Phật Thuyết

Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh

Giảng Kư

Phần 7

佛說觀無量壽佛經講記

Chủ giảng: Lăo cư sĩ Từ Tỉnh Dân (徐醒民)

khởi giảng từ ngày Hai Mươi tháng Sáu năm 1997

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 31

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, hôm nay là buổi giảng đầu tiên sau Tết năm nay. Hiện thời, vẫn c̣n đang trong tháng Giêng; trước hết, hướng về các vị, năm cũ đă qua, xin chúc mừng các vị năm mới vui vẻ. Trong năm mới, quư vị sẽ phước đức và trí huệ ngày càng rộng mở, vạn sự như ư! Bây giờ, xin quư vị mở kinh bổn, trang mười bảy, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy: “Kiến Vô Lượng Thọ Phật liễu liễu phân minh dĩ, thứ diệc ưng quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân trường bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần, thân tử kim sắc. Đảnh hữu nhục kế, hạng hữu viên quang, diện các bách thiên do-tuần. Kỳ viên quang trung, hữu ngũ bách Hóa Phật, như Thích Ca Mâu Ni”.

      ()佛告阿難,及韋提希:見無量壽佛了了分明已,次亦應觀觀世音菩薩。此菩薩身長八十萬億那由他由旬,身紫金色。頂有肉髻,項有圓光,面各百千由旬。其圓光中,有五百化佛,如釋迦牟尼。

          (Kinh: Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Đă thấy Vô Lượng Thọ Phật rành rẽ, phân minh rồi. Kế đó, cũng nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần, thân màu vàng tía. Đỉnh đầu có nhục kế, cổ có viên quang, mỗi phía [rộng đến] trăm ngàn do-tuần. Trong viên quang ấy, có năm trăm Hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Phật”).

 

IV.2.2.11. Phép Quán thứ mười, Quán Âm quán

 

           Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật c̣n gọi tắt là Thập Lục Quán Kinh, có mười sáu phương pháp Quán. Trong mười sáu phép Quán, chia thành ba bộ phận lớn:

1) Một, sáu phép Quán đầu tiên (từ phép Quán thứ nhất tới phép Quán thứ sáu) là quán các hoàn cảnh đẹp đẽ trong thế giới Cực Lạc, từ phép Quán mặt trời cho đến Tổng Quán, có tất cả sáu loại (thuộc về y báo).

2) Hai, khởi đầu từ phép Quán thứ bảy (từ phép Quán thứ bảy cho đến phép Quán thứ mười ba) nói về cách quán chánh báo trong thế giới Cực Lạc. [Quán tưởng] chánh báo là quán A Di Đà Phật và những vị đại Bồ Tát. Có tất cả bảy phép Quán.

3) Ba, quán ba bậc chín phẩm (từ phép Quán thứ mười bốn cho tới phép Quán thứ mười sáu).

          Chúng tôi đă nói các phép Quán chánh báo thứ bảy, thứ tám, và thứ chín; hôm nay, bắt đầu cùng các vị nghiên cứu phép Quán Bồ Tát. Bồ Tát ở Tây Phương, đạo tràng của chúng nay đang thờ tượng Tây Phương Tam Thánh: Chính giữa là A Di Đà Phật; hai bên, một vị là Quán Thế Âm Bồ Tát, vị kia là Đại Thế Chí Bồ Tát. Nay chúng ta nghiên cứu cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát.

          Khéo sao vừa đúng dịp mở đầu một năm mới, chúng tôi bắt đầu nói đến phép Quán này. Chúng ta biết Quán Thế Âm Bồ Tát và thế gian của chúng ta hết sức hữu duyên, vừa khéo nói đến đoạn này, đây đúng là một dịp ngàn năm khó gặp gỡ đấy nhé! Mọi người phải giữ tâm lư “[đây là một cơ duyên] rất khó, hiếm có” để học tập kinh văn của phép Quán này.

          Trong quá khứ, chúng ta thường thấy các vị tổ sư khai thị: “Phải thân cận thiện tri thức! Thân cận người có phước đức, sẽ có các thứ lợi ích”. Nay chúng ta học cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Đă thế, vị Bồ Tát này có nhân duyên hết sức sâu dầy đối với thế gian này, chúng ta nghiên cứu một chương kinh văn này, chủ yếu là nói đến chuyện quán tưởng. Nếu chẳng quán tưởng, chỉ niệm danh hiệu của Bồ Tát, hoặc trước hết liễu giải danh hiệu của Bồ Tát, sẽ đều giống như thân cận Quán Thế Âm Bồ Tát vậy! Hăy ngẫm xem, chúng ta thân cận một vị thiện tri thức b́nh phàm đă là rất khó có, huống hồ nay đang thân cận một vị đại Bồ Tát như vậy, càng khó có hơn nữa! Chúng ta có nhân duyên với vị Bồ Tát này, phước báo của chúng ta nhất định chẳng phải là tới đời này mới gieo trồng, mà tất nhiên là đă vun bồi từ nhiều đời, tới nay mới kết thành nhân duyên tốt đẹp này, [v́ vậy] chúng ta mới có thể thân cận Quán Thế Âm Bồ Tát trong lúc này!

          Bây giờ, hăy xem kinh văn: “Phật cáo A Nan, cập Vi Đề Hy”. “Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài bảo tôn giả A Nan và phu nhân Vi Đề Hy. “Kiến Vô Lượng Thọ Phật liễu liễu phân minh dĩ” (Đă thấy Vô Lượng Thọ Phật rành rẽ, phân minh): Phép Quán trong phần trước là quán Vô Lượng Thọ Phật (cũng chính là A Di Đà Phật). Quư vị quán tưởng, đă thấy A Di Đà Phật. “Liễu liễu phân minh” tức là đối với các thứ trang nghiêm nơi thân A Di Đà Phật, toàn bộ đều thấy rơ ràng, rành mạch. “Liễu” () là rốt ráo nhất. “Dĩ” () là đă thấy. Sau khi đă thấy hoàn toàn xong, “thứ” () là tiếp đó. Tiếp theo đó là ǵ? “Diệc ưng” (亦應): Cũng phải nên. “Quán” (): Chữ Quán trước đó (tức là chữ Quán trong câu “quán Quán Thế Âm Bồ Tát”)  nhằm nói đến cách Quán do đức Phật đă dạy. Quán ǵ thế? Quán “Quán Thế Âm Bồ Tát”. Tiếp theo đó, quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Mấy câu này nhằm tiếp nối ư trong phần trước, dẫn khởi phần sau, tức là để kết thúc phép Quán trong phần trên, mở ra phần kinh văn kế tiếp. Kết cấu trong đoạn này được nói như thế đó. Tiếp theo đó là chánh thức tŕnh bày cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát như thế nào.

          Trước khi chánh thức tŕnh bày cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát như thế nào, chúng ta dựa theo chú giải của tổ sư, phải liễu giải vị Bồ Tát này chẳng tầm thường. Theo kinh Quán Âm Tam Muội đă dạy, trong đời quá khứ, Quán Thế Âm Bồ Tát đă thành Phật, lại c̣n có Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Sau khi Ngài đă thành Phật, nay lại trở vào thế gian, dùng thân phận Bồ Tát để giúp A Di Đà Phật hóa độ chúng sanh. Phật pháp gọi chuyện này là “đới quả hành nhân” (帶果行因, mang theo quả để [thị hiện] sự tu nhân).

          “Đới quả hành nhân” là ǵ? Học Phật, nhất định sẽ chứng quả. Chứng quả ǵ vậy? Chứng quả La Hán bèn thoát lục đạo luân hồi, nhưng đấy vẫn chưa phải là rốt ráo! Rốt ráo là chứng Phật quả; thành Phật mới là chứng đại quả. “Nhân” là trước khi chứng quả, hành Bồ Tát đạo, làm đủ mọi công đức đều gọi là “nhân”. Quán Thế Âm Bồ Tát đă thành Phật trong đời quá khứ, tức là bậc đă chứng Phật quả, nay lại quay về hành Bồ Tát đạo. Đấy là dự vào địa vị tu nhân. Ngài mang theo Phật quả, thị hiện những chuyện thuộc về địa vị tu nhân, đến hóa độ chúng sanh. Do vậy, chúng ta phải liễu giải điểm đặc thù của vị Bồ Tát này là “đới quả hành nhân”, Ngài có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. Đây là tầng [ư nghĩa] thứ nhất, chúng ta ắt cần phải liễu giải.

          Kế đó, khi chúng ta quán Quán Thế Âm Bồ Tát, bản thân chúng ta nhất định phải mở rộng tâm lượng rất lớn; sau đấy, mới xem phần kinh văn dạy về thân thể cao lớn của Quán Thế Âm Bồ Tát. Bọn người tầm thường như lũ chúng ta trong thế gian chẳng thể thấy thân cao lớn như vậy. Thân Ngài cao mấy chục vạn ức [do-tuần], ắt cần phải mở rộng tâm lượng th́ mới có thể liễu giải.

          “Thử Bồ Tát thân trường bát thập vạn ức na-do-tha do-tuần” (Thân vị Bồ Tát ấy cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần): Trước hết, nói về chiều cao nơi thân Bồ Tát (“thân trường” là chiều cao của thân). “Do-tuần” (Yojana) là tên gọi của đơn vị đo lường chiều dài ở Ấn Độ vào thời cổ. Một do-tuần là bao nhiêu? Nói theo lộ tŕnh, có khi nói bốn mươi dặm là một do-tuần, có khi nói ba mươi dặm là một do-tuần. Bất luận ba mươi dặm hoặc bốn mươi dặm, dùng chiều dài ấy xếp theo chiều dọc để tính độ cao, đáng nể lắm! Ví như chúng ta thấy cao ốc mấy trăm tầng trong thế giới này, vẫn chưa đạt đến chiều cao ba mươi dặm! Trước chữ “do-tuần”“na-do-tha” (chữ “” đọc theo âm chữ “” (tha[1])). “Na-do-tha” (Nayuta) là tên gọi của một số đếm. Vào thuở đó, tại Ấn Độ, Na-do-tha là một Ức. Bất quá, thuở ấy, tại Ấn Độ, đối với chữ Ức, có tới mấy cách nói. Có khi nói mười vạn là một ức, có khi nói một trăm vạn là một ức, c̣n có khi nói một ngàn vạn là một ức. Có ba phương thức tính toán khác nhau như vậy. Chúng ta chọn con số nhỏ nhất, coi mười vạn là một ức! Đối với lộ tŕnh, chúng ta cũng chọn cách nói ngắn nhất, coi ba mươi dặm là một do-tuần. “Na-do-tha do-tuần” là mười vạn nhân với ba mươi dặm (10.000 x 30 = 300.000, ba trăm ngàn dặm), có độ cao ngần ấy. Trước đó, lại thêm vào con số “tám mươi vạn ức”. Tôi nghĩ quư vị chẳng cần tính con số “tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần”, chỉ biết là cao quá cỡ! Nếu phải tính toán chi tiết, cũng rất mất công! Hăy ngẫm xem, thân Quán Thế Âm Bồ Tát cao dường ấy!

          Bất quá, đối với hai chữ “tám mươi” trong câu “tám mươi vạn ức”, có bản chú giải (tức bản chú giải của tông Thiên Thai) cho rằng: So sánh với chiều cao của thân A Di Đà Phật đă nói trong phần trước, ở đây, chẳng phải là “tám mươi vạn ức”, mà phải nên là “mười tám vạn ức”. So sánh với thân A Di Đà Phật đă nói trong phần trước[2] [th́ thân Quán Thế Âm Bồ Tát] phải thấp hơn một chút. Bất quá, cũng có những bản chú giải khác chẳng chấp nhận cách nói này, [chúng tôi] vẫn chiếu theo [nguyên văn trong chánh kinh] để nói là “tám mươi vạn ức”. Chúng ta hiểu rơ có cách chú giải như vậy là được rồi! Khi nghiên cứu kinh văn, vẫn đọc là “tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần”. Đấy là nói về chiều cao nơi thân Bồ Tát.

          Quán Thế Âm Bồ Tát không chỉ cao như thế, lại c̣n là “thân tử kim sắc”. Kim sắc đă tuyệt diệu lắm rồi (rất đáng quư), mà trong các loại kim sắc (màu sắc của chất vàng), tử kim sắc (紫金色, màu vàng có ánh tía) lại càng đẹp đẽ hơn nữa. So với màu sắc của các loại vàng thông thường, sẽ càng đẹp hơn nữa, nên gọi là “tử kim sắc”. Sau khi đă nói độ cao nơi thân và thân có màu tử kim xong, bèn nh́n từ đỉnh đầu của Bồ Tát: “Đảnh hữu nhục kế” (Đỉnh đầu có nhục kế). Đức Phật có ba mươi hai tướng, đại Bồ Tát cũng có ba mươi hai tướng giống như vậy. “Nhục kế” (肉髻, Uṣṇīṣa) là một trong ba mươi hai tướng. Các vị thấy tượng Phật thờ trong đạo tràng, trên đỉnh đầu có một khối đo đỏ (giống như màu đỏ của mặt trời), đó chính là nhục kế trên đỉnh đầu đức Phật. Sau khi đă thấy nhục kế, lại xem tới cổ. “Hạng hữu viên quang” (Cổ có viên quang). Chữ Hạng () chỉ phần cổ ở dưới đầu. Bốn phía của cổ có viên quang. Chúng ta thấy phía sau tượng Phật, Bồ Tát đều có những luồng sáng tỏa ra. “Viên quang” là quang minh từ cổ chiếu ra. Quang minh chiếu ra từ cổ ấy như thế nào? “Diện các bách thiên do-tuần” (Mỗi phía rộng tới trăm ngàn do tuần): Quang minh từ cổ có bốn phía, mỗi phía đều rộng đến trăm ngàn do-tuần. “Kỳ viên quang trung, hữu ngũ bách ức Hóa Phật, như Thích Ca Mâu Ni” [nghĩa là] trong quang minh phát ra từ cổ ấy, c̣n có năm trăm vị hóa thân Phật giống như những vị ứng hóa Phật của Thích Ca Mâu Ni Phật vậy! Đây là nói từ nhục kế cho đến “hạng quang” (項光, quang minh phát ra từ cổ), từ trong hạng quang hiển lộ Hóa Phật.

 

          (Kinh) Nhất nhất Hóa Phật, hữu ngũ bách Hóa Bồ Tát, vô lượng chư thiên, dĩ vi thị giả.   

       ()一一化佛,有五百化菩薩,無量諸天,以為侍者。

          (Kinh: Mỗi một Hóa Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư thiên làm thị giả).

 

          Năm trăm vị Hóa Phật, “nhất nhất Hóa Phật, hữu ngũ bách Hóa Bồ Tát”, mỗi vị Hóa Phật lại có năm trăm vị Hóa Bồ Tát. Ngoài ra, mỗi vị Hóa Phật c̣n có “vô lượng chư thiên”, nhiều đến mức không kể xiết chư thiên. “Dĩ vi thị giả”: Làm thị giả của Hóa Phật. Đă nói về Hóa Phật và Hóa Bồ Tát xong; kế đó, lại nói tới những điều tốt đẹp nơi thân quang.

 

          (Kinh) Cử thân quang trung, ngũ đạo chúng sanh, nhất thiết sắc tướng, giai ư trung hiện.

      ()舉身光中,五道眾生,一切色相,皆於中現

(Kinh: Trong vầng quang minh khắp thân, hết thảy các sắc tướng của chúng sanh trong năm đường đều hiện trong ấy).

 

          “Cử thân quang trung” là ở trong toàn thể thân quang (quang minh phát ra từ thân) của Quán Thế Âm Bồ Tát, có “ngũ đạo chúng sanh”, tức là trời, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục (A Tu La đạo được tính gộp trong trời, người, súc sanh, và quỷ. V́ thế, “ngũ đạo” chính là lục đạo), [đó là] chúng sanh trong năm đường. “Nhất thiết sắc tướng” (Hết thảy các sắc tướng), đủ mọi trạng huống, “giai ư trung hiện” (đều hiện ở trong ấy), “trung” () là ở trong thân quang của Bồ Tát, có thể hiện ra trạng huống của tất cả chúng sanh trong năm đường. V́ sao từ toàn thể thân quang của Quán Thế Âm Bồ Tát có thể hiện ra h́nh tướng của chúng sanh trong năm đường? Chúng ta thường nói Quán Thế Âm Bồ Tát là “đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn”. Trong tâm Ngài, chẳng có thời khắc nào là không chiếu cố chúng sanh khổ nạn. Chúng sanh khổ nạn chẳng giới hạn trong tam đồ. Đương nhiên là tam đồ khổ sở nhất, nhân gian rất khổ, [ngay cả] chúng sanh trong thiên đạo cũng khổ. Do vậy, trong tâm Quán Thế Âm Bồ Tát luôn nghĩ tới các chúng sanh trong lục đạo. Trong tâm Ngài nghĩ tới những chúng sanh ấy; v́ thế, trong thân quang bèn hiển hiện [h́nh trạng của họ].

          Chúng ta thường nói: “Nhờ ai đó giúp đỡ, chiếu cố khá nhiều”. Dùng ǵ để chiếu cố? Chính là quư vị có ḷng nghĩ đến. Từ lư tánh nơi tâm của mỗi người chúng ta phát ra, trong tâm luôn có quang minh. Dùng quang minh của quư vị để gia bị, chiếu cố. Do v́ trong tâm Quán Thế Âm Bồ Tát nghĩ tới chúng sanh, trong quang minh của Ngài tự nhiên hiển hiện lục đạo chúng sanh. Tâm Bồ Tát đă nghĩ tới chúng ta như vậy, chúng ta gặp phải bất cứ vấn đề ǵ, chẳng cần nghĩ chi khác, chúng ta vừa nghĩ Quán Thế Âm Bồ Tát có thể giúp chúng ta giải quyết chuyện ấy, đúng là sẽ có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn! Trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn của kinh Pháp Hoa đă nói chuyện này rất cặn kẽ. V́ thế, hiểu rơ đạo lư này, chúng ta sẽ hiểu rơ [v́ sao] kinh văn nói trong thân quang của Quán Thế Âm Bồ Tát có thể hiển lộ hết thảy sắc tướng của chúng sanh trong năm đường. Trong tâm Bồ Tát, thời thời khắc khắc đều có bọn chúng sanh chúng ta, thời thời khắc khắc Ngài đều muốn đến cứu vớt chúng ta, mà lũ b́nh phàm chúng ta thường nói: “Chúng ta cần Ngài cứu giúp nỗi ǵ? Nay ta sống rất tốt đẹp, rất sung sướng mà!” Đấy là v́ lũ phàm phu chúng ta chẳng liễu giải chúng sanh là pháp thế gian sanh diệt; một nhánh hoa, một ngọn cỏ trong thiên nhiên nơi thế gian chẳng có thời khắc nào không đang sanh sanh diệt diệt!

          Nói đến bọn chúng sanh chúng ta, lấy ngay đời người để nói: Mấy chục năm ngắn ngủi, dẫu sống đến một trăm năm, dẫu lâu hơn một tí, sống đến một trăm hai mươi tuổi, vẫn có lúc thọ mạng chấm dứt. Sau khi đă mạng chung, tương lai trong đời sau sẽ là như thế nào? Rốt cuộc sẽ vào trong đường nào? Chính ḿnh chẳng thể nắm chắc! Dẫu trong đời này chẳng tạo ác nghiệp rất lớn, đời sau sanh vào nhân gian, nhân gian khổ sở quá đỗi! Chỉ cần lưu ư quan sát đôi chút, [sẽ thấy]: Từ xưa tới nay, nh́n vào lịch sử nhân loại, sẽ biết trong và ngoài nước đều là như vậy. Có chiến tranh, có đủ mọi mối ân oán cá nhân, có những chuyện dây dưa không rơ như thế ấy, đều là những nỗi khốn khổ mà mỗi chúng sanh gặp gỡ, lại c̣n chẳng thể giải quyết được! Do vậy, người học Phật, hễ giác ngộ đôi chút, sẽ biết: Bất luận là nhân vật như thế nào trong thế gian này, dẫu là kẻ giàu có cách mấy, hoặc là kẻ có quyền lực chánh trị [to lớn] cách mấy đi nữa, trong tâm Bồ Tát, họ đều là những chúng sanh khổ năo, Ngài luôn muốn đến cứu vớt chúng ta. V́ thế, chúng ta phải thời thời khắc khắc nhắc nhở chính ḿnh, ắt phải giác ngộ: Sống trong thế gian, có thể duy tŕ sự b́nh an là đă quá tốt đẹp rồi. Nếu mong được b́nh an vô sự, sẽ là chuyện hết sức tuyệt diệu! Ở trong thế gian như vậy, nếu chẳng cầu phát nguyện văng sanh thế giới Cực Lạc, cứ tự ḿnh học Phật, quả thật chẳng xứng đáng! Học Phật để cầu đời sau hưởng thụ phước báo trong cơi nhân thiên, đấy là sai lầm! Ắt phải phát nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thoát ly lục đạo trong thế gian thống khổ này!

          Do vậy, chúng ta thật sự mong cầu Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, tức là hy vọng trong tương lai, khi thọ mạng chấm dứt, Ngài sẽ theo A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc. Đó là chuyện vị lai, c̣n trước mắt th́ sao? Bồ Tát dùng quang minh của Ngài để chiếu cố chúng ta, khiến cho chúng ta ở trong thế gian đầy dẫy thiên tai nhân họa này, vẫn có thể b́nh an, chẳng gặp phải bất cứ tai nạn nào. V́ vậy, tâm chúng ta nghĩ tưởng Bồ Tát như vậy, nghĩ tưởng Bồ Tát sẽ giống như thân cận Bồ Tát. Thân cận Bồ Tát sẽ đạt được những điều tốt đẹp như thế đó! Ở đây, kinh văn đă dạy chuyện này rơ ràng ngần ấy! Trong thân quang của Bồ Tát, có thể hiển lộ hết thảy sắc tướng của chúng sanh trong năm đường, nhất cử nhất động của chúng ta đều hiển hiện trong quang minh của Bồ Tát. Trong tâm chúng ta dấy lên ư niệm ǵ, Bồ Tát cũng đều biết. Ư niệm của chúng ta và ư niệm của Bồ Tát nhất trí, sẽ được cảm ứng. Chúng ta b́nh an trong thế gian này; trong tương lai, Ngài sẽ giúp đỡ, tiếp dẫn chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc. Lợi ích ấy tốt đẹp hơn bất cứ lợi ích nào khác. Chẳng biết là tốt đẹp hơn làm đại hoàng đế vào thời cổ hoặc làm tổng thống của một quốc gia lớn nhất trên thế giới trong hiện thời bao nhiêu lần!

 

          (Kinh) Đảnh thượng Tỳ Lăng Già ma-ni bảo dĩ vi thiên quan. Kỳ thiên quan trung, hữu nhất lập Hóa Phật, cao nhị thập ngũ do-tuần.

          ()頂上毗楞伽摩尼寶以為天冠。其天冠中,有一立化佛,高二十五由旬。

          (Kinh: Trên đỉnh đầu có măo trời bằng chất báu Tỳ Lăng Già ma-ni. Trong măo trời ấy, có một vị Hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần).

 

          “Đảnh thượng Tỳ Lăng Già ma-ni bảo dĩ vi thiên quan”: Đây là nói về đỉnh đầu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát đội măo (quan, )[3] vừa to, vừa đẹp. Chúng ta thoạt nh́n, sẽ nh́n chẳng ra. V́ thế, nói tỷ dụ, nói là “thiên quan” [tức là măo báu] trong cơi trời. Trong nhân gian, chẳng t́m được cái măo nào đẹp đẽ như vậy, chỉ đành dùng măo trời để h́nh dung. Bởi lẽ, tâm lư của bọn phàm phu chúng ta, hễ nói đến điều ǵ tốt nhất, thường nói là “cơi trời tốt nhất”. Thật ra, cái măo do Quán Thế Âm Bồ Tát đội chẳng biết tốt đẹp hơn măo trời bao nhiêu lần! V́ sao tốt đẹp? Quư vị thấy trước đó đă nói: “Tỳ Lăng Già ma-ni bảo”. “Tỳ Lăng Già” là nói tắt, nói đầy đủ sẽ là Thích Ca Tỳ Lăng Già, là tên một loại bảo ngọc ở Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tối Thắng, [hàm ư] “loại bảo ngọc tốt nhất”. Dùng chữ Tỳ Lăng Già để h́nh dung chữ “ma-ni bảo” kế đó. “Ma-ni” (Maṇi) là tiếng Ấn Độ, dịch sang tiếng Hán là Như Ư, có nghĩa là “thanh tịnh”. Đă là thanh tịnh, lại c̣n như ư. Trong tâm quư vị muốn ǵ, nó bèn có thể vừa ư quư vị. Báu ma-ni ấy c̣n là tối thắng trong các báu Ma-ni, tức là “Tỳ Lăng Già ma-ni bảo”. Dùng chất báu ấy bện kết thành măo, gọi là “thiên quan”. Trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát đội thiên quan ấy.

          “Kỳ thiên quan trung”: Trong cái măo ấy, “hữu nhất lập Hóa Phật”: Có một vị Phật biến hóa đứng trong ấy. “Cao nhị thập ngũ do-tuần”: Tuy là một vị Phật biến hóa, chiều cao cũng tới hai mươi lăm do-tuần. [Cứ tính theo số lượng nhỏ nhất], một do-tuần là ba mươi dặm. Hai mươi lăm do-tuần có bao nhiêu dặm? Có tới bảy trăm năm mươi dặm. Điều này biểu thị Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị Cổ Phật đă thành Phật trong quá khứ, hiện tại Ngài là “đới quả hành nhân”. Do vậy, trong măo đội đầu của Ngài có một vị Hóa Phật. Vị Hóa Phật ấy biểu thị Phật quả, mang ư nghĩa “đới quả hành nhân”, Ngài cứu khổ cứu nạn. Sức cứu độ chúng sanh của Ngài giống như sức của Phật vậy.

 

      (Kinh) Quán Thế Âm Bồ Tát, diện như Diêm Phù Đàn kim sắc. My gian hào tướng, bị thất bảo sắc, lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh. Nhất nhất quang minh, hữu vô lượng vô số bách thiên Hóa Phật. Nhất nhất Hóa Phật, vô số Hóa Bồ Tát dĩ vi thị giả, biến hiện tự tại, măn thập phương thế giới.

()觀世音菩薩,面如閻浮檀金色。眉間毫相,備七寶色,流出八萬四千種光明。一一光明,有無量無數百千化佛。一一化佛,無數化菩薩以為侍者,變現自在,滿十方世界。

(Kinh: Quán Thế Âm Bồ Tát sắc mặt như vàng Diêm Phù Đàn. Tướng bạch hào giữa hai mày có đủ màu bảy báu, tỏa ra tám vạn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi một quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả, biến hiện tự tại, đầy ắp mười phương thế giới).

 

          Đoạn kinh văn này nói về sắc vàng nơi mặt Quán Thế Âm Bồ Tát. C̣n có tướng bạch hào giữa hai mày, lại c̣n tỏa ra quang minh. Kinh văn chép: “Quán Thế Âm Bồ Tát, diện như Diêm Phù Đàn kim sắc”: Sắc mặt của Quán Thế Âm Bồ Tát giống như màu sắc của loại vàng sanh từ sông Diêm Phù Đàn. Sắc vàng ấy là sắc vàng đẹp nhất, giống như vàng trong sông Diêm Phù Đàn, là màu sắc của loại vàng tốt nhất. Chữ “như” ở đây biểu thị chẳng hoàn toàn giống như vậy. Nói cách khác, sắc mặt của Quán Thế Âm Bồ Tát c̣n đẹp hơn màu sắc của vàng Diêm Phù Đàn, nhưng đẹp đến mức độ nào, chúng ta chẳng hiểu trọn! Chỉ có thể dùng màu sắc của vàng Diêm Phù Đàn để sánh ví, ḥng giúp chúng ta liễu giải mà thôi. Trên thực tế, c̣n đẹp hơn rất nhiều!

          Lại xem tướng lông mày trên mặt Ngài: Giữa hai mày có “hào tướng”, tức bạch hào. Bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di” (Bạch hào cuộn tṛn theo chiều bên phải, to như năm quả núi Tu Di). Tướng bạch hào là một trong ba mươi hai tướng, [thường gọi là] “my gian hào tướng” (Ūrṇākeśaḥ, tướng bạch hào giữa hai mày). “Bị thất bảo sắc”: Màu của bảy báu rất nhiều. “Bị” () là hoàn bị, hoàn toàn trọn đủ màu sắc đẹp đẽ của bảy báu. Từ tướng bạch hào có trọn đủ màu sắc bảy báu, từ trong các màu ấy “lưu xuất bát vạn tứ thiên chủng quang minh” (lưu xuất tám vạn bốn ngàn thứ quang minh). Điều này lại rất khó liễu giải, v́ trong sự suy tưởng của bọn chúng sanh phàm phu, quang minh là một loại ánh sáng, ví như ánh đèn chiếu sáng, chỉ phát ra ánh sáng màu trắng, nhưng ở đây có đủ loại quang minh. Trong quang minh, có đủ loại màu sắc. Chữ “minh” () ở đây có nghĩa là “có thể thấy rơ ràng, thấu suốt”, nhưng cũng chẳng phải là nói [quang minh chỉ có] một loại màu trắng. Trong ấy, có các thứ màu sắc. V́ thế, ở đây nói là “có tám vạn bốn ngàn loại quang minh”. Điều này phải cậy vào cái tâm chúng ta dần dần quán tưởng, tưởng tướng bạch hào giữa hai mày của Bồ Tát phóng ra quang minh nhiều ngần ấy, tốt đẹp lắm! Trong thế giới Sa Bà, đến đâu mới thấy được cảnh sắc như thế đó! Nếu chúng ta dụng tâm quán cặn kẽ tám vạn bốn ngàn thứ quang minh ấy, [sẽ thấy] cảnh sắc ấy đúng là quá đẹp đẽ, quá tốt lành. Kẻ b́nh phàm sẽ chẳng tin tưởng, há có chuyện như vậy ư? Đấy là v́ tâm lư của bọn phàm phu chúng ta có chướng ngại, bọn phàm phu mắt thịt chẳng thấy rơ ràng cảnh trí tốt đẹp dường ấy.

          Tôi nêu một thí dụ hiện thực. Chúng ta nh́n thấy ánh sáng mặt trời, cảm thấy nó b́nh thường, chẳng có ǵ lạ lùng. Đấy là v́ chúng ta bị hạn chế bởi các thứ chướng ngại nơi nhục nhăn. Nếu chiếu [ánh nắng qua] một cái lăng kính có ba cạnh (prism), [sẽ thấy] trong ánh sáng mặt trời có các thứ màu sắc khác nhau như tím, đỏ, cam, vàng v.v… Nhưng nhục nhăn của phàm phu căn bản là chẳng trông thấy rơ ràng, ắt phải nhờ vào dụng cụ khoa học mới thấy rơ ràng. Nhưng ở đây, [dẫu] quư vị sử dụng công cụ, cũng chẳng thể thấy nhiều ngần ấy được! Ắt phải mở rộng tâm linh của chính ḿnh, mở rộng tâm linh như thế nào? Tức là cái tâm đừng bị chướng ngại bởi các thứ phiền năo thế tục trong nhân gian. Nói chung, chúng ta luôn cảm thấy những chuyện thuộc về nhân gian quá nhỏ nhặt, chẳng đáng nhắc tới, nhưng kẻ b́nh phàm sẽ nghĩ những vấn đề ấy to tát khôn cùng! Giải quyết như thế nào? Quư vị chẳng quan tâm tới chúng, chẳng coi chúng là chuyện [đáng kể]. Hễ tâm lư của quư vị mở rộng, cách nghĩ và toàn thể cảnh giới của quư vị sẽ sáng ngời. Quư vị chuyên môn tưởng quang minh này, sẽ đạt được sự thọ dụng to tát.

          “Nhất nhất quang minh, hữu vô lượng vô số bách thiên Hóa Phật” (Mỗi quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật), trên đây là nói về tám vạn bốn ngàn loại quang minh. Trong mỗi loại quang minh, không chỉ có các thứ màu sắc, cảnh trí hết sức đẹp đẽ. Càng đặc biệt hơn nữa là trong mỗi loại quang minh, có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật ở trong quang minh. “Nhất nhất hóa Phật”, tức là mỗi vị Hóa Phật, lại có “vô số Hóa Bồ Tát dĩ vi thị giả” (vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả). Đức Phật có thị giả, ai làm thị giả của Phật? Chính là Bồ Tát. Có bao nhiêu vị Bồ Tát? Lại có vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả của mỗi vị Hóa Phật. Tưởng từng tầng một như vậy, hăy ngẫm xem! Trong thế gian chúng ta t́m được nơi nào có quang minh như vậy? Đấy đều là do Quán Thế Âm Bồ Tát hiển lộ từ tướng bạch hào giữa hai mày. Ngoài tướng bạch hào ra, c̣n có thân quang (身光, quang minh phát ra từ thân thể). Nh́n toàn thể sẽ thấy là bao nhiêu? Những vị Hóa Phật ấy có vô số Hóa Bồ Tát để làm thị giả của Hóa Phật. Những vị Hóa Bồ Tát ấy “biến hiện tự tại, măn thập phương thế giới” (biến hiện tự tại, đầy khắp mười phương thế giới). “Biến” () là biến hóa, “hiện” () là hiện ra các thứ năng lực. Muốn biến hiện ǵ, bèn có thể biến hiện nấy. “Tự tại” (自在) là tự do tự tại, muốn biến như thế nào, đều có thể [biến như thế ấy]. Lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thể làm được chuyện này!

          Lũ b́nh phàm chúng ta chẳng thể làm được là v́ hiện thời chúng ta vẫn chưa đạt đến tŕnh độ như Quán Thế Âm Bồ Tát; nhưng lũ phàm nhân chúng ta cũng có tác dụng nho nhỏ, tác dụng nhỏ nhoi nào vậy? Ví như những kẻ học khoa học trong thế gian, có thể biến đổi thế giới vật chất, khiến cho các hiện tượng trong thế giới vật lư và thế giới vật chất biến động, thay đổi. Các văn học gia có thể viết những tác phẩm thi văn hay khéo, những họa sĩ có thể vẽ những bức tranh đẹp nhất, các nhà âm nhạc có thể sáng tác những khúc nhạc cảm động tâm linh con người. Những người ấy cũng chẳng phải là kẻ b́nh phàm, đấy cũng là từ trong tâm linh của họ phát khởi [những cảm hứng thăng hoa], cho nên mới có những sáng tác ấy. Nếu là một kẻ suốt ngày từ sáng đến tối suy tưởng danh lợi trong thế gian, những thứ ấy sẽ khiến trí huệ của kẻ đó bị tắc lấp, chẳng tỏa sáng mảy may nào! V́ vậy, những nhà phát minh trong thế gian thường là cao minh hơn những kẻ b́nh phàm đôi chút. Từ chỗ này, có thể suy ra: Nếu chúng ta muốn phát huy đại tác dụng, ắt phải đoạn trừ phiền năo trong thế gian (chuyển biến phiền năo). Đoạn phiền năo th́ mới có thể chứng quả. Chứng quả th́ mới có thể đạt đến tự tại. Các khoa học gia và nghệ thuật gia trong thế gian so với kẻ b́nh phàm th́ đă đoạn được một số phiền năo. V́ họ chuyên tâm nhất trí, cho nên có thể biểu hiện đôi chút. Nhờ vào thí dụ này để suy tưởng, [sẽ nhận ra]: Nếu bọn phàm phu chúng ta có thể chuyển biến phiền năo và tri kiến thành lư tánh; từ lư tánh lưu lộ, sẽ chứng quả vị giống như Bồ Tát, biến hiện tự tại, muốn ǵ có nấy, điều ǵ cũng đều có thể làm được!

          Vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả của Hóa Phật, có thể biến hiện tự tại. “Măn thập phương thế giới” (Đầy khắp mười phương thế giới). Phạm vi của mười phương thế giới quá lớn, thế giới Sa Bà là một tiểu đơn vị trong mười phương thế giới. Chúng ta học theo tâm lượng [của Bồ Tát] để dần dần tưởng như vậy. Khi tưởng, sẽ tự nhiên biến hiện tự tại, cảm ứng [Bồ Tát]. Sau khi cảm ứng, trong phần trước đă nói là “phải thân cận thiện tri thức, thân cận đại Bồ Tát”. Có thể thân cận bậc đại Bồ Tát như vậy, trong thế gian, chúng ta đă có phước, lại có trí huệ. Đặt ḿnh trong phước huệ, sẽ bất tri bất giác đạt được sức mạnh và sự thọ dụng chẳng thể nghĩ bàn. Nghiên cứu bộ kinh văn này, nếu có thể tưởng như vậy, sẽ đạt được lợi ích cũng là chẳng thể nghĩ bàn! Hôm nay, tôi nói đến tướng bạch hào bèn ngưng; trong phần sau c̣n có những tướng khác nữa, tôi sẽ tiếp tục tŕnh bày trong lần tới.

 

Tập 32

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười tám, bắt đầu từ hàng thứ tư. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn.

         

          (Kinh) Tư như hồng liên hoa sắc, hữu bát thập ức vi diệu quang minh, dĩ vi anh lạc. Kỳ anh lạc trung, phổ hiện nhất thiết chư trang nghiêm sự. Thủ chưởng tác ngũ bách ức tạp liên hoa sắc. Thủ thập chỉ đoan, nhất nhất chỉ đoan, hữu bát vạn tứ thiên họa, do như ấn văn. Nhất nhất họa, hữu bát vạn tứ thiên sắc. Nhất nhất sắc, hữu bát vạn tứ thiên quang. Kỳ quang nhu nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết. Dĩ thử bảo thủ, tiếp dẫn chúng sanh. Cử túc thời, túc hạ hữu thiên bức luân tướng, tự nhiên hóa thành ngũ bách ức quang minh đài. Hạ túc thời, hữu kim cang ma-ni hoa, bố tán nhất thiết, mạc bất di măn.

        ()臂如紅蓮華色,有八十億微妙光明,以為瓔珞。其瓔珞中,普現一切諸莊嚴事。手掌作五百億雜蓮華色。手十指端,一一指端,有八萬四千畫,猶如印文。一一畫,有八萬四千色。一一色,有八萬四千光,其光柔軟,普照一切。以此寶手,接引眾生。舉足時,足下有千輻輪相,自然化成五百億光明臺。下足時,有金剛摩尼華,布散一切,莫不彌滿。

(Kinh: Cánh tay như sắc hoa sen đỏ, có tám mươi ức quang minh vi diệu để làm anh lạc. Trong các anh lạc ấy, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm. Ḷng bàn tay có màu sắc của năm trăm ức loại hoa sen khác nhau. Mười đầu ngón tay, mỗi đầu ngón tay đều có tám vạn bốn ngàn nét vẽ giống như nét khắc trên quả ấn. Mỗi một nét vẽ có tám vạn bốn ngàn sắc. Mỗi một sắc có tám vạn bốn ngàn quang minh. Quang minh ấy mềm mại, chiếu khắp hết thảy. Ngài dùng tay báu ấy tiếp dẫn chúng sanh. Khi Ngài giở chân, dưới ḷng bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Lúc hạ chân, có hoa kim cang ma-ni rải khắp hết thảy, không đâu chẳng trọn khắp).

 

          Nay Thập Lục Quán Kinh dạy về phép Quán thứ mười. Trước phép Quán này là quán A Di Đà Phật. Sau khi quán A Di Đà Phật, tiếp đó bèn nói tới [phương pháp] quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Lần trước, tôi đă nói: Quán Thế Âm Bồ Tát và chúng sanh trong thế gian này có duyên phận đặc biệt. V́ thế, khi nói đến phép Quán này, mọi người sẽ đạt được lợi ích và phước báo cũng đặc biệt tốt đẹp.

          Phép Quán này trong lần trước đă nói một nửa. Trong lần trước, tôi đă nói thân Quán Thế Âm Bồ Tát cao bao nhiêu, màu sắc nơi thân thể Ngài, nhục kế trên đỉnh đầu Bồ Tát, quang minh nơi cổ, quang minh nơi thân, măo đội trên đầu, sắc mặt và tướng bạch hào giữa hai mày. Hôm nay, bắt đầu nói tới cánh tay, tức là câu “tư như hồng liên hoa sắc” (cánh tay như sắc hoa sen đỏ) vừa mới đọc. Trong phần trước đă nói: Trong tướng bạch hào có quang minh, trong quang minh có Hóa Phật, Hóa Bồ Tát v.v… Những vị Hóa Phật, Hóa Bồ Tát ấy lại c̣n biến hiện tự tại, đầy ắp mười phương thế giới. V́ sao đầy ắp mười phương thế giới? Ở đây, phải đặc biệt chú ư: Chúng sanh trong mười phương thế giới, chỉ cần biết đến Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ đều được Bồ Tát tiếp dẫn, cứu độ. Nay nói tới tướng trạng nơi cánh tay của Ngài, cánh tay Bồ Tát có màu như hoa sen đỏ. Trước hết, nói hai tay Bồ Tát có màu ǵ? Màu ấy hiện ra giống như màu sắc của hoa sen đỏ trong hoa sen bốn màu, đặc biệt đẹp đẽ! Từ màu hoa sen, lại phát ra “hữu bát thập ức vi diệu quang minh” (có tám mươi ức quang minh vi diệu). Chúng ta biết trong kinh Tiểu Bổn A Di Đà có nói hoa sen bốn màu, hoa đỏ tỏa ra quang minh đỏ… [nghĩa là] mỗi loại màu đều có thể phát ra một thứ quang minh [tương ứng]. Đấy là nói rất sơ lược, c̣n ở đây là nói cặn kẽ. Cánh tay Bồ Tát như sắc hoa sen đỏ; từ sắc hoa sen đỏ, tỏa ra tám mươi ức quang minh vi diệu. Kẻ b́nh phàm thấy quang minh chỉ là quang minh, nhưng [quang minh] ở đây hết sức chẳng thể nghĩ bàn. Từ trong màu sắc, tỏa ra quang minh, lại từ quang minh mà “dĩ vi anh lạc” (dùng làm anh lạc). Tại Ấn Độ, “anh lạc” (瓔珞) là vật trang sức đeo trên thân của giới quư tộc Ấn Độ (bất luận là đàn ông hay đàn bà). Những vật trang sức quư trọng đều kết bện bằng bảo ngọc, c̣n anh lạc ở đây là do quang minh ngưng tụ mà thành.

          “Kỳ anh lạc trung, phổ hiện nhất thiết chư trang nghiêm sự” (Trong anh lạc ấy, hiện khắp hết thảy các sự trang nghiêm). Lại từ trong những món anh lạc ấy, “phổ hiện” (普現) nghĩa là trong mỗi chuỗi anh lạc đều biến hiện rất nhiều sự xếp đặt trang nghiêm. Chẳng hạn như trong đạo tràng, các thứ sắp đặt, bố trí đẹp đẽ, sẽ được gọi là “trang nghiêm sự” (莊嚴事). Những sự trang nghiêm ấy hiện ra từ màu sắc, quang minh và anh lạc nơi tay Quán Thế Âm Bồ Tát. Tổ sư chú giải: Những thứ bày biện, thờ phụng trang nghiêm nơi bất cứ đạo tràng nào trong thế gian cũng đều chẳng thể sánh bằng sự trang nghiêm này. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có những thứ trang nghiêm hết sức thù thắng, đặc biệt ấy. Chúng ta có thể nương theo những ǵ kinh văn đă trần thuật để tưởng tượng y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc. Các thứ biến hóa, hết thảy những chuyện thù thắng, đặc biệt vi diệu có thể biến hiện từ quang minh nơi cánh tay và các chuỗi anh lạc của Bồ Tát. Đây là chuyện chẳng thể nghĩ bàn!

          “Thủ chưởng tác ngũ bách ức tạp liên hoa sắc” (Bàn tay có màu sắc của năm trăm ức hoa sen khác loại). Khi quán tưởng, sẽ thuận theo cánh tay để quán tưởng bàn tay của Bồ Tát. Chúng ta thấy bàn tay của chính ḿnh vừa nhỏ vừa đơn điệu, ngoại trừ các đường vân và chỉ tay, chẳng có ǵ cả! Thế mà bàn tay của Quán Thế Âm Bồ Tát có màu sắc của các loại hoa sen. Do có các loại màu sắc [khác nhau], nên gọi là “tạp” (). Có tới năm trăm ức màu hoa sen ngần ấy, có thể suy ra sự trang nghiêm ấy đạt tới mức độ nào! “Thủ thập chỉ đoan”: Từ bàn tay xem tiếp xuống nữa, có mười ngón tay. Chót cùng của ngón tay là “chỉ đoan” (指端, đầu ngón tay). Có mười đầu ngón tay. “Nhất nhất chỉ đoan, hữu bát vạn tứ thiên họa”: Mỗi đầu ngón tay có tới tám vạn bốn ngàn nét vẽ (đường vân), những nét vẽ ấy biểu thị cảnh sắc đẹp nhất. Những nét vẽ ấy có h́nh dạng như thế nào? Nêu tỷ dụ, “do như ấn văn” (giống như nét khắc trên quả ấn). Trong kinh Phật, chữ Ấn () bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Chữ Ấn ở đây là “ấn chương” (印章, con dấu, ấn tín). Chúng ta sử dụng con dấu, h́nh dạng đại đa số là h́nh vuông, cũng có khi là h́nh tṛn, hoặc h́nh dạng khác. Tại Ấn Độ, quả ấn vào thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật có h́nh dạng ǵ? Trong kinh văn, cũng như trong chú giải của tổ sư cũng chẳng nói rơ rệt. Giải thích đại lược, quả ấn ấy chẳng phải là thuần túy khắc chữ như những quả ấn của chúng ta trong hiện thời[4]. Trên quả ấn của Trung Hoa, có [những chữ khắc] theo lối Triện, Khải Thư, Lệ Thư, nói chung đều là khắc chữ. Vào thuở đó, tại Ấn Độ, ngoài khắc chữ ra, c̣n có những h́nh ảnh. Chẳng hạn như khắc con nai, tức h́nh ảnh con nai, giống như một bức vẽ, đương nhiên là biểu thị một thứ đẹp đẽ. Ấn chương có ư nghĩa thực dụng. Ngoài chuyện thực dụng ra, tỷ dụ những h́nh ảnh động vật và nét chữ [trên mặt quả ấn] như những nét vẽ. Tám vạn bốn ngàn nét vẽ giống như “ấn văn” (印文, các nét khắc trên quả ấn). “Văn” không chỉ là văn tự, mà c̣n biểu thị những động vật và các h́nh tượng được khắc. “Nhất nhất họa, hữu bát vạn tứ thiên sắc” (Mỗi nét vẽ có tám vạn bốn ngàn màu): Từ mỗi nét vẽ, tỏa ra màu sắc nhiều ngần ấy. “Nhất nhất sắc, hữu bát vạn tứ thiên quang”: Từ mỗi loại màu, lại tỏa ra tám vạn bốn ngàn “quang huy” (光輝), nghĩa là quang minh do các màu sắc phát ra. Có thể thấy là những màu sắc ấy cũng chẳng phải là màu sắc b́nh phàm. Chúng ta thấy các màu sắc trên thế gian này, chưa chắc là chúng có thể phát ra quang minh. Đương nhiên là cũng có những thứ có thể phát quang, nhưng chẳng hoàn toàn. Thế mà ở đây, bất cứ màu sắc nào cũng đều có thể tỏa ra tám vạn bốn ngàn quang minh!

          Những quang minh phát ra, “kỳ quang nhu nhuyễn, phổ chiếu nhất thiết” (quang minh ấy mềm mại, chiếu khắp hết thảy). Quang minh trong thế gian, khi có độ sáng rất yếu, sẽ chẳng thấy rơ. Nếu tia sáng rất mạnh th́ lại nhức mắt. Ví như trong quá khứ, lúc chưa có đèn điện, chỉ dùng đèn hơi đốt (đèn thắp bằng gas), tuy sáng, nhưng đọc sách dưới ánh đèn một lúc lâu, mắt sẽ bị mỏi xốn. Hiện thời, ánh nắng mặt trời hoặc ánh đèn quá mạnh, cũng chẳng tốt cho mắt chúng ta. Thế nhưng, quang minh của Bồ Tát vừa nhu ḥa, lại vừa dễ chịu, chẳng gây tổn thương cho mắt. Ánh sáng nhu nhuyễn dường ấy có thể chiếu khắp hết thảy, bất cứ nơi đâu cũng đều có thể chiếu thấu, không chỗ nào chẳng chiếu. V́ thế, nói là “phổ chiếu nhất thiết” (chiếu khắp hết thảy).

          Nói đến đây, chúng ta hăy thuận theo kinh văn để quán tưởng. Đó gọi là “tùy văn nhập quán”, [tức là] thuận theo những sự thật đă nói trong kinh văn để quán tưởng. Kinh văn nói: Từ cánh tay của Bồ Tát có thể phát ra quang minh vi diệu nhiều ngần ấy. Trong quang minh có anh lạc. Anh lạc cũng có thể biến hóa ra đủ mọi sự trang nghiêm. Bàn tay có màu sắc nhiều ngần ấy, mà đầu ngón tay lại phát xuất các thứ h́nh vẽ. Những h́nh vẽ ấy vừa có màu sắc, vừa có quang minh, có thể chiếu trọn khắp hết thảy. Thông thường, chúng ta biết Quán Thế Âm Bồ Tát ngàn mắt, ngàn tay. Nếu coi tay của Bồ Tát b́nh phàm giống như tay của chúng ta, [vậy th́] một ngàn cánh tay cũng chẳng thể phát xuất sức mạnh to lớn được. Từ kinh văn ở chỗ này, chúng ta biết: Nơi tay Quán Thế Âm Bồ Tát, từ cánh tay cho đến đầu ngón tay đều có thể hiện ra quang sắc. Có thể suy tưởng để thấy một cánh tay của Quán Thế Âm Bồ Tát phát ra oai lực to lớn ngần nào! Ví như khi đại địa chấn động, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng cần tiếp xúc, chỉ cần dùng ngón tay khẽ chỉ đại địa, sẽ có thể khiến cho đại địa an ổn, có thể thấy sức lực ấy quá to lớn! Chỉ tưởng tượng tay của Bồ Tát, có thể biết công đức và oai lực của Ngài to tát đến nỗi chúng ta chẳng thể tưởng tượng được! Tuy chẳng thể tưởng tượng, sau khi quư vị đă biết, đạt được lợi ích cũng là chẳng thể tưởng tượng. V́ sao? Hăy xem phần kinh văn tiếp theo.

          “Dĩ thử bảo thủ, tiếp dẫn chúng sanh” (Dùng tay báu ấy, tiếp dẫn chúng sanh). Tay Quán Thế Âm Bồ Tát là tay báu, có ai trong thế gian có thể sánh bằng? Quán Thế Âm Bồ Tát dùng tay báu ấy giúp A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong thế gian. Sau khi đă biết điều này, chúng ta bèn có tín tâm. Có rất nhiều người niệm Phật hỏi: “Khi lâm chung, chúng ta sẽ đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào?” Kinh văn cũng thường dạy: Khi lâm chung, A Di Đà Phật dẫn Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, và c̣n có rất nhiều vị Bồ Tát đến tiếp dẫn. Chẳng nghiên cứu kinh văn, sẽ không biết tiếp dẫn bằng cách nào? Chỉ dựa vào cánh tay và ngón tay của Quán Thế Âm Bồ Tát mà đă có sức mạnh to tát ngần ấy, quang minh vô lượng vô biên chiếu trọn khắp hết thảy, chúng ta mong cầu văng sanh sẽ là chuyện dễ dàng thực hiện! Nhưng trong lúc thường ngày, tâm chúng ta ắt cần phải có sự nhận thức như vậy, tới khi đó, tâm lư mới có thể an nhiên, mới có thể có tín tâm, mới có thể cảm ứng cùng Phật, Bồ Tát.

          “Cử túc thời, túc hạ hữu thiên bức luân tướng” (Khi giở chân, dưới ḷng bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm). Bồ Tát ngoại trừ có tay thù thắng dường ấy; khi đi, nhấc chân lên, dưới ḷng bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm. “Bức luân”: “Luân” () là bánh xe, phía ngoài tṛn xoe, chính giữa có trục. Khoảng giữa từ phía ngoài cho đến trục, có từng cây căm tơe ra. Những cây căm ấy gọi là “bức” (), nối liền trục với vành ngoài. “Ngàn căm” biểu thị số lượng nhiều. Dưới chân Bồ Tát có tướng bánh xe ngàn căm, bậc đă thành Phật có tướng bánh xe ngàn căm. Bất cứ vị Phật nào cũng đều có ba mươi hai tướng, tướng bánh xe ngàn căm là một trong ba mươi hai tướng. Quán Thế Âm Đại Bồ Tát cũng có ba mươi hai tướng! Tướng bánh xe ngàn căm ấy “tự nhiên hóa thành ngũ bách ức quang minh đài”, [nghĩa là] từ luân tướng ấy, tự nhiên biến hóa thành đài quang minh, có bao nhiêu đài? Tổng cộng có năm trăm ức đài quang minh. Hăy ngẫm xem! Dưới mỗi bàn chân của Bồ Tát có tướng bánh xe ngàn căm, có thể hóa thành năm trăm ức đài quang minh.

          Lại nói đến “hạ túc thời” (lúc đặt chân xuống). Trong phần trên là nói đến chuyện giở chân. Bồ Tát chẳng giở chân lên, chẳng thấy tướng bánh xe ngàn căm. Hễ Ngài giở chân lên, tướng bánh xe ngàn căm hiện ra, và cũng hiện ra đài quang minh. “Hạ túc” (下足) là đặt chân xuống. Khi Ngài đặt chân xuống, “hữu kim cang ma-ni hoa”, kim cang là bất hoại, ma-ni là báu Như Ư tốt nhất. Dùng chất báu ấy để h́nh dung hoa; kim cang ma-ni hoa, trong thế gian chẳng t́m được thứ này. Hoa ấy “bố tán nhất thiết” (rải khắp hết thảy), “bố” (, vải) là từng sợi dọc, từng sợi ngang (ngang dọc) dệt thành, [cho nên “bố”] có ư nghĩa “phổ biến”. “Tán” () là rải khắp nơi. Chúng ta nói Bố Thí, cũng là lấy ư nghĩa giống như sợi dọc và sợi ngang, tức là [ư nghĩa] “phổ biến”. Hoa kim cang ma-ni được rải trọn khắp hết thảy. “Mạc bất di măn” (Không đâu chẳng trọn khắp): Chẳng có chỗ nào không trọn khắp. “Di” () có nghĩa là “hết sức phổ biến”, rắc rải trọn khắp hết thảy các loại hoa kim cang ma-ni. Hăy ngẫm xem! Bồ Tát đặt chân xuống bèn có hoa tán rải nhiều ngần ấy!

          Phép Quán này từ [quán tưởng] toàn thân Bồ Tát cho đến đây coi như là một đoạn lớn. Sau khi các vị đă xem xong, hăy dựa theo thứ tự từ chiều cao của thân thể, thân quang, đỉnh đầu, cho tới dưới chân Quán Thế Âm Bồ Tát để quán tưởng. Chắc là trong tâm lư của bọn phàm phu chúng ta sẽ hỏi: Trong kinh nói Bồ Tát có quang minh nhiều ngần ấy, thân thể cao lớn dường ấy, cớ sao chúng ta đều chẳng trông thấy? Muốn thấy, ắt cần phải chuyển biến phàm t́nh tục kiến của phàm phu. Cái tâm phàm phu của chúng ta bị thời gian và không gian chướng ngại, [cho nên trở thành] vặt vănh, nhỏ nhen!

          Mắt chúng ta chỉ có thể thấy địa cầu to ngần ấy, bèn ngỡ là địa cầu to lớn khôn cùng! Thật ra, [đem] quả địa cầu này đến chỗ Bồ Tát, ngay cả một vi trần c̣n chưa bằng! Nay chúng ta đối với chuyện ǵ cũng đều cảm thấy ghê gớm lắm, chẳng thể giải quyết được! Chính là v́ tâm tư của chúng ta đặt trong những chuyện nhỏ nhặt, chẳng đáng nhắc tới trong thế gian, khiến cho tâm lư bị chướng ngại, chẳng thể tiếp xúc những sự trang nghiêm của Bồ Tát. V́ vậy, muốn thân cận công đức trang nghiêm của Bồ Tát, chúng ta phải mở rộng tâm tư, đừng nên so đo những chuyện thế tục trong thế gian. Hễ chúng ta so đo chuyện trong thế gian, phải nhắc nhở chính ḿnh: So đo sẽ gây trở ngại cho chính ḿnh, tổn hại công sức tu tŕ của chính ḿnh! Khi cảnh tỉnh chính ḿnh như vậy, tâm lượng sẽ tự nhiên mở rộng, chẳng có bất cứ chuyện ǵ trong thế gian đáng cho chúng ta phân tâm, đáng cho chúng ta vương vấn! Suy nghĩ như vậy, chỗ nào cũng đều có thể luôn luôn cảm ứng, tiếp xúc công đức trang nghiêm của Bồ Tát. Chúng ta biết: Trong phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn đă có nói, Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, chúng ta ở trong quang minh của Ngài, tự nhiên hết thảy b́nh an vô sự. Chúng ta phải nên liễu giải điều tốt đẹp này!

 

          (Kinh) Kỳ dư thân tướng, chúng hảo cụ túc, như Phật vô dị.

       ()其餘身相,眾好具足,如佛無異。

        (Kinh: Những thân tướng, các thứ hảo khác đều trọn đủ, như Phật chẳng khác).

 

          “Kỳ dư thân tướng, chúng hảo cụ túc” (Những thân tướng, các thứ hảo khác đều trọn đủ). Sau khi đă nói xong thân tướng như trên, những điều khác chẳng đề cập, tức là những [điều thù thắng khác] nơi thân tướng và các thứ hảo của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nói thông thường, đức Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tùy h́nh hảo. “Hảo” chính là dựa trên tướng để lại phát triển thành những thứ h́nh tướng tốt đẹp. “Chúng hảo cụ túc” nghĩa là các thứ tùy h́nh hảo đều trọn đủ, hoàn toàn đầy đủ. “Như Phật vô dị”: Chẳng khác A Di Đà Phật. Đă hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, [thế nhưng] lại c̣n có chỗ bất đồng nào vậy? Dưới đây, [chánh kinh] bèn nói đến chỗ ngoại lệ.

 

          (Kinh) Duy đảnh thượng nhục kế, cập vô kiến đảnh tướng, bất cập Thế Tôn.

        ()唯頂上肉髻,及無見頂相,不及世尊。

(Kinh: Chỉ trừ nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh chẳng bằng đức Thế Tôn).

 

          “Duy đảnh thượng nhục kế, cập Vô Kiến Đảnh tướng”: Chỉ có nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh trên đỉnh đầu Bồ Tát [là chẳng bằng Phật]. Nhục kế là một trong ba mươi hai tướng ở trên đỉnh đầu đức Phật. Trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát cũng giống như vậy, có một khối thịt vun lên, tṛn trịa, đỏ tươi, gọi là “nhục kế” (肉髻). V́ sao gọi là nhục kế? Kế () là tóc được bới cao lên [thành búi], thường gọi là “phát kế” (髮髻, búi tóc), nhưng ở đây là “nhục kế”, có h́nh trạng vun cao lên, giống như búi tóc. Nhục kế là một trong ba mươi hai tướng. Lại từ nhục kế nh́n lên, người b́nh phàm muốn trông thấy nhục kế của đức Phật hoặc nhục kế của Bồ Tát, càng nh́n ngược lên trên, muốn trông thấy đỉnh, có thấy hay chăng? Chẳng nh́n thấy, quá cao! Do chẳng thấy đỉnh, nên gọi là Vô Kiến Đảnh Tướng (無見頂相). Tướng Vô Kiến Đảnh chính là một thứ tùy h́nh hảo phát xuất từ nhục kế. Từ tướng Vô Kiến Đảnh hiện ra một thứ hảo, cho nên tướng Vô Kiến Đảnh cũng là một thứ hảo. “Bất cập Thế Tôn”: Chỉ có hai thứ là nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh chẳng sánh bằng đức Thế Tôn, c̣n thua kém đức Phật đôi chút.

 

          (Kinh) Thị vi quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thật sắc thân tướng, danh đệ thập Quán.

         ()是為觀觀世音菩薩真實色身相,名第十觀。

(Kinh: Đó là quán tưởng tướng sắc thân chân thật của Quán Thế Âm Bồ Tát, gọi là phép Quán thứ mười).

 

          Quán rơ ràng những điều đă nói trong kinh văn, và cũng phân biệt: Chỉ có nhục kế và tướng Vô Kiến Đảnh trên đỉnh đầu là chẳng sánh bằng đức Phật. Những tướng khác đều y hệt. “Thị vi quán Quán Thế Âm Bồ Tát chân thật sắc thân tướng”: Phép Quán này là quán Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng chẳng phải là quán những tướng thông thường nơi Bồ Tát mà thôi, mà là quán tướng sắc thân chân thật của Ngài. Thật sự trông thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, “danh đệ thập Quán”: Chính là phép quán thứ mười trong Thập Lục Quán Kinh. Từ “kỳ dư thân tướng” cho tới “danh đệ thập Quán” là một đoạn lớn.

          Đoạn dưới đây cho biết: Tu tập phép Quán này, sẽ có thể đạt được lợi ích như thế nào?

 

          (Kinh) Phật cáo A Nan: “Nhược dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả, đương tác thị quán. Tác thị quán giả, bất ngộ chư họa, tịnh trừ nghiệp chướng, trừ vô số kiếp sanh tử chi tội”.

        ()佛告阿難:若欲觀觀世音菩薩者,當作是觀。作是觀者,不遇諸禍,淨除業障,除無數劫生死之罪。

(Kinh: Đức Phật bảo ngài A Nan: “Nếu ai muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát, hăy nên quán như vậy. Người hành phép Quán này chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội trong vô số kiếp sanh tử”).

 

          “Phật cáo A Nan, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan. “Nhược dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả” (Nếu ai muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát), “nhược” () là nếu như, “dục” () là muốn. Nếu muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát. “Giả” () là nói tới người ấy (người muốn quán Bồ Tát). Người ấy “đương tác thị quán” (hăy nên quán như thế): Hăy nên quán tưởng những điều đă nói trên đây theo từng tầng một, quán những điều tốt đẹp nơi thân tướng và các thứ hảo của Ngài. “Tác thị quán giả”: Nếu có thể quán như vậy, “bất ngộ chư họa” (chẳng gặp các tai họa). Chư() là hết thảy, “họa” () là tai nạn. [“Bất ngộ chư họa” là] chẳng gặp gỡ hết thảy các tai nạn. Không chỉ là như thế, lại c̣n “tịnh trừ nghiệp chướng” (trừ sạch nghiệp chướng): Bất cứ người nào trong bọn chúng ta đều có nghiệp chướng. Chẳng có nghiệp chướng, sẽ không sanh vào nhân gian. Chúng ta thường nói nhân gian khổ sở ngần ấy! [Người có thể] nhận biết nhân gian khổ sở th́ rất lỗi lạc, [bởi lẽ], hăy c̣n biết có khổ! Có những kẻ chẳng biết [nhân gian] có những nỗi khổ, cứ tưởng nhân gian rất tốt đẹp, mê hoặc càng dữ dội hơn nữa! Do vậy, người tu đạo đều biết nhân gian rất khổ. Khổ do đâu mà có? Do có rất nhiều nghiệp chướng mà sanh vào nơi đây để chịu khổ. Đến [thọ sanh trong thế giới này để] chịu khổ mà lại tạo nghiệp, tạo đủ mọi nghiệp quá nhiều! Nhưng nếu thường quán phép Quán này, không chỉ là chẳng gặp phải các thứ tai nạn, lại c̣n có thể trừ sạch sành sanh tất cả nghiệp chướng. Ngoài ra, c̣n “trừ vô số kiếp sanh tử chi tội” (trừ tội trong vô số kiếp sanh tử). Sanh sanh tử tử trong lục đạo, chẳng có tội th́ há có sanh tử? Có sanh tử tức là có tội; tạo tội sanh tử to lớn ấy. Chẳng phải là một đời này mới tạo, trước đời này lại c̣n có đời trước, trước đời trước lại có đời trước đó nữa, truy ngược đến đời trước sẽ là vô số kiếp. Những tội sanh tử đă tạo từ vô số kiếp tới nay đều có thể tiêu trừ.

          Ở đây, kinh văn nói rất tóm tắt, đơn giản, chúng ta thêm vào đôi chút sự tưởng tượng của chính ḿnh, hăy nh́n vào thế gian trong hiện thời. Mọi người đừng nghĩ “chúng ta sống tốt đẹp lắm, hết thảy đều rất b́nh an!” Thật ra, quán sát kỹ càng sự thật, [sẽ nhận thấy] chớ nên có cách nghĩ như vậy! Mọi người đều biết: Theo tin tức đăng tải trên báo chí hằng ngày, luôn có chẳng ít người bị chết ngang xương! C̣n nhớ khi lăo ân sư c̣n tại thế, lúc giảng kinh, Ngài đă từng bảo: “Tôi chẳng cần phải xem báo chí mà biết chuyện ngày mai. Ngày mai sẽ chẳng thiếu chuyện sát nhân, cướp đoạt, cũng như có đủ thứ tai nạn”. Lăo nhân gia nói quả thật chẳng sai! Chúng ta chỉ cần mỗi ngày xem TV, đọc báo chí, thật sự là mỗi ngày trên báo chí trong xă hội đều có [đăng tải] những chuyện ấy. Hễ chúng ta nghĩ đến những chuyện đó, [sẽ nhận ra] hiện thời tai nạn c̣n nhiều hơn lúc thầy giảng kinh trong quá khứ. Đi du lịch ngoại quốc, du lịch ṿng quanh thế giới, đó là chuyện vui thú! Tai nạn máy bay trên không trung, tai nạn xe lửa nơi đất liền, tàu bè trên biển nẩy sanh đại tai nạn v.v… Những chuyện này chẳng dính dáng đến chúng ta ư?

          Trừ những chuyện ấy ra, lại nói tới nghiệp chướng. Nghiệp chướng là cộng nghiệp, tức là chẳng đi chơi bên ngoài, nhưng v́ có bệnh mà phải đi khám bác sĩ. Đi bác sĩ th́ phải tiêm thuốc, hoặc mổ xẻ, mất máu. Trên thế giới hiện thời đang lan truyền căn bệnh AIDS. Bệnh AIDS vốn là chuyện tội ác, là một thứ virus gây bệnh xuất phát từ tà dâm. Nhưng hiện thời, ngay cả kẻ chẳng phạm tội tà dâm, do gặp phải kim chích không được xử lư cẩn thận, hoặc qua đường truyền nhiễm có liên quan đến huyết dịch, cũng sẽ bị lây nhiễm loại virus gây bệnh ấy. Tội nghiệp ấy được gọi là “cộng nghiệp”. Quư vị hăy ngẫm xem, cộng nghiệp của người thế gian trong hiện thời, khắp nơi đều là [như vậy]. Chúng ta sanh tồn trong hoàn cảnh này, bất cứ lúc nào cũng đều bị tội nghiệp uy hiếp. Chịu đựng nỗi khổ ấy chỉ là một chuyện trong [vô số tội nghiệp] ấy. Nếu nói tới sự ô nhiễm nơi không khí và nước, cho đến ăn nhằm những thứ ngũ cốc bị nhiễm thuốc sát trùng, hằng ngày tích lũy những thứ tàn dư độc hại trong thân thể của chính ḿnh, tới khi nào sẽ mắc bệnh? Chúng ta có biết hay không? Những điều ấy đều là tai họa và nghiệp chướng.

          Nếu chúng ta thường quán Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được từ quang của Quán Thế Âm Bồ Tát gia bị, sẽ chẳng gặp phải các tai nạn, mà nghiệp chướng ấy cũng chẳng dính đến chúng ta. V́ sao quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ có công đức to lớn như vậy? Nói tới Quán, ắt phải nhập đại định rất sâu, từ trong Định mới trông thấy. Bọn phàm phu chúng ta tâm ư hời hợt, thô tháp, chẳng thấy các tướng hảo của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nếu có thể thấy tướng hảo thù thắng của Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ có thể thấy bản tánh của chính ḿnh hiển lộ. Do vậy, có thể trừ tai nạn, nguyên lư ở chỗ này!

 

(Kinh) Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh, hoạch vô lượng phước, hà huống đế quán.

        ()如此菩薩,但聞其名,獲無量福,何況諦觀。

(Kinh: Bậc Bồ Tát như vậy, chỉ nghe danh hiệu Ngài, sẽ đạt được vô lượng phước, huống hồ là quán chắc thật).

 

          “Như thử Bồ Tát, đản văn kỳ danh, hoạch vô lượng phước”: Đối với bậc Bồ Tát như vậy, chúng ta chỉ cần nghe danh hiệu của Ngài, sẽ có thể đạt được vô lượng phước. Người Hoa thật sự có phước, mọi người đều nghe danh hiệu Quán Thế Âm (Avalokiteśvara). “Hà huống đế quán” (Huống hồ quán chắc thật): Nói “đế quán” (諦觀) nghĩa là dựa theo những điều kinh văn đă giảng, đối với mỗi một tướng, mỗi thứ hảo, những chuyện biến hóa từ quang minh, đều thấy rơ ràng, rành rẽ, th́ gọi là “đế quán”. Chỉ nghe danh hiệu của Ngài mà có thể đạt được vô lượng phước, huống hồ “đế quán”? Nói cách khác, nếu có thể đế quán, sẽ đạt được phước càng nhiều!

 

          (Kinh) Nhược hữu dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả, tiên quán đảnh thượng nhục kế, thứ quán thiên quan, kỳ dư chúng tướng, diệc thứ đệ quán chi, tất linh minh liễu, như quán chưởng trung. Tác thị quán giả, danh vi Chánh Quán. Nhược tha quán giả, danh vi Tà Quán.

()若有欲觀觀世音菩薩者,先觀頂上肉髻,次觀天冠。其餘眾相,亦次第觀之。悉令明了,如觀掌中。作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀。

(Kinh: Nếu có những người muốn quán Quán Thế Âm Bồ Tát, trước hết, hăy quán nhục kế trên đỉnh đầu, kế đó, quán măo trời. Đối với những tướng khác, cũng nên theo thứ tự mà quán, sao cho đều rành rẽ, như nh́n vào bàn tay. Tác quán như vậy th́ là Chánh Quán. Nếu quán khác đi, sẽ là Tà Quán).

 

          Đoạn này nêu lên cương lănh trọng yếu trong phép Quán. “Nhược hữu dục quán Quán Thế Âm Bồ Tát giả”, [nghĩa là] nếu có người muốn dùng phương pháp quán tưởng để quán Quán Thế Âm Bồ Tát. “Tiên quán đảnh thượng nhục kế, thứ quán thiên quan”: Trước hết là quán nhục kế trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát; sau đó, quán măo của Bồ Tát (gọi là “thiên quan”). “Kỳ dư chúng tướng, diệc thứ đệ quán chi”: Sau khi đă hành hai loại quán ấy, đối với các tướng khác, cũng dựa theo thứ tự đă nói trong kinh văn để quán theo từng tầng một. “Tất linh minh liễu, như quán chưởng trung” (Thảy đều rành rẽ, như nh́n vào bàn tay), đều có thể thấy rơ ràng. “Liễu” () là sáng tỏ mười phần triệt để. “Như quán chưởng trung”: Đối với các thứ tướng hảo của Quán Thế Âm Bồ Tát, đều có thể thấy rơ như nh́n vào bàn tay của chính ḿnh. Phải liễu giải thứ tự được nói ở đây; tức là như trong phần trên, kinh văn đă nói: Nhục kế trên đỉnh đầu, măo, cổ, cánh tay, bàn tay, đầu ngón tay, cho đến tướng bánh xe ngàn căm dưới bàn chân, theo thứ tự từ trên cao xuống thấp. Đối với mỗi thứ, đều thấy rơ ràng, rành rẽ; trong tâm sáng tỏ. “Tác thị quán giả”: Dựa theo thứ tự ấy để quán, “danh vi Chánh Quán”. Đấy là quán rất chánh xác. “Nhược tha quán giả, danh vi Tà Quán”: Nếu chẳng tuân theo cách Quán ấy, quán theo cách khác, sẽ là chẳng chánh xác, gọi là Tà Quán.

          Tại đạo tràng Đài Trung, chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ. Tuy trong các phương pháp Niệm Phật cũng có Quán Tưởng Niệm Phật, nhưng chúng ta học Tŕ Danh Niệm Phật với thầy, nay học tập quán tưởng, có thể chẳng cần dụng công như vậy, nhưng do hiểu biết ư nghĩa quán tưởng, sẽ đạt được lợi ích hết sức quan trọng. Trong tâm chúng ta, chỉ cần tưởng các thứ công đức trang nghiêm của Quán Thế Âm Bồ Tát. Do Ngài đến giúp A Di Đà Phật hóa độ chúng sanh, bất cứ lúc nào [chúng ta] cũng ở trong vầng đại quang minh của Bồ Tát, nội tâm chẳng có thời khắc nào không yên ổn. Đó là sự bảo đảm về mặt tâm lư. Kế đó, căn cứ theo lời dạy trong kinh văn: Chỉ cần chúng ta nghe danh hiệu của Bồ Tát, chẳng quán tưởng, đă đạt được vô lượng phước. Đấy là sự thật, lời đức Phật dạy chẳng hề hư giả tí nào, [lời đức Phật dạy] là như thật ngữ. Chắc là cũng có kẻ hỏi: “Vô lượng phước ở chỗ nào?” Chẳng cần hỏi phước ở chỗ nào, lũ chúng ta thường là đang hưởng phước mà chẳng biết! Chúng ta c̣n đang đi học th́ cứ đi học, đă đi làm th́ cứ đi làm, buổi tối có thể đến đây nghe kinh này. Nghe kinh xong có thể xem kinh, tự ḿnh nghiên cứu, đó chẳng phải là phước báo th́ là ǵ vậy? Chúng ta thấy những kẻ chẳng học Phật, chẳng có tiền, bèn đau khổ, hễ có tiền bèn tạo nghiệp. Tạo nghiệp ǵ vậy? Các vị xem tin tức, [sẽ biết] hiện thời có một loại giải trí là “xiên cá”, tức là trong ao thả rất nhiều cá, người xiên cá dùng móc sắt xỉa tới, xỉa lui trong ao cá. Chẳng bắt được cá, mà toàn thân con cá bị xiên chảy máu đầm đ́a. Đối đăi tàn khốc với loài động vật sống dưới nước dường ấy, đúng là thê thảm, vô nhân đạo! Đă tạo tội nghiệp ấy, trong tương lai, [quả báo] sẽ kinh khủng cỡ nào? Do vậy, chúng sanh trong hiện thời, kẻ bần cùng đương nhiên là đau khổ, kẻ có tiền càng tạo tội nghiệp lớn hơn nữa, có phước ǵ để có thể hưởng? Chúng ta có thể ở nơi đây học pháp xuất thế này, học kinh văn này, bất cứ phước nào trong thế gian cũng đều chẳng thể sánh bằng phước của chúng ta. Huống hồ, đối với hết thảy thiên tai, nhân họa, xác thực là chúng ta sẽ chẳng gặp phải. Đấy mới là phước báo lớn nhất. Hôm nay, chúng tôi nói đến chỗ này bèn ngưng.

 

Tập 33

 

          Thưa các giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười chín, bắt đầu từ hàng thứ sáu. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn.

 

(Kinh) Thứ quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Thử Bồ Tát thân lượng đại tiểu, diệc như Quán Thế Âm. Viên quang diện các bách nhị thập ngũ do-tuần, chiếu nhị bách ngũ thập do-tuần. Cử thân quang minh, chiếu thập phương quốc, tác tử kim sắc. Hữu duyên chúng sanh, giai tất đắc kiến.

()次觀大勢至菩薩。此菩薩身量大小,亦如觀世音。圓光面各百二十五由旬,照二百五十由旬。舉身光明,照十方國,作紫金色。有緣眾生,皆悉得見。

(Kinh: Kế đó, quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Vị Bồ Tát này thân lượng lớn nhỏ cũng giống như Quán Thế Âm. Viên quang mỗi phía đều là một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi do-tuần. Quang minh nơi toàn thân chiếu mười phương cơi nước thành màu tử kim. Hữu duyên chúng sanh thảy đều trông thấy).

 

IV.2.2.12 Phép Quán thứ mười một, Thế Chí Quán

 

Đây là phép Quán thứ mười một trong Thập Lục Quán Kinh. Phép quán tưởng trong phần trước là quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát. Học Tịnh Độ Tông, thờ tượng Phật là tượng Tây Phương Tam Thánh: Chính ǵữa là A Di Đà Phật; hai bên, một bên là Quán Thế Âm Bồ Tát, bên kia là Đại Thế Chí Bồ Tát. Phép Quán được nghiên cứu trong ngày hôm nay là quán Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ vậy, kinh văn vừa mở đầu bèn nói: “Thứ quán Đại Thế Chí Bồ Tát”, “thứ” () là phần tiếp theo sau của phép quán Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần trước. Sau khi đă xem phần kinh văn [giảng về] Quán Thế Âm Bồ Tát, sau khi đă vận dụng công phu ấy, kế tiếp là sẽ quán tưởng Đại Thế Chí Bồ Tát. Quán tưởng Đại Thế Chí Bồ Tát giống như quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần trước. Trước hết là quán thân lượng của Bồ Tát. Do vậy, kế đó bèn nói: “Thử Bồ Tát thân lượng đại tiểu, diệc như Quán Thế Âm”, [nghĩa là xét tới] chiều cao nơi thân Đại Thế Chí Bồ Tát và các phương diện khác, thân lượng Ngài lớn nhỏ giống hệt như Quán Thế Âm Bồ Tát.

Có chỗ nào khác biệt hay không? Có chỗ hơi khác. Tiếp đó, kinh văn bèn nói: “Viên quang” (圓光) là quang minh phát ra từ cổ. “Diện các bách nhị thập ngũ do-tuần, chiếu nhị bách ngũ thập do-tuần”: Đấy là chỗ khác với Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần trước. Viên quang của Quán Thế Âm Bồ Tát là “diện các bách thiên do-tuần”, [tức là] mỗi phía đều chiếu đến trăm ngàn do-tuần, c̣n viên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát, nói theo bốn phía, mỗi phía bèn rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần. Đó là chỗ chẳng giống Quán Thế Âm Bồ Tát. Quang minh to ngần ấy, chiếu bao xa? “Chiếu nhị bách ngũ thập do-tuần”: Có năng lực chiếu xa gấp bội. Quang minh của Ngài rộng một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu ra xa, bèn xa gấp đôi, tức là hai trăm năm mươi do-tuần. Nói gộp hai điều ấy lại, sẽ có chỗ hơi khác viên quang của Quán Thế Âm Bồ Tát. “Cử thân quang minh, chiếu thập phương quốc, tác tử kim sắc” (Quang minh nơi toàn thân chiếu mười phương cơi nước thành màu tử kim). “Cử thân” (舉身) là toàn thân. Quang minh nơi toàn thân có thể chiếu đến các quốc độ trong mười phương thế giới, “chiếu thập phương quốc”. “Tác tử kim sắc”: Chiếu thấu mười phương quốc độ, [khiến các cơi ấy] đều trở thành màu tử kim. Quang minh ấy hễ chiếu đến một cơi Phật nào, cơi Phật ấy đều biến thành màu tử kim, cho nên bảo là “tác tử kim sắc”.

          Ở đây, chúng ta phải nên nghiên cứu đôi chút. Vị Đại Thế Chí Bồ Tát này và Quán Thế Âm Bồ Tát có địa vị bằng nhau, v́ sao viên quang của Quán Thế Âm Bồ Tát là trăm ngàn do-tuần, mà viên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát mỗi phía là một trăm hai mươi lăm do-tuần, lớn nhỏ khác nhau? Các vị tổ sư thời cổ chú giải: Đấy là h́nh tướng thị hiện để hóa độ chúng sanh của Bồ Tát (quang minh cũng là h́nh tượng) chẳng hoàn toàn giống nhau. V́ sao Ngài hiện ra h́nh tượng nhỏ hơn đôi chút? Ngài hóa độ chúng sanh có chỗ khác biệt, chẳng thể hoàn toàn nhất trí. Chẳng thể v́ chuyện này mà nói: Do viên quang khác nhau, địa vị của hai vị Bồ Tát chẳng b́nh đẳng. Chẳng phải vậy! Mỗi vị có phương hướng hóa độ chúng sanh [riêng biệt], cho nên biểu lộ thành hiện tượng khác biệt, nhưng địa vị chẳng hề khác biệt!

          Quang minh nơi toàn thân Đại Thế Chí Bồ Tát chiếu khắp các cơi nước trong mười phương. Thế giới Sa Bà cũng thuộc trong phạm vi chiếu soi bởi quang minh của Đại Thế Chí Bồ Tát, chúng ta có thấy tử kim sắc hay không? “Hữu duyên chúng sanh, giai tất đắc kiến”: Phàm là chúng sanh có duyên với vị Bồ Tát này, đều có thể trông thấy. Tổ sư chú giải: Nói tới “hữu duyên” th́ ai là hữu duyên? Ai chẳng có duyên? Ai nấy đều hữu duyên! Đại Thế Chí Bồ Tát tu hành trong một thời gian dài cho đến hiện tại, đều đă kết duyên với bọn chúng sanh chúng ta. Chúng ta đều đă từng nghe danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát, hoặc thấy tượng Đại Thế Chí Bồ Tát, thậm chí là trông thấy thân ứng hóa của Đại Thế Chí Bồ Tát. Đấy đều là “hữu duyên”. “Duyên” là nói đối với chúng sanh: Chúng ta có một phần duyên, chứng tỏ chúng ta có thiện căn. V́ vậy, chúng ta đều có duyên cùng vị Bồ Tát này. Chúng sanh đều có thiện căn, bất quá duyên có sâu hay cạn sai khác, chỉ phân biệt là thiện căn chín muồi hay chưa mà thôi! Nói theo thời đại này, chẳng thể nói: “Người học Phật, người học Tịnh Độ Tông sẽ có duyên với Đại Thế Chí Bồ Tát. Kẻ chẳng học Phật, chẳng học Tịnh Độ Tông, bèn chẳng có duyên với Đại Thế Chí Bồ Tát”. Chúng ta chẳng biết rơ! Nếu nh́n sự thật với tầm nh́n xa, sẽ [thấy ai nấy] đều là có duyên, bất quá thiện căn của họ đă chín muồi hay chưa? Kẻ chẳng học Phật chính là thiện căn c̣n chưa chín muồi. So với họ, coi như là thiện căn của chúng ta đă chín muồi, [cho nên] có thể thấy Đại Thế Chí Bồ Tát.

          Chúng ta đều có duyên với Đại Thế Chí Bồ Tát, chúng ta đều có thể trông thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Trong đạo tràng, chúng ta thấy tượng Tam Thánh. Kinh văn nói “tử kim sắc”, trên thực tế, chúng ta chẳng thấy tử kim sắc. Kinh văn dạy về quán tưởng, chúng ta tŕ danh niệm Phật, đương nhiên là chẳng sử dụng công phu quán tưởng. Tuy chẳng dùng công phu quán tưởng, nhưng rất nhiều vị thiện tri thức đều dạy chúng ta phải “tùy văn nhập quán”. Chữ Quán ở đây chẳng phải là Quán trong “chuyên môn quán tưởng”, mà có nghĩa là: Chúng ta học kinh văn, đối với những ư nghĩa đă nói trong kinh văn, hăy vận dụng cái tâm, vận dụng sức tưởng tượng để tưởng quang minh của Bồ Tát [khiến cho những nơi được quang minh của Ngài chiếu đến] đều là màu tử kim, th́ coi như là đă trông thấy. Thường ngày, ngoài công phu chánh yếu là tŕ danh niệm Phật ra, chúng ta c̣n dùng rất nhiều trợ công phu, “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành” chính là trợ công phu. Ngoài ra, đối với những đạo lư được dạy trong kinh văn, [những đạo lư ấy] quy hướng tŕ danh niệm Phật, sẽ phụ trợ cho việc tŕ danh niệm Phật. V́ sao? Chúng ta tưởng h́nh tượng của Tam Thánh: Các thứ trang nghiêm của A Di Đà Phật, các thứ trang nghiêm nơi quang minh của Quán Thế Âm Bồ Tát, tử kim sắc của Đại Thế Chí Bồ Tát, lúc tâm chúng ta không niệm Phật, hăy tưởng những điều ấy, khiến cho cái tâm (ư niệm) được gom về đó, sẽ là cảnh giới ǵ? Trong mười pháp giới, cao nhất là Phật pháp giới, kế đó là đại Bồ Tát. Hai vị Bồ Tát này đều đă đạt tới địa vị Đẳng Giác Bồ Tát, chẳng sai khác với địa vị Phật cho mấy. Chúng ta tâm tâm niệm niệm, ngoài tŕ danh niệm Phật ra, tâm hoàn toàn đặt vào những điều này, tưởng thân tướng trang nghiêm của Bồ Tát. Tu tŕ như vậy, cảnh giới của chúng ta có thể đạt đến mức độ nào? Tự nhiên sẽ là “tịnh niệm nối tiếp”. Chúng ta tụng niệm công khóa sáng tối có thời gian nhất định, nhưng thời gian [tụng niệm] chẳng thể rất dài. Tham gia Phật Thất th́ cũng chỉ là khi đả Phật Thất mới niệm Phật. Ngoài công khóa sáng tối ra, lúc chẳng đả Phật Thất, những thời gian khác th́ làm như thế nào? Nếu như chúng ta thời thời khắc khắc tâm tâm niệm niệm, hễ có thời gian, tâm niệm bèn đặt ngay nơi đây, sẽ là “tịnh niệm tiếp nối”.

          Chúng ta thật sự là như vậy, khi không niệm Phật, hễ có lúc rảnh rỗi, trong tâm bèn nghĩ đến tử kim sắc của bậc đại Bồ Tát. Thường nói là “người học Phật phải thân cận thiện tri thức”; hiện thời, thân cận thiện tri thức chẳng dễ dàng, ai là bậc thiện tri thức? Nếu tâm niệm đặt trong quang minh của đại Bồ Tát, vị thiện tri thức nào có thể sánh bằng hai vị đại Bồ Tát này? Vạn pháp duy tâm! Chỉ cần tâm lư đặt ở nơi đây, tâm lư chúng ta và cảnh giới ấy sẽ nhất trí. V́ thế, sẽ là “giai tất đắc kiến” (thảy đều được thấy). Sau khi thảy đều được thấy, sẽ có những lợi ích ǵ?

 

        (Kinh) Đản kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang, tức kiến thập phương vô lượng chư Phật tịnh diệu quang minh. Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Vô Biên Quang.

()但見此菩薩一毛孔光,即見十方無量諸佛淨妙光明。是故號此菩薩名無邊光。

(Kinh: Chỉ thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát này, liền thấy quang minh tịnh diệu của mười phương vô lượng chư Phật. V́ thế, vị Bồ Tát này có hiệu là Vô Biên Quang).

 

          “Đản kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang, tức kiến thập phương vô lượng chư Phật tịnh diệu quang minh” (Chỉ thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát này, liền thấy quang minh tịnh diệu của mười phương vô lượng chư Phật). “Đản kiến” (但見) là chỉ cần trông thấy. Đối với quang minh nơi toàn thân Đại Thế Chí Bồ Tát (quang minh nơi toàn thân Ngài có thể chiếu thấu suốt các cơi nước trong mười phương), tuy chúng ta chẳng thể trông thấy hoàn toàn, nhưng nói theo mức độ ít nhất, ít đến cỡ nào? Ít nhất là quang minh nơi một lỗ chân lông. Một lỗ chân lông hết sức nhỏ nhiệm. Chỉ cần chúng ta có thể thấy một tia sáng phát ra từ một lỗ chân lông là đă tuyệt diệu lắm rồi! Chúng ta có thể nhờ vào quang minh từ một lỗ chân lông mà trông thấy quang minh tịnh diệu của vô lượng vô số chư Phật trong mười phương thế giới. Lợi ích ấy đơn giản là chẳng có cách nào tính đếm được, lợi ích quá to lớn! V́ sao thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của Đại Thế Chí Bồ Tát bèn có thể thấy quang minh tịnh diệu của vô lượng chư Phật trong mười phương? Chúng ta hăy xem trước hai chữ “tịnh diệu”. Nói “tịnh” () nghĩa là các thứ Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng che lấp bản tánh thảy đều bị phá trừ hết sạch; hết thảy phiền năo chẳng c̣n, đă thanh tịnh. “Diệu” () là nói tới bản tánh, là Tánh Đức. “Tịnh” là nói về Tu Đức. Bọn phàm phu chúng ta có rất nhiều phiền năo, bất tịnh, nương theo Phật pháp để tu từng bước một, đoạn trừ hết sạch tất cả Hoặc (phiền năo). Đó là Tu Đức. Sau khi đă tịnh, “diệu” liền tỏ lộ. “Diệu” là cái vốn sẵn có, cho nên gọi là Tánh Đức. Nói gộp lại, hai chữ “tịnh diệu” là do chư Phật đều đă trải qua bao nhiêu kiếp số tu tập thành tựu, hoàn toàn hiển lộ Tánh Đức vốn sẵn có. Quang minh ấy chính là quang minh của Phật, cho nên gọi là “tịnh diệu quang minh”. Quang minh ấy chính là một loại tác dụng, tác dụng của nó xuất phát từ nơi đâu? Từ trong bản tánh mà ra. Chúng ta phải liễu giải: Chư Phật thành Phật đều từ trong bản tánh mà phát ra quang minh tịnh diệu.

          Vừa mới hỏi: “V́ sao thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của Đại Thế Chí Bồ Tát, bèn có thể thấy quang minh tịnh diệu của mười phương vô lượng chư Phật?” Thật ra, quang minh là từ bản tánh (bản thể) phát ra tác dụng. Bản thể là Pháp Thân, Pháp Thân không chỗ nào chẳng tồn tại. Đó là một nguyên nhân. Lại nói, Pháp Thân của chư Phật có khác nhau hay không? Pháp Thân của chư Phật hoàn toàn như nhau! V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân” (Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân). Nói “mười phương” tức là mười phương thế giới, “ba đời” là nói tới quá khứ Phật (đă thành Phật trong quá khứ), hiện tại Phật (Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật), vị lai Phật (Di Lặc Bồ Tát). Nói càng rộng răi hơn, hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai. Bất luận đến khi nào trong tương lai, rốt cuộc, sẽ đều thành Phật. Tất cả chúng sanh phàm phu đều là vị lai Phật. Đă là như vậy, sẽ có cùng chung một Pháp Thân. Pháp Thân vốn sẵn có là “cùng chung”, nhưng nay chúng ta chẳng thấy Pháp Thân của chính ḿnh; v́ sao? Do bị tri kiến phàm phu (phiền năo) của chính ḿnh chướng ngại; do vậy, chẳng trông thấy. Nay nhờ vào một tia ánh sáng của Đại Thế Chí Bồ Tát, lúc chúng ta dụng công, tâm đặt nơi quang minh của Đại Thế Chí Bồ Tát, nương vào quang minh của Ngài, khiến cho quang minh nơi bản tánh của chúng ta phát lộ. Hễ phát lộ, sẽ thấy quang minh của mười phương vô lượng chư Phật. Nguyên lư là như thế đó.

          Đă nhờ vào quang minh nơi một lỗ chân lông của Bồ Tát, trông thấy quang minh của chư Phật nhiều ngần ấy, tự nhiên cũng thấy quang minh của A Di Đà Phật. Chúng ta đều ở trong quang minh của Phật, thời khắc nào cũng đều thấy quang minh. Hết thảy các khổ năo trong thế gian này, hết thảy những chuyện chẳng vừa ư, sẽ tồn tại ở nơi đâu? Tự nhiên hóa thành chẳng c̣n nữa! Tâm chúng ta ở ngay trong một bầu quang minh ấy, ai có thể đạt được sự thọ dụng ấy? V́ thế, khi chúng ta học Tịnh Độ Tông, hăy nên suy nghiệm kỹ càng chỗ này. Mỗi khi dấy khởi một câu danh hiệu, câu danh hiệu ấy đều có thể tổng tŕ tất cả quang minh, tất cả cảnh giới. Chúng ta niệm Phật như vậy, sẽ có sức mạnh to cỡ nào? Có phiền năo nào mà chẳng thể đè nén cho được?

          “Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Vô Biên Quang” (Do vậy, Bồ Tát này có hiệu là Vô Biên Quang). Thông thường, chúng ta chỉ biết danh hiệu của vị Bồ Tát này là Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahāsthāmaprāpta). Nhưng trong bộ kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy: Do vị Bồ Tát này có quang minh như vậy, có thể khiến cho chúng sanh trông thấy quang minh bèn phát sanh tác dụng to lớn như thế. V́ lẽ ấy, vị Bồ Tát này c̣n có danh hiệu là Vô Biên Quang Bồ Tát. Vô Biên là vô lượng vô biên. “Vô biên” nghĩa là quang minh chẳng có ngằn mé, chẳng có giới hạn; có thể tưởng tượng quang minh ấy chiếu rất xa rộng! Ngoài danh hiệu Vô Biên Quang ra, một danh hiệu khác mà chúng ta quen thuộc là Đại Thế Chí Bồ Tát[5]. V́ sao có tên là Đại Thế Chí Bồ Tát? Dưới đây bèn giải thích:

 

          (Kinh) Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết, linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực. Thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Đại Thế Chí.

          ()以智慧光,普照一切,令離三途,得無上力。是故號此菩薩名大勢至。

(Kinh: Do dùng quang minh trí huệ chiếu trọn khắp hết thảy, khiến ĺa tam đồ, đạt được vô thượng lực. Do vậy, vị Bồ Tát này được gọi là Đại Thế Chí).

“Dĩ trí huệ quang, phổ chiếu nhất thiết” (Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp hết thảy): Nói theo ư nghĩa của danh hiệu Đại Thế Chí, vị Bồ Tát này dùng trí huệ quang của Ngài. Trí huệ quang là ǵ? “Trí huệ quang” là từ bản thể (Pháp Thân) phát ra tác dụng, phát ra quang minh, cho nên có quang minh đại trí huệ. Quang minh ấy chiếu khắp hết thảy, cũng là chiếu trọn khắp mười phương thế giới, chẳng có chỗ nào không chiếu tới. Quang minh trí huệ ấy chiếu khắp hết thảy, có công đức ǵ? Có tác dụng ǵ? “Linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực” (Khiến ĺa tam đồ, đắc vô thượng lực). Phàm là chỗ nào quang minh chiếu tới, những chúng sanh trông thấy quang minh đều được ĺa khỏi tam đồ. Tam đồ là chỗ khổ nhất trong lục đạo. Mọi người đều biết: Khổ nhất là địa ngục, đỡ khổ hơn địa ngục đôi chút là ngạ quỷ đạo!

          Lại nhẹ hơn chút nữa là súc sanh đạo. Chúng sanh trong tam đồ (súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục) đều hết sức thống khổ. Đă thế, hễ đọa trong tam đồ, tới khi nào mới thoát ra? Xa vời vợi chẳng có kỳ hạn! Dẫu thọ mạng trong súc sanh đạo rất ngắn, súc sanh nuôi trong nhà, dă thú trong chốn núi sâu rừng thẳm, các loài thủy tộc động vật dưới nước, dường như sanh mạng chẳng dài, nhưng sau khi đă chết, có thể giải thoát hay không? Không nhất định! Rất nhiều súc sanh, sau khi đời này đă chết đi, lại chuyển sanh vẫn ở trong loài súc sanh. Mọi người nghiên cứu kinh điển đều biết: Tại Ấn Độ, vào thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật, có câu chuyện “đă trải qua thời gian bảy đức Phật [xuất thế] mà vẫn chẳng thoát khỏi thân kiến”. Kiến có thọ mạng chẳng dài, nhưng kiến chết rồi, vẫn sanh làm kiến. Bảy vị Phật đă xuất hiện trong thế gian, mà những con kiến ấy vẫn chưa thoát ly [thân kiến]. Có thể suy ra để biết: Hễ đọa lạc tam đồ, sẽ đau khổ như thế đó! Khi nào sẽ có thể thoát ra? Chúng sanh chịu khổ trong tam đồ, được quang minh của Bồ Tát vừa chiếu đến, sẽ có thể thoát khỏi khổ báo trong tam đồ!

          Nay chúng ta đang ở trong nhân đạo, nhưng chúng ta nh́n vào chúng sanh trong loài người. Trong hiện thời, chúng sanh thuộc loài người đang gây tạo tội nghiệp: Sát hại động vật, con người tàn sát lẫn nhau, tạo đủ mọi nghiệp, bất cứ chuyện ǵ cũng đều đủ để đọa nhập tam đồ! Trong xă hội, kẻ b́nh phàm tranh danh đoạt lợi với người khác, v́ những thứ hư giả như tài, sắc, danh, lợi. Họ chẳng hiểu rơ, cứ ngỡ những thứ ấy rất quư báu, chỗ nào cũng đều tranh đoạt với kẻ khác. Hễ tranh đoạt, bèn tổn hại người khác. Tổn hại người khác đến cùng tột, sẽ sát hại chúng sanh (bao gồm động vật và nhân loại). Ví như trong hiện thời, những kẻ có tiền, hễ rảnh rỗi bèn đến chỗ câu cá để xiên cá. Họ chẳng câu cá, mà là xiên cá. Đấy toàn là tội nghiệp đọa nhập tam đồ, lại c̣n coi đó là một thú vui giải trí. Hiện thời, nh́n bề ngoài, mọi người kinh tế đều khấm khá, cơm, áo, ăn ở đều rất tốt đẹp. Kẻ học đạo biết dụng công, sẽ có thể biến của cải thành sự nghiệp công đức. Kẻ chẳng học Phật, cậy vào tiền tài để tạo tội nghiệp, năo hại chúng sanh. Sau khi đă tạo tội nghiệp xong, sẽ đọa lạc tam đồ. Nghĩ đến đây, chúng sanh thuộc loài người trong nhân gian hết sức nguy hiểm! Chẳng có ngày nào không tạo ác nghiệp tam đồ. Do sự suy tưởng như vậy, chúng ta đến đạo tràng ngắm tượng Tam Thánh, từ kinh văn biết vị Bồ Tát này có quang minh như vậy. Chúng ta vừa được quang minh chiếu đến, tâm lư lập tức chuyển biến, được quang minh gia bị, biết nhân gian hiểm ác dường ấy, chúng ta sẽ không chịu, chẳng bằng ḷng [tiếp tục tái sanh trong lục đạo], mà cũng chẳng dám tạo ác nghiệp, ĺa khỏi tam đồ, chẳng có phần nơi tam đồ!

          Chúng ta học Phật, học hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát đạo là từ bi, từ bi là “bạt khổ, dữ lạc”, “bạt khổ” (拔苦) là dẹp trừ những nỗi đau khổ của chúng sanh. Giống như nơi thân chúng sanh có độc, phải trừ khử độc khí. Đối với hết thảy những nỗi đau khổ của chúng sanh, Bồ Tát có thể thay họ dẹp trừ, khiến cho họ ĺa khỏi tam đồ. Nỗi đau khổ trong tam đồ sâu đậm nhất. Quang minh của Bồ Tát có thể khiến cho chúng sanh ĺa khỏi khổ báo tam đồ. “Dữ lạc” (與樂) là làm cho chúng sanh được vui sướng, đạt được niềm sung sướng ǵ vậy? “Đắc vô thượng lực”. Vô thượng lực là Phật lực, “lực” là sức mạnh trí huệ. Đă thành Phật, Phật được gọi là Vô Thượng Sư, chí cao vô thượng, chẳng có ai cao hơn Phật. V́ thế, Phật được gọi là Vô Thượng. “Vô thượng lực” là trí lực của Phật. Có thể đạt được Phật lực th́ sẽ tốt đẹp lắm! Vui sướng đến mức độ nào?

Phật có mười loại trí lực, vô thượng lực. Nói cách khác, sẽ là có mười lực, bất cứ vị Phật nào cũng đều có mười loại sức mạnh to lớn. Chẳng có thời gian để nói trọn vẹn mười loại sức mạnh to lớn, tôi chỉ giới thiệu mấy loại dễ hiểu ḥng mọi người biết niềm vui này. Tuyệt đối chẳng phải là vui sướng theo quan niệm thông thường của người đời. Kẻ b́nh phàm thường nghĩ tới những điều vui sướng trong thế gian. Trên thực tế, [trong thế gian] chẳng có chuyện ǵ đáng coi là vui! Khi chúng sanh phàm phu hưởng lạc, chính là lúc tạo nghiệp, làm sao có thể gọi là “lạc” cho được? Lạc thật sự là đắc vô thượng lực; đó là đại lạc, là lạc rốt ráo. Lạc nếu tách ra để nói, nay tôi giới thiệu mấy loại để giúp chúng ta cầu đạo. Hiện thời, có rất nhiều người học Phật, quư vị hỏi họ: “V́ sao học Phật? V́ sao học pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ Tông?” Họ chẳng thể đáp được. Chỉ có học Phật th́ mới có thể đạt được lạc thật sự. Chỉ có học pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ Tông th́ mới có thể nhanh chóng đạt được niềm vui này!

          Trong mười loại lực của Phật, loại thứ nhất là trí huệ lực, ai trong chúng ta cũng đều chẳng thể làm được. Ví như chúng ta thấy các thứ sự vật trong thế gian, chẳng hỏi đến th́ thôi; hễ hỏi đến, mỗi sự kiện đều có đạo lư tồn tại của riêng nó. Những chuyện đă làm giữa người và người với nhau cũng đều có đạo lư riêng. Có những sự vật phù hợp đạo lư, có những sự vật chẳng hợp đạo lư; chúng ta chẳng nh́n ra điều này! Chúng ta thấy trong thiên nhiên, gió thổi, mưa rơi, hoặc địa cầu chấn động, chúng ta có hiểu ư nghĩa là ǵ hay không? Là đạo lư ǵ? Dẫu là các nhà khoa học, cũng chưa chắc đă t́m ra câu trả lời, nhưng đức Phật biết. Đức Phật biết hết thảy các hiện tượng phát sanh là do đạo lư nào, có những điều ǵ chẳng hợp lư sau đó sẽ phát sanh hậu quả [như thế nào], đức Phật đều thấy rơ ràng, rành rẽ. Ai trong chúng ta có thể thấy được? Không chỉ là chẳng thấy, mà cũng chẳng liễu giải. Đức Phật nói pháp xuất thế gian, Khổng phu tử nói pháp thế gian. Trong hiện thời, ai có thể vừa nghe lời đức Phật dạy bèn có thể lănh ngộ? Ai vừa nghe lời Khổng phu tử dạy bèn có thể tin tưởng? Hiện thời, có thể nói là “chẳng có ai cả!” Trải qua bao nhiêu phen nghiên cứu, vẫn chẳng thể nghiên cứu rơ ràng, tự ḿnh ngộ càng khó khăn hơn nữa! Do vậy, chúng ta đừng tưởng chính ḿnh rất cao minh, chúng ta đều là phàm phu. Trong cơi đời, những bậc đại học vấn đọc rất nhiều sách vở thế gian, nhưng so sánh trí huệ của họ với đức Phật, [trí huệ của] đức Phật giống như toàn thể đại địa, những ǵ mà bậc đại học vấn trong thế gian biết được bất quá c̣n chưa bằng một vi trần! Thua xa!

          Lại nói tới một loại trí lực [khác nữa] của đức Phật. Đức Phật có thể biết hết thảy chúng sanh trong quá khứ, hiện tại, vị lai đă tạo nghiệp ǵ, sẽ hứng chịu quả báo ǵ? Ai biết những điều ấy? Đừng nói là chúng ta chẳng biết hết thảy chúng sanh, mà đối với chính ḿnh, chúng ta cũng chẳng biết chính ḿnh đă từng làm những chuyện ǵ! Làm sao biết nổi trạng huống trong hiện tại? Vị lai như thế nào? Trong tương lai, khi thọ mạng kết thúc, đời sau sẽ ở trong hoàn cảnh như thế nào? Ai lại có thể biết được? Dẫu học vấn tốt đẹp đến mấy đi nữa, ngay cả chuyện này cũng đều không biết, c̣n coi là học vấn tốt đẹp nỗi ǵ? Chớ nên mạo nhận! Đức Phật biết hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới từ vô cùng vô thỉ trong quá khứ cho tới nay đă tạo những nghiệp ǵ, hiện tại tạo nghiệp ǵ, vị lai sẽ tạo nghiệp ǵ, do tạo nghiệp nào sẽ đắc quả báo nào, đức Phật đều thấy rơ ràng, rành rẽ. Ai trong chúng ta có thể có loại trí lực ấy? Đức Phật có loại trí lực ấy; v́ vậy, Ngài thấy chúng sanh khổ năo bèn sanh ḷng đại từ bi, thấy hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới đều đang khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ báo (Hoặc, Nghiệp, Khổ luân hồi), đức Phật mong v́ chúng sanh giải quyết khổ năo, luôn luôn hóa độ chúng sanh. Đại Thế Chí Bồ Tát đă đạt tới địa vị Đẳng Giác, giống như Phật, Ngài thời thời khắc khắc dùng quang minh gia bị chúng sanh. Chỉ cần chúng sanh trong tâm tưởng Bồ Tát, tiếp nhận quang minh của Bồ Tát gia bị, trí huệ của chúng ta sẽ dần dần mở mang. Trước hết, chúng ta tin tưởng sâu sa Thánh Ngôn Lượng, tức là tin sâu nhân quả, như vậy th́ sẽ có thể đạt được một phần trí lực. Do vậy, chúng ta học Phật, điều quan trọng nhất chính là: Ắt phải tin sâu nhân quả! Kẻ chẳng tin nhân quả, dẫu niệm nhuyễn nhừ Tam Tạng mười hai bộ kinh, vẫn chẳng được!

          Lại có một loại trí huệ lực của Phật nữa, chính là đức Phật biết các thứ công phu Thiền Định. Chúng ta đă nghe nói tới Thiền Định (tam-muội). Hiện thời rất nhiều người học Thiền, nói tới công phu Thiền Định. Thiền Định là ǵ? Thiền Định có Thiền Định thế gian, có Thiền Định xuất thế gian. Có rất nhiều loại Thiền Định thế gian, có những hiện tượng ǵ? Phải vận dụng công phu như thế nào? Thiền Định xuất thế gian cũng có đủ loại t́nh huống, hiện thời ai biết? Đức Phật đều biết! Vào thời Thích Ca Mâu Ni Phật, tại Ấn Độ, có rất nhiều ngoại đạo, công phu rất giỏi, công phu Thiền Định thế gian rất sâu, Thích Ca Mâu Ni Phật vừa nh́n bèn biết là Thiền Định loại nào? Ngày nay, ai trong chúng ta có thể phân định rơ ràng Thiền Định thuộc loại nào? Đă chẳng phân định rành rẽ, hăy thật thà niệm một câu Phật hiệu A Di Đà Phật. Đắc nhất tâm bất loạn chính là đại Thiền Định, là Thiền Định xuất thế gian. Thiền Định bằng cách niệm một câu Phật hiệu, chẳng nhất định phải là khoanh chân tĩnh tọa, đó là công phu cơ bản. Tĩnh tọa th́ chưa chắc đă tĩnh tọa được, nhưng niệm Phật th́ bất cứ lúc nào cũng đều có thể niệm. Không lúc nào, không chỗ nào chẳng thể niệm. Niệm đến mức nhất tâm bất loạn th́ chính là Thiền Định. Chuyện này hết sức dễ dàng, lại c̣n hết sức ổn thỏa. Học các loại Thiền Định khác, nếu học không nên thân, nông cạn nhất sẽ là thân thể bị tổn hại (do dụng công chẳng đúng pháp, thân thể bị tổn hại). Nếu như thân thể điều dưỡng tốt đẹp, đạt được cảnh giới nho nhỏ, cứ ngỡ là đă ghê gớm lắm rồi! Đă đắc đạo rồi! Thật ra, nói theo Thiền Định thế gian, công phu vẫn là rất thô thiển! Cứ ngỡ đă đắc đạo, chẳng cầu tiến bộ, tâm ngạo mạn tăng trưởng, toàn thể trái nghịch đạo, sẽ bị họa hại lớn nhất. Tổ sư thường nói: “Vị đắc vị đắc” (未得謂得, chưa đắc mà bảo là đă đắc), nghĩa là: Chưa đạt được chân pháp, mà cứ tưởng đă đạt được chân pháp, chuốc lấy tội lỗi to lớn! V́ thế, bọn phàm phu b́nh phàm như chúng ta nếu mong học Thiền, chẳng thật sự gặp thiện tri thức chỉ dạy, cứ chính ḿnh tu mù luyện đui, sẽ là mười phần nguy hiểm! Nay chúng ta chẳng gặp Phật, nhưng lời dạy của đức Phật hăy c̣n. Chúng ta tin tưởng lời dạy của Thích Ca Mâu Ni và A Di Đà Phật, tin tưởng quang minh của Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát đang gia bị, hăy khéo niệm Phật! Chỉ cần chịu niệm Phật, thậm chí chẳng hiểu Thiền Định chi hết, vẫn chẳng sao cả, cũng sẽ đạt được Thiền Định cao nhất!

          Đức Phật hăy c̣n có rất nhiều sức mạnh khác. Chẳng hạn như đức Phật biết tri kiến và năng lực lư giải của hết thảy chúng sanh. Nay bảo chúng ta hăy nói kiến giải của người nào đó, trong tâm người ấy nghĩ ǵ, chúng ta có biết hay không? Tuyệt đối là chẳng biết! Ngay cả ư niệm của chính ḿnh mà bản thân chúng ta c̣n chẳng nhận ra, huống hồ là của người khác? Do Phật lực, Ngài sẽ biết kiến giải của hết thảy chúng sanh. Chúng sanh có thể lư giải tới mức độ nào, đức Phật đều biết. Biết điều này th́ có tác dụng ǵ? Khi đức Phật hóa độ chúng sanh, có thể dựa theo mức độ lư giải của chúng sanh để ban cho họ pháp nào (rất phù hợp với tŕnh độ của chúng sanh). Đó là sức mạnh to lớn tuyệt diệu! Những sức mạnh ấy, Đại Thế Chí Bồ Tát đều đă trọn đủ. Ngài có thể vận dụng ánh sáng trí huệ của chính ḿnh để ban cho chúng sanh hữu duyên, khiến cho họ đạt được tác dụng của sức mạnh ấy. Đạt được tác dụng ấy, có thể suy ra mà biết niềm vui ấy. Có niềm sung sướng nào trong thế gian có thể sánh bằng? Do vậy, “linh ly tam đồ, đắc vô thượng lực” (khiến cho ĺa tam đồ, đắc vô thượng lực) chính là “bạt khổ dữ lạc” (dẹp khổ, ban vui). V́ Đại Thế Chí Bồ Tát có sức “bạt khổ dữ lạc” mạnh mẽ; “thị cố hiệu thử Bồ Tát danh Đại Thế Chí” (v́ thế, vị Bồ Tát này được gọi là Đại Thế Chí), “Thế” () là đại thế lực, “Chí” () là đă đạt tới chỗ cùng cực. Đấy là nguồn gốc của danh hiệu Ngài.

          Đoạn kinh văn này chính là đoạn lớn thứ nhất trong pháp môn quán tưởng thuộc phép Quán thứ mười một. Đoạn lớn thứ nhất gồm có ba tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là từ “thứ quán Đại Thế Chí” (kế tiếp, quán Đại Thế Chí) cho đến “hữu duyên chúng sanh giai tất đắc kiến” (chúng sanh hữu duyên thảy đều được thấy), đấy là nói tóm tắt. Tiểu đoạn thứ hai là từ “đản kiến thử Bồ Tát nhất mao khổng quang” (chỉ thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát ấy) cho đến “danh Vô Biên Quang” (gọi là Vô Biên Quang), nêu ra một danh hiệu khác của Bồ Tát. Tiểu đoạn thứ ba là từ “dĩ trí huệ quang” (dùng ánh sáng trí huệ) cho đến “danh Đại Thế Chí” (gọi là Đại Thế Chí). Ba tiểu đoạn ấy hợp thành một đoạn lớn. Hôm nay, tôi nói tới đây bèn ngưng!

 

Tập 34

 

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang mười chín, xem hàng cuối cùng, bắt đầu từ hai câu cuối cùng. Tôi niệm trước một đoạn kinh văn:

 

        (Kinh) Thử Bồ Tát thiên quan, hữu ngũ bách bảo hoa. Nhất nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài. Nhất nhất đài trung, thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng trường chi tướng, giai ư trung hiện.

        ()此菩薩天冠,有五百寶華。一一寶華,有五百寶臺。一一臺中,十方諸佛淨妙國土廣長之相,皆於中現。

(Kinh: Măo trời của vị Bồ Tát này có năm trăm bảo hoa. Mỗi một bảo hoa có năm trăm bảo đài. Trong mỗi đài, thảy đều hiện tướng cơi nước tịnh diệu rộng lớn của mười phương chư Phật).

 

          Hôm nay, [chúng ta] bắt đầu từ chỗ này, tiếp tục phép Quán thứ mười một đă giảng trong lần trước. Phép Quán này là quán tưởng Đại Thế Chí Bồ Tát. Trước phép Quán này là quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Hai vị Bồ Tát này được quán kế tiếp ngay sau khi quán A Di Đà Phật. Chúng ta biết: Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, các vị đại Bồ Tát rất đông! Những vị đạt đến địa vị Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thể kể xiết; hai vị này là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, v́ sao đặc biệt là sau khi [quán tưởng] A Di Đà Phật, lại nói tới hai vị Bồ Tát này? V́ hai vị Bồ Tát này [hầu cận] hai bên A Di Đà Phật, giúp A Di Đà Phật hoằng hóa, thường xuyên theo hầu A Di Đà Phật. Ngoài ra, sau khi thời đại hoằng hóa của A Di Đà Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới [viên măn], vị kế tục chính là Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ thành Phật ở nơi đó. Sau khi pháp vận của Quán Thế Âm Bồ Tát kết thúc, sẽ là Đại Thế Chí Bồ Tát kế tục thành Phật trong cơi ấy. Do mối quan hệ này, cho nên trong Quán Kinh, sau khi quán A Di Đà Phật, kế tiếp sẽ là quán Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.

          Trong lần trước, tôi đă nói về cội nguồn của danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ sao Ngài có hiệu là Đại Thế Chí và Vô Biên Quang? Phải chú ư đặc điểm trong danh hiệu Vô Biên Quang Bồ Tát: Chỉ cần tưởng thấy Bồ Tát, có thể thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của Bồ Tát, sẽ có thể thấy quang minh tịnh diệu của mười phương vô lượng chư Phật. Hăy ngẫm xem! Chỉ cần được hưởng một tí quang minh của Bồ Tát, đă là tuyệt diệu khôn sánh! Lại nữa, v́ sao Ngài có hiệu là Đại Thế Chí? V́ vị Bồ Tát này khắp thân đều là trí huệ quang. Chỉ cần được trí huệ quang của Đại Thế Chí Bồ Tát chiếu tới, sẽ có thể ĺa khỏi tam đồ, đạt được vô thượng lực, tức là sức mạnh to lớn của Phật, chính là trí huệ lực. V́ sao quang minh của Đại Thế Chí Bồ Tát có công đức to tát dường ấy? Quang minh của Ngài từ tánh quang hiển thị ra, giống như quang minh của chư Phật trong mười phương thế giới. Do v́ có sức mạnh to lớn ngần ấy, nên gọi là Vô Biên Quang, hoặc là Đại Thế Chí.

          Nếu chúng ta có thể thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của Bồ Tát, đấy cũng chẳng phải là do nguyên nhân nào khác! Chúng ta buông tâm lư phàm phu xuống, buông tri kiến phàm phu xuống, khai phát quang minh nơi tâm tánh của chính ḿnh, hai bên vừa cảm ứng, quang minh chiếu rọi lẫn nhau, bèn do quang minh nơi một lỗ chân lông mà có thể thấy quang minh của mười phương vô lượng chư Phật. Nguyên lư là như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Quang minh từ Pháp Thân hiển lộ, chỉ cần chúng ta thấy quang minh của Bồ Tát, chứng tỏ quang minh từ bản tánh của chúng ta khai phát. Nếu không, làm sao có thể thấy quang minh của vô lượng chư Phật trong mười phương? Sau khi đă hiểu rơ ràng lư này, quán tưởng Bồ Tát sẽ khác biệt rất lớn.

          Hôm nay, bắt đầu giảng đoạn này là đoạn lớn thứ hai, chánh thức quán tưởng Đại Thế Chí Bồ Tát. Giống như quán tưởng A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát trong phần trước, nhất định là trước hết phải mở rộng tâm lượng. Tuy chúng ta chẳng dùng công phu Quán Tưởng Niệm Phật, mà là Tŕ Danh Niệm Phật, nhưng có một điều hữu ích [tức là hiểu biết về lư luận và đường lối Quán Tưởng Niệm Phật] sẽ mở rộng tâm lượng của chúng ta. Sau khi đă mở rộng, những ư niệm (tâm niệm) dấy lên đều là thân cận Phật, Bồ Tát, luôn ở trong hoàn cảnh vô cùng vô tận của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bởi lẽ, [những điều ấy] chẳng phải là tâm lư của lũ phàm phu b́nh phàm mà ḥng thực hiện được. Chúng ta hằng ngày luôn nghĩ đến những chuyện vụn vặt trong nhân gian. Càng nghĩ, càng khiến cho tâm lư của chính ḿnh thu hẹp. Thu hẹp đến nỗi nhỏ nhen quá đỗi! [Do vậy], niệm Phật rất khó khăn! Ắt phải gạt những chuyện vụn vặt (chuyện hư vọng) trong thế gian sang một bên, đừng ghim những chuyện ấy trong ḷng, cái tâm của chúng ta sẽ tự nhiên rộng mở hơn. Tâm đă mở rộng, chúng ta lại quán tưởng măo đội đầu và quang minh nơi các bộ phận trên thân thể Bồ Tát, sẽ [cảm thấy] khác hẳn, sẽ quán tưởng rơ ràng, rành rẽ.

“Thử Bồ Tát thiên quan” (Măo trời của vị Bồ Tát này): “Thiên quan” là một cách tỷ dụ, nhằm nói tới cái măo Bồ Tát đang đội. Do chẳng có thứ măo nào trong nhân gian của chúng ta có thể sánh bằng, bèn mượn “măo trời” để nói. Măo trên cơi trời đúng là quá tốt đẹp! Vượt trỗi hết thảy mọi thứ trong nhân gian, chúng ta chẳng có loại măo ấy. Đầu Bồ Tát đội măo trời, “hữu ngũ bách bảo hoa, nhất nhất bảo hoa, hữu ngũ bách bảo đài”: Trên măo trời có năm trăm hoa báu, mỗi một hoa báu có năm trăm đài báu. Đó là nói theo từng tầng một. “Nhất nhất đài trung”, [nghĩa là] trong mỗi bảo đài, có “thập phương chư Phật tịnh diệu quốc độ quảng trường chi tướng, giai ư trung hiện” (tướng cơi nước tịnh diệu rộng lớn của mười phương chư Phật đều hiện trong ấy), hăy ngẫm xem! Có năm trăm hoa báu, trong mỗi hoa báu có năm trăm cái đài. Trên mỗi đài, có thể hiện ra tướng cơi nước tịnh diệu rộng lớn của chư Phật trong mười phương thế giới. “Tịnh diệu quốc độ”: Quốc độ tịnh diệu trong cảnh giới Phật, chẳng phải là quốc độ như bọn phàm phu chúng ta trông thấy. “Quảng trường chi tướng”, “quảng” () là bề rộng, “trường” () là bề dài. Bất luận là nói theo chiều ngang cũng thế, mà nói theo chiều dọc cũng thế, đều là rộng lớn khôn cùng! H́nh tướng của những quốc độ ấy “giai ư trung hiện”, [nghĩa là] đều hiển lộ trong đài báu. Trong cái măo đội đầu ấy, hiện ra tướng cơi Phật nhiều dường ấy, tâm lượng phàm phu của chúng ta nhỏ nhoi ngần ấy, làm sao có thể trông thấy cho được? Nhất định là phải mở rộng tâm lượng. V́ sao mở rộng tâm lượng th́ sẽ có thể trông thấy? Từ trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, cũng có thể suy nghiệm: Một người trong tâm có quá nhiều chuyện phiền năo, cảnh giới tâm linh từ đầu đến cuối là bế tắc. Nếu buông xuống những phàm t́nh tục kiến, chẳng để cho chúng nó che lấp tâm linh, cảnh giới của chúng ta sẽ lập tức mở rộng, phô bày. Đọc sách cũng thế, mà nh́n nhận sự việc cũng thế, thứ ǵ là thật hay giả, hết thảy đều phân biệt rành mạch, rơ rệt. Chúng ta thấy Đại Thế Chí Bồ Tát, phải ngưng dứt vọng tâm của chính ḿnh, dùng ư niệm rất thanh tịnh để quán tưởng Đại Thế Chí Bồ Tát, [khởi đầu] từ măo trời, nh́n theo từng tầng một, [hiệu quả quán tưởng] sẽ khác hẳn. Tiếp theo đây, [đức Phật] lại nói về nhục kế trên đỉnh đầu của Bồ Tát.

 

          (Kinh) Đảnh thượng nhục kế, như Bát-đầu-ma hoa. Ư nhục kế thượng, hữu nhất bảo b́nh, thịnh chư quang minh, phổ hiện Phật sự. Dư chư thân tướng, như Quán Thế Âm, đẳng vô hữu dị.

        ()頂上肉髻,如缽頭摩華。於肉髻上,有一寶瓶,盛諸光明,普現佛事。餘諸身相,如觀世音,等無有異。

(Kinh: Nhục kế trên đỉnh đầu như hoa Bát Đầu Ma, trên nhục kế có một b́nh báu, đựng các quang minh, hiện khắp các Phật sự. Những thân tướng khác giống như Quán Thế Âm chẳng khác).

 

          “Đảnh thượng nhục kế, như Bát-đầu-ma hoa”: Trên đỉnh đầu của Đại Thế Chí Bồ Tát có một nhục kế, giống như hoa Bát-đầu-ma. Bát-đầu-ma (Padma) là tiếng Ấn Độ, dịch sang tiếng Hán là “hồng sắc liên hoa” (hoa sen màu đỏ). Nhục kế trên đỉnh đầu Bồ Tát có màu sắc như [màu sắc của] một đóa hoa sen màu đỏ. “Ư nhục kế thượng, hữu nhất bảo b́nh”: Trên nhục kế có một cái b́nh báu. Cái b́nh ấy chẳng phải là một cái b́nh tầm thường, mà là b́nh báu. V́ sao nói là “b́nh báu”? Cái b́nh ấy chẳng đựng thứ ǵ khác, mà “thịnh chư quang minh”, “thịnh” () là đựng thứ ǵ đó. Trong ấy, chứa đựng thứ ǵ vậy? Quang minh. Trong b́nh báu đựng quang minh “phổ hiện Phật sự”. Quang minh ấy chẳng phải là quang minh tầm thường; trong quang minh ấy, có thể hiện ra trọn khắp rất nhiều Phật sự. Chữ “Phật sự” bao la vạn tượng, kể cả Phật pháp, tức là hết thảy mọi chuyện trong nhà Phật. “Dư chư thân tướng”: Những thân tướng khác, ngoại trừ b́nh báu, các thứ thân tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát, “như Quán Thế Âm, đẳng vô hữu dị”, [nghĩa là] đều giống như thân tướng Quán Thế Âm Bồ Tát [như kinh văn] trong đoạn trước [đă nói], chẳng hề bất đồng.

          V́ sao hai vị [Bồ Tát] có chỗ bất đồng? Trên đỉnh đầu Quán Thế Âm Bồ Tát, có một bức tượng Phật (Hóa Phật). Tổ sư chú giải: Trên đỉnh đầu [Quán Thế Âm Bồ Tát] có một bức tượng Phật, biểu thị: Trong quá khứ, Quán Thế Âm Bồ Tát đă thành Phật; nay Ngài lại trở về giúp A Di Đà Phật giáo hóa. Dùng thân phận Bồ Tát để giúp đức Phật giáo hóa, gọi là “đới quả hành nhân” (mang theo Phật quả vốn có để trong hiện tại biểu thị h́nh tướng trong địa vị Bồ Tát). V́ thế, trên đỉnh đầu Ngài có một bức tượng Phật. Trên đỉnh đầu của Đại Thế Chí Bồ Tát có một cái b́nh báu nhằm biểu thị ư nghĩa ǵ? Tổ sư cũng chú giải: B́nh báu biểu thị vị Bồ Tát này đă chứng đắc tam đức Pháp Thân, Bát Nhă và Giải Thoát. B́nh báu biểu thị Pháp Thân đức. B́nh báu đựng các quang minh; quang minh chiếu khắp nơi, ban cho người [được chiếu] trí huệ. V́ thế, quang minh biểu thị Bát Nhă đức (đại trí huệ). Phàm những chuyện chẳng rơ ràng, mơ hồ, đều là do chẳng có trí huệ. Thấy hết thảy mọi chuyện rơ ràng, rành rẽ, chính là có trí huệ. Chúng ta chẳng thể liễu sanh tử, tức là đối với hết thảy mọi sự trong quá khứ, hiện tại, tương lai, đều chẳng thấy rơ ràng. Đó là chẳng có trí huệ, là ngu si. Nếu chúng ta hiển lộ quang minh, sẽ là Bát Nhă đức. Có Bát Nhă đức th́ chính là quang minh. Do vậy, quang minh chính là Bát Nhă trí huệ đức. B́nh báu có thể hiện trọn khắp các Phật sự. Phật là giác ngộ, giác ngộ th́ sẽ có thể giải thoát. Một cái b́nh báu [trên đỉnh đầu Đại Thế Chí Bồ Tát] nhằm biểu thị sự tu tập và chứng đắc nội tại của Bồ Tát: Chứng đắc ba đức ấy (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát), biểu thị ư nghĩa này.

          B́nh báu vừa được nhắc đến trên đây chính là chỗ bất đồng so với Quán Thế Âm Bồ Tát. Những điều khác đều giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng khác ǵ, đều là giống hệt. V́ thế, kinh văn chẳng cần phải nhắc lại từng chuyện một. Khi quán tưởng Đại Thế Chí Bồ Tát, sẽ giống như quán Quán Thế Âm Bồ Tát: Diện mạo như thế nào? Cánh tay như thế nào? Đều hoàn toàn giống như nhau, chẳng nói cặn kẽ. Tới đây là một tiểu đoạn trong đoạn lớn thứ hai. Dưới đây lại là một ư nghĩa khác nữa.

 

          (Kinh) Thử Bồ Tát hành thời, thập phương thế giới, nhất thiết chấn động. Đương địa động xứ, hữu ngũ bách ức bảo hoa. Nhất nhất bảo hoa, trang nghiêm cao hiển, như Cực Lạc thế giới.

        ()此菩薩行時,十方世界,一切震動。當地動處,有五百億寶華。一一寶華,莊嚴高顯,如極樂世界。

(Kinh: Khi vị Bồ Tát này đi, mười phương thế giới, hết thảy chấn động. Trong khi đất chấn động, có năm trăm ức hoa báu, mỗi một hoa báu trang nghiêm, cao vời, rạng rỡ, như thế giới Cực Lạc).

 

          “Thử Bồ Tát hành thời” (Khi vị Bồ Tát này đi), khi Đại Thế Chí Bồ Tát bước đi, “thập phương thế giới”, những thế giới ở ngoài thế giới Cực Lạc, “nhất thiết chấn động”: Trong mười phương thế giới, hết thảy đều bị chấn động. Sự chấn động này chẳng phải là động đất như trong sự suy tưởng b́nh phàm của chúng ta. Động đất trong thế gian gây tổn thương cho loài người. “Đương địa động xứ”: Mười phương thế giới đều chấn động. Những nơi chấn động trên đại địa, “hữu ngũ bách ức bảo hoa” (có năm trăm ức hoa báu), xuất hiện hoa báu. Hễ chấn động, bèn có hoa xuất hiện, lại c̣n là hoa báu. Có bao nhiêu hoa báu? Có năm trăm ức. Đây chẳng phải là nói toàn thể, mà bất cứ chỗ nào cũng đều là như vậy! Có nghĩa là chúng sanh ở bất cứ chỗ nào, khi cảm nhận được sự chấn động, sẽ có năm trăm ức hoa báu xuất hiện. Mười phương thế giới sẽ có bao nhiêu? Chẳng thể tính rơ số. “Nhất nhất bảo hoa”, mỗi một đóa hoa báu đều “trang nghiêm cao hiển”, [nghĩa là] đă vừa trang nghiêm, lại c̣n cao vời, rơ rệt. Phàm nhân chúng ta cũng chẳng thể trông thấy hoặc tưởng tượng chuyện này. Do vậy, [đức Phật] nói tỷ dụ: “Như Cực Lạc thế giới”, nghĩa là trang nghiêm, cao vời, rơ rệt như hoa báu trong thế giới Cực Lạc. Mười phương thế giới hiện ra hoa báu hoàn toàn giống như [hoa báu] trong thế giới Cực Lạc.

          V́ sao hễ Đại Thế Chí Bồ Tát bước đi, mười phương thế giới hết thảy đều chấn động? Đây là nói quang minh trí huệ của Bồ Tát có thể thuận theo hành động của Ngài mà có thể chiếu thấu suốt mười phương thế giới. V́ sao mười phương thế giới được chiếu soi đều chấn động? Chúng ta học Phật, ắt phải hiểu nguyên lư cao nhất, tức là phải thấu hiểu tâm pháp: Chúng sanh trong mười phương thế giới, ai nấy đều có ư niệm của riêng ḿnh. Đại Thế Chí Bồ Tát chẳng giống như vậy. Ư niệm của Đại Thế Chí Bồ Tát có thể bao hàm chúng sanh trong mười phương thế giới. Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều chẳng rời khỏi một niệm của Đại Thế Chí Bồ Tát. Một niệm của Ngài là toàn thể tâm tánh. Chúng ta chẳng có thời khắc nào không ở trong tâm niệm của Đại Thế Chí Bồ Tát. Do vậy, chẳng liễu giải lư, sẽ nghĩ Đại Thế Chí Bồ Tát và ta có quan hệ ǵ? Quán Thế Âm Bồ Tát và ta có quan hệ ǵ? Ngỡ là chẳng có mối quan hệ nào! Hoàn toàn chẳng phải là Bồ Tát vứt bỏ chúng ta, mà là do bản thân chúng ta chẳng tiếp nhận trí huệ quang của Bồ Tát. Chỉ cần chúng ta cảm nhận đạo lư này, sẽ mọi lúc, mọi nơi, đều ở trong quang minh của Bồ Tát. Trong phần trước đă nói đến Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát tầm thanh cứu khổ; hễ có tai nạn, thống khổ ǵ, Quán Thế Âm Bồ Tát ngay lập tức cứu vớt. V́ sao Quán Thế Âm Bồ Tát có thể cứu vớt? V́ chúng ta ở ngay trong tâm niệm của Ngài. Quán Thế Âm Bồ Tát có thể tầm thanh cứu khổ, Đại Thế Chí Bồ Tát cũng có thể tầm thanh cứu khổ giống như vậy. “Tầm thanh cứu khổ” vẫn là [nói đến] những chuyện mà bọn phàm phu chúng ta có thể nghĩ tới. Lợi ích thật sự ở chỗ nào? Chúng ta luôn ở trong tâm niệm của Bồ Tát. Hễ chúng ta cảm nhận quang minh của Bồ Tát gia bị, sẽ có thể dùng quang minh của Bồ Tát để trừ sạch Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng trong tâm. Sau khi đă phá trừ chướng ngại, mới có thể cùng Bồ Tát trông thấy lẫn nhau. Thấy Pháp Thân của Bồ Tát, nói theo Lư là như vậy đó. “Chấn động” nghĩa là quang minh trí huệ nơi Pháp Thân của Bồ Tát khiến cho chúng sanh trong mười phương thế giới đều có thể đạt được lợi ích từ nơi Ngài.

 

(Kinh) Thử Bồ Tát tọa thời, thất bảo quốc độ, nhất thời động dao. Tùng hạ phương Kim Quang Phật sát, năi chí thượng phương Quang Minh Vương Phật sát, ư kỳ trung gian, vô lượng trần số.

()此菩薩坐時,七寶國土,一時動搖。從下方金光佛剎,乃至上方光明王佛剎,於其中間,無量塵數。

(Kinh: Khi vị Bồ Tát này ngồi, cơi nước bảy báu, cùng lúc dao động. Từ cơi Kim Quang Phật ở phương dưới cho đến cơi Quang Minh Vương Phật ở phương trên, vô lượng trần số cơi trong khoảng ấy).

 

          Đoạn trên là nói về sự đi lại của Bồ Tát, đoạn này nói lúc Bồ Tát ngồi, chẳng di động. “Thử Bồ Tát tọa thời” (Khi vị Bồ Tát này ngồi): Khi Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi, sẽ ngồi ở nơi đâu? “Thất bảo quốc độ” (Cơi nước bảy báu): Ngài ngồi trong thế giới Cực Lạc, ngồi trong đó, “nhất thời động dao”, cũng cảm thấy thế giới Cực Lạc dao động. Dao động có phạm vi to cỡ nào? “Tùng hạ phương Kim Quang Phật sát”: Từ cơi của Kim Quang Phật là cơi thấp nhất ở phương dưới, “năi chí thượng phương Quang Minh Vương Phật sát”, cho đến nơi cao nhất ở phương trên là cơi của Quang Minh Vương Phật.

          “Phật sát” (佛剎) là quốc độ của Phật. “Ư kỳ trung gian, vô lượng trần số”: Trong khoảng giữa từ phương dưới cho đến phương trên, có vô lượng cơi Phật số nhiều như vi trần đều cảm nhận sự dao động. Sự chấn động trong phần trước khiến cho năm trăm ức hoa báu xuất hiện; ở đây, dao động lại xuất hiện chuyện khác.

 

(Kinh) Phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, giai tất vân tập Cực Lạc quốc độ, tắc tái không trung, tọa liên hoa ṭa, diễn thuyết diệu pháp, độ khổ chúng sanh.

()分身無量壽佛,分身觀世音,大勢至,皆悉雲集極樂國土。畟塞空中,坐蓮華座,演說妙法,度苦眾生。

(Kinh: Phân thân của Vô Lượng Thọ Phật, phân thân của Quán Thế Âm và Đại Thế Chí thảy đều nhóm họp đông đảo như mây về cơi nước Cực Lạc, đầy nghẹt trên hư không, ngồi trên ṭa hoa sen, diễn nói diệu pháp, độ chúng sanh khổ năo).

 

          Trong khoảng giữa từ phương dưới cho đến phương trên, có rất nhiều cơi Phật. Mỗi cơi Phật bao gồm bao nhiêu quốc gia? Bao nhiêu quốc độ? Đơn giản là chẳng thể nói rơ được, vô lượng vô số! Nói như vậy, chẳng nghiên cứu kinh Phật, quả thật, chẳng biết t́nh huống bên ngoài thế giới [Sa Bà] sẽ là t́nh huống như thế nào! Dẫu là một nhà khoa học vĩ đại đến mấy trong hiện thời đi nữa, nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu kiểu nào cũng chẳng nghiên cứu đến tầng bậc này. Tâm lượng người ấy nhỏ nhoi như thế ấy, huống hồ kẻ chẳng nghiên cứu thiên văn, tâm lư chỉ hạn cuộc trong những chuyện nhỏ nhặt thường trông thấy hằng ngày, đơn giản là càng chẳng có cách nào đàm luận! Các quốc độ nhiều ngần ấy, những quốc độ nhiều như vậy do đâu mà xuất hiện? Cậy vào bọn phàm phu chúng ta th́ làm sao có thể ghi nhớ rơ ràng cho được? Làm sao có thể quan sát rơ ràng cho được? Chớ nên bỏ cuộc! Trong phần trước đă nói: Nếu quư vị có thể thấy quang minh nơi một lỗ chân lông [của Đại Thế Chí Bồ Tát], sẽ có thể trông thấy [những quốc độ ấy]. Điều này có nghĩa là chúng ta chỉ cần thấu lộ tâm linh (linh minh giác tri) và quang minh từ nơi bản tánh của chính ḿnh đôi chút, sẽ có thể hoàn toàn trông thấy. Chẳng thể thấy, chỉ trách bản thân chúng ta thiếu dụng công! Thật sự dụng công chính là buông xuống vạn duyên. Niệm Phật phải buông xuống vạn duyên; [ngay cả] học những môn khoa học khác cũng đều là như vậy, phải buông xuống! Trước khi buông xuống, phải thấy thấu suốt; nhờ vào đâu để buông xuống? Phải thấy thấu suốt! Kẻ b́nh phàm tưởng địa cầu to lớn khôn cùng! Các quốc gia lớn nhỏ trên địa cầu, thậm chí Đài Loan là một nơi bé tẹo như thế, mọi người đều là “ngươi tranh, ta đoạt”, tranh đến nỗi thiên hạ chẳng thể thái b́nh. Tri kiến phàm phu nhỏ nhoi đến đáng thương! Nếu tâm lượng của chính ḿnh rộng mở một chút, sẽ có thể thấy “thông qua quang minh nơi một lỗ chân lông để nh́n thế giới”, nh́n lại, dẫu cho quư vị làm Tổng Thống, quư vị cũng chẳng muốn làm! Đối với “đạo” do nhà Phật đă nói, bất cứ học vấn, bất cứ tôn giáo nào trên toàn thể thế giới, cũng đều chẳng có cách nào luận định bằng vai phải lứa cho được!

          Cơi Phật nhiều ngần ấy! Chỉ cần quang minh nơi tâm tánh của chúng ta hiển hiện, [các cơi ấy] sẽ đều ở trong tâm ta, kinh Phật gọi điều này là “tâm pháp”. Đối với vạn duyên hư vọng trong thế gian, chúng ta đều buông xuống, quán tưởng “phân thân Vô Lượng Thọ Phật”, Vô Lượng Thọ Phật chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật phân ra rất nhiều thân Ứng Hóa, lại c̣n có “phân thân Quán Thế Âm, Đại Thế Chí”, tức là phân thân của Quán Thế Âm Bồ Tát và phân thân của Đại Thế Chí Bồ Tát. Đó là Tây Phương Tam Thánh. Thân Ứng Hóa của Tây Phương Tam Thánh nhiều khôn xiết! “Giai tất vân tập Cực Lạc quốc độ” (Thảy đều như mây nhóm về cơi nước Cực Lạc). “Vân” là [cách nói tỷ dụ] nhằm h́nh dung “đông nhiều”. Quư vị tính thử mây trong không trung mà xem, có biết rơ con số hay chăng? Quá ư là nhiều! Vân tập (雲集, như mây nhóm về) trong cơi nước Cực Lạc. Cơi nước Cực Lạc rộng lớn vô cùng! Trong phần trước, quán tưởng y báo, một gốc cây, một phiến lá to cỡ nào? Các vị hăy tự ḿnh hồi tưởng, huống chi toàn thể thế giới Cực Lạc càng rộng lớn hơn! Cơi nước rộng lớn ngần ấy, phân thân của Tây Phương Tam Thánh đều vân tập trong quốc độ Cực Lạc. Tiếp đó là từ ngữ h́nh dung, “tái tắc không trung”, “tắc tái” () là tràn ngập; khắp mọi nơi đều tràn đầy trong không trung. Toàn thể không trung của thế giới Cực Lạc đều tràn ngập phân thân của Phật và Bồ Tát. Các Ngài “tọa liên hoa ṭa”, tức là ngồi trên ṭa hoa sen. “Diễn thuyết diệu pháp, độ khổ chúng sanh”: “Diệu pháp” là dạy kẻ khác thành Phật. V́ sao nói là “độ khổ chúng sanh”? Trong thế giới Cực Lạc “vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc” (chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng những điều vui). V́ sao ở đây nói là “độ khổ chúng sanh” (độ chúng sanh khổ năo)? Chia thành hai điểm để nói:

1) Một là hóa độ chúng sanh khổ năo. “Khổ” ở đây chẳng phải là nói tới nỗi khổ của bọn chúng sanh phàm phu trong thế giới Sa Bà. Thế giới Cực Lạc chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các điều vui. Chữ Khổ trong câu “vô hữu chúng khổ” là nói tới các nỗi khổ trong thế giới Sa Bà. Trong thế giới Cực Lạc, thật ra chẳng có các nỗi khổ, chỉ có các niềm vui, nhưng xét theo Lạc để nói th́ như Thiện Đạo đại sư đă dạy rất rơ ràng: “Trong thế giới Cực Lạc, lạc cũng có thứ bậc”. Chẳng hạn như nói đến trời người, thế giới Cực Lạc có hai đường nhân và thiên. So sánh với nhân thiên trong thế giới Sa Bà, chúng sanh trong thế giới Sa Bà làm sao có thể sánh bằng hai đường nhân thiên trong thế giới Cực Lạc? Nhân thiên trong thế giới Cực Lạc thuần túy là lạc. Nhưng so sánh giữa nhân thiên của thế giới Cực Lạc và La Hán, Bồ Tát, th́ La Hán là bậc đă chứng quả, đó là lạc. So sánh với nhân thiên chưa chứng quả, nhân thiên chính là khổ. Lại hướng lên cao hơn, Bồ Tát cũng có thứ bậc. Kể từ Đăng Địa trở đi cho đến Đẳng Giác, so sánh từng tầng một, địa vị cao thấy chúng sanh thuộc địa vị thấp là “khổ chúng sanh”. Đó là một cách giải thích.

2) Một cách nói khác sẽ là: Phân thân Phật, Bồ Tát của Tây Phương Tam Thánh nhiều ngần ấy ngồi trên ṭa hoa sen, diễn thuyết diệu pháp, độ chúng sanh khổ năo trong mười phương thế giới ở ngoài thế giới Cực Lạc. Nếu chúng ta hỏi “v́ sao có thể ngồi trên ṭa hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới mà có thể độ chúng sanh khổ năo trong mười phương thế giới” ư? Trong phần trước, đă có nói: Chỉ cần chúng ta có thể quán thấy quang minh nơi một lỗ chân lông của Đại Thế Chí Bồ Tát, sẽ thấy quang minh tịnh diệu của mười phương vô lượng chư Phật. Mười phương thế giới đều có thể trông thấy, huống hồ thế giới Cực Lạc lại càng có thể trông thấy. Do vậy, chúng sanh có thể cảm nhận sự giáo hóa của Phật, Bồ Tát. Đó là “độ khổ chúng sanh”.

          Trong tiểu đoạn này, chủ yếu là quán tưởng hai sự kiện của [Đại Thế Chí] Bồ Tát: Một là quán tưởng lúc Bồ Tát đi, hai là [quán tưởng] khi Bồ Tát ngồi. Tiếp đó, bèn nói:

 

          (Kinh) Tác thử quán giả, danh vi quán kiến Đại Thế Chí Bồ Tát. Thị vi quán Đại Thế Chí sắc thân tướng. Quán thử Bồ Tát giả, danh đệ thập nhất Quán.

        ()作此觀者,名為觀見大勢至菩薩。是為觀大勢至色身相。觀此菩薩者,名第十一觀。

(Kinh: Hành phép Quán này được gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đấy là quán tưởng tướng sắc thân của Đại Thế Chí. Quán vị Bồ Tát này được gọi là phép Quán thứ mười một).

 

          Kinh văn đến đây, đoạn văn này kết thúc đoạn lớn thứ hai. “Tác thử Quán giả, danh vi quán kiến Đại Thế Chí Bồ Tát”: Hành phép Quán này được gọi là “quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát”. “Thị vi quán Đại Thế Chí sắc thân tướng” (Đây là quán tướng sắc thân của Đại Thế Chí Bồ Tát). Trên thực tế, [nói tới] “tướng sắc thân” chính là nói tới Pháp Thân. [“Quán sắc thân tướng” chính là] quán tưởng Pháp Thân của Đại Thế Chí Bồ Tát. V́ thế trong bộ Diệu Tông Sao, Thiên Thai đại sư [chú giải câu này là] “thấy Pháp Thân của Bồ Tát”, tức là [trông thấy] tướng sắc thân. “Quán thử Bồ Tát giả, danh đệ thập nhất Quán”: Có thể quán Pháp Thân của Bồ Tát thành công th́ gọi là phép Quán thứ mười một. Dưới đây, [kinh văn] nói tới công đức và lợi ích sẽ đạt được từ phép Quán này.

 

          (Kinh) Trừ vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử chi tội. Tác thị Quán giả, bất xử bào thai, thường du chư Phật tịnh diệu quốc độ. Thử Quán thành dĩ, danh vi cụ túc quán Quán Thế Âm, Đại Thế Chí.

          ()除無數劫阿僧祇生死之罪。作是觀者,不處胞胎,常遊諸佛淨妙國土。此觀成已,名為具足觀觀世音大勢至。

          (Kinh: Trừ tội trong vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử. Người hành phép Quán này chẳng ở trong bào thai, thường dạo chơi trong cơi nước tịnh diệu của chư Phật. Phép Quán này đă thành, bèn gọi là quán trọn vẹn Quán Thế Âm và Đại Thế Chí).

 

          Chúng ta phải liễu giải lợi ích trong đoạn này. Trong nhân gian, chúng ta nói: “Tạo lợi ích cho người khác”. Tặng cho người ta tiền tài, hoặc cho người ta được hưởng những điều lợi ích, kể ra cũng được lắm, nhưng lợi ích thật sự ắt phải là liễu sanh tử. Nếu chẳng giải quyết sanh tử, sẽ chẳng có lợi ích thật sự chi cả! Chúng ta sanh tử chẳng ngừng trong nhân gian, có lợi ích ǵ đáng bàn? Tuy mong liễu sanh tử, v́ sao chẳng thể liễu sanh tử? V́ chúng sanh phàm phu đời đời kiếp kiếp chẳng hiểu đạo lư, tạo tội nghiệp quá nhiều! Thậm chí ngay cả vấn đề sanh tử cũng chẳng hiểu, làm sao bàn đến chuyện liễu sanh tử cho được? Ở đây, [kinh văn] dạy: Hành phép Quán này có thể “trừ vô số kiếp A-tăng-kỳ sanh tử chi tội”. A-tăng-kỳ là thời gian dài nhất. Do có tội nghiệp sanh tử gây chướng ngại, khiến cho chúng ta chẳng thể liễu sanh tử, trước sau qua lại sanh tử chẳng ngừng trong lục đạo. Muốn đoạn sanh tử, ắt phải diệt trừ tội nghiệp. Có thể trừ tội nghiệp sanh tử trong vô số kiếp A-tăng-kỳ, bất cứ lợi ích nào trong thế gian [cũng đều] chẳng thể sánh bằng lợi ích ấy!

          Tiếp theo đó, đức Phật nói: “Tác thị quán giả, bất xử bào thai” (Người hành phép Quán này chẳng ở trong bào thai). Có chúng sanh nào trong thế giới Sa Bà chẳng ở trong bào thai? Sanh vào nhân gian, đều từ bào thai sanh ra, khôn lớn, chết già, lại chuyển sang đời sau, vẫn ở trong bào thai. Nếu chẳng muốn ở trong bào thai, mong liễu sanh tử, hăy văng sanh thế giới Cực Lạc. Tới thế giới Cực Lạc, sẽ là liên hoa hóa sanh, chẳng phải là ở trong bào thai của người hay động vật. “Thường du chư Phật tịnh diệu quốc độ” (Thường dạo chơi trong các cơi nước tịnh diệu của chư Phật), “thường” () là vĩnh hằng. Luôn luôn có thể ngao du trong cơi nước tịnh diệu của chư Phật. Cơi nước tịnh diệu là ǵ? Tịnh () là trừ khử sạch sành sanh tất cả Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Diệu () là bản tánh trọn đủ. Do vậy, tổ sư chú giải “tịnh diệu quốc độ” chính là pháp giới, là Phật pháp giới! Thường dạo chơi trong pháp giới của chư Phật, chúng ta thường đặt tâm niệm nơi đó, kể cả y báo trang nghiêm trong phần trước. Lại c̣n [đặt tâm niệm] nơi các thứ trang nghiêm của Phật, Bồ Tát, tâm tâm niệm niệm đều đặt nơi đây, từng bước một nâng cao cảnh giới, sẽ dần dần thoát ly nỗi khổ năo sanh tử trong nhân gian. “Thử Quán thành dĩ”, [nghĩa là] sau khi đă thành tựu phép Quán này, “danh vi cụ túc quán Quán Thế Âm, Đại Thế Chí” (gọi là quán trọn vẹn Quán Thế Âm và Đại Thế Chí). V́ sao là quán trọn vẹn Quán Thế Âm và Đại Thế Chí? Trong phần trước, có nói tới cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát, có rất nhiều chỗ tương đồng với chỗ này. Những điều được nói ở đây cũng bao gồm cách quán Quán Thế Âm Bồ Tát. Hai vị Bồ Tát ngoại trừ trên đỉnh đầu có tượng Phật hay b́nh báu sai khác, những tướng khác đều hoàn toàn tương đồng. Hăy xem hai vị đối chiếu nhau [để quán tưởng cặn kẽ]. Đến đây là xong, đă quán trọn vẹn. Quán tưởng hai vị Bồ Tát đến đây đă trọn đủ, đă nói xong xuôi!

Đến đây, phép quán tưởng Tây Phương Tam Thánh đă nói xong. Mọi người hăy thường quán tưởng h́nh tướng Tây Phương Tam Thánh, thường tưởng Tây Phương Tam Thánh. Có kẻ niệm Phật hỏi: “Thấy Phật bằng cách nào?” Chỉ cần ư niệm thời thời khắc khắc đặt nơi Phật, Bồ Tát, đến khi lâm chung, sẽ tự nhiên cảm ứng Phật, Bồ Tát tới nghênh tiếp. Liễu giải những đạo lư này, sẽ có những lợi ích ấy. Hôm nay, chúng tôi nói đến chỗ này bèn ngưng.

 

Tập 35

          Thưa các vị giáo sư, các vị đại đức, các vị đồng tu, xin mở kinh bổn, trang hai mươi mốt, bắt đầu từ hàng thứ hai. Tôi đọc trước một đoạn kinh văn:

 

          (Kinh) Kiến thử sự thời, đương khởi tự tâm, sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới, ư liên hoa trung, kết già phu tọa, tác liên hoa hợp tưởng, tác liên hoa khai tưởng.

        ()見此事時,當起自心,生於西方極樂世界,於蓮華中,結跏趺坐。作蓮華合想,作蓮華開想。

(Kinh: Khi thấy những điều này, hăy nên khởi tự tâm sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở trong hoa sen, ngồi kiết già. Tưởng hoa sen khép lại, tưởng hoa sen nở ra).

 

IV.2.2.13. Phép Quán thứ mười hai, Phổ Văng Sanh Quán

 

          Một bộ Thập Lục Quán Kinh này có mười sáu phương pháp quán tưởng. Trong đoạn trước là nói về phép Quán thứ mười một; đoạn này là phép Quán thứ mười hai, gọi là Phổ Quán (普觀), tức là quán trọn khắp. Trong những phần trước, đă quán tưởng y báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là các thứ tốt đẹp nơi hoàn cảnh. Kế đó là quán tưởng chánh báo, tức là [quán tưởng] A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát. Y báo và chánh báo đă đều quán tưởng, các phương pháp đều đă nêu ra. Hôm nay, bắt đầu tổng quy kết những điều đă quán trong phần trước, gọi là Phổ Quán. V́ sao gọi là Phổ Quán? Nguyên lai, những điều được quán trong phần trước đều sử dụng quán tưởng, tức là vận dụng công phu quán tưởng. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy người tu học trong thế giới này sử dụng công phu quán tưởng, c̣n phép Quán này dạy học nhân chúng ta hăy tưởng tượng hết thảy nhân duyên văng sanh của chính ḿnh đều đă chín muồi. Chính ḿnh có loại công phu ấy, trực tiếp đến thế giới Cực Lạc. Đoạn này nhằm dạy về chuyện này.

          Văng sanh thế giới Cực Lạc là pháp môn đặc biệt dành cho người học Phật mong đạt thành tựu nhanh chóng nhất, có thể thành tựu ngay trong một đời! Muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải liễu giải một đạo lư: Bọn chúng sanh chúng ta đến bất cứ hoàn cảnh nào là do ai khiến cho chúng ta đến đó? Do bản thân chúng ta, đều là do chính chúng ta tạo nghiệp (trọn đủ rất nhiều điều kiện); sau đấy, mới đi đến hoàn cảnh ấy. Chẳng hạn như nay chúng ta là chúng sanh trong nhân đạo, sanh trong nhân gian, hoàn cảnh nhân gian hiện thời chẳng tốt đẹp. Bất luận là tại Trung Hoa, hay ngoại quốc, thời cổ cũng chẳng tốt đẹp! Trong bất cứ triều đại nào, hễ làm người, đều có rất nhiều nỗi đau khổ. Nhất là trong hiện thời, thời đại dân chủ tốt đẹp hơn thời đại quân chủ trong quá khứ, nhưng mỗi nước trên thế giới đều rối loạn dường ấy! V́ sao rối loạn như thế? Đấy là do cộng nghiệp. Tất cả chúng sanh hễ sanh vào nhân gian (chúng sanh trong nhân đạo), tâm lư mọi người tạo thành hoàn cảnh này. Hoàn cảnh nhân gian loạn như thế, mọi người đau khổ, ai tạo ra những nỗi đau khổ đó? Do bản thân của mỗi người tạo nghiệp. Chúng ta sanh vào nhân gian, ở trong nhân gian, hứng chịu tám nỗi khổ to lớn. Đó là do có cộng nghiệp và biệt nghiệp; sau đấy, mới vào trong hoàn cảnh này để thọ báo. Chúng ta ắt cần phải hiểu rơ điều này. Chúng ta cảm thấy chỗ này chẳng tốt đẹp, chẳng tốt đẹp th́ phải thay đổi hoàn cảnh. Hoàn cảnh tốt nhất chính là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Muốn tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, ắt phải đầy đủ các điều kiện. Đó cũng là tạo nghiệp, nhưng chẳng phải là tạo nghiệp sanh tử, chúng ta cần tạo nghiệp thanh tịnh. Niệm Phật là tịnh nghiệp, chúng ta phải tạo tịnh nghiệp. Tŕ Danh Niệm Phật là nghiệp thanh tịnh. Ngoại trừ Tŕ Danh Niệm Phật là công phu chánh thức, chúng ta phải liễu giải hoàn cảnh. V́ thế, Quán Kinh đă giới thiệu rất tỉ mỉ từng điều một về hoàn cảnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới và Phật, Bồ Tát ở trong ấy, khiến cho tâm lư của chúng ta hướng tới y báo trang nghiêm và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc. Chúng ta hăy đặt tâm nơi đó. Tâm hướng đến ở nơi đâu, chúng ta sẽ đi về đó. Nghiên cứu tâm lư học, sẽ biết đạo lư này; điều này phù hợp tâm lư học nhất. Do vậy, tâm lư của chúng ta chuyển biến, hướng đến thế giới Cực Lạc. Hễ tâm lư chuyển biến, kinh văn đă dạy: “Thời thời khắc khắc đều là người trong thế giới Cực Lạc”. V́ thế, những điều được nói trong đoạn này hết sức hữu ích đối với người niệm Phật chúng ta!

          “Kiến thử sự thời” (Khi thấy chuyện này), ư nói: Quán tưởng Tây Phương Tam Thánh, đều đă thấy A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát, cũng như đă thấy y báo trong thế giới Cực Lạc, lúc đó, “đương khởi tự tâm”. Người học Phật chúng ta, trong tâm phải khởi lên ư niệm, “sanh ư Tây Phương Cực Lạc thế giới” (sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới). Trong tâm quán tưởng như thế này: Quán tưởng nay ta không chỉ là ở trong nhân gian này thấy các thứ chánh báo và y báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, mà hiện thời c̣n tổng quy kết toàn thể lại, chính ḿnh đích thân sanh về thế giới Cực Lạc. Phải chú ư mấy chữ ấy trong kinh văn! Hăy chú trọng chữ Tâm trong “tự tâm”. [“Đương khởi” là hăy nên] dấy lên cái tâm, “sanh” là văng sanh. Từ nơi đây đi về Tây Phương, có thế giới Cực Lạc. Hăy thuận theo tâm lư ấy để tưởng như vậy. Tâm pháp tuyệt diệu lắm! Tâm pháp chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ cần động tâm, có thể nói là nhanh chóng nhất. Thế gian nói đến vận tốc ánh sáng, [cho rằng] chẳng có tốc độ nào nhanh bằng vận tốc ánh sáng. Ánh sáng c̣n nhanh hơn âm thanh. Hễ nghiên cứu khoa học, sẽ biết: Khi sét đánh, trước hết thấy điện quang (ánh chớp chói ḷe), một lúc sau mới nghe tiếng sấm vang rền từ xa. Có thể thấy là vận tốc ánh sáng mau chóng. Vận tốc của ánh sáng tuy mau chóng, vẫn chẳng [nhanh chóng] bằng cái tâm của chúng ta. Khi cái tâm của chúng sanh dấy khởi, bất luận xa bao nhiêu, sẽ ngay lập tức đến nơi, [tâm niệm] có mức độ nhanh chóng chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, tự tâm tưởng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ đến thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc có ao bảy báu, “ư liên hoa trung” (ở trong hoa sen), trong nhân gian là vào thai mẹ, c̣n đến thế giới Cực Lạc là vào trong hoa sen, dùng hoa sen làm bào thai. Hoa sen hết sức thanh tịnh. Ở trên ṭa hoa sen, “kết già phu tọa”, [nghĩa là] tĩnh tọa trên ṭa hoa sen, có [hai cách ngồi là] “song bàn” (雙盤, ngồi kiết già) và đơn bàn” (單盤, ngồi bán già), ngồi xếp bằng. Khi hoa sen vừa đến ao bảy báu bèn khép lại, “tác liên hoa hợp tưởng” (tưởng hoa sen khép lại). Khi hoa sen khép lại, nó lại rất nhanh chóng nở x̣e ra, “tác liên hoa khai tưởng” (tưởng hoa sen nở ra). Căn cứ trên mấy câu kinh văn này, tâm lư của chúng ta chiếu theo thứ tự văng sanh để suy tưởng từng tầng một: Hoa sen khép lại, sau đấy, hoa sen lại nở ra. Khi hoa sen nở, lại có những cảnh trí xuất hiện. Hăy nắm vững những điều này để tưởng theo thứ tự. Tưởng chính ḿnh đă tới ao bảy báu trong thế giới Cực Lạc, ngồi trong hoa sen, hoa sen khép lại; sau đấy, hoa sen lại nở x̣e.

 

          (Kinh) Liên hoa khai thời, hữu ngũ bách sắc quang, lai chiếu thân tưởng. Nhăn mục khai tưởng, kiến Phật, Bồ Tát măn hư không trung. Thủy, điểu, thụ lâm, cập dữ chư Phật, sở xuất âm thanh, giai diễn diệu pháp, dữ thập nhị bộ kinh hợp.

        ()蓮華開時,有五百色光,來照身想。眼目開想,見佛菩薩滿虛空中。水鳥樹林,及與諸佛,所出音聲,皆演妙法,與十二部經合。

(Kinh: Khi hoa sen nở, tưởng có năm trăm luồng quang minh nhiều màu sắc chiếu đến thân. Tưởng khi mở mắt, sẽ thấy Phật, Bồ Tát đầy ắp trong hư không. Những âm thanh do nước, chim, rừng cây và chư Phật phát ra đều diễn diệu pháp, phù hợp với mười hai bộ kinh).

 

          “Liên hoa khai thời, hữu ngũ bách sắc quang, lai chiếu thân tưởng”, [nghĩa là] khi hoa sen nở, quang minh báu trong thế giới Cực Lạc chẳng giống như ánh sáng trong thế gian này nhạt nhẽo, chẳng có ǵ lạ lùng! Quang minh trong cơi Cực Lạc có năm trăm màu. Quang minh có màu sắc rực rỡ chiếu đến người quán tưởng chúng ta. Quang minh chiếu đến có tác dụng ǵ? “Nhăn mục khai tưởng”: Tưởng quang minh vừa chiếu tới, nhắm mắt lại, giống như trong nhân gian, thai nhi vừa sanh ra, sẽ nhắm mắt, sau một lúc, nó bèn mở mắt. Tưởng hóa sanh trong hoa sen cũng giống như vậy. Được quang minh báu chiếu tới, quang minh báu có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. Quang minh biểu thị trí huệ, vừa chiếu tới chúng ta, mắt liền mở ra. Sau khi mở mắt, “kiến Phật, Bồ Tát măn hư không trung” (thấy Phật, Bồ Tát đầy ắp trong hư không). Chẳng mở mắt th́ thôi, hễ mở mắt bèn thấy Phật, Bồ Tát quá ư là nhiều! Đầy ắp trong hư không nơi thế giới Cực Lạc. Trong thế giới này, chúng ta có thể trông thấy [chuyện ấy] hay chăng? Chúng ta trông thấy tượng Phật, tượng Bồ Tát, th́ cũng chẳng phải là có thể dễ dàng trông thấy, cũng phải đến đạo tràng th́ mới nh́n thấy. Đến thế giới Cực Lạc, sẽ thấy Phật và Bồ Tát trọn khắp hư không. Đă đến thế giới Cực Lạc, hoa sen vừa nở, quang minh vừa chiếu, vừa mở mắt ra, sẽ thấy Phật, Bồ Tát đều trọn khắp hư không. Thấy Phật và Bồ Tát nhiều ngần ấy th́ sao?

          Trong đoạn kinh văn kế tiếp: “Thủy, điểu, thụ lâm, cập dữ chư Phật, sở xuất âm thanh, giai diễn diệu pháp, dữ thập nhị bộ kinh hợp” (Những âm thanh do nước, chim, rừng cây và chư Phật phát ra đều diễn diệu pháp phù hợp với mười hai bộ kinh). Trọn khắp thế giới Cực Lạc có ao bảy báu, rừng cây, các thứ chim như bạch hạc, công, két v.v... và chư Phật. Nước, chim, cây cối, chư Phật trọn chẳng giống như trong thế gian chúng ta. Chúng ta sống trong thành thị lâu ngày, hăy nên ra ngoại thành ngắm phong cảnh. Ngắm rừng cây, nước từ trên núi chảy xuống, chỉ nh́n ngắm mà thôi, sẽ có tác dụng ǵ? Trông thấy cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, cũng cảm thấy rất vui sướng, nhưng có đạt được lợi ích ǵ chăng? Chẳng có! Nhưng trong thế giới Cực Lạc, nước có âm thanh, chim có âm thanh, rừng cây có âm thanh do gió nhẹ lùa qua, c̣n có âm thanh do chư Phật phát ra. Những âm thanh ấy đều diễn diệu pháp, tức là đều nói ra pháp tốt nhất, mầu nhiệm nhất. Những diệu pháp chính là những pháp do đức Phật dạy bảo, khiến cho chúng ta giác ngộ. Phàm phu là kẻ chẳng giác ngộ. Tất cả mọi người trong nhân gian đều có những nỗi thống khổ, bất luận là kẻ bần cùng hay người giàu có, [kể cả] kẻ làm đại tổng thống của nước Mỹ cũng thế, đều có những nỗi đau khổ! Những nỗi thống khổ ấy là do chính ḿnh chẳng giác ngộ mà có. Hễ giác ngộ, những nỗi thống khổ ấy bèn biến mất, chẳng c̣n nữa! Trong thế gian này, chúng ta tới nơi đâu để nghe âm thanh giác ngộ? Ngoài việc nghiên cứu kinh văn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói ra, quư vị đi đường hay lên núi, đến những chỗ đó, có nghe âm thanh giác ngộ hay chăng? Chẳng nghe thấy! Trong thế giới Cực Lạc, nước, chim, rừng cây, cho đến những âm thanh do chư Phật đă phát ra, đều khiến cho chúng ta giác ngộ, “diễn xuất diệu pháp”. Trong thế giới Cực Lạc, bất luận y báo hay chánh báo đều diễn diệu pháp. “Dữ thập nhị bộ kinh hợp” (xứng hợp với mười hai bộ kinh). “Mười hai bộ kinh” chính là những đạo lư do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói. Diệu pháp ắt phải ứng hợp mười hai bộ kinh. Nếu không phù hợp, sẽ chẳng đáng tin cậy! Đối với mười hai bộ kinh, xin xem đề cương bài giảng.

 

IV.2.2.13.1. Mười hai bộ kinh

 

          Pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng gồm có mười hai bộ môn (Dvādaśānga Buddhavacana):

          1) Khế Kinh (契經, Sūtra): Hết thảy các kinh văn đều gọi là Khế Kinh. V́ sao gọi là Khế? Khế () là phù hợp, tương xứng, khế cơ, khế lư. “Cơ” () biểu thị thính chúng, căn cơ. Pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói hết sức phù hợp [căn cơ của] thính chúng. Thính chúng nghe xong liền hoan hỷ tiếp nhận, tức là nghe hiểu. Ngoài việc khế cơ ra, c̣n phải khế lư, Lư là chân lư. Những pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng đều là chân lư. V́ thế, kinh văn trong các kinh Phật đều được gọi là Khế Kinh, [ngụ ư] đă phù hợp căn cơ của người nghe kinh, lại c̣n phù hợp chân lư.

          2) Ứng Tụng (應頌, Geya): Mỗi câu trong những bài tụng được in sau kinh văn gồm có năm chữ, hay bốn chữ, hoặc bảy chữ, cân đối, cú pháp nhất trí, bèn được gọi là Tụng (). Phần Trùng Tụng sau kinh văn, như trong kinh Hoa Nghiêm hoặc kinh Pháp Hoa, sau mỗi đoạn kinh văn được nói xong bèn có Tụng Kệ (頌偈), [tức là] dùng phương pháp Tụng để nhắc lại ư nghĩa đă giảng trong phần trước một lượt, chọn lựa thể tài thi ca. Thơ Trung Hoa phải gieo vần, những bài Tụng trong kinh văn chẳng gieo vần. Số chữ trong mỗi câu giống nhau, đều bằng chằn chặn, nên gọi là Tụng[6]. Do nhắc lại ư nghĩa trong kinh văn một lượt, nên gọi là Trùng Tụng (重頌). Đấy là [thể loại] Ứng Tụng.

          3) Phúng Tụng (諷誦, Gāthā): Những lời lẽ tán thán Tam Bảo, dùng những câu rất chỉnh tề để tán thán Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.

          Ngoài ba loại trên đây (Khế Kinh, Ứng Tụng, và Phúng Tụng) đều là những thể tài trong kinh văn, chín loại sau đây đều [phân định dựa trên] những chuyện được nói trong kinh văn, dựa theo từng chuyện để kiến lập danh xưng.

          4) Nhân Duyên (因緣, Nidāna): Nêu rơ duyên khởi của kinh văn. Đức Phật nói bất cứ bộ kinh nào cũng đều có nhân duyên. Thí dụ như nhân duyên của Thập Lục Quán Kinh đă được nói trong những phần trước. Trong Tạng Kinh c̣n có rất nhiều kinh thuộc về Bổn Duyên Bộ[7] chuyên nói về nhân duyên, đều thuộc về thể lọai này.

          5) Bổn Sự (本事, Itivṛttaka): Các đệ tử của đức Phật suốt một đời này làm đệ tử Thích Ca Mâu Ni Phật. Có thể làm đệ tử đức Phật chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên. Trong đời trước của mỗi vị ấy đều có rất nhiều sự tích. “Bổn Sự” là nói tới những chuyện thuộc về đời trước của các Ngài.

          6) Bổn Sanh (本生, Jātaka): Những chuyện về sự tu hành của chính đức Phật trong đời trước.

          7) Vị Tằng Hữu (未曾有, Adbhutadharma): Nói tới những chuyện chẳng thể nghĩ bàn, tức là những chuyện mà bọn chúng sanh chúng ta có suy tưởng cũng chẳng thể suy tưởng được, có nói cũng chẳng thể nói lên lời! Những chuyện chúng ta chưa từng thấy, chưa từng kinh nghiệm rất nhiều. Thậm chí chuyện chẳng tưởng tượng tới cũng quá ư là nhiều. V́ sao? Cái tâm của phàm phu hết sức hữu hạn, v́ tâm lư của phàm phu suy tưởng chẳng ngoài đời người ngắn ngủi mấy chục năm. Phạm vi không gian hoạt động của chúng ta nhỏ bé như thế, bị thời gian rất ngắn ngủi và không gian rất nhỏ hẹp trói buộc, khiến cho chúng ta chẳng thấy, chẳng thể tưởng một thế giới rộng răi to lớn hơn. Chuyện này đừng trách móc ai khác, hăy trách móc chính ḿnh! Phàm phu tầm thường đều là như vậy. Đức Phật nói ra những chuyện chẳng thể nghĩ bàn mà bọn phàm phu chúng ta chẳng thể tưởng tượng được. [Những chuyện ấy] được gọi là Vị Tằng Hữu (chưa từng có).

          8) Thí Dụ (譬喻, Avadāna): Mượn chuyện Giáp để nói chuyện Ất, lấy sự kiện này để sánh ví sự kiện khác. V́ sao? Những pháp do đức Phật đă nói, nói theo chân lư, chúng ta đều chẳng hiểu. Đức Phật có rất nhiều phương pháp, [chúng sanh] chẳng hiểu Lư, [đức Phật] bèn nói thí dụ. Ngài nói ra các thứ thí dụ, [khiến cho thính chúng] vừa nghe bèn có thể hiểu rơ. Chẳng hạn như đức Phật dạy chúng ta học Phật th́ phải hiểu rơ Phật tánh mà chính ḿnh vốn sẵn có, tức bản tánh. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă dạy: “Chẳng hiểu rơ bản tánh giống như nấu cát [mà mong nấu] thành cơm”. Kẻ “chẳng hiểu rơ bản tánh” là kẻ chẳng hiểu rơ cái ta chân chánh của chính ḿnh, mê hoặc chân ngă, chẳng thể thọ dụng, theo đuổi những thứ hư giả. Những thứ hư giả là ǵ? Kẻ mong làm quan to trong thế gian, cứ ngỡ quyền cao chức cả thật sự tồn tại. Kẻ mong phát tài cứ ngỡ tiền tài là thứ thật sự tồn tại. Nêu ra hai điều ấy, những thứ khác cũng đều là như vậy. Kẻ chẳng liễu giải chân ngă, đều coi những thứ ấy là của chính ḿnh, là sở hữu của ḿnh, giống như coi cát, đá là gạo để nấu thành cơm, tới khi nào mới có thể nấu thành cơm? Chẳng thể nấu thành công! Đức Phật dùng thí dụ này để [chỉ rơ] người học Phật ắt phải hiểu rơ tâm tánh của chính ḿnh. Sau khi đă hiểu rơ tâm tánh, sẽ đạt được chân ngă, đáng tin cậy hơn bất cứ thứ ǵ trong thế gian. Hết thảy mọi thứ trong thế gian đều chẳng đáng tin cậy, đều là những thứ hư giả, nhưng có ai hiểu lư này? Đức Phật nói thí dụ rất đơn giản: Nếu chẳng hiểu cái ta thật sự của chính ḿnh, chẳng liễu giải tâm tánh, cứ coi những thứ giả là thật, sẽ là giống như “nấu cát thành cơm”, vĩnh viễn chẳng thể thành công! Những điều giống như vậy đều là nói Thí Dụ. Nói Thí Dụ ḥng khiến cho người ta nghe xong, sẽ hiểu rơ chân lư.

9) Luận Nghị (論議, Upadeśa), Luận là biện luận, Nghị là nghị luận. Trong kinh văn, thường có đệ tử đức Phật nêu ra câu hỏi, đức Phật giải đáp. Khi ư nghĩa c̣n chưa được giải đáp rơ ràng, đệ tử lại nêu câu hỏi. Cách dùng lư luận để phân biệt cho rơ ràng thêm như vậy th́ gọi là Luận Nghị.

          10) Tự Thuyết (, Udāna): Đức Phật thuyết pháp, thông thường là đều có hàng đại Bồ Tát hoặc các vị đệ tử khải thỉnh. Tự Thuyết là không có ai khải thỉnh, đức Phật tự động nói ra. Chẳng hạn như kinh A Di Đà chẳng có ai khải thỉnh. Một mực từ đầu đến cuối, đức Phật đều dạy ngài Xá Lợi Phất hăy lắng nghe, ngài Xá Lợi Phất hoàn toàn chẳng nêu câu hỏi nào! Toàn là do Thích Ca Mâu Ni Phật chủ động nói ra. Loại này gọi là Vô Vấn Tự Thuyết.

          11) Phương Quảng (方廣, Vaipulya): Phương () là ngay thẳng, Quảng () biểu thị sự rộng lớn. Kinh Hoa Nghiêm có tên gọi đầy đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Dùng danh từ Phương Quảng để biểu thị hết thảy các kinh điển Đại Thừa: Những điều được nói trong kinh văn đều nhằm dạy người ta đạo thành Phật. Kinh thuộc loại đại pháp được gọi là Phương Quảng.

          12) Thọ Kư (授記, Vyākaraṇa): Đức Phật thọ kư cho các vị đệ tử, [nghĩa là] đức Phật huyền kư vị đệ tử nào đó trong tương lai sẽ chứng quả vào lúc nào, khi nào sẽ thành Phật, đó là Thọ Kư. Chỉ có đức Phật thấy rơ chuyện này cho nên Ngài nói ra, bọn phàm phu chúng ta ai có thể làm được? Do đại trí huệ, đức Phật thấy hết thảy đều rơ ràng, rành rẽ, đối với tất cả chúng sanh, quá khứ, vị lai, hiện tại, đức Phật vừa nh́n bèn hiểu rơ. Đó gọi là Thọ Kư.

Trên đây là mười hai bộ trong sự thuyết pháp của đức Phật. Chúng ta thường nói “Tam Tạng mười hai bộ” là nói tới mười hai bộ môn này. Khi tu quán tưởng Phổ Quán, quán tưởng thế giới Cực Lạc, thấy các thứ hoàn cảnh: Hữu t́nh chúng sanh, rừng cây là vô t́nh, tức y báo, c̣n có chư Phật thuộc về chánh báo, diễn nói các pháp đều phù hợp với mười hai bộ kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói. Điều này đặc biệt quan trọng! V́ sao đặc biệt quan trọng? Nay chúng ta thấy Phật pháp rất hưng thịnh, khắp nơi đều có rất nhiều người học Phật, người diễn giảng cũng rất nhiều. Phàm những chỗ diễn giảng có phải đều là chánh pháp hay không? Chúng ta chẳng thể nói như vậy được! Nếu cật vấn: “Lời lẽ ấy chẳng phải là báng pháp ư?” Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy rất rơ ràng, đừng nói là kẻ b́nh phàm, ngay cả đối với người đă dụng công đến mức độ ấy, trông thấy [những ǵ trong thế giới Cực Lạc], vẫn phải đối chiếu với mười hai bộ kinh, vẫn phải là phù hợp kinh điển th́ mới tin tưởng. Chẳng phù hợp, chẳng thể tin tưởng! Huống hồ chúng ta ở trong thế gian này? Chúng ta ở trong thế giới Sa Bà, nhất định phải hiểu nguyên tắc này, bất luận nghe diễn giảng ở chỗ nào, nghe giảng kinh, chính ḿnh phải biết [những điều đă diễn giảng] có khế cơ, khế lư hay chăng? Có phù hợp kinh Phật hay không? Nếu trái nghịch kinh Phật, dẫu là Phật tái lai [giảng nói], chúng ta cũng chẳng tin tưởng. V́ lẽ này, bậc thiện tri thức vào thời cổ đă bảo: “Ly kinh nhất tự, tiện vi ma thuyết” (Ĺa kinh một chữ, bèn là ma nói). “Ly” () là trái nghịch. Hễ có một chữ mâu thuẫn với kinh, sẽ chẳng phải là kinh Phật, mà là do ma nói. Chớ nên nghe pháp do ma nói. Kinh văn ở đây nói: Dụng công đă đạt đến mức độ đó, vẫn phải xét xem có phù hợp với mười hai bộ kinh hay không? Chúng ta tŕ danh niệm Phật, v́ sao vẫn phải học kinh? Học kinh là mong thấy nhiều, biết rộng, gặp những chuyện như bên ngoài đă nói, chính chúng ta có năng lực phân biệt, biện định.

 

(Kinh) Nhược xuất Định chi thời, ức tŕ bất thất. Kiến thử sự dĩ, danh kiến Vô Lượng Thọ Phật Cực Lạc thế giới. Thị vi Phổ Quán Tưởng, danh đệ thập nhị Quán.

()若出定之時,憶持不失。見此事已,名見無量壽佛極樂世界。是為普觀想,名第十二觀。

(Kinh: Nếu lúc xuất Định, hăy nghĩ nhớ, ǵn giữ chẳng để mất. Đă thấy chuyện này th́ gọi là thấy thế giới Cực Lạc và Vô Lượng Thọ Phật. Đây là Phổ Quán Tưởng, gọi phép Quán thứ mười hai).

 

          Trong lúc đang thấy y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hơn nữa, y báo và chánh báo đều diễn thuyết diệu pháp, đồng thời phù hợp mười hai bộ kinh. Đấy là lúc nào? Lúc đang nhập Định (khi quán tưởng nhập Định) bèn trông thấy. “Nhược xuất Định chi thời, ức tŕ bất thất”, [nghĩa là] sau khi xuất Định, phải “ức tŕ” những điều đă thấy trong Định, [tức là] vẫn nhớ nghĩ những ǵ đă thấy trong Định, tiếp tục ǵn giữ, chớ để mất đi. Bất luận ở trong Định, hoặc chẳng ở trong Định, tâm luôn đặt nơi y báo và chánh báo trong thế giới Cực Lạc. Trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương có nói: “Tịnh niệm tương kế” (Tịnh niệm tiếp nối). [Xuất Định bèn ức tŕ những ǵ đă thấy trong Định] chính là “tịnh niệm tương kế”. Có thể giữ được tịnh niệm tương kế, chúng ta sẽ chẳng phải là chúng sanh khổ năo trong thế gian này. “Kiến thử sự dĩ, danh kiến Vô Lượng Thọ Phật Cực Lạc thế giới”: Thấy những sự ấy, gọi là thật sự thấy Vô Lượng Thọ Phật, tức chánh báo, và thế giới Cực Lạc, tức y báo. Chánh báo lẫn y báo đều trông thấy. “Thị vi Phổ Quán Tưởng, danh đệ thập nhị Quán”: Hai câu này là tổng kết. Phổ Quán Tưởng là quán gộp chung những điều đă quán tưởng thành công trong phần trước (toàn thể). Chính ḿnh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, đối với hết thảy hoàn cảnh, tất cả Phật, Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều thấy rơ ràng, rành rẽ, th́ được gọi là Phổ Quán Tưởng, chính là phép Quán thứ mười hai trong Thập Lục Quán Kinh.

          Đối với phép Quán này, các vị tổ sư thời cổ nói: Nếu chẳng hành các phép Quán trước, chuyên quán tưởng phép Quán này th́ cũng hết sức tốt. Chúng ta học Tŕ Danh Niệm Phật, công khóa tụng niệm đều là tŕ danh. Lúc thông thường, hễ suy nghĩ, chúng ta nghĩ đến hoàn cảnh tốt đẹp trong thế giới Cực Lạc; hễ suy tưởng bèn suy tưởng Phật, Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc. Thường xuyên tưởng như thế, tịnh nghiệp của chúng ta sẽ dần dần chín muồi. Khi tịnh nghiệp đă chín muồi, đến lúc thọ mạng chấm dứt, sẽ như nước chảy măi thành gịng, tự nhiên “theo đường về nhà”. Hết thảy đều hết sức quen thuộc, đến khi thọ mạng chấm dứt, nói văng sanh bèn văng sanh, tuyệt đối nắm chắc!

          Tu bất cứ pháp nào cũng đều là chánh trợ song tu. Pháp môn Niệm Phật cũng là như vậy. Tŕ Danh Niệm Phật là chánh công phu, nhưng c̣n có những trợ công phu khác nữa. Nói thông thường: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”, chớ làm hết thảy chuyện ác, đối với chuyện tốt phải phụng hành. Khi chúng ta không tŕ danh niệm Phật, tâm chiếu theo kinh văn để quán tưởng. Chúng ta tưởng hết thảy mọi sự trong thế giới Cực Lạc, tâm chúng ta đă đặt nơi đó, há có tâm tư nào khác để tạo nghiệp trong thế gian này, để tranh danh đoạt lợi với cùng kẻ khác? Tranh danh đoạt lợi với người khác, sẽ chẳng thể nào không tạo nghiệp. Hễ tạo nghiệp, sẽ chẳng thể văng sanh. Do vậy, tâm thường quán tưởng chính là trợ pháp tốt nhất. Thật sự thường quán tưởng như vậy, sẽ chẳng có cơ hội tạo nghiệp.

          Dưới đây là nói về sự cảm ứng. Quán tưởng thành tựu sẽ đạt được cảm ứng ǵ?

 

          (Kinh) Vô Lượng Thọ Phật, hóa thân vô số, dữ Quán Thế Âm, cập Đại Thế Chí, thường lai chí thử hành nhân chi sở.

        ()無量壽佛,化身無數,與觀世音,及大勢至,常來至此行人之所。

(Kinh: Vô Lượng Thọ Phật, hóa thân vô số, cùng với Quán Thế Âm, và Đại Thế Chí thường đến chỗ của hành nhân ấy).

 

          Thường xuyên quán tưởng như vậy, “Vô Lượng Thọ Phật, hóa thân vô số”, Vô Lượng Thọ Phật trong thế giới Cực Lạc. Vô Lượng Thọ Phật là A Di Đà Phật, Ngài có vô số thân ứng hóa. “Dữ Quán Thế Âm, cập Đại Thế Chí”, c̣n có vô số [hóa thân của] Quán Thế Âm Bồ Tát, vô số [hóa thân của] Đại Thế Chí Bồ Tát, “thường lai chí thử hành nhân chi sở”, thường đến chỗ người tu hành phép quán tưởng này. Không chỉ là đến, mà c̣n thường đến. Đây là đạt được cảm ứng.

          V́ sao có sự cảm ứng ấy? Chuyên tâm quán tưởng, ư niệm chẳng đặt nơi giả tướng trong nhân gian, chẳng tham cầu quyền thế, địa vị, tiền tài trong thế gian. Nếu nghĩ đến những món danh lợi ấy, nhục nhăn của chúng ta chẳng trông thấy cơi trời đất mênh mông nơi tâm linh. Chúng ta chẳng nghĩ tới danh lợi, tâm cảnh bèn rộng mở, có thể thấy bản tánh của chính ḿnh, tức là “lư tánh” như người ta thường nói, chẳng xử sự theo cảm t́nh, lư tánh bèn từ bản tánh tỏ lộ. Chúng ta vận dụng tâm tư để thường tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, ánh sáng lư tánh (bản tánh) chói ngời của chúng ta bèn khai phát. Kinh dạy: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật (chúng ta đều là vị lai Phật), Pháp Thân của ba đời chư Phật hoàn toàn như nhau. Pháp Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật và Pháp Thân của A Di Đà Phật cũng như Pháp Thân của chúng ta là vị lai Phật hoàn toàn nhất trí. Pháp Thân chính là bản thể. Bản thể đă là đồng nhất, hễ chúng ta quán tưởng, bản thể sẽ phóng quang; lẽ nào chẳng thể không cảm ứng với Phật, Bồ Tát cho được? Tự nhiên Phật, Bồ Tát sẽ tới. Giả sử đầu óc chúng ta luôn suy tưởng quyền lực, dục vọng, làm thế nào để thỏa măn quyền lực, dục vọng của chính ḿnh, đóng chặt cánh cửa lớn nơi tâm linh của chính ḿnh, những ǵ trông thấy đều là thế gian khổ năo, lúc nào mới có thể thoát ly lục đạo? Văng sanh cũng đừng mong mỏi nữa! Chúng ta phải tịnh niệm tiếp nối. Tŕ Danh Niệm Phật là chánh công phu. Chẳng Tŕ Danh Niệm Phật, bèn quán tưởng thế giới Cực Lạc, tâm tư chẳng nghĩ chi khác. Hễ nghĩ tưởng điều này, khi suy tưởng đă có công phu, công phu đă đắc lực, mở mắt hay nhắm mắt đều có thể thấy Phật, Bồ Tát.

           Quán Kinh nói Nhất Tâm Tam Quán, hiểu rơ chính ḿnh có Phật tánh, tức là Chân Như bản tánh. Nếu Chân Như bản tánh thấu lộ đôi chút tin tức, trí huệ của chúng ta sẽ to lớn khôn ngằn, sẽ thấy được những cảnh giới tốt đẹp nhất, mầu nhiệm nhất mà kẻ khác chẳng trông thấy. Phật, Bồ Tát có thể đến, mà chính ḿnh cũng có thể đi, đều là do bản tánh có thể hiển lộ, cho nên mới có sự cảm ứng tốt đẹp như thế. Hôm nay, tôi nói đến chỗ này bèn ngưng.

          Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Giảng Kư

Phần 7 hết

 

 

 

 

 



[1] Chữ Tha () đọc theo âm Quan Thoại là Tā, trong khi chữ Tha (, c̣n một âm Hán Việt khác nữa là Đà), âm Quan Thoại là Tuō. Trong khi đó, âm tiếng phạn của Na-do-tha là Nayuta.

[2] Sở dĩ có cách nói này v́ trong chánh kinh (trong phép Quán thứ chín, nói thân A Di Đà Phật cao “sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần”). Tổ Thiên Thai cho rằng chữ “hằng hà sa” là thừa, v́ nếu nói hằng hà sa th́ thân Phật không biết cao đến cỡ nào. Nếu chấp nhận thân A Di Đà Phật là “sáu mươi vạn ức na-do-tha do-tuần” th́ so với thân Quán Thế Âm Bồ Tát cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần ở đây, thân Phật sẽ thấp hơn thân Bồ Tát! V́ thế, ngài Thiên Thai mới bảo [thân Quán Thế Âm Bồ Tát] phải là mười tám vạn ức thay v́ tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần. Nhưng nếu giữ nguyên như chánh kinh “thân A Di Đà Phật cao sáu mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần” th́ thân Quán Thế Âm Bồ Tát cao tám mươi vạn ức na-do-tha do-tuần ở đây sẽ hoàn toàn hợp lư.

[3] Theo ư nghĩa nguyên thủy, Quan là một trong các loại trang sức để che tóc hoặc bảo vệ đầu, che nắng, thường gọi chung là Đầu Y (頭衣). Nói cặn kẽ, Quan bao gồm bốn loại là Quan, Miện (), Biện () và Trách (). Trong đó, Miện là loại măo dành riêng cho đế vương hoặc các khanh đại phu, chỉ dùng trong các điển lễ lớn như tế Thiên Địa, quốc khánh, đăng cơ (lên ngôi) v.v… Miện thường có h́nh trụ, trên đỉnh là một tấm đậy nằm ngang, phía trước và sau đều có ngọc kết thành chuỗi, rủ xuống. Số tua quy định rất rơ rệt: Thiên tử mười hai tua, chư hầu chín tua, thượng đại phu bảy tua, hạ đại phu năm tua. Từ đời Hán trở đi, chỉ có hoàng đế được phép dùng Miện. Biện là thứ măo dùng trong nghi lễ, chỉ dành riêng cho nam giới, có tác dụng thay thế vai tṛ của Miện trong thời cổ. Biện thường có màu đỏ (dùng trong lễ cưới) hoặc đen nhạt (dùng trong các dịp lễ khác). H́nh thức chủ yếu là không có cánh măo, chỉ tṛn xoe. Về sau, Biện biến thể thành h́nh thức mũ quả dưa như người Măn Thanh thường đội, trên chóp đỉnh gắn ngọc quư hay đá quư. Kẻ b́nh dân đội miện chỉ là một cục bông kết thành h́nh tṛn, bọc vải. Trách là loại mũ dành cho nam giới, phổ biến cho mọi tầng lớp. Trách có nhiều loại, điểm khác biệt lớn nhất so với các loại mũ khác là Trách có dây buộc dưới cằm cho khỏi tuột. Từ đời Hán trở đi, Quan trở thành từ ngữ chuyên môn chỉ các loại mũ thường dùng cho giới quư tộc, c̣n các loại măo thông thường như Trách chẳng hạn, thường được gọi chung là “mạo tử” (帽子) hoặc “đầu cân” (頭巾). Đầu cân có thể bao gồm các loại khăn xếp quấn lên đầu, hoặc các h́nh thức mũ vải khác biệt. Từ đời Hán, đa số các loại Quan dành cho giới quư tộc là biến thể của Miện (như các loại măo dành cho hoàng hậu, phi tần như Phượng Quan), hoặc là cách điệu hóa, phức tạp hóa của Biện và Trách. Từ h́nh thức đơn giản ban đầu, Quan đă trở thành nhiều loại phức tạp như ngọc quan chỉ che búi tóc (vai tṛ của ngọc quan mang tác dụng trang trí), hoặc che trọn cả đầu như trường quan hoặc tấn hiền quan.

[4] Từ lăo cư sĩ nói theo cách sử dụng ấn tại Trung Hoa vào thời cổ, chứ ngay các loại ấn của cá nhân hiện thời tại Trung Hoa cũng có nhiều loại h́nh tṛn! Hơn nữa, trong hiện thời, đa số các ấn (con dấu), nhất là của các cơ quan chính phủ tại Hoa Kỳ, đều khắc quốc huy, ấn của các trường đại học thường khắc logo biểu trưng cho từng đại học v.v...

[5] Danh xưng Đắc Đại Thế trong kinh Pháp Hoa chỉ là một cách dịch khác của danh hiệu Đại Thế Chí. Đôi khi, Ngài c̣n được gọi là Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Biến Cát Tường Bồ Tát, hoặc Linh Cát Bồ Tát. Trong Đông Mật, đôi khi Ngài được gọi bằng tôn hiệu Đại Dũng Kim Cang hoặc Tŕ Luân Kim Cang. Mật Tông Tây Tạng thường coi Kim Cang Thủ Bồ Tát là thân phẫn nộ của Đại Thế Chí Bồ Tát. Tuy thế, truyền thống Đông Mật coi Kim Cang Thủ là thân phẫn nộ của Phổ Hiền Bồ Tát.

[6] Chữ Tụng () trong Ứng Tụng có các ư nghĩa “ca tụng, ca ngợi, tán thán, thơ ca tán dương”. Trong khi đó chữ Tụng () trong Phúng Tụng có nghĩa là ngâm, đọc. Đối với việc đọc tụng, c̣n có hai cách nói phân biệt: Đọc thuộc ḷng, không cần kinh bổn là Tụng. Nh́n vào kinh văn để đọc ra th́ gọi là Phúng (). Đôi khi chữ Tụng () dùng với ư nghĩa xưng tụng, giống như chữ Tụng ().

[7] “Bộ” () ở đây có nghĩa là một tiểu loại trong Đại Tạng Kinh. Để hệ thống hóa các kinh nhằm thuận tiện nghiên cứu, học tập, chư Tổ đă xếp những bản dịch khác nhau của cùng một kinh, hoặc những kinh có ư nghĩa tương tự, hoặc cùng thuộc một hệ thống giáo nghĩa thành từng loại riêng biệt, gọi là Bộ, chẳng hạn A Hàm Bộ, Bát Nhă Bộ, Hoa Nghiêm Bộ, Pháp Hoa Bộ, Bảo Tích Bộ, Đại Tập Bộ, Mật Bộ…