Phật Thuyết
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Giảng Kư
Phần 7
佛說觀無量壽佛經講記
Chủ
giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)
khởi
giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang
Tập 31
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, hôm nay là buổi giảng đầu tiên sau Tết
năm nay. Hiện thời, vẫn c̣n đang trong tháng Giêng;
trước hết, hướng về các vị, năm
cũ đă qua, xin chúc mừng các vị năm mới vui vẻ.
Trong năm mới, quư vị sẽ phước đức
và trí huệ ngày càng rộng mở, vạn sự như ư! Bây
giờ, xin quư vị mở kinh bổn, trang mười bảy,
bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Kiến Vô Lượng
Thọ Phật liễu liễu phân minh dĩ, thứ diệc
ưng quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân
trường bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần,
thân tử kim sắc. Đảnh hữu nhục kế, hạng
hữu viên quang, diện các bách thiên do-tuần. Kỳ viên
quang trung, hữu ngũ bách Hóa Phật, như Thích Ca Mâu Ni”.
(經)佛告阿難,及韋提希:見無量壽佛了了分明已,次亦應觀觀世音菩薩。此菩薩身長八十萬億那由他由旬,身紫金色。頂有肉髻,項有圓光,面各百千由旬。其圓光中,有五百化佛,如釋迦牟尼。
(Kinh:
Phật bảo A
IV.2.2.11. Phép Quán thứ mười,
Quán Âm quán
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
c̣n gọi tắt là Thập Lục Quán Kinh, có mười
sáu phương pháp Quán. Trong mười sáu phép Quán, chia thành
ba bộ phận lớn:
1) Một,
sáu phép Quán đầu tiên (từ phép Quán thứ nhất tới
phép Quán thứ sáu) là quán các hoàn cảnh đẹp đẽ
trong thế giới Cực Lạc, từ phép Quán mặt trời
cho đến Tổng Quán, có tất cả sáu loại (thuộc
về y báo).
2) Hai, khởi
đầu từ phép Quán thứ bảy (từ phép Quán thứ
bảy cho đến phép Quán thứ mười ba) nói về
cách quán chánh báo trong thế giới Cực Lạc. [Quán
tưởng] chánh báo là quán A Di Đà Phật và những vị
đại Bồ Tát. Có tất cả bảy phép Quán.
3) Ba, quán
ba bậc chín phẩm (từ phép Quán thứ mười bốn
cho tới phép Quán thứ mười sáu).
Chúng
tôi đă nói các phép Quán chánh báo thứ bảy, thứ tám, và
thứ chín; hôm nay, bắt đầu cùng các vị nghiên cứu
phép Quán Bồ Tát. Bồ Tát ở Tây Phương, đạo
tràng của chúng nay đang thờ tượng Tây
Phương Tam Thánh: Chính giữa là A Di Đà Phật; hai
bên, một vị là Quán Thế Âm Bồ Tát, vị kia là Đại
Thế Chí Bồ Tát. Nay chúng ta nghiên cứu cách quán Quán Thế
Âm Bồ Tát.
Khéo
sao vừa đúng dịp mở đầu một năm mới,
chúng tôi bắt đầu nói đến phép Quán này. Chúng ta
biết Quán Thế Âm Bồ Tát và thế gian của chúng ta
hết sức hữu duyên, vừa khéo nói đến đoạn
này, đây đúng là một dịp ngàn năm khó gặp gỡ
đấy nhé! Mọi người phải giữ tâm lư “[đây
là một cơ duyên] rất khó, hiếm có” để học
tập kinh văn của phép Quán này.
Trong
quá khứ, chúng ta thường thấy các vị tổ
sư khai thị: “Phải thân
cận thiện tri thức! Thân cận người có phước
đức, sẽ có các thứ lợi ích”. Nay chúng ta học
cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Đă thế, vị Bồ
Tát này có nhân duyên hết sức sâu dầy đối với
thế gian này, chúng ta nghiên cứu một chương kinh
văn này, chủ yếu là nói đến chuyện quán
tưởng. Nếu chẳng quán tưởng, chỉ niệm
danh hiệu của Bồ Tát, hoặc trước hết
liễu giải danh hiệu của Bồ Tát, sẽ đều
giống như thân cận Quán Thế Âm Bồ Tát vậy!
Hăy ngẫm xem, chúng ta thân cận một vị thiện tri
thức b́nh phàm đă là rất khó có, huống hồ nay
đang thân cận một vị đại Bồ Tát
như vậy, càng khó có hơn nữa! Chúng ta có nhân duyên với
vị Bồ Tát này, phước báo của chúng ta nhất
định chẳng phải là tới đời này mới
gieo trồng, mà tất nhiên là đă vun bồi từ nhiều
đời, tới nay mới kết thành nhân duyên tốt
đẹp này, [v́ vậy] chúng ta mới có thể thân cận
Quán Thế Âm Bồ Tát trong lúc này!
Bây
giờ, hăy xem kinh văn: “Phật
cáo A
Trước
khi chánh thức tŕnh bày cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát như
thế nào, chúng ta dựa theo chú giải của tổ
sư, phải liễu giải vị Bồ Tát này chẳng
tầm thường. Theo kinh Quán Âm Tam Muội đă dạy,
trong đời quá khứ, Quán Thế Âm Bồ Tát đă
thành Phật, lại c̣n có Phật hiệu là Chánh Pháp Minh
Như Lai. Sau khi Ngài đă thành Phật, nay lại trở vào
thế gian, dùng thân phận Bồ Tát để giúp A Di
Đà Phật hóa độ chúng sanh. Phật pháp gọi chuyện
này là “đới quả hành
nhân” (帶果行因, mang theo quả để
[thị hiện] sự tu nhân).
“Đới quả hành nhân” là
ǵ? Học Phật, nhất định sẽ chứng quả.
Chứng quả ǵ vậy? Chứng quả La Hán bèn thoát lục
đạo luân hồi, nhưng đấy vẫn chưa phải
là rốt ráo! Rốt ráo là chứng Phật quả; thành Phật
mới là chứng đại quả. “Nhân” là trước khi chứng quả, hành Bồ
Tát đạo, làm đủ mọi công đức đều
gọi là “nhân”. Quán Thế
Âm Bồ Tát đă thành Phật trong đời quá khứ, tức
là bậc đă chứng Phật quả, nay lại quay về
hành Bồ Tát đạo. Đấy là dự vào địa
vị tu nhân. Ngài mang theo Phật quả, thị hiện những
chuyện thuộc về địa vị tu nhân, đến
hóa độ chúng sanh. Do vậy, chúng ta phải liễu giải
điểm đặc thù của vị Bồ Tát này là “đới quả hành nhân”, Ngài
có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. Đây là tầng
[ư nghĩa] thứ nhất, chúng ta ắt cần phải liễu
giải.
Kế
đó, khi chúng ta quán Quán Thế Âm Bồ Tát, bản thân chúng
ta nhất định phải mở rộng tâm lượng
rất lớn; sau đấy, mới xem phần kinh văn
dạy về thân thể cao lớn của Quán Thế Âm Bồ
Tát. Bọn người tầm thường như lũ chúng
ta trong thế gian chẳng thể thấy thân cao lớn
như vậy. Thân Ngài cao mấy chục vạn ức
[do-tuần], ắt cần phải mở rộng tâm lượng
th́ mới có thể liễu giải.
“Thử Bồ Tát thân trường
bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần” (Thân vị Bồ
Tát ấy cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần):
Trước hết, nói về chiều cao nơi thân Bồ
Tát (“thân trường” là chiều
cao của thân). “Do-tuần” (Yojana)
là tên gọi của đơn vị đo lường chiều
dài ở Ấn Độ vào thời cổ. Một do-tuần
là bao nhiêu? Nói theo lộ tŕnh, có khi nói bốn mươi dặm
là một do-tuần, có khi nói ba mươi dặm là một
do-tuần. Bất luận ba mươi dặm hoặc bốn
mươi dặm, dùng chiều dài ấy xếp theo chiều
dọc để tính độ cao, đáng nể lắm!
Ví như chúng ta thấy cao ốc mấy trăm tầng
trong thế giới này, vẫn chưa đạt đến
chiều cao ba mươi dặm! Trước chữ “do-tuần” là “na-do-tha” (chữ “他” đọc theo âm chữ “拖” (tha[1])). “Na-do-tha” (Nayuta) là tên gọi của
một số đếm. Vào thuở đó, tại Ấn
Độ, Na-do-tha là một Ức. Bất quá, thuở ấy,
tại Ấn Độ, đối với chữ Ức,
có tới mấy cách nói. Có khi nói mười vạn là một
ức, có khi nói một trăm vạn là một ức, c̣n
có khi nói một ngàn vạn là một ức. Có ba
phương thức tính toán khác nhau như vậy. Chúng ta chọn
con số nhỏ nhất, coi mười vạn là một ức!
Đối với lộ tŕnh, chúng ta cũng chọn cách nói
ngắn nhất, coi ba mươi dặm là một do-tuần.
“Na-do-tha do-tuần” là mười
vạn nhân với ba mươi dặm (10.000 x 30 = 300.000, ba
trăm ngàn dặm), có độ cao ngần ấy. Trước
đó, lại thêm vào con số “tám
mươi vạn ức”. Tôi nghĩ quư vị chẳng
cần tính con số “tám
mươi vạn ức na-do-tha do-tuần”, chỉ biết
là cao quá cỡ! Nếu phải tính toán chi tiết, cũng rất
mất công! Hăy ngẫm xem, thân Quán Thế Âm Bồ Tát cao
dường ấy!
Bất
quá, đối với hai chữ “tám
mươi” trong câu “tám
mươi vạn ức”, có bản chú giải (tức
bản chú giải của tông Thiên Thai) cho rằng: So sánh với
chiều cao của thân A Di Đà Phật đă nói trong phần
trước, ở đây, chẳng phải là “tám mươi vạn ức”,
mà phải nên là “mười tám
vạn ức”. So sánh với thân A Di Đà Phật đă
nói trong phần trước[2]
[th́ thân Quán Thế Âm Bồ Tát] phải thấp hơn một
chút. Bất quá, cũng có những bản chú giải khác chẳng
chấp nhận cách nói này, [chúng tôi] vẫn chiếu theo [nguyên
văn trong chánh kinh] để nói là “tám mươi vạn ức”. Chúng ta hiểu rơ có
cách chú giải như vậy là được rồi! Khi
nghiên cứu kinh văn, vẫn đọc là “tám mươi vạn ức na-do-tha
do-tuần”. Đấy là nói về chiều cao nơi
thân Bồ Tát.
Quán
Thế Âm Bồ Tát không chỉ cao như thế, lại c̣n là “thân
tử kim sắc”. Kim sắc đă tuyệt diệu lắm
rồi (rất đáng quư), mà trong các loại kim sắc (màu
sắc của chất vàng), tử kim sắc (紫金色,
màu vàng có ánh tía) lại càng đẹp đẽ hơn nữa.
So với màu sắc của các loại vàng thông thường,
sẽ càng đẹp hơn nữa, nên gọi là “tử kim sắc”. Sau khi
đă nói độ
cao nơi thân và thân có màu tử kim xong, bèn nh́n từ đỉnh
đầu của Bồ Tát: “Đảnh
hữu nhục kế” (Đỉnh đầu có nhục
kế). Đức Phật có ba mươi hai tướng,
đại Bồ Tát cũng có ba mươi hai tướng
giống như vậy. “Nhục
kế” (肉髻, Uṣṇīṣa) là một
trong ba mươi hai tướng. Các vị thấy tượng
Phật thờ trong đạo tràng, trên đỉnh đầu
có một khối đo đỏ (giống như màu đỏ
của mặt trời), đó chính là nhục kế trên đỉnh
đầu đức Phật. Sau khi đă thấy nhục
kế, lại xem tới cổ. “Hạng
hữu viên quang” (Cổ có viên quang). Chữ Hạng (項) chỉ
phần cổ ở dưới đầu. Bốn phía của
cổ có viên quang. Chúng ta thấy phía sau tượng Phật,
Bồ Tát đều có những luồng sáng tỏa ra. “Viên quang” là quang minh từ cổ
chiếu ra. Quang minh chiếu ra từ cổ ấy như
thế nào? “Diện các bách thiên
do-tuần” (Mỗi phía rộng tới trăm ngàn do tuần):
Quang minh từ cổ có bốn phía, mỗi phía đều rộng
đến trăm ngàn do-tuần. “Kỳ viên quang trung, hữu ngũ bách ức Hóa Phật,
như Thích Ca Mâu Ni” [nghĩa là] trong quang minh phát ra từ
cổ ấy, c̣n có năm trăm vị hóa thân Phật giống
như những vị ứng hóa Phật của Thích Ca Mâu
Ni Phật vậy! Đây là nói từ nhục kế cho đến
“hạng quang” (項光, quang
minh phát ra từ cổ), từ trong hạng quang hiển lộ
Hóa Phật.
(Kinh)
Nhất nhất Hóa Phật, hữu ngũ bách Hóa Bồ Tát,
vô lượng chư thiên, dĩ vi thị giả.
(經)一一化佛,有五百化菩薩,無量諸天,以為侍者。
(Kinh:
Mỗi một Hóa Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô
lượng chư thiên làm thị giả).
Năm
trăm vị Hóa Phật, “nhất
nhất Hóa Phật, hữu ngũ bách Hóa Bồ Tát”, mỗi
vị Hóa Phật lại có năm trăm vị Hóa Bồ
Tát. Ngoài ra, mỗi vị Hóa Phật c̣n có “vô lượng chư thiên”, nhiều đến mức
không kể xiết chư thiên. “Dĩ
vi thị giả”: Làm thị giả của Hóa Phật.
Đă nói về Hóa Phật và Hóa Bồ Tát xong; kế đó,
lại nói tới những điều tốt đẹp
nơi thân quang.
(Kinh)
Cử thân quang trung, ngũ đạo chúng sanh, nhất thiết
sắc tướng, giai ư trung hiện.
(經)舉身光中,五道眾生,一切色相,皆於中現。
(Kinh: Trong vầng
quang minh khắp thân, hết thảy các sắc tướng
của chúng sanh trong năm đường đều hiện
trong ấy).
“Cử thân quang trung” là ở
trong toàn thể thân quang (quang minh phát ra từ thân) của Quán
Thế Âm Bồ Tát, có “ngũ
đạo chúng sanh”, tức là trời, người, súc sanh,
ngạ quỷ, địa ngục (A Tu La đạo
được tính gộp trong trời, người, súc
sanh, và quỷ. V́ thế, “ngũ
đạo” chính là lục đạo), [đó là] chúng sanh
trong năm đường. “Nhất
thiết sắc tướng” (Hết thảy các sắc
tướng), đủ mọi trạng huống, “giai ư trung hiện” (đều
hiện ở trong ấy), “trung”
(中) là ở
trong thân quang của Bồ Tát, có thể hiện ra trạng
huống của tất cả chúng sanh trong năm đường.
V́ sao từ toàn thể thân quang của Quán Thế Âm Bồ
Tát có thể hiện ra h́nh tướng của chúng sanh trong
năm đường? Chúng ta thường nói Quán Thế
Âm Bồ Tát là “đại từ
đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Trong tâm
Ngài, chẳng có thời khắc nào là không chiếu cố
chúng sanh khổ nạn. Chúng sanh khổ nạn chẳng giới
hạn trong tam đồ. Đương nhiên là tam đồ
khổ sở nhất, nhân gian rất khổ, [ngay cả] chúng
sanh trong thiên đạo cũng khổ. Do vậy, trong tâm Quán
Thế Âm Bồ Tát luôn nghĩ tới các chúng sanh trong lục
đạo. Trong tâm Ngài nghĩ tới những chúng sanh ấy;
v́ thế, trong thân quang bèn hiển hiện [h́nh trạng của
họ].
Chúng
ta thường nói: “Nhờ ai đó giúp đỡ, chiếu
cố khá nhiều”. Dùng ǵ để chiếu cố? Chính là
quư vị có ḷng nghĩ đến. Từ lư tánh nơi tâm của
mỗi người chúng ta phát ra, trong tâm luôn có quang minh. Dùng
quang minh của quư vị để gia bị, chiếu cố.
Do v́ trong tâm Quán Thế Âm Bồ Tát nghĩ tới chúng sanh,
trong quang minh của Ngài tự nhiên hiển hiện lục
đạo chúng sanh. Tâm Bồ Tát đă nghĩ tới chúng
ta như vậy, chúng ta gặp phải bất cứ vấn
đề ǵ, chẳng cần nghĩ chi khác, chúng ta vừa
nghĩ Quán Thế Âm Bồ Tát có thể giúp chúng ta giải
quyết chuyện ấy, đúng là sẽ có sức mạnh
chẳng thể nghĩ bàn! Trong phẩm Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn của kinh Pháp Hoa đă nói chuyện này rất
cặn kẽ. V́ thế, hiểu rơ đạo lư này, chúng ta
sẽ hiểu rơ [v́ sao] kinh văn nói trong thân quang của Quán
Thế Âm Bồ Tát có thể hiển lộ hết thảy
sắc tướng của chúng sanh trong năm đường.
Trong tâm Bồ Tát, thời thời khắc khắc đều
có bọn chúng sanh chúng ta, thời thời khắc khắc Ngài
đều muốn đến cứu vớt chúng ta, mà lũ
b́nh phàm chúng ta thường nói: “Chúng ta cần Ngài cứu
giúp nỗi ǵ? Nay ta sống rất tốt đẹp, rất
sung sướng mà!” Đấy là v́ lũ phàm phu chúng ta chẳng
liễu giải chúng sanh là pháp thế gian sanh diệt; một
nhánh hoa, một ngọn cỏ trong thiên nhiên nơi thế
gian chẳng có thời khắc nào không đang sanh sanh diệt
diệt!
Nói
đến bọn chúng sanh chúng ta, lấy ngay đời người
để nói: Mấy chục năm ngắn ngủi, dẫu
sống đến một trăm năm, dẫu lâu hơn
một tí, sống đến một trăm hai mươi tuổi,
vẫn có lúc thọ mạng chấm dứt. Sau khi đă mạng
chung, tương lai trong đời sau sẽ là như thế
nào? Rốt cuộc sẽ vào trong đường nào? Chính
ḿnh chẳng thể nắm chắc! Dẫu trong đời
này chẳng tạo ác nghiệp rất lớn, đời
sau sanh vào nhân gian, nhân gian khổ sở quá đỗi! Chỉ
cần lưu ư quan sát đôi chút, [sẽ thấy]: Từ
xưa tới nay, nh́n vào lịch sử nhân loại, sẽ
biết trong và ngoài nước đều là như vậy.
Có chiến tranh, có đủ mọi mối ân oán cá nhân, có
những chuyện dây dưa không rơ như thế ấy,
đều là những nỗi khốn khổ mà mỗi chúng
sanh gặp gỡ, lại c̣n chẳng thể giải quyết
được! Do vậy, người học Phật, hễ
giác ngộ đôi chút, sẽ biết: Bất luận là nhân
vật như thế nào trong thế gian này, dẫu là kẻ
giàu có cách mấy, hoặc là kẻ có quyền lực chánh
trị [to lớn] cách mấy đi nữa, trong tâm Bồ
Tát, họ đều là những chúng sanh khổ năo, Ngài luôn
muốn đến cứu vớt chúng ta. V́ thế, chúng ta phải
thời thời khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh, ắt
phải giác ngộ: Sống trong thế gian, có thể duy tŕ
sự b́nh an là đă quá tốt đẹp rồi. Nếu
mong được b́nh an vô sự, sẽ là chuyện hết
sức tuyệt diệu! Ở trong thế gian như vậy,
nếu chẳng cầu phát nguyện văng sanh thế giới
Cực Lạc, cứ tự ḿnh học Phật, quả thật
chẳng xứng đáng! Học Phật để cầu đời
sau hưởng thụ phước báo trong cơi nhân thiên,
đấy là sai lầm! Ắt phải phát nguyện văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thoát ly lục
đạo trong thế gian thống khổ này!
Do
vậy, chúng ta thật sự mong cầu Quán Thế Âm Bồ
Tát cứu khổ cứu nạn, tức là hy vọng trong
tương lai, khi thọ mạng chấm dứt, Ngài sẽ
theo A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta sanh về
thế giới Cực Lạc. Đó là chuyện vị lai,
c̣n trước mắt th́ sao? Bồ Tát dùng quang minh của
Ngài để chiếu cố chúng ta, khiến cho chúng ta ở
trong thế gian đầy dẫy thiên tai nhân họa này, vẫn
có thể b́nh an, chẳng gặp phải bất cứ tai nạn
nào. V́ vậy, tâm chúng ta nghĩ tưởng Bồ Tát
như vậy, nghĩ tưởng Bồ Tát sẽ giống
như thân cận Bồ Tát. Thân cận Bồ Tát sẽ
đạt được những điều tốt
đẹp như thế đó! Ở đây, kinh văn
đă dạy chuyện này rơ ràng ngần ấy! Trong thân
quang của Bồ Tát, có thể hiển lộ hết thảy
sắc tướng của chúng sanh trong năm đường,
nhất cử nhất động của chúng ta đều
hiển hiện trong quang minh của Bồ Tát. Trong tâm chúng
ta dấy lên ư niệm ǵ, Bồ Tát cũng đều biết.
Ư niệm của chúng ta và ư niệm của Bồ Tát nhất
trí, sẽ được cảm ứng. Chúng ta b́nh an trong thế
gian này; trong tương lai, Ngài sẽ giúp đỡ, tiếp
dẫn chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc. Lợi
ích ấy tốt đẹp hơn bất cứ lợi ích
nào khác. Chẳng biết là tốt đẹp hơn làm
đại hoàng đế vào thời cổ hoặc làm tổng
thống của một quốc gia lớn nhất trên thế
giới trong hiện thời bao nhiêu lần!
(Kinh)
Đảnh thượng Tỳ Lăng Già ma-ni bảo dĩ
vi thiên quan. Kỳ thiên quan trung, hữu nhất lập Hóa Phật,
cao nhị thập ngũ do-tuần.
(經)頂上毗楞伽摩尼寶以為天冠。其天冠中,有一立化佛,高二十五由旬。
(Kinh:
Trên đỉnh đầu có măo trời bằng chất báu
Tỳ Lăng Già ma-ni. Trong măo trời ấy, có một vị
Hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần).
“Đảnh thượng Tỳ
Lăng Già ma-ni bảo dĩ vi thiên quan”: Đây là nói về
đỉnh đầu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Bồ
Tát đội măo (quan, 冠)[3] vừa
to, vừa đẹp. Chúng ta thoạt nh́n, sẽ nh́n chẳng
ra. V́ thế, nói tỷ dụ, nói là “thiên quan” [tức là măo báu] trong cơi trời. Trong
nhân gian, chẳng t́m được cái măo nào đẹp
đẽ như vậy, chỉ đành dùng măo trời
để h́nh dung. Bởi lẽ, tâm lư của bọn phàm
phu chúng ta, hễ nói đến điều ǵ tốt nhất,
thường nói là “cơi trời tốt nhất”. Thật ra,
cái măo do Quán Thế Âm Bồ Tát đội chẳng biết
tốt đẹp hơn măo trời bao nhiêu lần! V́ sao tốt
đẹp? Quư vị thấy trước đó đă nói: “Tỳ Lăng Già ma-ni bảo”.
“Tỳ Lăng Già” là nói tắt,
nói đầy đủ sẽ là Thích Ca Tỳ Lăng Già,
là tên một loại bảo ngọc ở Ấn Độ,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tối Thắng, [hàm ư] “loại
bảo ngọc tốt nhất”. Dùng chữ Tỳ Lăng
Già để h́nh dung chữ “ma-ni
bảo” kế đó. “Ma-ni” (Maṇi) là tiếng Ấn Độ, dịch
sang tiếng Hán là Như Ư, có nghĩa là “thanh tịnh”. Đă là thanh tịnh, lại c̣n như ư. Trong
tâm quư vị muốn ǵ, nó bèn có thể vừa ư quư vị.
Báu ma-ni ấy c̣n là tối thắng trong các báu Ma-ni, tức là
“Tỳ Lăng Già ma-ni bảo”.
Dùng chất báu ấy bện kết thành măo, gọi là “thiên quan”. Trên đỉnh
đầu Quán Thế Âm Bồ Tát đội thiên quan ấy.
“Kỳ thiên quan trung”: Trong cái
măo ấy, “hữu nhất lập
Hóa Phật”: Có một vị Phật biến hóa đứng
trong ấy. “Cao nhị thập
ngũ do-tuần”: Tuy là một vị Phật biến
hóa, chiều cao cũng tới hai mươi lăm do-tuần.
[Cứ tính theo số lượng nhỏ nhất], một do-tuần
là ba mươi dặm. Hai mươi lăm do-tuần có
bao nhiêu dặm? Có tới bảy trăm năm mươi dặm.
Điều này biểu thị Quán Thế Âm Bồ Tát là một
vị Cổ Phật đă thành Phật trong quá khứ, hiện
tại Ngài là “đới quả
hành nhân”. Do vậy, trong măo đội đầu của
Ngài có một vị Hóa Phật. Vị Hóa Phật ấy biểu
thị Phật quả, mang ư nghĩa “đới quả hành nhân”, Ngài cứu khổ cứu
nạn. Sức cứu độ chúng sanh của Ngài giống
như sức của Phật vậy.
(Kinh)
Quán Thế Âm Bồ Tát, diện như Diêm Phù Đàn kim sắc.
My gian hào tướng, bị thất bảo sắc, lưu
xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh. Nhất nhất
quang minh, hữu vô lượng vô số bách thiên Hóa Phật.
Nhất nhất Hóa Phật, vô số Hóa Bồ Tát dĩ vi
thị giả, biến hiện tự tại, măn thập
phương thế giới.
(經)觀世音菩薩,面如閻浮檀金色。眉間毫相,備七寶色,流出八萬四千種光明。一一光明,有無量無數百千化佛。一一化佛,無數化菩薩以為侍者,變現自在,滿十方世界。
(Kinh: Quán Thế
Âm Bồ Tát sắc mặt như vàng Diêm Phù Đàn. Tướng
bạch hào giữa hai mày có đủ màu bảy báu, tỏa
ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi một quang
minh có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi
vị Hóa Phật có vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả,
biến hiện tự tại, đầy ắp mười
phương thế giới).
Đoạn
kinh văn này nói về sắc vàng nơi mặt Quán Thế
Âm Bồ Tát. C̣n có tướng bạch hào giữa hai mày, lại
c̣n tỏa ra quang minh. Kinh văn chép: “Quán Thế Âm Bồ Tát, diện như Diêm Phù Đàn
kim sắc”: Sắc mặt của Quán Thế Âm Bồ
Tát giống như màu sắc của loại vàng sanh từ
sông Diêm Phù Đàn. Sắc vàng ấy là sắc vàng đẹp
nhất, giống như vàng trong sông Diêm Phù Đàn, là màu sắc
của loại vàng tốt nhất. Chữ “như” ở đây biểu thị chẳng hoàn
toàn giống như vậy. Nói cách khác, sắc mặt của
Quán Thế Âm Bồ Tát c̣n đẹp hơn màu sắc của
vàng Diêm Phù Đàn, nhưng đẹp đến mức độ
nào, chúng ta chẳng hiểu trọn! Chỉ có thể dùng
màu sắc của vàng Diêm Phù Đàn để sánh ví, ḥng giúp
chúng ta liễu giải mà thôi. Trên thực tế, c̣n đẹp
hơn rất nhiều!
Lại
xem tướng lông mày trên mặt Ngài: Giữa hai mày có “hào tướng”, tức bạch hào. Bài kệ Tán Phật có
câu: “Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di” (Bạch hào cuộn tṛn theo chiều bên phải,
to như năm quả núi Tu Di). Tướng bạch hào là một
trong ba mươi hai tướng, [thường gọi là] “my gian hào tướng” (Ūrṇākeśaḥ,
tướng bạch hào giữa hai mày). “Bị thất bảo sắc”: Màu của bảy
báu rất nhiều. “Bị”
(備)
là hoàn bị,
hoàn toàn trọn đủ màu sắc đẹp đẽ của
bảy báu. Từ tướng bạch hào có trọn đủ
màu sắc bảy báu, từ trong các màu ấy “lưu xuất bát vạn tứ
thiên chủng quang minh” (lưu xuất tám vạn bốn
ngàn thứ quang minh). Điều này lại rất khó liễu
giải, v́ trong sự suy tưởng của bọn chúng
sanh phàm phu, quang minh là một loại ánh sáng, ví như ánh
đèn chiếu sáng, chỉ phát ra ánh sáng màu trắng,
nhưng ở đây có đủ loại quang minh. Trong quang
minh, có đủ loại màu sắc. Chữ “minh” (明) ở đây có nghĩa là “có thể thấy
rơ ràng, thấu suốt”, nhưng cũng chẳng phải là
nói [quang minh chỉ có] một loại màu trắng. Trong ấy,
có các thứ màu sắc. V́ thế, ở đây nói là “có tám vạn bốn ngàn loại quang
minh”. Điều này phải cậy vào cái tâm chúng ta dần
dần quán tưởng, tưởng tướng bạch
hào giữa hai mày của Bồ Tát phóng ra quang minh nhiều
ngần ấy, tốt đẹp lắm! Trong thế giới
Sa Bà, đến đâu mới thấy được cảnh
sắc như thế đó! Nếu chúng ta dụng tâm quán cặn
kẽ tám vạn bốn ngàn thứ quang minh ấy, [sẽ
thấy] cảnh sắc ấy đúng là quá đẹp
đẽ, quá tốt lành. Kẻ b́nh phàm sẽ chẳng tin
tưởng, há có chuyện như vậy ư? Đấy
là v́ tâm lư của bọn phàm phu chúng ta có chướng ngại,
bọn phàm phu mắt thịt chẳng thấy rơ ràng cảnh
trí tốt đẹp dường ấy.
Tôi
nêu một thí dụ hiện thực. Chúng ta nh́n thấy ánh
sáng mặt trời, cảm thấy nó b́nh thường, chẳng
có ǵ lạ lùng. Đấy là v́ chúng ta bị hạn chế
bởi các thứ chướng ngại nơi nhục nhăn.
Nếu chiếu [ánh nắng qua] một cái lăng kính có ba cạnh
(prism), [sẽ thấy] trong ánh sáng mặt trời có các thứ
màu sắc khác nhau như tím, đỏ, cam, vàng v.v… Nhưng
nhục nhăn của phàm phu căn bản là chẳng trông thấy
rơ ràng, ắt phải nhờ vào dụng cụ khoa học mới
thấy rơ ràng. Nhưng ở đây, [dẫu] quư vị sử
dụng công cụ, cũng chẳng thể thấy nhiều
ngần ấy được! Ắt phải mở rộng
tâm linh của chính ḿnh, mở rộng tâm linh như thế nào?
Tức là cái tâm đừng bị chướng ngại bởi
các thứ phiền năo thế tục trong nhân gian. Nói chung,
chúng ta luôn cảm thấy những chuyện thuộc về
nhân gian quá nhỏ nhặt, chẳng đáng nhắc tới,
nhưng kẻ b́nh phàm sẽ nghĩ những vấn đề
ấy to tát khôn cùng! Giải quyết như thế nào? Quư vị
chẳng quan tâm tới chúng, chẳng coi chúng là chuyện
[đáng kể]. Hễ tâm lư của quư vị mở rộng,
cách nghĩ và toàn thể cảnh giới của quư vị sẽ
sáng ngời. Quư vị chuyên môn tưởng quang minh này, sẽ
đạt được sự thọ dụng to tát.
“Nhất nhất quang minh, hữu
vô lượng vô số bách thiên Hóa Phật” (Mỗi quang
minh có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật), trên
đây là nói về tám vạn bốn ngàn loại quang minh.
Trong mỗi loại quang minh, không chỉ có các thứ màu sắc,
cảnh trí hết sức đẹp đẽ. Càng đặc
biệt hơn nữa là trong mỗi loại quang minh, có vô
lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật ở trong quang
minh. “Nhất nhất hóa Phật”,
tức là mỗi vị Hóa Phật, lại có “vô số Hóa Bồ Tát dĩ vi thị
giả” (vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả). Đức
Phật có thị giả, ai làm thị giả của Phật?
Chính là Bồ Tát. Có bao nhiêu vị Bồ Tát? Lại có vô số
Hóa Bồ Tát làm thị giả của mỗi vị Hóa Phật.
Tưởng từng tầng một như vậy, hăy ngẫm
xem! Trong thế gian chúng ta t́m được nơi nào có
quang minh như vậy? Đấy đều là do Quán Thế
Âm Bồ Tát hiển lộ từ tướng bạch hào giữa
hai mày. Ngoài tướng bạch hào ra, c̣n có thân quang (身光, quang
minh phát ra từ thân thể). Nh́n toàn thể sẽ thấy
là bao nhiêu? Những vị Hóa Phật ấy có vô số Hóa Bồ
Tát để làm thị giả của Hóa Phật. Những
vị Hóa Bồ Tát ấy “biến
hiện tự tại, măn thập phương thế giới”
(biến hiện tự tại, đầy khắp mười
phương thế giới). “Biến”
(變) là biến
hóa, “hiện” (現) là hiện
ra các thứ năng lực. Muốn biến hiện ǵ, bèn có
thể biến hiện nấy. “Tự
tại” (自在) là tự do tự tại, muốn biến
như thế nào, đều có thể [biến như thế
ấy]. Lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thể làm được
chuyện này!
Lũ
b́nh phàm chúng ta chẳng thể làm được là v́ hiện
thời chúng ta vẫn chưa đạt đến tŕnh
độ như Quán Thế Âm Bồ Tát; nhưng lũ phàm
nhân chúng ta cũng có tác dụng nho nhỏ, tác dụng nhỏ
nhoi nào vậy? Ví như những kẻ học khoa học trong
thế gian, có thể biến đổi thế giới vật chất, khiến cho các hiện
tượng trong thế giới vật lư và thế giới
vật chất biến động, thay đổi. Các
văn học gia có thể viết những tác phẩm thi
văn hay khéo, những họa sĩ có thể vẽ những
bức tranh đẹp nhất, các nhà âm nhạc có thể
sáng tác những khúc nhạc cảm động tâm linh con
người. Những người ấy cũng chẳng phải
là kẻ b́nh phàm, đấy cũng là từ trong tâm linh của
họ phát khởi [những cảm hứng thăng hoa], cho
nên mới có những sáng tác ấy. Nếu là một kẻ
suốt ngày từ sáng đến tối suy tưởng
danh lợi trong thế gian, những thứ ấy sẽ
khiến trí huệ của kẻ đó bị tắc lấp,
chẳng tỏa sáng mảy may nào! V́ vậy, những nhà phát
minh trong thế gian thường là cao minh hơn những kẻ
b́nh phàm đôi chút. Từ chỗ này, có thể suy ra: Nếu
chúng ta muốn phát huy đại tác dụng, ắt phải
đoạn trừ phiền năo trong thế gian (chuyển biến
phiền năo). Đoạn phiền năo th́ mới có thể chứng
quả. Chứng quả th́ mới có thể đạt đến
tự tại. Các khoa học gia và nghệ thuật gia trong
thế gian so với kẻ b́nh phàm th́ đă đoạn
được một số phiền năo. V́ họ chuyên tâm
nhất trí, cho nên có thể biểu hiện đôi chút. Nhờ
vào thí dụ này để suy tưởng, [sẽ nhận
ra]: Nếu bọn phàm phu chúng ta có thể chuyển biến
phiền năo và tri kiến thành lư tánh; từ lư tánh lưu lộ,
sẽ chứng quả vị giống như Bồ Tát, biến
hiện tự tại, muốn ǵ có nấy, điều ǵ
cũng đều có thể làm được!
Vô
số Hóa Bồ Tát làm thị giả của Hóa Phật, có
thể biến hiện tự tại. “Măn thập phương thế giới” (Đầy
khắp mười phương thế giới). Phạm
vi của mười phương thế giới quá lớn,
thế giới Sa Bà là một tiểu đơn vị trong
mười phương thế giới. Chúng ta học theo
tâm lượng [của Bồ Tát] để dần dần
tưởng như vậy. Khi tưởng, sẽ tự
nhiên biến hiện tự tại, cảm ứng [Bồ
Tát]. Sau khi cảm ứng, trong phần trước đă
nói là “phải thân cận thiện
tri thức, thân cận đại Bồ Tát”. Có thể
thân cận bậc đại Bồ Tát như vậy, trong
thế gian, chúng ta đă có phước, lại có trí huệ.
Đặt ḿnh trong phước huệ, sẽ bất tri bất
giác đạt được sức mạnh và sự thọ
dụng chẳng thể nghĩ bàn. Nghiên cứu bộ kinh
văn này, nếu có thể tưởng như vậy, sẽ
đạt được lợi ích cũng là chẳng thể
nghĩ bàn! Hôm nay, tôi nói đến tướng bạch hào
bèn ngưng; trong phần sau c̣n có những tướng khác nữa,
tôi sẽ tiếp tục tŕnh bày trong lần tới.
Tập 32
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười tám, bắt
đầu từ hàng thứ tư. Tôi đọc trước
một đoạn kinh văn.
(Kinh)
Tư như hồng liên hoa sắc, hữu bát thập ức vi
diệu quang minh, dĩ vi anh lạc. Kỳ anh lạc trung,
phổ hiện nhất thiết chư trang nghiêm sự. Thủ
chưởng tác ngũ bách ức tạp liên hoa sắc. Thủ
thập chỉ đoan, nhất nhất chỉ đoan, hữu
bát vạn tứ thiên họa, do như ấn văn. Nhất
nhất họa, hữu bát vạn tứ thiên sắc. Nhất
nhất sắc, hữu bát vạn tứ thiên quang. Kỳ
quang nhu nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết. Dĩ
thử bảo thủ, tiếp dẫn chúng sanh. Cử túc thời,
túc hạ hữu thiên bức luân tướng, tự nhiên
hóa thành ngũ bách ức quang minh đài. Hạ túc thời,
hữu kim cang ma-ni hoa, bố tán nhất thiết, mạc bất
di măn.
(經)臂如紅蓮華色,有八十億微妙光明,以為瓔珞。其瓔珞中,普現一切諸莊嚴事。手掌作五百億雜蓮華色。手十指端,一一指端,有八萬四千畫,猶如印文。一一畫,有八萬四千色。一一色,有八萬四千光,其光柔軟,普照一切。以此寶手,接引眾生。舉足時,足下有千輻輪相,自然化成五百億光明臺。下足時,有金剛摩尼華,布散一切,莫不彌滿。
(Kinh: Cánh tay
như sắc hoa sen đỏ, có tám mươi ức quang
minh vi diệu để làm anh lạc. Trong các anh lạc ấy,
hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm. Ḷng bàn
tay có màu sắc của năm trăm ức loại hoa sen
khác nhau. Mười đầu ngón tay, mỗi đầu
ngón tay đều có tám vạn bốn ngàn nét vẽ giống
như nét khắc trên quả ấn. Mỗi một nét vẽ
có tám vạn bốn ngàn sắc. Mỗi một sắc có tám
vạn bốn ngàn quang minh. Quang minh ấy mềm mại, chiếu
khắp hết thảy. Ngài dùng tay báu ấy tiếp dẫn
chúng sanh. Khi Ngài giở chân, dưới ḷng bàn chân có tướng
bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài
quang minh. Lúc hạ chân, có hoa kim cang ma-ni rải khắp hết
thảy, không đâu chẳng trọn khắp).
Nay
Thập Lục Quán Kinh dạy về phép Quán thứ mười.
Trước phép Quán này là quán A Di Đà Phật. Sau khi quán A
Di Đà Phật, tiếp đó bèn nói tới [phương
pháp] quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Lần trước, tôi
đă nói: Quán Thế Âm Bồ Tát và chúng sanh trong thế gian này
có duyên phận đặc biệt. V́ thế, khi nói đến
phép Quán này, mọi người sẽ đạt được
lợi ích và phước báo cũng đặc biệt tốt
đẹp.
Phép
Quán này trong lần trước đă nói một nửa. Trong
lần trước, tôi đă nói thân Quán Thế Âm Bồ Tát
cao bao nhiêu, màu sắc nơi thân thể Ngài, nhục kế
trên đỉnh đầu Bồ Tát, quang minh nơi cổ,
quang minh nơi thân, măo đội trên đầu, sắc mặt
và tướng bạch hào giữa hai mày. Hôm nay, bắt
đầu nói tới cánh tay, tức là câu “tư như hồng liên hoa sắc” (cánh tay như sắc
hoa sen đỏ) vừa mới đọc. Trong phần trước
đă nói: Trong tướng bạch hào có quang minh, trong quang
minh có Hóa Phật, Hóa Bồ Tát v.v… Những vị Hóa Phật,
Hóa Bồ Tát ấy lại c̣n biến hiện tự tại,
đầy ắp mười phương thế giới. V́
sao đầy ắp mười phương thế giới?
Ở đây, phải đặc biệt chú ư: Chúng sanh trong mười
phương thế giới, chỉ cần biết đến
Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ đều được Bồ
Tát tiếp dẫn, cứu độ. Nay nói tới tướng
trạng nơi cánh tay của Ngài, cánh tay Bồ Tát có màu
như hoa sen đỏ. Trước hết, nói hai tay Bồ
Tát có màu ǵ? Màu ấy hiện ra giống như màu sắc của
hoa sen đỏ trong hoa sen bốn màu, đặc biệt
đẹp đẽ! Từ màu hoa sen, lại phát ra “hữu bát thập ức vi diệu
quang minh” (có tám mươi ức quang minh vi diệu). Chúng ta biết trong kinh Tiểu Bổn
A Di Đà có nói hoa sen bốn màu, hoa đỏ tỏa ra quang
minh đỏ… [nghĩa là] mỗi loại màu đều có
thể phát ra một thứ quang minh [tương ứng].
Đấy là nói rất sơ lược, c̣n ở đây
là nói cặn kẽ. Cánh tay Bồ Tát như sắc hoa sen
đỏ; từ sắc hoa sen đỏ, tỏa ra tám
mươi ức quang minh vi diệu. Kẻ b́nh phàm thấy
quang minh chỉ là quang minh, nhưng [quang minh] ở đây hết
sức chẳng thể nghĩ bàn. Từ trong màu sắc, tỏa
ra quang minh, lại từ quang minh mà “dĩ vi anh lạc” (dùng làm anh lạc). Tại Ấn
Độ, “anh lạc” (瓔珞) là vật trang sức đeo trên thân của giới
quư tộc Ấn Độ (bất luận là đàn ông hay
đàn bà). Những vật trang sức quư trọng đều
kết bện bằng bảo ngọc, c̣n anh lạc ở
đây là do quang minh ngưng tụ mà thành.
“Kỳ anh lạc trung, phổ hiện
nhất thiết chư trang nghiêm sự” (Trong anh lạc
ấy, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm).
Lại từ trong những món anh lạc ấy, “phổ hiện” (普現) nghĩa
là trong mỗi chuỗi anh lạc đều biến hiện
rất nhiều sự xếp đặt trang nghiêm. Chẳng
hạn như trong đạo tràng, các thứ sắp đặt,
bố trí đẹp đẽ, sẽ được gọi
là “trang nghiêm sự” (莊嚴事). Những sự trang nghiêm ấy
hiện ra từ màu sắc, quang minh và anh lạc nơi tay Quán
Thế Âm Bồ Tát. Tổ sư chú giải: Những thứ
bày biện, thờ phụng trang nghiêm nơi bất cứ
đạo tràng nào trong thế gian cũng đều chẳng
thể sánh bằng sự trang nghiêm này. Trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới mới có những thứ
trang nghiêm hết sức thù thắng, đặc biệt ấy.
Chúng ta có thể nương theo những ǵ kinh văn đă
trần thuật để tưởng tượng y báo
trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc. Các thứ biến
hóa, hết thảy những chuyện thù thắng, đặc
biệt vi diệu có thể biến hiện từ quang minh
nơi cánh tay và các chuỗi anh lạc của Bồ Tát.
Đây là chuyện chẳng thể nghĩ bàn!
“Thủ chưởng tác ngũ
bách ức tạp liên hoa sắc” (Bàn tay có màu sắc của
năm trăm ức hoa sen khác loại). Khi quán tưởng,
sẽ thuận theo cánh tay để quán tưởng bàn tay
của Bồ Tát. Chúng ta thấy bàn tay của chính ḿnh vừa
nhỏ vừa đơn điệu, ngoại trừ các
đường vân và chỉ tay, chẳng có ǵ cả! Thế
mà bàn tay của Quán Thế Âm Bồ Tát có màu sắc của
các loại hoa sen. Do có các loại màu sắc [khác nhau], nên gọi
là “tạp” (雜). Có tới
năm trăm ức màu hoa sen ngần ấy, có thể suy ra
sự trang nghiêm ấy đạt tới mức độ
nào! “Thủ thập chỉ
đoan”: Từ bàn tay xem tiếp xuống nữa, có
mười ngón tay. Chót cùng của ngón tay là “chỉ đoan” (指端, đầu ngón tay).
Có mười đầu ngón tay. “Nhất
nhất chỉ đoan, hữu bát vạn tứ thiên họa”:
Mỗi đầu ngón tay có tới tám vạn bốn ngàn nét
vẽ (đường vân), những nét vẽ ấy biểu
thị cảnh sắc đẹp nhất. Những nét vẽ
ấy có h́nh dạng như thế nào? Nêu tỷ dụ, “do như ấn văn” (giống
như nét khắc trên quả ấn). Trong kinh Phật, chữ
Ấn (印) bao hàm rất
nhiều ư nghĩa. Chữ Ấn ở đây là “ấn chương” (印章, con dấu,
ấn tín). Chúng ta sử dụng con dấu, h́nh dạng đại
đa số là h́nh vuông, cũng có khi là h́nh tṛn, hoặc h́nh
dạng khác. Tại Ấn Độ, quả ấn vào thời
đại Thích Ca Mâu Ni Phật có h́nh dạng ǵ? Trong kinh
văn, cũng như trong chú giải của tổ sư
cũng chẳng nói rơ rệt. Giải thích đại lược,
quả ấn ấy chẳng phải là thuần túy khắc
chữ như những quả ấn của chúng ta trong hiện
thời[4].
Trên quả ấn của Trung Hoa, có [những chữ khắc]
theo lối Triện, Khải Thư, Lệ Thư, nói chung
đều là khắc chữ. Vào thuở đó, tại Ấn
Độ, ngoài khắc chữ ra, c̣n có những h́nh ảnh.
Chẳng hạn như khắc con nai, tức h́nh ảnh con
nai, giống như một bức vẽ, đương
nhiên là biểu thị một thứ đẹp đẽ.
Ấn chương có ư nghĩa thực dụng. Ngoài chuyện
thực dụng ra, tỷ dụ những h́nh ảnh động
vật và nét chữ [trên mặt quả ấn] như những
nét vẽ. Tám vạn bốn ngàn nét vẽ giống như “ấn văn” (印文, các nét
khắc trên quả ấn). “Văn”
không chỉ là văn tự, mà c̣n biểu thị những
động vật và các h́nh tượng được khắc.
“Nhất nhất họa, hữu
bát vạn tứ thiên sắc” (Mỗi nét vẽ có tám vạn
bốn ngàn màu): Từ mỗi nét vẽ, tỏa ra màu sắc
nhiều ngần ấy. “Nhất
nhất sắc, hữu bát vạn tứ thiên quang”: Từ
mỗi loại màu, lại tỏa ra tám vạn bốn ngàn “quang huy” (光輝),
nghĩa là quang minh do các màu sắc phát ra. Có thể thấy
là những màu sắc ấy cũng chẳng phải là màu sắc
b́nh phàm. Chúng ta thấy các màu sắc trên thế gian này, chưa
chắc là chúng có thể phát ra quang minh. Đương nhiên
là cũng có những thứ có thể phát quang, nhưng chẳng
hoàn toàn. Thế mà ở đây, bất cứ màu sắc nào
cũng đều có thể tỏa ra tám vạn bốn ngàn
quang minh!
Những
quang minh phát ra, “kỳ quang nhu
nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết” (quang minh ấy
mềm mại, chiếu khắp hết thảy). Quang minh
trong thế gian, khi có độ sáng rất yếu, sẽ
chẳng thấy rơ. Nếu tia sáng rất mạnh th́ lại
nhức mắt. Ví như trong quá khứ, lúc chưa có
đèn điện, chỉ dùng đèn hơi đốt (đèn
thắp bằng gas), tuy sáng, nhưng đọc sách dưới
ánh đèn một lúc lâu, mắt sẽ bị mỏi xốn.
Hiện thời, ánh nắng mặt trời hoặc ánh đèn
quá mạnh, cũng chẳng tốt cho mắt chúng ta. Thế
nhưng, quang minh của Bồ Tát vừa nhu ḥa, lại vừa
dễ chịu, chẳng gây tổn thương cho mắt.
Ánh sáng nhu nhuyễn dường ấy có thể chiếu khắp
hết thảy, bất cứ nơi đâu cũng đều
có thể chiếu thấu, không chỗ nào chẳng chiếu.
V́ thế, nói là “phổ chiếu
nhất thiết” (chiếu khắp hết thảy).
Nói
đến đây, chúng ta hăy thuận theo kinh văn để
quán tưởng. Đó gọi là “tùy
văn nhập quán”, [tức là] thuận theo những sự
thật đă nói trong kinh văn để quán tưởng.
Kinh văn nói: Từ cánh tay của Bồ Tát có thể phát
ra quang minh vi diệu nhiều ngần ấy. Trong quang minh
có anh lạc. Anh lạc cũng có thể biến hóa ra đủ
mọi sự trang nghiêm. Bàn tay có màu sắc nhiều ngần
ấy, mà đầu ngón tay lại phát xuất các thứ
h́nh vẽ. Những h́nh vẽ ấy vừa có màu sắc, vừa
có quang minh, có thể chiếu trọn khắp hết thảy.
Thông thường, chúng ta biết Quán Thế Âm Bồ Tát ngàn
mắt, ngàn tay. Nếu coi tay của Bồ Tát b́nh phàm giống
như tay của chúng ta, [vậy th́] một ngàn cánh tay
cũng chẳng thể phát xuất sức mạnh to lớn
được. Từ kinh văn ở chỗ này, chúng ta biết:
Nơi tay Quán Thế Âm Bồ Tát, từ cánh tay cho đến
đầu ngón tay đều có thể hiện ra quang sắc.
Có thể suy tưởng để thấy một cánh tay của
Quán Thế Âm Bồ Tát phát ra oai lực to lớn ngần
nào! Ví như khi đại địa chấn động, Quán
Thế Âm Bồ Tát chẳng cần tiếp xúc, chỉ cần
dùng ngón tay khẽ chỉ đại địa, sẽ có thể
khiến cho đại địa an ổn, có thể thấy
sức lực ấy quá to lớn! Chỉ tưởng
tượng tay của Bồ Tát, có thể biết công
đức và oai lực của Ngài to tát đến nỗi
chúng ta chẳng thể tưởng tượng được!
Tuy chẳng thể tưởng tượng, sau khi quư vị
đă biết, đạt được lợi ích cũng
là chẳng thể tưởng tượng. V́ sao? Hăy xem phần
kinh văn tiếp theo.
“Dĩ thử bảo thủ, tiếp
dẫn chúng sanh” (Dùng tay báu ấy, tiếp dẫn chúng
sanh). Tay Quán Thế Âm Bồ Tát là tay báu, có ai trong thế
gian có thể sánh bằng? Quán Thế Âm Bồ Tát dùng tay báu ấy
giúp A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong thế
gian. Sau khi đă biết điều này, chúng ta bèn có tín tâm.
Có rất nhiều người niệm Phật hỏi: “Khi
lâm chung, chúng ta sẽ đến thế giới Cực Lạc
bằng cách nào?” Kinh văn cũng thường dạy: Khi lâm
chung, A Di Đà Phật dẫn Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, và c̣n có rất nhiều vị Bồ
Tát đến tiếp dẫn. Chẳng nghiên cứu kinh
văn, sẽ không biết tiếp dẫn
bằng cách nào? Chỉ dựa vào cánh tay và ngón tay của Quán
Thế Âm Bồ Tát mà đă có sức mạnh to tát ngần ấy,
quang minh vô lượng vô biên chiếu trọn khắp hết
thảy, chúng ta mong cầu văng sanh sẽ là chuyện dễ
dàng thực hiện! Nhưng trong lúc thường ngày,
tâm chúng ta ắt cần phải có sự nhận thức
như vậy, tới khi đó, tâm lư mới có thể an
nhiên, mới có thể có tín tâm, mới có thể cảm ứng
cùng Phật, Bồ Tát.
“Cử túc thời, túc hạ hữu
thiên bức luân tướng” (Khi giở chân, dưới
ḷng bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm). Bồ Tát ngoại
trừ có tay thù thắng dường ấy; khi đi, nhấc
chân lên, dưới ḷng bàn chân có tướng bánh xe ngàn
căm. “Bức luân”: “Luân” (輪) là bánh xe, phía ngoài tṛn xoe, chính giữa có trục.
Khoảng giữa từ phía ngoài cho đến trục, có từng
cây căm tơe ra. Những cây căm ấy gọi là “bức” (輻), nối liền trục
với vành ngoài. “Ngàn căm”
biểu thị số lượng nhiều. Dưới
chân Bồ Tát có tướng bánh xe ngàn căm, bậc đă thành
Phật có tướng bánh xe ngàn căm. Bất cứ vị
Phật nào cũng đều có ba mươi hai tướng,
tướng bánh xe ngàn căm là một trong ba mươi hai
tướng. Quán Thế Âm Đại Bồ Tát cũng có ba
mươi hai tướng! Tướng bánh xe ngàn căm ấy
“tự nhiên hóa thành ngũ bách ức
quang minh đài”, [nghĩa là] từ luân tướng ấy,
tự nhiên biến hóa thành đài quang minh, có bao nhiêu đài?
Tổng cộng có năm trăm ức đài quang minh. Hăy
ngẫm xem! Dưới mỗi bàn chân của Bồ Tát có
tướng bánh xe ngàn căm, có thể hóa thành năm
trăm ức đài quang minh.
Lại
nói đến “hạ túc thời”
(lúc đặt chân xuống). Trong phần trên là nói đến
chuyện giở chân. Bồ Tát chẳng giở chân lên, chẳng
thấy tướng bánh xe ngàn căm. Hễ Ngài giở chân
lên, tướng bánh xe ngàn căm hiện ra, và cũng hiện
ra đài quang minh. “Hạ túc”
(下足) là đặt
chân xuống. Khi Ngài đặt chân xuống, “hữu kim cang ma-ni hoa”, kim cang
là bất hoại, ma-ni là báu Như Ư tốt nhất. Dùng chất
báu ấy để h́nh dung hoa; kim cang ma-ni hoa, trong thế
gian chẳng t́m được thứ này. Hoa ấy “bố tán nhất thiết” (rải
khắp hết thảy), “bố”
(布, vải)
là từng sợi dọc, từng sợi ngang (ngang dọc)
dệt thành, [cho nên “bố”]
có ư nghĩa “phổ biến”.
“Tán” (散) là rải khắp nơi.
Chúng ta nói Bố Thí, cũng là lấy ư nghĩa giống như
sợi dọc và sợi ngang, tức là [ư nghĩa] “phổ biến”. Hoa kim cang ma-ni
được rải trọn khắp hết thảy. “Mạc bất di măn” (Không
đâu chẳng trọn khắp): Chẳng có chỗ nào không
trọn khắp. “Di” (彌) có
nghĩa là “hết sức phổ biến”, rắc rải
trọn khắp hết thảy các loại hoa kim cang ma-ni.
Hăy ngẫm xem! Bồ Tát đặt chân xuống bèn có hoa tán
rải nhiều ngần ấy!
Phép
Quán này từ [quán tưởng] toàn thân Bồ Tát cho đến
đây coi như là một đoạn lớn. Sau khi các vị
đă xem xong, hăy dựa theo thứ tự từ chiều
cao của thân thể, thân quang, đỉnh đầu, cho tới
dưới chân Quán Thế Âm Bồ Tát để quán tưởng.
Chắc là trong tâm lư của bọn phàm phu chúng ta sẽ hỏi:
Trong kinh nói Bồ Tát có quang minh nhiều ngần ấy, thân
thể cao lớn dường ấy, cớ sao chúng ta đều
chẳng trông thấy? Muốn thấy, ắt cần phải
chuyển biến phàm t́nh tục kiến của phàm phu. Cái
tâm phàm phu của chúng ta bị thời gian và không gian chướng
ngại, [cho nên trở thành] vặt vănh, nhỏ nhen!
Mắt
chúng ta chỉ có thể thấy địa cầu to ngần
ấy, bèn ngỡ là địa cầu to lớn khôn cùng! Thật
ra, [đem] quả địa cầu này đến chỗ Bồ
Tát, ngay cả một vi trần c̣n chưa bằng! Nay chúng
ta đối với chuyện ǵ cũng đều cảm
thấy ghê gớm lắm, chẳng thể giải quyết
được! Chính là v́ tâm tư của chúng ta đặt
trong những chuyện nhỏ nhặt, chẳng đáng nhắc
tới trong thế gian, khiến cho tâm lư bị chướng
ngại, chẳng thể tiếp xúc những sự trang
nghiêm của Bồ Tát. V́ vậy, muốn thân cận công
đức trang nghiêm của Bồ Tát, chúng ta phải mở
rộng tâm tư, đừng nên so đo những chuyện
thế tục trong thế gian. Hễ chúng ta so đo chuyện
trong thế gian, phải nhắc nhở chính ḿnh: So đo sẽ
gây trở ngại cho chính ḿnh, tổn hại công sức tu
tŕ của chính ḿnh! Khi cảnh tỉnh chính ḿnh như vậy,
tâm lượng sẽ tự nhiên mở rộng, chẳng
có bất cứ chuyện ǵ trong thế gian đáng cho chúng
ta phân tâm, đáng cho chúng ta vương vấn! Suy nghĩ
như vậy, chỗ nào cũng đều có thể luôn
luôn cảm ứng, tiếp xúc công đức trang nghiêm của
Bồ Tát. Chúng ta biết: Trong phẩm Quán Thế Âm Bồ
Tát Phổ Môn đă có nói, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ
cứu nạn, chúng ta ở trong quang minh của Ngài, tự
nhiên hết thảy b́nh an vô sự. Chúng ta phải nên liễu
giải điều tốt đẹp này!
(Kinh)
Kỳ dư thân tướng, chúng hảo cụ túc, như
Phật vô dị.
(經)其餘身相,眾好具足,如佛無異。
(Kinh: Những thân tướng,
các thứ hảo khác đều trọn đủ, như
Phật chẳng khác).
“Kỳ dư thân tướng,
chúng hảo cụ túc” (Những thân tướng, các thứ
hảo khác đều trọn đủ). Sau khi đă nói
xong thân tướng như trên, những điều khác chẳng
đề cập, tức là những [điều thù thắng
khác] nơi thân tướng và các thứ hảo của Quán
Thế Âm Bồ Tát. Nói thông thường, đức Phật
có ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tùy
h́nh hảo. “Hảo” chính là
dựa trên tướng để lại phát triển thành
những thứ h́nh tướng tốt đẹp. “Chúng hảo cụ túc” nghĩa
là các thứ tùy h́nh hảo đều trọn đủ,
hoàn toàn đầy đủ. “Như
Phật vô dị”: Chẳng khác A Di Đà Phật. Đă
hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, [thế nhưng]
lại c̣n có chỗ bất đồng nào vậy? Dưới
đây, [chánh kinh] bèn nói đến chỗ ngoại lệ.
(Kinh)
Duy đảnh thượng nhục kế, cập vô kiến
đảnh tướng, bất cập Thế Tôn.
(經)唯頂上肉髻,及無見頂相,不及世尊。
(Kinh: Chỉ
trừ nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh
chẳng bằng đức Thế Tôn).
“Duy đảnh thượng nhục
kế, cập Vô Kiến Đảnh tướng”: Chỉ
có nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh trên
đỉnh đầu Bồ Tát [là chẳng bằng Phật].
Nhục kế là một trong ba mươi hai tướng ở
trên đỉnh đầu đức Phật. Trên đỉnh
đầu Quán Thế Âm Bồ Tát cũng giống như vậy,
có một khối thịt vun lên, tṛn trịa, đỏ
tươi, gọi là “nhục
kế” (肉髻). V́ sao gọi
là nhục kế? Kế (髻) là tóc được bới cao lên [thành
búi], thường gọi là “phát
kế” (髮髻, búi tóc),
nhưng ở đây là “nhục
kế”, có h́nh trạng vun cao lên, giống như búi tóc. Nhục
kế là một trong ba mươi hai tướng. Lại từ
nhục kế nh́n lên, người b́nh phàm muốn trông thấy
nhục kế của đức Phật hoặc nhục kế
của Bồ Tát, càng nh́n ngược lên trên, muốn trông
thấy đỉnh, có thấy hay chăng? Chẳng nh́n thấy,
quá cao! Do chẳng thấy đỉnh, nên gọi là Vô Kiến
Đảnh Tướng (無見頂相). Tướng
Vô Kiến Đảnh chính là một thứ tùy h́nh hảo
phát xuất từ nhục kế. Từ tướng Vô Kiến
Đảnh hiện ra một thứ hảo, cho nên tướng
Vô Kiến Đảnh cũng là một thứ hảo. “Bất cập Thế Tôn”: Chỉ
có hai thứ là nhục kế và tướng Vô Kiến
Đảnh chẳng sánh bằng đức Thế Tôn, c̣n
thua kém đức Phật đôi chút.
(Kinh)
Thị vi quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thật sắc thân
tướng, danh đệ thập Quán.
(經)是為觀觀世音菩薩真實色身相,名第十觀。
(Kinh: Đó
là quán tưởng tướng sắc thân chân thật của
Quán Thế Âm Bồ Tát, gọi là phép Quán thứ mười).
Quán
rơ ràng những điều đă nói trong kinh văn, và
cũng phân biệt: Chỉ có nhục kế và tướng
Vô Kiến Đảnh trên đỉnh đầu là chẳng
sánh bằng đức Phật. Những tướng khác
đều y hệt. “Thị vi
quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thật sắc thân tướng”:
Phép Quán này là quán Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng chẳng phải
là quán những tướng thông thường nơi Bồ
Tát mà thôi, mà là quán tướng sắc thân chân thật của
Ngài. Thật sự trông thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, “danh đệ thập Quán”:
Chính là phép quán thứ mười trong Thập Lục Quán
Kinh. Từ “kỳ dư thân
tướng” cho tới “danh
đệ thập Quán” là một đoạn lớn.
Đoạn
dưới đây cho biết: Tu tập phép Quán này, sẽ
có thể đạt được lợi ích như thế
nào?
(Kinh)
Phật cáo A
(經)佛告阿難:若欲觀觀世音菩薩者,當作是觀。作是觀者,不遇諸禍,淨除業障,除無數劫生死之罪。
(Kinh: Đức
Phật bảo ngài A
“Phật cáo A
Ở
đây, kinh văn nói rất tóm tắt, đơn giản,
chúng ta thêm vào đôi chút sự tưởng tượng của
chính ḿnh, hăy nh́n vào thế gian trong hiện thời. Mọi
người đừng nghĩ “chúng ta sống tốt
đẹp lắm, hết thảy đều rất b́nh
an!” Thật ra, quán sát kỹ càng sự thật, [sẽ nhận
thấy] chớ nên có cách nghĩ như vậy! Mọi
người đều biết: Theo tin tức đăng tải
trên báo chí hằng ngày, luôn có chẳng ít người bị
chết ngang xương! C̣n nhớ khi lăo ân sư c̣n tại
thế, lúc giảng kinh, Ngài đă từng bảo: “Tôi chẳng cần phải xem
báo chí mà biết chuyện ngày mai. Ngày mai sẽ chẳng thiếu
chuyện sát nhân, cướp đoạt, cũng như có
đủ thứ tai nạn”. Lăo nhân gia nói quả thật
chẳng sai! Chúng ta chỉ cần mỗi ngày xem TV, đọc
báo chí, thật sự là mỗi ngày trên báo chí trong xă hội
đều có [đăng tải] những chuyện ấy.
Hễ chúng ta nghĩ đến những chuyện đó, [sẽ
nhận ra] hiện thời tai nạn c̣n nhiều hơn lúc
thầy giảng kinh trong quá khứ. Đi du lịch ngoại
quốc, du lịch ṿng quanh thế giới, đó là chuyện
vui thú! Tai nạn máy bay trên không trung, tai nạn xe lửa
nơi đất liền, tàu bè trên biển nẩy sanh
đại tai nạn v.v… Những chuyện này chẳng dính
dáng đến chúng ta ư?
Trừ
những chuyện ấy ra, lại nói tới nghiệp
chướng. Nghiệp chướng là cộng nghiệp, tức
là chẳng đi chơi bên ngoài, nhưng v́ có bệnh mà phải
đi khám bác sĩ. Đi bác sĩ th́ phải tiêm thuốc,
hoặc mổ xẻ, mất máu. Trên thế giới hiện
thời đang lan truyền căn bệnh AIDS. Bệnh AIDS
vốn là chuyện tội ác, là một thứ virus gây bệnh
xuất phát từ tà dâm. Nhưng hiện thời, ngay cả
kẻ chẳng phạm tội tà dâm, do gặp phải kim
chích không được xử lư cẩn thận, hoặc
qua đường truyền nhiễm có liên quan đến
huyết dịch, cũng sẽ bị lây nhiễm loại virus
gây bệnh ấy. Tội nghiệp ấy được gọi
là “cộng nghiệp”. Quư vị
hăy ngẫm xem, cộng nghiệp của người thế
gian trong hiện thời, khắp nơi đều là
[như vậy]. Chúng ta sanh tồn trong hoàn cảnh này, bất
cứ lúc nào cũng đều bị tội nghiệp uy hiếp. Chịu đựng nỗi
khổ ấy chỉ là một chuyện trong [vô số tội
nghiệp] ấy. Nếu nói tới sự ô nhiễm
nơi không khí và nước, cho đến ăn nhằm những
thứ ngũ cốc bị nhiễm thuốc sát trùng, hằng
ngày tích lũy những thứ tàn dư độc hại
trong thân thể của chính ḿnh, tới khi nào sẽ mắc
bệnh? Chúng ta có biết hay không? Những điều ấy
đều là tai họa và nghiệp chướng.
Nếu
chúng ta thường quán Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ
được từ quang của Quán Thế Âm Bồ Tát gia
bị, sẽ chẳng gặp phải các tai nạn, mà nghiệp
chướng ấy cũng chẳng dính đến chúng ta. V́
sao quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ có công
đức to lớn như vậy? Nói tới Quán, ắt phải
nhập đại định rất sâu, từ trong Định
mới trông thấy. Bọn phàm phu chúng ta tâm ư hời hợt,
thô tháp, chẳng thấy các tướng hảo của Quán
Thế Âm Bồ Tát. Nếu có thể thấy tướng hảo
thù thắng của Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ có thể
thấy bản tánh của chính ḿnh hiển lộ. Do vậy,
có thể trừ tai nạn, nguyên lư ở chỗ này!
(Kinh)
Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh, hoạch
vô lượng phước, hà huống đế quán.
(經)如此菩薩,但聞其名,獲無量福,何況諦觀。
(Kinh: Bậc
Bồ Tát như vậy, chỉ nghe danh hiệu Ngài, sẽ
đạt được vô lượng phước, huống
hồ là quán chắc thật).
“Như thử Bồ Tát, đản
văn kỳ danh, hoạch vô lượng phước”: Đối
với bậc Bồ Tát như vậy, chúng ta chỉ cần
nghe danh hiệu của Ngài, sẽ có thể đạt
được vô lượng phước. Người Hoa
thật sự có phước, mọi người đều
nghe danh hiệu Quán Thế Âm (Avalokiteśvara). “Hà huống đế quán” (Huống
hồ quán chắc thật): Nói “đế
quán” (諦觀) nghĩa là dựa theo những điều
kinh văn đă giảng, đối với mỗi một
tướng, mỗi thứ hảo, những chuyện biến
hóa từ quang minh, đều thấy rơ ràng, rành rẽ, th́
gọi là “đế quán”. Chỉ
nghe danh hiệu của Ngài mà có thể đạt được
vô lượng phước, huống hồ “đế quán”? Nói cách khác, nếu có thể đế
quán, sẽ đạt được phước càng nhiều!
(Kinh) Nhược
hữu dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả, tiên quán
đảnh thượng nhục kế, thứ quán thiên
quan, kỳ dư chúng tướng, diệc thứ đệ
quán chi, tất linh minh liễu, như quán chưởng
trung. Tác thị quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha
quán giả, danh vi Tà Quán.
(經)若有欲觀觀世音菩薩者,先觀頂上肉髻,次觀天冠。其餘眾相,亦次第觀之。悉令明了,如觀掌中。作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。
(Kinh: Nếu
có những người muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát,
trước hết, hăy quán nhục kế trên đỉnh
đầu, kế đó, quán măo trời. Đối với
những tướng khác, cũng nên theo thứ tự mà
quán, sao cho đều rành rẽ, như nh́n vào bàn tay. Tác quán
như vậy th́ là Chánh Quán. Nếu quán khác đi, sẽ là
Tà Quán).
Đoạn
này nêu lên cương lănh trọng yếu trong phép Quán. “Nhược hữu dục quán Quán
Thế Âm Bồ Tát giả”, [nghĩa là] nếu có người
muốn dùng phương pháp quán tưởng để quán Quán
Thế Âm Bồ Tát. “Tiên quán
đảnh thượng nhục kế, thứ quán thiên
quan”: Trước hết là quán nhục kế trên đỉnh
đầu Quán Thế Âm Bồ Tát; sau đó, quán măo của Bồ
Tát (gọi là “thiên quan”). “Kỳ dư chúng tướng, diệc
thứ đệ quán chi”: Sau khi đă hành hai loại quán
ấy, đối với các tướng khác, cũng dựa
theo thứ tự đă nói trong kinh văn để quán theo
từng tầng một. “Tất
linh minh liễu, như quán chưởng trung” (Thảy
đều rành rẽ, như nh́n vào bàn tay), đều có thể
thấy rơ ràng. “Liễu” (了) là sáng tỏ mười
phần triệt để. “Như
quán chưởng trung”: Đối với các thứ
tướng hảo của Quán Thế Âm Bồ Tát, đều
có thể thấy rơ như nh́n vào bàn tay của chính ḿnh. Phải
liễu giải thứ tự được nói ở đây;
tức là như trong phần trên, kinh văn đă nói: Nhục
kế trên đỉnh đầu, măo, cổ, cánh tay, bàn tay,
đầu ngón tay, cho đến tướng bánh xe ngàn căm dưới bàn chân, theo thứ tự
từ trên cao xuống thấp. Đối với mỗi thứ,
đều thấy rơ ràng, rành rẽ; trong tâm sáng tỏ. “Tác thị quán giả”: Dựa
theo thứ tự ấy để quán, “danh vi Chánh Quán”.
Đấy là quán rất chánh xác. “Nhược
tha quán giả, danh vi Tà Quán”: Nếu chẳng tuân theo cách
Quán ấy, quán theo cách khác, sẽ là chẳng chánh xác, gọi
là Tà Quán.
Tại
đạo tràng Đài Trung, chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ.
Tuy trong các phương pháp Niệm Phật cũng có Quán
Tưởng Niệm Phật, nhưng chúng ta học Tŕ Danh
Niệm Phật với thầy, nay học tập quán
tưởng, có thể chẳng cần dụng công như vậy,
nhưng do hiểu biết ư nghĩa quán tưởng, sẽ
đạt được lợi ích hết sức quan trọng.
Trong tâm chúng ta, chỉ cần tưởng các thứ công
đức trang nghiêm của Quán Thế Âm Bồ Tát. Do Ngài
đến giúp A Di Đà Phật hóa độ chúng sanh, bất
cứ lúc nào [chúng ta] cũng ở trong vầng đại
quang minh của Bồ Tát, nội tâm chẳng có thời khắc
nào không yên ổn. Đó là sự bảo đảm về mặt
tâm lư. Kế đó, căn cứ theo lời dạy trong kinh
văn: Chỉ cần chúng ta nghe danh hiệu của Bồ
Tát, chẳng quán tưởng, đă đạt được
vô lượng phước. Đấy là sự thật, lời
đức Phật dạy chẳng hề hư giả tí
nào, [lời đức Phật dạy] là như thật ngữ.
Chắc là cũng có kẻ hỏi: “Vô lượng phước
ở chỗ nào?” Chẳng cần hỏi phước ở
chỗ nào, lũ chúng ta thường là đang hưởng
phước mà chẳng biết! Chúng ta c̣n đang đi học
th́ cứ đi học, đă đi làm th́ cứ đi làm,
buổi tối có thể đến đây nghe kinh này. Nghe
kinh xong có thể xem kinh, tự ḿnh nghiên cứu, đó chẳng
phải là phước báo th́ là ǵ vậy? Chúng ta thấy những
kẻ chẳng học Phật, chẳng có tiền, bèn
đau khổ, hễ có tiền bèn tạo nghiệp. Tạo
nghiệp ǵ vậy? Các vị xem tin tức, [sẽ biết]
hiện thời có một loại giải trí là “xiên cá”, tức là trong ao thả
rất nhiều cá, người xiên cá dùng móc sắt xỉa
tới, xỉa lui trong ao cá. Chẳng bắt được
cá, mà toàn thân con cá bị xiên chảy máu đầm đ́a.
Đối đăi tàn khốc với loài động vật
sống dưới nước dường ấy, đúng
là thê thảm, vô nhân đạo! Đă tạo tội nghiệp
ấy, trong tương lai, [quả báo] sẽ kinh khủng cỡ
nào? Do vậy, chúng sanh trong hiện thời, kẻ bần
cùng đương nhiên là đau khổ, kẻ có tiền càng
tạo tội nghiệp lớn hơn nữa, có phước
ǵ để có thể hưởng? Chúng ta có thể ở
nơi đây học pháp xuất thế này, học kinh
văn này, bất cứ phước nào trong thế gian
cũng đều chẳng thể sánh bằng phước
của chúng ta. Huống hồ, đối với hết thảy
thiên tai, nhân họa, xác thực là chúng ta sẽ chẳng gặp
phải. Đấy mới là phước báo lớn nhất.
Hôm nay, chúng tôi nói đến chỗ này bèn ngưng.
Tập 33
Thưa
các giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười chín, bắt
đầu từ hàng thứ sáu. Tôi đọc trước
một đoạn kinh văn.
(Kinh) Thứ quán Đại
Thế Chí Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân lượng đại
tiểu, diệc như Quán Thế Âm. Viên quang diện các
bách nhị thập ngũ do-tuần, chiếu nhị bách
ngũ thập do-tuần. Cử thân quang minh, chiếu thập
phương quốc, tác tử kim sắc. Hữu duyên chúng
sanh, giai tất đắc kiến.
(經)次觀大勢至菩薩。此菩薩身量大小,亦如觀世音。圓光面各百二十五由旬,照二百五十由旬。舉身光明,照十方國,作紫金色。有緣眾生,皆悉得見。
(Kinh: Kế
đó, quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Vị Bồ Tát này
thân lượng lớn nhỏ cũng
giống như Quán Thế Âm. Viên quang mỗi phía đều
là một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu
xa hai trăm năm mươi do-tuần. Quang minh nơi
toàn thân chiếu mười phương cơi nước
thành màu tử kim. Hữu duyên chúng sanh thảy đều
trông thấy).
IV.2.2.12 Phép Quán thứ mười
một, Thế Chí Quán
Đây là
phép Quán thứ mười một trong Thập Lục Quán
Kinh. Phép quán tưởng trong phần trước là quán
tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát. Học Tịnh Độ
Tông, thờ tượng Phật là tượng Tây
Phương Tam Thánh: Chính ǵữa là A Di Đà Phật; hai
bên, một bên là Quán Thế Âm Bồ Tát, bên kia là Đại
Thế Chí Bồ Tát. Phép Quán được nghiên cứu
trong ngày hôm nay là quán Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ vậy,
kinh văn vừa mở đầu bèn nói: “Thứ quán Đại Thế Chí Bồ Tát”, “thứ” (次) là phần
tiếp theo sau của phép quán Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần
trước. Sau khi đă xem phần kinh văn [giảng về]
Quán Thế Âm Bồ Tát, sau khi đă vận dụng công phu ấy,
kế tiếp là sẽ quán tưởng Đại Thế
Chí Bồ Tát. Quán tưởng Đại Thế Chí Bồ
Tát giống như quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát
trong phần trước. Trước hết là quán thân lượng
của Bồ Tát. Do vậy, kế đó bèn nói: “Thử Bồ Tát thân lượng
đại tiểu, diệc như Quán Thế Âm”, [nghĩa
là xét tới] chiều cao nơi thân Đại Thế Chí Bồ
Tát và các phương diện khác, thân lượng Ngài lớn
nhỏ giống hệt như Quán Thế Âm Bồ Tát.
Có chỗ
nào khác biệt hay không? Có chỗ hơi khác. Tiếp đó,
kinh văn bèn nói: “Viên quang” (圓光) là quang
minh phát ra từ cổ. “Diện
các bách nhị thập ngũ do-tuần, chiếu nhị
bách ngũ thập do-tuần”: Đấy là chỗ khác với
Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần trước. Viên quang của
Quán Thế Âm Bồ Tát là “diện
các bách thiên do-tuần”, [tức là] mỗi phía đều
chiếu đến trăm ngàn do-tuần, c̣n viên quang của
Đại Thế Chí Bồ Tát, nói theo bốn phía, mỗi
phía bèn rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần.
Đó là chỗ chẳng giống Quán Thế Âm Bồ Tát. Quang
minh to ngần ấy, chiếu bao xa? “Chiếu nhị bách ngũ thập do-tuần”: Có
năng lực chiếu xa gấp bội. Quang minh của
Ngài rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu
ra xa, bèn xa gấp đôi, tức là hai trăm năm
mươi do-tuần. Nói gộp hai điều ấy lại,
sẽ có chỗ hơi khác viên quang của Quán Thế Âm Bồ
Tát. “Cử thân quang minh, chiếu
thập phương quốc, tác tử kim sắc” (Quang
minh nơi toàn thân chiếu mười phương cơi nước
thành màu tử kim). “Cử thân”
(舉身) là toàn
thân. Quang minh nơi toàn thân có thể chiếu đến các
quốc độ trong mười phương thế giới,
“chiếu thập phương
quốc”. “Tác tử kim sắc”:
Chiếu thấu mười phương quốc độ,
[khiến các cơi ấy] đều trở thành màu tử kim.
Quang minh ấy hễ chiếu đến một cơi Phật
nào, cơi Phật ấy đều biến thành màu tử kim, cho
nên bảo là “tác tử kim sắc”.
Ở
đây, chúng ta phải nên nghiên cứu đôi chút. Vị Đại
Thế Chí Bồ Tát này và Quán Thế Âm Bồ Tát có địa
vị bằng nhau, v́ sao viên quang của Quán Thế Âm Bồ
Tát là trăm ngàn do-tuần, mà viên quang của Đại Thế
Chí Bồ Tát mỗi phía là một trăm hai mươi lăm
do-tuần, lớn nhỏ khác nhau? Các vị tổ sư thời
cổ chú giải: Đấy là h́nh tướng thị hiện
để hóa độ chúng sanh của Bồ Tát (quang minh
cũng là h́nh tượng) chẳng hoàn toàn giống nhau. V́
sao Ngài hiện ra h́nh tượng nhỏ hơn đôi chút?
Ngài hóa độ chúng sanh có chỗ khác biệt, chẳng thể
hoàn toàn nhất trí. Chẳng thể v́ chuyện này mà nói: Do viên
quang khác nhau, địa vị của hai vị Bồ Tát chẳng
b́nh đẳng. Chẳng phải vậy! Mỗi vị có
phương hướng hóa độ chúng sanh [riêng biệt],
cho nên biểu lộ thành hiện tượng khác biệt,
nhưng địa vị chẳng hề khác biệt!
Quang
minh nơi toàn thân Đại Thế Chí Bồ Tát chiếu
khắp các cơi nước trong mười phương. Thế
giới Sa Bà cũng thuộc trong phạm vi chiếu soi bởi
quang minh của Đại Thế Chí Bồ Tát, chúng ta có thấy
tử kim sắc hay không? “Hữu
duyên chúng sanh, giai tất đắc kiến”: Phàm là chúng
sanh có duyên với vị Bồ Tát này, đều có thể
trông thấy. Tổ sư chú giải: Nói tới “hữu duyên” th́ ai là hữu
duyên? Ai chẳng có duyên? Ai nấy đều hữu duyên! Đại
Thế Chí Bồ Tát tu hành trong một thời gian dài cho
đến hiện tại, đều đă kết duyên với
bọn chúng sanh chúng ta. Chúng ta đều đă từng nghe
danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát, hoặc thấy
tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, thậm chí là
trông thấy thân ứng hóa của Đại Thế Chí Bồ
Tát. Đấy đều là “hữu
duyên”. “Duyên” là nói đối
với chúng sanh: Chúng ta có một phần duyên, chứng tỏ
chúng ta có thiện căn. V́ vậy, chúng ta đều có
duyên cùng vị Bồ Tát này. Chúng sanh đều có thiện
căn, bất quá duyên có sâu hay cạn sai khác, chỉ phân biệt
là thiện căn chín muồi hay chưa mà thôi! Nói theo thời
đại này, chẳng thể nói: “Người học Phật,
người học Tịnh Độ Tông sẽ có duyên với
Đại Thế Chí Bồ Tát. Kẻ chẳng học Phật,
chẳng học Tịnh Độ Tông, bèn chẳng có duyên với
Đại Thế Chí Bồ Tát”. Chúng ta chẳng biết rơ!
Nếu nh́n sự thật với tầm nh́n xa, sẽ [thấy
ai nấy] đều là có duyên, bất quá thiện căn của
họ đă chín muồi hay chưa? Kẻ chẳng học Phật
chính là thiện căn c̣n chưa chín muồi. So với họ,
coi như là thiện căn của chúng
ta đă chín muồi, [cho nên] có thể thấy Đại Thế
Chí Bồ Tát.
Chúng
ta đều có duyên với Đại Thế Chí Bồ Tát,
chúng ta đều có thể trông thấy Đại Thế
Chí Bồ Tát. Trong đạo tràng, chúng ta thấy tượng
Tam Thánh. Kinh văn nói “tử
kim sắc”, trên thực tế, chúng ta chẳng thấy tử
kim sắc. Kinh văn dạy về quán tưởng, chúng ta
tŕ danh niệm Phật, đương nhiên là chẳng sử
dụng công phu quán tưởng. Tuy chẳng dùng công phu quán
tưởng, nhưng rất nhiều vị thiện tri thức
đều dạy chúng ta phải “tùy văn nhập quán”. Chữ Quán ở đây chẳng
phải là Quán trong “chuyên môn quán
tưởng”, mà có nghĩa là: Chúng ta học kinh văn, đối
với những ư nghĩa đă nói trong kinh văn, hăy vận
dụng cái tâm, vận dụng sức tưởng tượng
để tưởng quang minh của Bồ Tát [khiến
cho những nơi được quang minh của Ngài chiếu
đến] đều là màu tử kim, th́ coi như là đă
trông thấy. Thường ngày, ngoài công phu chánh yếu là tŕ
danh niệm Phật ra, chúng ta c̣n dùng rất nhiều trợ
công phu, “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành” chính là trợ công
phu. Ngoài ra, đối với những đạo lư
được dạy trong kinh văn, [những đạo
lư ấy] quy hướng tŕ danh niệm Phật, sẽ phụ
trợ cho việc tŕ danh niệm Phật. V́ sao? Chúng ta tưởng
h́nh tượng của Tam Thánh: Các thứ trang nghiêm của
A Di Đà Phật, các thứ trang nghiêm nơi quang minh của
Quán Thế Âm Bồ Tát, tử kim sắc của Đại
Thế Chí Bồ Tát, lúc tâm chúng ta không niệm Phật, hăy
tưởng những điều ấy, khiến cho cái tâm
(ư niệm) được gom về đó, sẽ là cảnh
giới ǵ? Trong mười pháp giới, cao nhất là Phật
pháp giới, kế đó là đại Bồ Tát. Hai vị Bồ
Tát này đều đă đạt tới địa vị
Đẳng Giác Bồ Tát, chẳng sai khác với địa
vị Phật cho mấy. Chúng ta tâm tâm niệm niệm,
ngoài tŕ danh niệm Phật ra, tâm hoàn toàn đặt vào những
điều này, tưởng thân tướng trang nghiêm của
Bồ Tát. Tu tŕ như vậy, cảnh giới của chúng
ta có thể đạt đến mức độ nào? Tự
nhiên sẽ là “tịnh niệm nối
tiếp”. Chúng ta tụng niệm công khóa sáng tối có thời
gian nhất định, nhưng thời gian [tụng niệm]
chẳng thể rất dài. Tham gia Phật Thất th́
cũng chỉ là khi đả Phật Thất mới niệm
Phật. Ngoài công khóa sáng tối ra, lúc chẳng đả Phật
Thất, những thời gian khác th́ làm như thế nào? Nếu
như chúng ta thời thời khắc khắc tâm tâm niệm
niệm, hễ có thời gian, tâm niệm bèn đặt ngay
nơi đây, sẽ là “tịnh
niệm tiếp nối”.
Chúng
ta thật sự là như vậy, khi không niệm Phật,
hễ có lúc rảnh rỗi, trong tâm bèn nghĩ đến tử
kim sắc của bậc đại Bồ Tát. Thường
nói là “người học Phật phải thân cận thiện
tri thức”; hiện thời, thân cận thiện tri thức
chẳng dễ dàng, ai là bậc thiện tri thức? Nếu
tâm niệm đặt trong quang minh của đại Bồ
Tát, vị thiện tri thức nào có thể sánh bằng hai vị
đại Bồ Tát này? Vạn pháp duy tâm! Chỉ cần
tâm lư đặt ở nơi đây, tâm lư chúng ta và cảnh
giới ấy sẽ nhất trí. V́ thế, sẽ là “giai tất đắc kiến”
(thảy đều được thấy). Sau khi thảy
đều được thấy, sẽ có những lợi
ích ǵ?
(Kinh)
Đản kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang,
tức kiến thập phương vô lượng chư
Phật tịnh diệu quang minh. Thị cố hiệu thử
Bồ Tát danh Vô Biên Quang.
(經)但見此菩薩一毛孔光,即見十方無量諸佛淨妙光明。是故號此菩薩名無邊光。
(Kinh: Chỉ
thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của vị Bồ
Tát này, liền thấy quang minh tịnh diệu của mười
phương vô lượng chư Phật. V́ thế, vị
Bồ Tát này có hiệu là Vô Biên Quang).
“Đản kiến thử Bồ
Tát nhất mao khổng quang, tức kiến thập
phương vô lượng chư Phật tịnh diệu
quang minh” (Chỉ thấy quang minh nơi một lỗ
chân lông của vị Bồ Tát này, liền thấy quang minh
tịnh diệu của mười phương vô lượng
chư Phật). “Đản kiến”
(但見) là chỉ
cần trông thấy. Đối với quang minh nơi toàn
thân Đại Thế Chí Bồ Tát (quang minh nơi toàn thân Ngài
có thể chiếu thấu suốt các cơi nước trong mười
phương), tuy chúng ta chẳng thể trông thấy hoàn
toàn, nhưng nói theo mức độ ít nhất, ít đến
cỡ nào? Ít nhất là quang minh nơi một lỗ chân lông.
Một lỗ chân lông hết sức nhỏ nhiệm. Chỉ
cần chúng ta có thể thấy một tia sáng phát ra từ một
lỗ chân lông là đă tuyệt diệu lắm rồi! Chúng
ta có thể nhờ vào quang minh từ một lỗ chân lông
mà trông thấy quang minh tịnh diệu của vô lượng
vô số chư Phật trong mười phương thế
giới. Lợi ích ấy đơn giản là chẳng có
cách nào tính đếm được, lợi ích quá to lớn!
V́ sao thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của Đại
Thế Chí Bồ Tát bèn có thể thấy quang minh tịnh diệu
của vô lượng chư Phật trong mười
phương? Chúng ta hăy xem trước hai chữ “tịnh diệu”. Nói “tịnh” (淨) nghĩa
là các thứ Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng
che lấp bản tánh thảy đều bị phá trừ hết
sạch; hết thảy phiền năo chẳng c̣n, đă thanh
tịnh. “Diệu” (妙) là nói tới
bản tánh, là Tánh Đức. “Tịnh”
là nói về Tu Đức. Bọn phàm phu chúng ta có rất nhiều
phiền năo, bất tịnh, nương theo Phật pháp
để tu từng bước một, đoạn trừ
hết sạch tất cả Hoặc (phiền năo). Đó
là Tu Đức. Sau khi đă tịnh, “diệu” liền tỏ lộ. “Diệu” là cái vốn sẵn có, cho nên gọi là
Tánh Đức. Nói gộp lại, hai chữ “tịnh diệu” là do chư Phật
đều đă trải qua bao nhiêu kiếp số tu tập
thành tựu, hoàn toàn hiển lộ Tánh Đức vốn sẵn
có. Quang minh ấy chính là quang minh của Phật, cho nên gọi
là “tịnh diệu quang minh”.
Quang minh ấy chính là một loại tác dụng, tác dụng
của nó xuất phát từ nơi đâu? Từ trong bản
tánh mà ra. Chúng ta phải liễu giải: Chư Phật
thành Phật đều từ trong bản tánh mà phát ra quang minh
tịnh diệu.
Vừa
mới hỏi: “V́ sao thấy quang minh nơi một lỗ
chân lông của Đại Thế Chí Bồ Tát, bèn có thể
thấy quang minh tịnh diệu của mười
phương vô lượng chư Phật?” Thật ra, quang
minh là từ bản tánh (bản thể) phát ra tác dụng. Bản
thể là Pháp Thân, Pháp Thân không chỗ nào chẳng tồn tại.
Đó là một nguyên nhân. Lại nói, Pháp Thân của chư Phật
có khác nhau hay không? Pháp Thân của chư Phật hoàn toàn
như nhau! V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thập phương tam thế Phật, cộng đồng
nhất Pháp Thân” (Mười phương ba đời
Phật, cùng chung một Pháp Thân). Nói “mười phương” tức là mười
phương thế giới, “ba
đời” là nói tới quá khứ Phật (đă thành Phật
trong quá khứ), hiện tại Phật (Thích Ca Mâu Ni Phật,
A Di Đà Phật), vị lai Phật (Di Lặc Bồ Tát). Nói
càng rộng răi hơn, hết thảy chúng sanh đều có
trí huệ và đức tướng của Như Lai. Bất
luận đến khi nào trong tương lai, rốt cuộc,
sẽ đều thành Phật. Tất cả
chúng sanh phàm phu đều là vị lai Phật. Đă là như
vậy, sẽ có cùng chung một Pháp Thân. Pháp Thân vốn sẵn
có là “cùng chung”, nhưng nay chúng ta chẳng thấy Pháp Thân của
chính ḿnh; v́ sao? Do bị tri kiến phàm phu (phiền năo) của
chính ḿnh chướng ngại; do vậy, chẳng trông thấy.
Nay nhờ vào một tia ánh sáng của Đại Thế Chí
Bồ Tát, lúc chúng ta dụng công, tâm đặt nơi quang
minh của Đại Thế Chí Bồ Tát, nương vào
quang minh của Ngài, khiến cho quang minh nơi bản tánh của
chúng ta phát lộ. Hễ phát lộ, sẽ thấy quang minh
của mười phương vô lượng chư Phật.
Nguyên lư là như thế đó.
Đă
nhờ vào quang minh nơi một lỗ chân lông của Bồ
Tát, trông thấy quang minh của chư Phật nhiều ngần
ấy, tự nhiên cũng thấy quang minh của A Di Đà
Phật. Chúng ta đều ở trong quang minh của Phật,
thời khắc nào cũng đều thấy quang minh. Hết
thảy các khổ năo trong thế gian này, hết thảy những
chuyện chẳng vừa ư, sẽ tồn tại ở
nơi đâu? Tự nhiên hóa thành chẳng c̣n nữa! Tâm chúng
ta ở ngay trong một bầu quang minh ấy, ai có thể
đạt được sự thọ dụng ấy? V́
thế, khi chúng ta học Tịnh Độ Tông, hăy nên suy
nghiệm kỹ càng chỗ này. Mỗi khi dấy khởi một
câu danh hiệu, câu danh hiệu ấy đều có thể tổng
tŕ tất cả quang minh, tất cả cảnh giới. Chúng
ta niệm Phật như vậy, sẽ có sức mạnh
to cỡ nào? Có phiền năo nào mà chẳng thể đè nén cho
được?
“Thị cố hiệu thử Bồ
Tát danh Vô Biên Quang” (Do vậy, Bồ Tát này có hiệu là Vô
Biên Quang). Thông thường, chúng ta chỉ
biết danh hiệu của vị Bồ Tát này là Đại
Thế Chí Bồ Tát (Mahāsthāmaprāpta).
Nhưng trong bộ kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy: Do vị
Bồ Tát này có quang minh như vậy, có thể khiến cho
chúng sanh trông thấy quang minh bèn phát sanh tác dụng to lớn
như thế. V́ lẽ ấy, vị Bồ Tát này c̣n có danh
hiệu là Vô Biên Quang Bồ Tát. Vô Biên là vô lượng vô
biên. “Vô biên” nghĩa là quang
minh chẳng có ngằn mé, chẳng có giới hạn; có thể
tưởng tượng quang minh ấy chiếu rất xa
rộng! Ngoài danh hiệu Vô Biên Quang ra, một danh hiệu
khác mà chúng ta quen thuộc là Đại Thế Chí Bồ Tát[5].
V́ sao có tên là Đại Thế Chí Bồ Tát? Dưới
đây bèn giải thích:
(Kinh)
Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết, linh
ly tam đồ, đắc vô thượng lực. Thị
cố hiệu thử Bồ Tát danh Đại Thế Chí.
(經)以智慧光,普照一切,令離三途,得無上力。是故號此菩薩名大勢至。
(Kinh: Do dùng
quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy,
khiến ĺa tam đồ, đạt được vô
thượng lực. Do vậy, vị Bồ Tát này
được gọi là Đại Thế Chí).
“Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất
thiết” (Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp hết
thảy): Nói theo ư nghĩa của danh hiệu Đại Thế
Chí, vị Bồ Tát này dùng trí huệ quang của Ngài. Trí huệ
quang là ǵ? “Trí huệ quang” là
từ bản thể (Pháp Thân) phát ra tác dụng, phát ra quang
minh, cho nên có quang minh đại trí huệ. Quang minh ấy
chiếu khắp hết thảy, cũng là chiếu trọn
khắp mười phương thế giới, chẳng
có chỗ nào không chiếu tới. Quang minh trí huệ ấy
chiếu khắp hết thảy, có công đức ǵ? Có tác
dụng ǵ? “Linh ly tam đồ,
đắc vô thượng lực” (Khiến ĺa tam đồ,
đắc vô thượng lực). Phàm là chỗ nào quang
minh chiếu tới, những chúng sanh trông thấy quang minh
đều được ĺa khỏi tam đồ. Tam
đồ là chỗ khổ nhất trong lục đạo.
Mọi người đều biết: Khổ nhất là
địa ngục, đỡ khổ hơn địa ngục
đôi chút là ngạ quỷ đạo!
Lại
nhẹ hơn chút nữa là súc sanh đạo. Chúng sanh trong tam
đồ (súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục) đều
hết sức thống khổ. Đă thế, hễ đọa
trong tam đồ, tới khi nào mới thoát ra? Xa vời vợi
chẳng có kỳ hạn! Dẫu thọ mạng trong súc sanh
đạo rất ngắn, súc sanh nuôi trong nhà, dă thú trong chốn
núi sâu rừng thẳm, các loài thủy tộc động vật
dưới nước, dường như sanh mạng chẳng
dài, nhưng sau khi đă chết, có thể giải thoát hay
không? Không nhất định! Rất nhiều súc sanh, sau
khi đời này đă chết đi, lại chuyển sanh
vẫn ở trong loài súc sanh. Mọi người nghiên cứu
kinh điển đều biết: Tại Ấn Độ,
vào thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật, có câu chuyện
“đă trải qua thời gian bảy đức Phật [xuất
thế] mà vẫn chẳng thoát khỏi thân kiến”. Kiến
có thọ mạng chẳng dài, nhưng kiến chết rồi,
vẫn sanh làm kiến. Bảy vị Phật đă xuất
hiện trong thế gian, mà những con kiến ấy vẫn
chưa thoát ly [thân kiến]. Có thể suy ra để biết:
Hễ đọa lạc tam đồ, sẽ đau khổ
như thế đó! Khi nào sẽ có thể thoát ra? Chúng sanh
chịu khổ trong tam đồ, được quang minh của
Bồ Tát vừa chiếu đến, sẽ có thể thoát
khỏi khổ báo trong tam đồ!
Nay
chúng ta đang ở trong nhân đạo, nhưng chúng ta nh́n
vào chúng sanh trong loài người. Trong hiện thời, chúng
sanh thuộc loài người đang gây tạo tội nghiệp:
Sát hại động vật, con người tàn sát lẫn
nhau, tạo đủ mọi nghiệp, bất cứ chuyện
ǵ cũng đều đủ để đọa nhập
tam đồ! Trong xă hội, kẻ b́nh phàm tranh danh đoạt
lợi với người khác, v́ những thứ hư giả
như tài, sắc, danh, lợi. Họ chẳng hiểu rơ, cứ
ngỡ những thứ ấy rất quư báu, chỗ nào cũng
đều tranh đoạt với kẻ khác. Hễ tranh
đoạt, bèn tổn hại người khác. Tổn hại
người khác đến cùng tột, sẽ sát hại
chúng sanh (bao gồm động vật và nhân loại). Ví
như trong hiện thời, những kẻ có tiền, hễ
rảnh rỗi bèn đến chỗ câu cá để xiên cá.
Họ chẳng câu cá, mà là xiên cá. Đấy toàn là tội
nghiệp đọa nhập tam đồ, lại c̣n coi
đó là một thú vui giải trí. Hiện thời, nh́n bề
ngoài, mọi người kinh tế đều khấm khá,
cơm, áo, ăn ở đều rất tốt đẹp.
Kẻ học đạo biết dụng công, sẽ có thể
biến của cải thành sự nghiệp công đức.
Kẻ chẳng học Phật, cậy vào tiền tài để
tạo tội nghiệp, năo hại chúng sanh. Sau khi đă tạo
tội nghiệp xong, sẽ đọa lạc tam đồ.
Nghĩ đến đây, chúng sanh thuộc loài người
trong nhân gian hết sức nguy hiểm! Chẳng có ngày nào
không tạo ác nghiệp tam đồ. Do sự suy tưởng
như vậy, chúng ta đến đạo tràng ngắm
tượng Tam Thánh, từ kinh văn biết vị Bồ
Tát này có quang minh như vậy. Chúng ta vừa được
quang minh chiếu đến, tâm lư lập tức chuyển
biến, được quang minh gia bị, biết nhân gian
hiểm ác dường ấy, chúng ta sẽ không chịu, chẳng
bằng ḷng [tiếp tục tái sanh trong lục đạo],
mà cũng chẳng dám tạo ác nghiệp, ĺa khỏi tam
đồ, chẳng có phần nơi tam đồ!
Chúng
ta học Phật, học hành Bồ Tát đạo. Bồ
Tát đạo là từ bi, từ bi là “bạt khổ, dữ lạc”, “bạt khổ” (拔苦) là dẹp trừ những
nỗi đau khổ của chúng sanh. Giống như nơi
thân chúng sanh có độc, phải trừ khử độc
khí. Đối với hết thảy những nỗi
đau khổ của chúng sanh, Bồ Tát có thể thay họ
dẹp trừ, khiến cho họ ĺa khỏi tam đồ.
Nỗi đau khổ trong tam đồ sâu đậm nhất.
Quang minh của Bồ Tát có thể khiến cho chúng sanh ĺa
khỏi khổ báo tam đồ. “Dữ
lạc” (與樂) là làm cho chúng sanh được vui sướng,
đạt được niềm sung sướng ǵ vậy?
“Đắc vô thượng lực”.
Vô thượng lực là Phật lực, “lực” là sức mạnh trí huệ. Đă thành Phật,
Phật được gọi là Vô Thượng Sư, chí
cao vô thượng, chẳng có ai cao hơn Phật. V́ thế,
Phật được gọi là Vô Thượng. “Vô thượng lực” là trí
lực của Phật. Có thể đạt được
Phật lực th́ sẽ tốt đẹp lắm! Vui
sướng đến mức độ nào?
Phật
có mười loại trí lực, vô thượng lực. Nói
cách khác, sẽ là có mười lực, bất cứ vị
Phật nào cũng đều có mười loại sức
mạnh to lớn. Chẳng có thời gian để nói trọn
vẹn mười loại sức mạnh to lớn, tôi chỉ
giới thiệu mấy loại dễ hiểu ḥng mọi
người biết niềm vui này. Tuyệt đối chẳng
phải là vui sướng theo quan niệm thông thường
của người đời. Kẻ b́nh phàm thường
nghĩ tới những điều vui sướng trong thế
gian. Trên thực tế, [trong thế gian] chẳng có chuyện
ǵ đáng coi là vui! Khi chúng sanh phàm phu hưởng lạc,
chính là lúc tạo nghiệp, làm sao có thể gọi là “lạc”
cho được? Lạc thật sự là đắc vô
thượng lực; đó là đại lạc, là lạc
rốt ráo. Lạc nếu tách ra để nói, nay tôi giới
thiệu mấy loại để giúp chúng ta cầu đạo.
Hiện thời, có rất nhiều người học Phật,
quư vị hỏi họ: “V́ sao học Phật? V́ sao học
pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ Tông?” Họ
chẳng thể đáp được. Chỉ có học Phật
th́ mới có thể đạt được lạc thật
sự. Chỉ có học pháp môn Niệm Phật của Tịnh
Độ Tông th́ mới có thể nhanh chóng đạt
được niềm vui này!
Trong
mười loại lực của Phật, loại thứ
nhất là trí huệ lực, ai trong chúng ta cũng đều
chẳng thể làm được. Ví như chúng ta thấy
các thứ sự vật trong thế gian, chẳng hỏi
đến th́ thôi; hễ hỏi đến, mỗi sự
kiện đều có đạo lư tồn tại của
riêng nó. Những chuyện đă làm giữa người và
người với nhau cũng đều có đạo lư
riêng. Có những sự vật phù hợp đạo lư, có những
sự vật chẳng hợp đạo lư; chúng ta chẳng
nh́n ra điều này! Chúng ta thấy trong thiên nhiên, gió thổi,
mưa rơi, hoặc địa cầu chấn động,
chúng ta có hiểu ư nghĩa là ǵ hay không? Là đạo lư ǵ? Dẫu
là các nhà khoa học, cũng chưa chắc đă t́m ra câu trả
lời, nhưng đức Phật biết. Đức Phật
biết hết thảy các hiện tượng phát sanh là do
đạo lư nào, có những điều ǵ chẳng hợp
lư sau đó sẽ phát sanh hậu quả [như thế nào],
đức Phật đều thấy rơ ràng, rành rẽ. Ai
trong chúng ta có thể thấy được? Không chỉ là
chẳng thấy, mà cũng chẳng liễu giải. Đức
Phật nói pháp xuất thế gian, Khổng phu tử nói
pháp thế gian. Trong hiện thời, ai có thể vừa
nghe lời đức Phật dạy bèn có thể lănh ngộ?
Ai vừa nghe lời Khổng phu tử dạy bèn có thể
tin tưởng? Hiện thời, có thể nói là “chẳng
có ai cả!” Trải qua bao nhiêu phen nghiên cứu, vẫn chẳng
thể nghiên cứu rơ ràng, tự ḿnh ngộ càng khó khăn
hơn nữa! Do vậy, chúng ta đừng tưởng
chính ḿnh rất cao minh, chúng ta đều là phàm phu. Trong cơi
đời, những bậc đại học vấn đọc
rất nhiều sách vở thế gian, nhưng so sánh trí huệ
của họ với đức Phật, [trí huệ của]
đức Phật giống như toàn thể đại
địa, những ǵ mà bậc đại học vấn
trong thế gian biết được bất quá c̣n
chưa bằng một vi trần! Thua xa!
Lại
nói tới một loại trí lực [khác nữa] của
đức Phật. Đức Phật có thể biết hết
thảy chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai
đă tạo nghiệp ǵ, sẽ hứng chịu quả báo
ǵ? Ai biết những điều ấy? Đừng nói là
chúng ta chẳng biết hết thảy chúng sanh, mà đối
với chính ḿnh, chúng ta cũng chẳng biết chính ḿnh
đă từng làm những chuyện ǵ! Làm sao biết nổi
trạng huống trong hiện tại? Vị lai như thế
nào? Trong tương lai, khi thọ mạng kết thúc, đời
sau sẽ ở trong hoàn cảnh như thế nào? Ai lại
có thể biết được? Dẫu học vấn tốt
đẹp đến mấy đi nữa, ngay cả chuyện
này cũng đều không biết, c̣n coi là học vấn tốt
đẹp nỗi ǵ? Chớ nên mạo nhận! Đức
Phật biết hết thảy chúng sanh trong mười
phương thế giới từ vô cùng vô thỉ trong quá
khứ cho tới nay đă tạo những nghiệp ǵ, hiện
tại tạo nghiệp ǵ, vị lai sẽ tạo nghiệp
ǵ, do tạo nghiệp nào sẽ đắc quả báo nào,
đức Phật đều thấy rơ ràng, rành rẽ. Ai
trong chúng ta có thể có loại trí lực ấy? Đức
Phật có loại trí lực ấy; v́ vậy, Ngài thấy
chúng sanh khổ năo bèn sanh ḷng đại từ bi, thấy hết
thảy chúng sanh trong mười phương thế giới
đều đang khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ
báo (Hoặc, Nghiệp, Khổ luân hồi), đức Phật
mong v́ chúng sanh giải quyết khổ năo, luôn luôn hóa độ
chúng sanh. Đại Thế Chí Bồ Tát đă đạt tới
địa vị Đẳng Giác, giống như Phật,
Ngài thời thời khắc khắc dùng quang minh gia bị
chúng sanh. Chỉ cần chúng sanh trong tâm tưởng Bồ
Tát, tiếp nhận quang minh của Bồ Tát gia bị, trí
huệ của chúng ta sẽ dần dần mở mang. Trước
hết, chúng ta tin tưởng sâu sa Thánh Ngôn Lượng, tức
là tin sâu nhân quả, như vậy th́ sẽ có thể đạt
được một phần trí lực. Do vậy, chúng ta
học Phật, điều quan trọng nhất chính là: Ắt
phải tin sâu nhân quả! Kẻ chẳng tin nhân quả, dẫu
niệm nhuyễn nhừ Tam Tạng mười hai bộ kinh,
vẫn chẳng được!
Lại
có một loại trí huệ lực của Phật nữa,
chính là đức Phật biết các thứ công phu Thiền
Định. Chúng ta đă nghe nói tới Thiền Định
(tam-muội). Hiện thời rất nhiều người
học Thiền, nói tới công phu Thiền Định. Thiền
Định là ǵ? Thiền Định có Thiền Định
thế gian, có Thiền Định xuất thế gian. Có rất
nhiều loại Thiền Định thế gian, có những
hiện tượng ǵ? Phải vận dụng công phu
như thế nào? Thiền Định xuất thế gian
cũng có đủ loại t́nh huống, hiện thời ai
biết? Đức Phật đều biết! Vào thời
Thích Ca Mâu Ni Phật, tại Ấn Độ, có rất nhiều ngoại đạo, công phu rất
giỏi, công phu Thiền Định thế gian rất sâu, Thích
Ca Mâu Ni Phật vừa nh́n bèn biết là Thiền Định
loại nào? Ngày nay, ai trong chúng ta có thể phân định
rơ ràng Thiền Định thuộc loại nào? Đă chẳng
phân định rành rẽ, hăy thật thà niệm một câu
Phật hiệu A Di Đà Phật. Đắc nhất tâm bất
loạn chính là đại Thiền Định, là Thiền
Định xuất thế gian. Thiền Định bằng
cách niệm một câu Phật hiệu, chẳng nhất
định phải là khoanh chân tĩnh tọa, đó là công
phu cơ bản. Tĩnh tọa th́ chưa chắc đă
tĩnh tọa được, nhưng niệm Phật th́ bất
cứ lúc nào cũng đều có thể niệm. Không lúc
nào, không chỗ nào chẳng thể niệm. Niệm đến
mức nhất tâm bất loạn th́ chính là Thiền Định.
Chuyện này hết sức dễ dàng, lại c̣n hết sức
ổn thỏa. Học các loại Thiền Định khác,
nếu học không nên thân, nông cạn nhất sẽ là thân
thể bị tổn hại (do dụng công chẳng
đúng pháp, thân thể bị tổn hại). Nếu
như thân thể điều dưỡng tốt đẹp,
đạt được cảnh giới nho nhỏ, cứ
ngỡ là đă ghê gớm lắm rồi! Đă đắc
đạo rồi! Thật ra, nói theo Thiền Định
thế gian, công phu vẫn là rất thô thiển! Cứ ngỡ
đă đắc đạo, chẳng cầu tiến bộ,
tâm ngạo mạn tăng trưởng, toàn thể trái nghịch
đạo, sẽ bị họa hại lớn nhất. Tổ
sư thường nói: “Vị
đắc vị đắc” (未得謂得, chưa
đắc mà bảo là đă đắc), nghĩa là: Chưa
đạt được chân pháp, mà cứ tưởng
đă đạt được chân pháp, chuốc lấy tội
lỗi to lớn! V́ thế, bọn phàm phu b́nh phàm như
chúng ta nếu mong học Thiền, chẳng thật sự
gặp thiện tri thức chỉ dạy, cứ chính ḿnh
tu mù luyện đui, sẽ là mười phần nguy hiểm!
Nay chúng ta chẳng gặp Phật, nhưng lời dạy của
đức Phật hăy c̣n. Chúng ta tin tưởng lời dạy
của Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà Phật, tin tưởng quang
minh của Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ
Tát đang gia bị, hăy khéo niệm Phật! Chỉ cần
chịu niệm Phật, thậm chí chẳng hiểu Thiền
Định chi hết, vẫn chẳng sao cả, cũng sẽ
đạt được Thiền Định cao nhất!
Đức
Phật hăy c̣n có rất nhiều sức mạnh khác. Chẳng
hạn như đức Phật biết tri kiến và
năng lực lư giải của hết thảy chúng sanh.
Nay bảo chúng ta hăy nói kiến giải của người
nào đó, trong tâm người ấy nghĩ ǵ, chúng ta có biết
hay không? Tuyệt đối là chẳng biết! Ngay cả
ư niệm của chính ḿnh mà bản thân chúng ta c̣n chẳng nhận
ra, huống hồ là của người khác? Do Phật lực,
Ngài sẽ biết kiến giải của hết thảy
chúng sanh. Chúng sanh có thể lư giải tới mức độ
nào, đức Phật đều biết. Biết điều
này th́ có tác dụng ǵ? Khi đức Phật hóa độ
chúng sanh, có thể dựa theo mức độ lư giải của
chúng sanh để ban cho họ pháp nào (rất phù hợp với
tŕnh độ của chúng sanh). Đó là sức mạnh to lớn
tuyệt diệu! Những sức mạnh ấy, Đại
Thế Chí Bồ Tát đều đă trọn đủ.
Ngài có thể vận dụng ánh sáng trí huệ của chính
ḿnh để ban cho chúng sanh hữu duyên, khiến cho họ
đạt được tác dụng của sức mạnh
ấy. Đạt được tác dụng ấy, có thể
suy ra mà biết niềm vui ấy. Có niềm sung sướng
nào trong thế gian có thể sánh bằng? Do vậy, “linh ly tam đồ, đắc
vô thượng lực” (khiến cho ĺa tam đồ,
đắc vô thượng lực) chính là “bạt khổ dữ lạc” (dẹp khổ, ban
vui). V́ Đại Thế Chí Bồ Tát có sức “bạt khổ dữ lạc”
mạnh mẽ; “thị cố
hiệu thử Bồ Tát danh Đại Thế Chí” (v́ thế,
vị Bồ Tát này được gọi là Đại Thế
Chí), “Thế” (勢) là đại
thế lực, “Chí” (至) là
đă đạt tới chỗ cùng cực. Đấy là
nguồn gốc của danh hiệu Ngài.
Đoạn
kinh văn này chính là đoạn lớn thứ nhất trong
pháp môn quán tưởng thuộc phép Quán thứ mười
một. Đoạn lớn thứ nhất gồm có ba tiểu
đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là từ “thứ quán Đại Thế
Chí” (kế tiếp, quán Đại Thế Chí) cho đến
“hữu duyên chúng sanh giai tất
đắc kiến” (chúng sanh hữu duyên thảy đều
được thấy), đấy là nói tóm tắt. Tiểu
đoạn thứ hai là từ “đản
kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang” (chỉ
thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của vị Bồ
Tát ấy) cho đến “danh Vô
Biên Quang” (gọi là Vô Biên Quang), nêu ra một danh hiệu
khác của Bồ Tát. Tiểu đoạn thứ ba là từ
“dĩ trí huệ quang” (dùng ánh
sáng trí huệ) cho đến “danh
Đại Thế Chí” (gọi là Đại Thế Chí). Ba
tiểu đoạn ấy hợp thành một đoạn lớn.
Hôm nay, tôi nói tới đây bèn ngưng!
Tập 34
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười chín,
xem hàng cuối cùng, bắt đầu từ hai câu cuối
cùng. Tôi niệm trước một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Thử Bồ Tát thiên quan, hữu ngũ bách bảo hoa. Nhất
nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất
nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh
diệu quốc độ quảng trường chi tướng,
giai ư trung hiện.
(經)此菩薩天冠,有五百寶華。一一寶華,有五百寶臺。一一臺中,十方諸佛淨妙國土廣長之相,皆於中現。
(Kinh: Măo trời
của vị Bồ Tát này có năm trăm bảo hoa. Mỗi
một bảo hoa có năm trăm bảo đài. Trong mỗi
đài, thảy đều hiện tướng cơi nước
tịnh diệu rộng lớn của mười
phương chư Phật).
Hôm
nay, [chúng ta] bắt đầu từ chỗ này, tiếp tục
phép Quán thứ mười một đă giảng trong lần
trước. Phép Quán này là quán tưởng Đại Thế
Chí Bồ Tát. Trước phép Quán này là quán Quán Thế Âm Bồ
Tát. Hai vị Bồ Tát này được quán kế tiếp
ngay sau khi quán A Di Đà Phật. Chúng ta biết: Trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, các vị đại
Bồ Tát rất đông! Những vị đạt đến
địa vị Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng
thể kể xiết; hai vị này là bậc Đẳng
Giác Bồ Tát, v́ sao đặc biệt là sau khi [quán tưởng]
A Di Đà Phật, lại nói tới hai vị Bồ Tát này?
V́ hai vị Bồ Tát này [hầu cận] hai bên A Di Đà Phật,
giúp A Di Đà Phật hoằng hóa, thường xuyên theo hầu
A Di Đà Phật. Ngoài ra, sau khi thời đại hoằng
hóa của A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới [viên măn], vị kế tục chính là Quán Thế
Âm Bồ Tát sẽ thành Phật ở nơi đó. Sau khi
pháp vận của Quán Thế Âm Bồ Tát kết thúc, sẽ
là Đại Thế Chí Bồ Tát kế tục thành Phật
trong cơi ấy. Do mối quan hệ này, cho nên trong Quán Kinh,
sau khi quán A Di Đà Phật, kế tiếp sẽ là quán Quán
Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Trong
lần trước, tôi đă nói về cội nguồn của
danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ sao Ngài có hiệu
là Đại Thế Chí và Vô Biên Quang? Phải chú ư đặc
điểm trong danh hiệu Vô Biên Quang Bồ Tát: Chỉ cần
tưởng thấy Bồ Tát, có thể thấy quang minh
nơi một lỗ chân lông của Bồ Tát, sẽ có thể
thấy quang minh tịnh diệu của mười
phương vô lượng chư Phật. Hăy ngẫm xem!
Chỉ cần được hưởng một tí quang
minh của Bồ Tát, đă là tuyệt diệu khôn sánh! Lại
nữa, v́ sao Ngài có hiệu là Đại
Thế Chí? V́ vị Bồ Tát này khắp thân đều là trí
huệ quang. Chỉ cần được trí huệ quang của
Đại Thế Chí Bồ Tát chiếu tới, sẽ có thể
ĺa khỏi tam đồ, đạt được vô
thượng lực, tức là sức mạnh to lớn của
Phật, chính là trí huệ lực. V́ sao quang minh của Đại
Thế Chí Bồ Tát có công đức to tát dường ấy?
Quang minh của Ngài từ tánh quang hiển thị ra, giống
như quang minh của chư Phật trong mười
phương thế giới. Do v́ có sức mạnh to lớn
ngần ấy, nên gọi là Vô Biên Quang, hoặc là Đại
Thế Chí.
Nếu
chúng ta có thể thấy quang minh nơi một lỗ chân
lông của Bồ Tát, đấy cũng chẳng phải là
do nguyên nhân nào khác! Chúng ta buông tâm lư phàm phu xuống, buông tri
kiến phàm phu xuống, khai phát quang minh nơi tâm tánh của
chính ḿnh, hai bên vừa cảm ứng, quang minh chiếu rọi
lẫn nhau, bèn do quang minh nơi một lỗ chân lông mà có
thể thấy quang minh của mười phương vô
lượng chư Phật. Nguyên lư là như kinh Hoa Nghiêm đă
nói: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Quang minh từ Pháp Thân hiển lộ, chỉ
cần chúng ta thấy quang minh của Bồ Tát, chứng tỏ
quang minh từ bản tánh của chúng ta khai phát. Nếu
không, làm sao có thể thấy quang minh của vô lượng
chư Phật trong mười phương? Sau khi đă
hiểu rơ ràng lư này, quán tưởng Bồ Tát sẽ khác biệt
rất lớn.
Hôm
nay, bắt đầu giảng đoạn này là đoạn
lớn thứ hai, chánh thức quán tưởng Đại
Thế Chí Bồ Tát. Giống như quán tưởng A Di
Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần trước,
nhất định là trước hết phải mở rộng
tâm lượng. Tuy chúng ta chẳng dùng công phu Quán Tưởng
Niệm Phật, mà là Tŕ Danh Niệm Phật, nhưng có một
điều hữu ích [tức là hiểu biết về lư
luận và đường lối Quán Tưởng Niệm
Phật] sẽ mở rộng tâm lượng của chúng
ta. Sau khi đă mở rộng, những ư niệm (tâm niệm)
dấy lên đều là thân cận Phật, Bồ Tát, luôn ở
trong hoàn cảnh vô cùng vô tận của Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Bởi lẽ, [những điều
ấy] chẳng phải là tâm lư của lũ phàm phu b́nh phàm
mà ḥng thực hiện được. Chúng ta hằng ngày
luôn nghĩ đến những chuyện vụn vặt
trong nhân gian. Càng nghĩ, càng khiến cho tâm lư của chính
ḿnh thu hẹp. Thu hẹp đến nỗi nhỏ nhen quá đỗi!
[Do vậy], niệm Phật rất khó khăn! Ắt phải
gạt những chuyện vụn vặt (chuyện hư vọng)
trong thế gian sang một bên, đừng ghim những chuyện
ấy trong ḷng, cái tâm của chúng ta sẽ tự nhiên rộng
mở hơn. Tâm đă mở rộng, chúng ta lại quán tưởng
măo đội đầu và quang minh nơi các bộ phận
trên thân thể Bồ Tát, sẽ [cảm thấy] khác hẳn,
sẽ quán tưởng rơ ràng, rành rẽ.
“Thử Bồ Tát thiên quan” (Măo trời
của vị Bồ Tát này): “Thiên
quan” là một cách tỷ dụ, nhằm nói tới cái măo
Bồ Tát đang đội. Do chẳng có thứ măo nào
trong nhân gian của chúng ta có thể sánh bằng, bèn mượn
“măo trời” để nói. Măo trên cơi trời đúng là quá tốt
đẹp! Vượt trỗi hết thảy mọi thứ
trong nhân gian, chúng ta chẳng có loại măo ấy. Đầu Bồ Tát đội măo trời, “hữu ngũ bách bảo hoa, nhất
nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài”: Trên
măo trời có năm trăm hoa báu, mỗi một hoa báu có
năm trăm đài báu. Đó là nói theo từng tầng một.
“Nhất nhất đài trung”, [nghĩa là] trong mỗi bảo
đài, có “thập phương
chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng
trường chi tướng, giai ư trung hiện” (tướng
cơi nước tịnh diệu rộng lớn của
mười phương chư Phật đều hiện
trong ấy), hăy ngẫm xem! Có năm trăm hoa báu, trong mỗi
hoa báu có năm trăm cái đài. Trên mỗi đài, có thể
hiện ra tướng cơi nước tịnh diệu rộng
lớn của chư Phật trong mười phương
thế giới. “Tịnh diệu
quốc độ”: Quốc độ tịnh diệu
trong cảnh giới Phật, chẳng phải là quốc
độ như bọn phàm phu chúng ta trông thấy. “Quảng trường chi tướng”,
“quảng” (廣) là bề
rộng, “trường” (長) là bề
dài. Bất luận là nói theo chiều ngang cũng thế, mà
nói theo chiều dọc cũng thế, đều là rộng
lớn khôn cùng! H́nh tướng của những quốc
độ ấy “giai ư trung
hiện”, [nghĩa là] đều hiển lộ trong đài
báu. Trong cái măo đội đầu ấy, hiện ra
tướng cơi Phật nhiều dường ấy, tâm
lượng phàm phu của chúng ta nhỏ nhoi ngần ấy,
làm sao có thể trông thấy cho được? Nhất
định là phải mở rộng tâm lượng. V́ sao mở
rộng tâm lượng th́ sẽ có thể trông thấy? Từ
trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, cũng có thể
suy nghiệm: Một người trong tâm có quá nhiều chuyện
phiền năo, cảnh giới tâm linh từ đầu đến
cuối là bế tắc. Nếu buông xuống những phàm
t́nh tục kiến, chẳng để cho chúng nó che lấp
tâm linh, cảnh giới của chúng ta sẽ lập tức
mở rộng, phô bày. Đọc sách cũng thế, mà nh́n
nhận sự việc cũng thế, thứ ǵ là thật hay
giả, hết thảy đều phân biệt rành mạch,
rơ rệt. Chúng ta thấy Đại Thế Chí Bồ Tát, phải
ngưng dứt vọng tâm của chính ḿnh, dùng ư niệm rất
thanh tịnh để quán tưởng Đại Thế
Chí Bồ Tát, [khởi đầu] từ măo trời, nh́n
theo từng tầng một, [hiệu quả quán tưởng]
sẽ khác hẳn. Tiếp theo đây, [đức Phật] lại
nói về nhục kế trên đỉnh đầu của Bồ
Tát.
(Kinh)
Đảnh thượng nhục kế, như Bát-đầu-ma
hoa. Ư nhục kế thượng, hữu nhất bảo
b́nh, thịnh chư quang minh, phổ hiện Phật sự.
Dư chư thân tướng, như Quán Thế Âm, đẳng
vô hữu dị.
(經)頂上肉髻,如缽頭摩華。於肉髻上,有一寶瓶,盛諸光明,普現佛事。餘諸身相,如觀世音,等無有異。
(Kinh: Nhục
kế trên đỉnh đầu như hoa Bát Đầu
Ma, trên nhục kế có một b́nh báu, đựng các quang
minh, hiện khắp các Phật sự. Những thân tướng
khác giống như Quán Thế Âm chẳng khác).
“Đảnh thượng nhục
kế, như Bát-đầu-ma hoa”: Trên đỉnh đầu
của Đại Thế Chí Bồ Tát có một nhục kế,
giống như hoa Bát-đầu-ma. Bát-đầu-ma (Padma)
là tiếng Ấn Độ, dịch sang tiếng Hán là “hồng sắc liên hoa” (hoa sen
màu đỏ). Nhục kế trên đỉnh đầu Bồ
Tát có màu sắc như [màu sắc của] một đóa hoa
sen màu đỏ. “Ư nhục
kế thượng, hữu nhất bảo b́nh”: Trên nhục
kế có một cái b́nh báu. Cái b́nh ấy chẳng phải là
một cái b́nh tầm thường, mà là b́nh báu. V́ sao nói là “b́nh báu”? Cái b́nh ấy chẳng
đựng thứ ǵ khác, mà “thịnh chư quang minh”, “thịnh” (盛)
là đựng thứ ǵ đó. Trong ấy, chứa đựng
thứ ǵ vậy? Quang minh. Trong b́nh báu đựng quang minh “phổ hiện Phật sự”.
Quang minh ấy chẳng phải là quang minh tầm thường;
trong quang minh ấy, có thể hiện ra trọn khắp rất
nhiều Phật sự. Chữ
“Phật sự” bao la vạn tượng, kể cả Phật
pháp, tức là hết thảy mọi chuyện trong nhà Phật.
“Dư chư thân tướng”:
Những thân tướng khác, ngoại trừ b́nh báu, các thứ
thân tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát, “như Quán Thế Âm, đẳng
vô hữu dị”, [nghĩa
là] đều giống như thân tướng Quán Thế Âm
Bồ Tát [như kinh văn] trong đoạn trước [đă
nói], chẳng hề bất đồng.
V́
sao hai vị [Bồ Tát] có chỗ bất đồng? Trên
đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát, có một bức
tượng Phật (Hóa Phật). Tổ sư chú giải: Trên
đỉnh đầu [Quán Thế Âm Bồ Tát] có một bức
tượng Phật, biểu thị: Trong quá khứ, Quán Thế
Âm Bồ Tát đă thành Phật; nay Ngài lại trở về
giúp A Di Đà Phật giáo hóa. Dùng thân phận Bồ Tát để
giúp đức Phật giáo hóa, gọi là “đới quả hành nhân” (mang theo Phật quả
vốn có để trong hiện tại biểu thị h́nh
tướng trong địa vị Bồ Tát). V́ thế,
trên đỉnh đầu Ngài có một bức tượng
Phật. Trên đỉnh đầu của Đại Thế
Chí Bồ Tát có một cái b́nh báu nhằm biểu thị ư
nghĩa ǵ? Tổ sư cũng chú giải: B́nh báu biểu
thị vị Bồ Tát này đă chứng đắc tam
đức Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát. B́nh báu biểu thị
Pháp Thân đức. B́nh báu đựng các quang minh; quang minh
chiếu khắp nơi, ban cho người [được
chiếu] trí huệ. V́ thế, quang minh biểu thị Bát
Nhă đức (đại trí huệ). Phàm những chuyện
chẳng rơ ràng, mơ hồ, đều là do chẳng có trí huệ.
Thấy hết thảy mọi chuyện rơ ràng, rành rẽ,
chính là có trí huệ. Chúng ta chẳng thể liễu sanh tử,
tức là đối với hết thảy mọi sự
trong quá khứ, hiện tại, tương lai, đều
chẳng thấy rơ ràng. Đó là chẳng có trí huệ, là ngu
si. Nếu chúng ta hiển lộ quang minh, sẽ là Bát Nhă
đức. Có Bát Nhă đức th́ chính là quang minh. Do vậy,
quang minh chính là Bát Nhă trí huệ đức. B́nh báu có thể
hiện trọn khắp các Phật sự. Phật là giác ngộ,
giác ngộ th́ sẽ có thể giải thoát. Một cái b́nh
báu [trên đỉnh đầu Đại Thế Chí Bồ Tát]
nhằm biểu thị sự tu tập và chứng đắc
nội tại của Bồ Tát: Chứng đắc ba
đức ấy (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát), biểu thị
ư nghĩa này.
B́nh
báu vừa được nhắc đến trên đây
chính là chỗ bất đồng so với Quán Thế Âm Bồ
Tát. Những điều khác đều giống như Quán
Thế Âm Bồ Tát, chẳng khác ǵ, đều là giống hệt.
V́ thế, kinh văn chẳng cần phải nhắc lại
từng chuyện một. Khi quán tưởng Đại Thế
Chí Bồ Tát, sẽ giống như quán Quán Thế Âm Bồ
Tát: Diện mạo như thế nào? Cánh tay như thế
nào? Đều hoàn toàn giống như nhau, chẳng nói cặn
kẽ. Tới đây là một tiểu đoạn trong
đoạn lớn thứ hai. Dưới đây lại là
một ư nghĩa khác nữa.
(Kinh)
Thử Bồ Tát hành thời, thập phương thế
giới, nhất thiết chấn động.
Đương địa động xứ, hữu
ngũ bách ức bảo hoa. Nhất nhất bảo hoa,
trang nghiêm cao hiển, như Cực Lạc thế giới.
(經)此菩薩行時,十方世界,一切震動。當地動處,有五百億寶華。一一寶華,莊嚴高顯,如極樂世界。
(Kinh: Khi vị
Bồ Tát này đi, mười phương thế giới,
hết thảy chấn động. Trong khi đất chấn
động, có năm trăm ức hoa báu, mỗi một
hoa báu trang nghiêm, cao vời, rạng rỡ, như thế giới
Cực Lạc).
“Thử Bồ Tát hành thời”
(Khi vị Bồ Tát này đi), khi Đại Thế Chí Bồ
Tát bước đi, “thập
phương thế giới”, những thế giới ở
ngoài thế giới Cực Lạc, “nhất thiết chấn động”: Trong mười
phương thế giới, hết thảy đều bị
chấn động. Sự chấn động này chẳng
phải là động đất như trong sự suy
tưởng b́nh phàm của chúng ta. Động đất
trong thế gian gây tổn thương cho loài người. “Đương địa động
xứ”: Mười phương thế giới đều
chấn động. Những nơi chấn động
trên đại địa, “hữu
ngũ bách ức bảo hoa” (có năm trăm ức hoa
báu), xuất hiện hoa báu. Hễ chấn động, bèn
có hoa xuất hiện, lại c̣n là hoa báu. Có bao nhiêu hoa báu?
Có năm trăm ức. Đây chẳng phải là nói toàn thể,
mà bất cứ chỗ nào cũng đều là như vậy!
Có nghĩa là chúng sanh ở bất cứ chỗ nào, khi cảm
nhận được sự chấn động, sẽ có
năm trăm ức hoa báu xuất hiện. Mười
phương thế giới sẽ có bao nhiêu? Chẳng thể
tính rơ số. “Nhất nhất
bảo hoa”, mỗi một đóa hoa báu đều “trang nghiêm cao hiển”,
[nghĩa là] đă vừa trang nghiêm, lại c̣n cao vời, rơ
rệt. Phàm nhân chúng ta cũng chẳng thể trông thấy
hoặc tưởng tượng chuyện này. Do vậy,
[đức Phật] nói tỷ dụ: “Như Cực Lạc thế giới”, nghĩa là
trang nghiêm, cao vời, rơ rệt như hoa báu trong thế giới
Cực Lạc. Mười phương thế giới hiện
ra hoa báu hoàn toàn giống như [hoa báu] trong thế giới
Cực Lạc.
V́
sao hễ Đại Thế Chí Bồ Tát bước đi,
mười phương thế giới hết thảy
đều chấn động? Đây là nói quang minh trí huệ
của Bồ Tát có thể thuận theo hành động của
Ngài mà có thể chiếu thấu suốt mười
phương thế giới. V́ sao mười phương
thế giới được chiếu soi đều chấn
động? Chúng ta học Phật, ắt phải hiểu
nguyên lư cao nhất, tức là phải thấu hiểu tâm
pháp: Chúng sanh trong mười phương thế giới,
ai nấy đều có ư niệm của riêng ḿnh. Đại
Thế Chí Bồ Tát chẳng giống như vậy. Ư niệm
của Đại Thế Chí Bồ Tát có thể bao hàm chúng
sanh trong mười phương thế giới. Tất cả
chúng sanh trong mười phương thế giới đều
chẳng rời khỏi một niệm của Đại
Thế Chí Bồ Tát. Một niệm của Ngài là toàn thể
tâm tánh. Chúng ta chẳng có thời khắc nào không ở trong
tâm niệm của Đại Thế Chí Bồ Tát. Do vậy,
chẳng liễu giải lư, sẽ nghĩ Đại Thế
Chí Bồ Tát và ta có quan hệ ǵ? Quán Thế Âm Bồ Tát và
ta có quan hệ ǵ? Ngỡ là chẳng có mối quan hệ nào!
Hoàn toàn chẳng phải là Bồ Tát vứt bỏ chúng ta, mà
là do bản thân chúng ta chẳng tiếp nhận trí huệ
quang của Bồ Tát. Chỉ cần chúng ta cảm nhận
đạo lư này, sẽ mọi lúc, mọi nơi, đều
ở trong quang minh của Bồ Tát. Trong phần trước
đă nói đến Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ
Tát tầm thanh cứu khổ; hễ có tai nạn, thống
khổ ǵ, Quán Thế Âm Bồ Tát ngay lập tức cứu
vớt. V́ sao Quán Thế Âm Bồ Tát có thể cứu vớt?
V́ chúng ta ở ngay trong tâm niệm của Ngài. Quán Thế Âm
Bồ Tát có thể tầm thanh cứu khổ, Đại
Thế Chí Bồ Tát cũng có thể tầm thanh cứu khổ
giống như vậy. “Tầm
thanh cứu khổ” vẫn là [nói đến] những
chuyện mà bọn phàm phu chúng ta có thể nghĩ tới. Lợi
ích thật sự ở chỗ nào? Chúng ta luôn ở trong tâm
niệm của Bồ Tát. Hễ chúng ta cảm nhận quang
minh của Bồ Tát gia bị, sẽ có thể dùng quang minh
của Bồ Tát để trừ sạch Phiền Năo
Chướng và Sở Tri Chướng trong tâm. Sau khi đă phá
trừ chướng ngại, mới có thể cùng Bồ
Tát trông thấy lẫn nhau. Thấy Pháp Thân của Bồ
Tát, nói theo Lư là như vậy đó. “Chấn động” nghĩa là quang minh trí huệ
nơi Pháp Thân của Bồ Tát khiến cho chúng sanh trong mười
phương thế giới đều có thể đạt
được lợi ích từ nơi Ngài.
(Kinh) Thử Bồ Tát tọa
thời, thất bảo quốc độ, nhất thời
động dao. Tùng hạ phương Kim Quang Phật sát,
năi chí thượng phương Quang Minh Vương Phật
sát, ư kỳ trung gian, vô lượng trần số.
(經)此菩薩坐時,七寶國土,一時動搖。從下方金光佛剎,乃至上方光明王佛剎,於其中間,無量塵數。
(Kinh: Khi vị
Bồ Tát này ngồi, cơi nước bảy báu, cùng lúc dao
động. Từ cơi Kim Quang Phật ở phương
dưới cho đến cơi Quang Minh Vương Phật ở
phương trên, vô lượng trần số cơi trong khoảng
ấy).
Đoạn trên là nói về
sự đi lại của Bồ Tát, đoạn này nói lúc
Bồ Tát ngồi, chẳng di động. “Thử Bồ Tát tọa thời” (Khi vị Bồ
Tát này ngồi): Khi Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi,
sẽ ngồi ở nơi đâu? “Thất bảo quốc độ” (Cơi nước
bảy báu): Ngài ngồi trong thế giới Cực Lạc,
ngồi trong đó, “nhất thời
động dao”, cũng cảm thấy thế giới Cực
Lạc dao động. Dao động có phạm vi to cỡ
nào? “Tùng hạ phương Kim Quang
Phật sát”: Từ cơi của Kim Quang Phật là cơi thấp
nhất ở phương dưới, “năi chí thượng phương Quang Minh Vương
Phật sát”, cho đến nơi cao nhất ở
phương trên là cơi của Quang Minh Vương Phật.
“Phật sát” (佛剎) là quốc
độ của Phật. “Ư
kỳ trung gian, vô lượng trần số”: Trong khoảng giữa từ
phương dưới cho đến phương trên, có vô
lượng cơi Phật số nhiều như vi trần
đều cảm nhận sự dao động. Sự chấn
động trong phần trước khiến cho năm
trăm ức hoa báu xuất hiện; ở đây, dao động
lại xuất hiện chuyện khác.
(Kinh)
Phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí, giai tất vân tập Cực Lạc
quốc độ, tắc tái không trung, tọa liên hoa ṭa, diễn
thuyết diệu pháp, độ
khổ chúng sanh.
(經)分身無量壽佛,分身觀世音,大勢至,皆悉雲集極樂國土。畟塞空中,坐蓮華座,演說妙法,度苦眾生。
(Kinh: Phân thân
của Vô Lượng Thọ Phật, phân thân của Quán Thế
Âm và Đại Thế Chí thảy đều nhóm họp
đông đảo như mây về cơi nước Cực Lạc,
đầy nghẹt trên hư không, ngồi trên ṭa hoa sen, diễn
nói diệu pháp, độ chúng sanh khổ năo).
Trong
khoảng giữa từ phương dưới cho đến
phương trên, có rất nhiều cơi Phật. Mỗi cơi
Phật bao gồm bao nhiêu quốc gia? Bao nhiêu quốc độ?
Đơn giản là chẳng thể nói rơ được, vô
lượng vô số! Nói như vậy, chẳng nghiên cứu
kinh Phật, quả thật, chẳng biết t́nh huống
bên ngoài thế giới [Sa Bà] sẽ là t́nh huống như thế
nào! Dẫu là một nhà khoa học vĩ đại đến
mấy trong hiện thời đi nữa, nghiên cứu thiên
văn, nghiên cứu kiểu nào cũng chẳng nghiên cứu
đến tầng bậc này. Tâm lượng người ấy
nhỏ nhoi như thế ấy, huống hồ kẻ chẳng
nghiên cứu thiên văn, tâm lư chỉ hạn cuộc trong những
chuyện nhỏ nhặt thường trông thấy hằng
ngày, đơn giản là càng chẳng có cách nào đàm luận!
Các quốc độ nhiều ngần ấy, những quốc
độ nhiều như vậy do đâu mà xuất hiện?
Cậy vào bọn phàm phu chúng ta th́ làm sao có thể ghi nhớ
rơ ràng cho được? Làm sao có thể quan sát rơ ràng cho
được? Chớ nên bỏ cuộc! Trong phần
trước đă nói: Nếu quư vị có thể thấy quang
minh nơi một lỗ chân lông [của Đại Thế
Chí Bồ Tát], sẽ có thể trông thấy [những quốc
độ ấy]. Điều này có nghĩa là chúng ta chỉ
cần thấu lộ tâm linh (linh minh giác tri) và quang minh từ
nơi bản tánh của chính ḿnh đôi chút, sẽ có thể
hoàn toàn trông thấy. Chẳng thể thấy, chỉ trách bản
thân chúng ta thiếu dụng công! Thật sự dụng công
chính là buông xuống vạn duyên. Niệm Phật phải
buông xuống vạn duyên; [ngay cả] học những môn khoa
học khác cũng đều là như vậy, phải buông
xuống! Trước khi buông xuống, phải thấy thấu
suốt; nhờ vào đâu để buông xuống? Phải thấy
thấu suốt! Kẻ b́nh phàm tưởng địa cầu
to lớn khôn cùng! Các quốc gia lớn nhỏ trên địa
cầu, thậm chí Đài Loan là một nơi bé tẹo
như thế, mọi người đều là “ngươi tranh, ta đoạt”,
tranh đến nỗi thiên hạ chẳng thể thái b́nh.
Tri kiến phàm phu nhỏ nhoi đến đáng
thương! Nếu tâm lượng của chính ḿnh rộng
mở một chút, sẽ có thể thấy “thông qua quang minh
nơi một lỗ chân lông để nh́n thế giới”,
nh́n lại, dẫu cho quư vị làm Tổng Thống, quư vị
cũng chẳng muốn làm! Đối với “đạo”
do nhà Phật đă nói, bất cứ học vấn, bất
cứ tôn giáo nào trên toàn thể thế giới, cũng
đều chẳng có cách nào luận định bằng
vai phải lứa cho được!
Cơi
Phật nhiều ngần ấy! Chỉ cần quang minh
nơi tâm tánh của chúng ta hiển hiện, [các cơi ấy]
sẽ đều ở trong tâm ta, kinh Phật gọi điều
này là “tâm pháp”. Đối với
vạn duyên hư vọng trong thế gian, chúng ta đều
buông xuống, quán tưởng “phân
thân Vô Lượng Thọ Phật”, Vô Lượng Thọ
Phật chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật phân ra rất
nhiều thân Ứng Hóa, lại c̣n có “phân thân Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”, tức là phân thân của Quán
Thế Âm Bồ Tát và phân thân của Đại Thế Chí Bồ
Tát. Đó là Tây Phương Tam Thánh. Thân Ứng Hóa của Tây
Phương Tam Thánh nhiều khôn xiết! “Giai tất vân tập Cực Lạc quốc độ”
(Thảy đều như mây nhóm về cơi nước Cực
Lạc). “Vân” là [cách nói tỷ
dụ] nhằm h́nh dung “đông nhiều”. Quư vị tính thử
mây trong không trung mà xem, có biết rơ con số hay chăng? Quá
ư là nhiều! Vân tập (雲集, như mây nhóm về)
trong cơi nước Cực Lạc. Cơi nước Cực Lạc
rộng lớn vô cùng! Trong phần trước, quán tưởng
y báo, một gốc cây, một phiến lá to cỡ nào? Các vị
hăy tự ḿnh hồi tưởng, huống chi toàn thể thế
giới Cực Lạc càng rộng lớn hơn! Cơi nước
rộng lớn ngần ấy, phân thân của Tây
Phương Tam Thánh đều vân tập trong quốc độ
Cực Lạc. Tiếp đó là từ ngữ h́nh dung, “tái tắc không trung”, “tắc tái” (畟塞) là tràn
ngập; khắp mọi nơi đều tràn đầy
trong không trung. Toàn thể không trung của thế giới Cực
Lạc đều tràn ngập phân thân của Phật và Bồ
Tát. Các Ngài “tọa liên hoa ṭa”, tức là ngồi trên ṭa hoa
sen. “Diễn thuyết diệu
pháp, độ khổ chúng sanh”: “Diệu pháp” là dạy kẻ khác thành Phật. V́
sao nói là “độ khổ chúng
sanh”? Trong thế giới Cực Lạc “vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc”
(chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những
điều vui). V́ sao ở đây nói là “độ khổ chúng sanh” (độ chúng sanh khổ
năo)? Chia thành hai điểm để nói:
1) Một
là hóa độ chúng sanh khổ năo. “Khổ” ở đây chẳng phải là nói tới
nỗi khổ của bọn chúng sanh phàm phu trong thế giới
Sa Bà. Thế giới Cực Lạc chẳng có các nỗi khổ,
chỉ hưởng các điều vui. Chữ Khổ trong
câu “vô hữu chúng khổ” là
nói tới các nỗi khổ trong thế giới Sa Bà. Trong
thế giới Cực Lạc, thật ra chẳng có các nỗi
khổ, chỉ có các niềm vui, nhưng xét theo Lạc
để nói th́ như Thiện Đạo đại
sư đă dạy rất rơ ràng: “Trong thế giới Cực Lạc, lạc cũng có
thứ bậc”. Chẳng hạn như nói đến trời
người, thế giới Cực Lạc có hai đường
nhân và thiên. So sánh với nhân thiên trong thế giới Sa Bà, chúng
sanh trong thế giới Sa Bà làm sao có thể sánh bằng hai
đường nhân thiên trong thế giới Cực Lạc?
Nhân thiên trong thế giới Cực Lạc thuần túy là lạc.
Nhưng so sánh giữa nhân thiên của thế giới Cực
Lạc và La Hán, Bồ Tát, th́ La Hán là bậc đă chứng
quả, đó là lạc. So sánh với nhân thiên chưa chứng
quả, nhân thiên chính là khổ. Lại hướng lên cao
hơn, Bồ Tát cũng có thứ bậc. Kể từ
Đăng Địa trở đi cho đến Đẳng
Giác, so sánh từng tầng một, địa vị cao thấy
chúng sanh thuộc địa vị thấp là “khổ chúng sanh”. Đó là một
cách giải thích.
2) Một
cách nói khác sẽ là: Phân thân Phật, Bồ Tát của Tây
Phương Tam Thánh nhiều ngần ấy ngồi trên ṭa
hoa sen, diễn thuyết diệu pháp, độ chúng sanh khổ
năo trong mười phương thế giới ở ngoài thế
giới Cực Lạc. Nếu chúng ta hỏi “v́ sao có thể
ngồi trên ṭa hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới mà có thể độ chúng sanh khổ năo trong mười
phương thế giới” ư? Trong phần trước,
đă có nói: Chỉ cần chúng ta có thể quán thấy quang
minh nơi một lỗ chân lông của Đại Thế
Chí Bồ Tát, sẽ thấy quang minh tịnh diệu của
mười phương vô lượng chư Phật.
Mười phương thế giới đều có thể
trông thấy, huống hồ thế giới Cực Lạc
lại càng có thể trông thấy. Do vậy, chúng sanh có thể
cảm nhận sự giáo hóa của Phật, Bồ Tát.
Đó là “độ khổ chúng
sanh”.
Trong
tiểu đoạn này, chủ yếu là quán tưởng
hai sự kiện của [Đại Thế Chí] Bồ Tát:
Một là quán tưởng lúc Bồ Tát đi, hai là [quán
tưởng] khi Bồ Tát ngồi. Tiếp đó, bèn nói:
(Kinh)
Tác thử quán giả, danh vi quán kiến Đại Thế
Chí Bồ Tát. Thị vi quán Đại Thế Chí sắc thân
tướng. Quán thử Bồ Tát giả, danh đệ thập
nhất Quán.
(經)作此觀者,名為觀見大勢至菩薩。是為觀大勢至色身相。觀此菩薩者,名第十一觀。
(Kinh: Hành phép
Quán này được gọi là quán thấy Đại Thế
Chí Bồ Tát. Đấy là quán tưởng tướng sắc
thân của Đại Thế Chí. Quán vị Bồ Tát này
được gọi là phép Quán thứ mười một).
Kinh
văn đến đây, đoạn văn này kết thúc
đoạn lớn thứ hai. “Tác
thử Quán giả, danh vi quán kiến Đại Thế Chí Bồ
Tát”: Hành phép Quán này được gọi là “quán thấy
Đại Thế Chí Bồ Tát”. “Thị
vi quán Đại Thế Chí sắc thân tướng” (Đây
là quán tướng sắc thân của Đại Thế Chí
Bồ Tát). Trên thực tế, [nói tới] “tướng sắc thân” chính là nói tới Pháp Thân.
[“Quán sắc thân tướng” chính là] quán tưởng Pháp
Thân của Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ thế trong bộ
Diệu Tông Sao, Thiên Thai đại sư [chú giải câu này
là] “thấy Pháp Thân của Bồ
Tát”, tức là [trông thấy] tướng sắc thân. “Quán thử Bồ Tát giả, danh
đệ thập nhất Quán”: Có thể quán Pháp Thân của
Bồ Tát thành công th́ gọi là phép Quán thứ mười một.
Dưới đây, [kinh văn] nói tới công đức và lợi
ích sẽ đạt được từ phép Quán này.
(Kinh)
Trừ vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử chi tội.
Tác thị Quán giả, bất xử bào thai, thường du
chư Phật tịnh diệu quốc độ. Thử
Quán thành dĩ, danh vi cụ túc quán Quán Thế Âm, Đại
Thế Chí.
(經)除無數劫阿僧祇生死之罪。作是觀者,不處胞胎,常遊諸佛淨妙國土。此觀成已,名為具足觀觀世音大勢至。
(Kinh:
Trừ tội trong vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử.
Người hành phép Quán này chẳng ở trong bào thai,
thường dạo chơi trong cơi nước tịnh diệu
của chư Phật. Phép Quán này đă thành, bèn gọi là
quán trọn vẹn Quán Thế Âm và Đại Thế Chí).
Chúng
ta phải liễu giải lợi ích trong đoạn này.
Trong nhân gian, chúng ta nói: “Tạo
lợi ích cho người khác”. Tặng cho người
ta tiền tài, hoặc cho người ta được
hưởng những điều lợi ích, kể ra
cũng được lắm, nhưng lợi ích thật sự
ắt phải là liễu sanh tử. Nếu chẳng giải
quyết sanh tử, sẽ chẳng có lợi ích thật sự
chi cả! Chúng ta sanh tử chẳng ngừng trong nhân gian,
có lợi ích ǵ đáng bàn? Tuy mong liễu sanh tử, v́ sao chẳng
thể liễu sanh tử? V́ chúng sanh phàm phu đời
đời kiếp kiếp chẳng hiểu đạo lư,
tạo tội nghiệp quá nhiều! Thậm chí ngay cả
vấn đề sanh tử cũng chẳng hiểu, làm sao
bàn đến chuyện liễu sanh tử cho được?
Ở đây, [kinh văn] dạy: Hành phép Quán này có thể “trừ vô số kiếp A-tăng-kỳ
sanh tử chi tội”. A-tăng-kỳ là thời gian dài
nhất. Do có tội nghiệp sanh tử gây chướng ngại,
khiến cho chúng ta chẳng thể liễu sanh tử,
trước sau qua lại sanh tử chẳng ngừng trong
lục đạo. Muốn đoạn sanh tử, ắt phải
diệt trừ tội nghiệp. Có thể trừ tội
nghiệp sanh tử trong vô số kiếp A-tăng-kỳ, bất
cứ lợi ích nào trong thế gian [cũng đều] chẳng
thể sánh bằng lợi ích ấy!
Tiếp
theo đó, đức Phật nói: “Tác thị quán giả, bất xử bào thai” (Người
hành phép Quán này chẳng ở trong bào thai). Có chúng sanh nào trong
thế giới Sa Bà chẳng ở trong bào thai? Sanh vào nhân
gian, đều từ bào thai sanh ra, khôn
lớn, chết già, lại chuyển sang đời sau, vẫn
ở trong bào thai. Nếu chẳng muốn ở trong bào
thai, mong liễu sanh tử, hăy văng sanh thế giới Cực
Lạc. Tới thế giới Cực Lạc, sẽ là liên
hoa hóa sanh, chẳng phải là ở trong bào thai của
người hay động vật. “Thường du chư Phật tịnh diệu quốc
độ” (Thường dạo chơi trong các cơi nước
tịnh diệu của chư Phật), “thường” (常)
là
vĩnh hằng. Luôn luôn có thể ngao du trong cơi nước
tịnh diệu của chư Phật. Cơi nước tịnh
diệu là ǵ? Tịnh (淨) là trừ khử sạch sành sanh tất cả
Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Diệu
(妙) là bản
tánh trọn đủ. Do vậy, tổ sư chú giải “tịnh diệu quốc độ”
chính là pháp giới, là Phật pháp giới! Thường dạo
chơi trong pháp giới của chư Phật, chúng ta
thường đặt tâm niệm nơi đó, kể cả
y báo trang nghiêm trong phần trước. Lại c̣n [đặt
tâm niệm] nơi các thứ trang nghiêm của Phật, Bồ
Tát, tâm tâm niệm niệm đều đặt nơi
đây, từng bước một nâng cao cảnh giới,
sẽ dần dần thoát ly nỗi khổ năo sanh tử
trong nhân gian. “Thử Quán thành dĩ”,
[nghĩa là] sau khi đă thành tựu phép Quán này, “danh vi cụ túc quán Quán Thế Âm,
Đại Thế Chí” (gọi là quán trọn vẹn Quán
Thế Âm và Đại Thế Chí). V́ sao là quán trọn vẹn
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí? Trong phần trước,
có nói tới cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát, có rất nhiều
chỗ tương đồng với chỗ này. Những
điều được nói ở đây cũng bao gồm
cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Hai vị Bồ Tát ngoại
trừ trên đỉnh đầu có tượng Phật hay
b́nh báu sai khác, những tướng khác đều hoàn toàn tương
đồng. Hăy xem hai vị đối chiếu nhau [để
quán tưởng cặn kẽ]. Đến đây là xong,
đă quán trọn vẹn. Quán tưởng hai vị Bồ
Tát đến đây đă trọn đủ, đă nói xong
xuôi!
Đến
đây, phép quán tưởng Tây Phương Tam Thánh đă nói
xong. Mọi người hăy thường quán tưởng
h́nh tướng Tây Phương Tam Thánh, thường tưởng
Tây Phương Tam Thánh. Có kẻ niệm Phật hỏi: “Thấy
Phật bằng cách nào?” Chỉ cần ư niệm thời thời
khắc khắc đặt nơi Phật, Bồ Tát, đến
khi lâm chung, sẽ tự nhiên cảm ứng Phật, Bồ
Tát tới nghênh tiếp. Liễu giải những đạo
lư này, sẽ có những lợi ích ấy. Hôm nay, chúng tôi nói
đến chỗ này bèn ngưng.
Tập 35
Thưa
các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị
đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi mốt,
bắt đầu từ hàng thứ hai. Tôi đọc
trước một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Kiến thử sự thời, đương khởi tự
tâm, sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới,
ư liên hoa trung, kết già phu tọa, tác liên hoa hợp
tưởng, tác liên hoa khai tưởng.
(經)見此事時,當起自心,生於西方極樂世界,於蓮華中,結跏趺坐。作蓮華合想,作蓮華開想。
(Kinh: Khi thấy
những điều này, hăy nên khởi tự tâm sanh trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, ở trong hoa
sen, ngồi kiết già. Tưởng hoa sen khép lại,
tưởng hoa sen nở ra).
IV.2.2.13. Phép Quán thứ
mười hai, Phổ Văng Sanh Quán
Một
bộ Thập Lục Quán Kinh này có mười sáu phương
pháp quán tưởng. Trong đoạn trước là nói về
phép Quán thứ mười một; đoạn này là phép Quán
thứ mười hai, gọi là Phổ Quán (普觀), tức
là quán trọn khắp. Trong những phần trước,
đă quán tưởng y báo trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, tức là các thứ tốt đẹp
nơi hoàn cảnh. Kế đó là quán tưởng chánh báo,
tức là [quán tưởng] A Di Đà Phật, Quán Thế Âm
Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát. Y báo và chánh báo
đă đều quán tưởng, các phương pháp đều
đă nêu ra. Hôm nay, bắt đầu tổng quy kết những
điều đă quán trong phần trước, gọi là Phổ
Quán. V́ sao gọi là Phổ Quán? Nguyên lai, những điều
được quán trong phần trước đều sử
dụng quán tưởng, tức là vận dụng công phu
quán tưởng. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy người tu
học trong thế giới này sử dụng công phu quán
tưởng, c̣n phép Quán này dạy học nhân chúng ta hăy
tưởng tượng hết thảy nhân duyên văng sanh của
chính ḿnh đều đă chín muồi. Chính ḿnh có loại
công phu ấy, trực tiếp đến thế giới Cực
Lạc. Đoạn này nhằm dạy về chuyện này.
Văng
sanh thế giới Cực Lạc là pháp môn đặc biệt
dành cho người học Phật mong đạt thành tựu
nhanh chóng nhất, có thể thành tựu ngay trong một
đời! Muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, phải liễu giải một đạo
lư: Bọn chúng sanh chúng ta đến bất cứ hoàn cảnh
nào là do ai khiến cho chúng ta đến đó? Do bản thân
chúng ta, đều là do chính chúng ta tạo nghiệp (trọn
đủ rất nhiều điều kiện); sau đấy,
mới đi đến hoàn cảnh ấy. Chẳng hạn
như nay chúng ta là chúng sanh trong nhân đạo, sanh trong nhân
gian, hoàn cảnh nhân gian hiện thời chẳng tốt
đẹp. Bất luận là tại Trung Hoa, hay ngoại quốc,
thời cổ cũng chẳng tốt đẹp! Trong bất
cứ triều đại nào, hễ làm người, đều
có rất nhiều nỗi đau khổ. Nhất là trong hiện
thời, thời đại dân chủ tốt đẹp
hơn thời đại quân chủ trong quá khứ,
nhưng mỗi nước trên thế giới đều rối
loạn dường ấy! V́ sao rối loạn như thế?
Đấy là do cộng nghiệp. Tất cả chúng sanh hễ
sanh vào nhân gian (chúng sanh trong nhân đạo), tâm lư mọi
người tạo thành hoàn cảnh này. Hoàn cảnh nhân gian
loạn như thế, mọi người đau khổ,
ai tạo ra những nỗi đau khổ đó? Do bản
thân của mỗi người tạo nghiệp. Chúng ta sanh
vào nhân gian, ở trong nhân gian, hứng chịu tám nỗi khổ
to lớn. Đó là do có cộng nghiệp và biệt nghiệp;
sau đấy, mới vào trong hoàn cảnh này để thọ
báo. Chúng ta ắt cần phải hiểu rơ điều này. Chúng
ta cảm thấy chỗ này chẳng tốt đẹp, chẳng
tốt đẹp th́ phải thay đổi hoàn cảnh.
Hoàn cảnh tốt nhất chính là Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Muốn tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, ắt phải đầy đủ các
điều kiện. Đó cũng là tạo nghiệp, nhưng
chẳng phải là tạo nghiệp sanh tử, chúng ta cần
tạo nghiệp thanh tịnh. Niệm Phật là tịnh
nghiệp, chúng ta phải tạo tịnh nghiệp. Tŕ Danh
Niệm Phật là nghiệp thanh tịnh. Ngoại trừ Tŕ
Danh Niệm Phật là công phu chánh thức, chúng ta phải liễu
giải hoàn cảnh. V́ thế, Quán Kinh đă giới thiệu
rất tỉ mỉ từng điều một về hoàn
cảnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới và
Phật, Bồ Tát ở trong ấy, khiến cho tâm lư của
chúng ta hướng tới y báo trang nghiêm và chánh báo trang
nghiêm trong thế giới Cực Lạc. Chúng ta hăy đặt
tâm nơi đó. Tâm hướng đến ở nơi
đâu, chúng ta sẽ đi về đó. Nghiên cứu tâm lư học,
sẽ biết đạo lư này; điều này phù hợp
tâm lư học nhất. Do vậy, tâm lư của chúng ta chuyển
biến, hướng đến thế giới Cực Lạc.
Hễ tâm lư chuyển biến, kinh văn đă dạy: “Thời thời khắc khắc
đều là người trong thế giới Cực Lạc”.
V́ thế, những điều được nói trong
đoạn này hết sức hữu ích đối với
người niệm Phật chúng ta!
“Kiến thử sự thời”
(Khi thấy chuyện này), ư nói: Quán tưởng Tây
Phương Tam Thánh, đều đă thấy A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát,
cũng như đă thấy y báo trong thế giới Cực
Lạc, lúc đó, “đương
khởi tự tâm”. Người học Phật chúng ta,
trong tâm phải khởi lên ư niệm, “sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới”
(sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới).
Trong tâm quán tưởng như thế này: Quán tưởng nay
ta không chỉ là ở trong nhân gian này thấy các thứ chánh
báo và y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, mà hiện
thời c̣n tổng quy kết toàn thể lại, chính ḿnh
đích thân sanh về thế giới Cực Lạc. Phải
chú ư mấy chữ ấy trong kinh văn! Hăy chú trọng chữ
Tâm trong “tự tâm”. [“Đương khởi” là hăy
nên] dấy lên cái tâm, “sanh” là
văng sanh. Từ nơi đây đi về Tây Phương, có
thế giới Cực Lạc. Hăy thuận theo tâm lư ấy
để tưởng như vậy. Tâm pháp tuyệt diệu
lắm! Tâm pháp chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ cần
động tâm, có thể nói là nhanh chóng nhất. Thế gian
nói đến vận tốc ánh sáng, [cho rằng] chẳng
có tốc độ nào nhanh bằng vận tốc ánh sáng.
Ánh sáng c̣n nhanh hơn âm thanh. Hễ nghiên cứu khoa học,
sẽ biết: Khi sét đánh, trước hết thấy
điện quang (ánh chớp chói ḷe), một lúc sau mới
nghe tiếng sấm vang rền từ xa. Có thể thấy là
vận tốc ánh sáng mau chóng. Vận tốc của ánh sáng
tuy mau chóng, vẫn chẳng [nhanh chóng] bằng cái tâm của
chúng ta. Khi cái tâm của chúng sanh dấy khởi, bất luận
xa bao nhiêu, sẽ ngay lập tức đến nơi, [tâm
niệm] có mức độ nhanh chóng chẳng thể
nghĩ bàn. V́ thế, tự tâm tưởng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sẽ đến
thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc
có ao bảy báu, “ư liên hoa
trung” (ở trong hoa sen), trong nhân gian là vào thai mẹ, c̣n đến
thế giới Cực Lạc là vào trong hoa sen, dùng hoa sen làm
bào thai. Hoa sen hết sức thanh tịnh. Ở trên ṭa hoa
sen, “kết già phu tọa”,
[nghĩa là] tĩnh tọa trên ṭa hoa sen, có [hai cách ngồi là]
“song bàn” (雙盤, ngồi
kiết già) và “đơn bàn” (單盤, ngồi
bán già), ngồi xếp bằng. Khi hoa sen vừa
đến ao bảy báu bèn khép lại, “tác liên hoa hợp tưởng” (tưởng hoa sen
khép lại). Khi hoa sen khép lại, nó lại rất nhanh chóng
nở x̣e ra, “tác liên hoa khai tưởng”
(tưởng hoa sen nở ra). Căn cứ trên mấy
câu kinh văn này, tâm lư của chúng ta chiếu theo thứ tự
văng sanh để suy tưởng từng tầng một: Hoa
sen khép lại, sau đấy, hoa sen lại nở ra. Khi hoa
sen nở, lại có những cảnh trí xuất hiện. Hăy
nắm vững những điều này để tưởng
theo thứ tự. Tưởng chính ḿnh đă tới ao bảy
báu trong thế giới Cực Lạc, ngồi trong hoa sen,
hoa sen khép lại; sau đấy, hoa sen lại nở x̣e.
(Kinh)
Liên hoa khai thời, hữu ngũ bách sắc quang, lai chiếu
thân tưởng. Nhăn mục khai tưởng, kiến Phật,
Bồ Tát măn hư không trung. Thủy, điểu, thụ
lâm, cập dữ chư Phật, sở xuất âm thanh, giai
diễn diệu pháp, dữ thập nhị bộ kinh hợp.
(經)蓮華開時,有五百色光,來照身想。眼目開想,見佛菩薩滿虛空中。水鳥樹林,及與諸佛,所出音聲,皆演妙法,與十二部經合。
(Kinh: Khi hoa
sen nở, tưởng có năm trăm luồng quang minh nhiều
màu sắc chiếu đến thân. Tưởng khi mở mắt,
sẽ thấy Phật, Bồ Tát đầy ắp trong
hư không. Những âm thanh do nước, chim, rừng cây và
chư Phật phát ra đều diễn diệu pháp, phù hợp
với mười hai bộ kinh).
“Liên hoa khai thời, hữu
ngũ bách sắc quang, lai chiếu thân tưởng”,
[nghĩa là] khi hoa sen nở, quang minh báu trong thế giới
Cực Lạc chẳng giống như ánh sáng trong thế
gian này nhạt nhẽo, chẳng có ǵ lạ lùng! Quang minh
trong cơi Cực Lạc có năm trăm màu. Quang minh có màu sắc
rực rỡ chiếu đến người quán tưởng
chúng ta. Quang minh chiếu đến có tác dụng ǵ? “Nhăn mục khai tưởng”:
Tưởng quang minh vừa chiếu tới, nhắm mắt
lại, giống như trong nhân gian, thai nhi vừa sanh ra, sẽ
nhắm mắt, sau một lúc, nó bèn mở mắt. Tưởng
hóa sanh trong hoa sen cũng giống như vậy. Được
quang minh báu chiếu tới, quang minh báu
có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. Quang minh biểu
thị trí huệ, vừa chiếu tới chúng ta, mắt liền
mở ra. Sau khi mở mắt, “kiến
Phật, Bồ Tát măn hư không trung” (thấy Phật, Bồ
Tát đầy ắp trong hư không). Chẳng mở mắt
th́ thôi, hễ mở mắt bèn thấy Phật, Bồ Tát quá
ư là nhiều! Đầy ắp trong hư không nơi thế
giới Cực Lạc. Trong thế giới này, chúng ta có thể
trông thấy [chuyện ấy] hay chăng? Chúng ta trông thấy
tượng Phật, tượng Bồ Tát, th́ cũng chẳng
phải là có thể dễ dàng trông thấy, cũng phải
đến đạo tràng th́ mới nh́n thấy. Đến
thế giới Cực Lạc, sẽ thấy Phật và Bồ
Tát trọn khắp hư không. Đă đến thế giới
Cực Lạc, hoa sen vừa nở, quang minh vừa chiếu,
vừa mở mắt ra, sẽ thấy Phật, Bồ Tát
đều trọn khắp hư không. Thấy Phật và Bồ
Tát nhiều ngần ấy th́ sao?
Trong
đoạn kinh văn kế tiếp: “Thủy, điểu, thụ lâm, cập dữ
chư Phật, sở xuất âm thanh, giai diễn diệu
pháp, dữ thập nhị bộ kinh hợp” (Những
âm thanh do nước, chim, rừng cây và chư Phật phát
ra đều diễn diệu pháp phù hợp với mười
hai bộ kinh). Trọn khắp thế giới Cực Lạc
có ao bảy báu, rừng cây, các thứ chim như bạch hạc,
công, két v.v... và chư Phật. Nước, chim, cây cối,
chư Phật trọn chẳng giống như trong thế
gian chúng ta. Chúng ta sống trong thành thị lâu ngày, hăy nên ra
ngoại thành ngắm phong cảnh. Ngắm rừng cây, nước
từ trên núi chảy xuống, chỉ nh́n ngắm mà thôi, sẽ
có tác dụng ǵ? Trông thấy cảnh sắc thiên nhiên tươi
đẹp, cũng cảm thấy rất vui sướng,
nhưng có đạt được lợi ích ǵ chăng? Chẳng
có! Nhưng trong thế giới Cực Lạc, nước có
âm thanh, chim có âm thanh, rừng cây có âm thanh do gió nhẹ lùa
qua, c̣n có âm thanh do chư Phật phát ra. Những âm thanh ấy
đều diễn diệu pháp, tức là đều nói ra
pháp tốt nhất, mầu nhiệm nhất. Những diệu
pháp chính là những pháp do đức Phật dạy bảo,
khiến cho chúng ta giác ngộ. Phàm phu là kẻ chẳng giác
ngộ. Tất cả mọi người trong nhân gian đều
có những nỗi thống khổ, bất luận là kẻ
bần cùng hay người giàu có, [kể cả] kẻ làm
đại tổng thống của nước Mỹ
cũng thế, đều có những nỗi đau khổ!
Những nỗi thống khổ ấy là do chính ḿnh chẳng
giác ngộ mà có. Hễ giác ngộ, những nỗi thống
khổ ấy bèn biến mất, chẳng c̣n nữa! Trong
thế gian này, chúng ta tới nơi đâu để nghe âm
thanh giác ngộ? Ngoài việc nghiên cứu kinh văn do Thích
Ca Mâu Ni Phật đă nói ra, quư vị đi đường
hay lên núi, đến những chỗ đó, có nghe âm thanh giác
ngộ hay chăng? Chẳng nghe thấy! Trong thế giới
Cực Lạc, nước, chim, rừng cây, cho đến
những âm thanh do chư Phật đă phát ra, đều khiến
cho chúng ta giác ngộ, “diễn
xuất diệu pháp”. Trong thế giới Cực Lạc,
bất luận y báo hay chánh báo đều diễn diệu
pháp. “Dữ thập nhị bộ
kinh hợp” (xứng hợp với mười hai bộ
kinh). “Mười hai bộ kinh”
chính là những đạo lư do Thích Ca Mâu Ni Phật đă
nói. Diệu pháp ắt phải ứng hợp mười
hai bộ kinh. Nếu không phù hợp, sẽ chẳng
đáng tin cậy! Đối với mười hai bộ
kinh, xin xem đề cương bài giảng.
IV.2.2.13.1. Mười hai bộ
kinh
Pháp
môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng gồm có mười
hai bộ môn (Dvādaśānga Buddhavacana):
1) Khế Kinh (契經, Sūtra):
Hết thảy các kinh văn đều gọi là Khế
Kinh. V́ sao gọi là Khế? Khế (契) là phù hợp,
tương xứng, khế cơ, khế lư. “Cơ” (機) biểu
thị thính chúng, căn cơ. Pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă
nói hết sức phù hợp [căn cơ của] thính chúng.
Thính chúng nghe xong liền hoan hỷ tiếp nhận, tức
là nghe hiểu. Ngoài việc khế cơ ra, c̣n phải khế
lư, Lư là chân lư. Những pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă
giảng đều là chân lư. V́ thế, kinh văn trong các
kinh Phật đều được gọi là Khế
Kinh, [ngụ ư] đă phù hợp căn cơ của người
nghe kinh, lại c̣n phù hợp chân lư.
2) Ứng
Tụng (應頌, Geya): Mỗi câu trong những bài tụng được
in sau kinh văn gồm có năm chữ, hay bốn chữ,
hoặc bảy chữ, cân đối, cú pháp nhất trí, bèn
được gọi là Tụng (頌). Phần Trùng Tụng sau
kinh văn, như trong kinh Hoa Nghiêm hoặc kinh Pháp Hoa, sau mỗi
đoạn kinh văn được nói xong bèn có Tụng Kệ
(頌偈), [tức
là] dùng phương pháp Tụng để nhắc lại ư
nghĩa đă giảng trong phần trước một
lượt, chọn lựa thể tài thi ca. Thơ Trung Hoa
phải gieo vần, những bài Tụng trong kinh văn chẳng
gieo vần. Số chữ trong mỗi câu giống nhau, đều
bằng chằn chặn, nên gọi là Tụng[6].
Do nhắc lại ư nghĩa trong kinh văn một lượt,
nên gọi là Trùng Tụng (重頌). Đấy là [thể
loại] Ứng Tụng.
3)
Phúng
Tụng (諷誦, Gāthā): Những lời lẽ
tán thán Tam Bảo, dùng những câu rất chỉnh tề
để tán thán Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.
Ngoài
ba loại trên đây (Khế Kinh, Ứng Tụng, và Phúng Tụng)
đều là những thể tài trong kinh văn, chín loại
sau đây đều [phân định dựa trên] những
chuyện được nói trong kinh văn, dựa theo từng
chuyện để kiến lập danh xưng.
4) Nhân Duyên (因緣, Nidāna): Nêu rơ duyên khởi
của kinh văn. Đức Phật nói bất cứ bộ
kinh nào cũng đều có nhân duyên. Thí dụ như nhân
duyên của Thập Lục Quán Kinh đă được nói
trong những phần trước. Trong Tạng Kinh c̣n có rất
nhiều kinh thuộc về Bổn Duyên Bộ[7]
chuyên nói về nhân duyên, đều thuộc về thể lọai
này.
5)
Bổn Sự (本事, Itivṛttaka): Các đệ tử
của đức Phật suốt một đời này làm
đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật. Có thể
làm đệ tử đức Phật chẳng phải là
chuyện ngẫu nhiên. Trong đời trước của
mỗi vị ấy đều có rất nhiều sự tích.
“Bổn Sự” là nói tới
những chuyện thuộc về đời trước của
các Ngài.
6)
Bổn
Sanh (本生, Jātaka): Những
chuyện về sự tu hành của chính đức Phật
trong đời trước.
7) Vị
Tằng Hữu (未曾有, Adbhutadharma): Nói tới
những chuyện chẳng thể nghĩ bàn, tức là những
chuyện mà bọn chúng sanh chúng ta có suy tưởng cũng
chẳng thể suy tưởng được, có nói
cũng chẳng thể nói lên lời! Những chuyện chúng
ta chưa từng thấy, chưa từng kinh nghiệm rất
nhiều. Thậm chí chuyện chẳng tưởng tượng
tới cũng quá ư là nhiều. V́ sao? Cái tâm của phàm
phu hết sức hữu hạn, v́ tâm lư của phàm phu suy
tưởng chẳng ngoài đời người ngắn
ngủi mấy chục năm. Phạm vi không gian hoạt
động của chúng ta nhỏ bé như thế, bị thời
gian rất ngắn ngủi và không gian rất nhỏ hẹp
trói buộc, khiến cho chúng ta chẳng thấy, chẳng
thể tưởng một thế giới rộng răi to lớn
hơn. Chuyện này đừng trách móc ai khác, hăy trách móc
chính ḿnh! Phàm phu tầm thường đều là như vậy.
Đức Phật nói ra những chuyện chẳng thể
nghĩ bàn mà bọn phàm phu chúng ta chẳng thể tưởng
tượng được. [Những chuyện ấy]
được gọi là Vị Tằng Hữu (chưa từng
có).
8)
Thí
Dụ (譬喻, Avadāna): Mượn
chuyện Giáp để nói chuyện Ất, lấy sự
kiện này để sánh ví sự kiện khác. V́ sao? Những
pháp do đức Phật đă nói, nói theo chân lư, chúng ta
đều chẳng hiểu. Đức Phật có rất
nhiều phương pháp, [chúng sanh] chẳng hiểu Lư,
[đức Phật] bèn nói thí dụ. Ngài nói ra các thứ thí
dụ, [khiến cho thính chúng] vừa nghe bèn có thể hiểu
rơ. Chẳng hạn như đức Phật dạy chúng ta
học Phật th́ phải hiểu rơ Phật tánh mà chính ḿnh
vốn sẵn có, tức bản tánh. Trong kinh Lăng Nghiêm,
đức Phật đă dạy: “Chẳng hiểu rơ bản tánh giống như nấu
cát [mà mong nấu] thành cơm”. Kẻ “chẳng hiểu
rơ bản tánh” là kẻ chẳng hiểu rơ cái ta chân chánh của
chính ḿnh, mê hoặc chân ngă, chẳng thể thọ dụng,
theo đuổi những thứ hư giả. Những thứ
hư giả là ǵ? Kẻ mong làm quan to trong thế gian, cứ
ngỡ quyền cao chức cả thật sự tồn tại.
Kẻ mong phát tài cứ ngỡ tiền tài là thứ thật
sự tồn tại. Nêu ra hai điều ấy, những
thứ khác cũng đều là như vậy. Kẻ chẳng
liễu giải chân ngă, đều coi những thứ ấy
là của chính ḿnh, là sở hữu của ḿnh, giống
như coi cát, đá là gạo để nấu thành cơm,
tới khi nào mới có thể nấu thành cơm? Chẳng
thể nấu thành công! Đức Phật dùng thí dụ này
để [chỉ rơ] người học Phật ắt phải
hiểu rơ tâm tánh của chính ḿnh. Sau khi đă hiểu rơ tâm
tánh, sẽ đạt được chân ngă, đáng tin cậy
hơn bất cứ thứ ǵ trong thế gian. Hết thảy
mọi thứ trong thế gian đều chẳng đáng
tin cậy, đều là những thứ hư giả, nhưng
có ai hiểu lư này? Đức Phật nói thí dụ rất
đơn giản: Nếu chẳng hiểu cái ta thật sự
của chính ḿnh, chẳng liễu giải tâm tánh, cứ coi
những thứ giả là thật, sẽ là giống như
“nấu cát thành cơm”, vĩnh
viễn chẳng thể thành công! Những điều giống
như vậy đều là nói Thí Dụ. Nói Thí Dụ ḥng
khiến cho người ta nghe xong, sẽ hiểu rơ chân lư.
9) Luận Nghị (論議, Upadeśa), Luận là biện
luận, Nghị là nghị luận. Trong kinh văn, thường
có đệ tử đức Phật nêu ra câu hỏi,
đức Phật giải đáp. Khi ư nghĩa c̣n chưa
được giải đáp rơ ràng, đệ tử lại
nêu câu hỏi. Cách dùng lư luận để phân biệt cho rơ
ràng thêm như vậy th́ gọi là Luận Nghị.
10)
Tự
Thuyết (自說, Udāna): Đức
Phật thuyết pháp, thông thường là đều có hàng
đại Bồ Tát hoặc các vị đệ tử khải
thỉnh. Tự Thuyết là không có ai khải thỉnh, đức
Phật tự động nói ra. Chẳng hạn như kinh
A Di Đà chẳng có ai khải thỉnh. Một mực từ
đầu đến cuối, đức Phật đều
dạy ngài Xá Lợi Phất hăy lắng nghe, ngài Xá Lợi
Phất hoàn toàn chẳng nêu câu hỏi nào! Toàn là do Thích Ca Mâu
Ni Phật chủ động nói ra. Loại này gọi là Vô Vấn
Tự Thuyết.
11)
Phương
Quảng (方廣, Vaipulya): Phương (方) là ngay
thẳng, Quảng (廣) biểu thị sự rộng lớn. Kinh Hoa
Nghiêm có tên gọi đầy đủ là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Dùng danh từ
Phương Quảng để biểu thị hết thảy
các kinh điển Đại Thừa: Những điều
được nói trong kinh văn đều nhằm dạy
người ta đạo thành Phật. Kinh thuộc loại
đại pháp được gọi là Phương Quảng.
12)
Thọ
Kư (授記, Vyākaraṇa): Đức
Phật thọ kư cho các vị đệ tử, [nghĩa
là] đức Phật huyền kư vị đệ tử
nào đó trong tương lai sẽ chứng quả vào lúc
nào, khi nào sẽ thành Phật, đó là Thọ Kư. Chỉ có
đức Phật thấy rơ chuyện này cho nên Ngài nói ra, bọn
phàm phu chúng ta ai có thể làm được? Do đại
trí huệ, đức Phật thấy hết thảy đều
rơ ràng, rành rẽ, đối với tất cả chúng sanh,
quá khứ, vị lai, hiện tại, đức Phật vừa
nh́n bèn hiểu rơ. Đó gọi là Thọ Kư.
Trên
đây là mười hai bộ trong sự thuyết pháp của
đức Phật. Chúng ta thường nói “Tam Tạng mười hai bộ” là nói tới
mười hai bộ môn này. Khi tu quán tưởng Phổ
Quán, quán tưởng thế giới Cực Lạc, thấy
các thứ hoàn cảnh: Hữu t́nh chúng sanh, rừng cây là vô
t́nh, tức y báo, c̣n có chư Phật thuộc về chánh
báo, diễn nói các pháp đều phù hợp với mười
hai bộ kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói. Điều
này đặc biệt quan trọng! V́ sao đặc biệt
quan trọng? Nay chúng ta thấy Phật pháp rất hưng thịnh,
khắp nơi đều có rất nhiều người học Phật, người diễn
giảng cũng rất nhiều. Phàm những chỗ diễn
giảng có phải đều là chánh pháp hay không? Chúng ta chẳng
thể nói như vậy được! Nếu cật vấn:
“Lời lẽ ấy chẳng phải là báng pháp ư?”
Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy rất rơ ràng, đừng
nói là kẻ b́nh phàm, ngay cả đối với người
đă dụng công đến mức độ ấy, trông
thấy [những ǵ trong thế giới Cực Lạc], vẫn
phải đối chiếu với mười hai bộ
kinh, vẫn phải là phù hợp kinh điển th́ mới tin
tưởng. Chẳng phù hợp, chẳng thể tin tưởng!
Huống hồ chúng ta ở trong thế gian này? Chúng ta ở
trong thế giới Sa Bà, nhất định phải hiểu
nguyên tắc này, bất luận nghe diễn giảng ở
chỗ nào, nghe giảng kinh, chính ḿnh phải biết [những
điều đă diễn giảng] có khế cơ, khế
lư hay chăng? Có phù hợp kinh Phật hay không? Nếu trái
nghịch kinh Phật, dẫu là Phật tái lai [giảng
nói], chúng ta cũng chẳng tin tưởng. V́ lẽ này, bậc
thiện tri thức vào thời cổ đă bảo: “Ly kinh nhất tự, tiện vi
ma thuyết” (Ĺa kinh một chữ, bèn là ma nói). “Ly” (離) là trái nghịch. Hễ
có một chữ mâu thuẫn với kinh, sẽ chẳng phải
là kinh Phật, mà là do ma nói. Chớ nên nghe pháp do ma nói. Kinh
văn ở đây nói: Dụng công đă đạt đến
mức độ đó, vẫn phải xét xem có phù hợp
với mười hai bộ kinh hay không? Chúng ta tŕ danh niệm
Phật, v́ sao vẫn phải học kinh? Học kinh là mong
thấy nhiều, biết rộng, gặp những chuyện
như bên ngoài đă nói, chính chúng ta có năng lực phân biệt,
biện định.
(Kinh) Nhược
xuất Định chi thời, ức tŕ bất thất.
Kiến thử sự dĩ, danh kiến Vô Lượng Thọ
Phật Cực Lạc thế giới. Thị vi Phổ Quán
Tưởng, danh đệ thập nhị Quán.
(經)若出定之時,憶持不失。見此事已,名見無量壽佛極樂世界。是為普觀想,名第十二觀。
(Kinh: Nếu
lúc xuất Định, hăy nghĩ nhớ, ǵn giữ chẳng
để mất. Đă thấy chuyện này th́ gọi là
thấy thế giới Cực Lạc và Vô Lượng Thọ
Phật. Đây là Phổ Quán Tưởng, gọi phép Quán thứ
mười hai).
Trong
lúc đang thấy y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Hơn nữa, y báo và chánh báo đều
diễn thuyết diệu pháp, đồng thời phù hợp
mười hai bộ kinh. Đấy là lúc nào? Lúc đang nhập
Định (khi quán tưởng nhập
Định) bèn trông thấy. “Nhược
xuất Định chi thời, ức tŕ bất thất”,
[nghĩa là] sau khi xuất Định, phải “ức tŕ” những điều
đă thấy trong Định, [tức là] vẫn nhớ
nghĩ những ǵ đă thấy trong Định, tiếp tục
ǵn giữ, chớ để mất đi. Bất luận ở
trong Định, hoặc chẳng ở trong Định,
tâm luôn đặt nơi y báo và chánh báo trong thế giới Cực
Lạc. Trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương có nói: “Tịnh
niệm tương kế” (Tịnh niệm tiếp nối).
[Xuất Định bèn ức tŕ những ǵ đă thấy
trong Định] chính là “tịnh
niệm tương kế”. Có thể giữ được
tịnh niệm tương kế, chúng ta sẽ chẳng
phải là chúng sanh khổ năo trong thế gian này. “Kiến thử sự dĩ, danh
kiến Vô Lượng Thọ Phật Cực Lạc thế
giới”: Thấy những sự ấy, gọi là thật
sự thấy Vô Lượng Thọ Phật, tức chánh
báo, và thế giới Cực Lạc, tức y báo. Chánh báo lẫn
y báo đều trông thấy. “Thị
vi Phổ Quán Tưởng, danh đệ thập nhị Quán”:
Hai câu này là tổng kết. Phổ Quán Tưởng là quán gộp
chung những điều đă quán tưởng thành công
trong phần trước (toàn thể). Chính ḿnh sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đối với
hết thảy hoàn cảnh, tất cả Phật, Bồ
Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều
thấy rơ ràng, rành rẽ, th́ được gọi là Phổ
Quán Tưởng, chính là phép Quán thứ mười hai trong Thập
Lục Quán Kinh.
Đối
với phép Quán này, các vị tổ sư thời cổ nói:
Nếu chẳng hành các phép Quán trước, chuyên quán tưởng
phép Quán này th́ cũng hết sức tốt. Chúng ta học Tŕ
Danh Niệm Phật, công khóa tụng niệm đều là
tŕ danh. Lúc thông thường, hễ suy nghĩ, chúng ta
nghĩ đến hoàn cảnh tốt đẹp trong thế
giới Cực Lạc; hễ suy tưởng bèn suy tưởng
Phật, Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc. Thường
xuyên tưởng như thế, tịnh nghiệp của chúng
ta sẽ dần dần chín muồi. Khi tịnh nghiệp
đă chín muồi, đến lúc thọ mạng chấm dứt,
sẽ như nước chảy măi thành gịng, tự nhiên “theo đường về nhà”. Hết
thảy đều hết sức quen thuộc, đến khi
thọ mạng chấm dứt, nói văng sanh bèn văng sanh, tuyệt
đối nắm chắc!
Tu
bất cứ pháp nào cũng đều là chánh trợ song tu.
Pháp môn Niệm Phật cũng là như vậy. Tŕ Danh Niệm
Phật là chánh công phu, nhưng c̣n có những trợ công phu
khác nữa. Nói thông thường: “
Dưới
đây là nói về sự cảm ứng. Quán tưởng
thành tựu sẽ đạt được cảm ứng
ǵ?
(Kinh)
Vô Lượng Thọ Phật, hóa thân vô số, dữ Quán
Thế Âm, cập Đại Thế Chí, thường lai chí
thử hành nhân chi sở.
(經)無量壽佛,化身無數,與觀世音,及大勢至,常來至此行人之所。
(Kinh: Vô
Lượng Thọ Phật, hóa thân vô số, cùng với Quán
Thế Âm, và Đại Thế Chí thường đến
chỗ của hành nhân ấy).
Thường
xuyên quán tưởng như vậy, “Vô Lượng Thọ Phật, hóa thân vô số”, Vô
Lượng Thọ Phật trong thế giới Cực Lạc.
Vô Lượng Thọ Phật là A Di Đà Phật, Ngài có vô
số thân ứng hóa. “Dữ Quán
Thế Âm, cập Đại Thế Chí”, c̣n có vô số [hóa
thân của] Quán Thế Âm Bồ Tát, vô số [hóa thân của]
Đại Thế Chí Bồ Tát, “thường
lai chí thử hành nhân chi sở”, thường đến
chỗ người tu hành phép quán tưởng này. Không chỉ
là đến, mà c̣n thường đến. Đây là đạt
được cảm ứng.
V́
sao có sự cảm ứng ấy? Chuyên tâm quán tưởng,
ư niệm chẳng đặt nơi giả tướng
trong nhân gian, chẳng tham cầu quyền thế, địa
vị, tiền tài trong thế gian. Nếu nghĩ đến
những món danh lợi ấy, nhục nhăn của chúng ta chẳng
trông thấy cơi trời đất mênh mông nơi tâm linh.
Chúng ta chẳng nghĩ tới danh lợi, tâm cảnh bèn rộng
mở, có thể thấy bản tánh của chính ḿnh, tức
là “lư tánh” như người
ta thường nói, chẳng xử sự theo cảm t́nh, lư
tánh bèn từ bản tánh tỏ lộ. Chúng ta vận dụng
tâm tư để thường tưởng y báo và chánh báo
trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, ánh sáng lư tánh
(bản tánh) chói ngời của chúng ta bèn khai phát. Kinh dạy:
“Mười phương ba
đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Quá khứ Phật,
hiện tại Phật, vị lai Phật (chúng ta đều
là vị lai Phật), Pháp Thân của ba đời chư Phật
hoàn toàn như nhau. Pháp Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật và Pháp
Thân của A Di Đà Phật cũng như Pháp Thân của chúng
ta là vị lai Phật hoàn toàn nhất trí. Pháp Thân chính là bản
thể. Bản thể đă là đồng nhất, hễ chúng
ta quán tưởng, bản thể sẽ phóng quang; lẽ
nào chẳng thể không cảm ứng với Phật, Bồ
Tát cho được? Tự nhiên Phật, Bồ Tát sẽ
tới. Giả sử đầu óc chúng ta luôn suy tưởng
quyền lực, dục vọng, làm thế nào để thỏa
măn quyền lực, dục vọng của chính ḿnh, đóng
chặt cánh cửa lớn nơi tâm linh của chính ḿnh, những
ǵ trông thấy đều là thế gian khổ năo, lúc nào mới
có thể thoát ly lục đạo? Văng sanh cũng đừng
mong mỏi nữa! Chúng ta phải tịnh niệm tiếp
nối. Tŕ Danh Niệm Phật là chánh công phu. Chẳng Tŕ
Danh Niệm Phật, bèn quán tưởng thế giới Cực
Lạc, tâm tư chẳng nghĩ chi khác. Hễ nghĩ
tưởng điều này, khi suy tưởng đă có công
phu, công phu đă đắc lực, mở mắt hay nhắm
mắt đều có thể thấy Phật, Bồ Tát.
Quán Kinh nói Nhất Tâm Tam Quán, hiểu
rơ chính ḿnh có Phật tánh, tức là Chân Như bản tánh. Nếu
Chân Như bản tánh thấu lộ đôi chút tin tức,
trí huệ của chúng ta sẽ to lớn khôn ngằn, sẽ
thấy được những cảnh giới tốt đẹp
nhất, mầu nhiệm nhất mà kẻ
khác chẳng trông thấy. Phật, Bồ Tát có thể đến,
mà chính ḿnh cũng có thể đi, đều là do bản tánh
có thể hiển lộ, cho nên mới có sự cảm ứng
tốt đẹp như thế. Hôm nay, tôi nói đến
chỗ này bèn ngưng.
Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư
Phần
7 hết
[1] Chữ Tha (他) đọc
theo âm Quan Thoại là Tā, trong khi chữ Tha (拖, c̣n một
âm Hán Việt khác nữa là Đà), âm Quan Thoại là Tuō. Trong khi đó, âm tiếng
phạn của Na-do-tha là Nayuta.
[2] Sở dĩ có cách nói này v́ trong chánh kinh
(trong phép Quán thứ chín, nói thân A Di Đà Phật cao “sáu
mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần”).
Tổ Thiên Thai cho rằng chữ “hằng hà sa” là thừa, v́ nếu nói hằng hà sa
th́ thân Phật không biết cao đến cỡ nào. Nếu
chấp nhận thân A Di Đà Phật là “sáu mươi
vạn ức na-do-tha do-tuần” th́ so
với thân Quán Thế Âm Bồ Tát cao tám mươi vạn
ức na-do-tha do-tuần ở đây, thân Phật sẽ thấp
hơn thân Bồ Tát! V́ thế, ngài Thiên Thai mới bảo
[thân Quán Thế Âm Bồ Tát] phải là mười tám
vạn ức thay v́ tám mươi vạn ức na-do-tha
do-tuần. Nhưng nếu giữ nguyên như chánh kinh
“thân A Di Đà Phật cao sáu mươi vạn ức
na-do-tha hằng hà sa do-tuần” th́ thân Quán Thế Âm Bồ
Tát cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần ở đây
sẽ hoàn toàn hợp lư.
[3] Theo ư nghĩa nguyên thủy, Quan
là một trong các loại trang sức để che tóc
hoặc bảo vệ đầu, che nắng, thường
gọi chung là Đầu Y (頭衣). Nói cặn kẽ, Quan bao
gồm bốn loại là Quan, Miện (冕), Biện (弁) và Trách (帻). Trong
đó, Miện là loại măo dành riêng cho đế
vương hoặc các khanh đại phu, chỉ dùng trong
các điển lễ lớn như tế Thiên Địa,
quốc khánh, đăng cơ (lên ngôi) v.v… Miện
thường có h́nh trụ, trên đỉnh là một
tấm đậy nằm ngang, phía trước và sau
đều có ngọc kết thành chuỗi, rủ xuống.
Số tua quy định rất rơ rệt: Thiên tử
mười hai tua, chư hầu chín tua, thượng
đại phu bảy tua, hạ đại phu năm tua.
Từ đời Hán trở đi, chỉ có hoàng đế
được phép dùng Miện. Biện là thứ măo dùng
trong nghi lễ, chỉ dành riêng cho nam giới, có tác dụng
thay thế vai tṛ của Miện trong thời cổ.
Biện thường có màu đỏ (dùng trong lễ
cưới) hoặc đen nhạt (dùng trong các dịp
lễ khác). H́nh thức chủ yếu là không có cánh măo,
chỉ tṛn xoe. Về sau, Biện biến thể thành h́nh
thức mũ quả dưa như người Măn Thanh
thường đội, trên chóp đỉnh gắn
ngọc quư hay đá quư. Kẻ b́nh dân đội miện
chỉ là một cục bông kết thành h́nh tṛn, bọc
vải. Trách là loại mũ dành cho nam giới, phổ
biến cho mọi tầng lớp. Trách có nhiều loại,
điểm khác biệt lớn nhất so với các loại
mũ khác là Trách có dây buộc dưới cằm cho
khỏi tuột. Từ đời Hán trở đi, Quan
trở thành từ ngữ chuyên môn chỉ các loại mũ
thường dùng cho giới quư tộc, c̣n các loại măo
thông thường như Trách chẳng hạn, thường
được gọi chung là “mạo
tử” (帽子) hoặc “đầu cân” (頭巾). Đầu cân có thể bao
gồm các loại khăn xếp quấn lên đầu,
hoặc các h́nh thức mũ vải khác biệt. Từ
đời Hán, đa số các loại Quan dành cho giới
quư tộc là biến thể của Miện (như các
loại măo dành cho hoàng hậu, phi tần như
Phượng Quan), hoặc là cách điệu hóa, phức
tạp hóa của Biện và Trách. Từ h́nh thức
đơn giản ban đầu, Quan đă trở thành
nhiều loại phức tạp như ngọc quan chỉ
che búi tóc (vai tṛ của ngọc quan mang tác dụng trang trí),
hoặc che trọn cả đầu như trường
quan hoặc tấn hiền quan.
[4] Từ lăo cư sĩ nói theo cách sử
dụng ấn tại Trung Hoa vào thời cổ, chứ ngay
các loại ấn của cá nhân hiện thời tại Trung
Hoa cũng có nhiều loại h́nh tṛn! Hơn nữa, trong
hiện thời, đa số các ấn (con dấu),
nhất là của các cơ quan chính phủ tại Hoa
Kỳ, đều khắc quốc huy, ấn của các
trường đại học thường khắc logo
biểu trưng cho từng đại học v.v...
[5] Danh xưng Đắc Đại
Thế trong kinh Pháp Hoa chỉ là một cách dịch khác
của danh hiệu Đại Thế Chí. Đôi khi, Ngài c̣n được
gọi là Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Biến Cát Tường
Bồ Tát, hoặc Linh Cát Bồ Tát. Trong Đông Mật, đôi
khi Ngài được gọi bằng tôn hiệu Đại
Dũng Kim Cang hoặc Tŕ Luân Kim Cang. Mật Tông Tây Tạng
thường coi Kim Cang Thủ Bồ Tát là thân phẫn nộ
của Đại Thế Chí Bồ Tát. Tuy thế, truyền
thống Đông Mật coi Kim Cang Thủ là thân phẫn nộ
của Phổ Hiền Bồ Tát.
[6] Chữ Tụng (頌)
trong Ứng Tụng có các ư nghĩa “ca tụng, ca ngợi,
tán thán, thơ ca tán dương”. Trong khi đó chữ Tụng
(誦) trong
Phúng Tụng có nghĩa là ngâm, đọc. Đối với
việc đọc tụng, c̣n có hai cách nói phân biệt:
Đọc thuộc ḷng, không cần kinh bổn là Tụng.
Nh́n vào kinh văn để đọc ra th́ gọi là Phúng (諷).
Đôi khi chữ Tụng (誦) dùng với ư nghĩa
xưng tụng, giống như chữ Tụng (頌).
[7] “Bộ” (部) ở đây có nghĩa là một
tiểu loại trong Đại Tạng Kinh. Để
hệ thống hóa các kinh nhằm thuận tiện nghiên
cứu, học tập, chư Tổ đă xếp những
bản dịch khác nhau của cùng một kinh, hoặc
những kinh có ư nghĩa tương tự, hoặc cùng
thuộc một hệ thống giáo nghĩa thành từng loại
riêng biệt, gọi là Bộ, chẳng hạn A Hàm Bộ,
Bát Nhă Bộ, Hoa Nghiêm Bộ, Pháp Hoa Bộ, Bảo Tích
Bộ, Đại Tập Bộ, Mật Bộ…