuyển ngũ Tu Di” (Bạch hào cuộn tṛn
to như năm quả núi Tu Di). Đấy là bạch hào
nơi Báo Thân đức Phật; tướng bạch hào ấy
quá to. Chúng ta quán tưởng Ứng Thân của Phật chẳng
to ngần ấy, nhưng quư vị quán tưởng bạch
hào rất cụ thể, trong tâm tưởng như vậy.
Mắt th́ sao? “Cám mục trừng
thanh tứ đại hải” (Mắt biếc trong veo như
bốn biển lớn), quan sát từng tướng một
trong ba mươi hai tướng. Quan sát ḷng bàn chân Phật
có “thiên bức luân tướng”
(千輻輪相, tướng
bánh xe ngàn căm). Trong Phật Học Từ Điển có
nói rành rẽ những điều này. Ngoài ba mươi hai
tướng ra, c̣n có tám mươi tùy h́nh hảo, [tức là]
ngoài các tướng ra, c̣n có các thứ vẻ đẹp
trang nghiêm. Chỉ cần tâm quư vị vừa tưởng,
những tướng ấy bèn trồi lên, hiện ra trong
tâm quư vị. V́ thế, nói: “Thị
tâm tức thị tam thập nhị tướng, bát thập
tùy h́nh hảo” (Tâm này
chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy h́nh hảo).
Điều này rất quan trọng!
Tâm chúng
ta thời thời khắc khắc tưởng ba
mươi hai tướng của Phật, tâm chúng ta sẽ
hoàn toàn nhất trí với ba mươi hai tướng
nơi thân Phật, tâm chúng ta sẽ chẳng ở trong thế
gian này. Nếu tâm chúng ta đặt nơi thế gian, sẽ
chịu khổ trong nhân gian. Nhân gian có đủ mọi nỗi
khổ năo, tâm chúng ta đặt nơi đây, sẽ cùng cảm
nhận [các thứ khổ năo giống như mọi người].
Tâm chẳng đặt nơi nhân gian, mà đặt nơi
ba mươi hai tướng, chúng ta sẽ được
thọ dụng giống hệt như ba mươi hai
tướng. Đấy chính là đạo lư “vạn pháp duy tâm”. Ắt phải
liễu giải điều này, sau đấy quán tưởng
Phật mới có thể tiến bộ, mới có thể
quán tốt đẹp.
Hai
câu sau đó: “Thị tâm tác Phật,
thị tâm thị Phật” (Tâm này làm Phật, tâm này là Phật).
Trong phần trước đă nói, khi tưởng Phật,
tâm của quư vị là ba mươi hai tướng, tám
mươi tùy h́nh hảo. Hai câu này chỉ ra: Cái tâm của
quư vị đang làm Phật. Không chỉ là tâm làm Phật,
mà tâm quư vị c̣n là Phật! V́ thế, hôm nay, trước
khi bắt đầu chánh thức giảng vào kinh văn,
tôi đă nhắc nhở “vạn
pháp duy tâm”. Các tông đều là “hết thảy chỉ là do tâm tạo”, Tịnh
Độ Tông cũng là duy tâm tạo. Tông này khác với các
tông thông thường ở chỗ nào? Ở đây, phải
đặc biệt chú ư. Nếu không chú ư chỗ này, sẽ
giảng [pháp môn] Tịnh Độ thành pháp môn thông thường!
Tam
Luận Tông cũng thế, mà Duy Thức Tông cũng thế,
Thiên Thai Tông cũng thế, các pháp môn thông thường
đều nói tới tâm pháp. Cách nói chung [trong các tông] là “chớ nên chấp trước
tướng, phải ĺa khỏi tướng”. Kinh Kim
Cang dạy: “Chẳng thể
dùng ba mươi hai tướng để thấy Như
Lai. Nếu dùng ba mươi hai tướng để thấy
Như Lai, sẽ là hành tà đạo, chẳng phải là
chánh pháp”. Ở đây, chúng ta nói: “Tâm này chính là ba mươi hai tướng”, hoàn
toàn tương phản với cách nói trong Kim Cang. Phải
biết: Kinh Kim Cang và những pháp môn [thông thường]
khác đều có cùng một nguyên tắc, đều là “chớ nên chấp tướng”.
Hễ chấp tướng, tâm sẽ chẳng thanh tịnh.
Tịnh Độ Tông là pháp môn đặc biệt, đặc
biệt ở chỗ nào? Chúng ta phải liễu giải. Những
điều khác chẳng cần phải nói, lấy ngay cái
tâm hiện thời của chúng ta để nói: Chúng ta có quá
nhiều ư niệm, ư niệm chẳng ngoài tưởng cái
này, nghĩ cái kia, toàn là nghĩ tưởng chuyện trong
nhân gian. Muốn khiến cho ư niệm chẳng nghĩ tới
những chuyện ấy có được hay không? [Đối
với bọn phàm phu hạ căn], tuyệt đối là
không được. Quư vị có thể thử xem, nếu
giữ cho ư niệm chẳng nghĩ tới hết thảy
mọi chuyện trong nhân gian, sẽ tuyệt đối là
chẳng được. Nhưng chiếu theo pháp môn thông
thường, dẫu quư vị không thể, cũng phải
bài trừ ư niệm! Đó gọi là “ly niệm”, tức là ĺa khỏi các ư niệm! Sau
khi ly niệm, bản tánh của quư vị, tức Tự Tánh
Phật mới có thể hiển hiện. Đó là điểm
chung của các pháp môn thông thường.
Thích
Ca Mâu Ni Phật quá từ bi, v́ công phu này quá khó khăn.
Đă là chẳng thể ly tướng, vậy th́ bèn chấp
tướng. Đă là chẳng thể, [tức là] chẳng
thể ĺa [các tướng], vậy th́ chấp tướng.
Chấp tướng nào vậy? Chấp vào ba mươi hai
tướng của Phật. Đó là diệu nghĩa mầu
nhiệm nhất, đặc biệt nhất, là pháp đặc
biệt nhất. Quư vị chấp vào ba mươi hai
tướng. Trong tâm vừa tưởng, ba mươi hai
tướng sẽ xuất hiện. Ba mươi hai tướng
xuất hiện, sẽ giống như tâm quư vị đang
làm Phật. “Tác” (làm) chính là
tu. Quư vị tu pháp môn này, tưởng thấy Phật, [tức
là thấy] ba mươi hai tướng của Phật.
Trong tâm quư vị tưởng, trong tâm bèn xuất hiện
[những tướng ấy]. Trong tâm quư vị tưởng,
[các tướng ấy] xuất hiện trong tâm, [đó chính
là] quư vị đang làm Phật, cái tâm ấy đang làm Phật.
Làm Phật rất tự nhiên, rất thuần túy, sau đấy
mới hoảng nhiên đại ngộ: Vị Phật mà
chúng ta trông thấy vốn là A Di Đà Phật, là Thích Ca Mâu
Ni Phật, là chư Phật. Sau khi đă tưởng ba
mươi hai tướng, tưởng thuần thục tự
nhiên, ba mươi hai tướng sẽ là của chính ḿnh,
bản thân ta là ba mươi hai tướng. “Thị tâm thị Phật”
(tâm này là Phật): Không chỉ là tâm làm
Phật, mà c̣n “tâm này là Phật”.
Quư vị có thể liễu giải “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Vừa tưởng,
bèn tưởng được, so sánh với các pháp môn thông
thường phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp mới có thể làm được. Quư vị
tưởng như vậy bèn tưởng được! Đặc
biệt ngần ấy, vi diệu ngần ấy!
Lại
nói đôi chút về câu “thị
tâm tác Phật, thị tâm thị Phật” theo học lư.
V́ sao trong ba kinh Tịnh Độ, Quán Kinh đặc biệt
trọng yếu? Là do hai câu này đă nói triệt để
nhất. Bất cứ lư luận trong kinh điển Đại
Thừa nào cũng đều tương thông hai câu này. Ví
như kinh Lăng Nghiêm chính là một bộ đại kinh
khai huệ, giảng về bản tánh của chúng sanh, giảng
về Như Lai Tạng “phi
nhân duyên, phi tự nhiên”, [nghĩa là] bản tánh đă chẳng
phải là pháp nhân duyên, mà cũng chẳng phải là tự
nhiên mà có, rất khó hiểu! Dùng hai câu “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” để nói,
sẽ dễ hiểu! Tâm này làm Phật, [tức là] chẳng
phải là tự nhiên. Nếu nói vị Phật ấy là tự
nhiên, chúng ta sẽ chẳng cần phải học (tự
nhiên Thích Ca), mọi người đều là Thích Ca Mâu Ni
Phật rồi, c̣n học làm chi nữa? Chẳng cần phải
tu! Như vậy th́ sẽ nẩy sanh vấn đề to lớn!
Chúng sanh trong thế gian tuy có Chân Như bản tánh, nhưng
nhất định là phải tu! Chẳng tu, Phật ở
chỗ nào? Chẳng có tác dụng chi hết! Chẳng thể
thành Phật. Nếu chỉ chú trọng “chẳng phải
là tự nhiên”, tức là phải tu, chúng ta hăy tu thành Phật!
Nhưng do chẳng hiểu nguyên lư
căn bản, chẳng hiểu tâm pháp, tức là chẳng
hiểu “tâm này là Phật”, vậy
th́ lại chẳng được rồi! Kinh Lăng Nghiêm
ví von “chử sa thành phạn” (nấu cát thành
cơm). Nếu chẳng hiểu nguyên lư, ví như nấu
cát hoặc đá, đến năm nào, tháng nào th́ mới có
thể nấu nó thành cơm? Chẳng thể nấu
được! V́ thế, “tâm
này là Phật” chính là liễu giải cái tâm của chúng
ta vốn sẵn là Phật, có Phật Tánh. Chúng ta thấy
hai câu ấy, “tâm này làm Phật”
là nói đến bản tánh của chúng ta, chẳng phải
là tự nhiên, ắt cần phải tu. “Tâm này là Phật”: Hiểu Phật chẳng phải
là pháp nhân duyên. Chẳng phải là nhân duyên, [bởi lẽ]
chúng ta ai nấy vốn sẵn có Phật tánh. V́ vậy, nếu
nói theo học lư, hai câu này thông với hết thảy tâm
pháp Đại Thừa.
“Chư Phật Chánh Biến Tri hải,
tùng tâm tưởng sanh” (Biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng), “chư Phật” là hết thảy
các vị Phật. “Chánh Biến
Tri” (Samyak-sambōdhi) là một trong mười hiệu
của đức Phật. Bậc đă thành Phật, đối
với bất cứ chuyện nào trong thế
gian, tâm của hết thảy chúng sanh, Ngài đều biết.
V́ thế, khi lũ chúng sanh chúng ta tưởng Phật, Phật
bèn dùng Chánh Biến Tri, có thể biết trọn khắp
trí huệ nơi tâm lư của chúng sanh. [Cái tâm ấy] từ
trong tâm tưởng của chúng ta, sanh từ trong tâm tưởng.
Nói “Chánh Biến Tri hải”, đối với chữ Hải,
người ta thường liễu giải “biển không
có ngằn mé”. Dùng Biển để h́nh dung Chánh Biến Tri
của Phật, bất cứ điều ǵ cũng đều
thấu biết trọn khắp. “Tùng tâm tưởng sanh” (Sanh từ tâm tưởng),
nói “sanh” có nghĩa là từ
trong tâm tưởng của chúng sanh mà xuất hiện, hiển
hiện. Đó gọi là “sanh”.
Nguyên
lư được giảng trong đoạn lớn này chính
là: Kể cả hết thảy chư Phật, “vạn pháp duy tâm”, nguyên lư là
nhất trí. Chỗ bất đồng là phải đặc
biệt liễu giải: Ở đây, nói tới ba mươi
hai tướng, nói những tướng ấy sanh từ
tâm tưởng, nhằm dạy chúng ta “tạ Phật tướng lai tu tŕ” (nhờ vào Phật
tướng để tu tŕ). Pháp môn này tuy được
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy trong thời đại Chánh
Pháp, cho đến thời đại hiện thời là Mạt
Pháp, nay chúng ta cảm thấy tu pháp môn quán tưởng này rất
khó! Nếu tu pháp môn thông thường, nói đến “ly tướng” (chẳng chấp
tướng) sẽ hết sức khó khăn! Chẳng phải
là không thể, chẳng phải là không thực hiện
được, nhưng thời gian [tu tập] rất dài,
chẳng trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, sẽ
chẳng thể! Pháp môn này của chúng ta có thể thực
hiện [hoàn măn] ngay trong một đời. Do vậy,
đây là phương pháp đặc biệt, đặt
căn bản trên trụ tướng, học bằng cách
chấp tướng, học nhanh nhất. Giống như
các nhà đại nghệ thuật, học âm nhạc cũng
thế, học hội họa cũng thế, trước
hết là phải có tướng để mô phỏng theo,
sau đấy mới [có thể học] nhanh chóng!
Trong
đoạn kinh văn này, phải đặc biệt chú ư
hai điều: Một là nguyên lư “vạn
pháp duy tâm”, hai
là “nhờ vào Phật tướng
để tu tŕ”. Cổ nhân nói “nhất sanh thành biện” (hoàn thành ngay trong một
đời). “Hoàn thành trong một
đời” nên hiểu như thế nào? Trong một
đời này, chúng ta có thể văng sanh thế giới Cực
Lạc. Hễ văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, sẽ có thể thành Phật ngay trong một đời.
Đó là ư nghĩa chủ yếu. Hôm nay, tôi giảng đến
chỗ này bèn ngưng.
Tập 29
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười bốn,
bắt đầu từ hàng thứ năm. Tôi đọc
trước một tiểu đoạn kinh văn:
(Kinh)
Thị cố ưng đương nhất tâm hệ niệm,
đế quán bỉ Phật Đa Đà A Già Độ, A
La Ha, Tam Miệu Tam Phật Đà.
(經)是故應當一心繫念,諦觀彼佛多陀阿伽度,阿羅訶,三藐三佛陀。
(Kinh:
Do vậy, hăy nên nhất tâm hệ niệm, quán chắc thật
đức Phật Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Đẳng
Chánh Giác ấy).
Tiếp
tục nói về phép Quán Tưởng Phật trong lần
trước. Đây là phép Quán thứ tám, phép Quán này hết
sức quan trọng. Lần trước, tôi đă nói: Nguyên
lư Quán Tưởng Niệm Phật được giảng
hết sức thấu triệt trong kinh này (nguyên lư của
Tŕ Danh Niệm Phật cũng giống như vậy).
Nguyên lư này, trong lần trước đă nói là “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.
Ư nghĩa được bao hàm trong hai câu này không chỉ là
Tịnh Độ Tông, mà những ư nghĩa được
nói trong các bộ kinh lớn của các tông khác đều chẳng
vượt ra ngoài ư nghĩa của hai câu này.
“Tâm này làm Phật” là nói theo
phương diện Tu Đức. Chúng ta đều biết
chính ḿnh có Chân Như bản tánh, bản tánh của chúng ta
là Phật; nhưng tuy có bản tánh Phật, nếu quư vị
chẳng tu, sẽ chẳng phát ra tác dụng. Giống
như ánh sáng của vầng trăng trên bầu trời bị
từng tầng mây che lấp, ánh trăng chẳng lộ ra
được! Bản tánh của chúng ta cũng giống
như thế. Đó là tỷ dụ. Chúng ta nhất định
phải tu, phải đoạn trừ từng tầng một
tập khí ác nhiễm của chính ḿnh từ nhiều đời
nhiều kiếp đến nay, khiến cho vị Phật
trong bản tánh của chúng ta hiển lộ. Chuyện này cần
đến công phu tu tŕ. Chẳng có công phu tu tŕ ấy, sẽ
chẳng được. Đó là “thị tâm tác Phật” (tâm này làm Phật). “Thị tâm thị Phật” (Tâm
này là Phật) nghĩa là chúng ta ắt phải nhận biết
chính ḿnh vốn sẵn có Phật tánh. Nếu chẳng nhận
biết Phật tánh sẵn có của chính ḿnh, sẽ tu bằng
cách nào? “Thị tâm thị Phật”
là nói tới vị Phật chúng ta vốn sẵn có. “Tu”: Như trong phần trước
đă nói, “tác Phật” là tu
thành công sẽ thấy! Chúng ta vốn chính là vị Phật
ấy. Hai câu này nói rất đơn giản, nhưng nguyên
lư trong ấy đă bao gồm giáo lư của hết thảy
các tông môn.
Chúng
ta đă liễu giải lư luận trong lần trước;
kế đó, đoạn kinh văn vừa mới đọc chính là nói phương pháp
Quán như thế nào! Đối với phương pháp
Quán, [những điều được] nói trong lần
trước chính là tánh chất chung, tức là nói: Nếu muốn
tưởng bất cứ vị Phật nào, nguyên lư đều
giống nhau. Hôm nay, chúng tôi sẽ bắt đầu chuyên
nói về cách quán A Di Đà Phật. Từ đây trở
đi là nói về phương pháp Quán ấy.
“Thị cố ưng
đương nhất tâm hệ niệm, đế quán bỉ
Phật” (V́ thế, hăy nên nhất tâm hệ niệm, quán
chắc thật vị Phật ấy). Đây là nói về
người tu học pháp môn Quán Tưởng. “Ưng đương nhất
tâm”: Tâm tư của chúng ta hệ niệm chuyên nhất.
Hăy quy các ư niệm về một niệm, chớ nên tạp
loạn. Quy nơi một niệm, chuyên môn “đế quán bỉ Phật”. Chữ “bỉ Phật” chỉ A Di
Đà Phật. V́ sao chỉ cần quán A Di Đà Phật, chẳng
cần quán mười phương ba đời chư Phật
nhiều ngần ấy? Điều này nhằm nói lên [ư
nghĩa] “phải nhất tâm hệ
niệm”. Khi chúng ta tu tŕ, bất luận là Quán Tưởng
Niệm Phật hay Tŕ Danh Niệm Phật, điều quan
trọng nhất là phải làm cho cái tâm của chúng ta có thể
định. Nếu tâm chẳng định, sẽ chẳng
quán tưởng thành công. Tâm nếu định, sẽ có thể
quán tưởng A Di Đà Phật thành công. Hơn nữa,
so sánh cách nào đi nữa, thế giới Sa Bà đều
chẳng sánh bằng thế giới Cực Lạc! Dẫu
làm đại hoàng đế trong thế gian này, làm hoàng
đế suốt đời, của cải nhiều đến
mấy đi nữa, quyền lực to cỡ nào đi nữa,
hễ chết rồi, thứ ǵ cũng chẳng mang theo
được! Do vậy, nhất định phải tới
thế giới Cực Lạc. Hễ đến nơi
đó, toàn thể t́nh huống sẽ
hoàn toàn khác hẳn nơi đây, sẽ đoạn dứt
sanh tử, chẳng giống như lũ chúng ta đang ở
trong lục đạo, sanh sanh diệt diệt chẳng ngừng,
nếm trải trọn hết nỗi đau khổ sanh tử,
ắt cần phải sanh về thế giới Cực Lạc.
A Di Đà Phật là giáo chủ trong thế giới Cực
Lạc. Trong quá khứ, Ngài đă từng phát đại nguyện:
“Nếu có chúng sanh muốn sanh về Tây Phương, phát
nguyện tŕ danh, cho đến nhất tâm quán tưởng,
tới khi lâm chung, ắt được Phật đến
tiếp dẫn”. V́ mối quan hệ ấy, chúng ta nhất
định phải “đế
quán bỉ Phật”, tức là chuyên tâm quán Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật.
Tiếp
đó, kinh văn ghi là “Đa-đà-a-già-độ” (Tathāgata)
đây là tiếng Phạn, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Như Lai. “A-la-ha”
(Arhat) cũng là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Ứng Cúng. “Tam-miểu
tam-Phật-đà” (Samyak-sambōdhi) dịch
sang tiếng Hán là Chánh Biến Tri. Ba danh từ Như Lai, Ứng
Cúng, và Chánh Biến Tri đều là đức hiệu của
Phật. Bất cứ chúng sanh nào sau khi đă thành Phật,
đều có mười loại danh hiệu ấy. Ở
đây, nêu ra ba danh hiệu là Như Lai, Ứng Cúng, và Chánh
Biến Tri. Nêu ra ba loại danh hiệu đều nhằm
ư nghĩa “khởi tác dụng”. Có tác dụng ǵ vậy? Chính
là quán tưởng. Bộ kinh này nói đến quán tưởng.
Nương theo chú giải của tông Thiên Thai, nói tới
Quán th́ chính là diệu quán Nhất Tâm Tam Quán, tức là viên
dung cả ba phép Quán Không, Giả, Trung, có thể quán thành
công cùng một lúc.
Nói
“Không Quán” chính là phàm phu chúng
ta chẳng hiểu chân tướng, ngỡ hết thảy
các hiện tượng trong thế gian đều là những
thứ chân thật. Luôn thấy của cải, danh vọng,
quyền lợi v.v… là thật sự tồn tại. V́ thế,
trong xă hội, tranh đoạt cùng người khác, làm những
chuyện thương thiên hại lư, khiến cho nhân cách
đọa lạc. Hễ chuyển sang đời khác, chẳng
thể giữ được thân người, đáng
thương quá! Phép Quán thứ nhất trong Phật pháp nhằm
dạy chúng ta thấy những điều ấy là Không, những
thứ ấy đều là giả pháp, đều chẳng
thật sự tồn tại.
Phép Quán
thứ hai là Giả Quán, c̣n gọi là Tục Quán. Tuy hết
thảy thế gian đều là rỗng không, nhưng ở
trong thế gian, vẫn chẳng thể phá hoại các thứ
trật tự trong thế gian. Chuyện chánh đáng trong thế
gian như pháp luật quốc gia, luân thường đạo
đức giữa con người với nhau, đều
phải nên duy tŕ, bảo vệ. Vẫn phải tuân theo những
trật tự thế tục trong thế gian ấy, đó
gọi là Giả Quán.
Cuối
cùng là Trung Quán, có nghĩa là: Bất luận là Không cũng
thế, mà Giả cũng thế. Trung là chẳng lệch về
một bên nào. Chẳng thiên Không mà cũng chẳng thiên Giả,
đó là Trung Đạo.
Nhất
Tâm Tam Quán: Khi nói, ba thứ ấy được nói phân biệt.
Nếu là kẻ b́nh phàm công phu nông cạn, chỉ có thể
quán từng bước một theo thứ tự. Bước
đầu tiên là phải thấy rơ ràng các giả pháp trong
thế gian này. Tiếp đó, [quán tưởng theo] từng
bước một. Người có công phu tốt đẹp
(người có tŕnh độ cao) có thể quán viên dung [cả
ba phép Quán] cùng một lúc. Đó gọi là Nhất Tâm Tam Quán.
Kinh văn nêu ra ba danh hiệu, Như Lai biểu thị
Trung Quán, tức Trung Đế, Ứng Cúng biểu thị
Giả Quán, tức Tục Đế, Chánh Biến Tri biểu
thị Không Quán, tức Chân Đế. Dùng ba danh hiệu ấy
để làm ba đối tượng quán tưởng. Nói
đến đối tượng là nói tới Đế,
[Tam Quán] chính là Tam Đế. Người quán tưởng
được gọi là Quán, đối tượng để
quán gọi là Đế, cho nên gọi là Tam Đế. V́ thế,
ba danh xưng ấy biểu thị ư nghĩa ấy. “Đế quán bỉ Phật”,
chúng ta là người muốn tu Quán, quán A Di Đà Phật.
Trong mười danh hiệu của A Di Đà Phật, nêu ra
ba danh hiệu để làm đối tượng cho sự quán tưởng. Căn cứ trên
ba danh hiệu ấy để quán thành tựu, ba phép Quán
Không, Giả, Trung có thể quán hoàn thành, ư nghĩa ở
chỗ này.
Trong
tiểu đoạn trên đây, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy
người quán tưởng phải nhất tâm quán A Di
Đà Phật, nguyên tắc là như vậy. Dưới
đây, Ngài chánh thức giảng cách Quán, chia thành mấy
phương diện để giảng, chúng tôi nói từng
đoạn một.
Tôi
đọc một đoạn kinh văn ngắn.
(Kinh)
Tưởng bỉ Phật giả, tiên đương
tưởng tượng, bế mục, khai mục, kiến
nhất bảo tượng, như Diêm Phù Đàn kim sắc,
tọa bỉ hoa thượng. Kiến tượng tọa
dĩ, tâm nhăn đắc khai, liễu liễu phân minh, kiến
Cực Lạc quốc thất bảo trang nghiêm. Bảo
địa, bảo tŕ, bảo thụ hàng liệt. Chư
thiên bảo mạn, di phú kỳ thượng. Chúng bảo
la vơng, măn hư không trung. Kiến như thử sự, cực
linh minh liễu, như quán chưởng trung.
(經)想彼佛者,先當想像。閉目開目,見一寶像,如閻浮檀金色,坐彼華上。見像坐已,心眼得開,了了分明。見極樂國七寶莊嚴。寶地寶池,寶樹行列。諸天寶幔,彌覆其上,眾寶羅網,滿虛空中。見如此事,極令明了,如觀掌中。
(Kinh: Tưởng
đức Phật ấy, trước hết nên tưởng
h́nh tượng [của Ngài]. Nhắm mắt, mở mắt,
thấy một tượng báu, như sắc vàng Diêm Phù
Đàn, ngồi trên hoa ấy. Thấy tượng ngồi ấy
rồi, tâm nhăn đă mở, rành rẽ, phân minh. Thấy
nước Cực Lạc bảy báu trang nghiêm, đất
báu, ao báu, cây báu xếp thành hàng. Màn báu của chư thiên che
khắp trên đó. Các lưới mành báu, đầy ắp
trong hư không. Thấy chuyện như vậy, sao cho tột
cùng rành rẽ, như thấy ḷng bàn tay).
Đoạn
này nhằm dạy người quán tưởng hăy chuyên môn
quán tượng A Di Đà Phật. “Tưởng bỉ Phật giả” (Tưởng
đức Phật ấy), Thích Ca Mâu Ni Phật dạy kẻ
tu Quán chúng ta, lúc quán tưởng A Di Đà Phật, “tiên đương tưởng
tượng”, [nghĩa là] trước hết hăy tưởng
một bức tượng của A Di Đà Phật. Chúng
ta chưa hề thấy h́nh tượng [thật sự của]
A Di Đà Phật, nhưng vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật
(lúc giảng kinh này), phu nhân Vi Đề Hy và tôn giả A Nan
đều đă thấy. A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ
Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát đều xuất hiện
trong hư không, nhưng nay chúng ta chẳng thấy, chẳng
có phước ấy! Chẳng thấy được!
Nhưng chúng ta thường thấy tượng A Di Đà
Phật thờ trong đạo tràng, chúng ta dùng phương
pháp phương tiện ấy: Khi quán tưởng, hăy chiếu
theo tượng A Di Đà Phật để tưởng
tượng. Trong tâm chiếu theo tượng ấy để
tưởng.
Khi tưởng bèn nhắm mắt, nhắm mắt
lại để tưởng, mở mắt, tức là mở
banh mắt ra. Bất luận “bế
mục, khai mục” (nhắm mắt, mở mắt),
trong sự tưởng tượng của quư vị đều
có thể “kiến nhất bảo
tượng” (thấy một tượng báu). “Bảo” (寶) là Phật Bảo, lại c̣n là tượng
Phật trang nghiêm bằng bảy báu đang ở trong không
trung. Tượng báu “như
Diêm Phù Đàn kim sắc” (như sắc vàng Diêm Phù
Đàn). Diêm Phù Đàn có màu đỏ, loại vàng tốt nhất
là vàng có sắc đỏ. “Tọa
bỉ hoa thượng”: Ngồi ở trên đài hoa sen.
“Kiến tượng tọa
dĩ” (Đă thấy tượng ngồi), thấy
tượng Phật và ṭa hoa sen, “tâm
nhăn đắc khai” (tâm nhăn được mở mang),
nói tới “tâm nhăn đắc
khai”, tuyệt diệu lắm! Mắt [trí huệ] của
chúng ta chưa mở, nhục nhăn thế tục của chúng
ta chướng ngại tầng tầng. Mở [tâm nhăn]
như thế nào? Do người ấy chẳng có chướng
ngại, cho nên tâm nhăn mở mang. Khi tâm
nhăn đă mở, “liễu liễu
phân minh” (rành rẽ, rơ ràng) nghĩa là bèn thấy hết
sức rơ ràng, hết sức thấu triệt.
“Kiến Cực Lạc quốc
thất bảo trang nghiêm”: Ngoại trừ tượng
Phật và hoa ṭa của Phật ra, liên đới trông thấy
toàn thể thế giới Cực Lạc là một bầu thế
giới trang nghiêm bằng bảy báu. “Bảo địa, bảo tŕ”: Hoàn cảnh trong thế
giới Cực Lạc là đất báu lưu ly được
trang hoàng bởi các thứ báu, ao sen bảy báu. “Bảo thụ hàng liệt”:
Cây báu xếp thành từng hàng. “Chư
thiên bảo mạn, di phú kỳ thượng”: Ngoài ra, có
các màn báu cơi trời, “mạn” (幔) là một loại màn để căng. Những
thứ màn báu ấy “di phú kỳ
thượng”, [nghĩa là] che phủ phía trên cây báu. Những
ao báu và cây báu ấy dùng màn báu che phủ phía trên. “Chúng bảo la vơng, măn hư không
trung”: Rất nhiều kỳ trân diệu bảo kết
thành lưới mành, đầy ắp hư không.
Trong phần
trên đă nói về y báo, sao ở đây lại nhắc tới?
V́ người tu quán tưởng, đă thấy A Di Đà
Phật rành rẽ, phân minh, sẽ liên đới thấy
đất báu, ao báu, lưới mành, cây cối v.v… trong cơi
Cực Lạc. Nhưng những điều nói ở
đây lại chẳng giống như phần trước.
Những điều đă thấy trong phần trước
nhỏ hơn, những điều được thấy
ở đây thuận theo cái tâm của người quán
tưởng đă mở rộng, khi tâm nhăn vừa khai, cảnh
giới của chính ḿnh lại được nâng cao hơn.
Hễ cảnh giới được nâng cao hơn, sẽ
thấy đất, cây báu v.v… lại càng cao lớn hơn
trước.
“Kiến như thử sự”
(Thấy những sự như vậy), chữ “sự” (事) bao gồm đất báu, ao báu v.v… “cực linh minh liễu” (sao
cho hết sức sáng tỏ), “cực”
(極) có
nghĩa là đạt tới tột bậc, đều thấy
hết sức thấu triệt, thấu triệt đến
mức độ nào? “Như
quán chưởng trung” (Như xem trong ḷng bàn tay): Thấy
các vật báu như đất báu, ao báu, cây báu bày hàng v.v…. trọn
khắp hư không nhiều đến cỡ nào? Chúng ta muốn
thấy, cũng chẳng thấy rơ ràng cho lắm, nhưng
chỉ cần tâm nhăn vừa khai, cảnh giới sẽ được
nâng cao, thấy những chuyện ấy như trông thấy
bàn tay của chính ḿnh. Duỗi bàn tay của chính chúng ta ra
xem, bàn tay quá nhỏ bé! Do vậy, điều này hiển thị:
Hễ quán tưởng thành công, tâm lượng của chúng
ta to cỡ nào? Thường nói là “tâm bao thái hư”, [nghĩa là] tâm lượng của
chúng ta có thể bao trùm vũ trụ. Vũ trụ so sánh với
thế giới Cực Lạc lại nhỏ bé đến
nỗi chẳng đáng nói tới! Người ấy thấy
những chuyện trong thế giới Cực Lạc
như nh́n vào bàn tay của chính ḿnh. [Điều này] hiển
thị tâm lượng của chúng ta to cỡ nào? Ắt phải
vận dụng công phu đến mức độ ấy,
tự nhiên sẽ phát hiện.
Từ
đầu tới cuối, chúng ta phải ghi nhớ một
nguyên tắc, chính là “tâm này làm
Phật, tâm này là Phật”, đạo
lư “vạn pháp duy tâm”. Bản
thân chúng ta chẳng có công đức ấy, bản thân chẳng
có năng lực ấy, làm sao chúng ta có thể quán ra
được? Bản thân của chúng ta vốn là như
thế đó, có tâm lượng to ngần ấy. Nhờ
vào quán tưởng để nhập Định, mở
mang tâm nhăn, cho nên có công đức to lớn dường ấy
hiển lộ. Người chẳng liễu giải
phương pháp này, suốt ngày từ sáng đến tối
cứ ngỡ tâm lượng nhỏ hẹp trong thế
gian này là tuyệt diệu lắm! Loài người chúng ta thấy
những con kiến ở dưới đất đáng
thương quá! Bé tí như vậy đó! Sau khi văng sanh thế
giới Cực Lạc, quay đầu nh́n lại thế giới
Sa Bà, sẽ phát giác chúng ta c̣n chẳng bằng con kiến nữa
kia! Quá nhỏ bé! Sau khi nghĩ như thế, chúng ta nghiên cứu
bộ kinh này, tu đạo này, tức là học pháp môn Niệm
Phật, bất luận như thế nào, chúng ta được
làm thân người, và cũng đă được nghe Phật
pháp, ngàn vạn phần chớ nên bỏ lỡ! Trong thế
gian, bất luận là thuận cảnh cũng thế, mà
nghịch cảnh cũng thế, đều chẳng thể
ảnh hưởng sự tu đạo của chúng ta, ắt
là phải tu như vậy!
Đoạn
trên đây là quán tượng Phật. Đoạn tiếp
theo sẽ là quán Bồ Tát. Kinh văn [như sau]:
(Kinh)
Kiến thử sự dĩ, phục đương cánh tác
nhất đại liên hoa, tại Phật tả biên,
như tiền liên hoa, đẳng vô hữu dị. Phục
tác nhất đại liên hoa, tại Phật hữu biên.
Tưởng nhất Quán Thế Âm Bồ Tát tượng, tọa
tả hoa ṭa, diệc tác kim sắc, như tiền vô dị.
Tưởng nhất Đại Thế Chí Bồ Tát tượng,
tọa hữu hoa ṭa.
(經)見此事已,復當更作一大蓮華,在佛左邊,如前蓮華,等無有異。復作一大蓮華,在佛右邊。想一觀世音菩薩像,坐左華座,亦作金色,如前無異。想一大勢至菩薩像,坐右華座。
(Kinh: Đă
thấy những sự ấy, lại nên tưởng một
hoa sen to ở bên trái đức Phật giống như hoa
sen trên đây, chẳng khác biệt. Lại tưởng một
hoa sen to ở bên phải đức Phật. Tưởng một
tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi trên hoa ṭa bên
trái, cũng là kim sắc giống như trước không
khác. Tưởng một tượng Đại Thế Chí
Bồ Tát ngồi trên hoa ṭa bên phải).
“Kiến thử sự dĩ”
nghĩa là đă thấy tượng A Di Đà Phật và
các chuyện trong thế giới Cực Lạc. Sau khi
đă thấy, “phục
đương cánh tác nhất đại liên hoa, tại Phật
tả biên, như tiền liên hoa”: Lại tưởng có
một đóa hoa sen to khác nữa ở bên trái đức Phật,
giống hệt như ṭa hoa sen của đức Phật
đă nói trong phần trước. “Đẳng vô hữu dị” nghĩa là hoàn toàn giống
như ṭa hoa sen đức Phật ngự, chẳng có chút
nào khác biệt! “Phục tác nhất
đại liên hoa, tại Phật hữu biên”: Ngoài ra, lại
tưởng một đóa hoa sen to ở bên phải đức
Phật. Hai đóa hoa sen to ấy, một ở bên trái đức
Phật, một ở bên phải đức Phật.
Ngự
trên hoa sen là ai? “Tưởng nhất
Quán Thế Âm Bồ Tát tượng”: Quán tưởng một
tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. “Tọa tả hoa ṭa, diệc tác kim sắc”: Ngồi
trên ṭa hoa sen bên trái, trên thân cũng tỏa ra kim sắc, giống
như tượng A Di Đà Phật đă nói trong phần
trước, tức là sắc vàng Diêm Phù Đàn, “như tiền vô dị”
nghĩa là giống hệt như Phật, chẳng có phân biệt!
“Tưởng nhất Đại
Thế Chí Bồ Tát tượng, tọa hữu hoa ṭa”:
Ngoài ra, c̣n có một tượng Đại Thế Chí Bồ
Tát giống như tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài
ngồi trên hoa ṭa bên phải. Đây là quán tưởng hai vị
Bồ Tát, mỗi vị ở một bên đức Phật,
ngồi trên ṭa hoa sen.
Hai
đoạn này, một đoạn là [quán tưởng]
tượng Phật, đoạn kia là [quán tưởng]
tượng hai vị Bồ Tát, cũng tức là tượng
Tây Phương Tam Thánh. Đă quán thành công, đều đă
trông thấy.
(Kinh)
Thử tưởng thành thời, Phật, Bồ Tát tượng,
giai phóng quang minh. Kỳ quang kim sắc, chiếu chư bảo
thụ. Nhất nhất thụ hạ, diệc hữu tam
liên hoa. Chư liên hoa thượng, các hữu nhất Phật
nhị Bồ Tát tượng, biến măn bỉ quốc.
(經)此想成時,佛菩薩像,皆放光明。其光金色,照諸寶樹。一一樹下,亦有三蓮華。諸蓮華上,各有一佛二菩薩像,遍滿彼國。
(Kinh: Khi
tưởng này đă thành, tượng Phật và Bồ Tát
đều tỏa quang minh. Quang minh ấy sắc vàng chiếu
các cây báu. Dưới mỗi gốc cây, cũng có ba đóa
hoa sen. Trên các hoa sen, đều có tượng một đức
Phật và hai vị Bồ Tát, trọn khắp cơi ấy).
Tượng
Phật và Bồ Tát được nói trong đoạn này
chẳng phải là tượng chúng ta thường thấy
trong chùa miếu. Tượng Phật và tượng Bồ
Tát ở đây đều phóng đại quang minh.
“Thử tưởng thành thời”:
Khi quán tưởng tượng Tây Phương Tam Thánh
đă thành tựu, “Phật, Bồ
Tát tượng, giai phóng quang minh”: Tượng Phật
và tượng Bồ Tát thảy đều phóng quang minh,
phóng quang minh ǵ vậy? Đương nhiên là chẳng
như ánh mặt trời trong thế gian này chỉ có một
loại quang minh. “Kỳ quang
kim sắc”: Quang minh ấy có màu của vàng Diêm Phù
Đàn, tức là màu sắc của loại vàng tốt nhất.
Loại quang minh kim sắc ấy “chiếu chư bảo thụ”, chiếu sáng rực
các cây báu trong thế giới Cực Lạc. Mà “nhất nhất thụ hạ”,
[tức là] dưới mỗi cội cây, “diệc hữu tam liên hoa”, đều có ba ṭa hoa
sen. “Chư liên hoa thượng”,
trên mỗi ṭa hoa sen, “các hữu
nhất Phật nhị Bồ Tát tượng” (đều
có tượng của một vị Phật và hai vị Bồ
Tát), điều này khiến cho chúng ta liễu giải: Hai
đoạn trên đây là nói về cùng một chuyện, phép
quán tưởng đơn nhất đă thành tựu. Trong
thế giới Cực Lạc, có bao nhiêu tượng Tam
Thánh giống như vậy? Dưới mỗi cội cây,
trên ṭa hoa sen đều có tượng một đức Phật,
hai vị Bồ Tát “biến măn
bỉ quốc” (đầy ắp cơi ấy), rất tuyệt
vời! Trọn khắp toàn thể thế giới Cực
Lạc.
V́
sao chúng ta vừa đến thế giới Cực Lạc
bèn thành Phật nhanh chóng ngần ấy? Trong thế giới
này, sau khi chúng ta đă đoạn Kiến Hoặc, chỉ
cần phải đoạn Tư Hoặc, thoát khỏi lục
đạo luân hồi, [thế mà] vẫn phải trải
qua bảy lần sanh tử, khó khăn quá! Huống hồ
thành Phật ư? Thành Phật phải mất ba đại
A-tăng-kỳ kiếp. Hễ đến thế giới Cực
Lạc, sẽ giống như thoát khỏi lục đạo,
đó là một loại công đức cơ bản nhất.
Sau khi đă thoát khỏi lục đạo, mục tiêu lớn
nhất là thành Phật. Thành Phật chẳng cần lâu xa
như vậy, có thể thành Phật ngay trong một đời!
V́ sao có thể thành Phật ngay trong một đời? Quư vị
thấy đó, v́ trọn khắp cơi ấy đều là
tượng Tam Thánh, [chúng sanh trong cơi ấy] chẳng có lúc
nào, chẳng có nơi nào không ở cùng một chỗ với
tượng Tây Phương Tam Thánh, rất tự nhiên,
chúng ta sẽ tu thành cảnh giới của Phật, Bồ
Tát. Hằng ngày chúng ta học theo công đức của Phật,
công đức của Bồ Tát, thời thời khắc khắc
ở cùng một chỗ với Phật, Bồ Tát. Do vậy,
mới nhanh chóng ngần ấy.
C̣n
phải liễu giải một điều trong đoạn
này, đoạn này nói đến chuyện phóng quang minh. V́
sao phóng quang minh là trọng yếu? Phóng quang, chúng ta trông thấy
quang minh của Phật, Bồ Tát, sẽ có thể liễu
giải các giả tướng trong thế giới này. Chẳng
hạn như nói: Đối với thế giới Sa Bà
này, lấy ngay quả địa cầu này để nói,
ban ngày có ánh sáng, ban đêm chẳng có ánh sáng. Ban ngày và ban đêm
hợp thành một ngày gồm hai mươi bốn tiếng
đồng hồ. Ba mươi ngày hợp thành một
tháng, mười hai tháng hợp thành một năm. Một
người sống đến một trăm tuổi (tức
là một trăm năm), một trăm năm ấy tính
toán theo từng ngày. Đối với cách tính từng ngày một
ấy, quư vị nghĩ xem: Theo khoa học hiện thời,
mọi người đều biết địa cầu
chuyển động. Nếu nó quay chậm hơn một
chút, thời gian sẽ bị kéo dài. Quay nhanh hơn một
chút, thời gian sẽ bị rút ngắn. Trên địa cầu
hiện thời, tốc độ [xoay chuyển] là như
thế. Ngoài địa cầu, trong không gian, trong Thái
Dương Hệ c̣n có khá nhiều tinh cầu khác, như Hỏa
Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh v.v… Trong những
tinh cầu ấy, tốc độ xoay chuyển chẳng
giống [địa cầu của chúng ta], có thể thấy:
Chúng ta tính toán tuổi thọ, năm, tháng [trên địa cầu],
những thứ ấy đều là giả tướng,
nhờ vào ánh sáng mặt trời mà hiển hiện. Chúng ta
chẳng biết chân diện mục ở chỗ nào? Chân diện
mục chẳng có tối tăm, toàn là quang minh, bản tánh
của chúng sanh luôn có quang minh. Đă là quang minh, sẽ chẳng
có ban đêm, chẳng có tối tăm. Hỏi quư vị tuổi
tác đă cao, “thọ” ở chỗ nào? Chẳng nói
được! Thọ đă là chẳng nói được,
vậy th́ sanh tử cũng chẳng có cách nào tính toán, chẳng
có sanh tử! Quư vị hăy ngẫm xem, trong thế giới Cực
Lạc, đức Phật phóng quang minh, Bồ Tát tỏa
quang minh. Trong phần trước có nói cây cối cũng tỏa
ánh sáng. Hễ chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc,
mỗi cá nhân đều phóng quang minh. Quang minh ấy do
đâu mà có? Từ trong bản tánh mà ra, đều là quang
minh vốn sẵn có. Đă thấy bản tánh, vậy th́
c̣n có sanh tử giống như trong thế gian của chúng
ta hay không? Chỉ có ngày càng nâng cao cảnh giới, khiến
cho tâm tánh được hoàn toàn tỏ lộ triệt
để, sẽ thành Phật. Do vậy, phóng quang minh có ư
nghĩa này.
Tiếp
theo đây, [kinh văn sẽ] nói tới chuyện thuyết
pháp, nghe pháp. Kinh văn [như sau]:
(Kinh)
Thử tưởng thành thời, hành giả
đương văn thủy lưu quang minh, cập
chư bảo thụ, phù, nhạn, uyên ương, giai thuyết
diệu pháp. Xuất Định, nhập Định, hằng
văn diệu pháp. Hành giả sở văn, xuất Định
chi thời, ức tŕ bất xả, linh dữ Tu-đa-la hợp.
Nhược bất hợp giả, danh vi vọng tưởng.
Nhược dữ hợp giả, danh vi thô tưởng kiến
Cực Lạc thế giới. Thị vi Tượng Tưởng,
danh đệ bát Quán.
(經)此想成時,行者當聞水流光明,及諸寶樹,鳧鴈鴛鴦,皆說妙法。出定入定,恆聞妙法。行者所聞,出定之時,憶持不捨,令與修多羅合。若不合者,名為妄想。若與合者,名為麤想見極樂世界。是為像想,名第八觀。
(Kinh: Khi
tưởng này đă thành, hành giả sẽ nghe nước
chảy, quang minh, và các cây báu, le, nhạn, uyên ương
đều nói diệu pháp. Xuất Định, nhập
Định, thường nghe pháp mầu. Đối với
những ǵ hành giả đă nghe, khi xuất Định, nhớ
giữ chẳng bỏ, phải phù hợp với Tu-đa-la.
Nếu chẳng phù hợp, sẽ gọi là vọng tưởng.
Nếu như phù hợp, sẽ gọi là “thấy thế
giới Cực Lạc về phần thô”. Đấy gọi
là quán tưởng tượng Phật, gọi là phép Quán thứ
tám).
Trong
đoạn cuối cùng này, đức Phật dạy:
Người quán tưởng không chỉ thấy tượng
Phật, tượng Bồ Tát và quang minh, lại c̣n nghe Phật
pháp. “Thử tưởng thành
thời” nghĩa là khi quán tưởng tượng Tây
Phương Tam Thánh đă thành công, cũng đă quán thành
công tượng Phật, Bồ Tát thảy đều phóng
quang minh. Khi ấy, “hành giả”
tức người tu quán tưởng, “đương văn” nghĩa là ngay khi ấy,
hành giả ngay lập tức có thể nghe “thủy lưu quang minh” tức là các ḍng nước
trong ao bảy báu tỏa ra quang minh. “Cập chư bảo thụ”, [nghĩa là] cùng với
các loại cây báu, “phù nhạn
uyên ương”: “Phù” (鳧, le le) là một loài thủy điểu sống
ở ven nước, người ở nội địa
(Trung Hoa Đại Lục) gọi nó là “thủy áp tử” (水鴨子, vịt
nước). “Nhạn” (鴈) chính là chim nhạn bay trên trời. “Uyên ương” (鴛鴦) cũng
là một loại chim nổi trên mặt nước. Kẻ
b́nh phàm trông thấy những loại chim ấy, trong tâm
cũng rất vui thích, ưa chuộng, tán thưởng.
Trong thế giới Cực Lạc, những loài chim ấy
rất nhiều. Không chỉ là rất nhiều, mà le le
cũng thế, nhạn cũng thế, uyên ương
cũng thế, “giai thuyết
diệu pháp” (đều nói diệu pháp). Le, nhạn, uyên
ương là hữu t́nh, c̣n có ḍng nước, quang minh hiện
ra, cho đến các hàng cây báu là vô t́nh, đều đang
nói diệu pháp.
Diễn
nói diệu pháp, trong kinh A Di Đà có nhắc đến ba
mươi bảy trợ đạo phẩm. Tùy thuộc cảnh
giới [của người nghe] đă học đến mức
độ nào, mà diệu pháp có thể nói đến mức
độ ấy. Tông Thiên Thai nói Tạng, Thông, Biệt,
Viên, tŕnh độ khác nhau! Ở đây, tuy chẳng nói chi
tiết như vậy, nhưng nội dung cũng giống
y hệt. Nói theo toàn thể, sẽ là dạy chúng ta giác ngộ.
Sau khi tất cả các pháp đều giác ngộ (đều
hiểu rơ), bèn chiếu theo cái hạnh chân thật để
tu tŕ, bèn có thể thành Phật. Đó là diệu pháp.
Khi
nghe diệu pháp, “xuất Định,
nhập Định, hằng văn diệu pháp” (xuất
Định, nhập Định, luôn nghe diệu pháp), khi
quán tưởng, chẳng phải là trong tâm tán loạn mà có
thể quán tưởng thành công. Nhất định là quán
tưởng nhập tam-muội, nhập Định th́ mới
có thể thấy được. Ở trong Định,
quán tưởng những chuyện ấy đều thành
công, cũng nghe những diệu pháp ấy. Khi nhập
Định, cố nhiên là nghe thấy. Sau khi xuất Định,
vẫn nghe thấy, cho nên “xuất
Định, nhập Định, hằng văn diệu
pháp”, một mực luôn
nghe diệu pháp. V́ thế, chúng ta nói “tŕ danh niệm Phật
đắc nhất tâm bất loạn”. Có đạt
được nhất tâm bất loạn hay không, chính ḿnh hăy
nên tự biết! [Muốn khẳng định một]
người thật sự đắc nhất tâm bất loạn,
thật sự đoạn Hoặc, chúng ta chẳng thể
nói được, ai trong chúng ta cũng đều chưa
đoạn Hoặc, chỉ có thể nói là “tương tự nhất tâm bất loạn”, [v́]
đă chế phục Hoặc.
Chúng
ta tŕ danh niệm Phật có thể chế phục Hoặc,
Phật hiệu bèn ở ngay trong đó. Khi quư vị niệm
Phật, cố nhiên là niệm Phật. Lúc chẳng niệm
Phật, tai cũng nghe thấy có âm thanh Phật hiệu
trong đó. Chỉ cần có lúc rảnh rỗi, Phật hiệu
liền từ trong tâm dấy lên. Đó gọi là “hằng văn diệu pháp” (luôn
nghe diệu pháp). Khi quư vị đắc nhất tâm bất
loạn, tịnh niệm tiếp nối, niệm Phật
hiệu sẽ là một mực liên tục. Điều này
có thể khiến cho chúng ta liễu giải công phu tŕ danh
niệm Phật của chính ḿnh.
Hiện
thời, lúc chúng ta tŕ danh niệm Phật, thông thường
là công khóa sáng tối, khi niệm, vẫn cảm thấy
[chính ḿnh] niệm rất rơ ràng. Hễ khi nào có phiền năo,
hoặc chuyện vui thích đưa đến, liền quên
bẵng Phật hiệu. Nhất là khi phiền năo dấy lên, cũng biết dùng Phật hiệu
để giằn ép, nhưng chẳng thể giằn ép
được! Phiền năo vẫn có sức mạnh to ngần
ấy! V́ sao chẳng thể giằn ép được?
Chính là do trong tâm chúng ta vẫn chẳng thấy thấu suốt
chuyện hư giả trong thế gian. Đối với
Tam Đế Tam Quán như đă nói trong phần trước,
thô thiển nhất là Không Quán, chúng ta vẫn chẳng thể
nhập môn được! Không Quán là thấy hết thảy
chuyện trong thế gian là Không. Tôi vừa mới nói đến
ngày đêm, thọ mạng của con người dài hay ngắn,
những thứ ấy đều là giả. Thấy rơ ràng
những điều ấy, những chuyện “ta, ngươi”,
những ư kiến trong thế gian do đâu mà có? Thảy
đều là do tâm lư phàm phu, coi ư kiến của chính ḿnh là
đúng, nghĩ người khác trật lất. Mọi
người đều nghĩ theo kiểu đó, vậy
th́ thiên hạ c̣n có thể thái b́nh hay chăng? Do vậy, nhất
định là phải thấy rơ ràng. Sau khi đă hiểu rơ
đạo lư này, chớ nên chấp trước. Đă thấy
thấu suốt th́ khi đó, quư vị niệm Phật hiệu
mới có thể giằn ép [phiền năo] được! Nếu
chẳng thấy rơ điều này, Phật hiệu cũng
chẳng thể giằn ép [phiền năo] được! Phải
liễu giải đạo lư này, phải dần dần
chuyển biến tâm lư. Đă biết hết thảy mọi
chuyện trong thế gian đều là giả, chúng ta cần
ǵ phải có kiến giải giống như những kẻ
b́nh phàm? Khi ấy, phiền năo sẽ giảm thiểu. Đôi
khi, nó dấy lên, vừa dấy lên Phật hiệu bèn khống
chế được nó. Chúng ta dụng công, phải
thường xuyên nhắc nhở chính ḿnh như vậy.
“Hành giả sở văn”
nghĩa là người quán tưởng (trong khi nhập
Định), nghe những diệu pháp ấy, “xuất Định chi thời”
là sau khi xuất Định, “ức
tŕ bất xả” [nghĩa là], vẫn ghi nhớ, một
mực chấp tŕ, chớ nên buông bỏ. “Linh dữ Tu Đa La hợp” (Sao cho phù hợp Tu
Đa La), Tu Đa La (Sūtra)
là kinh. Trong Định, quư vị nghe diệu pháp, phải
đối chiếu với kinh điển, có phù hợp với
kinh văn hay không? Những ǵ quư vị thấy hoặc nghe
trong Định, phải phù hợp với những
điều đă dạy trong kinh văn. “Nhược bất hợp giả, danh vi vọng
tưởng”: Chẳng phù hợp với những ǵ kinh
đă dạy, đó chính là vọng tưởng. Phải
đặc biệt chú ư điều này! Nhất là hiện
thời chính là thời đại Mạt Pháp, có rất nhiều
kẻ nói: “Ta nhập Định,
thấy rất nhiều tướng”. Tôi gặp những
kẻ ấy, bèn bảo họ: “Trước nay, tôi chưa
hề thấy tướng nào hết”. Kẻ đó thấy
tướng, tôi bảo kẻ đó: “Quư vị phải
đối chiếu với kinh điển, xem có phù hợp
kinh văn hay không!” Phù hợp th́ là hiện tượng tốt,
chẳng phù hợp th́ là vọng tưởng! Chẳng phải
là hảo tướng! “Nhược
dữ hợp giả” nghĩa là nếu hoàn toàn phù hợp
những ǵ kinh văn đă dạy, “danh vi thô tưởng kiến Cực Lạc thế
giới” [nghĩa là] quán tưởng thô thiển, trông thấy
thế giới Cực Lạc, vẫn là quán tưởng thấy
t́nh h́nh đại lược (càng nói về sau, càng vi tế).
“Thị vi Tượng Tưởng,
danh đệ bát Quán”, phép Quán tưởng tượng
Phật, Bồ Tát này được gọi là Tượng
Tưởng, chính là phép Quán thứ tám.
Trong
lần giảng trước, từ “Phật cáo A Nan” (đức Phật bảo A Nan) cho
đến “chư Phật Chánh
Biến Tri hải tùng tâm tưởng sanh” (biển Chánh
Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng)
chính là đoạn lớn thứ nhất. Đoạn lớn
thứ nhất giảng về nguyên lư. Hôm nay, tôi nói tới
đoạn lớn thứ hai, chủ yếu là nói về
phương pháp quán tưởng. Phần phương pháp
[quán tưởng] có tất cả bốn tiểu đoạn.
Sau đây, hăy c̣n có một đoạn lớn thứ ba. Tôi
đọc trước kinh văn một lượt.
(Kinh)
Tác thị quán giả, trừ vô lượng ức kiếp
sanh tử chi tội, ư hiện thân trung, đắc Niệm
Phật tam-muội.
(經)作是觀者,除無量億劫生死之罪,於現身中,得念佛三昧。
(Kinh: Người
tác quán như vậy, sẽ trừ tội trong vô lượng
ức kiếp sanh tử, nơi thân hiện tại, đắc
Niệm Phật tam-muội).
Đoạn
này nói về lợi ích sẽ đạt được do
tu quán tưởng. “Tác thị
Quán giả” nghĩa là hễ tu phép quán tưởng
tượng Phật này, quán thành tựu,
sẽ “trừ vô lượng ức
kiếp sanh tử chi tội”. Nói tới “sanh tử chi tội” th́ bất cứ chúng sanh
nào, trong một đời này, chúng ta tạo nghiệp
đă quá ư là nhiều. Xét theo sự biểu hiện thật
sự, mỗi một chuyện cố nhiên là một phen
sanh tử. Nói đến chỗ vi tế, hễ hiểu
Duy Thức Học, quư vị sẽ biết: Mỗi lần
dấy lên một ư niệm chính là một phen sanh tử. Vậy
th́ trong một đời, chúng ta có bao nhiêu niệm? Phàm là ư
niệm “tổn người, lợi ḿnh”, sẽ đều
dẫn chúng ta đọa lạc trong sanh tử. Ư niệm
dấy lên, sẽ bị đọa lạc, huống hồ
c̣n biểu hiện thành sự thật? Hễ dấy lên ư
niệm “giết, trộm, dâm, dối”, sẽ đều là
tội ác. Trong tâm khởi lên sát tâm, c̣n chưa trở thành sự
thật, đă đọa lạc trong sanh tử, huống hồ
là những kẻ thật sự phạm tội giết
người trong xă hội? Hăy ngẫm xem: Tội ấy lớn
dường nào? Tội sanh tử như vậy trong một
đời này đă là khôn xiết kể, huống hồ
c̣n có vô lượng ức kiếp, tính toán số kiếp số
lại càng khôn xiết! Đối với tội sanh tử
trong vô lượng kiếp tới nay, nếu tu thành tựu
phép Quán Phật tượng, sẽ có thể đều diệt
trừ hết sạch. Sau đấy “ư hiện thân trung, đắc Niệm Phật
tam-muội” (nơi thân hiện tại, đắc Niệm
Phật tam-muội). Kinh A Di Đà gọi Niệm Phật
tam-muội là “nhất tâm bất
loạn”. Nhất tâm bất loạn có Sự nhất tâm
và Lư nhất tâm, đoạn Hoặc là đă chứng quả.
Hôm nay, tôi giảng đến chỗ này bèn ngưng.
Tập 30
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười
lăm, xem từ ḍng thứ hai đếm ngược lên.
Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:
(Kinh) Phật
cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Thử tưởng thành
dĩ, thứ đương cánh quán Vô Lượng Thọ
Phật thân tướng quang minh. A Nan đương tri! Vô
Lượng Thọ Phật, thân như bách thiên vạn ức
Dạ Ma Thiên Diêm Phù Đàn kim sắc. Phật thân cao lục
thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. My gian
bạch hào, hữu toàn uyển chuyển, như ngũ Tu Di
sơn. Phật nhăn như tứ đại hải thủy,
thanh bạch phân minh.
(經)佛告阿難,及韋提希:此想成已,次當更觀無量壽佛身相光明。阿難當知!無量壽佛,身如百千萬億夜摩天閻浮檀金色。佛身高六十萬億那由他恆河沙由旬。眉間白毫,右旋宛轉,如五須彌山。佛眼如四大海水,青白分明。
(Kinh: Đức
Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Tưởng này
đă thành, kế đó, hăy nên quán thân tướng và quang
minh của Vô Lượng Thọ Phật. A Nan hăy nên biết:
Vô Lượng Thọ Phật có thân màu như vàng Diêm Phù
Đàn trong trăm ngàn vạn ức cơi trời Dạ Ma.
Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng
hà sa do-tuần. Tướng bạch hào giữa hai mày uyển
chuyển xoay theo chiều phải như năm quả núi
Tu Di. Mắt Phật như nước bốn biển cả,
xanh trắng phân minh”).
IV.2.2.10. Phép Quán thứ
chín, Phật Thân Quán
Phép
Quán nay chúng ta đang đọc chính là phép Quán thứ chín.
Phép Quán thứ chín chánh thức dạy chúng ta quán thân tướng
và quang minh của A Di Đà Phật. Trước phép Quán
này, [đức Phật] dạy quán hoa ṭa, khởi sự
quán chánh báo, chỉ là nói khái lược. Phép Quán nói hôm nay
chính là chánh thức quán Phật. Thông thường, chúng ta niệm
công khóa, niệm kệ Tán Phật, trong ấy có mấy câu
kệ là do dựa vào phép Quán này mà soạn ra.
Trong
hai câu kinh văn đầu tiên, “Phật
cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. “Thử tưởng thành dĩ”,
[nghĩa là] phép Quán thứ tám trước đó đă thành
tựu. Khởi đầu phép Quán thứ chín, nói hai câu trên
đây xong, bèn nói tới phần kinh văn kế tiếp.
Phần kinh văn kế tiếp là “thứ đương cánh quán Vô Lượng Thọ Phật thân tướng
quang minh”, “thứ” (次) là kế
tiếp. Tiến thêm bước nữa là quán thân tướng
và quang minh của A Di Đà Phật. Câu này nói khái lược,
mỗi đoạn kế tiếp là nói tách ra [từng chi tiết
một]: Thân tướng, quang minh của Phật, nói cặn
kẽ từng điều một. Trước hết là
quán thân tướng của Phật.
Đoạn
kinh văn “A Nan đương
tri! Vô Lượng Thọ Phật, thân như bách thiên vạn
ức Dạ Ma Thiên Diêm Phù Đàn kim sắc. Phật thân cao
lục thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần.
My gian bạch hào, hữu toàn uyển chuyển, như
ngũ Tu Di sơn. Phật nhăn như tứ đại hải
thủy, thanh bạch phân minh” (A Nan hăy nên biết, Vô
Lượng Thọ Phật có màu như vàng Diêm Phù Đàn
trong trăm ngàn vạn ức cơi trời Dạ Ma. Thân Phật
cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần.
Tướng bạch hào giữa hai mày uyển chuyển xoay
theo chiều phải, như năm quả núi Tu Di. Mắt
Phật như nước bốn biển cả, xanh trắng
phân minh) được chia thành hai tiểu đoạn. Tiểu
đoạn thứ nhất nói về thân sắc (màu sắc
nơi thân) của Phật, tiểu đoạn thứ hai
nói về thân lượng (vóc dáng, chiều cao thân thể) của
Phật.
Trước
hết, hăy xem tiểu đoạn thứ nhất. Đức
Phật bảo tôn giả A Nan: “A
Nan đương tri”, [nghĩa là] ông hăy nên biết, “Vô Lượng Thọ Phật”
là A Di Đà Phật. Thân tướng của Ngài có màu sắc
như thế nào? “Thân như
bách thiên vạn ức”, “thân
như” là thân giống như, “trăm
ngàn vạn ức”: Con số này rất lớn, rất khó
nói trọn. Trăm ngàn vạn ức “Dạ Ma Thiên”, chúng ta biết trong tam giới có Dục
Giới Thiên. Dục Giới Thiên có sáu tầng. Trong Lục
Dục Thiên, Dạ Ma Thiên là tầng thứ ba, [Dạ Ma] dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Thời Phân (時分), [hàm
nghĩa] “biết là lúc nào”, c̣n dịch là Thiện Phân (善分), [nghĩa là] khéo biết
thời gian, chiếu theo thời gian. V́ [chư thiên] trong Dục
Giới Thiên hưởng thụ ngũ dục, nhưng
trong tầng trời này, [chư thiên] biết lúc nào th́ mới
hưởng thụ ngũ dục; cho nên
gọi là Dạ Ma Thiên. Nói tới Dạ Ma Thiên để
làm ǵ? Chính là [muốn nói tới] “Diêm
Phù Đàn kim sắc” trong Dạ Ma Thiên. Trong nhân gian
cũng có màu vàng Diêm Phù Đàn, màu của các loại
vàng thông thường chẳng thể sánh bằng màu của
loại vàng thượng đẳng trong sông Diêm Phù Đàn.
Màu của chất vàng ấy là tối thượng đẳng.
Đó là nói về màu của chất vàng Diêm Phù Đàn trong
nhân gian. Sắc vàng Diêm Phù Đàn của nhân gian là thượng
đẳng khi so với màu sắc của những loại
vàng thông thường, nhưng nó chẳng thể sánh bằng
sắc vàng Diêm Phù Đàn trong Dạ Ma Thiên. Sắc vàng Diêm
Phù Đàn trong tầng trời thứ ba của Dục Giới
(Dạ Ma Thiên) so với vàng Diêm Phù Đàn trong nhân gian lại
không biết tốt đẹp hơn bao nhiêu lần! Lại
dùng sắc vàng Diêm Phù Đàn của Dạ Ma Thiên để
sánh ví kim sắc nơi thân A Di Đà Phật. V́ vậy,
chúng ta thấy tượng Phật trong đạo tràng, thấy
tượng A Di Đà Phật là kim sắc, nhưng chỉ
là màu của chất vàng thông thường mà thôi! Để
tưởng tượng kim sắc thật sự của A
Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chỉ có cách lấy màu của chất vàng trong Dạ
Ma Thiên của Dục Giới để tỷ dụ. Chúng
ta chưa từng trông thấy, chỉ biết là nó tốt
đẹp hơn kim sắc trong nhân gian chẳng biết
bao nhiêu vạn lần! Đấy là một tiểu đoạn
nói về thân sắc của Phật.
Tiểu
đoạn thứ hai nói thân lượng của Phật to
lớn cỡ nào. “Phật thân
cao lục thập vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần”
(Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng
hà sa do-tuần). Thân chúng sanh phàm phu chỉ cao mấy thước,
mọi người đều biết [điều này]. Phật
cao bao nhiêu? “Lục thập vạn
ức na-do-tha”, “na-do-tha”
(Nayuta) dịch sang tiếng Hán là Ức. Đây là một danh
từ trong tiếng Ấn Độ. Vào thuở đó,
đối với chữ Ức trong câu “bách thiên vạn ức” có ba cách giải thích: Nhỏ
nhất, mười vạn là một Ức; cũng có cách
giải thích khác, coi một trăm vạn là một Ức.
Nhiều nhất, một ngàn vạn là một Ức. Bất
luận xét theo loại nào, nói theo cách hiểu nhỏ nhất,
tức mười vạn là một Ức, quư vị tính thử
độ cao sáu mươi vạn ức na-do-tha (ức), mọi
người có thể tính toán thử xem! Lại c̣n kèm thêm “do-tuần”, trong phần
trước đă nói về do-tuần: Chiếu theo hành
tŕnh của một người để nói, hành tŕnh mỗi
ngày là bao nhiêu dặm đường, dùng điều đó
để tính toán độ cao. Tính
như vậy th́ đơn giản là chẳng có cách nào tính
toán độ cao nơi thân Phật. Huống chi trong kinh
văn có con số tỷ dụ “Hằng
hà sa” (cát sông Hằng). Nếu tính gộp cả “Hằng hà sa”, đơn giản
là chẳng thể nào tính được, chẳng biết
là bao nhiêu! Theo như Trí Giả đại sư chú giải,
Ngài cho rằng: Ba chữ “Hằng
hà sa” có thể là sai sót khi phiên dịch, chớ nên thêm
vào. Nếu thêm vào ba chữ “Hằng
hà sa”, đơn giản là chẳng có cách nào tính toán
được! Nhưng chúng ta biết th́ biết vậy,
vẫn dựa theo kinh văn để nói như thế.
Nói chung, thân Phật cao lớn, dẫu là kẻ giỏi toán
cách mấy, cũng chẳng có cách nào tính toán. Đấy là
nói thân Phật cao lớn đến mức độ nào!
Tiếp
đó là nói về “my gian bạch
hào”. Hăy xem tượng Phật trong đạo tràng: Giữa
hai chân mày có một điểm trắng, gọi là “bạch hào” (白毫). Sợi
bạch hào ấy dài, cuộn tṛn lại. “Hữu toàn uyển chuyển” nghĩa là cuộn
tṛn theo chiều bên phải (cuộn theo chiều kim đồng
hồ), cuộn lại bèn lớn cỡ nào? “Như ngũ Tu Di sơn”: Lớn
bằng năm quả núi Tu Di. Đây là nói tới tướng
bạch hào trong ba mươi hai tướng của đức
Phật. “Phật nhăn như tứ
đại hải thủy” (Mắt Phật như nước
bốn biển lớn), đây cũng là tỷ dụ. Chúng
ta thấy một đại dương đă to khôn cùng,
nh́n chẳng thấy bờ mé. Nước trong bốn biển
gộp lại, quư vị thấy mắt Phật to cỡ
nào! Mắt Phật “thanh bạch
phân minh”. Mắt người Hoa là đen trắng phân
minh, chẳng giống các nước khác. Nhưng tṛng mắt
Phật là “cám thanh sắc” (紺青色, sắc
xanh có ánh hồng), lại có thêm “bạch
sắc”. Bài kệ Tán Phật có câu “bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục
trừng thanh tứ đại hải” chính là phát xuất
từ tiểu đoạn thứ hai trong kinh văn của
kinh này. Thân Phật cao lớn, bạch hào giữa hai mày và mắt
to dường ấy. Toàn bộ đoạn này đều
nhằm trần thuật sự to lớn nơi thân Phật.
Khi chúng ta quán tưởng, ắt cần phải quán tâm Phật
to lớn dường ấy!
Đoạn
tiếp theo chính là quán tưởng quang minh phát ra (phóng ra) từ
thân Phật.
(Kinh)
Thân chư mao khổng, diễn xuất quang minh, như Tu Di
sơn. Bỉ Phật viên quang, như bách ức tam thiên
đại thiên thế giới. Ư viên quang trung, hữu
bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật. Nhất
nhất Hóa Phật, diệc hữu chúng đa vô số Hóa Bồ
Tát, dĩ vi thị giả.
(經)身諸毛孔,演出光明,如須彌山。彼佛圓光,如百億三千大千世界。於圓光中,有百萬億那由他恆河沙化佛。一一化佛,亦有眾多無數化菩薩,以為侍者。
(Kinh: Các lỗ
chân lông trên thân diễn xuất quang minh như núi Tu Di. Viên
quang của đức Phật ấy như trăm ức
tam thiên đại thiên thế giới. Ở trong viên quang,
có trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật. Mỗi
vị Hóa Phật có đông đảo vô số Hóa Bồ
Tát làm thị giả).
“Thân chư mao khổng, diễn
xuất quang minh”: Nơi các lỗ chân lông khắp thân A
Di Đà Phật, từ mỗi lỗ chân lông đều tỏa
ra quang minh. Quang minh nơi mỗi lỗ chân lông “như Tu Di sơn”, to ngần
ấy! “Bỉ Phật viên
quang” (Viên quang của đức Phật ấy), “viên quang” (圓光) là nói tới điều ǵ? Ví như chúng ta
xem h́nh vẽ đức Phật, thường thấy phía
sau đầu tượng Phật luôn có một vầng
sáng tṛn xoe. Quang minh ấy từ đâu tỏa ra? Từ
nơi cổ. Quang minh ấy chính là “hạng quang” (項光, quang minh phát ra từ
cổ). Nói thông thường, “hạng”
(項) chính là cổ. [Hạng quang] là quang minh phát
ra từ cổ. Vầng quang minh tṛn ở phía sau tượng
Phật được gọi là “viên quang”. Viên quang của A Di Đà Phật “như bách ức tam thiên đại
thiên thế giới” (như trăm ức tam thiên đại
thiên thế giới). Nay chúng ta thấy
viên quang nơi tượng Phật chẳng lớn ngần
ấy. Trên thực tế, trong thế giới Cực Lạc,
viên quang của A Di Đà Phật tới một trăm ức
tam thiên đại thiên thế giới, phạm vi to ngần
ấy! “Ư viên quang trung”
[nghĩa là] ở trong viên quang. “Hữu
bách vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật” (Có
trăm vạn ức na-do-tha hằng hà sa Hóa Phật),
có Hóa Phật nhiều ngần ấy. Con số này khó thể
tính toán được! “Nhất
nhất Hóa Phật”, mỗi vị Phật hóa hiện
ra, “diệc hữu chúng đa
vô số Hóa Bồ Tát”, cũng có đông đảo vô số
Bồ Tát được biến hóa ra, “dĩ vi thị giả”, để làm thị giả
của Phật, [đứng hầu] hai bên đức Phật.
Đây là nói từ trên thân Phật phóng ra quang minh, trong quang
minh lại có Hóa Phật, mà cũng có Hóa Bồ Tát. Mọi
người xướng bài kệ tán Phật, [trong ấy
có câu] “quang trung Hóa Phật vô số
ức, Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên” cũng là dựa
theo phần kinh văn này. Tiếp theo đây là quán tướng
hảo của Phật.
(Kinh)
Vô Lượng Thọ Phật, hữu bát vạn tứ
thiên tướng, nhất nhất tướng trung, các hữu
bát vạn tứ thiên tùy h́nh hảo. Nhất nhất hảo
trung, phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh. Nhất
nhất quang minh, biến chiếu thập phương thế
giới niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả.
(經)無量壽佛,有八萬四千相。一一相中,各有八萬四千隨形好。一一好中,復有八萬四千光明。一一光明,遍照十方世界念佛眾生,攝取不捨。
(Kinh: Vô
Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng.
Trong mỗi một tướng đều có tám vạn bốn
ngàn tùy h́nh hảo. Trong mỗi một hảo, lại có tám
vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi một quang minh chiếu
khắp chúng sanh niệm Phật trong mười
phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ).
“Vô Lượng Thọ Phật, hữu
bát vạn tứ thiên tướng” (Vô Lượng Thọ
Phật có tám vạn bốn ngàn tướng), nói thông
thường là “ba mươi
hai tướng”. V́ sao ở đây nói là tám vạn bốn
ngàn tướng? Ba mươi hai tướng là nói tới Ứng
Thân Phật! Ở đây, chẳng phải là quán Ứng
Thân Phật. Phép Quán thứ tám đă quán thành công, phép Quán thứ
chín là quán Báo Thân Phật. Đă là quán Báo Thân Phật, số
lượng tướng hảo của đức Phật
sẽ nhiều. Do đó, nói là “có tám vạn bốn ngàn
tướng”. Đă thế, “nhất
nhất tướng trung, các hữu bát vạn tứ thiên
tùy h́nh hảo” (trong mỗi một tướng, có tám vạn
bốn ngàn tùy h́nh hảo): “Tướng”
là nói theo đại thể, tướng là khái lược.
Trong mỗi một tướng khái lược, lại có
những thứ “hảo” rất
vi tế tùy thuộc tướng ấy mà hiện ra (“hảo” là tốt đẹp).
“Nhất nhất hảo trung,
phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh”: Trong mỗi
tùy h́nh hảo, lại tỏa ra tám vạn bốn ngàn loại
quang minh. “Nhất nhất quang
minh, biến chiếu thập phương thế giới
niệm Phật chúng sanh”: Mỗi một loại quang
minh đều chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật
trong mười phương thế giới (mười
phương thế giới đều có chúng sanh niệm
Phật), “nhiếp thủ bất
xả” (nhiếp thủ chẳng bỏ). Nhiếp thọ
họ, đó cũng là Phật hộ niệm chúng sanh niệm
Phật. Chúng sanh niệm Phật trong mười
phương thế giới đều được quang
minh của Phật nhiếp thọ, khi sống th́
được b́nh an, tự tại, đến lúc mạng
chung, sẽ có thể văng sanh.
Kinh
văn nói về chuyện quán tưởng Phật thân. Từ
màu sắc nơi thân, độ cao lớn của thân, quang
minh phát ra từ thân và các thứ tướng hảo. Khi
quán tưởng những điều này, phải dùng
phương pháp ǵ để quán tưởng? Trong phép Quán
thứ tám đă nói “tâm này làm Phật,
tâm này là Phật”. Lư trong hai câu ấy tối cao vô thượng.
Bất luận tông nào trong Phật pháp cũng đều chẳng
thể vượt khỏi nguyên lư trong hai câu nói ấy. Do vậy,
trong phép Quán thứ chín, quán thân tướng, quang tướng,
tướng hảo v.v… của A Di Đà Phật, đều
phải dựa trên nguyên lư này để quán tưởng th́
mới có thể quán các thứ tướng hảo thành
công. Nếu không, tâm lư phàm phu sẽ chẳng có cách nào quán
tưởng được. Đó là một tầng [ư
nghĩa].
Kế
đến là tầng thứ hai như tôi vừa mới
nói: Đức Phật có tám vạn bốn ngàn tướng,
có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo, lại c̣n có tám vạn
bốn ngàn quang minh. V́ sao luôn nói là “tám vạn bốn ngàn”?
Đấy là v́ chúng sanh luôn có tám vạn bốn ngàn phiền
năo. Đức Phật hóa độ chúng sanh, đối ứng
với tám vạn bốn ngàn trần lao của chúng sanh mà
hiển lộ công đức. Nói theo phía chúng sanh, bèn có tám vạn
bốn ngàn loại Phiền Năo Chướng, cho nên đức
Phật bèn có tám vạn bốn ngàn tướng hảo quang
minh để phá trừ những chướng ngại ấy
cho chúng sanh. Thật ra, quang minh và tướng hảo của
Phật là vô số, chẳng có cách nào nói rơ số lượng
được. Đây chỉ là v́ chúng sanh có trần lao phiền
năo nhiều ngần ấy mà nói, cho nên mới nói ra con số
“tám vạn bốn ngàn”.
C̣n
một điều nữa, kinh văn nói “biến chiếu thập phương thế giới
niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả” (chiếu
trọn khắp chúng sanh niệm Phật trong mười
phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ).
Nói theo sự chiếu soi nơi quang minh của Phật, Phật
quang lẽ ra phải là chiếu soi b́nh đẳng bất
cứ chúng sanh nào, nhưng kinh văn nói là “chiếu trọn khắp chúng sanh niệm Phật”.
“Nhiếp thủ” (攝取) th́
cũng là nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, há chẳng
phải là Phật quang chẳng b́nh đẳng ư? Chẳng
phải là Phật quang bất b́nh đẳng, mà là v́ chúng
sanh nào chịu niệm Phật, người ấy mới
có thể cảm ứng quang minh của Phật gia bị.
Không niệm Phật, giống như trong thế giới Sa
Bà trông thấy ánh sáng mặt trời. Tuy ánh sáng mặt trời
cũng chiếu khắp không gian trên đại địa,
nhưng nếu chúng ta quay lưng với ánh sáng mặt trời,
hoặc ẩn tránh trong chỗ tối tăm, vậy th́ chẳng
phải là ánh sáng mặt trời không chiếu tới chúng
ta, mà là bản thân chúng ta chẳng nghênh tiếp ánh sáng mặt
trời. “Chúng sanh niệm Phật”
được nói trong kinh văn cũng giống như vậy.
Chỉ cần chúng ta phát nguyện niệm Phật, biểu
thị cái tâm của chúng ta hướng về A Di Đà Phật,
sẽ có thể cảm nhận quang minh của A Di Đà Phật.
Người không học Phật, thậm chí kẻ học
Phật mà chẳng học Tịnh Độ Tông, do chẳng
biết niệm Phật, cho nên người ấy chẳng
thể cảm nhận quang minh. V́ lẽ đó, kinh văn mới
nói là “nhiếp thủ bất xả”
chúng sanh niệm Phật. Điều này vẫn tùy thuộc
sự giác ngộ của chính chúng sanh. Chúng ta giác ngộ
điều này, sẽ biết: Mỗi câu niệm Phật của
chúng ta, quang minh trong tâm của chính ḿnh và quang minh của A
Di Đà Phật có thể chiếu rọi lẫn nhau, công
đức ấy to lớn khôn cùng! Tâm quang của chúng ta và
quang minh của A Di Đà Phật đôi bên chiếu rọi
lẫn nhau, có vấn đề nào trong nhân gian chẳng thể
giải quyết được? Quang minh chiếu lẫn
nhau, Phật quang vừa gia bị chúng ta, Phật quang và tâm
quang đôi bên cảm ứng lẫn nhau, lập tức thấy
thấu suốt giả tướng sanh tử, phá trừ
chúng. V́ thế, đến khi lâm chung, chỉ cần biết
niệm Phật, nhất định là sẽ có thể văng
sanh. Phải đặc biệt chú ư điều này!
Đoạn
dưới đây nói: Quán thành công sẽ có thể thấy
Phật.
(Kinh)
Kỳ quang tướng hảo, cập dữ Hóa Phật, bất
khả cụ thuyết, đản đương ức
tưởng, linh tâm nhăn kiến. Kiến thử sự giả,
tức kiến thập phương nhất thiết
chư Phật. Dĩ kiến chư Phật cố, danh Niệm
Phật tam-muội.
(經)其光相好,及與化佛,不可具說。但當憶想,令心眼見。見此事者,即見十方一切諸佛。以見諸佛故,名念佛三昧。
(Kinh: Quang
minh, tướng hảo ấy và Hóa Phật chẳng thể
nói trọn. Chỉ nên ức tưởng sao cho tâm nhăn trông
thấy. Đă thấy chuyện ấy, liền thấy
mười phương hết thảy chư Phật. Do
trông thấy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật
tam-muội).
“Kỳ quang tướng hảo,
cập dữ Hóa Phật”: Quán thành tựu từng điều
một trên đây, quang minh, tám vạn bốn ngàn tướng,
tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo của A Di Đà Phật,
cùng với Hóa Phật biến hóa trong quang minh. “Bất khả cụ thuyết”, “cụ” (具) là đầy
đủ, “cụ thuyết” (具說) là nói trọn vẹn. “Bất khả cụ thuyết”
nghĩa là quá nhiều, chẳng có cách nào nói trọn hết
được! “Đản
đương ức tưởng” [nghĩa là] chỉ
có thể thời thời khắc khắc ức tưởng
(nghĩ nhớ) trong tâm, “linh
tâm nhăn kiến” (khiến cho tâm nhăn trông thấy): Dùng ǵ
để thấy? Nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta
có thể trông thấy hay chăng? Nhục nhăn của phàm
phu chỉ thấy rất hạn hẹp, nhưng tâm chẳng
bị hạn chế, dùng tâm nhăn để thấy. Hễ
tâm rộng mở, tất cả đều thấy rơ ràng! “Kiến thử sự giả”
(Đă thấy những chuyện ấy): Quư vị dùng tâm nhăn
thấy tướng hảo và quang minh của A Di Đà Phật
nhiều ngần ấy. Thấy A Di Đà Phật, “tức kiến thập
phương nhất thiết chư Phật”, [nghĩa
là] quư vị có thể thấy tất cả chư Phật
trong mười phương thế giới. “Dĩ kiến chư Phật cố,
danh Niệm Phật tam-muội”, [ư nói] do v́ trông thấy
mười phương chư Phật, cho nên gọi là Niệm
Phật tam-muội, đắc Niệm Phật Đại
Định, đắc nhất tâm bất loạn. Đây
là đoạn lớn thứ hai.
(Kinh)
Tác thị quán giả, danh quán nhất thiết Phật thân.
Dĩ quán Phật thân cố, diệc kiến Phật tâm. Phật
tâm giả, đại từ bi thị. Dĩ vô duyên từ,
nhiếp chư chúng sanh.
(經)作是觀者,名觀一切佛身。以觀佛身故,亦見佛心。佛心者,大慈悲是。以無緣慈,攝諸眾生。
(Kinh: Quán
như thế gọi là “quán thân của hết thảy
chư Phật”. Do quán thân Phật, cũng thấy Phật
tâm. Phật tâm là đại từ bi, dùng vô duyên từ
để nhiếp thọ các chúng sanh).
“Tác thị quán giả”
[nghĩa là] tu những phép Quán đă nói trên đây, “danh quán nhất thiết Phật
thân” (gọi là “quán thân của hết thảy chư Phật”):
V́ quư vị trước hết là bắt đầu bằng
quán thân A Di Đà Phật. Quán thành công, trông thấy A Di
Đà Phật chính là thấy mười phương thế
giới hết thảy chư Phật. V́ thế, gọi là
“quán nhất thiết Phật
thân”. “Dĩ quán Phật thân
cố”: Do quư vị quán thân Phật, thân Phật do
đâu mà có? Thân Phật từ tâm Phật mà ra. Quư vị thấy
thân Phật “diệc kiến Phật
tâm”, nói cách khác, thấy thân tướng của Phật,
sẽ thấy tâm Phật. Tâm Phật là ǵ? “Phật tâm giả, đại từ bi thị”:
Tâm Phật là đại từ bi. Đại từ bi là ǵ?
Là vô duyên đại từ bi. Đức Phật “dĩ vô duyên từ, nhiếp
chư chúng sanh”, [nghĩa là] đức Phật dùng vô
duyên đại từ để hóa độ, nhiếp thọ
hết thảy chúng sanh. Đây là đoạn lớn thứ
ba.
IV.2.2.10.1. Ba thứ từ
bi
Đối
với đại từ bi và vô duyên từ, ở đây,
tôi chỉ giải thích đôi chút. Từ bi có:
1) Chúng
sanh duyên từ bi: Hàng Bồ Tát b́nh phàm chưa đoạn
phiền năo [sẽ có ḷng từ bi này]. Ví như người
học Phật chúng ta thọ Bồ Tát Giới, hành Bồ
Tát đạo, chúng ta muốn hóa độ chúng sanh, nói chung
là phải có duyên với chúng sanh th́ mới độ
được. Hữu duyên chúng sanh mới có thể độ,
[chúng sanh] chẳng có duyên th́ độ bằng cách nào?
2) Loại
khác là pháp duyên từ bi: Hàng Bồ Tát đă đoạn phiền
năo, đương nhiên là bậc đại Bồ Tát. Các
Ngài hóa độ chúng sanh, ḷng từ bi càng to lớn hơn,
sức mạnh của ḷng từ bi ấy lại to hơn.
3) Vô duyên
từ là ḷng từ bi của Phật. Vô duyên là ǵ? Tâm Phật
là đại từ bi. Phật tâm đại từ bi chính
là vô duyên đại từ, vô duyên đại bi. Vô duyên
đại từ nghĩa là Phật và chúng sanh đồng
thể. Đă là đồng thể, tâm Phật không đâu
chẳng tồn tại. Nếu hỏi Phật trụ ở
chỗ nào ư? Đức Phật không chỗ nào chẳng
tồn tại. Chỉ cần chúng sanh niệm Phật, tự
nhiên Ngài nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Do vậy,
người niệm Phật phải hiểu rơ: Chúng ta niệm
một câu Phật hiệu, có thể dẫn khởi ḷng vô
duyên đại từ của Phật, được Phật
tâm chiếu cố chúng ta. Hết thảy chư Phật
đều là vô duyên đại từ.
Trong
đoạn lớn thứ tư dưới đây, bắt
đầu từ “tác thử
Quán giả” (người tu phép Quán này) cho đến “danh đệ cửu Quán” (gọi
là phép Quán thứ chín) sẽ nêu ra những lợi ích sẽ
đạt được do tu phép Quán này.
(Kinh)
Tác thử quán giả, xả thân tha thế, sanh chư Phật
tiền, đắc Vô Sanh Nhẫn. Thị cố trí giả,
ưng đương hệ tâm, đế quán Vô Lượng
Thọ Phật. Quán Vô Lượng Thọ Phật giả,
tùng nhất tướng hảo nhập. Đản quán my
gian bạch hào, cực linh minh liễu. Kiến my gian bạch
hào tướng giả, bát vạn tứ thiên tướng hảo,
tự nhiên đương hiện. Kiến Vô Lượng
Thọ Phật giả, tức kiến thập
phương vô lượng chư Phật. Đắc kiến
vô lượng chư Phật cố, chư Phật hiện
tiền thọ kư. Thị vi biến quán nhất thiết sắc
thân tướng, danh đệ cửu Quán.
(經)作此觀者,捨身他世,生諸佛前,得無生忍。是故智者,應當繫心,諦觀無量壽佛。觀無量壽佛者,從一相好入。但觀眉間白毫,極令明了。見眉間白毫相者,八萬四千相好,自然當現。見無量壽佛者,即見十方無量諸佛。得見無量諸佛故,諸佛現前授記。是為遍觀一切色身相,名第九觀。
(Kinh:
Người tu phép Quán này, bỏ thân sanh sang đời sau,
sẽ sanh trước chư Phật, đắc Vô Sanh Nhẫn. V́ thế, người trí hăy
nên buộc tâm quán chắc thật Vô Lượng Thọ Phật.
Để quán Vô Lượng Thọ Phật, hăy quán từ
một tướng hảo. Chỉ quán tướng bạch
hào giữa hai mày sao cho hết sức rành rẽ. Đă thấy
tướng bạch hào giữa hai mày th́ tám vạn bốn
ngàn tướng hảo sẽ tự nhiên hiện ra. Người
thấy Vô Lượng Thọ Phật, sẽ thấy
mười phương vô lượng chư Phật. Do
được thấy vô lượng chư Phật,
chư Phật hiện tiền thọ kư. Đây gọi là
quán trọn khắp hết thảy sắc thân tướng,
gọi là phép Quán thứ chín).
IV.2.2.10.2. Vô Sanh Nhẫn
Đức
Phật bảo tôn giả A Nan: “Tác
thử quán giả”, đă quán thành công phép Quán trên đây,
“xả thân tha thế” (bỏ
thân, sanh sang đời khác). Bất luận người nào
trong chúng ta sống đến bao nhiêu tuổi đi nữa,
sẽ luôn có lúc phải xả thân, thọ mạng luôn có lúc
kết thúc, “tha thế” (他世) là đời thứ hai,
tức một đời khác. Khi đó, người tu Quán
sẽ chẳng đầu thai trong nhân gian nữa, mà
cũng chẳng ở trong lục đạo. “Sanh chư Phật tiền”,
[nghĩa là] sẽ nhất định có thể văng sanh thế
giới Cực Lạc. V́ sao nói là “sanh chư Phật tiền”? V́ hễ văng sanh thế
giới Cực Lạc, sẽ giống như trông thấy
hết thảy chư Phật. V́ thế, nói là “sanh chư Phật tiền”. “Đắc Vô Sanh Nhẫn”:
Đối với lư bất sanh, bất diệt, có thể
hoàn toàn thông hiểu, an trụ trong lư bất sanh bất diệt,
sẽ chẳng bị lay động. Chứng đắc
đạo lư ấy th́ gọi là Vô Sanh Nhẫn. Nói theo Viên
Giáo Bồ Tát, Sơ Trụ có thể đắc [Vô Sanh Nhẫn].
Nói theo Biệt Giáo Bồ Tát, phải đạt tới
Sơ Địa (Đăng Địa Bồ Tát) th́ mới
có thể đắc. Nói theo Biệt Giáo Bồ Tát, bèn có hai
cách nói: Có khi nói là đạt lên Sơ Địa sẽ có
thể đắc; có khi nói phải là từ Thất Địa
trở lên th́ mới có thể đắc. Bất luận
nói theo kiểu nào, hễ đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, công
phu ấy cũng rất lỗi lạc, có thể thấy
Pháp Thân của Phật. Đoạn này nói về lợi ích
sẽ đạt được [do tu phép Quán này].
Tiếp
đó, [kinh văn] chép: “Thị
cố trí giả” (V́ thế, người có trí). Chữ “trí giả” chỉ người
đă nhập Quán. Người tu phép Quán này, nếu chẳng
phải là bậc có trí, sẽ chẳng chịu tác quán. “Ưng đương hệ tâm”
nghĩa là hăy nên tập trung cái tâm, đặt yên nơi sự
quán tưởng. “Hệ tâm”
(繫心) là chuyên
tâm. Chuyên tâm “đế quán Vô
Lượng Thọ Phật”, [nghĩa là] nhất tâm quán
A Di Đà Phật. “Quán Vô Lượng
Thọ Phật giả”: Quán Vô Lượng Thọ Phật
th́ quán như thế nào? Trong phần trước, [kinh
văn] đă nói thân Phật cao ngần ấy, từ lỗ
chân lông phóng ra quang minh nhiều ngần ấy, tám vạn bốn
ngàn tướng có tám vạn bốn ngàn tùy h́nh hảo, đơn
giản là tâm lư bọn phàm phu chúng ta chẳng có cách nào quán
được! V́ thế, kế đó, [đức Phật]
dạy một phương pháp Quán: Để quán Vô Lượng
Thọ Phật, “tùng nhất
tướng hảo nhập”, [nghĩa là] đối với
tám vạn bốn ngàn tướng và tám vạn bốn ngàn hảo,
chẳng biết khởi sự thực hiện như thế
nào? Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta một phương
pháp: Hăy quán từ một tướng hoặc một hảo
để nhập (khởi sự tu Quán). Từ tướng
hảo nào để nhập? Đức Phật chọn lựa,
“đản quán my gian bạch
hào, cực linh minh liễu”: Quư vị chỉ quán tướng
bạch hào giữa hai mày của đức Phật là
được rồi, quán bạch hào rành rẽ, sao cho tột
bậc phân minh, thấy rơ ràng. Quán bạch hào thành công, “kiến my gian bạch hào tướng
giả” nghĩa là thật sự thấy tướng bạch
hào giữa hai mày. “Bát vạn tứ
thiên tướng hảo, tự nhiên đương hiện”:
Đă quán bạch hào thành công, tám vạn bốn ngàn tướng
hảo kia sẽ tự nhiên hiện ra, nhất định
là sẽ liên đới hiện ra. Quư vị thấy
phương pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật cao minh như thế
đó!
Do
vậy, chúng ta học Phật, trong quá khứ, Tuyết công
ân sư[6]
lúc c̣n tại thế đă dạy: “Đối với chuyện học rộng, nghiên cứu
lư luận th́ có thể học rộng răi, nhưng dụng
công th́ nhất định phải là thâm nhập một
môn”. Đạo tràng Đài Trung của chúng ta tu pháp môn Niệm
Phật, Quán Kinh dạy Quán Tưởng Niệm Phật,
Tuyết công lăo sư dạy chúng ta Tŕ Danh Niệm Phật.
Đừng nghĩ “Quán Tưởng Niệm Phật hay
quá”, “Quán Tượng Niệm Phật hay quá”, “Thật
Tướng Niệm Phật hay quá”, c̣n Tŕ Danh Niệm Phật
th́ sao? Chỉ cần tŕ danh tốt đẹp, sẽ giống
hệt như các môn niệm Phật khác. “Phương tiện có nhiều môn, về nguồn
chẳng hai đường”. Quán thành công, Quán Tưởng
Niệm Phật là quán một tướng [thành công], những
tướng khác đều hiện. Tŕ danh mà tŕ thành công th́
cũng có cùng đạo lư, cũng là hết thảy đều
tự nhiên hiện ra. Chỉ cần đạt đến
nhất tâm bất loạn, sẽ hoàn toàn giống hệt.
V́ thế, cương lănh chủ yếu này hết sức
quan trọng: Vận dụng công phu, nhất định là phải
thâm nhập một môn, đừng bị bên ngoài nói pháp môn
này hay, pháp môn kia hay [mà dao động]. Thấy người
ta tham Thiền hay quá, bèn học tham Thiền. Thấy
người ta niệm chú siêng năng,
bèn học niệm chú. Chẳng phải là tŕ chú không hay,
cũng chẳng phải là tham Thiền không hay, mà là chúng ta
chọn lựa pháp môn phải phù hợp với căn
cơ của chúng ta. Đă chọn lựa ổn thỏa,
chúng ta bèn chuyên tu một môn ấy, sẽ có thành tựu. Nếu
không, năm nay học pháp này, sang năm học pháp kia, chẳng
thành được chuyện ǵ! Điều này hết sức
trọng yếu!
Tám
vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện
ra, đấy là nói về một đức Phật. Tám vạn
bốn ngàn tướng hảo của A Di Đà Phật hiện
ra, sẽ thấy toàn thể Vô Lượng Thọ Phật,
thật sự trông thấy, tức là thấy Báo Thân của
A Di Đà Phật, tuyệt diệu lắm! Ai có thể thấy
Báo Thân Phật? Người thật sự chứng quả
vị đại Bồ Tát th́ mới có thể thấy Báo
Thân Phật, phàm phu chẳng trông thấy. Có thể thấy
Báo Thân Phật, chứng tỏ công phu quán tưởng của
chính ḿnh đă đạt tới địa vị đại
Bồ Tát. Không chỉ là trông thấy một ḿnh A Di Đà
Phật, “kiến Vô Lượng
Thọ Phật giả, tức kiến thập
phương vô lượng chư Phật”: Sau khi đă
thấy Vô Lượng Thọ Phật, cũng sẽ thấy
mười phương thế giới vô lượng
chư Phật. “Đắc kiến
vô lượng chư Phật cố, chư Phật hiện
tiền thọ kư”: Có thể trông thấy
vô lượng chư Phật trong mười phương
thế giới, ở trước vô lượng chư Phật,
sẽ được thọ kư. Thọ kư ǵ vậy? Huyền
kư quư vị tới khi nào sẽ có thành tựu như thế
nào, đến lúc nào sẽ thành Phật, điều này tuyệt
diệu thay! Chúng ta học Phật, học tới khi đức
Phật thọ kư cho chúng ta, tuyệt diệu lắm! V́ thế,
quán thành công, không chỉ là thấy A Di Đà Phật,
mà c̣n thấy vô lượng chư Phật. Lại c̣n ở
trước vô lượng chư Phật, lập tức
được chư Phật thọ kư. “Thị vi biến quán nhất thiết sắc thân
tướng, danh đệ cửu Quán”: Đây là quán trọn
khắp hết thảy sắc thân tướng của Phật,
gọi là phép Quán thứ chín.
Chúng
ta ở đạo tràng Đài Trung, vừa bắt đầu,
bèn học Tịnh Độ Tông, lại c̣n học Tŕ Danh
Niệm Phật. Đă là Tŕ Danh Niệm Phật, c̣n phải
học Quán Tưởng Niệm Phật của Quán Kinh
để làm ǵ? Điều này có nghĩa là: Bất cứ
pháp môn nào, cũng đều có Chánh, có Trợ. Chánh và Trợ
phải song tu. Tŕ Danh Niệm Phật là công phu chánh yếu.
Ngoài công phu chánh yếu ra, chúng ta c̣n phải có trợ công
phu. Trợ công phu là ǵ? Phàm những ǵ có thể giúp cho công
phu chánh yếu, đều gọi là trợ công phu. V́ sao
chánh công phu cần có trợ công phu? Người đă dụng
công đều biết: Khi chúng ta dấy khởi Phật hiệu,
niệm A Di Đà Phật, lúc b́nh thường c̣n có thể
niệm được, nhưng khi chính ḿnh có chuyện vui
sướng, hoặc có chuyện chẳng vừa ư, hoặc
lúc phiền năo dấy lên, dấy khởi câu Phật hiệu,
cảm thấy chẳng có sức mạnh ǵ, Phật hiệu
chẳng đè ép [những vọng niệm, t́nh thức]
được. V́ sao chẳng đè ép được? V́ chẳng
có sức mạnh nào giúp đỡ! Sức mạnh giúp
đỡ chính là liễu giải những đạo lư này,
liễu giải A Di Đà Phật. Sau khi đă liễu giải
lư, chúng ta ở trong đạo tràng, thấy tượng Phật,
chúng ta tưởng tượng, nhờ vào tượng Phật
ấy để quán tưởng Báo Thân Phật của A Di
Đà Phật to dường ấy, quang minh nhiều ngần
ấy, toàn thể mười phương thế giới
đều ở trong đại quang minh ấy. Lập cách
suy tưởng như vậy, có phiền năo ǵ mà chẳng
thể khắc phục? Có vấn đề nào chẳng thể
giải trừ? Không chỉ là phiền năo b́nh thường,
ngay cả khi đại vấn đề sanh tử xảy
đến, quang minh của Phật vừa chiếu như
thế, hết thảy các chướng ngại đối
với việc văng sanh đều bị phá trừ. V́ thế,
đây là một sự giúp đỡ, giúp cho chúng ta có thể
dấy khởi Phật hiệu. Nếu chẳng liễu giải
đạo lư này, khởi niệm Phật hiệu sẽ chẳng
có sức mạnh, nhẹ tênh! Sau khi đă hiểu đạo
lư này, Phật hiệu vừa dấy khởi, ngay lập tức
có thể đè nén bất cứ phiền năo nào! Trước
khi chúng ta niệm Phật, đều phải xướng
kệ Tán Phật, hăy đối chiếu lời kệ với
phép Quán thứ chín: “A Di Đà
Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng
luân”. Phần lớn [các ư nghĩa trong bài kệ ấy]
đều xuất phát từ phép Quán này. Đối chiếu
với kinh văn này, thuận theo đó để quán
tưởng, tuyệt đối chẳng phải là ba
mươi hai tướng, mà là tướng của Báo Thân
Phật xuất hiện trong tâm của chúng ta. Sau đấy,
mới tiếp tục tŕ danh niệm Phật, sức mạnh
ấy to lớn ngần nào! Đoạn dưới đây
nhằm kết thúc phép Quán này.
(Kinh)
Tác thị Quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tác tha
quán, danh vi Tà Quán.
(經)作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。
(Kinh:
Quán như vậy gọi là Chánh Quán. Nếu quán khác đi
th́ gọi là Tà Quán).
Cuối
cùng là dặn ḍ. “Tác thị quán
giả” nghĩa là nếu dựa theo phương pháp
quán tưởng vừa nói trên đây, “danh vi Chánh Quán”, sẽ là quán tưởng chánh xác. “Nhược tha quán giả”: Nếu
[tu tập] chẳng giống như phương pháp Quán
đă nói trong phần trên đây, “danh
vi Tà Quán”. Tà quán th́ sẽ chẳng đạt được
lợi ích. Chúng ta nhất định phải chú ư mấy
câu ở phần sau này! V́ sao? Trong hiện thời, chánh và
tà chẳng thể phân biệt rất nhiều. Cùng là học
Phật, thậm chí là niệm Phật, chẳng thể chọn
lựa một môn để từ pháp môn ấy mà tu tập,
lại c̣n thêm vào các pháp khác, khiến cho cái tâm của chính
ḿnh bị “tu” đến nỗi loạn tùng phèo. Chúng ta tŕ
danh niệm Phật ḥng cầu nhất tâm bất loạn,
nếu thêm vào các pháp khác, làm sao có thể đắc nhất
tâm bất loạn cho được? V́ thế, ở
đây nói tới quán tưởng, quán như vậy là chánh.
Chẳng đúng như vậy, sẽ là tà. Tŕ Danh Niệm
Phật cũng là như vậy. Trong quá khứ, thầy
chúng ta khai thị, thường bảo phải “thật thà niệm Phật”.
Thật thà niệm Phật là thuần túy tŕ một câu danh
hiệu, vận dụng công phu này. Đối với điểm
phân biệt chánh và tà này, phải đặc biệt chú ư.
Chúng
ta liễu giải một nguyên tắc là “vạn pháp duy tâm”. Tâm chúng ta đặt ở
nơi nào? Chúng ta đạt được pháp ǵ? Kẻ chẳng
học Phật, thậm chí kẻ chẳng học pháp môn Niệm
Phật, tâm luôn rong ruổi. Chúng ta đặt vững cái
tâm nơi Phật hiệu A Di Đà Phật, tâm chúng ta và
quang minh của Phật kết hợp lại. Ví như nay
chúng ta sắp ăn Tết, trong dịp Tết, mọi
người đều mong cầu tốt lành, có phước,
có huệ, quư vị có thể quán tưởng Phật, niệm
Phật. Phật là hết thảy phước đức,
hết thảy trí huệ viên măn, tâm chúng ta đặt
nơi Phật, chúng ta cũng là hết thảy phước
huệ đều viên măn, đạt được công
đức giống hệt như Phật!
Hôm nay, tôi nói xong, mọi người nghỉ học về
ăn Tết, hăy đặt tâm nơi những điều
này, hết thảy đều là phước đức,
trí huệ viên măn. Hôm nay, tôi nói đến đây bèn
ngưng.
Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh Giảng Kư
Phần 6 hết
[1] Đường Thái Tông (Lư Thế Dân) có
anh cả là thái tử Lư Kiến Thành, và hai em trai là Lư
Huyền Bá và Lư Nguyên Cát. Lư Thế Dân thể hiện
bản lănh quân sự từ nhỏ, từng cầm quân khi
mới mười sáu tuổi, lập nhiều công
trạng hiển hách. Dần dần, Lư Thế Dân lấn át
uy quyền của Lư Kiến Thành. Đường Cao
Tổ (Lư Uyên) nghi ngờ, cắt giảm quyền lực
của Lư Thế Dân. Đồng thời Kiến Thành và
Nguyên Cát liên minh với nhau, chống phá và nhiều lần
mưu toan sát hại Lư Thế Dân. Khi quyền lực
bị cắt giảm, trước những âm mưu hăm
hại của anh và em trai, Lư Thế Dân quyết
định ra tay trước. Khi Lư Uyên gọi ba con trai vào
cung để chất vấn, Lư Thế Dân đă
đặt phục binh tại cửa Huyền Vũ
của hoàng thành. Lư Kiến Thành bị Lư Thế Dân bắn
chết, c̣n Lư Nguyên Cát bị Uất Tŕ Kính Đức
giết chết. Sợ bị trả thù, sau đó, Lư
Thế Dân c̣n cho người giết chết năm con trai
của Lư Kiến Thành và Lư Nguyên Cát, tức là giết sạch
mười đứa cháu trai. Trước t́nh h́nh đă rồi,
Lư Uyên khôn khéo rút lui, lên làm Thái Thượng Hoàng,
nhường ngôi cho Lư Thế Dân.
[2] “Kẻ bên
ngoài” ở đây là nói tới những kẻ chẳng
học, chẳng hành pháp môn quán tưởng nói riêng,
hoặc là kẻ chẳng hành tŕ, thật sự tu chứng
pháp môn Tịnh Độ nói chung, chỉ biết nói lư
thuyết suông! Thậm chí hiểu biết sai lệch, suy diễn
tùy tiện như có kẻ thấy kinh văn nói sanh về Cực
Lạc phải qua vài kiếp hoa sen mới nở bèn nói là ‘văng
sanh Cực Lạc sẽ bị ngồi tù trong hoa sen’!
[3] Ở đây, “tiên thiên” có nghĩa là
điều kiện, t́nh trạng thân thể khi
được cha mẹ vừa sanh ra. C̣n “hậu thiên” là
những điều kiện, t́nh huống nơi thân
thể do quá tŕnh nuôi dưỡng và tập luyện.
[4] Nguyên văn “thiên
quân chi lực” (千鈞之力). Quân (鈞) là một đơn vị đo lường
thời cổ. Mỗi Quân bằng ba mươi Cân. Một
Cân dao động từ 500g đến 600g (tùy theo cách
sử dụng tại Hoa Lục hay Đài Loan). Như vậy
“thiên quân” là ba chục ngàn Cân,
nhưng chúng tôi thuận theo cách nói phổ biến “sức
mạnh ngàn cân” để chuyển ngữ câu này.
[5] Nói “Bát Nhă là
một loại Phật thân” tức là nói theo kinh Hoa
Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm nói Phật có mười thân, một thân
trong ấy là Trí Thân, tức Bát Nhă.
[6] Cụ Lư Bỉnh Nam có hiệu là
Tuyết Lư, nên học tṛ thường gọi là
“Tuyết sư” hoặc “Tuyết công lăo sư”.