Lăng
Nghiêm Kinh
Đại
Thế Chí Bồ Tát
Niệm
Phật Viên Thông Chương
Sớ
Sao
楞嚴經大勢至菩薩
念佛圓通章疏鈔
Quyển
Thượng
(dịch theo bản của Hoa Tạng Tịnh
Tông Phật Học Hội,
ấn bản tháng Sáu năm Dân Quốc
80 (1991)
Đời Thanh, Triết Giang, chùa Từ Vân,
Hương Nghiêm hành giả sa-môn Quán Đảnh Tục Pháp[1] soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang
Lời Dẫn
Nhập
Nghĩ tới
tiên sinh Đông Cao từ ngàn dặm gởi thư cho tôi, tự
nói suốt năm qua một mực chú tâm nơi Tịnh
Độ. Gió cảnh giới Sa Bà lồng lộng, Chân
Như Triết, Thảo Đường Thanh đều chẳng
khỏi lỡ bước, tiên sinh khuyên tôi gắng lưu
tâm sự kiện này. Tôi ngẫu nhiên nhắc đến
chuyện này với pháp sư Bách Đ́nh (tức ḥa thượng
Tục Pháp), pháp sư cho biết đă có cuốn Thế
Chí Niệm Phật Chương Sớ Sao để trên án
sách. Hai người cùng mở sách ra xem lại, đều
hết sức nồng nhiệt khen ngợi, cho rằng:
“Tiên sinh dùng thân để thực hiện [những giáo nghĩa
này], đúng là những lời lẽ chữa bệnh cứu
văn thời thế vậy”. Tôi bèn bảo con cái quyên mộ
để khắc ra. Khắc xong, pháp sư lại bảo
tôi viết lời dẫn nhập.
Tôi nghĩ rằng trong đại
kinh Hoa Nghiêm, [khi Thiện Tài đồng tử tham học với
các vị thiện tri thức], trước hết ngài
Đức Vân tuyên dạy pháp Niệm Phật, Mă Minh Bồ
Tát là vị tổ tạo luận coi trọng cả Niệm
Phật lẫn Chỉ Quán. Lăng Nghiêm là sách luận bàn về
Tánh, chương Thế Chí Niệm Phật được
xếp vào phần Viên Thông, rơ ràng Thiền Tông chẳng thể
chèn ép Liên Tông, bảo đấy chẳng phải là
đường lối để trở về nguồn thấy
tánh được! Nay những tác phẩm Di Đà Sớ
Sao, Long Thư Tịnh Độ Văn v.v… được
lưu truyền trong chốn Thiền lâm. Nghĩ tới
chương Thế Chí chỉ được giảng giải
kèm thêm trong chánh kinh, chưa từng được viết
sớ giải chuyên biệt. Pháp sư giảng giải kinh
văn, giải thích ư nghĩa, khắc thành sách đă ban thêm
cho người trong cơi Chấn Đán (Trung Hoa) một chiếc
bè văng sanh nữa, há chẳng đáng gọi là bậc công thần
trong Tịnh Độ ư? Điều này càng rơ ràng
hơn nữa. Do vậy, tôi bèn đem ư này phúc đáp Cao tiên
sinh, rồi lại nói ṃ rằng:
- Liên Tŕ đại sư bảo:
“Niệm Phật một tiếng
để thay thế tạp niệm trong trăm ngàn vạn
ức kiếp. Niệm ấy chính là Không, Không chính là niệm,
bản thể đành rành! Chẳng phải ở ngoài niệm
lại t́m được Bồ Đề nào khác”. Lại
nói: “Chấp tŕ danh hiệu
đến mức nhất tâm sẽ khôi phục được
cái Thể không tịch”. Lại nói: “Cần biết do Tịnh Độ duy tâm nên không có
ngoại cảnh. Tự tánh trở về bản thể,
chính là ư nghĩa nguyện sanh về cơi ấy”. Như vậy
là ngài Liên Tŕ tuy cực lực chủ trương Tây
Phương Tịnh Độ nhưng chẳng bỏ sót tông
chỉ kiến tánh của Tông môn, rành rành như thế
đó! Cho nên nói rằng: Kiến tánh là chỗ chỉ quy của
Tịnh Độ, nhưng Tịnh Độ là đường
để vào kiến tánh, chẳng mâu thuẫn nhau. Kiến
tánh th́ chạm tay vào chỗ nào cũng đều là Tịnh
Độ, nhưng chẳng thể bỏ không nói đến
đài sen. Chưa kiến tánh th́ chưa thể hoàn toàn thấu
hiểu Tịnh Độ được, nhưng cái nhân
đă gieo chẳng hề lỡ làng. Do vậy, dù kiến
tánh hay không đều chẳng thể xem thường niệm
Phật tu Tịnh Độ được! Dường
như nghĩa này chưa được chương Thế
Chí Viên Thông này nhắc tới. Tôi đă đem ư này phúc
đáp ông Cao, nay viết vào đây để hỏi người
thật sự niệm Phật nghĩ như thế nào?
Năm Canh Thân (1680) niên hiệu Khang Hy,
Đới Kinh Tăng sinh trưởng ở Tiền
Đường kính ghi.
Đại Phật
Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Đại Thế
Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
Đường Thiên
Trúc sa-môn Bát Lạt Mật Đế dịch
Đại Thế
Chí Pháp Vương Tử dữ kỳ đồng luân ngũ
thập nhị Bồ Tát, tức tùng ṭa khởi, đảnh
lễ Phật túc, nhi bạch Phật
ngôn:
- Ngă ức văng tích Hằng hà sa kiếp hữu
Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang, thập nhị
Như Lai tương kế nhất kiếp. Kỳ tối
hậu Phật danh Siêu Nhật Nguyệt Quang. Bỉ Phật
giáo ngă Niệm Phật tam-muội. Thí như hữu nhân, nhất
chuyên vi ức,
nhất nhân chuyên vong. Như thị nhị nhân, nhược
phùng bất phùng, hoặc kiến phi kiến. Nhị nhân
tương ức, nhị ức niệm thâm. Như thị
năi chí tùng sanh chí sanh, đồng ư h́nh ảnh, bất
tương quai dị. Thập phương Như Lai, lân niệm
chúng sanh như mẫu ức tử.
Nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi? Tử
nhược ức mẫu, như mẫu ức thời. Mẫu
tử lịch sanh, bất tương vi viễn. Nhược
chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền
đương lai, tất định kiến Phật, khứ
Phật bất viễn, bất giả phương tiện,
tự đắc tâm khai. Như nhiễm hương nhân,
thân hữu hương khí. Thử tắc danh viết Hương Quang Trang Nghiêm. Ngă bổn nhân
địa, dĩ niệm Phật tâm nhập Vô Sanh Nhẫn,
kim ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhân, quy
ư Tịnh
Độ. Phật vấn Viên Thông, ngă vô tuyển trạch,
đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế,
đắc tam-ma-địa, tư vi đệ nhất.
Đại Phật
Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh
Đại Thế
Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương
Đời Đường, Sa Môn xứ Thiên Trúc
là Bát Lạt Mật Đế dịch từ Phạn sang Hán
Đại Thế Chí Pháp Vương Tử
cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng
hạnh với Ngài liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật,
bạch Phật rằng:
- Con nhớ trong hằng hà sa kiếp
xưa kia, có đức Phật xuất thế tên là Vô
Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai liên tiếp
[xuất hiện] trong cùng một kiếp. Vị Phật cuối
cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy dạy
con pháp Niệm Phật tam-muội. Ví như có người,
một người chuyên nhớ, một người chuyên
quên. Hai người như thế dù có gặp nhau mà như
chẳng gặp, hoặc có thấy nhau cũng như không
thấy. Hai người nhớ nhau, hai cái nhớ ấy
càng sâu. Như thế cho đến từ đời này
sang đời khác như h́nh và bóng chẳng hề trái nghịch,
sai khác nhau. Mười phương Như Lai thương
nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn
dẫu nhớ để làm ǵ? Nếu con nhớ mẹ
như khi mẹ nhớ con th́ mẹ con trải qua nhiều
đời chẳng xa cách nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật,
niệm Phật th́ hiện tiền, tương lai nhất
định thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng
cần đến phương tiện, tâm tự được
mở mang. Như người nhiễm hương, thân
thường có mùi hương. Đấy gọi là
Hương Quang Trang Nghiêm. Lúc con tu nhân vốn là dùng tâm niệm
Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn. Nay con ở trong
thế giới này nhiếp người niệm Phật
quay về Tịnh Độ. Phật hỏi pháp nào Viên Thông,
con chẳng chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa, đấy
là bậc nhất.
Kinh Lăng Nghiêm chép: “Phật bảo A Nan: - Nếu
như có kẻ thân phạm đủ [các tội] Tứ Trọng,
mười Ba-la-di[2],
trong chớp mắt sẽ đọa vào địa ngục
A Tỳ trong thế giới này lẫn thế giới khác
cho đến đọa khắp [các ngục] Vô Gián trong tất
cả mười phương, không ngục nào là chẳng
bị đọa vào. Nếu trong thời mạt kiếp,
có thể trong khoảng một niệm đem pháp môn này dạy
cho người chưa được học đến
th́ tội chướng của người ấy sẽ liền
tiêu diệt ngay trong niệm ấy, biến các nhân khổ sở
trong địa ngục mà người ấy phải gánh chịu
thành cơi yên vui”. Do vậy, chương kinh này thật
đúng là ḷ luyện lớn lao đốt tan tội lỗi,
là linh đan trị lành bệnh, là đường tắt
để tu tâm, là phương cách trọng yếu để
cầu văng sanh. Nếu có thể thường thọ tŕ th́
không khổ nào chẳng trừ, không niềm vui nào chẳng
được hưởng, không nguyện nào chẳng thỏa,
không quả nào chẳng đạt được. Phàm ai thấy
nghe hăy đều nên suy đi nghĩ lại.
* Cách thức
tŕ tụng hằng ngày:
Người có ba hạng:
1) Một là kẻ cực nhàn rỗi, hăy
nên ngày đêm sáu thời tŕ kinh niệm Phật.
2) Hai là người nửa nhàn, nửa bận,
mỗi ngày hăy nên hai thời sáng tối nhất tâm tŕ niệm.
3) Ba là người cực bận bịu,
mỗi buổi sáng sớm hăy nên chuyên tâm tŕ niệm.
Pháp tắc tŕ tụng th́ trước hết
hăy xưng niệm Bổn Sư Phật ba lượt rồi
đọc chương Thế Chí một biến, Văng Sanh
Chú ba biến, kệ Tán Phật một biến, niệm Phật
mấy trăm câu, một ngàn câu hoặc một vạn câu
tùy ư, niệm ba danh hiệu Bồ Tát mỗi danh hiệu ba
lượt, rồi đọc kệ phát nguyện hồi
hướng một biến. Trước khi tụng và sau
khi tụng, đều phải đối trước thánh
tượng chắp tay lễ ba lần. Nếu không có
tượng Phật th́ đối trước kinh hoặc
hướng lên không trung lễ bái cũng được. Nếu
có thể thường làm như thế không gián đoạn,
ắt Phật thương xót, phàm có cầu nguyện chi
không ǵ chẳng được toại ư, lúc lâm chung Phật
và thánh chúng phóng quang tiếp dẫn, mau sanh về Cực Lạc.
Hành giả hăy nên sanh ḷng tín nguyện, chớ nên ngờ vực,
coi thường!
Dưới đây là nói về cách thức
tụng kinh và niệm Phật mỗi ngày. Nếu chỉ
tŕ danh hiệu Phật và là người cực nhàn rỗi
th́ trừ sáu thời ra, hăy nên thời thời, khắc khắc
niệm Phật không gián đoạn. Người nửa
nhàn nửa bận th́ hăy nên khi làm lụng xong xuôi liền niệm
Phật ngay. Người cực bận bịu hăy nên tranh
thủ lúc nhàn rỗi trong khi bận bịu, niệm Phật
mười niệm. Cách này gọi là chẳng bỏ phí thời
gian vậy. Trọn hết một đời này chẳng
gián đoạn ngày nào th́ tâm và miệng niệm Phật của
chính ḿnh ắt sẽ trở thành tâm và miệng của Phật.
Kinh dạy: “Hạnh giống
như Phật, mang khí phận của Phật, đích thân
là con Phật”, chẳng phải đúng như thế hay
sao?
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật (3 lần)
Tiếp đấy, tụng Thế
Chí Chương xong, liền niệm tiếp Văng Sanh Chú
Nam
mô a di đa bà dạ, đá tha già đa dạ, đa địa
dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đá, tất
đam bà tỳ, a di rị đá, tỳ ca lan đế, a
di rị đá, tỳ ca lan đá, già di nị, già già na, chỉ
đa ca lệ, sa bà ha.
Bất Tư Nghị Thần Lực
Truyện chép: “Cách thức tŕ
chú là thân thể sạch sẽ, súc miệng, thắp
hương đối trước Phật, ngày đêm sáu
thời, mỗi thời đều tụng hai mươi mốt
biến, sẽ diệt được những tội
như Ngũ Nghịch, báng pháp v.v… Tụng đủ ba
mươi vạn biến sẽ thấy A Di Đà Phật”.
Sách Di Đà Sớ Sao viết: “Nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân tụng chú này th́ A
Di Đà Phật thường ở trên đỉnh đầu
người ấy, ngày đêm ủng hộ không để
cho oán gia có dịp thuận tiện [hăm hại] được,
trong đời hiện tại thường được
an ổn. Lúc mạng chung, tùy ư văng sanh”.
Tiếp đấy đọc bài kệ
tán Phật:
A Di
Đà Phật thân kim sắc,
Tướng
hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch
hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Cám
mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang
trung hóa Phật vô số ức,
Hóa
Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ
thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu
phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế
giới đại từ đại bi A Di Đà Phật (trăm, ngàn, vạn câu tùy ư)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Bồ Tát (mỗi danh hiệu
mười lượt)
Sau đấy đọc kệ phát nguyện
hồi hướng:
Ngă kim
xưng niệm A Di Đà, chân thật công đức Phật
danh hiệu. Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ, chứng
tri sám hối cập sở nguyện. Văng tích sở tạo
chư ác nghiệp, giai do vô thủy tham
sân si. Tùng thân ngữ ư chi sở sanh, nhất thiết ngă kim
giai sám hối. Nguyện ngă lâm dục
mạng chung thời, tận trừ nhất thiết
chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật
A Di Đà. Tức đắc văng sanh An Lạc sát. Nguyện
dĩ thử công đức, trang nghiêm Phật Tịnh
Độ. Thượng báo tứ trọng ân, hạ tế
tam đồ khổ. Nhược hữu kiến văn giả,
tất phát Bồ Đề tâm. Tận thử nhất báo
thân, đồng sanh Cực Lạc quốc. Thập
phương tam thế nhất thiết Phật. Nhất
thiết Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật.
(Con nay xưng niệm A Di Đà, danh hiệu
Phật công đức chân thật. Kính xin từ bi
thương nhiếp thọ, chứng biết con sám hối,
nguyện cầu. Xưa kia đă tạo bao nghiệp ác,
đều do vô thủy tham sân si. Từ thân - miệng - ư
phát sanh ra, hết thảy con nay xin sám hối. Nguyện con
vào lúc sắp lâm chung, trừ sạch hết thảy các
chướng ngại, tận mặt thấy Phật A Di
Đà, liền được văng sanh cơi An Lạc. Nguyện
đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ.
Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ
ba đường. Nếu có ai thấy nghe, đều phát
Bồ Đề tâm. Hết một báo thân này, cùng sanh cơi Cực
Lạc. Mười phương ba đời Phật, hết
thảy Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật).
Bài này nên quỳ đọc
trước tượng Phật. Đọc xong, đứng
dậy lễ ba lạy rồi lui ra.
Kệ rằng:
Một
bữa vô thường đến,
Mới
biết ta đang mơ,
Muôn
thứ đành bỏ lại,
Riêng
ḿnh nghiệp theo thân.
Thế nào là “muôn thứ đành bỏ lại?” Quan tước,
của cải, đồ quư giá, nhà cửa, ruộng vườn,
quần áo, món ăn, cho đến vợ đẹp, con
yêu, hễ vô thường xảy đến đều
không mang theo được. Thế nào là “riêng ḿnh nghiệp theo thân?” Các ác nghiệp tham, sân,
si, mạn, Ngũ Nghịch, Thập Ác do con người
đă tạo, các thiện nghiệp Giới, Định, Huệ,
Ngũ Giới, Thập Thiện con người đă hành,
hễ vô thường xộc tới, chúng đều theo
quư vị cả. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Khi lâm chung, lúc hơi nóng chưa tan hết, sự thiện
điều ác trong cả một đời đều cùng
một lúc nhanh chóng hiện ra. Ác th́ liền cảm khổ
báo trong tam đồ. Thiện th́ cảm quả báo vui trong
cơi trời người”. Nếu trong thiện tâm lại
c̣n kèm thêm tín nguyện niệm Phật cầu văng sanh ắt
sẽ hiện cảnh tướng cơi Cực Lạc của
Phật. Phẩm [Phổ Hiền] Hạnh Nguyện dạy:
“Khi người ấy chết,
hết thảy các căn thảy đều hư hoại,
hết thảy thân thuộc thảy đều bỏ ĺa, hết
thảy oai thế thảy đều biến mất, voi,
ngựa, xe cộ, trân bảo, kho đụn, không c̣n thuộc
về kẻ ấy nữa. Chỉ có nguyện vương
này là trong hết thảy lúc thường dẫn đường
trước mặt, trong một sát-na liền sanh về thế
giới Cực Lạc, thấy A Di Đà Phật và các thánh
chúng”. Đă là như thế, sao chẳng giành ngay lúc khỏe
mạnh này nỗ lực siêng năng tu tập? Ngài Thiện
Đạo nói: “Dẫu cho vàng
ngọc đầy nhà, khó khỏi suy tàn già bệnh! Dẫu
ngươi khoái lạc ngàn muôn, rốt cuộc vô thường
xảy tới, chỉ có nẻo tắt tu hành, chỉ niệm
A Di Đà Phật”. Nếu đợi lâm chung mới hối,
dẫu hối c̣n kịp hay chăng? Kính khuyên mọi
người hăy kịp thời tấn tu. Sanh tử là chuyện
lớn, vô thường mau chóng, hăy hết sức cẩn thận
đối với chuyện này, xin hăy gắng lên nhé!
Hơn nữa, người tu Tịnh
nghiệp phải có đủ ba thứ tư lương:
1) Một là Tín: Tin luân hồi khổ nhất,
tin niệm Phật mầu nhiệm nhất, tin rằng tu
hành trong cơi này khó thể thành tựu đạo quả. Tin
rằng nguyện sanh về cơi kia, thậm chí mười
niệm, quyết được văng sanh. Tin rằng với
quả báo được sanh trong cơi trời người
th́ khi hết phước sẽ lại đọa. Tin rằng
hễ sanh về cơi Cực Lạc, vĩnh viễn chẳng
thoái chuyển, sẽ thành Chánh Giác. Tin rằng hễ
xưng danh hiệu Phật một tiếng sẽ diệt
được trọng tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử. Tin rằng người niệm Phật
được Phật Di Đà gia hộ, dắt d́u, khi bị
bệnh sẽ được Ngài cứu vớt, che chở,
khi lâm chung được Phật đến đón.
2) Hai là Nguyện: Nguyện tiêu nghiệp
chướng, nguyện diệt các khổ, nguyện tâm mở
mang, nguyện thấy Phật. Nguyện tịnh nghiệp
thành tựu. Nguyện sanh về cơi An Dưỡng, nguyện
được Phật thọ kư, nguyện độ sanh.
3) Ba là Hạnh: Thân lễ tượng Phật,
miệng xưng danh, tâm quán tưởng, đều phải
sao cho chuyên nhất, trọn chẳng tán loạn. Phải hiểu
biết rằng khi tín nguyện chính là đă vun trồng hoa
sen; khi chuyên niệm th́ hoa sen bèn vượt khỏi mặt
nước. Lúc công lao thành tựu, hoa sen bèn nở trên không.
Nếu dấy ḷng nghi ngờ, hối tiếc, hoa sen lại
héo đi.
Do vậy, ngày đêm sáu thời không có một
niệm nào tham luyến Sa Bà. Phàm đi đứng, ăn ở,
ăn uống, nói năng, im lặng, động, tịnh,
đều chẳng quên Tịnh Độ. Tới lúc lâm
chung, hăy nên niệm Phật phát nguyện, chẳng
được sợ chết, tham sống. Thường tự
nghĩ rằng: Cái thân hiện tại của ta đây mọi
thứ khổ chen nhau buộc ràng, những món bất tịnh
tràn trề, nếu bỏ được cơi này, gởi thân
nơi ao sen, hưởng vô lượng vui, mọi chuyện
tột bậc vừa ư, như trút được cái áo hôi
xấu, được mặc quần áo quư báu, sang cả,
buông xuống vạn duyên, thân tâm giải thoát. Hễ vừa
bị bệnh, chẳng cần biết là nặng hay nhẹ,
liền nghĩ tới vô thường, một ḷng đợi
chết, liền dặn ḍ hết thảy mọi người:
“Phàm ai đến gặp tôi đều niệm Phật cho
tôi, chớ đừng nói tạp nhạp chuyện đời,
t́nh cảnh gia đ́nh hay dở!” Lại mời pháp sư
nhiều lượt tới khuyên nhắc, nương theo
kinh để chỉ dạy. Cho đến lúc bệnh nặng
xả báo, người nhà thân thuộc chẳng được
khóc lóc, thốt ra tiếng than thở buồn bă, áo năo v́ vẫn
sợ làm cho tâm thần người sắp mất bị lầm
lẫn, rối loạn, quên mất chánh niệm, chỉ lớn
tiếng niệm A Di Đà Phật. Giữ như vậy
cho đến khi người ấy tắt hơi, thần
thức đă rời khỏi xác rồi mới được
cất tiếng khóc. Nếu được như thế
th́ vạn người cầu, vạn người văng sanh,
ắt chẳng c̣n ngờ chi nữa!
Lại có kẻ gặp phải chướng
nạn, chẳng thể chánh niệm văng sanh, [chẳng hạn]
như trúng phong, cấm khẩu, cuồng loạn mất
trí, nước lửa, sét đánh, bị trùng thú quỷ
ăn, trúng phải độc dược, chết trận,
oán tặc, nạn vua, cũng phải sám hối sẵn, ắt
sẽ được Phật che chở. Bởi lẽ
người niệm Phật có sáu thứ lợi ích thù thắng:
1. Chư Phật, Bồ Tát hộ niệm.
Đức Di Đà đứng trên đỉnh đầu
phóng quang. Chư thiên, thần tướng ngày đêm ngầm
gia hộ.
2. Ác quỷ, độc dược đều
chẳng thể làm hại được.
3. Tam tai bát nạn[3] thảy
đều tiêu trừ. Chướng duyên đời trước
tiêu tan, được thoát khỏi kẻ thù oán đ̣i mạng.
4. Khí lực sung măn, không mắc phải
các thứ bệnh tật ngang trái.
5. Đêm nằm mộng tốt lành, thấy
h́nh tượng Phật. Không bị những thứ phi nhân
đoạt mất tinh khí.
6. Trong hiện tại được hết
thảy lễ kính, lâm chung Tam Thánh tiếp dẫn.
Do vậy, biết: Hằng ngày
thường một dạ niệm Phật hiệu chính là
pháp chuẩn bị sẵn để ngăn ngừa lo sầu.
Như người vào thành làm việc, ắt trước hết
phải kiếm chỗ an cư, ngơ hầu khi trời
đêm tối om sẽ có chỗ để ngủ. “Kiếm
chỗ để ở” chính là tu sẵn Tịnh nghiệp.
“Khi trời đêm tối om” chính là khi đại hạn xảy
tới. “Có chỗ để ngủ” chính là sanh trong hoa sen,
chẳng gặp chướng ngại. Nếu con người
y theo đó để dụng tâm, lúc lâm chung chắc chắn
được văng sanh. Đây lại là điều dặn
ḍ thiết tha dành cho người tu Tịnh Độ vậy.
Chùa Từ Vân, Hương Nghiêm
hành giả Tục Pháp thuật bày, kính khuyên.
Lăng Nghiêm Kinh
Thế Chí Niệm Phật
Viên Thông
Chương Sớ Sao
Quyển Thượng
Đời Thanh, tỉnh Chiết Giang,
chùa Từ Vân,
Quán Đảnh sa-môn Tục Pháp soạn
Phần giải thích:
Một chương kinh này được
chia thành ba ư lớn:
1. Những ư chánh trong phần Thông Tự.
2. Giải thích kinh văn.
3. Quy mạng, hồi hướng.
I. Thông tự
đại ư (những ư chánh
yếu trong phần Thông Tự)
Gồm hai phần:
1. Giải thích rơ tông chỉ, nghĩa thú
2.
Lược giải tựa đề kinh
1. Giải thích về tông chỉ,
nghĩa thú:
Gồm 3 phần:
1.1. Tông thú[4] của
pháp niệm Phật
1.2. Nêu bày những điều được
giảng giải trong chương kinh này
1.3. Dẫn chứng những sự lợi
ích thù thắng để khuyên tu
1.1. Tông
thú của pháp niệm Phật
Sớ[5]:
Lớn lao thay, pháp môn Niệm Phật gồm thâu cả Tiểu
lẫn Đại, bao trọn lợi căn lẫn độn
căn, Sự - Lư viên dung, Tánh - Tướng vô ngại. Phật
chính là tâm, không tâm nào chẳng phải là tâm Phật. Tâm chính
là Phật, không một Phật nào chẳng phải là Phật
tâm. Tâm vừa nghĩ tới, Phật,
Phật trọn bày. Vừa xưng danh hiệu Phật, tâm,
tâm được hiển lộ ngay. Chẳng có Phật ở
ngoài tâm để tâm nhớ tới, mà cũng chẳng có
tâm ở ngoài Phật để đức Phật
được xưng niệm bởi cái tâm ấy. Chúng
sanh niệm Phật: Phật ở ngay trong tâm chúng sanh. Phật
niệm chúng sanh: Chúng sanh ở ngay trong tâm Phật. Tâm này
làm Phật, nếu tâm chẳng niệm Phật th́ chẳng
thể làm Phật được! Chính do Phật mà tâm
được hiển lộ, nếu chẳng xưng niệm
Phật th́ tâm chẳng thể hiển lộ được.
Cho nên biết rằng: Một môn Niệm Phật quả thật
là diệu pháp để kiến tánh thành Phật vậy.
Sao:
Từ chữ “lớn vậy
thay” trở đi, chia làm hai phần. Trước hết
là phần giải thích, lại gồm có ba ư:
1.1.1. [Ư thứ nhất]: Trước
hết là tŕnh bày tổng quát về phạm vi bao quát của
pháp môn niệm Phật. “Lớn
lao thay” chính từ ngữ khen ngợi, cũng là từ
ngữ mở đầu [lời nhận định]. Từ
chữ “pháp môn Niệm Phật”
trở đi, chính là nói về pháp được khen ngợi.
Câu đầu tiên nêu lên Thể (bản thể)[6]:
Niệm Phật chính là nói riêng, “pháp
môn” là nói chung.
Bốn câu kế tiếp (tức “pháp môn Niệm Phật gồm
thâu cả Tiểu lẫn Đại, bao trọn lợi
căn lẫn độn căn, Sự - Lư viên dung, Tánh -
Tướng vô ngại”) giải thích về Tướng[7]:
Hai câu đầu nói về Người
(tức đối tượng chủ yếu) [được
nhiếp hóa bởi pháp môn này]. Nói “Đại, Tiểu” là ước về Thừa
(giáo pháp); nói lợi, độn là ước về Căn
(căn cơ được tiếp độ).
“Gồm
thâu” là hướng dẫn,
chỉ dạy căn tánh Tiểu Thừa, tức dẫn dắt
căn tánh Tiểu Thừa hướng đến Đại
Thừa; khuyên lơn, khích lệ căn tánh Đại Thừa
hăy bỏ Quyền (phương tiện) hướng đến
Thật, khiến cho ba tâm của bậc thượng
căn (chí thành tâm, thâm tâm, hồi
hướng phát nguyện tâm)
được phát khởi trọn vẹn, tiến thẳng
vào Vô Sanh, làm cho kẻ hạ căn mười niệm
thành công, cũng được sanh về cơi kia (nước
Cực Lạc).
Hai câu kế đó nói về Pháp. Sự,
Lư là ước về hạnh. Tánh, Tướng là ước
về Đế[8]. “Viên dung, vô ngại”: Kẻ hạ
căn ngu độn chấp Sự, mê Lư, người trí nhỏ
chấp Lư bỏ Sự. Nay [pháp môn Niệm Phật] khiến
cho họ thông suốt cả Sự lẫn Lư. Nương
theo Lư để tu liền chứng Chân Đế, thấy
được tự tánh Di Đà. Nương theo Sự để
tu liền chứng Tục Đế, sanh vào Cực Lạc
tướng độ[9].
1.1.2. [Ư thứ hai]: Tiếp đấy,
[trong đoạn “Phật chính
là tâm, chẳng có tâm nào chẳng phải là tâm Phật. Tâm
chính là Phật, không một Phật nào chẳng phải là
Phật tâm”] lời Sớ lại đặc biệt chỉ
rơ lư Bất Nhị trong ấy:
1.1.2.1. Trước hết là tâm và Phật
không hai:
Bốn câu đầu ước theo Tánh
để lập luận. Giảng về tâm và Phật, lời
Sớ chia ra năm cặp:
- Một: Tâm ở ngoài
Phật, Phật ở ngoài tâm.
- Hai: Phật ở trong tâm, Phật chỉ là tâm.
- Ba: Tâm tức là Phật, Phật tức
là tâm.
- Bốn: Tâm chẳng phải là Phật,
Phật chẳng phải là tâm.
- Năm: Tâm và Phật viên dung, vô chướng,
vô ngại.
Đem Ngũ Giáo (Tiểu, Thỉ, Chung,
Đốn, Viên) theo thứ tự phối hợp với
năm cặp này sẽ hiểu được ư nghĩa.
Nay tôi chỉ rơ ư nghĩa của câu thứ ba:
Tâm và Phật ở đây, xét về Thể,
sẽ bao quát khắp tất cả, giống như kim loại
và đồ vật vậy. Nếu dùng kim loại để
thâu nhiếp đồ vật (tức là thấy toàn bộ
những món đồ vật đều làm bằng kim loại)
th́ chẳng bỏ sót một món vật nào. Dùng đồ vật
để nhiếp kim loại (tức là t́m kim loại từ
nơi đồ vật), không một món nào chẳng bằng
kim loại.
1.1.2.2. Tám câu tiếp theo kể từ chữ
‘tâm’ (tức từ câu: “Tâm vừa
nghĩ tới…”) trở đi là ước theo
phương diện Tu để nói:
“Tâm nghĩ
tới Phật, Phật được xưng niệm bởi
tâm” đều là giảng
theo phương diện Tu. Tâm nghĩ tới Phật, Phật
liền hiện bày; bởi lẽ, tâm chính là Phật.
Xưng niệm Phật th́ tỏ rơ được cái tâm, bởi
lẽ, Phật chính là tâm. Không có ǵ để tâm nhớ nghĩ
tới nên ngoài tâm không có Phật. Không có ǵ để
xưng niệm Phật, cho nên ngoài Phật không có tâm. Phẩm
Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Vô hữu trí ngoại Như vi trí sở nhập, diệc
vô Như ngoại trí, năng chứng ư Như” (Chẳng
có Như ở ngoài trí để được chứng nhập
bởi trí ấy, mà cũng không có trí ngoài Như để
chứng được cái Như[10] ấy)
chính là giảng về nghĩa này.
1.1.3. [Ư thứ ba]: Từ chữ “chúng sanh” trở đi, lời
Sớ bàn về ba thứ vô sai biệt, tức là: Tâm, Phật,
chúng sanh chính là ba thứ vô sai biệt.
Bốn câu đầu [trong tiểu đoạn
này] nhằm giảng rơ sự không sai biệt:
1.1.3.1. “Chúng
sanh niệm Phật” nghĩa là chúng sanh ở trong tâm
chư Phật đang niệm chư Phật ở chính ngay
trong tâm chúng sanh. “Phật ở
ngay trong tâm chúng sanh” nghĩa là ở ngoài tâm của chúng
sanh không có đức Phật nào khác; bởi lẽ, chân tâm
của Phật chính là chân tâm của chúng sanh. [Nói cách khác]
câu này ngụ ư gồm thâu mọi pháp thuộc về mặt
Nhân, không bỏ sót pháp nào. V́ thế mới nói: “Chúng sanh niệm Phật, hiện
tiền, tương lai ắt được thấy Phật”.
Kinh Hoa Nghiêm cũng dạy: “Hăy
nên biết trong tự tâm, trong mỗi niệm thường
có Phật thành Chánh Giác. V́ sao vậy? Do chư Phật
Như Lai chẳng ĺa tâm này để thành Chánh Giác vậy”.
1.1.3.2. “Phật
niệm chúng sanh” là chư Phật trong tâm chúng sanh niệm
chúng sanh trong tâm của chư Phật. “Chúng sanh ở trong tâm Phật” nghĩa là ngoài chân
tâm của Phật chẳng có chúng sanh, nhưng chân tâm của
chúng sanh lại chính là chân tâm của Phật. [Nói cách khác]
đoạn này gồm thâu các pháp thuộc về mặt Quả
chẳng c̣n sót pháp nào. Do vậy, nói: “Mười phương Như Lai nghĩ
thương chúng sanh như mẹ nhớ con”. Phật
Tánh Luận chép: “Hết thảy
chúng sanh đều ở trong trí của Như Lai, hết
thảy chúng sanh quyết định chẳng ra ngoài cảnh
Như Như, đều được Như Lai nhiếp
tŕ”.
1.1.3.3. Dựa theo Thanh Lương Sớ[11],
[tâm, chúng sanh và Phật] lại được chia thành bốn
câu như sau:
- Một là ở ngoài tâm của chư Phật,
không có chúng sanh nào khác.
- Hai là ở ngoài tâm của chúng sanh, chẳng
có Phật nào khác.
- Ba là tâm Phật, tâm chúng sanh, cả hai
thứ cùng tồn tại, cùng hiện diện.
- Bốn là tâm chúng sanh và tâm Phật,
đoạt lẫn nhau, cùng mất.
Nay tôi bèn dựa theo hai ư đầu [trong
bốn câu vừa nêu trên đây] để giải thích lời
Sớ như sau:
Bốn câu tiếp theo chữ “Tâm này” (tức các câu: “Tâm này làm Phật, nếu tâm chẳng
niệm Phật th́ chẳng làm Phật. Chính do Phật mà
tâm được hiển, nếu chẳng xưng niệm
Phật th́ tâm chẳng thể hiển lộ được”)
nhằm giảng rơ lại ư nghĩa của đoạn
trước:
- Tâm vốn là Phật, do chẳng giác nên
Phật ẩn. Nếu muốn làm Phật th́ phải niệm
tâm. Do vậy, Khởi Tín Luận viết: “Bổn Giác của chúng sanh và Bổn Giác của Phật
chẳng có hai Thể. Nếu chẳng niệm tâm, khó thể
thành Phật vậy”.
- Phật vốn là tâm, do vô minh nên tâm
tăm tối. Nếu muốn tâm được sáng tỏ,
phải nên niệm Phật. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Phật trí rộng lớn, trọn
khắp tâm của chúng sanh. Lời ăn tiếng nói của
chúng sanh đều chẳng ĺa ngoài pháp luân của Như
Lai”. Nếu chẳng xưng niệm Phật, khó thể
nào minh tâm được!
Từ chữ “cho
nên biết” trở đi là lời kết. Di Đà tức
là tự tánh, Tịnh Độ hoàn toàn chỉ là nhất
tâm. Hễ ĺa ngoài tâm tánh, sẽ chẳng t́m được
mảy may ǵ! Nếu có thể ức niệm th́ đức
Phật trong bổn tánh sẽ được hiển lộ.
Khởi Tín Luận giảng: “Nhất
tướng của pháp giới chính là Pháp Thân b́nh đẳng
của Như Lai. Hễ đức Phật nơi Tánh
được hiển lộ, sẽ tự chứng
được Phật đạo nơi Quả”. Do
đó, ngài Khuê Sơn nói: “Nay biết
tâm chính là tâm của Phật, nhất định sẽ
thành Phật”, chẳng đúng như thế hay sao? Nếu
rời ngoài môn Niệm Phật ra mà muốn mau kiến tánh
thành Phật tức là bỏ cái gần, cái dễ để
cầu cái xa, cái khó vậy!
1.2. Nêu bày
những điều được giảng giải trong
chương kinh này
Sớ: Bởi vậy, mười hai đức
Như Lai gọi [pháp niệm Phật] là tam-muội; c̣n Thế
Chí Bồ Tát gọi là Viên Thông. Tam-muội bao gồm trọn
hết các loại Thiền. [Danh xưng] Viên Thông hàm nghĩa
“đầy đủ vạn hạnh”. Nhất tâm tu học
Đốn Giáo, Thật Giáo, cũng chẳng đáng nên làm
hay sao?
Sao: Từ chữ “bởi vậy” trở đi, chia thành ba đoạn:
1.2.1. Trước hết là phần Chánh
Hiển (phần nêu rơ giáo pháp nào sẽ được giảng
dạy trong chương kinh này):
Từ ngữ “bởi
vậy” là từ ngữ dùng để tiếp nối
đoạn trước nhằm khởi đầu đoạn
sau.
“Mười hai đức Như
Lai gọi [pháp niệm Phật] là tam-muội”: Tâm phàm phu
nhơ bẩn, đục ngầu như Hoàng hà, c̣n tâm ngoại
đạo vọng tưởng phóng túng như ngựa chạy
lồng lên; cho nên gọi pháp Niệm Phật là tam-muội
ngơ hầu họ sẽ bỏ nhơ để trở thành
tịnh, bỏ tán loạn ḥng chứng nhập tịch tĩnh
vậy.
“Thế
Chí Bồ Tát gọi là Viên Thông”: Để đoạn Hoặc, chứng Chân, Tiểu
Thừa phải trải qua bảy lần sanh [trong nhân
gian], Quyền giáo phải trải qua ba A-tăng-kỳ[12]
th́ nhân mới đầy đủ, quả mới viên măn
được! Do vậy, nói “Viên
Thông” là muốn cho họ mau chứng, chóng thành, vượt
thoát trọn vẹn, chứng nhập trực tiếp vậy.
1.2.2. Từ “tam-muội
bao gồm” trở đi, nêu ra hai tầng phân biệt. Tức
là:
a. Tam-muội này bao gồm trọn khắp
hết thảy các thứ Thiền Định thế gian lẫn
xuất thế gian, khác hẳn các thứ tam-muội khác; giống
như một ḷ nung to lớn đúc thành ngàn món vật.
b. Viên Thông là trọn vẹn tám vạn bốn
ngàn hết thảy các thứ Quán Hạnh, khác hẳn những
thứ Viên Thông khác, ví như thuốc A Già Đà[13]
trị chung vạn bệnh.
1.2.3. Hai câu sau cùng là ba thứ khuyên
răn: Tam-muội là điều được giảng giải
bởi Thật giáo. Viên Thông là pháp được giảng
giải bởi Đốn giáo. Học Đốn Giáo và Thật
Giáo là điều đáng nên làm.
Thêm nữa, lời Sớ trong phần
trên (tức phần Tông Thú) nhằm chỉ ra ư nghĩa pháp
Niệm Phật là Viên, c̣n lời Sớ trong phần này nhằm
nêu thêm ư nghĩa: Pháp môn Niệm Phật cũng là Đốn
và Thật.
a. Chúng sanh niệm Phật nhất định
sẽ thành Phật, đấy là Thật. Luận Khởi
Tín chép: “Chuyên niệm Di Đà, tu
thiện, hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy,
cuối cùng được thấy Phật”. Kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Lúc mạng sắp
hết, các căn rời ră, hư hoại, chỉ có nguyện
vương này dẫn đường đằng trước,
liền được văng sanh, thấy Phật Di Đà,
được Phật thọ kư, chẳng lâu sẽ ngồi
nơi Bồ Đề đạo tràng, thành Đẳng Chánh
Giác”. Chúng sanh nhớ Phật, hiện tiền liền thấy,
tức là Đốn (nhanh chóng) vậy.
b. Kinh Phật Tạng dạy: “Không giác, không quán gọi là Niệm
Phật. Không có tưởng, không có lời lẽ nào gọi
là Niệm Phật”. Kinh Ma Ha Bát Nhă dạy: “Bồ Tát Ma Ha Tát niệm Phật,
chẳng dùng Sắc để niệm, chẳng dùng Thọ,
Tưởng, Hành, Thức để niệm do tự tánh của
các pháp không tịch vậy”. V́ chương kinh này đă
giảng kèm thêm các nghĩa Đốn và Thật, do vậy,
pháp môn này đáng phải nên học.
1.3. Dẫn chứng lợi ích
thù thắng để khuyên tu:
Sớ:
Nghe nói danh hiệu Phật, Oai Quang[14]
chứng nhập vô tận, nhớ tưởng cảnh Phật,
Đức Vân đắc nhiều môn giải thoát. Có ích lợi
thù thắng như thế ấy, sao lại tự ruồng,
tự bỏ, chẳng nguyện, chẳng tu ư?
Sao:
Đối với bốn câu từ chữ “nghe nói”, trước hết là phần dẫn nhập.
“Nói danh hiệu Phật” là
như kinh Hoa Nghiêm chép: Lúc đức Thắng Vân Phật hiện
nơi rừng Bảo Hoa, vang ra âm thanh nói danh hiệu của
hết thảy chư Phật trong ba đời. Lúc ấy,
đức Như Lai đó ở giữa chúng hội, nói
kinh Phổ Tập Nhất Thiết Tam Thế Phật Tự
Tại Pháp.
“Nhập
vô tận” là như kinh Hoa
Nghiêm đă chép: “Ở nơi Thắng
Vân Phật, [thái tử Đại Oai Quang] chứng
được Nhất Thiết Chư Phật Công Đức
Luân tam-muội, chứng được Nhất Thiết Phật
Pháp Phổ Môn Đà-ra-ni, biết rơ biển ‘hiểu quyết
định trang nghiêm thành tựu’ của hết thảy
chư Phật, biết rơ vô biên biển biến hiện thần
thông trước hết thảy chúng sanh của Phật, rơ
biết hết thảy pháp vô úy nơi Phật lực. Ở
chỗ Thiện Nhăn Phật liền đắc Niệm Phật
tam-muội có tên là Vô Biên Hải Tạng Môn. Mười ngàn
pháp môn như thế đều thông đạt ”.
“Nhớ
tưởng cảnh Phật”
là như trong kinh Hoa Nghiêm, ngài Đức Vân bảo Thiện Tài
rằng: “Này thiện nam tử!
Ta chỉ chứng được pháp môn Nghĩ Nhớ Thấy
Trọn Khắp Cảnh Giới Trí Huệ Quang Minh Của
Hết Thảy Chư Phật này”.
“Nhiều
môn giải thoát” là như
Kinh Hoa Nghiêm đă liệt kê hai mươi mốt thứ
[giải thoát môn] từ Trí Quang Phổ Chiếu Niệm Phật
môn cho tới Trụ Hư Không Niệm Phật môn[15]
v.v...
Từ chữ “có
ích lợi” trở đi, gồm hai ư khuyên lơn, để
kết thúc tiểu đoạn này:
1. Trước hết là phần Khuyên Nhủ.
Các pháp môn khác th́ hoặc là nông cạn nên chẳng xứng hợp
thượng căn, hoặc sâu xa nên hạ căn tuyệt
chẳng có phần. Chỉ có một pháp này là gồm thâu lợi
căn lẫn độn căn, giống như Thủy
Thanh Châu[16] nên
đến đâu cũng có ích. Do vậy, hăy nên tin nhận,
hành tŕ. Niệm Phật giống như trồng lúa, tâm ḿnh
như ruộng nhà. Đối với Tín, hăy nên tin [chắc
chắn] giống như hễ gieo cấy giống lúa ấy
sẽ nhất định thu được thóc. Nguyện
phải giống như khi biết giống lúa tốt ấy,
nhất tâm mong thu hoạch được thóc. Hạnh phải
như vui sướng cầu mong có được thóc, ra sức
cày bừa.
2. Hai câu kể từ chữ “sao lại” trở đi chính
là ư kết luận gồm hai ư trách móc. Nhân quả của
mười cơi đều chỉ do tâm biến hiện. Cái
tâm trong một niệm nếu nóng giận, tà dâm liền là
cơi địa ngục. Nếu keo bẩn, tham lam chẳng bố
thí th́ là cơi ngạ quỉ. Hễ ngu si tăm tối tức
là cơi súc sanh. Nếu ngă mạn kiêu căng liền là cơi Tu
La. Giữ vững Ngũ Giới bèn là Nhân pháp giới.
Chuyên tu Thập Thiện bèn là Thiên pháp giới. Chứng ngộ
Nhân Không là Thanh Văn giới. Biết tánh của duyên vốn
rời ĺa, đấy chính là Duyên Giác giới. Lục Độ
đều cùng tu, đấy là Bồ Tát giới. Ḷng Từ
b́nh đẳng chân thật là Phật pháp giới. Nay
chương kinh này dạy pháp Niệm Phật là muốn
cho hành nhân niệm tự tâm, thành đức Phật của
chính ta sẵn có. Sao lại bỏ đức Phật trong tự
tâm, phụ bạc lời Phật dạy ư? Như Lai Bất
Tư Nghị Cảnh Giới Kinh dạy: “Bồ Tát biết rơ chư Phật cùng hết thảy
pháp đều chỉ là do tâm lượng nên đắc Tùy
Thuận Nhẫn[17],
khi xả thân mau sanh về tịnh độ Cực Lạc”.
Chiếu luật sư hỏi:
- Kinh chép: “Tâm
này làm Phật, tâm này là Phật”. Tâm đă là Phật, sao
lại cần phải niệm đức Phật khác?
Đáp:
- Chỉ v́ tâm vốn là Phật cho nên mới
dạy chuyên niệm vị Phật ấy. Kinh Phạm Vơng
[Bồ Tát] Giới dạy: “Tin
biết hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh,
ta là Phật chưa thành, chư Phật là Phật đă
thành”. Vị Phật trong tâm ông là Phật chưa thành, Phật
Di Đà là Phật đă thành. Vị Phật chưa thành ch́m
đắm trong biển dục đă lâu, trọn đủ
các phiền năo, khó biết thuở thoát ra. Vị Phật
đă thành th́ chứng Bồ Đề từ lâu, có đầy
đủ oai thần, hay cứu giúp chúng sanh. Do vậy,
chư Phật khuyên phải niệm Phật. Tức là dùng
vị Phật chưa thành của ta để cầu vị
Phật đă thành của người, hầu cứu giúp
cho vậy. Chúng sanh nếu chẳng niệm Phật th́ thánh
- phàm sẽ măi măi cách biệt. Cha con chống trái nhau sẽ
ở măi trong luân hồi, cách Phật thật xa. Bởi thế,
các vị đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền
v.v... đều nguyện niệm Phật văng sanh, huống
hồ bọn phàm phu chúng ta ư? Vả nữa, loài sâu bọ
kia nghe lời giáo hóa c̣n được thành tựu, loài
người vẫn chẳng bằng loài trùng hay sao? Đă
chẳng nguyện mà c̣n tự buông bỏ th́ là mê lầm quá
sức vậy!
2. Lược
giải tựa đề của kinh
Sớ:
Lăng Nghiêm (Surangama) nghĩa là “hết thảy sự rốt
ráo, kiên cố”, chính là tên chung của cả bộ kinh. Viên
Thông là thánh tánh pháp môn, không ǵ chẳng thông, là đề mục
riêng của một chương kinh này. Thế Chí là người
khải giáo[18]. Niệm
Phật là pháp để tu hành. Phần kinh văn này tuy chỉ
gồm mười hai hàng, nhưng nghĩa bao trùm các kinh Tịnh
Độ: có Giáo, có Cơ (căn cơ), có Pháp, có Dụ
(thí dụ), bao gồm trọn khắp sự cảm ứng
giữa chúng sanh và Phật, nhân, quả, ta, người
đều thấu triệt. Làm đèn, làm trăng cho tâm cảnh,
là thuyền bè cho thánh phàm. Do vậy, có tên là Lăng Nghiêm
Kinh Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương.
Sao:
Từ chữ “Lăng Nghiêm”
trở đi, trước hết, lời Sớ giải
thích tên kinh. “Hết thảy sự”
chính là ba khoa[19], bảy
đại[20]. “Rốt ráo” là Không, “kiên cố” là Bất Không. Hợp
cả hai nghĩa này tức là Không Bất Không. Uẩn, Xứ,
Giới, Đại vốn là Như Lai Tạng[21],
nên mọi sự rốt ráo kiên cố th́ gọi là Lăng
Nghiêm Định. Đă trụ nơi pháp vị, tướng
thế gian thường trụ, nên Định này c̣n
được gọi là Kiện Tướng (tướng
mạnh mẽ) tam-muội. “Thánh
tánh” là nói về Lư, “pháp môn”
là ước về Giáo. Qua sự tŕnh bày đại lược
về Hạnh và Quả, ta có thể hiểu được
ư nghĩa tên kinh này. Tựa đề kinh và tên của
chương kinh này đă chỉ ra bốn pháp hỗ
tương: Viên (tṛn đủ), Biến (trọn khắp),
Cai (gồm cả), Thông (thông suốt). Nương vào Chỉ[22]
để thành tựu Định th́ gọi là Lăng
Nghiêm. Nương vào Quán để thành tựu Huệ th́ gọi
là Viên Thông.
“Đề mục
riêng” (tên gọi riêng của
chương kinh này) chính là pháp Niệm Phật Viên Thông của
ngài Thế Chí, đây là một trong hai mươi lăm
pháp Viên Thông để tu đạo.
Từ chữ “Thế
Chí là người” trở đi cũng là nói đại
lược nhưng ư nghĩa vẫn đầy đủ.
Đúng ra phải nói là: Người có thể khơi mở,
có thể tu tập [pháp môn này] chính là ngài Thế Chí. Cái
được khơi mở, được tu tập
chính là pháp Niệm Phật.
Đoạn văn tiếp đó là lời tiểu
kết ở cuối phần này nhằm khen ngợi, gồm
hai ư:
1. Trước hết là lời khen riêng.
Đức Phật dạy ta niệm Phật là Cơ Giáo (dạy
dỗ thuận theo căn cơ. Phần Sớ viết là “có Giáo” – chú thích của người
dịch). Dùng h́nh ảnh “mẹ con, nhiễm mùi
hương” là những thí dụ của Pháp này. Đức
Như Lai thương nghĩ chúng sanh, chúng sanh nhất tâm
nhớ Phật, đấy là sự cảm ứng giữa
Phật và chúng sanh. Ta do niệm Phật, chứng nhập
Nhẫn liền nhiếp người niệm Phật trở
về với Tịnh, đấy chính là nhân và quả của
ta và người.
2. “Làm
đèn, làm trăng cho tâm cảnh”: Nương vào tự
tâm của chính ḿnh để niệm cảnh Phật ấy,
cảnh Phật sẽ hiển hiện. Dựa vào cảnh
Phật đó để niệm tự tâm của chính ḿnh
th́ tự tâm dễ hiển lộ.
Những điều được chỉ
bày trong chương này đều là nhờ vào giáo pháp giống
như trăng, như đèn để chiếu soi ḥng thấy
được. “Ngoài tâm có cảnh”
là giáo pháp Tiểu Thừa. “Cảnh
chỉ là tâm” là Thỉ Giáo. “Tâm
chính là cảnh, cảnh chính là tâm” là Chung Giáo. “Chẳng phải cảnh, chẳng
phải tâm” là Đốn Giáo. “Tâm
cảnh vô tận” là Viên Giáo.
Đối với những pháp được
giảng giải (sở thuyên pháp) th́ dùng đèn và trăng
để ví cho năng thuyên giáo (giáo lư dùng để giảng
giải những pháp ấy) th́: Thanh, danh, cú nghĩa[23]
môn giống như ánh đom đóm, là Tiểu Giáo. Nhiếp
cảnh duy tâm môn (thâu gom cảnh về tâm, tức thấy
hết thảy các cảnh chỉ là do tâm biến hiện)
giống như lửa đèn, là Thỉ Giáo. Lư Sự vô ngại
môn giống như ánh sao là Chung Giáo. Gom hết tất cả
những môn trên đây lại để quy về tánh giống
như vầng trăng chính là Đốn Giáo. Hàm chứa vô
tận khắp các môn giống như mặt trời chính là
Viên Giáo. Nay trong lời Sớ này, lấy đại lược
hai nghĩa trong các nghĩa ấy để nói.
“Thuyền
bè cho thánh phàm”: Niệm danh
hiệu Phật, thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, vượt
khỏi tam đồ. Hạ Hạ Phẩm văng sanh
được gọi là Nhân Thừa, ví như thuyền nhẹ
chỉ vượt được khe lạch. Niệm sắc
tượng Phật (tức phép Quán Tượng), tu hành Thiền
và các điều thiện, vượt thoát bốn châu[24],
sanh trong hoa sen hạ phẩm, gọi là Thiên Thừa, ví
như thuyền nhỏ[25],
vượt được cửa sông nhỏ. Niệm Ứng
Hóa Phật, quán Tứ Chân Đế (Tứ Thánh Đế),
vượt khỏi ba cơi, sanh trong hoa sen Trung Phẩm, gọi
là Thanh Văn Thừa, ví như chiến thuyền, vượt
qua hồ lớn. Niệm Thọ Dụng Phật[26],
liễu ngộ nhân duyên, chứng nhị Niết Bàn (Hữu
Dư và Vô Dư Niết Bàn), sanh trong hoa sen Thượng Phẩm,
gọi là Duyên Giác thừa, ví như thuyền lớn, vượt
qua sông to. Niệm đức Phật nơi pháp tánh, vận
dụng Trí lẫn Bi, hưng khởi vạn hạnh chặt
chẽ, thành Vô Thượng Đạo, vượt trỗi
các cơi phàm phu, Tiểu Thừa, văng sanh Thượng Thượng
Phẩm, gọi là Bồ Tát Thừa, ví như hạm thuyền,
vượt thẳng qua biển cả.
Lại nữa, Tŕ Danh Niệm Phật
như đặc thuyền, là Thanh Văn Thừa. Quán
Tượng Niệm Phật như phương thuyền,
là Bích Chi Phật. Quán Tưởng Niệm Phật như
duy thuyền, là Bồ Tát thừa. Thật Tướng Niệm
Phật như tạo thuyền[27],
là Phật Thừa vậy.
“Thánh phàm” chính là người được hóa
độ. “Thuyền bè” ví
von pháp dùng để giáo hóa. Chữ “Do vậy, gọi là” dùng để tổng kết.
II. Giải
thích kinh văn
Gồm hai phần:
1. Tŕnh bày đại lược ư nghĩa
chánh yếu.
2. Giải thích tường tận ư nghĩa
kinh văn.
1. Tŕnh bày đại lược
ư nghĩa chánh yếu
Sớ: Phần giải thích ư nghĩa kinh này
được chia thành năm môn:
- Một là nhân duyên phát khởi giáo pháp
này.
- Hai là phân định giáo pháp này thuộc
về tạng nào, thừa nào.
- Ba là tông thú, chỉ quy.
- Bốn là lược giải tựa
đề của kinh.
- Năm là giải thích tường tận
ư nghĩa kinh văn.
Sao: Hai câu đầu là lời tŕnh bày tổng
quát. Từ chữ “Một là”
trở đi là phân biệt từng môn. Ở đây dựa
theo ư tưởng của Bát Nhă Sớ, chia đại lược
thành năm chương. Ba chương đầu thuộc
về nghĩa môn (luận bàn về ư nghĩa), hai
chương sau là phần giải thích chánh yếu.
2. Giải
thích tường tận ư nghĩa kinh văn
Gồm năm phần:
- Giáo hưng (nguyên nhân phát khởi
giáo pháp)
- Tạng nhiếp (phán định
kinh văn thuộc về tạng nào)
- Tông thú (tông chỉ, chỗ quy
hướng của kinh)
- Giải thích đề mục
kinh
- Giải thích kinh văn
2.1. Giáo hưng
Sớ:
Thứ nhất, nhơn duyên khởi giáo. Trí Độ Luận
chép: “Như núi Tu Di, chẳng phải
là không có nhân duyên, chẳng phải là do nhân duyên ít ỏi mà
có thể lay động nó được”. Giáo pháp Niệm
Phật được khởi lên cũng giống như
thế, phải hội đủ nhiều nhân duyên:
a. Một là chỉ ra con đường
tu hành nhanh tắt.
b. Hai là nhằm chỉ bày trực tiếp
vào đức Phật trong tự tâm của đương
nhân (người được giáo hóa hoặc đối
tượng nghe pháp này).
c. Ba là nhằm làm cho họ ngộ nhập
tâm tánh của Phật.
d. Bốn là hiển thị tâm, chúng sanh,
và Phật không sai biệt.
e. Năm là độ thoát phàm phu, ngoại
đạo được vượt thoát khỏi ba cơi
theo chiều ngang (hoành siêu).
f. Sáu là tiếp dẫn Quyền, Tiểu
viên thành Phật quả.
g. Bảy là khiến cho ba bậc văng sanh
được trọn đủ, chẳng c̣n nghi ngờ,
hối hận.
h. Tám là tạo lợi ích cho đời
này, đời sau, bao hàm trọn khắp vô tận.
i. Chín là mau chóng thâu nhiếp sáu căn chứng
cảnh Viên Thông.
j. Mười là mau sạch hết phiền
năo, quyết định sanh sang nước Phật.
Sao:
Câu đầu tiên trong lời Sớ là câu dẫn khởi. Từ
chữ “Trí Độ Luận” trở
đi là lời giải thích ư nghĩa [v́ sao pháp môn Niệm
Phật được hưng khởi], gồm hai ư:
1. Trước hết là dẫn chứng.
Câu “như núi Tu Di” là thí dụ.
2. Từ chữ “niệm Phật” trở đi là Hợp (tức
là dựa vào ví dụ để nêu lên luận điểm của
ḿnh).
Từ chữ “một
là” trở đi chính là phần giải thích chánh thức.
Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Sơ
tâm nhập tam-muội, lâu mau chẳng giống nhau”. Do vậy,
biết là: Học đạo nơi các pháp môn khác quanh co, hiểm
trở, gian nan, ví như tổ kiến; c̣n môn Niệm Phật,
từ xưa đă gọi là “đường tắt” th́ rất
giống như gió và nước. Tổ Thiện Đạo
nói: “Chỉ có đường
tắt tu hành, chỉ niệm A Di Đà Phật. Huống chi nay
lại tŕ danh, đấy lại là đường tắt
nhất trong các đường tắt. Nếu muốn
thành tựu trong một đời hăy nên lưu tâm nơi
pháp này”.
Từ chữ “hai là” trở đi, như Quán Kinh dạy: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật.
Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm
tưởng sanh”. V́ thế, dạy cho con người niệm
Phật chính là dạy họ niệm đức Phật
trong tự tâm vậy.
Câu “ba
là” giảng về tâm tánh của Phật. Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Ta do bất diệt bất
sanh mà hợp với Như Lai Tạng, nhưng Như Lai Tạng
chỉ là diệu giác minh, chiếu trọn vẹn pháp giới”.
Vô Sai Biệt Luận giảng: “Tâm
tánh này sáng sạch, có cùng một Thể với pháp giới.
Như Lai dựa vào tâm này để nói ra pháp chẳng thể
nghĩ bàn”. Do vậy, biết: Đức Phật lấy
pháp tánh thanh tịnh nơi Như Lai Tạng để làm
tâm vậy.
“Làm cho họ
ngộ nhập”: Luận Khởi
Tín chép: “Tướng tự thể
của Chân Như ở phàm phu hay chư Phật đều
chẳng tăng, giảm”. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài Phú
Lâu Na nói: “Cái tâm trong sạch,
chân thật, mầu nhiệm, quí báu, giác ngộ, tṛn đủ,
trong sáng của con và Như Lai đều viên măn không hai”.
Quán Kinh dạy: “Lúc tâm các ông
tưởng Phật th́ tâm ấy chính là ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy h́nh”. V́
thế, lúc chúng sanh niệm đức Phật trong tâm liền
có thể ngộ nhập tâm tánh của Phật.
Đối với câu “bốn là”, Vô Sai Biệt Luận
giảng: “Chúng sanh giới chẳng
khác Pháp Thân, Pháp Thân chính là chúng sanh giới”. Quán Kinh dạy:
“Chư Phật Như Lai là thân
pháp giới vào trong tâm tưởng của hết thảy
chúng sanh”.Trong đoạn sau,
chương kinh Lăng Nghiêm này lại dạy: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật,
hiện tiền nhất định thấy Phật”, tức
là pháp môn này có thể tỏ lộ rơ ràng tâm, Phật, chúng
sanh ba thứ vô sai biệt vậy.
Trong câu “năm là”, phàm phu ngoại đạo do Kiến
Tư Hoặc mà khởi nghiệp, cảm báo, luân chuyển
chẳng ngơi. Nếu nương theo các pháp khác để
tu th́ phải cho đến khi hết Hoặc mới
được xuất ly, nên gọi là “vượt thoát tam giới theo chiều dọc”
(Thụ Xuất). Chỉ có pháp môn Niệm Phật là có thể
mang theo [Kiến Tư] Hoặc để văng sanh, nên gọi
là “vượt thoát tam giới
theo chiều ngang” (Hoành Siêu). Như con sâu ở trong cây
tre nếu đục thủng từng đốt theo chiều
dọc sẽ khó thoát ra được, c̣n đục ngang
lóng th́ trong chốc lát sẽ thoát ra. Pháp sư Đồng Giang
nói: “Thụ Xuất là
nương theo Tứ Đế, nhân duyên, các Độ, trải
qua các địa vị, như muốn đỗ đạt
phải có tài học. Như để được lần
lượt thăng chức trong quan trường, phải
có công lao. Hoành Siêu là pháp môn Niệm Phật, giống như
người được tập ấm[28], do
công của tổ phụ, do sức của người
khác, bất luận có học vấn có
hay không. Lại như bầy tôi được vua ban ân
phong chức cho tổ phụ nhiều đời, công do quốc
vương, chẳng cần biết làm quan lâu hay mau”.
Trong câu “sáu là”, sáu thứ tâm của Bồ Tát khiến họ
đọa vào địa vị Thanh Văn, trải qua kiếp
số nhiều như vi trần chẳng hồi phục
được tâm Đại Thừa. Ví như hoa Yêm La (hoa
xoài), như cá con, về mặt nhân tuy có thật nhiều,
nhưng kết quả thật ít. Nếu có thể niệm
Phật, phát ra ba tâm viên măn (tức chí thành tâm, thâm tâm, hồi
hướng phát nguyện tâm), tự nhiên sẽ chuyển
Quyền thành Thật, hồi Tiểu hướng Đại,
như kẻ áo trắng chợt trở thành quư hiển, từ
đất bằng lên tiên vậy. Do đó, kinh Đại Bổn
(Vô Lượng Thọ Kinh) dạy: “Bồ Tát muốn làm cho chúng sanh mau chóng an trụ
nơi Vô Thượng Bồ Đề th́ hăy nên dấy lên
sức tinh tấn nghe pháp môn này”. Hơn nữa, mười
địa vị thuộc bậc Thập Địa trong
kinh Hoa Nghiêm, trước sau chẳng ra ngoài pháp Niệm Phật.
Bậc Đăng Địa[29]
trong Viên Giáo c̣n phải như thế, huống là những
người thuộc hạng Quyền, Tiểu, Sơ Tâm
ư?
Câu “bảy
là” ngụ ư: Thượng phẩm lợi căn nghe giáo
pháp Tiểu Thừa liền hối tiếc, hạ phẩm
độn căn nghe giáo pháp Đại Thừa liền
nghi. Do vậy, trong hội Hoa Nghiêm, hàng Thanh Văn tuyệt
chẳng có phần. Trong thời A Hàm, Bồ Tát chẳng dự.
Nay một pháp Niệm Phật đây, như Vạn Ứng
Cao (tức thuốc A Già Đà), bệnh ngặt đều
khỏi; như mưa đúng thời, cỏ cây đều
tươi tốt. Thế nên, pháp này thâu nhiếp trọn vẹn
lợi căn lẫn độn căn, gồm thâu thượng
phẩm lẫn hạ phẩm.
Trong câu “tám
là”, “lợi ích cho đời này” nghĩa là trong hiện
tại, đức Phật giảng dạy phù hợp
cơ nghi, “lợi ích cho mai sau” chính là tạo lợi ích cho
kẻ thấy nghe ngay cả khi đức Phật đă diệt
độ. Như trong phần sau của chương kinh
này đă dạy: “Nay ở trong
cơi này, nhiếp thọ người niệm Phật quay về
Tịnh Độ”. Quán kinh chép: “Nay đức Như Lai v́ hết thảy chúng sanh bị
giặc phiền năo làm hại trong đời vị lai mà
nói nghiệp thanh tịnh”. Do vậy, pháp Niệm Phật
giống như Như Ư Châu, lợi lạc trọn khắp
vô tận vậy.
Câu “chín là”
ngụ ư: Hết thảy chúng sanh do mê mất cái tâm thường
trụ nên khởi lên các thứ vọng tưởng, mắc
vào sắc, thanh, trái nghịch cảnh viên thông. Nay niệm
Phật sẽ nhiếp trọn sáu căn, giữ được
chân thường, thường quang hiện tiền, cảnh
Viên Thông dấy lên, dẫu chẳng muốn chứng cũng
không thể được. Bởi vậy, trong kinh Hoa
Nghiêm, trưởng giả Giải Thoát nói: “Biết hết thảy Phật giống như ảnh,
h́nh tượng, tự tâm giống như nước. Hễ
nước trong lặng, trăng sẽ hiện toàn thể”.
Lại c̣n nói kệ như sau:
Bồ Tát
giống như trăng trong mát,
Thường
dạo chơi nơi Tất Cánh Không[30].
Do tâm chúng
sanh nhơ hay sạch,
Mà Bồ
Tát hiện bóng hay không.
Cho nên biết rằng: Chúng sanh tịnh
niệm, Di Đà quyết định phóng quang minh. Hễ tâm thủy
chẳng tịnh, cảnh trăng Viên Thông của Bồ Tát
cũng chẳng hiện.
Câu “mười
là” ư nói: Đời Mạt Pháp tu hành có nhiều thứ
chướng nạn, tà ma nhiễu loạn, Phật đạo
khó thành. Nay tu Niệm Phật tam-muội, nương vào
nguyện lực oai thần của Phật, mau trừ
được phiền năo, nhanh chóng phá vô minh, ma Ngũ Uẩn
tiêu tan, ba thân Phật sẽ hiện, sẽ sanh về cơi Phật
Cực Lạc, thành tựu hai quả Chân và Ứng vậy.
Như ngọn đèn sáng lớn thắp ở trong nhà, không
những xóa tan bóng tối ngàn năm mà c̣n soi tỏ các vật.
Nhưng mười nguyên nhân này lại
sanh khởi theo thứ tự:
- Trước hết, để nhập
đạo th́ có nhiều môn, nhưng sự khó - dễ trong
mỗi môn đều khác, chỉ ra pháp Niệm Phật là
đường tắt nhất.
- Thứ hai, đây là đường tắt
v́ niệm đức Phật trong tự tâm.
- Ba là do niệm đức Phật ở
trong tâm nên mới có thể thành tựu cái tâm của Phật.
- Bốn là nếu khế hợp Phật
tâm th́ chúng sanh và Phật đồng thể, chẳng có hai.
- Năm là nếu đă chẳng phải
hai, há c̣n có phàm phu, ngoại đạo nào chẳng
được độ thoát ư?
- Sáu là chẳng tiếp độ riêng
ḿnh phàm phu, ngoại đạo, mà c̣n tiếp độ những
người thuộc hạng Quyền, Tiểu.
- Bảy là chẳng chỉ Ngũ Thừa
mà c̣n độ trọn khắp hết thảy chúng sanh dù
thiện hay ác.
- Tám là chẳng chỉ lợi lạc
trong hiện tại mà c̣n lợi khắp đời vị
lai chẳng cùng tận.
- Chín là tế độ rộng lớn
như thế chính là viên thông.
- Mười là hễ tu nơi Hữu
Tác[31]
th́ cuối cùng sẽ thành bại hoại. Nay đă viên
thông, ắt sẽ thấy Phật sanh về Tịnh Độ.
Lại nữa, do quyết định
sanh sang cơi Phật, cho nên chỉ ra pháp môn đường nẻo
nhanh tắt là nhằm muốn cho hành nhân tu hành mau được
thành Phật. Trước sau liên hoàn như thế, giống
như các mắt xích móc vào nhau. Giáo pháp này được
hưng khởi chẳng phải là không có nguyên nhân vậy!
2.2. Tạng
nhiếp
Sớ: Hai là xét xem giáo pháp thuộc về thừa
nào, tạng nào. Trong ba tạng, [kinh này] thuộc về Khế
Kinh Tạng. Trong hai tạng, kinh này thuộc về Bồ
Tát Tạng. Trong ba thừa, kinh này thuộc về Đại
Thừa. Trong Ngũ Giáo, kinh này thuộc về ba giáo sau.
Sao: Chữ “hai
là” để nêu vấn đề. Từ chữ “Trong” trở đi là lời
giải thích về tướng. Tam Tạng là:
1) Tu Đa La (Sutra), Hán dịch là Khế
Kinh, tức là Kinh Tạng, giảng về Định Học.
2) Tỳ Nại Da (Vinaya), Hán dịch là
Điều Phục, tức là Luật Tạng, giảng về
Giới Học.
3) A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), Hán dịch
là Đối Pháp, giảng về Huệ Học.
Nay kinh này thuộc về Kinh Tạng, từ
đầu đến cuối, chuyên nói về Niệm Phật
tam-muội.
Hai tạng là:
1) Bồ Tát Tạng: Nói bày lư, hạnh, quả
của Bồ Tát.
2) Thanh Văn Tạng: Giảng bày về
lư, hạnh, quả của Thanh Văn.
Nay kinh này thuộc về Bồ Tát Tạng;
kinh này diễn nói pháp Niệm Phật Viên Thông của hàng Bồ
Tát.
Tam Thừa là:
1) Tiểu Thừa Thanh Văn, tức là
pháp môn Tứ Đế chuyên chở chúng sanh ra khỏi tam
giới đến thành Niết Bàn, thành A La Hán, ví như xe
dê.
2) Trung Thừa Duyên Giác, tức là pháp môn
[Thập Nhị] Nhân Duyên, chuyên chở chúng sanh vượt
khỏi Tứ Không[32], ở
nhà tịch tĩnh, thành Bích Chi Phật, ví như xe nai.
3) Đại Thừa Bồ Tát, tức
là pháp môn Lục Độ, chuyên chở chúng sanh vượt
thoát cảnh phàm phu, Tiểu Thừa, thẳng đến Vô
Thượng Bồ Đề, bờ kia Đại Bát Niết
Bàn, thành tựu Phật quả, ví như xe trâu.
Nay kinh này thuộc về Đại Thừa,
do Như Lai nghĩ thương chúng sanh, Thế Chí nhiếp
thọ người niệm Phật, khiến cho các thừa
được yên vui, độ thoát chín cơi.
Ngũ Giáo là:
1) Tiểu Giáo: Chỉ nói về Nhân Không.
2) Thỉ Giáo: Chỉ luận về Pháp
Không, c̣n gọi là Phần giáo v́ chỉ nói đến pháp
tướng.
3) Chung Giáo: Do nói về Trung Đạo,
c̣n gọi là Thật Giáo, thường giảng nói nhiều
về pháp tánh.
4) Đốn Giáo: Chỉ luận về chân
tánh.
5)Viên giáo: Chỉ nói về pháp giới.
Nay kinh này thuộc về ba giáo sau. Trong
đoạn sau của chương kinh này có câu: “Hai người nhớ nhau, hai
cái nhớ ấy càng sâu, mẹ con trải qua nhiều đời
chẳng cách xa nhau”, đấy chính là Chung Giáo do kể từ
lúc niệm dần dần cho đến khi cuối cùng trở
thành Phật. Tiếp đấy, kinh lại dạy: “Dùng tâm niệm Phật để
nhập Vô Sanh Nhẫn, chẳng cần đến
phương tiện”, đấy chính là Đốn Giáo
do biết Phật chính là tâm, mau thành Phật đạo!
Trong kinh này lại dạy: “Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp, đắc
tam-ma-địa”, đấy chính là Viên Giáo do biết rơ
ba thứ này không sai biệt th́ pháp giới viên thông. Dựa
theo đó sẽ biết giáo nghĩa kinh này sâu rộng, u viễn,
chẳng phải là thiển cận!
2.3. Tông
thú
Sớ:
Ba là tông thú chỉ quy, có Tổng, có Biệt.
Tổng là lấy “nhớ Phật, niệm Phật” làm Tông, “thấy Phật, nhập Nhẫn,
tân cảnh viên thông” làm Thú.
Biệt gồm năm cặp:
1) Giáo nghĩa: Lấy giáo thuyết làm
Tông, lấy “khiến cho người nghe thấu đạt
ư nghĩa” làm Thú.
2) Sự lư: Lấy nêu sự tướng
làm Tông, giảng rơ lư làm Thú.
3) Cảnh trí: Lấy ba Phật cảnh
làm Tông, lấy hai quán trí làm Thú.
4) Hạnh vị: Lấy Tín, Hạnh,
Nguyện làm Tông, lấy nhập Bất Thoái làm Thú.
5) Nhân, quả: Lấy nhân và hạnh làm
Tông, lấy chứng đắc quả đức làm Thú.
Sao:
Chữ “ba là” dùng để
dẫn khởi nhằm giảng giải tông chỉ và chỗ
quy thú. Điều được kinh này đề xướng
th́ gọi là Tông, chỗ hướng đến của Tông
th́ gọi là Thú. Nếu chẳng nhận biết Tông th́ biết
quy hướng về đâu?
Từ chữ “có
Tổng” trở đi là phần giải thích ư nghĩa:
1) “Giáo thuyết”
chính là pháp môn Niệm Phật. “Thấu
đạt ư nghĩa” là hiểu thông suốt tâm cảnh
duyên niệm đă được giảng nói trong giáo pháp,
tức là [hiểu thấu đạt] những nghĩa
như sự cảm ứng giữa chúng sanh và Phật, nhiễm
mùi thơm, chứng nhập Nhẫn, tự, tha, sanh (sanh về
cơi Cực Lạc), độ (cơi nước) vậy.
2) “Sự lư”
trọn đủ các ư nghĩa, tức là đề cao các
chuyện thuộc về mặt Sự như niệm Phật
v.v… nhằm ư ǵ? Chính là v́ muốn tỏ rơ lư tột cùng “tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” vậy.
3) “Cảnh
trí” là những điều được chia chẻ dựa
theo mặt Lư. Cảnh chính là cái lư được quán. Trí
chính là cái tâm dùng để quán sát [lư ấy]. Ba thân viên dung
(Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân) của Phật (lời Sớ gọi
là “ba Phật cảnh”) là
chân cảnh. Sự nhất tâm và Lư nhất tâm (lời Sớ
gọi là “hai quán trí”) là chân
quán.
4) “Hạnh vị”
thuận theo trí mà khởi. Tín - Hạnh - Nguyện là ba món
tư lương. Bất Thoái là tin Tịnh Độ thoát
ĺa tam giới, đấy chính là Vị Bất Thoái. Nguyện
thấy Phật, niệm cái tâm của Phật, đấy
là Niệm Bất Thoái. Hành tịnh nghiệp, nhiếp thọ
người niệm Phật, đấy là Hạnh Bất
Thoái.
Thêm nữa, tin vào lời dạy của
Hóa Phật, vượt khỏi phàm phu, ngoại đạo,
đấy là Tín Bất Thoái. Nguyện đắc quả
như Báo Thân Phật, vượt khỏi cảnh Nhị
Thừa, đấy là Niệm Bất Thoái. Hạnh noi theo
Phật lư, vượt khỏi sự tu chứng của
địa vị Quyền Giáo, đấy là Hạnh Bất
Thoái. Khởi Tín Sớ giảng: “Nói
đại lược th́ có ba phẩm vị. Một là tín
hạnh (những hạnh thuộc địa vị Thập
Tín) chưa trọn, chưa thể
gọi là Bất Thoái, chỉ v́ ở nơi chẳng có
duyên gây lui sụt nên gọi Bất Thoái. Hai là tín hạnh
đă xong, nhập địa vị Thập Trụ,
được thấy Pháp Thân, trụ trong Chánh Định,
nên gọi là Bất Thoái. Ba là đă măn địa vị Tam
Hiền[33],
đă nhập Sơ Địa, chứng Pháp Thân trọn khắp,
sanh trong vô biên cơi Phật, nên gọi là Bất Thoái”. Do
Tín nên trở thành Tín Bất Thoái. Do Nguyện nên trở
thành Trụ Bất Thoái. Do Hạnh nên thành Vị Bất
Thoái.
Du Già Sư Địa Luận giảng: “[Thập] Trụ là Chứng Bất
Thoái. [Thập] Hạnh là Vị Bất Thoái. [Thập Hồi]
Hướng là Hành Bất Thoái. [Thập] Địa là Niệm
Bất Thoái”. Do Tín nên thành Chứng và Vị [Bất
Thoái], do Hạnh nên thành Hạnh Bất Thoái. Do Nguyện nên
thành Niệm Bất Thoái.
5) “Nhân quả”
là do Bất Thoái mà thành. Nếu nhân chẳng lui sụt th́ gọi
là Chân Nhân (nhân chân thật). Quả nếu chẳng lui sụt
th́ gọi là Chân Quả. Tín nguyện cơi Phật, thâu nhiếp
các căn, tịnh niệm, chính là nhân hạnh để
không bị lui sụt Bồ Đề. Đắc
tam-ma-địa, viên thông bậc nhất chính là chẳng lui
sụt nơi quả đức Bồ Đề vậy.
Kinh văn của chương Thế Chí
Niệm Phật Viên Thông này gồm ba tầng:
1) Nhớ nghĩ đức Phật là
nhân, trong hiện tại, tương lai sẽ thấy Phật
là quả.
2) Do niệm mà thấy được
thân cận Phật là nhân, tâm khai mở, được
Hương Quang Trang Nghiêm là quả.
3) Do niệm tâm nên chứng nhập Nhẫn
là nhân, nhiếp thọ người [niệm Phật] hướng
về Tịnh Độ là quả.
Năm cặp nhân quả như thế,
lần lượt làm nhân cho nhau để sanh khởi.
2.4. Thích đề mục (giải
thích tựa đề kinh)
Sớ: Bốn là giải thích tựa đề,
có bốn cặp ư nghĩa:
1. Ư nghĩa Tổng và Biệt, nghĩa
là: Ba chữ Lăng Nghiêm Kinh chính là tổng xưng v́ nói tới
trọn bộ kinh vậy. Bảy chữ “Thế Chí Bồ
Tát Niệm Phật Viên Thông Chương” là danh hiệu
riêng, v́ chỉ hạn cuộc trong một chương này
mà thôi!
2. Giáo nghĩa: Trong phần Biệt
Xưng (danh xưng riêng) đă nói trên đây, phân ra thành hai
loại giáo nghĩa, tức là: Một chữ Chương
chính là giáo pháp nhằm giảng dạy, c̣n sáu chữ “Thế
Chí Niệm Phật Viên Thông” chính là nghĩa được
giảng bởi giáo pháp ấy.
3. Quả nhân: Trong nghĩa trên đây, lại
tách ra một cặp ư nghĩa như sau: Viên Thông là quả,
là cảnh được chứng, Thế Chí Niệm Phật
là nhân, v́ đấy là chủ thể tu quán.
4. Nhân, pháp: Trong phần nhân vừa
được nói ở trên đây, lại chia ra thành một
cặp ư nghĩa như sau: Niệm Phật là pháp, tức
là pháp được nhận lănh. Thế Chí là người,
tức là người có thể hoằng truyền [pháp ấy].
Căn cứ vào bốn cặp nghĩa
này để đặt tên cho chương này vậy.
Sao: Chữ “bốn
là’ là chữ để giới thiệu ư nghĩa. Từ
chữ “có bốn cặp” trở
đi là phần giải nghĩa, câu này dùng để liệt
kê [các ư nghĩa]. Câu “một là”
để giải thích.
Trong phần Tổng Xưng (tên gọi
chung của toàn bộ kinh này) cũng có một cặp ư nghĩa.
Lăng Nghiêm là nghĩa hạn cuộc, c̣n chữ Kinh là giáo
pháp, là nghĩa chung; nay chẳng tŕnh bày những nghĩa ấy
v́ sợ rườm rà. Chương thuộc về chủ
thể giảng nói (năng thuyên), nghĩa là: Chương
là văn tự viên thông, chương kinh này dạy về
pháp Niệm Phật, thuộc về cặp ư nghĩa “quả
nhân” mà cũng có thể nói là thuộc về cặp ư nghĩa
“cảnh trí” [như trong phần Sớ đă phán định].
Viên Thông là Cảnh, Niệm Phật là Trí; mà cũng có thể
phán định là Chân - Tục, Lư - Sự, Tánh - Tu, thuộc
về cặp ư nghĩa Tịch Hạnh. Viên Thông là Lư tánh của
Chân, vốn lặng lẽ. Thế Chí Niệm Phật là Tục,
thuộc về chuyện tu hành trên mặt Sự.
Từ chữ “bốn
là” trở đi, trong pháp Niệm Phật nếu niệm
Biến Hóa Phật chứ không phải là niệm Thọ Dụng
Phật (tức là niệm Hóa
Phật) th́ là Tiểu Giáo. Niệm
Thọ Dụng Phật chứ không niệm Biến Hóa Phật
(tức niệm Báo Thân của
đức Phật trong tự tâm) th́ là Chung Giáo. Niệm cả thân Biến Hóa lẫn
thân Thọ Dụng (tức là
niệm Năng Báo) th́ là Thỉ
Giáo. Niệm chẳng phải Thọ Dụng, chẳng phải
Biến Hóa Phật (tức là
niệm Pháp Thân) th́ là Đốn
Giáo. Niệm viên thông vô chướng ngại Phật (tức là niệm trọn đủ
mười thân của Phật[34]) th́ là Viên Giáo.
“Thế
Chí là người”: Hễ
đắc Ứng Hóa Phật lực th́ là Thế Chí trong Tiểu
Giáo, đắc Công Đức Phật lực th́ là Thế
Chí trong Thỉ Giáo, đắc Trí Huệ Phật lực th́
là Thế Chí trong Chung Giáo (hai loại
này thuộc về Báo Thân Phật) đắc Như Như Phật lực (Pháp Thân Phật) là Thế Chí trong Đốn Giáo, đắc vô tận
Phật lực (mười
thân Phật) là Thế Chí trong
Viên Giáo.
Ở đây cũng chỉ là ước
theo giáo để giải thích đại lược, trong
những đoạn sau sẽ giải thích tường tận.
Qua những điều tŕnh bày trên đây, biết
được rằng trong cái tên của kinh này đă nêu
bày nhân (người) lẫn pháp, nhân lẫn quả cùng phô
bày, lư tận, nghĩa trọn. Do vậy, đem cái tên ấy
đặt ở đầu chương kinh này.
2.5. Giải
thích kinh văn
Gồm có ba phần:
- Tŕnh bày về Thể để
nghĩa lư của kinh được minh bạch.
- Phần thuật bày sở chứng
[của Đại Thế Chí Bồ Tát]
- Kết luận để
đáp câu hỏi về pháp Viên Thông.
2.5.1. Tŕnh bày về Thể
để nghĩa lư của kinh được minh bạch
Chánh kinh: Đại Thế Chí pháp vương tử dữ kỳ
đồng luân ngũ thập nhị Bồ Tát, tức tùng
ṭa khởi, đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn.
(Đại Thế Chí pháp vương tử,
cùng với những người cùng hàng với ngài gồm
năm mươi hai vị Bồ Tát liền từ ṭa ngồi
đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật,
bạch Phật rằng)
Sớ:
Tiếng Phạn là Ma Ha Na Bát (Mahā-sthāma-prāpta), ở cơi này (Trung
Hoa) dịch là Đại Thế Chí. Kinh Tư Ích[35]
chép: “Chỗ tôi đặt chân
xuống, chấn động tam thiên đại thiên thế
giới và cung điện của Ma, nên tên là Đại Thế
Chí”. Quán kinh cho biết: “Lúc
vị Bồ Tát này đi, hết thảy mọi thứ
trong mười phương thế giới đều chấn
động. Lúc Bồ Tát này ngồi, cơi nước bảy
báu cùng lúc lay động. Ngài c̣n có tên là Đắc Đại Thế
Chí”. Kinh Bi Hoa chép: “Nguyện
thế giới của tôi giống như thế giới của
Quán Thế Âm chẳng sai khác”. Bảo Tạng Phật[36]
nói: “Do nguyện của ông nhận
lấy khắp cả cơi đại thiên, nay ta sẽ đặt
tên cho ông là Đắc Đại Thế, cũng gọi là Vô Biên
Quang”. Quán kinh chép: “Dùng trí huệ
quang chiếu khắp hết thảy, khiến cho chúng sanh
ĺa tam đồ, được sức vô thượng”.
Nếu dựa theo bản kinh Lăng
Nghiêm này th́ Ngài có thể niệm vị Phật có thế lực
lớn lao, có thể nhiếp phục vọng niệm
nơi sáu căn, có thể tiếp độ người
niệm Phật, cho nên có tên là Thế Chí vậy. Nhờ vào
vị Bồ Tát này phát khởi để biểu thị ư:
Pháp môn Niệm Phật có thể phát sanh trí quang, đạt
được thế lực lớn lao, ĺa khỏi sự
khổ trong ba cơi, đạt được sự vui
sướng nơi Tịnh Độ.
Do tự tại đối với pháp
nên gọi là “pháp vương”. Từ pháp hóa sanh th́ gọi
là “tử” (con). Kinh Bi Hoa chép: “Trong
cái nhân thuở quá khứ, lúc Phật Di Đà làm Luân
Vương, Quán Âm là con trưởng, Thế Chí là con thứ.
Nay tại Cực Lạc, [Quán Âm và Thế Chí] ở hai bên
đức Phật, giúp Ngài giáo hóa hết thảy. Rồi sẽ
kế vị làm Phật nên gọi là Pháp Vương Tử”.
“Dữ” (cùng) nghĩa là chung với. “Luân” là loại (cùng loại,
giống nhau). Thanh khí tương ứng nên gọi là “đồng
loại”
“Ngũ thập
nhị” (năm mươi
hai) là con số nhằm biểu thị một môn Niệm
Phật của ngài Thế Chí có phạm vi nhiếp hóa
năm mươi hai địa vị thuộc các pháp hạnh
như Thập Tín v.v...
“Bồ
Tát” nói đủ là Bồ
Đề Tát Đỏa. Ngài Tăng Triệu giảng: “Bồ Đề là tên của Phật
đạo, Tát Đỏa dịch sang tiếng Hán là Đại
Tâm Chúng Sanh. Có cái tâm lớn lao để nhập Phật
đạo nên gọi là Bồ Đề Tát Đỏa”.
Ngài Hiền Đạo giảng: “Cơi
này dịch Bồ Đề là Giác, c̣n Tát Đỏa
được cơi này dịch là Chúng Sanh. Do trên là dùng Trí
để cầu Bồ Đề, dưới là dùng Bi
để cứu chúng sanh, nên gọi Bồ Đề Tát
Đỏa”.
“Tùng ṭa khởi” (Từ ṭa ngồi đứng dậy):
Tôn ty thầy tṛ, danh phận theo thứ tự. Hễ có việc
thưa bày, chẳng nên ngồi nói.
“Đảnh lễ
Phật túc” (đảnh lễ
dưới chân Phật): Dùng đỉnh đầu lễ
sát dưới chân Phật nhằm tỏ ḷng thành kính tới
hết mức. Những điều trên đây (tức từ
ṭa ngồi đứng dậy và đảnh lễ dưới
chân Phật) đều là thân nghiệp.
“Bạch
Phật”: Người trên
nói th́ gọi là Cáo (bảo ban), người dưới
thưa th́ gọi là Bạch. Đây là khẩu nghiệp.
Thân và khẩu cung kính th́ sẽ biết ư
nghiệp [đương nhiên phải cung kính].
Sao:
Từ chữ “tiếng Phạn”
trở đi là lời giải thích về tên người.
1) Trước hết, trong phần giảng
về danh hiệu của ngài Thế Chí th́:
- Đầu tiên, trong phần xét theo mặt
Hạnh th́ lời Sớ đă luận về phương
diện tu tự hạnh của ngài Thế Chí. Do có oai thế
của Trí Đoạn[37]
nên có thể chấn động hết thảy.
- Từ chữ “c̣n có tên ” trở đi là ư kế tiếp: Xét theo
mặt Nguyện, đức Thế Chí trên cầu Phật
đạo. Do có thế lực của tưởng niệm
nên có thể giữ lấy, chứng đắc Tịnh
Độ.
- Từ chữ “cũng gọi là Vô Biên Quang” trở đi, là ư thứ
ba: Xét theo mặt Bi, ngài Thế Chí dưới độ
chúng sanh. Do có thế lực hóa độ, dẫn dắt,
nên Ngài có thể cứu bạt tam đồ. Hai ư đầu
là tự lợi, c̣n ư này là lợi người.
“Nếu y
vào bổn kinh này”: Trên
đây đă dựa theo các kinh để giải thích danh hiệu
của Thế Chí Bồ Tát, c̣n đến đây chỉ hạn
cuộc trong kinh này (tức kinh Lăng Nghiêm) để giải
thích. Ba câu từ chữ “có thể
niệm” trở đi (tức “có thể niệm vị Phật có thế lực lớn
lao, có thể nhiếp phục vọng niệm nơi sáu
căn, có thể tiếp độ người niệm Phật”)
cũng ước theo ba nghĩa “trên cầu, giữa tu,
dưới độ” để giải thích:
- Từ ngữ “đại thế Phật” (vị Phật có thế
lực lớn lao) chỉ Phật Di Đà. Trong thập
phương tam thế Phật, Phật Di Đà là bậc nhất.
- “Có thể
niệm”: Chẳng giống như chúng sanh chẳng cầu
đại thế Phật và đoạn pháp khổ.
- “Có thể
nhiếp”: Chẳng giống như chúng sanh sáu căn nắm
níu sáu trần.
- “Có thể
tiếp độ”: Chẳng giống như chúng sanh tự
lợi, chẳng thể chịu nhọc nhằn thay cho
người khác.
Do có ba đức lớn lao như thế
ấy nên oai thế đạt đến mức cùng cực.
Bồ Tát danh xứng với Thật, chúng sanh không cách nào biết
được nổi!
2) Từ chữ “do tự tại đối với pháp” trở
đi là ư kế tiếp [nhằm giải thích từ ngữ]
“pháp vương tử”:
- Do tự tại nên gọi là
Vương, v́ vua có nghĩa là tự tại.
- Nghĩa kế tiếp là Ngài sẽ kế
vị làm Phật. Trong cơi ấy (tức cơi Cực Lạc),
sau Phật Di Đà, Quán Âm sẽ nối ngôi. Sau Quán Âm, ngài Thế
Chí sẽ nối ngôi. Ví như Thái Tử, tạm ở Đông
Cung, sau này ắt sẽ xoay mặt về hướng Nam[38],
nối ngôi vua vậy.
3) Từ chữ “dữ” trở đi, là ư thứ ba. “Dữ kỳ đồng luân”
(Cùng với những vị có cùng hạnh với Ngài). Kinh Dịch
có câu: “Đồng thanh tương
ứng, đồng khí tương cầu” nên nói “thanh khí tương ứng”. Nếu
dựa theo kinh Hoa Nghiêm th́ do có tám mươi bốn thứ
giống nhau nên gọi là “đồng loại” như đă
chép trong quyển bảy mươi ba (bắt đầu là Niệm, Huệ,
Thú, Giác, cho đến cuối cùng là Bất Hư, Xuất
Ly). Do vậy, ở đây chẳng
sao lục chi tiết! Đạo chẳng đồng th́ chẳng
thể cùng bàn tính với nhau. Người đồng tâm
nói với nhau, thơm tho như hoa lan, cho nên mới bảo
là “dữ kỳ đồng
luân” (cùng với những người cùng hạnh).
4) Từ chữ “năm mươi hai” trở đi là ư thứ
tư, luận về năm mươi hai địa vị:
- Tin “Phật là tâm”, tin “tâm làm Phật” là
hạnh thuộc về pháp Thập Tín.
- Trụ trong tam-muội để quán Thật
Tướng của Phật là hạnh thuộc về pháp
Thập Trụ.
- Tu hành hạnh Niệm Phật, độ
người niệm Phật là hạnh thuộc về pháp
Thập Hạnh.
- Xoay trở lại niệm đức
Phật trong tâm, hướng về tâm của Phật để
trụ th́ chính là hạnh thuộc về pháp Thập Hướng
(Thập Hồi Hướng).
- Tâm địa quán Phật, địa vị
giống như địa vị Phật là hạnh thuộc
về pháp Thập Địa.
- Nhớ Phật, niệm Phật, cách Phật
chẳng xa chính là hạnh thuộc về pháp Đẳng
Giác.
- Lúc tâm tưởng Phật, tâm này chính
là Phật th́ chính là hạnh thuộc về pháp Diệu
Giác.
Do vậy, biết rằng: Để
siêu phàm nhập thánh, chỉ có pháp Niệm Phật là mầu
nhiệm mà thôi!
5) Từ chữ “Bồ Tát” trở đi là ư thứ năm: Giải
thích ư nghĩa của chữ Bồ Tát:
- Nghĩa đầu tiên là ước
theo tâm để giải thích, tức là nếu có thể nhớ
Phật như thế sẽ liền thành đại đạo
tâm chúng sanh, nên gọi là Bồ Tát.
- Nghĩa kế tiếp là ước
theo cảnh để giải thích, tức là dùng cái tâm niệm
Phật để trên cầu sự giác ngộ của Phật,
dưới hóa độ hữu t́nh th́ gọi là Bồ Tát.
6) Từ câu “Từ
ṭa ngồi đứng dậy” trở đi là lời giải
thích về sự lễ kính, ư nghĩa dễ nhận biết.
Nói cách khác, nếu ư chẳng cung kính th́ thân chẳng rời
chỗ, miệng chẳng thốt lời. Dùng thân để
lễ, dùng miệng để bạch đều do ư làm chủ.
Cho nên tam nghiệp đều phải cung kính, nhằm hiển
thị: Niệm Phật là pháp hy hữu, hết thảy thế
gian khó tin tưởng vậy.
2.5.2. Phần
thuật bày sở chứng [của Đại Thế Chí Bồ
Tát]
Gồm hai phần:
- Trước
hết, dẫn bày rơ ràng sự giáo hóa của cổ Phật.
- Kế đó, lược thuật
sự tu hành của chính ḿnh.
2.5.2.1. Dẫn
bày rơ ràng sự giáo hóa của cổ Phật.
Gồm hai phần:
- Trước hết, kể rơ tên chư
Phật xuất thế
- Tiếp đấy, thuật bày lời
dạy dỗ riêng biệt.
2.5.2.1.1. Kể rơ tên chư Phật
xuất thế
Chánh kinh:
Ngă ức văng tích hằng hà sa kiếp, hữu
Phật xuất thế, danh Vô Lượng Quang, thập nhị
Như Lai tương kế nhất kiếp. Kỳ tối
hậu Phật, danh Siêu Nhật Nguyệt Quang.
(Con nhớ trong hằng hà sa kiếp
xưa kia, có đức Phật xuất thế tên là Vô
Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai liên tiếp
[xuất hiện] trong cùng một kiếp. Vị Phật cuối
cùng tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang).
Sớ: Chữ “Ngă”
chỉ cho Pháp Thân, chẳng giống với “Ngă” trong cách so đo của phàm t́nh. Nhớ rơ ràng
chẳng quên gọi là “Ức”.
Quá khứ th́ gọi là “văng
tích”. “Hằng hà sa kiếp”
là ước theo số cát trong sông Hằng để tính số
kiếp, minh thị thời gian đă rất lâu xa vậy.
Chữ Phật Đà (Buddha) trong tiếng
Phạn cơi này dịch là Giác Giả, giác ngộ cho kẻ
chưa giác, nêu ra đại lược ba nghĩa:
1) Tự ḿnh giác ngộ Ngă Không, do nghĩa
này nên Phật khác với phàm phu, ngoại đạo.
2) Làm cho người giác ngộ Pháp Không
(các pháp là Không), do nghĩa này nên Phật khác với Nhị
Thừa.
3) Ba là giác măn đều không, do nghĩa
này nên Phật khác với Bồ Tát.
“Xuất
thế”: Không hợp với
căn cơ bèn chẳng hiện, hễ căn cơ thuần
thục liền hiện.
“Như
Lai’: Từ Chân Như khởi
đến thành Chánh Giác.
“Mười
hai”: Theo kinh Đại Di Đà (kinh
Vô Lượng Thọ), danh hiệu của mười hai vị
Phật là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật,
Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm
Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ
Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật,
Nan Tư Quang Phật, Vô Xứng Quang Phật, Siêu Nhật
Nguyệt Quang Phật.
Vô Lượng là Thật Trí chiếu Lư
chẳng có hạn lượng. Vô Biên là Quyền Trí chiếu
Sự chẳng có ngằn mé. Vô Ngại là Từ quang ban vui
không chướng ngại. Vô Đối là Bi quang dẹp khổ,
không chi có thể chống cự được! Viêm
Vương là quang minh lẫn âm thanh ứng hóa tự tại.
Thanh Tịnh là trong sạch ĺa cấu, tỏa quang minh. Hoan
Hỷ là khiến cho người thọ dụng sanh ḷng vui
mừng lớn lao. Trí Huệ là dùng đại trí huệ
để phá các Hoặc (phiền năo). Bất Đoạn
là ánh sáng thường c̣n, chẳng đoạn dứt. Nan
Tư là bổn quang chẳng thể nghĩ bàn được!
Vô Xứng: Tỏa ra trăm ánh sáng báu chẳng thể nêu kể
được. Siêu Nhật Nguyệt Quang là phóng hết thảy
ánh sáng, vượt trỗi mặt trời, mặt
trăng. Mười hai vị danh hiệu này đều có
chữ Quang v́ trong khi tu nhân, do niệm Bổn Giác Phật
mà tâm quang được tỏa rạng. Xét đến khi
chứng quả, trở thành Diệu Giác Phật liền hiện
khởi thân quang (quang minh nơi thân) vậy.
“Thập
nhị Như Lai tương kế nhất kiếp” (Mười hai vị Như Lai liên tiếp
[xuất hiện] trong cùng một kiếp):
1) Ước theo năng niệm (chủ
thể niệm Phật) th́ điều này nhằm biểu
thị cái hạnh. Trong mười hai thời, tịnh niệm
nối tiếp nghĩ nhớ đức Phật trong tự
tánh Phật, tạo thành một phiến, chẳng để
cho cái tâm nghĩ tới Ngũ Dục của thế gian dẫu
chỉ trong khoảng khảy ngón tay th́ vô lượng tánh
quang tự nhiên tỏa rạng.
2) Nếu luận theo sở đắc
th́ điều này biểu thị sự chuyển được
mười hai loại chúng sanh thành mười hai thánh vị,
chuyển mười hai Xứ của vọng tưởng
thành mười hai Xứ nơi Phật đức (phẩm
đức của Phật).
Nhưng mười hai đức Phật
ấy là cổ Như Lai, chứ chẳng phải là Di Đà
ngày nay, mà danh hiệu của họ giống với [các danh
hiệu khác của] A Di Đà Phật là do thầy tṛ cùng một
đạo, xưa nay chẳng khác, giống như Thích Ca,
Quán Âm vậy.
Sao: Từ chữ “Ngă” trở đi, gồm hai câu giải thích. Ngă có
bốn thứ:
1. Cái Ngă tà vạy chấp vào kiến giải.
2. Cái Ngă ta-người kiêu mạn.
3. Cái Ngă giả dối chỉ tồn tại
trên danh tự.
4. Cái Ngă chân thật, tức Pháp Thân.
Người đời có đủ cả
hai cái Ngă tà vạy và kiêu mạn. Người học đạo
có những cái Ngă tà mạn, giả dối, c̣n thánh nhân chỉ
có Ngă giả dối và cái Ngă chân thật. Nay ngài Thế Chí
là bậc Pháp Thân đại sĩ, chẳng giống như
Tam Thừa nên chỉ là Chân Ngă.
“Hằng
hà” c̣n gọi là sông Căng
Già (Gange), cơi này dịch nghĩa là Thiên Đường Lai
(từ cơi trời đổ xuống) do sông từ trên cao
đổ xuống, từ ao Vô Nhiệt Năo[39]
chảy ra, rộng bốn mươi dặm, cát mịn
như bột ḿ. Đức Phật thuyết pháp ở Kỳ
Viên, do giảng đường gần bên sông nên hễ nói
tới điều ǵ nhiều, Ngài thường lấy
đó làm thí dụ.
“Kiếp”, tiếng Phạn là Kiếp-ba (kalpa), cơi
này dịch là “phân biệt thời phần”. Câu Xá Luận giảng:
“Phần cực nhỏ của
thời gian gọi là sát-na, thời gian cực dài gọi là
Kiếp”. Nay lấy cát để ví dụ Kiếp th́ dễ
thấy là rất dài lâu.
Từ “chữ
Phật Đà trong tiếng Phạn” trở đi, gồm
sáu câu, [trong ấy] Thỉ Giác và Bổn Giác[40] hợp
nhất th́ gọi là “giác măn”.
Ngă lẫn pháp đều hết sạch nên bảo là “đều không”.
Từ chữ “Đại Di Đà” trở đi là phần trích dẫn kinh
[Vô Lượng Thọ]. Từ chữ “vô lượng” trở đi là giải thích ư nghĩa
[của mười hai danh hiệu]. Danh hiệu chư Phật
dùng những ư nghĩa hoặc thí dụ để nêu sự
chứng đắc của từng vị Phật chẳng
giống nhau: Dùng nhân, hoặc quả, hoặc tánh, hoặc
tướng, hoặc bi trí, hoặc nguyện hạnh [để
lập danh hiệu]. Mười hai vị Phật này đều
dùng Quang để xưng danh.
Quang vốn có hai thứ: Một là trí
quang, hai là thân quang. Lại có hai nghĩa: Một là thường
quang, hai là phóng quang. Lại có hai nhân: Một là công đức
trang nghiêm, hai là bổn nguyện thành tựu. Nay giải
thích danh hiệu của mười hai vị Phật, cũng
ước theo sáu nghĩa ấy: Hai danh hiệu đầu
dựa theo hai trí (tức Thật Trí và Quyền Trí), danh hiệu
thứ ba, danh hiệu thứ tư là ước theo hai tâm
(Từ và Bi), thuộc về hai nhân [vừa được
nói trên đây]. Danh hiệu thứ năm, thứ sáu, thứ
bảy, thứ tám, ước theo bốn thân: Danh hiệu
thứ năm là Hóa Phật, danh hiệu thứ sáu là Pháp
Thân, danh hiệu thứ bảy là Tha Thọ Dụng Thân,
danh hiệu thứ tám là Tự Thọ Dụng thân. Tức
là như trong kinh Lăng Già [gọi bốn thân này bằng
các từ ngữ] Ứng Hóa Phật, Như Như Phật,
Công Đức Phật, và Trí Huệ Phật. Danh hiệu thứ
chín và thứ mười là thường quang. Danh hiệu
thứ mười một và mười hai là phóng quang.
Câu “đức
Phật trong tự tánh” ngụ ư: Niệm đức Phật
ngay trong tự tánh. “Chẳng
để cho cái tâm nghĩ tới ngũ dục của thế
gian” là như Quán kinh đă dạy: “Phàm niệm Phật th́ chẳng được trong
khoảng khảy ngón tay nghĩ tới ngũ dục trong
cơi đời”. Câu này hàm ư sự hệ niệm. Nếu
có thể vượt thoát [Ngũ Dục] được
như thế, không một chút gián đoạn xen tạp nào
th́ vô lượng Phật quang nơi tự tánh sẽ tỏa
rạng hoàn toàn, vượt trỗi cả mặt trời,
mặt trăng.
“Mười
hai loài chúng sanh” chính là Thai
Sanh (sanh bằng thai), Noăn Sanh (sanh bằng trứng), Thấp
Sanh (sanh nơi ẩm ướt), Hóa Sanh (sanh bằng sự
biến hóa, như chư Thiên, địa ngục), có h́nh sắc
(chư thiên thuộc Sắc Giới), không h́nh sắc
(chư Thiên thuộc Vô Sắc Giới), có tâm tưởng,
không tâm tưởng, chẳng phải có sắc, chẳng phải
vô sắc, chẳng phải có tưởng, chẳng phải
vô tưởng.
“Mười
hai thánh vị” là Càn, Tín, Trụ,
Hạnh, Hướng, Noăn, Đảnh, Nhẫn, Thế,
Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. “Vô tiệm vị” là như kinh dạy: Từ
đây tiệm tu (tu dần dần) tùy theo hạnh đă
phát mà an lập thánh vị như trong quyển bảy và tám
của kinh Lăng Nghiêm đă giảng rơ.
“Mười
hai vọng tưởng” là vọng
tưởng nơi sáu Căn và sáu Trần. Kinh dạy: “Sáu thứ vọng tưởng rối
loạn biến thành nghiệp tánh nên do đây mà lần
lượt phân chia thành mười hai thứ”. V́ thế, [sáu trần là] Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp trong thế gian biến thành mười hai thứ,
đến cùng tận lại biến chuyển trở
lại từ đầu.
“Mười
hai đức tánh của Phật” chính là công đức của sáu Căn và sáu Trần.
Kinh dạy: “Tổng quát từ
đầu đến cuối, trong sáu Căn mỗi một
Căn đều có công đức, mỗi Căn có một
ngàn hai trăm công đức” như quyển thứ
tư và quyển thứ bảy của kinh Lăng Nghiêm
đă giảng rơ.
Từ chữ “nhưng mười hai đức Phật” trở
đi nhằm giải quyết sự chất vấn. Nếu
có ai vặn rằng: “Theo
như kinh Đại Bổn (Vô Lượng Thọ) th́ mười
hai danh hiệu Phật ấy chính là những danh hiệu
khác của Vô Lượng Thọ Phật, chỉ có một
thân Phật, sao ở đây lại nói có mười hai
đức Phật nối tiếp nhau xuất thế?”
Cho nên ở đây phải đáp rằng: Chư Phật
trùng tên rất nhiều. Do vậy, mười hai đức
Phật ở đây là chư Phật trong quá khứ, chứ
chẳng phải là vị Phật do ngài Pháp Tạng tu thành
trong hiện tại. [Người ta lại vặn tiếp]:
Nếu như thế, v́ sao ǵ tên hiện nay lại lạm
dùng danh hiệu của cổ Phật vậy? V́ thế, lại
phải giải thích như sau: Di Đà, Thế Chí phát tâm cùng một
lúc, đức Phật được hai vị tôn làm thầy
cũng cùng là một vị, chẳng khác nhau. Mười
hai biệt hiệu hiện thời của Phật Di Đà giống
với danh hiệu [của mười hai vị] cổ Phật
nhằm biểu thị rơ ràng: Thầy tṛ truyền thừa
cái đạo “tâm chính là Phật,
Phật chính là tâm” giống hệt như nhau. Ví như
đức Thích Ca lập hiệu trong hiện tại là phỏng
theo danh hiệu của đức cổ Phật Thích Ca. Tên
ngài Quán Âm ngày nay cũng là phỏng theo cổ Phật Quán
Âm. V́ vậy, kinh Đại Bổn Di Đà chép: “Qua vô lượng cơi Phật, những vị Phật
có cùng tên là Thích Ca cũng chẳng thể đếm xuể!”
Như vậy th́ danh hiệu của Vô Lượng Thọ
Phật có tới trăm ngàn vạn ức vị Phật
chẳng thể cùng tận, há phải chỉ có một vị
Phật ư?
2.5.2.1.2.
Thuật bày lời dạy dỗ riêng biệt
Gồm hai tiểu đoạn:
- Nêu danh hiệu của pháp Viên Thông
- Giải thích ư nghĩa
2.5.2.1.2.1. Nêu danh hiệu của
pháp Viên Thông:
Chánh kinh: Bỉ Phật giáo ngă Niệm Phật
tam-muội.
(Các đức Phật ấy dạy con
Niệm Phật tam-muội)
Sớ: “Bỉ Phật”
(Các đức Phật ấy) là mười hai vị Phật.
Dùng lời lẽ để chỉ bày th́ gọi là “giáo” (dạy). Nói tới “niệm Phật” là nếu xét
theo cách niệm trên mặt Sự th́: Tâm nhớ tưởng
sẽ gọi là “niệm”; tam thân tiếp dẫn là Phật.
Như vậy th́ kẻ niệm là chính ḿnh, đối
tượng được niệm là Phật. Nếu xét
theo cách niệm trên mặt Lư th́ niệm chính là Thỉ Giác,
Phật là Bổn Giác. Đem Thỉ hợp với Bổn
th́ gọi là “niệm Phật”.
Niệm Phật có bốn pháp:
1) Xưng danh, tức là nghe nói danh hiệu
Phật, một ḷng xưng niệm.
2) Quán tượng, tức là thiết lập
tôn tượng, mắt nh́n chăm chú chiêm ngưỡng.
3) Quán tưởng, tức là dùng tâm nhăn của
ta để quán tưởng đức Như Lai ấy.
4) Thật tướng, tức là niệm
đức Phật trong tự tánh, trong chân thật tướng.
Pháp thứ nhất và thứ hai là Sự
Pháp Giới Quán, do tâm chính là Phật vậy. Pháp thứ
tư là Lư Pháp Giới Quán, bởi Phật chính là tâm. Pháp thứ
ba là Lư Sự Vô Ngại Pháp Giới Quán bởi “tâm này là Phật,
Phật này là tâm” vậy.
Thêm nữa, ngài Thanh Lương nói: “Ước theo cái tâm để
niệm th́ chẳng ngoài năm thứ:
- Một
là môn niệm Phật duyên tưởng cảnh giới.
- Hai là môn
niệm Phật nhiếp cảnh duy tâm.
- Ba là môn
niệm Phật tâm cảnh vô ngại.
- Bốn
là môn niệm Phật tâm lẫn cảnh đều tuyệt
diệt.
- Năm là
môn niệm Phật các thứ vô tận”.
Nay phối hợp với ư tưởng
này để nói th́ môn thứ nhất gồm hai pháp đầu
trong phần trên, tức là Tiểu Thừa Giáo. Môn thứ
hai tức là pháp thứ tư vừa được nói
trong đoạn trên, tức là Thỉ Giáo. Môn thứ ba tức
là pháp thứ ba vừa được nói trong đoạn
trên, tức là Chung Giáo. Không có pháp nào đă nói ở trên thuộc
về môn thứ tư và thứ năm, tức là Đốn
Giáo và Viên Giáo. Nay trong kinh văn này, ước theo lời
Phật dạy th́ pháp này (tức pháp Niệm Phật Viên
Thông của Đại Thế Chí Bồ Tát) trọn đủ
cả môn thứ tư và thứ năm. Ước theo
căn cơ nhận lănh th́ chỉ hạn cục trong Tŕ
Danh, nhưng pháp Tŕ Danh này lại bao gồm cả Viên lẫn
Đốn, chứ không chỉ hạn cuộc trong Tiểu;
[cho nên] cũng tách ra thành năm môn:
1) Môn tŕ niệm danh hiệu Phật: Do ở
ngoài tâm có danh hiệu Phật, đấy chính là Tiểu
Giáo, thuộc về Sự Pháp Giới Quán.
2) Môn thâu nhiếp danh hiệu quy về
tâm: Danh hiệu Phật chỉ là do tâm hiện, cho nên môn này
là Thỉ Giáo, thuộc về Lư Pháp Giới Quán.
3) Môn tâm và danh hiệu Phật đều
dung thông: V́ tâm chính là Phật, Phật chính là tâm nên môn này thuộc
về Chung Giáo.
4) Môn tâm lẫn danh hiệu đều
tuyệt diệt: V́ chẳng phải là tâm, chẳng phải
là Phật nên là Đốn Giáo, thuộc về Lư Sự Vô
Ngại Pháp Giới Quán.
5) Môn viên thông vô tận: Do tâm trong một
niệm, một danh hiệu Phật dung chứa trọn
pháp giới chẳng cùng tận nên là Viên Giáo, thuộc về
Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới Quán.
Tiếng Phạn Tam-muội (Samādhi), cơi này dịch là
Chánh Định, cũng dịch là Chánh Tư, Chánh Tâm Hành Xứ.
Nhất tâm niệm Phật th́ gọi là Chánh Định
Tâm. Nếu nghĩ đến điều nào khác th́ gọi
là Tà Tư Duy. Tam-muội là tên chung của Thiền Quán. Niệm
Phật là tên riêng của một hạnh. Pháp Niệm Phật
tam-muội này c̣n gọi là Nhất Hạnh tam-muội, cũng
gọi là Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, Bát Nhă
tam-muội, hay Phổ Đẳng tam-muội.
Sao: Từ chữ “nói tới niệm Phật”’ trở đi, lời
Sớ giải thích hai chữ Niệm Phật. Từ chữ
“Niệm Phật có bốn pháp”
trở đi giảng rơ ràng về pháp môn Niệm Phật.
“Xưng
danh” là như kinh Văn Thù
Bát Nhă đă dạy: “Chúng sanh
ngu độn chẳng thể hiểu được Quán,
chỉ làm sao cho tiếng niệm Phật liên tục sẽ
tự được văng sanh”, kinh Di Đà dạy: “Nghe nói A Di Đà Phật, chấp tŕ
danh hiệu”.
Pháp quán tượng gồm hai loại:
- Một là quán tướng hảo, quang
minh của đức Phật hiện tại như kinh
Pháp Hoa chép: “Đứng dậy, chắp
tay, nhất tâm quán Phật”.
- Hai là quán tượng Phật vẽ vời,
khắc, đắp, tô đúc như vua Ưu Điền dùng
Chiên Đàn làm tượng Phật vậy.
“Quán tưởng” là như Thập Lục Quán Kinh đă dạy:
“Chư Phật Như Lai là pháp
giới thân vào trong tâm tưởng hết thảy chúng sanh.
V́ thế, lúc tâm tưởng Phật, tâm này chính là ba
mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp
phụ”.
“Thật
tướng” là như kinh
Quán Phật Tam Muội chép: “Đức
Phật bảo A Nan: Trụ nơi niệm Phật th́ tâm ấn
chẳng hoại”. Nghĩa là: Biết rơ đúng thật
tự tâm th́ gọi là niệm Phật. Như như bất
động th́ gọi là chẳng hoại. [Trong kinh Hoa
Nghiêm] trưởng giả Giải Thoát[41]
nói: “Ta muốn thấy A Di Đà Phật
trong Cực Lạc thế giới, tùy ư liền thấy” chính
là nói về ư này.
Từ chữ “pháp
thứ nhất, pháp thứ hai” trở đi là phân định
bốn cách niệm Phật dựa theo từng pháp quán vậy.
Nếu dựa trên sáu căn th́ Xưng Danh thuộc về
tai và lưỡi, Quán Tượng thuộc mắt và thân,
Quán Tưởng thuộc mũi và ư, Thật Tướng gồm
trọn sáu căn. Do vậy, một môn Niệm Phật
tam-muội đối với sáu căn không căn nào chẳng
thâu nhiếp.
Từ chữ “thêm
nữa, ngài Thanh Lương” trở đi, dẫn lời
cổ nhân để giảng rơ năm môn. “Duyên cảnh”: Xưng Danh lẫn Quán Tượng
đều thuộc ngoại cảnh. “Duy tâm”: Tướng tốt của y báo lẫn
chánh báo đều chỉ là do tâm tạo ra. “Vô ngại”: Chiếu soi cả Sự lẫn Lư. “Đều tuyệt diệt”: Ĺa
tướng giống như hư không. “Vô tận”: Trong hết thảy thời, xứ, cảnh,
niệm, thấy trọn khắp mười thân của
Như Lai.
Từ chữ “nay phối hợp với ư tưởng này” trở
đi là phối hợp cách giải thích của cổ đức
với cách giải thích hiện thời. Hơn nữa, Đại
Sớ giảng: “Cổ nhân
đă có năm môn:
1) Môn
xưng danh văng sanh niệm Phật.
2) Môn quán
tượng diệt tội niệm Phật.
3) Môn nhiếp
cảnh duy tâm niệm Phật.
4) Môn tâm cảnh
vô ngại niệm Phật.
5) Môn duyên
khởi viên thông niệm Phật”.
Năm môn này tuy tên hay tuyệt, nhưng
phần giải thích ư nghĩa chẳng trọn vẹn nên
nay tôi thay đổi. Nếu muốn thấu hiểu cặn
kẽ th́ môn thứ nhất và môn thứ hai thuộc vào hai
môn Duyên Cảnh, Vô Ngại, đồng thời cũng thuộc
môn “đều tuyệt diệt”
của ngài Thanh Lương. Môn [duyên khởi] viên thông [trong
Đại Sớ] chính là môn [viên thông] vô tận [của ngài
Thanh Lương]. Nói Tiểu Giáo v.v... là ước theo bốn
pháp niệm Phật trong phần trước (tức Tŕ
Danh, Quán Tưởng, Quán Tượng, Thật Tướng)
để nói, đấy là căn cứ theo pháp Quán; c̣n
năm môn này (tức xưng danh, quán tượng, nhiếp
cảnh, tâm cảnh vô ngại và duyên khởi viên thông) là
ước theo Giáo. Hai cách giải thích này soi rọi lẫn
nhau, cứ suy ra sẽ biết.
Từ chữ “nay
trong kinh văn này” trở đi chính là ước theo bốn
cách niệm Phật và năm môn niệm Phật [như vừa
mới nói trong phần trên] để phán định kinh
này. “Lời Phật dạy”
chính là lời dạy của mười hai vị Như
Lai. “Bao gồm cả môn thứ
tư và thứ năm” là như trong đoạn sau sẽ
giải thích: Nhớ Phật, niệm Phật không thuộc
riêng một môn nào. Từ ngữ “căn
cơ nhận lănh” chỉ ngài Thế Chí. “Hạn cục trong Tŕ Danh”: Trong phần kinh
văn “Phật hỏi pháp Viên
Thông” sẽ được giảng trong phần sau mới
nói tới “tịnh niệm tiếp
nối”, tức là nhằm chỉ ra pháp [của Đại
Thế Chí Bồ Tát sẽ dạy trong chương kinh này
là pháp] Tŕ Danh; do vậy mới hỏi: V́ sao ngài Thế Chí
chẳng chỉ dạy chung các pháp Niệm Phật, [mà lại
chỉ dạy riêng một pháp Tŕ Danh]?
Đáp: Tuy Niệm Phật tam-muội
được cổ đức gọi là đường
tắt, nhưng pháp Tŕ Danh lại là con đường tắt
nhất trong những đường tắt. Cớ sao? Bởi
lẽ, Quán Tượng th́ nếu bỏ tượng đi
sẽ lại trở thành không [quán được], do vậy
trở thành gián đoạn. Quán Tưởng th́ tâm thô, cảnh
tế, pháp Quán mầu nhiệm khó thành. Đối với Thật
Tướng Niệm Phật th́ chúng sanh chướng nặng,
giải ngộ ít ỏi, đối với chỗ vô tận
th́ cảnh giới sâu rộng, làm sao gánh vác được?
Chỉ có pháp Tŕ Danh này là giản tiện, nhanh chóng nhất.
Chỉ cần niệm được liên tục liền
có thể văng sanh. Như ngựa Kư phi nước đại
(chỉ các môn Niệm Phật
khác) tuy bỏ xa các loài ngựa
khác (tức các môn tu hành khác) vẫn chẳng bằng rồng bay (tức pháp Tŕ Danh Niệm Phật). Như chim hạc (tức các pháp Niệm Phật) bay bổng tuy đă vượt xa các
loài chim tầm thường (tức
các pháp môn khác), vẫn chẳng
bằng đại bàng (tức
pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật)
bay vút lên. V́ thế, ngài Long Thọ viết trong Tỳ Bà Sa
Luận: “Phật pháp có vô
lượng môn giống như đường đi trong
thế gian có khó, có dễ. Ví như người thọt
chân, đi đường bộ th́ khổ sở, một ngày
chẳng đi hơn vài dặm, nếu theo đường
thủy ngồi thuyền th́ vui vẻ, trong khoảnh khắc
đă vượt ngàn dặm. Dễ đi mau đến,
hăy nên niệm Phật, xưng danh hiệu Ngài là v́ Phật
đă có bổn nguyện như thế”.
Hỏi: Phật có vô lượng công
đức, một danh hiệu khó thể bao gồm hết,
huống chi Thật Tướng đă ĺa tướng danh tự,
sao lại chuyên xưng danh?
Đáp: Đối với y báo, chánh báo của
cơi Cực Lạc, hễ nói đến Phật liền trọn
khắp. Đối với biển công đức của
Phật, chỉ cần nêu danh hiệu đă trọn gồm.
Kinh dạy: “Lời lẽ
để ứng xử trong thế gian đều chẳng
trái nghịch Thật Tướng”. Há lẽ nào vạn
đức hồng danh chẳng chính là Thật Tướng
hay sao?
Từ chữ “nhưng
pháp Tŕ Danh này” trở đi, lời Sớ minh thị một
lần nữa: Pháp Tŕ Danh bao quát giáo pháp Tiểu Thừa lẫn
Đại Thừa! Bất luận lợi căn hay độn
căn đều có thể y theo pháp này để tu hành.
Từ ngữ “Chánh
Định” hàm ư phân định: Ngoại trừ Niệm
Phật ra, những thứ khác đều gọi là Tà Định.
“Chánh
Tư”: Đối với cảnh
được niệm, chánh trực suy xét. Chánh là chọn
lựa, t́m cầu. Tư là suy nghĩ để phân biệt
đâu là hôn trầm.
“Chánh Tâm
Hành Xứ” chính là cảnh
để tâm Chánh Định duyên vào, khác với cảnh
được nhận lănh tà vạy bởi vô minh. [Chánh Tâm
Hành Xứ] c̣n gọi là Điều Trực Định. [Gọi
là Điều Trực Định nhằm ngụ ư] do chúng
sanh cong vạy tán loạn nên đức Phật dùng các môn
tam-muội sửa cho ngay cái cong vạy, uốn nắn cho
đúng cái tán loạn đó.
Nói “tên chung của
Thiền Quán” là v́ như trong Trí Độ Luận đă giảng:
“Hết thảy Thiền Định
nhiếp tâm đều gọi tam-muội”.
Có hai cách giải thích câu “tên riêng của một hạnh”:
1) Một là nói tới một hạnh
trong vạn hạnh, như trong các kinh hoặc gọi Chân
Như Hải Ấn Đức Tạng là tam-muội, hoặc
coi Như Huyễn Ngữ Ngôn Pháp Giới là tam-muội, hoặc
hiểu là hữu duyên, hữu tướng, vô đắc,
vô tranh v.v...
2) Hai là chỉ Niệm Phật tam-muội.
Kinh Văn Thù Bát Nhă chép: “Phật
bảo Văn Thù: Muốn nhập Nhất Hạnh tam-muội,
nên ở chốn thanh vắng, bỏ các loạn ư, chẳng
giữ lấy tướng mạo, buộc tâm vào một vị
Phật, chuyên xưng danh hiệu của Ngài, tùy theo Ngài ở
phương vị nào bèn ngồi ngay ngắn hướng
thẳng về đó. Nếu có thể đối với một
đức Phật, niệm niệm tiếp nối th́ ngay
trong niệm ấy sẽ có thể thấy được
quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật. Niệm
công đức của một đức Phật chẳng
khác ǵ niệm công đức của vô lượng chư
Phật”. Nếu đắc Nhất Hạnh tam-muội
th́ đối với các pháp môn trong hết thảy các kinh
đều hiểu rơ.
Hỏi: Ở đây dạy niệm Phật
là niệm mười phương Phật hay là niệm A
Di Đà Phật?
Đáp: Chỉ niệm A Di Đà Phật. Do
mười hai vị Như Lai có cùng tên với A Di Đà Phật.
Trong đoạn sau của chánh kinh có nói: “Nhiếp người niệm Phật, quy về Tịnh
Độ”. Hơn nữa, ngài Phổ Quảng hỏi Phật:
“Trong mười phương
đều có cơi Phật, sao lại chỉ khen ḿnh cơi Tây
phương?” Phật dạy: “Người Diêm Phù Đề tâm nhiều tán loạn, dạy
họ chuyên tâm một cảnh họ sẽ được
văng sanh. Nếu niệm mười phương chư Phật,
cảnh nhiều, tâm tán, tam-muội chẳng thành”. Huống
chi, chư Phật có cùng một Pháp Thân, niệm một vị
Phật tức là niệm hết thảy chư Phật vậy.
Hỏi: V́ sao mười hai đức
Phật đều dạy ngài Thế Chí niệm danh hiệu
của chính ḿnh?
Đáp: Một là do bổn nguyện của
mười hai đức Như Lai là như thế. Như
trong hiện tại, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “[Chúng sanh nào] nghe danh hiệu của
tôi, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng
được văng sanh, sẽ chẳng giữ ngôi Chánh
Giác”. Hai là dạy niệm danh hiệu của mười
hai vị Phật chính là dạy niệm mười hai biệt
hiệu của cổ Phật Di Đà. Giống như nay Pháp Tạng
dạy niệm Vô Lượng Thọ Phật tức là dạy
niệm từ Vô Lượng Quang cho đến Siêu Nhật
Nguyệt Quang.
Từ chữ “cũng
gọi là” trở đi, lời sớ nêu các tên khác [của
Niệm Phật tam-muội], ước theo ư nghĩa phối
hợp với giáo [để đặt tên]. Niệm Phật
là Tiểu Giáo. Bát Nhă là Thỉ Giáo. Phật Hiện là Chung
Giáo, Nhất Hạnh là Đốn Giáo, Phổ Đẳng
là Viên Giáo. Cứ theo đúng lư mà suy ra.
Lăng
Nghiêm Kinh Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ
Sao, Quyển Thượng hết
[1] Đại sư Tục Pháp (1641-1728) là
cao tăng đời Thanh, người huyện Nhân Ḥa (nay
là Hàng Châu), tỉnh Chiết Giang, họ Trầm, pháp tự
là Bách Đ́nh, hiệu là Quán Đảnh. Ngài c̣n có tên là Thành
Pháp. Năm lên chín tuổi xuất gia với ngài Minh Nguyên
chùa Từ Vân ở núi Thiên Trúc, Hàng Châu. Mười chín tuổi
thọ Cụ Túc Giới, hai mươi tuổi liền tập
giảng kinh. Năm 27 tuổi, được ngài Minh Nguyên
phó chúc trở thành pháp tôn đời thứ năm của Tổ
Liên Tŕ Châu Hoằng. Sư nghiên cứu trọn khắp các
kinh điển, dung hội mọi thuyết, chẳng câu nệ
một pháp nào. Mỗi khi nhóm chúng thuyết pháp, thính chúng tụ
tập đông nghẹt, cực thịnh một thời.
Ngài lần lượt trụ tŕ các chùa Từ Vân, Sùng Thọ,
Thượng Thiên Trúc. Các đệ tử truyền pháp
như Bồi Phong, Từ Duệ, Chánh Trung, Thiên Hoài đều
lừng danh. Ngài để lại các tác phẩm như Hiền
Thủ Ngũ Giáo Nghi, Viên Giác Chiết Nghĩa Sớ, Hoa
Nghiêm Tông Phật Tổ Truyện v.v… hơn sáu trăm quyển.
[2] Tứ Trọng (gọi đủ là Tứ
Trọng Cấm Giới hoặc Tứ Trọng Tội, hay
Tứ Ba La Di) là bốn trọng tội căn bản không
được vi phạm, tức là sát sanh, trộm cắp,
tà dâm, vọng ngữ. Ba La Di (pārājika) là một trong bảy tiểu loại
Giới của luật tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni. Giới
này c̣n được phiên là Ba La Thị Ca, Ba La Xa Dĩ Ca,
dịch nghĩa là Cực Ác, Trọng Cấm, Đọa,
Đoạn Đầu (đứt đầu), Vô Dư
(không c̣n sót), Khí (vứt bỏ). Người tu hành phạm
phải những giới cấm này sẽ không c̣n đủ
tư cách là tăng sĩ nữa, phải bị trục xuất
khỏi tăng đoàn, chết đọa địa ngục.
Nội dung giới này xoay quanh Tứ Trọng như vừa
nói trên đây.
[3] Tam Tai: ba tai nạn lớn khi thế giới
sắp bước vào kiếp Hoại: Thủy Tai, Hỏa
Tai và Phong Tai.
Bát
nạn (Astāvaksanāh): Tám
thứ chướng nạn gồm: Sanh trong địa ngục,
sanh trong loài ngạ quỷ, đọa làm súc sanh, sanh trong chốn
Biên Địa hoặc sanh vào châu Uất Đan Việt
(trong châu này quá sướng, tuổi thọ quá dài, nên không
có ḷng mong muốn tu tập), tàn tật (đui, ngọng,
câm, điếc), Thế Trí Biện Thông, và sanh trước
Phật hay sau Phật. Nếu hiểu đặc biệt
theo nghĩa thọ giới của Tăng sĩ (như
trong Tứ Phần Luật đă quy định) th́ tám nạn
là tám thứ chướng nạn khiến tăng chúng không
thể thọ giới, tụng giới hay Tự Tứ
được tức là nạn vua, nạn giặc cướp,
lụt lội, hỏa tai, bệnh tật, bị kẻ xấu
quấy nhiễu, bị phi nhân ngăn trở, bị độc
trùng ngăn trở.
[4] Sư dùng chữ “Tông Trí” trong nguyên
văn. Trí là đạt đến, giống với ư nghĩa
chữ Thú trong cách phán định Ngũ Trùng Huyền Nghĩa
thông thường nên chúng tôi dùng chữ Thú cho giống với
phần sau.
[5] Sớ: Lời giải thích chánh kinh gọi
là Sớ, phần giải thích lời Sớ gọi là Sao.
[6] “Thể” là thể tánh (bản thể, bản
chất). Thể tánh của một bản kinh được
gọi là Giáo Thể, đôi khi c̣n gọi một cách tổng
quát là Lư Thể. Theo pháp sư Bân Tông: “Ĺa hết thảy các tướng th́ gọi là Tánh;
chỗ hết thảy các nghĩa quy về gọi là Lư. Nghĩa
trọng yếu của các pháp gọi là Thể”. Phô bày minh bạch yếu chỉ của một
bản kinh, nêu rơ chỗ quy hướng của các giáo nghĩa
được dạy trong kinh ấy th́ gọi là “hiển
thể”. Nói một cách khác, “hiển thể” một bản
kinh chính là minh định chân lư nào sẽ được
phô diễn bởi bản kinh ấy.
[7] Tướng (Laksana), có nghĩa là h́nh
tướng hoặc trạng thái của các pháp. Nói cách khác,
Tướng là những ǵ có thể nhận thức
được bằng giác quan hay suy tưởng. Trong cách
phán định kinh điển, Tướng có nghĩa là những
phạm vi tác động của một pháp môn hay một bản
kinh hoặc phạm vi bao trùm các pháp sẽ được
diễn tả bằng bản kinh ấy.
[8] Đế (satya) có nghĩa là chân thật,
không dối, chỉ cho sự thật vĩnh viễn không
biến đổi, Đế chính là tên gọi khác của
chân lư. Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 17 giảng: “Các Lư pháp do đức Như Lai
đă nói chân thật chẳng dối nên gọi là Đế”.
[9] Tướng độ: Cơi Tịnh Độ
được nhận biết qua mặt sự tướng,
tức các cơi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện
Hữu Dư.
[10] Như (Tathā)
c̣n gọi là Như Như, Chân Như, Như Thật, chính
là bản tánh chân thật bất biến của hết thảy
vạn vật. Bởi lẽ, vạn vật tuy có đủ
mọi tánh chất khác biệt, nhưng
những tánh chất chỉ là những tánh riêng biệt
được cảm nhận qua lăng kính chấp
trước chứ không phải là thật sự có. Hết
thảy mọi vật đều lấy Không làm Thể nên
bản tánh (thật tánh) của các pháp được gọi
là Pháp Tánh, hoặc Chân Như hoặc Thật Tế.
[11] Tức bộ Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ của đại sư Thanh
Lương Trừng Quán.
[12] A-tăng-kỳ (Asamkhya) c̣n được
phiên âm là A Tăng Xí Da, Tăng Kỳ, dịch nghĩa là Bất
Khả Toán Số, Vô Lượng Số, hoặc Vô
Ương Số. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm. Một
A-tăng-kỳ là một ngàn vạn vạn vạn vạn
vạn vạn vạn vạn vạn triệu (chín chữ Vạn).
Thế nhưng, theo Đại Tỳ Bà Sa Luận, quyển
177, lại có ba loại A-tăng-kỳ:
1.
Kiếp A-tăng-kỳ lấy một kiếp làm một
A-tăng-kỳ.
2.
Sanh A-tăng-kỳ tức là trong mỗi một kiếp trải
quả vô số đời.
3.
Diệu hạnh A-tăng-kỳ tức là trong mỗi một
kiếp tu hành vô số diệu hạnh.
Luận
Tỳ Bà Sa cho rằng hành nhân phải tu tập trọn
đủ cả ba loại A-tăng kỳ như thế mới
thành Vô Thượng Chánh Giác. Do vậy, ngoài cách giải
thích thông thường “tam A-tăng-kỳ là thời gian tu tập
trải qua ba A-tăng-kỳ”, c̣n có qua điểm giải
thích “tam kỳ” chính là tu tập trọn đủ ba loại
A-tăng-kỳ như luận Tỳ Bà Sa đă giảng.
[13] A Già Đà (Agada) c̣n phiên là A Yết
Đà hoặc A Kiệt Đà, có nghĩa là Kiện Khang,
Trường Sanh Bất Tử, Vô Bệnh, Phổ Khứ
(trừ khử khắp mọi thứ bệnh), Vô Giá là một
loại thuốc linh nghiệm có khả năng trị mọi
thứ bệnh.
[14] Theo phẩm Tỳ Lô Giá Na (tức phẩm
thứ sáu) kinh Hoa Nghiêm, vào đời quá khứ, trong thế
giới Thắng Âm thuộc thế giới hải Phổ
Môn Tịnh Quang Minh có rừng Ma Ni Hoa Chi Luân, trong rừng ấy
có đạo tràng tên Bảo Hoa Biến Chiếu, trong đạo
tràng ấy lần lượt mười Tu Di sơn vi trần
số Như Lai xuất hiện trong cơi đời. Đức
Phật thứ nhất tên là Nhất Thiết Công Đức
Sơn Tu Di Thắng Vân. Khi ấy, Đại Oai Quang là thái
tử của Chuyển Luân Vương Hỷ Kiến Thiện
Huệ, do thấy quang minh liền chứng đắc
mười thứ pháp môn. Sau đó, nghe Phật giảng
pháp bèn chứng vô tận môn tam-muội.
[15] Đây là hai mươi mốt môn Niệm
Phật giải thoát được ngài Đức Vân tỳ-kheo
nói tới trong phẩm Nhập Pháp Giới kinh Hoa Nghiêm khi
Thiện Tài đến học hỏi về pháp giải
thoát. Hai mươi mốt môn Niệm Phật ấy chính là
Trí Quang Phổ Chiếu Niệm Phật, Linh Nhất Thiết
Chúng Sanh Niệm Phật, Linh An Trụ Lực Niệm Phật,
Linh An Trụ Pháp Niệm Phật, Chiếu Diệu Chư
Phương Niệm Phật, Nhập Bất Khả Kiến
Xứ Niệm Phật, Trụ Ư Chư Kiếp Niệm
Phật, Trụ Nhất Thiết Thời Niệm Phật,
Trụ Nhất Thiết Sát Niệm Phật, Trụ Nhất
Thiết Thế Niệm Phật, Trụ Nhất Thiết Cảnh
Niệm Phật, Trụ Tịch Diệt Niệm Phật,
Trụ Viễn Ly Niệm Phật, Trụ Quảng Đại
Niệm Phật, Trụ Vi Tế Niệm Phật, Trụ
Trang Nghiêm Niệm Phật, Trụ Năng Sự Niệm Phật,
Trụ Tự Tại Niệm Phật, Trụ Tự Nghiệp
Niệm Phật, Trụ Thần Biến Niệm Phật,
Trụ Hư Không Niệm Phật.
[16] Thủy Thanh Châu là một loại ngọc
theo truyền thuyết có khả năng khiến cho nước
đục biến thành trong. Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự có đoạn nói về Thủy Thanh Châu như
sau: “Thanh châu đầu ư
trược thủy, trược thủy bất đắc
bất thanh. Niệm Phật đầu ư loạn tâm, loạn
tâm bất đắc bất Phật. Tây thiên hữu bảo,
danh viết Thanh Châu. Vị thử châu đầu nhập
trược thủy trung, nhập thủy nhất thốn,
tắc nhất thốn chi trược thủy tức tiện
thanh khiết. Thử châu nhập thủy, tự thốn
chí xích, năi chí ư để, tắc trược thủy
diệc tùy chi nhi trừng trạm” (Thanh châu gieo vào nước
đục, nước đục chẳng thể không
trong; niệm Phật gieo vào tâm loạn, tâm loạn không thể
không thành tâm Phật. Tây Vực có vật báu tên là Thanh Châu.
Loại châu này gieo vào nước đục, ch́m xuống
nước một tấc th́ một tấc nước
đục liền thành thanh khiết. Châu ấy gieo vào
nước từ tấc tới thước, cho đến
tận đáy th́ nước đục cũng lặng
trong theo.)
[17] Tùy Thuận Nhẫn (Anulomikī-dharma-ksānti)
là tên gọi khác của Nhu Thuận Nhẫn. Nhẫn này c̣n
có tên gọi khác là Tư Duy Nhu Thuận Nhẫn, hàm nghĩa
Huệ tâm nhu nhuyễn, có thể tùy thuận chân lư. Nói cách
khác, Nhu Thuận là tâm mềm mỏng, trí thuận thảo,
chẳng trái nghịch lư Thật Tướng. Nhẫn là an
trụ nơi địa vị ấy. Trong bài giảng về
cuốn Di Đà Sớ Sao Diễn Nghĩa, Ḥa Thượng
Tịnh Không giảng khái niệm này rất dễ hiểu
như sau: “Tùy Thuận Nhận
là đối với hết thảy sự việc, quan hệ,
hoàn cảnh đều có thể tùy thuận, tức là không
khởi lên phân biệt, chấp trước”.
[18] Khải giáo: khơi gợi, giảng giải
giáo pháp hoặc là người thỉnh cầu Phật, Bồ
Tát, thiện tri thức giảng giải giáo pháp.
[19] Tam khoa là Uẩn, Xứ, Giới (hay c̣n
gọi là Ấm, Nhập, Giới), tức:
1.
Ngũ Uẩn.
2.
Thập Nhị Xứ (Thập Nhị Nhập) tức sáu Căn phối hợp với sáu Trần (Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc).
3. Thập Bát Giới: tức đem sáu căn phối
hợp với sáu trần và sáu thức.
[20] Theo kinh Lăng Nghiêm, Sắc Pháp và Tâm
Pháp xét về thể tánh chia ra thành bảy loại lớn
(Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức).
Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không là thể tánh của
Sắc Pháp. Đại có nghĩa là trọn khắp pháp giới.
Vạn pháp sanh thành chẳng rời khỏi bốn Đại
đầu, nương vào hư không (Không đại) để
kiến lập. Do Kiến mà cảm nhận, do Thức mà
hay biết. Năm Đại đầu, phi t́nh cũng có,
nhưng hai Đại sau chỉ hữu t́nh mới có. Nói
cách khác, Địa là tánh chất cứng chắc, Hỏa
là tánh chất ấm áp, Thủy là tánh chất thấm ướt,
Phong là tánh chất di động, Không là tánh chất không
ngăn ngại, Kiến đại là tánh cảm nhận,
hiểu biết, Thức đại là tánh phân biệt.
Năm Đại đầu thuộc về Lục Cảnh,
Kiến Đại nương tựa vào Ư căn, Thức
Đại nương tựa vào sáu thức (theo từ
điển Phật Quang Sơn).
[21] Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha) chỉ bổn tánh thanh tịnh
Như Lai Pháp Thân (tự tánh thanh tịnh) ẩn kín trong cái
tâm phiền năo của chúng sanh, chẳng bị phiền năo
ô nhiễm, trọn đủ bản tánh vĩnh viễn bất
biến tuyệt đối thanh tịnh. Do ẩn kín,
chưa hiển lộ nên gọi là Tạng.
[22] Chỉ (Śamatha),
c̣n phiên âm là Xa Ma Tha, hoặc Sá Ma Tha, hoặc dịch là Chỉ
Tịch, Đẳng Quán, là danh xưng khác của Thiền
Định. Chỉ có nghĩa là dứt hết mọi suy
lường, dồn tâm chuyên chú vào một cảnh. Từ
khái niệm này tông Thiên Thai đem phối hợp với
Không, Giả, Trung lập ra ba thứ Chỉ, rồi lại
phân biệt ra rất nhiều môn Chỉ rất phức tạp,
sợ phiền phức nên không ghi vào đây.
[23] Thanh (Śabda)
là những âm thanh, là đối tượng cảm nhận
của Nhĩ Căn, là một trong sáu trần.
Danh
(Nāman) là danh xưng. Duy Thức Học giải
thích Danh là những âm thanh xưng hô có tác dụng khiến
cho người nghe h́nh dung được h́nh tướng
của sự vật. Do mỗi một Danh thường
liên quan đến một nội dung xác định nên c̣n gọi
là “danh nghĩa”. Câu Xá Luận c̣n chia Danh ra những khái niệm
Danh, Danh Thân, Đa Danh Thân như sau: Những từ ngữ
chỉ có một chữ th́ gọi là Danh như Sắc,
Hương v.v… Những từ ngữ gồm hai chữ gộp
lại th́ gọi là Danh Thân, ba chữ trở lên th́ gọi
là Đa Danh Thân.
Cú
nghĩa (Padārtha): những nghĩa
lư được phân biệt, chọn lựa dựa theo từng
câu nói, hay những nghĩa lư được tŕnh bày bởi
một câu nói. Một cách giải thích khác là: Cú là quan niệm,
tức những sự vật được hiển thị
trong nội dung của quan niệm ấy gọi là Nghĩa.
Khái niệm Cú Nghĩa rất gần với khái niệm “phạm
trù” trong triết học Tây Phương. Triết học Ấn
Độ cũng gọi những loại lớn trong cách
phân loại những nguyên lư, đặc tánh của sự vật
là Cú Nghĩa. Chẳng hạn phái Thắng Luận chia những
nguyên lư của vạn hữu thành mười Cú Nghĩa.
Do
Thanh, Danh, Cú Nghĩa đều nằm trong phạm vi đối
đăi, c̣n phân biệt, chưa đạt đến mức
độ Pháp Không nên chỉ được coi là thuộc
phạm vi Tiểu Thừa.
[24] Tức bốn đại châu: Diêm Phù,
Tây Ngưu, Đông Thắng và Bắc Câu.
[25] Nguyên văn “Đao thuyền” một loại
thuyền nhỏ có h́nh dáng thon dài như chiếc dao thường
dùng để bơi trong sông nhỏ.
[26] Thọ Dụng Phật là chính là Thọ
Dụng Thân (Sambhoga-kāya)
của Phật. Tức là thân viên măn hết thảy công
đức, trụ trong cơi nước thuần tịnh,
thường hưởng pháp lạc nên gọi là Thọ Dụng,
chia thành hai loại:
1.
Tự Thọ Dụng: tức thân Phật vô biên công đức,
sắc thân thường trọn khắp, vô lượng
phước trí để hưởng dụng pháp lạc,
c̣n gọi là Thật Trí thân, do thức thứ tám vô lậu
tương ứng với Đại Viên Kính Trí biến
thành. Đây là thân cảm bởi sự tu các hạnh tự
lợi trong khi tu nhân. Do vậy, thân này c̣n gọi là Báo Thân.
2. Tha Thọ Dụng: thân công đức thanh tịnh
vi diệu do B́nh Đẳng Tánh trí biến hiện để
các căn tánh thuộc địa vị Thập Địa
chiêm ngưỡng được, khiến họ hưởng
thụ pháp lạc. Do vậy thân này đôi khi c̣n gọi là Ứng
Thân.
[27] Đây là các loại thuyền xưa phân
định theo quan tước, phẩm trật. Thuyền
của vua ngự gọi là Tạo Thuyền. Dùng bốn chiếc
kết lại th́ gọi là Duy
Thuyền, dành cho tước Hầu trở lên. Hai chiếc
kết lại gọi là Phương Thuyền, dành cho hàng
đại phu. Thuyền chỉ một chiếc th́ gọi
là Đặc Thuyền dành cho bậc nhân sĩ. Xin lưu ư
đừng hiểu lầm ư Ngài Tục Pháp, khi nói Tŕ Danh chỉ
là Thanh Văn thừa ở đây là nói cách Tŕ Danh thông
thường của pháp Thanh Văn, chứ không phải
pháp Tŕ Danh Niệm Phật Viên Thông của ngài Thế Chí.
[28] Tập Ấm là một quy chế theo đó con của quan lại
được thừa hưởng tước hiệu và
quan vị của cha sau khi cha đă mất. Theo quy chế từ
đời Minh, những người được tập
ấm gọi là Ấm Sinh chỉ được hưởng
tước hiệu, chứ không hưởng quan vị, và
được cho học Quốc Tử Giám rồi mới
bổ làm quan theo đúng khả năng.
[29] Đăng Địa: Bồ Tát đă
chứng từ địa vị Sơ Địa trở
lên.
[30] Tất Cánh Không (Atyanta-śūnyatā), c̣n dịch là Chí Cánh Không, là một trong
mười tám thứ Không được kinh Ma Ha Bát Nhă Ba
La Mật nói tới. Tất Cánh Không có nghĩa là các pháp rốt
ráo chẳng thể được, nhằm phá rỗng toang
các pháp chẳng c̣n để sót ǵ. Trí Độ Luận quyển
18 phân biệt giữa Tất Cánh Không và Tánh Không như sau:
Tất Cánh Không là không c̣n ǵ sót thừa, trong khi Tánh Không là bản
tánh vốn thường như thế. Nói cách khác, Tất
Cánh Không là chẳng chấp trước vào một vật
nào, ba đời thanh tịnh. Các pháp do các duyên ḥa hợp,
dường như có, nhưng nếu các duyên tách rời th́
chẳng có thể tánh, đó là Tánh Không.
[31] Hữu Tác: Có tạo tác, đối lập
với Vô Tác. Vô Tác không phải là không làm ǵ hết mà là làm
các thiện sự nhưng không chấp trước, không thấy
có người làm, hành vi được làm, không mong cầu
quả báo tốt đẹp v.v… Do Hữu Tác là chấp
trước, mong cầu nên quả báo của nó là hữu hạn,
nhỏ hẹp, nên mới nói “cuối cùng sẽ thành bại
hoại”
[32] Tứ Không (bốn thứ Không) có hai
cách hiểu:
1.
Theo Đại Phương Quảng Đại Tập Kinh
và Đại Phẩm Bát Nhă Kinh th́ Tứ Không nhằm để
phá sự chấp trước nơi Có của chúng sanh, gồm:
a.
Pháp Pháp Tướng Không (Pháp Tướng Không): Phá tướng
Có của các pháp như Ngũ Uẩn. Toàn bộ những
pháp hữu vi hay vô vi đều gọi là “pháp tướng”.
Pháp tướng ấy không có thật pháp, không có thực thể,
giống như ánh nắng dợn đầu Xuân, thấy
dường như có nước nhưng thật sự chẳng
có nước.
b.
Vô Pháp Vô Pháp Tướng Không (Vô Pháp Tướng Không): Phá trừ
kiến chấp thấy Vô Tướng. Vô Tướng vốn
không có thực thể, chỉ do phá trừ Hữu Tướng
mà thành lập, chứ không có tự tánh. Hữu Tướng
đă không th́ Vô Tướng cũng chẳng có tướng!
c.
Tự Pháp Tự Pháp Tướng Không (Tự Pháp Không): pháp
tánh và tự thể của hai thứ không trên đây vắng
lặng, chứ không phải v́ hành nhân gắng sức vận
dụng trí huệ để quán tưởng mà chúng trở
thành Không!
d.
Tha Pháp Tha Pháp Tướng Không (Tha Pháp Không): Chúng sanh tuy
trước đấy đă nghe nói về pháp tánh và pháp Thật
Tế, nhưng lại chấp trước rằng những
pháp hữu dư ở ngoài là có, nên gọi là Tha Pháp. Nay
để phá chấp bèn quán Chân Như trọn không có pháp
nào khác, không có tướng của pháp nào khác.
2.
Theo phẩm Pháp Cúng Dường trong kinh Duy Ma Cật th́ Tứ
Không là Không (pháp không có tướng nhất định), Vô
Tướng (pháp không có tướng nhân duyên), Vô Tác (pháp
không có tướng mà cũng chẳng tạo quả), Vô Khởi
(pháp không khởi lên).
[33] Tam Hiền: Ba địa vị trước
khi đạt đến Thập Địa, tức Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng.
[34] Thập thân là mười thân của
đức Như Lai như phẩm Ly Pháp Giới kinh Hoa
Nghiêm đă minh định: Bồ Đề thân (thân Phật
thị hiện tám tướng thành đạo), Nguyện
thân (thân Phật nguyện sanh vào trời Đâu Suất),
Hóa thân (thân sanh trong vương cung), Trụ Tŕ thân (thân xá-lợi
sau khi nhập diệt nhằm duy tŕ Phật pháp), Tướng
Hảo Trang Nghiêm thân (thân Phật có đủ vô lượng
tướng hảo trang nghiêm), Thế Lực thân (thân dùng từ
bi nhiếp khắp hết thảy chúng sanh), Như Ư thân
(thân hiện ra trước các Bồ Tát thuộc địa
vị địa tiền hay địa thượng),
Phước Đức thân (thân Phật thường trụ
trong tam muội), Trí thân (tức bốn Trí như Đại
Viên Kính Trí v.v…), Pháp Thân (bản tánh của Trí thân).
[35] Bản kinh này có tên gọi đầy
đủ là Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh (Viśesacintabrahma-pariprcchā), bốn quyển,
do ngài Cưu Ma La Thập dịch. Trong kinh này đức Phật
giảng cho các vị Bồ Tát và Tư Ích Phạm Thiên về
lư “các pháp không tịch”. Kinh này c̣n có các bản dịch khác với
danh xưng Tŕ Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh (do ngài Trúc
Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn), Thắng Tư Duy
Phạm Thiên Sở Vấn Kinh (do ngài Bồ Đề
Lưu Chi dịch vào thời Bắc Ngụy). Thiên Thân Bồ
Tát đă viết Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn
Kinh Luận (do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch) để
chú giải kinh này. Ngoài ra, kinh này c̣n các bản chú giải
khác như Tŕ Tâm Phạm Thiên Kinh Lược Giải (do ngài
Đạo An soạn), Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn
Kinh Giản Chú (do Viên Chứng soạn) v.v…
[36] Theo phẩm Đại Bố Thí và phẩm
Bồ Tát Thọ Kư của kinh Bi Hoa, trong hằng hà sa số
A Tăng Kỳ kiếp về quá khứ, có một thế
giới Phật tên là San Đề Lam, trong cơi ấy có Chuyển
Luân Vương tên Vô Tránh Niệm. Vua có
một đại thần tên là Bảo Hải rất tài
trí. Bảo Hải có một người con tên Bảo Tạng,
xuất gia trở thành Phật. Vua Vô Tránh Niệm cùng một
ngàn vương tử hoan hỷ nghe Phật giảng pháp,
bèn phát nguyện. Bảo Tạng Phật bèn thọ kư
cho vua sẽ thành Phật trong tương lai hiệu là A Di
Đà. Con trưởng của vua là thái tử Bất Thuấn
cũng phát ra thệ nguyện rộng lớn, được
Phật thọ kư sẽ thành Bồ Tát hiệu Quán Thế
Âm, làm Phật nối ngôi của A Di Đà Phật.
Vương tử thứ hai do được ngài Bảo Hải
khuyên lơn, cũng phát đại nguyện được
Phật đặt hiệu là Đắc Đại Thế
(một cách dịch khác của chữ Đại Thế
Chí), rồi thọ kư sẽ thành Phật sau khi ngài Quán Âm nhập
diệt. Các vương tử c̣n lại đều lần
lượt phát nguyện và được đặt các
danh hiệu như Văn Thù, Phổ Hiền v.v…
[37] Trí Đoạn: có thể hiểu theo hai
nghĩa:
1.
Dùng trí huệ Bát Nhă để đoạn trừ phiền
năo.
2.
Trí Đoạn là nói gộp của Trí Đức th́ gọi
là Đoạn Đức, tức Niết Bàn.
Theo ngu ư, ở đây phải hiểu Trí Đoạn
theo nghĩa thứ hai.
[38] Thời cổ coi ngồi ở hướng
Bắc ngoảnh mặt về phương Nam (“tọa Bắc
triều Nam” hoặc “Nam diện”) là tôn quư, nên thiên tử,
chư hầu, các đại phu khi tiếp bầy tôi đều
ngồi ở phương Bắc ngoảnh mặt về
phương Nam, nhằm tỏ sự tôn quư. Sau đời
Tần Thủy Hoàng chỉ ḿnh thiên tử được
quyền ngồi như thế.
[39] Vô Nhiệt Năo (Anavatapta) c̣n được
phiên âm là A Nậu Đạt, A Na Đạt hoặc A Na Bà
Đáp Đa, dịch nghĩa là Thanh Lương Tŕ hoặc
Vô Nhiệt Năo. Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận, quyển
15 và Câu Xá Luận quyển 11, ao này chính nằm ở phía Bắc
của Đại Tuyết Sơn, nằm phía Nam của
Hương Túy Sơn (nay là núi Kailana), kích thưóc rộng
đến tám trăm dặm, dùng bốn báu làm bờ. Ao này
là phát nguồn của bốn con sông Hằng, Tín Độ
(Sindhu), Phược Sô (Vaksa), và Tỷ Đa (Śītā). Nếu nh́n bằng mắt tục nhân, chỉ
thấy ao này là một vùng tuyết mênh mông vĩnh cửu.
[40] Thỉ Giác: do tu tập, dần dần
đoạn phá vọng nhiễm từ vô thủy đến
nay, thấu hiểu nguồn tâm vốn sẵn có, th́ gọi
là Thỉ Giác. Do tu hành theo thứ tự, đoạn trừ
vô minh, phiền năo, trở về với tánh thể thanh tịnh
nên gọi là Thỉ Giác (sự giác ngộ đến bây giờ
là lúc đă đoạn sạch mọi vô minh mới phát hiện).
C̣n Bổn Giác là sự giác ngộ sẵn có trong tự tâm,
tịch tĩnh, bất động, vô nhiễm gọi là Bổn
Giác. Nói cách khác, Thỉ Giác là sự giác ngộ do tu chứng,
nhận biết được Bổn Giác. C̣n Bổn Giác
là cái sẵn có, thường được gọi bằng
Tự Tánh Phật, Pháp Thân v.v… Đại Thừa Khởi
Tín Luận chia Thỉ Giác thành bốn địa vị:
1.
Bất Giác tức địa vị Thập Tín, tuy đă biết
do ác nghiệp chiêu cảm khổ quả, không c̣n tạo tác
sự ác nơi thân và miệng, nhưng
vẫn chưa sanh khởi được Đoạn Hoặc
trí.
2. Tương Tự Giác tức Nhị Thừa
thánh nhân và những vị Bồ Tát thuộc địa vị
Tam Hiền, tuy đă xa ĺa Ngă Chấp, nhận biết lư Ngă Không, nhưng vẫn chưa bỏ
được ư niệm phân biệt Pháp Chấp.
3.
Tùy Phận Giác: Từ bậc Sơ Địa đến Cửu
Địa, hiểu rơ hết thảy các pháp chỉ do tâm biến
hiện, nhưng chưa hiểu trọn vẹn lư Chân
Như Pháp Thân.
4.
Cứu Cánh Giác: Chính là Thập Địa Bồ Tát.
[41] Theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới,
Giải Thoát Trưởng Giả là vị thiện tri thức
thứ năm trong năm mươi ba vị thiện tri thức
mà Thiện Tài đồng tử đến tham học. Vị
trưởng giả này dạy cho Thiện Tài môn tam-muội
Như Lai Vô Ngại Trang Nghiêm Giải Thoát.