Lăng Nghiêm Kinh

Đại Thế Chí Bồ Tát

Niệm Phật Viên Thông Chương

Sớ Sao

楞嚴經大勢至菩薩

念佛圓通章疏鈔

Quyển Hạ

 

(dịch theo bản của Hoa Tạng Tịnh Tông Phật Học Hội,

ấn bản tháng Sáu năm Dân Quốc 80 (1991)

Đời Thanh, Triết Giang, Từ Vân Hương Nghiêm hành giả sa-môn Quán Đảnh Tục Pháp soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến và Huệ Trang

 

2.5.2.1.2.2. Giải thích ư nghĩa

 

Gồm hai phần

1. Tu nhân

2. Chứng quả

 

2.5.2.1.2.2.1. Tu nhân

 

Gồm hai phần:

1. Nêu thí dụ

2. Hợp lại để giảng pháp

 

2.5.2.1.2.2.1.1. Nêu thí dụ:

 

Gồm hai phần:

1. Thí dụ về hai người

2. Thí dụ về mẹ con

 

2.5.2.1.2.2.1.1.1. Thí dụ về hai người

 

Chánh kinh:

Thí như hữu nhân, nhất chuyên vi ức, nhất nhân chuyên vong. Như thị nhị nhân, nhược phùng bất phùng, hoặc kiến phi kiến. Nhị nhân tương ức, nhị ức niệm thâm. Như thị năi chí tùng sanh chí sanh, đồng ư h́nh ảnh, bất tương quai dị.

(Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế dù gặp mà như chẳng gặp, hoặc có thấy nhau cũng như không thấy. Hai người nhớ nhau, hai cái nhớ ấy càng sâu. Như thế cho đến từ đời này sang đời khác như h́nh với bóng chẳng hề trái nghịch, sai khác nhau)

 

Sớ: Trước hết thí dụ chỉ có một người nhớ th́ sẽ có sự chia ĺa. “Hữu nhân”: Chúng sanh và Phật được ví như hai người. “Nhất chuyên vi ức” (Một người chuyên nhớ): Ví như Phật nghĩ tới chúng sanh. “Nhất nhân chuyên vong” (một người chuyên quên) ví cho chúng sanh chẳng niệm Phật. “Nhược phùng bất phùng, hoặc kiến phi kiến” (Dù gặp mà như chẳng gặp, hoặc có thấy nhau cũng như không thấy): Do Phật chuyên nghĩ tới chúng sanh, chẳng lúc nào không ở trước chúng sanh mà nay [chúng sanh] chợt gặp, chợt thấy, nên nói “hoặc phùng, hoặc kiến” (hoặc gặp, hoặc thấy). Chúng sanh chuyên chẳng niệm Phật, tuy Phật ở ngay trước mặt chúng sanh mà vẫn bỏ qua chẳng thấy, nên nói “bất phùng, phi kiến” (cũng như chẳng thấy, chẳng gặp).

Từ chữ “nhị nhân” trở đi là thí dụ kế tiếp: Hai người cùng nhớ th́ chẳng chia ĺa. “Nhị nhân tương ức” (Hai người nhớ nhau): Ví như chúng sanh và Phật cùng niệm. “Nhị ức niệm thâm” (Hai cái nhớ ấy càng sâu): Sánh ví sự nghĩ nhớ ấy dẫu lâu ngày vẫn chẳng quên. “Như thị” là từ ngữ dùng để kết thúc thí dụ. “Năi chí” (cho đến) là từ ngữ nói tóm lược, tức là nói: Nếu có thể niệm như thế chắc chắn sẽ thường thấy nhau trong mọi lúc. “Tùng sanh chí sanh... bất tương quai dị” (Từ đời này qua đời khác... chẳng sai khác nhau): Ví von đời đời chẳng ĺa nhau vậy. “Đồng ư h́nh ảnh” (Như h́nh với bóng): Chúng sanh và Phật đời đời chẳng bỏ ĺa nhau, ví như h́nh và bóng không hề chống đối, khác biệt nhau!

 

Sao: Nói “Phật chuyên nhớ” là gồm hai ư:

1) Một là Phật có nguyện đại bi.

2) Hai là lúc Phật c̣n tu nhân, tự quả (quả vị của chính ḿnh) c̣n chưa viên măn mà đă niệm niệm chẳng bỏ chúng sanh, huống là sau khi Ngài đă đắc quả, há c̣n nghĩ chuyện ǵ khác hay sao? Như vậy th́ Phật nghĩ tới chúng sanh ân cần, khẩn thiết, không chi hơn được nữa!

“Chúng sanh chuyên quên” cũng có hai nghĩa:

1) Một là chúng sanh chẳng có Tín, Hạnh, Nguyện.

2) Hai là chúng sanh c̣n đang mê, bị khổ sở v́ Hoặc nghiệp trói buộc, Nhân quả cơi trời, cơi người c̣n chưa thể tu được, huống là Phật quả mà dễ đạt được ư? Như vậy là cái tâm niệm Phật bị vùi lấp, ẩn mất, chẳng thể phát ra.

“Hoặc phùng” (chợt gặp gỡ’) là chư Phật, Bồ Tát chẳng trái bổn nguyện, dạo trong cơi Sa Bà hóa độ khiến cho chúng sanh ngẫu nhiên được gặp gỡ, mà chúng sanh vẫn để lỡ dịp. Như gặp ngài Văn Thù chỉ thấy là một ông già hay bà già nghèo khổ v.v… Hoặc thấy được tướng mạo thật sự của Ngài cũng chẳng đạt được lợi ích nơi pháp. Đấy là v́ bị Hoặc nghiệp chướng ngại, che lấp liền lầm lẫn thấy tướng hèn kém. Như kẻ phước mỏng trông thấy vật báu, cho là rắn, là ếch, huống chi thánh hiền cố ư vờ ẩn giấu tướng thật ư? “Chúng sanh và Phật cùng niệm”: Chúng sanh niệm Phật giống như Phật nghĩ tới chúng sanh. “Nhớ lâu chẳng quên” là trong mỗi thời khắc luôn giữ trong ḷng, tuy trải qua nhiều năm lắm tháng cho tới khi chết đi vẫn chẳng quên vậy.

“Kết thúc phần thí dụ” th́ [thí dụ] chỉ cho sự nhớ nghĩ nhau sâu xa trong phần trên. “Từ ngữ tóm lược” nghĩa là không chỉ riêng trong một kiếp này thường được thấy Phật, mà cho đến những kiếp khác, đến cùng tột đời vị lai vẫn thường được thấy Phật. “Chống đối” là trái nghịch, “khác biệt” là rời ĺa.

“H́nh với bóng”: Nêu đại lược một việc để sánh ví sự chẳng ĺa. [Nói chi tiết hơn th́] như âm thanh và tiếng vọng, nước và sóng, gương và h́nh, đều chẳng thể rời ĺa nhau. Hơn nữa, h́nh và bóng này, gần th́ để đối ứng với thí dụ trong đoạn kinh tiếp theo cho phù hợp với ư nghĩa của đoạn kinh văn nhằm chỉ rơ sự lợi ích do được thấy Phật; xa là đối ứng với ư chứng quả của đoạn kinh văn trong phần sau nhằm minh thị hai sự lợi ích: Thấy Phật và thành Phật (Trong hiện tại và tương lai thấy Phật là một lợi ích; tâm mở mang, phát khởi giống như nhiễm mùi hương là lợi ích thứ hai).

Do vậy, ứng theo ư này, có thể giải thích như sau: Nhất tâm niệm Phật như thế th́ tâm đồng với Phật. Tâm đồng th́ h́nh cũng đồng. H́nh đồng th́ bóng cũng đồng. Chẳng phải chỉ trong đời này mà trong đời đời kiếp kiếp, h́nh và bóng đều đồng. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Dung mạo giống như Phật, tâm tướng cũng đồng. Thân tâm hợp thành, nên gọi là Pháp Vương Tử”. Do ư này chẳng trái nghịch ư của chánh kinh nên lời Sớ không giải thích.

 

2.5.2.1.2.2.1.1.2. Thí dụ về hai mẹ con:

 

Chánh kinh:

Thập phương Như Lai, lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử. Nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi? Tử nhược ức mẫu, như mẫu ức thời. Mẫu tử lịch sanh, bất tương vi viễn.

(Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ trốn dẫu nhớ cũng chẳng làm ǵ được! Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con th́ mẹ con trải qua nhiều đời chẳng xa cách nhau)

 

Sớ: Thí dụ về hai người trong phần trên là phiếm chỉ về thân hữu, vẫn cảm thấy c̣n lỏng lẻo, chưa sát sao; nên ở đây lại đem t́nh mẹ con thân thiết nhất để làm thí dụ nhằm khiến cho người nghe dấy lên tín hạnh vậy. Trong phần này cũng có hai điều:

1) Một là thí dụ chỉ có một người nhớ sẽ có xa ĺa. Ba câu đầu (tức Thập phương Như Lai, lân niệm chúng sanh” (Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con)) tương ứng với thí dụ “một người chuyên nhớ” ở phần trên. Hai câu kế tiếp (tức câu “Nhược tử đào thệ, tuy ức hà vi” (Nếu con bỏ trốn, dẫu nhớ cũng chẳng làm ǵ được?)) ứng với thí dụ “một người chuyên quên” ở phần trên. Như Lai là mẹ; chúng sanh là con. Trong những t́nh thương yêu bao dung nhất trong thế gian, không ǵ bằng t́nh mẹ. Nếu con ngỗ nghịch, vong ân bội nghĩa, có lẽ ḷng mẹ sẽ bớt nghĩ tới, tâm sanh ḷng hối tiếc; nhưng Phật nghĩ tới chúng sanh c̣n hơn cả mẹ. Kẻ nghịch ác nặng nề, đức Phật càng nghĩ đến kẻ ấy sâu đậm hơn. Thậm chí Phật vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ vô lượng thay cho chúng sanh ấy. Hơn nữa, mẹ nhớ con ḷng từ ái chỉ được một đời, c̣n Phật nghĩ tới chúng sanh, tâm Từ vô tận, đời đời theo chúng sanh, chẳng hề lui sụt, thay đổi! V́ vậy, nói: “Phật nghĩ tới chúng sanh như mẹ nhớ con”. “Nhược tử đào thệ” (Nếu con bỏ trốn): Ví như chúng sanh chẳng niệm Phật, đọa vào ác đạo chịu khổ. “Tuy ức hà vi” (Dẫu nhớ cũng chẳng làm ǵ được) là thí dụ nhằm ngụ ư: Chỉ riêng ḿnh Như Lai nhớ tới chúng sanh th́ vô ích.

2) Từ chữ “nhược tử” (nếu con) trở đi chính là thí dụ sau: Hai người cùng nhớ nhau sẽ chẳng xa ĺa. Hai câu đầu [trong đoạn này] tương ứng với “nhớ nghĩ sâu xa” ở phần trên. Hai câu cuối tương ứng với “đời đời chẳng khác biệt” ở phần trước. Tức là chúng sanh trong sáu đường kính mộ nghĩ nhớ Như Lai giống hệt như Như Lai xót nghĩ chúng sanh th́ mới có thể cảm ứng đạo giao, chúng sanh và Phật chẳng hai vậy. Do vậy, vào đời Cao Tề[1], ḥa thượng Đại Hạnh nói: “Tôn sùng niệm Phật, bốn chữ dạy răn. Tức là hai chữ Tin, Nhớ chẳng ĺa trong tâm; hai chữ Xưng, Kính chẳng ĺa cửa miệng. Tùy ḷng sớm tối, trọn chẳng c̣n trụ vào pháp Sa Bà nữa. Đấy gọi là yếu quyết bậc nhất để niệm Phật vậy”.

 

Sao: Chữ “phiếm chỉ” hàm ư thầy tṛ, vua tôi, đều gộp trong ấy. Tiếp theo là phần giải thích từ chữ “Như Lai” trở đi:

Hỏi: Trong phần trước nói “niệm Phật là chỉ niệm Di Đà, chẳng niệm chư Phật”, sao ở đây lại nói mười phương Như Lai?

Đáp: Có hai ư:

1) Một là chỉ Di Đà Phật, v́ trong mười phương ba đời có vô lượng Phật Di Đà. Quán Kinh dạy: “Từ phương dưới cơi của Kim Quang Phật cho tới phương trên là cơi của Quang Minh Vương Phật, trong khoảng giữa ấy, có vô lượng phân thân Vô Lượng Thọ Phật nhiều như số vi trần”.

2) Hai là chỉ chung mười phương chư Phật, tức là chẳng phải riêng ḿnh đức Phật Di Đà của chúng ta có bi nguyện như thế mà mười phương chư Phật cũng đều nghĩ thương chúng sanh như vậy. Điều này tỏ rơ sự thật “Phật Phật đạo đồng”. Trong phẩm Vấn Minh của kinh Hoa Nghiêm có chép: “Các đức Như Lai trong mười phương có cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, sức vô úy cũng vậy”. Kinh Lăng Già, quyển thứ tư chép rằng: “Hết thảy chư Phật có bốn thứ b́nh đẳng, ấy là: tự b́nh đẳng, ngữ b́nh đẳng, thân b́nh đẳng, pháp b́nh đẳng[2]”. Quán kinh dạy: “Thấy Vô Lượng Thọ Phật tức là thấy mười phương vô lượng chư Phật”.

“Xót nghĩ” là như kinh Tam Muội nói: “Tâm chư Phật là đại từ bi. Chỗ duyên của ḷng từ bi chính là duyên nơi chúng sanh đang khổ. Lúc thấy chúng sanh chịu khổ năo, [chư Phật liền] như bị tên trúng tim, muốn dứt nỗi khổ cho họ”. Bởi thế, người cầu văng sanh chớ nên suy nghĩ ta xấu ác, rồi nghi ngờ Phật chẳng đến tiếp dẫn. Có ai biết tâm Phật chuyên thực hiện đủ thứ cách cứu độ chúng sanh đang ở trong cảnh trái nghịch, đau khổ. Sao lại tự sanh ḷng nghi ngờ, chướng ngại, cam tâm hướng đến đau khổ vậy?

Hỏi: Hai câu “bỏ trốn…” cùng với ư “chuyên quên, dẫu gặp cũng như chẳng gặp” đă nói trong phần trên có sai biệt hay không?

Đáp: Vừa giống, vừa khác. Giống là nếu chẳng niệm Phật sẽ chẳng thể thấy Phật; dẫu thấy Phật cũng chẳng thể hưởng pháp lợi. Do vậy, cũng giống như bỏ trốn chẳng khác, nhớ kẻ ấy để làm ǵ? Chỗ khác là trong thí dụ ở phần trước vẫn c̣n chỉ rơ ư nghĩa: Nếu chúng sanh cũng có lúc niệm, nhưng niệm chẳng khẩn thiết, nhớ chẳng sâu cho nên dẫu có gặp cũng như không gặp th́ sự tưởng nhớ chúng sanh của Phật c̣n có lợi ích. Chứ trong thí dụ này đă nói rơ: Chúng sanh không chỉ quên niệm mà c̣n báng Phật. Do bất tín nên đọa trong tam đồ, chịu vô lượng khổ ví như chúng sanh đă bỏ trốn, chư Phật nghĩ nhớ vô ích. Đối với sự cảm ứng giữa chúng sanh và Phật th́ con ví cho chúng sanh cảm; mẹ ví như Phật ứng. Do đạo giao chẳng hai nên ḥa hợp, chẳng trái nghịch.

Từ chữ “do vậy, vào đời Cao Tề” trở đi, ḥa thượng bàn rằng: Để văng sanh Tịnh Độ cần phải có Tín (ḷng tin). Một ngàn kẻ tin th́ một ngàn kẻ văng sanh, một vạn kẻ tin th́ một vạn kẻ được văng sanh. Tin tưởng vào danh hiệu của Phật, miệng, ư chẳng ĺa [danh hiệu ấy], chư Phật liền cứu, chư Phật liền che chở, tâm thường nhớ Phật, miệng thường xưng danh, thân thường tôn kính th́ mới gọi là thâm tín (tin tưởng sâu đậm).

 

2.5.2.1.2.2.1.2. Hợp lại để giảng pháp

 

Chánh kinh:

Nhược chúng sanh tâm, ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật.

(Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật).

 

Sớ: Nói “chúng sanh tâm” nhằm loại trừ “miệng niệm nhưng tâm chẳng niệm”. Ức là nhớ giữ chẳng quên. Niệm là tâm thường khăng khăng nghĩ đến. Thêm nữa, lúc đầu ngẫu nhiên miễn cưỡng ghi nhớ th́ gọi là Ức. Về sau, lâu ngày thuần thục vượt khỏi duyên niệm th́ gọi là Niệm. Lại nữa, Ức là tạm niệm (tạm thời nghĩ tới), nghĩa là một lần nhớ; c̣n Niệm là nhiều lần nhớ, tức là nói về thường niệm. Nếu là Sự Ức Niệm (ức niệm về mặt Sự) th́ là chuyên tâm chú ư, chẳng để cho có mảy may tạp duyên. Nếu là Lư Ức Niệm th́ chỉ có giác minh mầu nhiệm chiếu trọn pháp giới.

Phật cũng có hai nghĩa:

- Một là sự tướng, tức là ba thân hay mười thân.

- Hai là lư tánh, chỉ là Nhất Chân pháp giới.

Thêm nữa, trong Sự Ức Niệm Phật và Lư Ức Niệm Phật, mỗi thứ lại có hai loại: Một là hành theo thứ tự (Hạnh Bố), hai là viên dung. Nghĩa là:

1) Trước hết niệm Hóa Thân, Báo Thân, rồi mới niệm Pháp Thân v.v... là thứ tự của Sự Ức Niệm. Nếu ba thân hay mười thân đều cùng tại nhất tâm th́ là Sự Ức Niệm trong cùng một lúc (c̣n gọi là Sự Ức Niệm viên dung).

2) Trước hết là Không, kế đến là Bất Không, cuối cùng là Không Bất Không; đấy là Lư Ức Niệm Phật được hành theo thứ tự. Nếu Phật trong ba Như Lai Tạng tâm được niệm trong cùng một lúc th́ là Lư Ức Niệm Phật viên dung vậy.

Hỏi: Nếu ngoài tâm có Phật th́ làm sao dung được Lư Niệm? C̣n nếu ở ngoài tâm không có Phật, sao lại dùng Sự để thực hiện?

Đáp: Ngoài tâm có Phật chính là do đức Phật ở trong tâm của ta biến thành vị Phật bên ngoài. Kinh dạy: “Chánh Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh” nên cần phải Lư niệm. Ngoài tâm không Phật nhưng mượn đức Phật ở ngoài tâm nhằm hiển lộ vị Phật trong tâm ḿnh. Kinh dạy: “Lúc tâm tưởng Phật, tâm này làm Phật”, nên phải dùng Sự để niệm. Nếu ĺa hai cách niệm Sự và Lư, sao gọi “tâm chính là Phật, Phật chính là tâm” cho được?

Hỏi: Nếu Phật chính là tâm th́ chỉ nên niệm tâm, sao lại phải niệm Phật? Lại nữa, tâm chính là Phật th́ chỉ nên niệm Phật, cần ǵ niệm tâm?

Đáp: Chỉ chấp tâm chính là Phật, chẳng biết chính tâm tánh bổn giác của ta chính là vị Phật giác ngộ rốt ráo kia. Kinh dạy: “Tâm này chính là ba mươi hai tướng của Phật” nên niệm Phật chẳng trở ngại ǵ. Lại c̣n chấp tâm này là Phật, chẳng biết đức Phật giác ngộ rốt ráo kia chính là tâm tánh Bổn Giác của ta. Kinh dạy: “Chư Phật vào trong tâm của chúng sanh” nên chẳng ngại niệm tâm. Nếu chỉ niệm riêng tâm hay Phật th́ nghĩa [“tâm chính là Phật, Phật chính là tâm”] sẽ chẳng thành.

Hỏi: Nhất Chân pháp giới, Thể không hai tướng, cớ sao có việc niệm Phật ở trong hay ngoài tâm?

Đáp: Nhất Chân pháp giới vốn chẳng trong hay ngoài, chẳng thuộc nơi tâm hay Phật. Phật tự chứng [Nhất Chân pháp giới] đến cùng cực, biết tâm chúng sanh đều chấp Có liền muốn khiến cho chúng sanh khai ngộ nên chia thành hai nghĩa tâm và Phật. Phật là ngoại cảnh, tâm là nội cảnh. Công phu ức niệm thành tựu sẽ tự nhiên chứng biết “Tâm: không có tâm ở ngoài Phật, Phật: không có Phật ở ngoài tâm!” Duy nhất pháp giới, chứa đựng trọn khắp vô tận.

“Hiện tiền thấy Phật”: Chẳng ĺa Hiện Ấm[3] mà trong Định được thấy, hoặc trong mộng được thấy. “Tương lai thấy Phật” chính là khi báo thân đă chấm dứt, Ngũ Ấm tan hoại, thấy Phật đến đón, hoặc ở trong đài hoa mà thấy Phật.

Nói “nhất định” là v́ có hai ư:

1) Một là cảm ứng đạo giao khó thể nghĩ bàn. Tức là tin rằng tâm chính là Phật, chuyên dùng Sự niệm để niệm tướng hảo của Phật nên thấy Quả Báo Phật đi vào trong tâm ḿnh. Kinh dạy: “Tâm này làm Phật. Chư Phật Như Lai vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh”.

2) Hai là Thỉ Giác và Bổn Giác khế hợp với nhau, pháp đương nhiên như vậy. Tức là: Tin được Phật chính là tâm, chuyên nơi Lư niệm để niệm đức Phật trong bổn tánh nên thấy Pháp Thân Phật hiện trong tự tâm. Kinh dạy: “Tâm này là Phật, lúc tâm tưởng Phật th́ tâm này chính là ba mươi hai tướng”. Trong đoạn này chẳng gộp ư “Phật niệm chúng sanh” vào lời giảng v́ chú trọng đến khía cạnh “chúng sanh niệm Phật” vậy.

 

Sao: Từ chữ “Ức” trở đi, như trong Duy Thức nói: “Sao gọi là niệm? Đối với cảnh từng quen, lấy tâm nhớ rơ chẳng quên làm tánh, dựa chắc vào đó để làm nghiệp. Tức là nhiều lần nhớ giữ cảnh đă từng được cảm nhận chẳng để quên mất th́ có thể dẫn đến Định. Đối với cảnh chưa từng nhận lănh hoàn toàn chẳng khởi niệm. Nếu đă từng nhận lănh mà chẳng thể nhớ rơ th́ niệm cũng chẳng sanh”.

Ngài Từ Vân Sám Chủ nói: “Phàm trải qua các duyên, sự việc, mà trong tâm chẳng quên Phật th́ gọi là Ức Niệm. Ví như người đời tâm gắn chặt nơi chuyện ǵ đó, dù nói năng, đến, đi, ngồi, nằm, làm lụng các thứ vẫn chẳng gây trở ngại cho sự thầm nhớ”. Việc trên đây (tức Ức Niệm) cũng giống hệt như vậy. Cái tâm niệm Phật cũng phải nên giống như thế. Nếu như quên mất, hăy nhiều lần gom tâm trở lại. Lâu ngày sẽ thành tánh, tùy ư thường nhớ. Lại nữa, nhận biết tâm vừa dấy lên đôi chút ác niệm liền nghĩ ngay đến Phật, do bởi Phật lực, ác niệm sẽ tự dứt. Nếu thấy người khác chịu khổ, do tâm niệm Phật liền thương xót họ, nguyện họ được ĺa khổ. Buộc ḷng niệm Phật liên tục như thế sẽ có thể hoàn thành hết thảy công đức Tịnh Độ.

Từ chữ “nếu là Sự Ức Niệm” trở đi, lời Sớ hàm ư: Chuyên tâm ức niệm trong đoạn này cũng như đoạn “thâu nhiếp các căn tịnh niệm” trong phần sau của kinh văn chính là nói tới “nhất tâm bất loạn” hoặc “nhất hướng chuyên niệm” (một mực chuyên niệm) trong kinh Di Đà, hoặc “nhất tâm hệ niệm” trong Quán kinh, đều bao gồm cả Sự lẫn Lư. Sự là có thể đối với mọi thứ ḿnh đă trải qua luôn [nghĩ nhớ] phân minh đức Phật ở trong tâm. Chỉ một niệm này, không có niệm nào khác, niệm niệm liên tục sẽ thành tựu công phu Định lực. Khởi Tín Luận viết: “Dùng nhân duyên để chuyên dốc ư niệm Phật” là nói về ư này vậy. Về Lư th́ Năng và Sở như một, tâm và Phật chẳng hai; chỉ có một duyên này, chẳng có chuyên nào khác. Duyên tâm tự tại, thành tựu huệ lực, như Khởi Tín Luận đă nói: “Tuy niệm nhưng vẫn chẳng có người niệm th́ mới là niệm’.

Lại như Phổ Môn Sớ có câu: “Nếu dụng tâm giữ sao cho niệm chẳng gián đoạn th́ gọi là Sự Nhất Tâm. Nếu hiểu được niệm tâm ấy bốn tánh chẳng sanh th́ gọi là Lư Nhất Tâm”. Đối với bốn thứ hay năm cách niệm Phật nói trong phần trước, mỗi một thứ đều có đủ cả hai cách niệm Sự và Lư này.

Hỏi: Bốn cách và năm môn niệm Phật ở phần trước cùng với Sự và Lư ở đây đều ước theo nghĩa năng niệm th́ có ǵ khác nhau đâu?

Đáp: Bốn hay năm cách [niệm Phật] đă nói trong phần trước là nhằm thuật bày pháp môn [Niệm Phật] có lắm phương tiện [để tu tập]; c̣n Lư, Sự ở đây là ước theo hành nhân dụng tâm sai khác [như thế nào]. Do vậy trong bốn cách hay trong năm môn Niệm Phật, ắt trọn đủ hai tâm. Trong hai tâm, ắt bao gồm bốn cách, năm môn chẳng hỗn độn vậy.

Hỏi: Lư, Sự trong phần này so với bốn cách, năm môn Niệm Phật ở phần trước, nếu phán định Sự quán, Lư quán th́ sai khác ra sao?

Đáp: Trong phần trước là phán định riêng biệt. Bốn cách lẫn năm môn Niệm Phật đều thuộc về cả Sự lẫn Lư. C̣n ở đây là phán định chung, mỗi một môn trong bốn cách hay năm môn ấy đều có đủ Sự lẫn Lư. Nếu so sánh th́ phần trên là giải thích đại lược, ở đây giảng chi tiết, cho nên chẳng giống nhau. Đối với hai cách niệm này (tức Sự niệm và Lư niệm) tuy chẳng được khuyết cách nào, nhưng vẫn có bậc thượng trí chuyên Lư niệm hoặc kẻ độn căn chuyên Sự niệm, hoặc người bậc trung kiêm cả Sự niệm lẫn Lư niệm, đều là thuận theo căn cơ đáng nên tu tập như thế nào để chẳng bị trở ngại. Hễ được thấy Phật th́ lợi ích vẫn như nhau.

Đối với câu “Phật cũng có hai nghĩa...” có lời gạn rằng: V́ sao Pháp Thân trong ba thân, Trí Không Thân trong mười thân cũng bị gọi là Sự?

Đáp: Do thuộc về số lượng (ba và mười là con số), do thuộc về Phật thân vậy (thân tướng chính là Sự).

Hỏi: Khởi Tín Luận viết: “Nếu ai chuyên niệm Di Đà Phật th́ do căn lành đă tu liền được thấy Phật”, há chẳng phải là Sự niệm hay sao? Luận c̣n viết rằng: “Nếu quán Chân Như Pháp Thân của đức Phật ấy, thường siêng tu tập, chắc chắn được văng sanh”, há chẳng phải là Lư niệm hay sao? Nay sao lại bảo rằng Pháp Thân chẳng thuộc Lư niệm?

Đáp: Đối với Báo Thân, Hóa Thân để luận th́ Pháp Thân thuộc về Lư niệm. Nay đem so với Nhất Chân th́ Pháp Thân lại thuộc về Sự. Bởi vậy, trong kinh Văn Thù Bát Nhă khi giảng về Nhất Hạnh Niệm Phật tam-muội, trước hết giảng về pháp giới bất động, buộc duyên nơi pháp giới v.v... Đại Sớ cũng giảng: “Nhất pháp giới hạnh cũng không có một thứ ǵ”.

Hỏi: Mười thân Phật xuất phát từ kinh Hoa Nghiêm, các kinh khác không có. Sao nay lại dạy niệm [mười thân ấy]?

Đáp: Chư Phật nói ra giáo pháp tuy khác nhưng ba thân, mười thân đều giống nhau. Quán Kinh dạy: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới”. Như ngài Đức Vân [trong kinh Hoa Nghiêm] chỉ niệm mười thân Phật. Thanh Lương Sớ Sao cũng giảng: “Niệm Phật tam-muội ấy xét về Tổng tướng là một, nhưng Biệt tướng th́ chia thành ba thân hay mười thân, tu quán đều khác”. Ba thân là nói niệm Pháp Thân, Báo Thân, Hóa Thân Phật. Trong ba thân mỗi thân đều có y báo, chánh báo, nên lại thành ra sáu phép Quán. Tức là niệm pháp tánh, thân, cơi nước là y báo và chánh báo của Pháp Thân. Niệm Báo Thân, cơi Hoa Tạng v.v... là y báo, mười thân tướng hải v.v... là chánh báo. Niệm những sự như tịnh độ, nước, chim, cây cối, đều là chỗ nương tựa (y báo) của Hóa Thân, ba mươi hai tướng v.v… là chánh báo của Hóa Thân. Mười thân là “Niệm, Nguyện, Trí, Pháp, Lực, Tŕ, Ư Sanh, Hóa, Oai Thế và Bồ Đề”, thân phước đức, tướng hảo trang nghiêm. Các thứ như thế tạo thành cảnh Đế vơng[4] liền nhập môn Niệm Phật của Phổ Hiền. Điều này đă được giảng rơ trong cuốn sáu mươi hai [của bộ Bát Thập Hoa Nghiêm].

“Hạnh Bố” là tu dần dần theo thứ tự vậy. “Viên dung” là [tu trọn mọi hạnh] trong một niệm. Bậc lợi căn th́ viên dung; c̣n kẻ hạ căn, ngu độn th́ phải lần lượt thực hành, hạng trung căn th́ không nhất định. Hơn nữa, hoặc là bậc lợi căn tu tập trước Lư sau Sự, kẻ độn căn th́ trước Sự sau Lư, đều là nhằm thích hợp căn cơ, chứ chẳng có một tướng nhất định.

Nói “trước hết là Không” là ước theo Tam Như Lai Tạng[5] tâm minh trong quyển bốn kinh Lăng Nghiêm. Nếu xét theo pháp giới của cái Lư đang được niệm th́ nên nói: Trước hết là niệm đức Phật trong Vô Vi Lư pháp giới, kế đến là niệm đức Phật trong Hữu Vi Sự pháp giới, sau đấy là niệm đức Phật trong Lư Sự Vô Chướng Ngại pháp giới, bởi pháp giới và Như Lai Tạng đều cùng là một tâm vậy, chỉ nói trước hay sau mà thôi. Từ chữ “Hỏi: Nếu” trở đi là lời gạn chung. Trước hết, giải thích trong hai niệm, tùy ư dùng một thứ, chẳng cần phải kiêm trọn cả hai cho khó. Kế đó là giải thích giữa “tâm chính là Phật” và “Phật chính là tâm”, niệm thứ nào cũng được, chẳng bắt buộc phải tu hết cho khó khăn. Ba là giải thích: Niệm “tâm chính là Phật, Phật chính là tâm” để thành hai thứ tâm và Phật cùng giữ được sẽ khó khăn.

“Trong Định được thấy” là như trong quyển bốn mươi sáu của kinh Hoa Nghiêm đă dạy: “Nếu có chúng sanh chuyên tâm ức niệm th́ Phật hiện trước mặt họ”. Quyển sáu mươi hai chép: “Trụ trong Tự Tại Tâm Niệm Phật môn, tùy theo ư ḿnh ưa thích mà [Phật] hiện h́nh tượng vậy. Trụ trong Nhất Thiết Cảnh Niệm Phật môn sẽ thấy Phật hiện trong khắp các cảnh”. Kinh Lăng Già dạy: “Chư Phật có hai thứ gia tŕ, tức là khiến cho [chúng sanh] nhập tam-muội và hiện thân quán đảnh. Các hàng Bồ Tát được hai thứ gia tŕ này sẽ có thể đích thân thấy hết thảy chư Phật”. Quán kinh dạy: “Vô Lượng Thọ Phật, tướng hảo, quang minh, trọn khắp mười phương cơi, nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ nên trong Thiền Quán [hành nhân niệm Phật] đều được thấy”.

“Trong mộng được thấy” là như kinh Pháp Hoa chép: “Hoặc ở trong mộng thấy các đức Như Lai ngồi trên ṭa sư tử thuyết pháp giữa [thính chúng] vây quanh”. Phần kinh văn nói về Bậc Hạ Văng Sanh trong kinh [Đại] Di Đà (Vô Lượng Thọ Kinh) có chép: “Người ấy lúc lâm chung mộng thấy đức Phật ấy cũng được văng sanh”.

“Khi báo thân chấm dứt sẽ thấy Phật” là như kinh Xưng Dương Công Đức Chư Phật đă dạy: “Nếu được nghe danh hiệu Di Đà, nhất tâm tin ưa, khi người ấy mạng chung, A Di Đà Phật sẽ ở trước mặt người ấy”. Cổ Âm Vương Kinh[6] chép: “Nếu có người thọ tŕ danh hiệu đức Phật ấy, khi lâm chung, A Di Đà Phật liền cùng đại chúng ở trước mặt kẻ ấy khiến cho kẻ ấy được thấy”.

“Trong hoa được thấy” là như trong phần Hạ Phẩm Trung Sanh của Quán Kinh đă nói: “[Gió] thổi các hoa trời, trên mỗi hoa đều có hóa Phật, Bồ Tát, nghênh tiếp người ấy, như trong khoảng một niệm liền sanh trong hoa sen. Trải qua sáu kiếp, hoa sen mới nở, được Quán Âm, Thế Chí giảng kinh điển cho”.

Hỏi: Nay có kẻ chuyên tâm niệm Phật, trong Định hoặc trong mộng cũng chẳng thấy Phật. Lại có người suốt đời niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung cũng chẳng sanh về Tây phương, là v́ sao vậy?

Đáp: Chuyên tâm niệm Phật nhưng trong Định lẫn trong mộng vẫn chẳng thấy Phật là do nghiệp chướng quá khứ nặng nề, thiện lực trong hiện tại yếu kém. Hơn nữa, Phật có hai thứ gia bị:

1) Một là đối với kẻ không có nghiệp chướng liền gia bị rơ ràng khiến cho kẻ ấy đích thân được thấy.

2) Hai là đối với kẻ chướng nặng liền ngầm gia bị, khiến cho kẻ ấy ngấm ngầm được lợi ích. Do vậy, Phổ Hiền Bồ Tát nói: “Có những chúng sanh trong tâm phát khởi, tỏa rạng hạnh Phổ Hiền, khi ấy những phân thân của ta đều đến chỗ người ấy. Nếu như người ấy do nghiệp chướng sâu đậm chẳng thấy ta, ta bèn thầm xoa đỉnh đầu người ấy, ủng hộ cho người ấy được thành tựu”.

Suốt đời niệm Phật nhưng chẳng sanh về Tây Phương là do niệm Phật chẳng tinh thành, sanh ḷng ngờ vực, chẳng dốc trọn ḷng tin, chẳng nguyện văng sanh, chẳng thể đoạn tham, ái.

Hỏi: Thiện căn trong hiện tại cạn mỏng th́ có thể tu tập để tăng thêm; nghiệp chướng trong quá khứ sâu nặng th́ làm sao biết được để đối trị?

Đáp: Có hai cách chọn lựa:

1) Nếu trong tam-muội thấy có căn lành hiện tướng th́ biết trong quá khứ đă gieo các nhân lành. Làm thế nào để điều thiện được phát khởi? Phân chia đại lược thành bốn thứ như sau:

a. Một là niệm Hóa Phật, thiện căn sẽ phát hiện. Trong Niệm Phật tam-muội, đột nhiên nhớ tới Phật tu Lục Độ vạn hạnh, thành tựu ba mươi hai tướng, thân có tướng hảo, quang minh, tâm có trí huệ, thuyết pháp lợi sanh, hàng phục ma oán. Lúc nghĩ như thế liền sanh ḷng kính yêu, tam-muội được mở mang, phát khởi, tăng tấn Phật hạnh. Hoặc là trong Định thấy thân tướng của Phật, tâm liền tin hiểu trong sạch. Hoặc là trong mộng nghe Phật thuyết pháp liền giác ngộ Phật tâm.

b. Hai là niệm Báo Thân Phật, thiện căn sẽ phát hiện. Trong lúc niệm Phật, chợt nhớ tới đến thân quả báo viên măn của Phật đều là do công đức vô lậu thành tựu. Tướng hảo, quang minh, mỗi mỗi đều vô lượng, thần thông, trí huệ tràn ngập pháp giới, luôn vắng lặng thanh tịnh đến cùng tột đời vị lai. Lúc nghĩ như thế, huệ giải phân minh, quyết định an ổn, thiện niệm liên tục. Hoặc là trong Định nghe nói cảnh giới Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, liền phát sanh vô lượng pháp môn trí huệ. Hoặc là trong mộng, thấy tám vạn bốn ngàn các tướng tốt lành mầu nhiệm liền nẩy sanh vô lượng nguyện hạnh công đức.

c. Ba là do niệm Pháp Thân Phật, thiện căn sẽ phát hiện. Trong tam-muội, chợt nhớ tới thân Chân Thật Tánh của Phật, thanh tịnh vô tướng dường như hư không. Chỉ là Đệ Nhất Nghĩa Đế, chẳng có cảnh giới Thế Đế, ĺa sanh, rời diệt, vô tác, vô vi, chẳng đến, chẳng đi, chẳng giảm, chẳng tăng. Lúc nghĩ như thế, thiện tâm dấy lên, nhập Định an vui, thông đạt vô lượng pháp môn, hiện khởi vô biên cảnh Phật. Hoặc là trong Định do thấy Phật có Pháp Thân vi diệu trọn đủ các tướng tốt liền được giác ngộ, tuy xa ĺa thường và vô thường, nhưng lại biến hiện thường và vô thường. Duy Thức giảng: “Pháp Thân lấy năm pháp để làm tánh chứ không phải chỉ riêng tịnh pháp giới gọi là Pháp Thân”. Lúc ngộ như thế, mở mang, phát khởi Thật Trí, ba thời hiện tiền. Hoặc là trong mộng, thấy Phật dùng các pháp như nghĩa để làm thân, liền được giác ngộ, coi Chân Như là Phật, không cảnh ǵ chẳng phải là Phật. Đại Phẩm[7] chép: “Các pháp như Thật Tướng. Chư pháp như thật chính là Phật. Ĺa ngoài điều ấy, chẳng có Phật nào khác”. Lúc ngộ như thế sẽ thanh tịnh sáu căn, pháp tánh hiện tiền.

d. Bốn là niệm mười thân của Phật, thiện căn phát hiện. Ở trong Thiền Quán, chợt nhớ đến mây pháp giới thân Phật, y báo, chánh báo viên dung, Chân và Ứng vô ngại, một và nhiều nhập vào nhau, lớn, nhỏ, ẩn, hiện, vừa là Lư, vừa là Sự, vừa là người, vừa là pháp, vừa là đây, vừa là kia, vừa là nhân, vừa là quả, cũng là chín pháp giới, cũng là Phật giới, cũng là ba thân, cũng là mười thân. Lúc nghĩ như thế, mở mang phát khởi vô tận thiện tâm, sanh ra vô tận tam-muội, diệt các thứ phiền năo, hiển hiện tầng tầng pháp tánh. Hoặc là trong Định, thấy Phật vô chướng ngại, trong mỗi cơi, mỗi vi trần Phật đều hiện thân thuyết pháp, liền chứng biết môn Niệm Phật của ngài Đức Vân, xuất sanh hai mươi mốt môn Niệm Phật. Sau khi biết như thế rồi liền phát nguyện Phổ Hiền, hành hạnh Phổ Hiền. Hoặc là trong mộng thấy vô tận thân Phật thuyết pháp lợi sanh, liền được nhập Oai Quang Niệm Phật tam-muội, thống nhiếp vô tận tam-muội. Sau khi ngộ như thế, phát khởi [Tỳ Lô] Giá Na trí, trở thành cảnh của đức Tỳ Lô Giá Na Phật.

Các căn lành trên đây đều là [do đă gieo trồng] trong quá khứ, nay phát sanh, là tướng trạng của quả báo đạt được do tu tập niệm Phật vậy (Thấy các tướng hảo đều là do quả báo mà tướng phát hiện. Phát các thiện tâm đều là do cái nhân tu tập mà điều lành được phát hiện).

2) Nếu trong tam-muội thấy có tướng nghiệp chướng phát hiện liền biết trong quá khứ chẳng gieo trồng thiện căn. Nghiệp chướng phát hiện ra sao? Cũng chia ra bốn thứ:

a. Một là nghiệp chướng biến hiện thành tướng hôn trầm, tối tăm che lấp. Tức là lúc niệm Phật liền bị mê ngủ, trầm ám, tŕ trệ, không thể nhớ rơ ràng khiến cho các thứ Thiền Quán chẳng thể khai phát được.

b. Hai là nghiệp chướng biến hiện thành tướng vọng niệm tán loạn. Lúc muốn tu Quán, tuy chẳng hôn trầm, nhưng sanh tà tưởng, muốn làm các chuyện Tứ Trọng, Ngũ Nghịch, Thập Ác, hủy phá giới cấm v.v... [những ư tưởng tà vạy ấy] cứ lần lượt nối tiếp nhau phát sanh, không lúc nào tạm ngừng. Do vậy, tam-muội chẳng thể hiện tiền được.

c. Ba là nghiệp chướng biến hiện thành tướng cảnh ác bức bách. Lúc sắp nhập Định, tuy không có vọng niệm, nhưng lại có cảnh ác, hoặc thấy lửa cháy, nước ch́m, hoặc nghe chấn động, hoặc không có đầu, không có tay, hoặc từ núi té xuống, hoặc rơi xuống biển. Các thứ bức bách như thế khiến cho [người tu Định] hoảng sợ, đạo tâm đă phát liền bị chướng ngại chẳng thể khởi được.

d. Bốn là nghiệp chướng biến hiện thành tướng bệnh tật, hay sự việc khổ năo. Lúc đang niệm Phật, tuy không có những cảnh [bức bách như đă nói] trong phần trên đây, nhưng thân chợt sanh ra các thứ bệnh tật, khổ năo trăm chiều, hoặc bị các thứ sự vụ thế gian lôi kéo chẳng dứt. Do vậy, chẳng văng sanh, chẳng thể chứng nhập được!

Những nghiệp chướng như vừa kể trên đây đều là tướng biến hiện của quả báo do những nhân chẳng lành trong quá khứ cảm thành. Do v́ hai pháp lành và ác này hiện tướng sẽ liền có thể suy nghiệm căn tánh của chính ḿnh là thiện hay ác, và cũng biết được chính ḿnh trong đời trước đă trồng thiện hay không, đă làm ác hay không làm ác. Thấy như thế xong, hễ thiện th́ tu thêm để được viên măn, c̣n ác th́ đối trị cho trừ diệt. Làm thế nào để đối trị th́ cũng chia ra thành bốn môn:

1) Một là trị diệt Hôn Trầm Chướng: Hăy nên dạy hành nhân niệm ba mươi hai tướng của Hóa Phật, tùy ư chọn lấy một tướng, hoặc chọn lấy tướng Bạch Hào để nhắm mắt tự quán. Nếu tâm ám độn, tưởng lơ lửng chẳng thành, hăy nên đối trước một bức tượng Phật đoan nghiêm để nương theo đó nhập quán. Nếu chẳng quán thấy rơ ràng, liền mở mắt quán, rồi lại nhắm mắt. Lúc tưởng như thế, tâm nhăn mở toang sẽ phá được chướng ấy, không c̣n bị hôn trầm nữa!

2) Hai là trị diệt Vọng Niệm Chướng: Hăy nên dạy hành nhân quán Báo Thân Phật vốn sẵn có mười công đức, bốn Vô Sở Úy[8], mười tám pháp Bất Cộng, tam-muội, giải thoát, Nhất Thiết Chủng Trí, vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn, hiện khắp các sắc thân để lợi ích hết thảy. Thần thông biến hóa, dẹp tan ma vương, ngoại đạo. Niệm pháp lành công đức của Phật như thế th́ hết thảy những tà ác, những pháp thuộc về Tâm Số[9] trong Tâm sẽ tự nhiên tiêu diệt.

3) Ba là trị diệt Ác Cảnh Chướng: Hăy nên dạy hành nhân niệm Pháp Thân Phật. Pháp Thân Phật chính là pháp tánh b́nh đẳng, không tịch, vô vi, chẳng có h́nh tướng. Đă không h́nh tướng th́ làm sao có cảnh giới bức bách nữa? Do cảnh giới là Không, cho nên trị diệt được chướng ấy.

4) Bốn là trị diệt Bệnh Sự Chướng: Hăy nên dạy hành nhân niệm mười thân của Phật. Nương theo oai thế, lực tŕ, bổn nguyện, công đức, Bồ Đề của Phật, chẳng bị sự việc thế gian lôi kéo, bó buộc, nương vào phước đức, tướng hảo trang nghiêm nơi tướng Ư Sanh Thân[10] của Phật để chẳng bị hết thảy bệnh khổ gây phiền năo. Niệm Pháp Thân của Phật dường như hư không, theo trí lực ứng hóa hết thảy, chẳng giống như chúng sanh phiền năo lấp thân, tám khổ cùng nung đốt, chuyện đời ràng buộc như tằm kéo kén, chẳng có ngày ngoi đầu ra được. Lúc niệm như thế, chướng này liền diệt. Nên biết bền ḷng niệm Phật công đức rộng lớn không chi chẳng thành, nghiệp chướng sâu nặng không chi chẳng diệt.

Hỏi: Niệm Phật th́ Phật hiện, nhưng cũng có thể là ma hiện hay chăng? Căn lành do niệm Phật phát sanh cũng có thể là do ma biến hiện hay chăng?

Đáp: Phật có sức thần thông, sức oai đức, sức bổn nguyện, ở trong đại quang minh ắt chẳng có ma sự. Nếu có kẻ nào túc chướng sâu dày và chẳng khéo dụng tâm th́ mới có ma dấy lên. Hăy nên hiểu biết rơ ràng! Kinh luận nói có hai thứ:

1) Tướng tốt hiện ra không phù hợp với kinh th́ là ma sự.

2) Hai là sự chẳng hợp với sự tu hành của chính ḿnh th́ là ma sự.

C̣n như đối với thiện căn phát hiện, muốn phân biệt là do ma biến hiện hay chẳng phải do ma biến hiện th́ cũng có hai cách sau đây:

1) Một là ước theo tâm cảnh lâu hay mau. Tức là các sự như thấy Phật, nghe pháp v.v... nếu là do thiện căn phát khởi th́ [lại có hai trường hợp]:

a. Nếu cảnh tướng do thiện căn làm cái nhân [cảm thành] quả báo th́ [cảnh lành] tạm hiện rồi liền mất.

b. C̣n như do thiện tâm tu tập cảm thành th́ [cảnh lành ấy] sẽ liên tục chẳng dứt.

Nếu là cảnh do ma tạo th́ [cũng có hai trường hợp]:

a. Nếu là cảnh tướng do quả báo làm nhân th́ sẽ lâu dài chẳng dứt, hoặc biến đi lại hiện ra, gây nhiễu loạn.

b. Nếu là do tâm lành tu tập đă lâu th́ [cảnh lành] tạm hiện ra liền mất, hoặc trong giây lát liền biến thành ác niệm.

2) Hai là ước theo phiền năo nặng hay nhẹ. Tức là lúc thấy tướng lành phát sanh, tâm thức bị động loạn, phiền năo nặng thêm, nhiều thứ gây trở ngại chẳng có lợi cho Định tâm th́ [cảnh lành ấy] chắc chắn do ma biến hiện. Nếu thấy tướng lành hiện ra, tuy chưa chứng Thiền Định mà thân tâm sáng suốt, an tịnh, thiện niệm dấy lên, phiền năo nhẹ mỏng, hoặc tam-muội khai thông, thân tâm vui sướng, trong ngoài an ổn, khí sắc tươi nhuận, phiền năo vắng lặng, công đức ṿi vọi, đấy chính là tướng được phát khởi bởi thiện căn.

Nếu tà chánh chẳng hiểu rơ, hăy nên dùng hai pháp để đối trị:

1) Một là Chỉ pháp, tức là thâm nhập tam-muội, nhất tâm niệm Phật. Đối với tướng hiện ra, biết là hư dối, chỉ giữ tâm b́nh tĩnh trụ trong Định, chẳng chấp lấy, chẳng buông bỏ. Lúc lắng ḷng, lặng lẽ chẳng khởi phân biệt như thế, nếu là thánh cảnh th́ Định lực càng sâu, tướng lành sẽ đúng với pháp. Nếu là cảnh ma, chẳng lâu sau tướng được biến hiện ấy sẽ tự mất. Nếu nó có dấy lên th́ cũng chẳng đúng với pháp.

2) Hai là Quán pháp, tức là quán Chân Không pháp giới, niệm Pháp Thân Phật giống như hư không để suy nghiệm tướng đă biến hiện ấy, chẳng thấy chỗ sanh. V́ tướng không tịch nên tâm niệm cũng tịch, biết Ma Giới Như chính là Phật Giới Như, ĺa ngoài Chân Như sẽ không có một pháp tướng nào. Quán niệm như thế, Phật pháp tự sẽ hiện tiền, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt.

Nhưng niệm Phật mà gặp ma cũng là trong một vạn trường hợp mới có được một! Ấy là v́ người tu Tịnh nghiệp trọn đủ ba thứ lực: Một là niệm lực, hai là bổn hữu Phật tánh lực (sức của Phật tánh sẵn có trong tự tâm), ba là Phật nhiếp thủ lực (sức nhiếp thủ của Phật) th́ làm sao tà ma có dịp nhiễu hại? Do vậy, kinh Xưng Dương Công Đức Chư Phật dạy rằng: “Nếu có ai được nghe danh hiệu A Di Đà th́ A Di Đà Phật liền ở ngay trước mặt người đó, ma chẳng thể phá hoại tâm Chánh Giác của người ấy được”. V́ thế chỉ nên nhất tâm niệm Phật, đừng ngờ vực, lo lắng ǵ!

Từ chữ “nói nhất định” trở đi chính là lời giải đáp cho câu cật vấn. Do gạn rằng: “Như Lai là không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, làm sao có Phật hiện tiền?” nên ở đây nói chung rằng: Do có hai ư nên chắc chắn thấy Phật.

1) Một là ước theo Tha Phật. Nghĩa là Pháp Thân chân Phật vốn không sanh diệt, do từ Chân mà khởi lên sự ứng hiện nên đến đi chẳng trở ngại ǵ! Do vậy, tâm tịnh Phật hiện, tâm nhơ Phật diệt. Ví như nước trong lặng, trăng liền hiện bóng; nước đục, ánh trăng liền mất.

2) Hai là ước theo Tự Phật (Phật ở trong tự tâm của chính ḿnh), tức là đức Phật trong cái tâm Bổn Giác vốn chẳng đến đi, chỉ do giác hay không giác [mà nhận biết đức Phật ấy], hiện ra hay mất đi chẳng trở ngại ǵ. Do vậy, hễ tâm mê th́ Phật ẩn, tâm ngộ th́ Phật hiển hiện. Ví như gương đóng bụi th́ tối tăm, gương sạch bèn tỏa sáng.

Từ chữ “đoạn này” trở đi cũng nhằm giải thích điều nghi. Gạn rằng: “Hai thứ thí dụ trong phần trước đều hàm ư Như Lai niệm chúng sanh, [trong thí dụ này] sao chẳng nhắc đến chuyện Phật niệm [chúng sanh] vậy?’ Bởi vậy, giải đáp rằng: Do chúng sanh chẳng có tín nguyện nên ở đây đôi ba lần khuyên lơn [chúng sanh niệm Phật], c̣n Phật nghĩ tới chúng sanh chính là do Phật tự nguyện, cần ǵ phải nói tới nữa!

 

2.5.2.1.2.2.2. Chứng quả

 

Gồm hai phần:

- Thuyết pháp

- Dùng thí dụ để giảng rơ

 

2.5.2.1.2.2.2.1. Thuyết pháp

 

Chánh kinh:

Khứ Phật bất viễn, bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai.

(Cách Phật chẳng xa, chẳng cần phương tiện, tâm tự được mở mang)

 

Sớ: Câu thứ nhất tóm ư tu nhân đă nói trong phần trên. Câu thứ hai giảng rơ về quả tướng (tướng trạng của cái quả do tu nhân) vậy.

“Bất viễn” (chẳng xa): [Gồm hai cái thấy]:

1) Nếu hiện tiền thấy Phật th́ đối với Sự niệm (niệm Phật theo mặt Sự) sẽ thấy Tha Phật, trước hết thấy đức Phật bằng cái thân sắc tướng, sau đấy thấy được đức Phật thật sự nơi Pháp Thân. Nếu là Lư niệm sẽ thấy Tự Phật (đức Phật ở trong tự tâm của chính ḿnh), trước hết sẽ thấy Phật bằng Phần Chứng Giác, sau đấy thấy được Phật bằng Cứu Cánh Giác (sự giác ngộ rốt ráo).

2) Nếu là tương lai thấy Phật th́ đối với Sự niệm sẽ thấy Tha Phật, tức là trước hết thấy Hóa Thân Phật rồi sau đấy sẽ thấy Báo Thân Phật. Nếu là Lư niệm sẽ thấy Tự Phật, trước hết thấy được Bổn Giác Phật, sau đấy thấy Diệu Giác Phật. Do vậy, nói: “Khứ Phật bất viễn” (Cách Phật chẳng xa).

“Bất giả phương tiện” (Chẳng cần tới phương tiện): Nếu ước theo Sự th́ pháp môn Niệm Phật là phương tiện thù thắng, dễ dàng, chẳng cần phải nhờ đến phương tiện nào khác để giúp hiển lộ bổn tánh của chính ḿnh. Nếu ước theo Lư, niệm Phật chính là niệm tâm. Tâm và Phật không khác, ta lẫn người chẳng hai. Há có cần rời ĺa đức Phật chỉ ở ngay trong tự tâm để cậy vào đức Phật nào khác ở ngoài tâm nữa ḥng làm phương tiện hay sao?

“Tự đắc tâm khai” (tâm tự được mở mang) là do tâm niệm Phật mà nhập tri kiến của Phật, viên măn Bồ Đề, trở về vô sở đắc. Xét theo mặt Sự th́ là thành tựu, chứng đắc Phật quả. Xét theo Lư th́ chính là giác thể viên măn hiển lộ. Ấy gọi là “chỉ thấy Phật Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ?”

 

Sao: Từ chữ “câu thứ nhất” trở đi là phần nêu vấn đề sơ lược. Từ chữ “chẳng xa” trở đi là phần giải thích chữ “hiện tiền” v.v...

Gạn rằng: Ở trên đă nói “thấy Phật”, nay sao lại nói “cách Phật chẳng xa?” Do vậy, ở đây bèn giải thích: “Thấy Phật” được nói trong đoạn trước chỉ là phần sắc tướng được hóa hiện (Hóa Thân) từ Bổn (Pháp Thân); c̣n “cách Phật” được nói trong đoạn này chính là Pháp Thân rốt ráo và Báo Thân mầu nhiệm nên ư nghĩa chẳng bị mâu thuẫn. Cũng có thể giải thích như sau: Do thấy Phật nên chúng sanh và Phật ở cùng một chỗ, ví như h́nh với bóng chẳng hề tách rời, mâu thuẫn nhau.

 

2.5.2.1.2.2.2.2. Dùng thí dụ để giảng rơ

 

Chánh kinh:

Như nhiễm hương nhân, thân hữu hương khí. Thử tắc danh viết Hương Quang Trang Nghiêm.

(Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Đấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm).

 

Sớ: Hai câu đầu nêu thí dụ. Trong phần Pháp [vừa được nói trong đoạn trên đây] th́ do thân gần gũi với thân Phật, tâm sẽ được mở mang, phát khởi thành tâm của Phật. [Trong đoạn này, lại đem phần Pháp] hợp với phần Dụ “người được thấm đượm hương th́ thân cũng có mùi thơm”. Hai câu kế đó là nêu tên [của tam-muội và pháp môn], tức là dùng hương quang (mùi thơm và ánh sáng) nơi Pháp Thân của Như Lai để trang nghiêm Bổn Giác Như Lai trong tự tâm. Như kinh Hoa Nghiêm dùng Chiên Đàn, trầm thủy hương v.v... để sánh ví Bồ Đề tâm; nay kinh này cũng dùng những loại danh hương của trời người để sánh ví hương thơm công đức nơi Pháp Thân của Như Lai vậy.

 

Sao: Từ chữ “trong phần Pháp” trở đi, nếu ước theo Pháp mà nói th́ do sử dụng loại danh hương Niệm Phật, gần gũi với thân hương của Phật, nên khơi mở được tâm hương của Phật. [Trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm], Chúc Hương trưởng giả nói tới loại hương “phát tâm niệm Phật” chính là nhằm diễn tả ư này.

Từ chữ “hợp với phần Dụ” trở đi là như luận Khởi Tín đă nói: “Như y phục của thế gian quả thật không có mùi thơm. Nếu người ta dùng hương để xông ướp liền có mùi thơm. Vô minh nhiễm pháp quả thật không tịnh nghiệp, chỉ dùng Chân Như để xông ướp th́ sẽ có tịnh dụng (tác dụng thanh tịnh)”. Vô minh nhiễm hương chính là Bổn Giác Phật sẵn có trong cái tâm bị ẩn giấu trong cái vỏ vô minh. Luận ấy (tức luận Khởi Tín) bàn về Như Lai Tạng tâm c̣n đang bị phiền năo vây bủa; nay kinh này nêu thí dụ để chỉ cho Như Lai Tạng tâm đă thoát khỏi triền phược, nên nói là “tâm khai”, tức là do tâm mở mang nên thành Phật bởi đă gần với Phật vậy. Như thân sạch sẽ trở thành thơm tho là v́ dùng hương bôi lên. Nếu dựa theo Tướng tông để phán định th́ nên nói như sau: Niệm Phật là pháp Có, do tâm Phật được mở mang. Luận về Nhân th́ nói “cách Phật chẳng xa”; giống như trong thí dụ người nhiễm hương[11]. [Tương tự], hương và người là pháp Có, thân có hương quang trang nghiêm. Luận về Nhân th́ nói “nhiễm hương”, về phần Dụ th́ giống như trong đoạn “nói về người niệm Phật”.

 “Hai câu kế đó là nêu tên” chính là nêu tên của tam-muội, đây cũng là tên của pháp môn. Từ chữ “như kinh Hoa Nghiêm” trở đi là như trong quyển bảy mươi tám của kinh ấy có nói:

“Như hương Bạch Chiên Đàn nếu dùng để bôi thân sẽ trừ được nhiệt năo, khiến cho được thanh lương; Bồ đề tâm hương có thể trừ nhiệt năo tham, sân, si v.v... khiến cho đầy đủ trí huệ thanh lương.

Lại như hương Hắc Chiên Đàn cơi trời, nếu đốt một thù[12] sẽ xông khắp ngàn cơi; một niệm công đức của Bồ Đề tâm hương xông khắp pháp giới.

Lại như Chuyển Luân vương có món báu trầm hương tên là Tượng Tạng, nếu đốt hương này, bốn loại binh của vua đều bay lên không; Bồ Đề tâm hương nếu vừa được phát khởi sẽ khiến cho hết thảy thiện căn [được phát sanh], măi măi ĺa khỏi ba cơi.

Lại như cây Ba Lợi Chất Đa La[13], hết thảy hoa hương chẳng thể sánh bằng mùi hương của vỏ cây ấy; cây Bồ Đề tâm phát ra mùi thơm đại nguyện công đức, hết thảy ngũ phận pháp hương của Nhị Thừa đều chẳng sánh bằng.

Lại như đem hoa Ba Lợi để xông ướp y một ngày, dẫu đem các thứ hoa như Chiêm Bặc v.v... để xông ướp ngàn năm vẫn chẳng sánh bằng! Hương công đức vô lậu của Nhị Thừa dẫu xông ướp trong trăm ngàn kiếp vẫn chẳng sánh được bằng hương công đức của Bồ Đề tâm hoa chỉ xông ướp trong một đời”.

“Hương của trời người” là như kinh Hoa Nghiêm đă chép:

“Trong nhân gian có loại hương tên là Tượng Tạng, do rồng đánh nhau mà sanh ra. Nếu thiêu một hoàn, trời sẽ mưa hương bảy ngày. Nếu ai đeo hương ấy [thân] liền thành sắc vàng ṛng. Chúng sanh ngửi được [mùi hương ấy] sẽ vui sướng bảy ngày, chẳng có các bịnh.

Núi Ma La Da sanh ra một loại hương Chiên Đàn tên là Ngưu Đầu, nếu bôi lên thân, lửa chẳng thể đốt được.

Trong biển có một loại hương tên là Vô Năng Thắng, nếu bôi vào ốc (tù và), trống, lúc [những thứ ấy] phát ra tiếng, địch quân đều tan vỡ.

Bên bờ ao A Na Bà Đạt Đa sanh ra một loại Trầm Thủy hương tên là Liên Hoa Tạng; nếu thiêu một hoàn, xông khắp cơi Diêm Phù, kẻ ngửi thấy sẽ ĺa tội, giới phẩm thanh tịnh.

Núi Tuyết có loại hương tên A Lô Na, nếu có ai ngửi được sẽ ĺa các cấu nhiễm.

Trong cơi La Sát có loại hương tên là Hải Tạng, lúc Luân Vương đốt lên, vua cùng bốn đạo quân đều bay lên hư không.

Trong cơi trời Thiện Pháp có loại hương tên là Tịnh Trang Nghiêm. Nếu đốt một hoàn để xông sẽ khiến cho khắp mọi chư thiên tâm niệm đức Phật.

Trời Tu Dạ Ma có loại hương tên Tịnh Tạng, nếu đốt lên để xông th́ Dạ Ma thiên chúng tụ họp ở chỗ thiên vương để cùng nhau nghe pháp.

Trong trời Đâu Suất có loại hương tên là Tiên Đà Bà, nếu đốt một hoàn, sẽ mưa khắp hết thảy các thứ vật cúng để cúng dường chư Phật, Bồ Tát.

Cơi trời Phổ Biến Hóa có loại hương tên là Đoạt Ư, nếu thiêu một hoàn th́ trong bảy ngày sẽ mưa khắp hết thảy những món đồ trang nghiêm”.

Thanh Lương Sớ Sao giải thích đoạn kinh trên như sau:

“Đầu tiên là thí dụ Bồ Đề Tâm hương, tiếp đó là Nhẫn hương, lửa sân chẳng bốc cháy. Thứ ba là Tinh Tấn hương, ma quân lui tan. Loại thứ năm cũng như loại hương kế tiếp đó chính là Ngũ Phận Pháp Thân hương và Tứ Giới hương, có thể nhận biết dễ dàng. Loại hương thứ năm chính là Định hương, đắc Ly Cấu tam-muội, loại thứ sáu là Huệ hương. Vua cùng bốn đạo binh đều bay lên không là do Huệ mà chứng Không vậy. Loại thứ bảy là Giải Thoát hương, tâm niệm nơi Phật, thoát được Ngũ Dục. Loại thứ tám là Tri Kiến hương, nhóm họp giống như mây để nghe pháp chính là tri kiến vậy. Loại thứ chín là Xứng Pháp Giới hương. Tiên Đà Bà[14] c̣n có tên khác là Tứ Thật. Ở đây nên hiểu [Tiên Đà Bà] nghĩa là muối, hương giống như vậy. Loại thứ mười là hương mất hết cả Năng lẫn Sở nên gọi là Đoạt Ư”. Nay hương Pháp Thân của Phật có đủ các công đức cũng giống như thế đó.

 

2.5.2.2. Lược thuật sự tu hành của chính ḿnh

 

Gồm hai phần:

      1. Tự lợi

      2. Lợi tha.

 

2.5.2.2.1. Tự lợi

 

Chánh kinh:

Ngă bổn nhân địa, dĩ niệm Phật tâm nhập Vô Sanh Nhẫn.

(Lúc con tu nhân vốn là dùng tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn)

 

Sớ: “Bổn nhân” chính là nhân, Vô Sanh là quả. Câu kế tiếp bóc trần cái quả để phô bày cái nhân. [Bồ Tát dùng chữ] “tâm’ để thuật rơ chính ḿnh niệm Phật chẳng dùng ư thức phân biệt để niệm mà là nhiếp trọn sáu căn, nhất tâm bất loạn để niệm. “Nhập” là chứng. “Nhẫn” là trí.

“Vô Sanh”: Ước theo Lư tánh để nói th́ do huệ tâm an trụ trong Lư vô sanh, nên gọi là Vô Sanh Nhẫn. Thanh Lương Sớ giảng: “Nếu ước theo Nhẫn th́ lư vô sanh chính là Vô Sanh Nhẫn. Nếu ước theo trí vô sanh và phiền năo chẳng sanh th́ Vô Sanh chính là Nhẫn”. Vô sanh pháp tánh từ đầu đến cuối chẳng khác, nhưng chứng nhập Pháp Nhẫn th́ địa vị chẳng giống nhau. Lăng Nghiêm Kinh quyển thứ ba chép: “Người ấy liền đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Tín Lực Nhập Ấn Độ Kinh[15] chép: “Pháp Vô Sanh Nhẫn chính là địa vị Quán Hỷ thanh tịnh thứ nhất, đạt được chỗ đại an ổn vô úy, tức là Bồ Tát sanh tâm như thế này: Ta đă trụ được trong Vô Sanh Nhẫn nên sanh tâm an ổn, v́ làm cho người khác trụ Vô Sanh Nhẫn nên ḷng được an ủi”. Nhân Vương Kinh nói: “Vô Sanh Nhẫn Bồ Tát chính là các Bồ Tát thuộc những địa vị Viễn, Bất Động, Quán Huệ”. Viễn chính là địa vị thứ bảy, tức Viễn Hành Địa (trong phẩm vị Thập Địa Bồ Tát). Bất Động chính là địa vị thứ tám, tức Bất Động địa. Quán Huệ chính là địa thứ chín, tức Thiện Huệ địa. Do vậy, biết Nhẫn bắt đầu là từ ba địa vị ấy mà tiến dần lên, đến cuối cùng là địa vị Đẳng Giác bởi lẽ ngài Thế Chí thuộc địa vị Bổ Xứ vậy.

Câu trên (tức câu “dùng tâm niệm Phật”) là tu chứng, c̣n câu này (tức câu “để nhập Vô Sanh Nhẫn”) chính là cái được Ngài ngộ chứng. Nghĩa là dùng tịnh niệm chân chánh trừ diệt vọng tưởng nhơ đục, tà vạy, nội tưởng chẳng khởi, ngoại cảnh tự vắng lặng, nội pháp lẫn ngoại pháp đều là Không, hết thảy vô sanh. Nhân Vương Kinh nói: “Hết thảy pháp là Không nên đắc Vô Sanh Nhẫn”. Hơn nữa, Vô Sanh Nhẫn c̣n gọi là Vô Diệt Nhẫn, hoặc Vô Trụ Nhẫn. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Vô Sanh Nhẫn là chẳng thấy có chút pháp nào sanh, mà cũng chẳng thấy chút pháp nào diệt. V́ cớ sao? Nếu vô sanh sẽ vô diệt. Nếu không sanh diệt sẽ không có trụ xứ”. Nay niệm Hóa Thân Phật, chứng đắc Không Như Lai Tạng trí th́ gọi là “nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Niệm Báo Thân Phật, chứng đắc Bất Không Như Lai Tạng trí th́ gọi là “nhập Vô Diệt Pháp Nhẫn”. Niệm Pháp Thân Phật, chứng đắc Không Bất Không Như Lai Tạng trí th́ gọi là “nhập Vô Trụ Pháp Nhẫn”.

Đây cũng là nêu lên một pháp để gồm thâu các pháp khác. Nếu chỉ nhẫn được Vô Sanh th́ bậc thánh nhân bên Tiểu Thừa cũng có, há đủ để coi là Nhẫn sâu mầu của bậc Đẳng Giác hay sao?

 

Sao: “Nhiếp trọn sáu căn” là xoay ngược trở về một, sáu công dụng [của sáu căn] đều chẳng hiện hành. “Nhất tâm bất loạn” là nương vào một tạng tâm nên các niệm khác chẳng sanh. Niệm nghĩa là tâm làm chủ thể để niệm, Phật là đối tượng được niệm. Niệm bao gồm cả Năng lẫn Sở. “Nhẫn tức là trí” [ư nghĩa đă rơ rệt nên] chẳng lập lại ư tưởng trong lời Sớ.

Từ chữ “Thanh Lương Sớ” trở đi, bèn có lời Sao như sau: Vô Sanh Nhẫn có hai nghĩa:

1. Một là cùng nói về Lư lẫn Trí.

2. Hai là chỉ nói riêng về Trí.

Lại có hai nghĩa:

1. Một là trí chẳng sanh, tức Vô Phân Biệt trí, bản thể của nó không có những ư niệm suy lường.

2. Hai là phiền năo chẳng sanh do vọng tưởng chẳng dấy động.

Từ chữ “Vô Sanh pháp” trở đi là phán định địa vị. Từ chữ “câu trên” trở đi, nêu duyên do đắc Nhẫn. Từ chữ “Hơn nữa, Vô Sanh Nhẫn” trở đi là ước theo nghĩa Biệt tướng để giải thích [Vô Sanh Nhẫn]. Câu “Nếu vô sanh sẽ vô diệt…” nếu nói đầy đủ sẽ như sau:

Nếu vô sanh sẽ vô diệt. Nếu vô diệt sẽ vô tận. Nếu vô tận sẽ ĺa cấu, nếu ĺa cấu sẽ không sai biệt. Nếu không sai biệt sẽ không có xứ sở. Nếu không có xứ sở sẽ tịch tĩnh. Nếu tịch tĩnh sẽ ly dục. Nếu ly dục sẽ vô tác. Nếu vô tác sẽ vô nguyện. Nếu vô nguyện sẽ vô trụ. Nếu vô trụ sẽ không đến không đi. Vô sanh, chẳng đến, ĺa dục, vô tác, vô nguyện là Không. Vô diệt, vô tận, chẳng đi là Bất Không. Ĺa cấu, vô sai biệt, không xứ sở, tịch tĩnh, vô trụ là Không Bất Không. Từ chữ “nay niệm Hóa Thân Phật’ trở đi, nếu đem phối hợp với ư trên đây sẽ hiểu được ư nghĩa.

Từ chữ “đây cũng là” trở đi là lời đáp cho câu vấn nạn. Nạn rằng: “Nếu đă có các pháp như Vô Diệt Nhẫn v.v... cớ sao chỉ nói một ḿnh Vô Sanh Nhẫn?” Đáp rằng: Ở đây có hai ư:

1) Một là nêu cái chung để bao gồm những cái riêng, nên chỉ nói Vô Sanh.

2) Hai là dùng cái ban đầu để kể gộp những cái về sau nên chỉ nói tới Vô Sanh, chứ thật ra đúng lư là trọn đủ các Nhẫn.

Từ chữ “nếu chỉ” trở đi cũng là lời đáp cho câu vấn nạn. Nạn rằng: Chỉ ước theo Lư của pháp Vô Sanh, chẳng bao gồm các pháp như Vô Diệt Nhẫn v.v... sẽ phạm lỗi ǵ? Đáp rằng: Nhẫn của bậc Đẳng Giác thuộc về những pháp như Vô Diệt Nhẫn v.v... nên chẳng phải là nông cạn, gần gũi. Nếu [Nhẫn của bậc Đẳng Giác] chỉ là Vô Sanh th́ Tiểu Thừa cũng chứng được, sao đủ để coi là sâu xa, huyền diệu!

 

2.5.2.2.2. Lợi Tha

 

Chánh kinh:

Kim ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhân, quy ư Tịnh Độ.

(Nay con ở trong thế giới này nhiếp người niệm Phật quay về Tịnh Độ).

 

Sớ: “Thử giới” (cơi này) chính là thế giới Sa Bà khổ sở, “Tịnh Độ” là cơi An Dưỡng vui sướng. “Nhiếp” là ǵn giữ, tiếp dẫn. Lúc c̣n sống th́ dùng oai lực để gia tŕ khiến cho [người niệm Phật] chẳng lui sụt sự niệm Phật ấy. Lúc lâm chung, dùng nguyện lực tiếp dẫn cho kẻ ấy được văng sanh. “Quy” là trở về. Cơi này là chỗ quán trọ, cơi kia là quê nhà. Ví như có người v́ có việc phải đi xa, chưa quay về được, nay gặp bạn thân chỉ cho đường nẻo, mau chóng trở về quê nhà. Người nhiếp là đức Thế Chí, kẻ được nhiếp là hành nhân. Nhiếp bao gồm cả Năng lẫn Sở, ư nghĩa của chữ Quy cũng như thế. Người quay về là hành nhân, chỗ để quay về là Tịnh Độ. Quy bao gồm cả Năng lẫn Sở, đấy là pháp Niệm Phật. Có năm pháp môn để thấy được đức Phật trong năm cơi, tức là:

1) Ức tưởng ngoại cảnh niệm Phật th́ sanh về cơi biến hóa (hóa độ), thấy thân biến hóa (tức Hóa Thân) của đức Phật.

2) Thâu nhiếp cảnh quy về tâm để niệm Phật th́ sanh vào Liệt Thọ Dụng Độ (cơi có thân Tha Thọ Dụng bậc kém), thấy thân Thọ Dụng bậc kém của đức Phật.

3) Tâm lẫn cảnh dung thông niệm Phật sẽ sanh về cơi Thắng Thọ Dụng độ, thấy được thân Thọ Dụng thù thắng của Phật.

4) Tâm lẫn cảnh đều mất mà niệm Phật sẽ sanh vào Pháp Tánh độ, thấy thân pháp tánh của đức Phật.

5) Viên thông vô tận niệm Phật sẽ sanh về cơi pháp giới vô chướng ngại, thấy thân pháp giới vô chướng ngại của đức Phật.

Chữ “người’ [trong câu “nhiếp người quay về Tịnh Độ”] chỉ cho căn cơ. Có đủ ba diệu huệ Văn, Tư, Tu, có ba tư lương Tín, Hạnh, Nguyện th́ được gọi là “người niệm Phật”.

Hỏi: Nếu làm hạnh Ngũ Nghịch, Thập Ác, nhưng cũng có đầy đủ ba món tư lương và diệu huệ th́ có được sanh về cơi ấy hay chăng?

Đáp: Tuy phạm các lầm lỗi, nhưng hễ có Tín - Nguyện - Hạnh đối với cơi Phật ấy th́ cũng gọi là pháp khí; như trong Tam Bối (ba bậc văng sanh) hoặc chín phẩm văng sanh th́ Hạ Bối Hạ Phẩm chính loại này.

Hỏi: Niệm Phật bao lâu mới được thấy Phật sanh về Tây phương?

Đáp: Tùy theo căn cơ, chẳng nhất định! Có người tŕ suốt đời, hoặc có người tŕ trong chín mươi ngày, hoặc bốn mươi chín ngày, hoặc bảy ngày, hoặc mười ngày, hoặc mười niệm, hoặc một niệm. Chỉ cần xưng danh, ắt được thấy Phật. Huống hồ c̣n có bổn nguyện của Phật Di Đà, lại được đức Thế Chí nhiếp thọ, há có kẻ niệm Phật nào mà chẳng sanh về Tây Phương ư?

 

Sao: “Cơi này khổ sở, Tịnh Độ vui sướng”, tức là cơi này có đủ tám nỗi khổ: Sanh th́ ở trong thai ngục, tuổi già ngán ngẩm chân tay run rẩy, mắc bịnh trầm kha, chết th́ đau xót bởi chia ĺa, yêu thương muốn tụ họp th́ lại bị chia phôi, oán ghét muốn trốn tránh mà cứ phải gặp gỡ, mong cầu hễ muốn được lại bị mất, cho đến năm Ấm lẫy lừng. C̣n trong cơi Cực Lạc: Hóa sanh trong hoa sen nên không bị khổ sở khi sanh; do lạnh nóng chẳng thay đổi nên không bị khổ v́ già; thân xa ĺa Phần Đoạn[16] nên không bị bịnh khổ; do thọ mạng vô lượng nên không khổ v́ chết; không có cha, mẹ, vợ con nên không khổ sở v́ yêu thương bị chia ĺa; thượng thiện nhân tụ hội nên không khổ v́ oán ghét mà cứ phải gặp gỡ; mong ǵ đều tự có nên không khổ v́ cầu chẳng được; quán chiếu không tịch nên không khổ v́ Ngũ Ấm lừng lẫy.

Từ Vân sám chủ nói: “Chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, bạn ác buộc ràng, lũ ma năo loạn, hứng chịu luân hồi, đọa trong nẻo ác, trần duyên chướng đạo, thọ mạng ngắn ngủi, tu hành lui sụt, dẫu trải nhiều kiếp như bụi trần vẫn khó thể thành tựu. Đây chính là mười sự khổ trong cơi Ta Bà. Thường thấy Phật, luôn nghe pháp, thánh hiền tụ hội, rời ĺa ma sự, dứt luân hồi, không ác đạo, duyên thù thắng trợ đạo, thọ mạng vô lượng, nhập Chánh Định Tụ, hạnh viên măn trong một đời. Đây chính là mười thứ vui cơi An Dưỡng vậy”.

Từ “nghĩa của chữ Quy” trở đi, Thanh Lương Trinh Nguyên Sớ[17] có đoạn: “Hỏi: Chẳng sanh vào Hoa Tạng mà sanh về Cực Lạc, là v́ sao vậy? Đáp: Có bốn ư:

1. Một là do có duyên. Đức Di Đà nguyện sâu nặng, chuyên tiếp độ người Sa Bà.

2. Hai là khiến cho chúng sanh quy hướng t́nh thức về một mối. Nếu nói mười phương đều tốt đẹp, kẻ sơ tâm sẽ bối rối, không có chỗ để dựa nương.

3. Ba là do [Cực Lạc] chẳng rời khỏi Hoa Tạng. Cực Lạc cách đây mười vạn ức cơi, tức là thuộc tầng mười ba của Hoa Tạng thế giới, chưa ra ngoài sát chủng[18].

4. Bốn là v́ [A Di Đà Phật] chính là Bổn Sư [Thích Ca Mâu Ni Phật]. Kinh chép: ‘Hoặc có kẻ thấy Vô Lượng Thọ Phật được Quán Tự Tại v.v... vây quanh, đă khen ngợi đức hạnh của bổn tôn [Tỳ Lô] Giá Na như thế’. Há chẳng phải là đức Bổn Sư đă dùng tên khác để hóa độ ư? Về Sự th́ là từ cơi này sanh về cơi kia, thấy đức Di Đà ở trong Cực Lạc; nhưng trong Lư th́ chỉ là bỏ cái Bất Giác, trở về với Bổn Giác, thấy tự tánh, trụ trong duy tâm!”

Hỏi: Đă là vạn pháp duy tâm, sao lại thấy cơi này vui, cơi kia khổ? Chúng sanh và Phật có đến và đi vậy?

Đáp: Cơi có khổ hay vui, tức là tâm tướng nhơ hay sạch. Chúng sanh có đến hay đi là do tâm mê hay ngộ. Nhơ, sạch, mê, ngộ như thế trọn chẳng rời ĺa pháp giới! Cho nên nói: “Ngoài tâm không có pháp”. Kinh Lăng Già cũng dạy: “Nếu hết thảy đều là tâm, thế gian không có trụ xứ, cớ sao lại thấy đại địa, chúng sanh có đến đi? (đây là lời vấn nạn) Như chim bay (ví cho chúng sanh) trên hư không (ví cho tự tâm) tùy khả năng mà bay đi (ví như thức phân biệt. Nghĩa là trong hư không tự tâm về sau lại hiện ra chim chúng sanh. Những con chim chúng sanh ấy lại ở trong hư không tự tâm, thuận theo cái thức phân biệt mà đến đi, qua lại), không nương cũng không trụ giống như đi trên đất (nghĩa là hư không tự tâm tuy không có chỗ để nương tựa, ở, đậu, nhưng lại có thể khiến cho chim chúng sanh giống như đi trên đất bằng, dường như có chỗ để nương tựa, ở đậu). Chúng sanh cũng giống như vậy, tùy theo phân biệt hư vọng mà đi lại trong tự tâm giống như chim lượn trên hư không” (lời đáp chính là lời giải thích. Bốn câu trước là thí dụ, ba câu sau là Hợp).

“Văn, Tư, Tu”: Nghe nói danh hiệu của Phật là Văn Huệ. Nhớ tưởng trong ḷng là Tư Huệ, tŕ niệm chẳng quên là Tu Huệ. Phật Địa Luận chép: “Bồ Tát mang dép Tam Diệu Huệ trở về Tịnh Độ”. Giải rằng: Do Văn, Tư, Tu mà được vào Tịnh Độ, cho nên người niệm Phật cần phải trọn đủ ba Huệ.

“Tín, Hạnh, Nguyện”: Nghe nói môn Niệm Phật tâm chẳng nghi ngờ th́ là Tín. Tin rồi hiểu biết, dấy ḷng ưa muốn th́ gọi là Nguyện. Nguyện xong liền niệm, tâm siêng năng tinh tấn th́ gọi là Hạnh. Kinh Di Đà dạy: “Nếu có kẻ nào tin tưởng, hăy nên phát nguyện, chấp tŕ danh hiệu”.

“Tuy phạm các lỗi” là như Quán Kinh Sao đă giảng: “Kẻ phàm phu sát đất trong cơi này thuộc Tà Định Tụ. Kẻ phát tâm tu hành, chưa được Bất Thoái th́ thuộc Bất Định Tụ. Đă được Bất Thoái th́ thuộc Chánh Định Tụ. Nếu sanh về An Dưỡng sẽ chẳng luận cao hay thấp. V́ cớ sao vậy? Kẻ phạm tội Ngũ Nghịch, lâm chung mười niệm, được văng sanh th́ cũng được Bất Thoái, trở thành Chánh Định Tụ”. Dựa theo đây, biết là tội nhân niệm được mười niệm liền được coi là pháp khí, trái ngược với người đời, tuy hành các điều thiện nhưng đối với cơi Phật chẳng có Tín - Nguyện - Hạnh kia th́ vẫn chẳng được gọi là pháp khí vậy.

“Tam bối, chín phẩm”:

- Nếu phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, chẳng hủy báng Tam Bảo, tu công đức lớn lao, chuyên niệm Di Đà, nguyện sanh về cơi kia th́ Chân Phật sẽ đến đón, ngồi trên hoa sen bảy báu, trụ Bất Thoái Chuyển, trí huệ dũng mănh, thần thông tự tại. Đấy gọi là Thượng Bối, kiêm thêm hạnh Lợi Tha.

- Nếu phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, chẳng hủy báng chánh pháp, tu chút công đức, chuyên niệm danh hiệu Phật, hồi hướng nguyện văng sanh th́ Hóa Phật đến đón, ngồi trong hoa sen, sanh về cơi kia, trụ Bất Thoái Chuyển, công đức trí huệ. Đây gọi là Trung Bối, chỉ có hạnh tự lợi.

- Nếu phát Bồ Đề tâm, cũng tin nhân quả, chẳng hủy báng chánh pháp, chẳng tạo tội Ngũ Nghịch, tuy không có công đức, chuyên niệm danh hiệu Phật mười tiếng hoặc một tiếng. Lúc lâm chung, mộng thấy đức Phật kia cũng được văng sanh, công đức trí huệ. Đây gọi là Hạ Bối.

- Chẳng khuyết hai lợi hạnh (tự lợi và lợi tha), nếu bảy ngày bảy đêm lễ niệm danh hiệu Phật, tam tâm (chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng tâm) sáu niệm (niệm Phật, pháp, tăng, thiên, thí, giới), đọc kinh hiểu nghĩa, tin sâu nhân quả, tŕ giới, lợi sanh, phát tâm phát nguyện, hồi hướng cầu văng sanh (đây là nhân), Chân Phật cùng Hóa Phật đến đón, ngồi đài kim cang, hoa sen liền nở, thấy Phật, nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn, chư Phật thọ kư (đây là quả). Đấy gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

- Nếu năm ngày năm đêm, chuyên dốc ḷng niệm Phật, chẳng hủy báng Tam Bảo, khéo hiểu nghĩa lư, phương hướng, tin sâu nhân quả, tŕ giới, hoằng pháp, phát đại tâm nguyện, hồi hướng cầu sanh (đây là nhân), chân Phật và hóa Phật đến đón, ngồi đài tử kim, qua một đêm hoa nở, thấy Phật, nghe pháp. Bảy ngày sau chẳng lui sụt Bồ Đề. Trong một tiểu kiếp, đắc Nhẫn, được Phật thọ kư (đấy là quả). Đây gọi là Thượng Phẩm Trung Sanh.

- Nếu bảy ngày hoặc năm đêm, chí tâm niệm Phật, chẳng hủy báng Tam Bảo, tin sâu nhân quả, tŕ giới, lợi sanh, phát đại đạo tâm, hồi hướng cầu văng sanh (đây là nhân), Chân Phật cùng Hóa Phật đến đón, ngồi ṭa sen vàng, qua một ngày một đêm hoa nở, trong ṿng bảy ngày sẽ thấy Phật, hai mươi mốt ngày sau được nghe pháp. Sau ba tiểu kiếp mới trụ Hoan Hỷ địa (đấy là quả). Đây gọi là Thượng Phẩm Hạ Sanh.

Ba phẩm như thế thuộc về Thượng Bối như đă nói trong phần trên, đều kiêm hạnh lợi tha.

- Nếu ba ngày ba đêm, lễ niệm danh hiệu Phật, giữ các trai giới, phát tâm, phát nguyện, hồi hướng cầu văng sanh (đây là nhân), Chân Phật đến tiếp dẫn, ngồi đài hoa sen, văng sanh Tịnh Độ. Hoa sen liền nở, nghe pháp Tứ Đế, đắc quả La Hán (đấy là quả). Đây gọi là Trung Phẩm Thượng Sanh.

- Nếu một ngày một đêm, xưng niệm Di Đà, giữ tám giới hay mười giới, phát tâm, phát nguyện, hồi hướng cầu văng sanh (đây là nhân), Chân Phật đến tiếp dẫn, ngồi trên hoa sen bảy báu. Qua bảy ngày hoa nở, đắc quả Tu Đà Hoàn. Sau nửa kiếp mới thành quả La Hán (đấy là quả). Đây gọi là Trung Phẩm Trung Sanh vậy.

- Nếu một ngày một đêm chuyên dốc ḷng niệm Phật, hiếu dưỡng, nhân từ, lâm chung gặp thiện tri thức chỉ bày pháp môn Tịnh Độ (đây là nhân), mạng hết liền ngồi trên hoa sen sanh sang cơi kia. Bảy ngày sau nghe pháp, đắc quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp, thành A La Hán (đấy là quả). Đây gọi là Trung Phẩm Hạ Sanh.

Ba phẩm như thế thuộc về Trung Bối đă nói trong phần trước, chỉ làm hạnh tự lợi.

- Nếu chẳng báng chánh pháp, cũng làm các điều ác, lúc mạng chung nghe tên kinh, xưng niệm Di Đà, cho đến nửa ngày hoặc nửa đêm (đây là nhân), Hóa Phật đến tiếp dẫn, ngồi trên hoa sen báu, qua bốn mươi chín ngày hoa nở, nghe pháp, phát tâm Bồ Đề, qua mười tiểu kiếp được nhập Sơ Địa (đấy là quả). Đây gọi là Hạ Phẩm Thượng Sanh.

- Nếu phá giới, trộm cắp, nhưng chẳng báng Tam Bảo, lúc lâm chung nghe pháp Tịnh Độ, xưng niệm danh hiệu Phật qua một thời một khắc (đây là nhân), Hóa Phật đến tiếp dẫn, ngồi trên hoa sen, qua sáu kiếp sau hoa sen mới nở, nghe pháp, phát tâm (đấy là quả). Đây gọi là Hạ Phẩm Trung Sanh vậy.

- Nếu tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, cũng chẳng báng chánh pháp, lâm chung nghe biết Phật, chí tâm mười niệm thậm chí một niệm (đây là nhân), lâm chung thấy hoa sen vàng. Trọn hết mười hai đại kiếp, hoa sen mới nở, nghe pháp Thật Tướng, phát tâm vô thượng (đấy là quả). Đây gọi là Hạ Phẩm Hạ Sanh.

Ba phẩm như vậy thuộc về Hạ Bối như trong phần trên đă nói, không có hai lợi hạnh.

Hỏi: Kinh Đại Bổn nói: “Chỉ trừ Ngũ Nghịch”, Quán kinh nói: “Ngũ nghịch được văng sanh”. Hai nghĩa ấy như thế nào?

Đáp: Kinh Đại Bổn nói: “Chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” cho nên biết là nếu đă phạm tội Ngũ Nghịch lại c̣n kèm thêm báng pháp th́ bị loại ra. Nếu chẳng kèm thêm báng pháp th́ cũng chưa bị loại trừ. Bởi lẽ, hễ báng th́ chẳng tin, chẳng tin sẽ chẳng văng sanh; tức là: “Hễ nghi, hoa chẳng nở”. Quán Kinh chỉ nói Ngũ Nghịch, chẳng nói tới báng pháp nên biết là tuy phạm đủ tội Ngũ Nghịch, nhưng chẳng báng pháp ắt vẫn nhất định được văng sanh. Nếu như kiêm cả báng pháp th́ cũng chẳng được văng sanh. Ấy là v́ hễ tin th́ không báng, chẳng báng th́ hoa nở. Như câu nói: “Tin th́ quyết định được sanh” chính là ư này vậy. “Hạ bối, hạ phẩm” là nói hạ phẩm trong Hạ Bối, chẳng phải là Thượng hay Trung.

Hỏi: Đối với Tam Bối, kinh Đại Bổn thuần nêu thiện hạnh, chẳng nhắc tới kẻ ác, chỉ bằng với sáu phẩm trước trong Quán kinh, cớ sao nay lại đem Hạ Bối ghép với Hạ Phẩm?

Đáp: Có ba ư:

1) Một là ước theo hạnh, nhân, thiện, ác tuy khác, nhưng địa vị, thứ tự trong Bối và Phẩm đều giống nhau (ba lần ba là chín). Nay ở đây chỉ xét về địa vị, chẳng xét tới hạnh.

2) Hai là Hạ Bối và Hạ Phẩm có hạnh mười niệm giống nhau.

3) Ba là Ngũ Nghịch, Thập Ác nhưng chẳng báng pháp th́ cũng kể như người lành trong Hạ Bối vậy. Kinh Đại Bổn dạy: “Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh cũng sanh trong cơi ta”. Đọa địa ngục chẳng phải là kẻ Ngũ Nghịch hay sao? Nếu chẳng gộp vào Hạ Bối th́ nên đặt trong bối nào?

“Tŕ suốt đời” là như kinh Đại Bổn dạy: “Một mực chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật” nên biết là tŕ suốt đời. “Chín mươi ngày” là như kinh Bát Châu Tam Muội nói: “Trong chín mươi ngày, thường đi, thường đứng, nhất tâm hệ niệm, ở trong tam-muội, được thấy Di Đà”. Kinh Văn Thù Bát Nhă nói: “Trong chín mươi ngày, ngồi ngay ngắn hướng về phương Tây, chuyên niệm đức Phật, liền thành tam-muội”. “Bốn mươi chín ngày” là như trong kinh Đại Tập dạy: “Nếu chuyên niệm Phật tới bốn mươi chín ngày, thân hiện tại sẽ thấy Phật”. “Bảy ngày” là như trong kinh Di Đà và Quán Kinh đều nói một ngày cho đến bảy ngày liền được văng sanh. “Mười ngày” là như kinh Cổ Âm Vương nói: “Thọ tŕ Phật hiệu mười ngày mười đêm, trừ bỏ tán loạn, ắt được thấy Phật”. Kinh Đại Bổn nói: “Nhất tâm thường niệm, mười ngày đêm chẳng dứt, khi mạng chung ắt được sanh về cơi ta”. “Một ngày” là như kinh Đại Bổn nói: “Nhất tâm hệ niệm nơi ta, dẫu chỉ một ngày đêm chẳng dứt, ắt sanh về cơi ta”. “Mười niệm” là như Quán kinh nói: “Người bị sự khổ bức bách, chẳng thể niệm Phật, xưng danh hiệu Phật mười tiếng liền được văng sanh”. “Một niệm” là như kinh Đại Bổn nói: “Tin ưa, chẳng ngờ vực, thậm chí một niệm, niệm đức Phật ấy, cũng được văng sanh”.

Hỏi: V́ sao niệm đức Phật ấy một niệm mà cũng được văng sanh cơi nước ấy? Một câu Di Đà có thể diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử ư?

Đáp: Nhất tâm niệm rơ ràng, vọng tưởng chất chứa liền mau chóng tan biến. Ví như một ngọn đèn tiêu diệt bóng tối ngàn năm trong nhà; một ngọn lửa có thể thiêu cháy trăm cỗ xe củi. Huống là nương theo bổn nguyện công đức của Như Lai, há có thể nghĩ bàn được sao? Do vậy, kinh Pháp Hoa nói: “Xưng nam-mô Phật một tiếng, đều được thành Phật đạo”. Kinh Phật Danh nói: “Nghe danh hiệu Phật một lần, diệt tội trong vô lượng kiếp sanh tử”. Kinh Đại Bi nói: “Một lần xưng danh Phật th́ do thiện căn ấy sẽ nhập cơi Niết Bàn chẳng thể cùng tận”. Đại Trang Nghiêm Kinh Luận chép: “Trong thời đức Phật tại thế, một ông già đến xin xuất gia, các vị như Xá Lợi Phất v.v… đều chẳng ưng thuận thế độ, do quán thấy ông ta trong nhiều kiếp chẳng có căn lành. Đức Phật tự độ ông ta, liền chứng đạo quả. Nhân đấy, bảo đại chúng: ‘Trong vô lượng kiếp trước, ông này làm người đẵn củi, bị mănh hổ đuổi riết, quá hoảng hốt trèo lên cây, xưng ‘nam-mô Phật’. Do bởi căn lành ấy nên gặp ta liền đắc độ”.

Từ chữ “huống hồ c̣n có” trở đi: Trong đoạn trên là nói về tự lực, c̣n câu này nói về tha lực. Tự lực lại có hai thứ: Một là do sức xưng niệm đức Phật lực ấy giống như buồm và bánh lái. Hai là sức Phật tánh vốn sẵn có giống như thuyền bè. Tha lực tức là sức nhiếp thủ của Phật nguyện giống như thuận gió. Ba sự cùng trọn đủ, chắc chắn sanh về Tịnh Độ.

Hỏi: Phật liền tự đến tiếp dẫn, sao lại phải nhọc công bao nhiêu Hóa Phật đưa tay tiếp dẫn nữa?

Đáp: Điều này nhằm hiển thị công hạnh người ấy sâu hay cạn. Như ngài Thiện Đạo, một ngàn câu niệm liền phóng ra ngàn tia sáng, ngài Thiếu Khang niệm mười tiếng bay ra mười đức Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm, Ly Cấu Tràng Bồ Tát nói kệ rằng: “Dùng Phật làm cảnh giới, chuyên niệm chẳng buông bỏ, người này được thấy Phật, số ấy bằng với tâm”.

 

2.5.3. Kết luận để đáp câu hỏi về pháp Viên Thông:

 

Chánh kinh:

Phật vấn viên thông, ngă vô tuyển trạch, đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, đắc tam-ma-địa, tư vi đệ nhất.

(Phật hỏi pháp nào viên thông, con chẳng chọn lựa. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đắc Tam Ma Địa, đấy là bậc nhất.)

 

Sớ: Câu đầu tiên nhắc lại lời hỏi. Bao hàm các thứ mầu nhiệm gọi là Viên. Vào khắp các cơi gọi là Thông. Lại bao gồm chung muôn sự hóa độ, chẳng đ́nh trệ một chỗ, gọi là Viên. Gộp chung hết thảy chúng sanh, chẳng có gián đoạn, cách ngăn th́ gọi là Thông. Năm câu kế dùng để kết luận lời đáp. Từ chữ “con chẳng” trở đi là nêu bổn nhân (nhân địa của chính ḿnh). Trước hết là sự tu nhân.

“Vô tuyển trạch” (Không chọn lựa):

1. Một là sự chọn lựa của ngài Thế Chí chẳng phải là pháp tu Nhăn Căn của ngài A Na Luật[19], không sanh khởi ư chọn lựa.

2. Hai là phía ngoài chẳng chọn lấy tướng của sáu căn (hai tướng trong sạch và thù thắng của các căn), trong chẳng chọn lấy tánh của sáu căn (tánh thấy, nghe, hay biết).

“Đô nhiếp lục căn” (Nhiếp trọn sáu căn) là để đối ứng ư trên, cũng có hai nghĩa:

1. Một là mắt chẳng chấp vào Sắc, cho đến ư chẳng duyên nơi Pháp.

2. Hai là chỉ y vào một tâm tinh minh[20], công dụng của sáu căn chẳng hiện hành.

Các niệm khác chẳng sanh th́ gọi là Tịnh bởi lẽ niệm mà vô niệm. Nhất tâm buộc ư nơi Phật th́ gọi là Niệm v́ vô niệm mà niệm vậy. “Tuơng kế” (Tiếp nối): Nếu nói về Sự th́ là ức niệm chẳng ngơi, về Lư th́ là chiếu soi trọn vẹn không gián đoạn.

Từ chữ “đắc Tam-ma-địa” trở đi là chứng quả. Tiếng Phạn “Tam-ma-địa” (Samādhi) được cơi này dịch là Đẳng Chí. Đẳng tức là cân bằng, không hôn trầm hay lao chao; Chí là đạt đến, tức đạt đến Định thù thắng vậy. [Tam-ma-địa] c̣n dịch là Đẳng Tŕ, tức là giữ cái tâm b́nh đẳng hướng đến một cảnh. Tuy thông với nhân quả, nhưng điều này cũng chứa đựng một nghĩa là “công dụng thuần thục” cho nên gọi là “đắc”. Về Sự là thành tựu Niệm Phật tam-muội, về Lư là hiển thị bổn tánh Như Lai. Câu “tư vi” (đấy là) chính là lời khen ngợi sự thù thắng.

Hỏi: Kinh Đại Bổn Di Đà nói: “Cực Lạc thanh tịnh chỉ kém Nê Hoàn[21]”. Nay trong phần chọn lựa Viên Thông của kinh này, ngài Thế Chí chọn pháp Niệm Phật, sau đó ngài Quán Âm lại chọn pháp Phản Văn th́ làm sao gọi là đệ nhất được?

Đáp: Xét theo kinh Lăng Nghiêm, có ba ư:

1. Một là v́ đức Văn Thù nói tới tánh của niệm là sanh diệt, nhân quả chiêu cảm khác nhau nên là đệ nhị; c̣n ngài Thế Chí nói tới “nhất tâm tịnh niệm, thấy tự Phật (đức Phật trong tự tánh) ngay trong hiện tại” nên là đệ nhất.

2. Hai là A Nan dơi theo âm thanh nên Phản Văn xứng hợp căn cơ của đương nhân (tức ngài A Nan) trong pháp hội Lăng Nghiêm; c̣n pháp Niệm Phật chẳng dành cho căn cơ của đương nhân trong pháp hội. Do nh́n từ phương diện thánh tánh th́ hai pháp đều không, trở về nguồn cội, hai pháp này chẳng hai, cho nên đức Phật khen ngợi [pháp Viên Thông của] Quán Âm và Thế Chí đều không hơn kém.

3. Ba là do giáo thể của phương này trọng tại sự nghe âm thanh nên [ngài Văn Thù] chọn pháp Nhĩ Căn Viên Thông. Do vậy, nếu xét theo căn cơ của phương này, pháp Viên Thông của ngài Thế Chí ở bậc thứ, nhưng đối với pháp môn trong mười phương, Niệm Phật lại là bậc nhất. Bởi vậy, đối với căn cơ trong mười phương th́ pháp Niệm Phật viên thông bằng với pháp Viên Thông của đức Quán Âm.

Ước theo pháp môn Niệm Phật, nếu là dùng Sự niệm để niệm Tha Phật nhằm giúp hiển lộ đức Phật trong tánh Bổn Giác th́ thua kém Nê Hoàn, khác với Quán Âm. Chứ nếu dùng Lư niệm để niệm Tự Phật, hiển lộ trực tiếp đức Phật trong cái tâm Niết Bàn th́ bằng với Nê Hoàn, giống như Quán Âm vậy. Nói: “Bất giả phương tiện, tực đắc tâm khai” (Chẳng nhọc phương tiện, tâm tự được mở mang) chính là nhằm diễn tả ư này. Pháp môn Niệm Phật như thế chẳng gọi là đệ nhất, th́ gọi là ǵ? Người tu tâm cớ sao lại coi thường nó vậy?

 

Sao: “Nhắc lại lời hỏi”: Kinh Lăng Nghiêm quyển năm chép [lời Phật hỏi đại chúng]: “Ta nay hỏi các ông lúc phát tâm ban đầu, ngộ mười tám giới[22], những ǵ là viên thông? Từ phương tiện nào nhập tam-ma-địa?” nên ở đây nhắc lại [câu hỏi ấy] bằng cách nói “Phật hỏi pháp nào Viên Thông”. Từ chữ “bao hàm” trở đi, ước theo nghĩa bao trùm, trọn khắp để giải thích chữ Viên Thông. Từ chữ “lại” trở đi, ước theo phương diện nhiếp thủ chúng sanh để giải thích chữ Viên Thông. Hơn nữa, do nhiều môn vào trong một môn, một môn chứa đựng nhiều môn nên gọi là Viên. Như hạt châu treo trên không, chiếu ra năm màu. Một nhập nhiều môn, nhiều môn chứa đựng trong một nên gọi là Thông, như suối chảy ngầm, xoi thủng mười phương.

Từ chữ “nhiếp trọn các căn” trở đi th́ Phật là năng nhiếp (tức dùng danh hiệu Phật để thâu nhiếp các căn), Căn là sở nhiếp (cái được thâu nhiếp bởi danh hiệu Phật). Lời Sớ giải thích chữ “nhiếp” bao gồm hai nghĩa. Trong hai nghĩa ấy, nghĩa trước dựa theo Sự niệm, nghĩa sau dựa theo Lư niệm. Hai nghĩa “không chọn lựa” được nói trong đoạn Sớ trước đó cũng dựa theo cách phán định ở đây để hiểu.

Từ chữ “Đẳng Chí” trở đi: Viên Giác Sớ[23] dịch chữ Tam-ma-địa là Đẳng Chí. “Đẳng” tức là b́nh đẳng trụ tŕ (ǵn giữ b́nh đẳng), cùng xa ĺa hai thứ hôn trầm và lao chao. “Chí” là có thể đạt đến Định thù thắng và đạt đến địa vị thù thắng. Từ chữ “Đẳng Tŕ” trở đi là lời giải thích [ư nghĩa chữ Tam-ma-địa] theo Hội Huyền Kư[24]: Xét về Sự th́ thành Đẳng Chí, xét theo Lư thời thành Đẳng Tŕ, cho nên lập ra hai nghĩa ấy.

Từ chữ “Hỏi” trở xuống là đáp lời gạn. Sư Huệ Giác nói: “Nếu có kẻ nói Tịnh Độ là phương tiện quyền biến của thánh nhân nhằm tiếp độ kẻ độn căn, hóa độ căn khí phàm phu. Nếu vượt lên, vào thẳng địa vị Như Lai, cần ǵ phải nhờ vào sức bên ngoài? Đáp rằng: Các vị Bồ Tát Mă Minh, Long Thọ, Thiên Thân v.v... đều phát nguyện văng sanh, hết thảy các vị ấy có phải là độn căn hay chăng? Trong kinh Đại Bảo Tích, đức Phật Thích Ca khuyên phụ vương Tịnh Phạn và sáu vạn người họ Thích đều cầu sanh về Tịnh Độ, há có phải hết thảy bọn họ đều là căn khí phàm phu hay chăng? Một phen khởi tâm niệm Phật liền thấy tánh thành Phật, há chẳng phải là một phen siêu việt, trực nhập hay chăng?” Thanh Thảo Đường thân sau làm Tăng Lỗ Công, Giới Thiền Sư thân sau làm Tô Đông Pha, thân sau của Chân Như Triết Công[25] nhiều nỗi sầu khổ, thân sau của Thái B́nh cổ lăo đắm trong phú quư, thiền sư Hải Ấn Tín sanh làm con gái nhà Châu Pḥng Ngự, há c̣n có thể một gậy tự lực được chăng? Nếu coi pháp môn này là Quyền th́ cái ǵ mới là Thật? Kẻ khinh rẻ pháp Niệm Phật chẳng thể không cẩn thận vậy thay!

Từ chữ “nếu là” trở xuống là kết luận những điều đă được tŕnh bày trong lời Sớ. Nếu nói do một môn Niệm Phật sanh ra pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian th́:

1. V́ Ngũ Dục phát tâm niệm Phật th́ là địa ngục giới.

2. V́ danh lợi phát tâm niệm Phật là ngạ quỷ giới.

3. V́ quyến thuộc phát tâm niệm Phật là súc sanh giới.

4. V́ trỗi vượt người khác liền phát tâm niệm Phật là Tu-la giới.

5. V́ sợ ác đạo nên phát tâm niệm Phật là nhân pháp giới.

6. V́ cầu sự vui cơi trời nên phát tâm niệm Phật là thiên pháp giới.

7. Thích sự vui Niết Bàn phát tâm niệm Phật là Thanh Văn giới.

8. V́ hâm mộ Vô Sanh nên phát tâm niệm Phật là Duyên Giác giới.

9. V́ muốn độ người nên phát tâm niệm Phật là Bồ Tát giới.

10. V́ mong thành Phật nên phát tâm niệm Phật là Phật pháp giới.

11. Vững ḷng niệm Phật là Địa đại.

12. Tâm vui mừng niệm Phật là Thủy đại.

13. Tâm thành thục niệm Phật là Hỏa đại.

14. Tâm siêng năng niệm Phật là Phong đại.

15. Trống ḷng niệm Phật là Không đại.

16. Tâm linh thông niệm Phật là Căn đại.

17. Tưởng tâm niệm Phật là Thức đại.

18. Niệm Phật xoay chuyển được cái Nh́n là Nhăn căn.

19. Niệm Phật xoay chuyển cái Nghe là Nhĩ căn.

20. Niệm Phật chuyển cái Ngửi là Tỵ căn.

21. Niệm Phật xoay lại cái Nếm là Thiệt căn.

22. Niệm Phật thâu nhiếp sự cảm nhận là Thân căn.

23. Niệm Phật xoay ngược cái Biết là Ư căn.

24. Niệm Phật quán tượng là Sắc trần.

25. Niệm Phật nghe danh hiệu là Thanh trần.

26. Niệm Phật nhiễm hương là Hương trần.

27. Niệm Phật có mùi vị là Vị trần.

28. Niệm Phật được trang nghiêm bởi ánh sáng là Xúc trần.

29. Niệm Phật quán tưởng là Pháp trần.

30. Nhăn căn chẳng phân biệt Sắc là Nhăn thức niệm Phật.

31. Tai chẳng phân biệt Thanh là Nhĩ thức niệm Phật.

32. Mũi chẳng phân biệt Hương là Tỵ thức niệm Phật.

33. Lưỡi chẳng phân biệt Vị là Thiệt thức niệm Phật.

34. Thân chẳng phân biệt Xúc là Thân thức niệm Phật.

35. Ư chẳng phân biệt Pháp là Ư thức niệm Phật.

36. Sợ sanh tử khổ là Khổ Đế niệm Phật.

37. Dứt các Hoặc nghiệp là Tập Đế niệm Phật.

38. Tu Giới Định Huệ là Đạo Đế niệm Phật.

39. Chứng Lư tịch diệt là Diệt Đế niệm Phật.

40. Phiền năo chẳng sanh là Vô Minh duyên niệm Phật.

41. Chẳng tạo các nghiệp là Hành duyên niệm Phật.

42. Chẳng nương gá vào thai mẹ là Thức duyên niệm Phật.

43. Sắc, tâm đoạn diệt là Danh Sắc duyên niệm Phật.

44. Các căn đều nguội lạnh, mất hết là Lục Nhập duyên niệm Phật.

45. Ĺa Căn, Trần, Thức là Xúc duyên niệm Phật.

46. Chẳng nhận lănh Tiền Cảnh là Thọ duyên niệm Phật.

47. Chẳng tham tài sắc là Ái duyên niệm Phật.

48. Chẳng cầu những dục lạc trong cơi trần là Thủ duyên niệm Phật.

49. Nghiệp chẳng có thành là Hữu duyên niệm Phật.

50. Chẳng thọ Hậu Ấm là Sanh duyên niệm Phật.

51. Trống rỗng, không có chín muồi, hư hoại là Lăo Tử duyên niệm Phật.

52. Nhất tâm niệm Phật, vạn duyên tự bỏ là Thí độ.

53. Nhất tâm niệm Phật, các ác tự dứt là Giới độ.

54. Nhất tâm niệm Phật, tâm tự nhu thuận là Nhẫn độ.

55. Nhất tâm niệm Phật vĩnh viễn chẳng thoái chuyển là Tấn độ.

56. Nhất tâm niệm Phật, các tưởng khác chẳng sanh là Thiền độ.

57. Nhất tâm niệm Phật, chánh trí phân minh, là Trí độ.

58. Nhất tâm niệm Phật, thành Chánh Biến Tri là Bồ Đề.

59. Nhất tâm niệm Phật thường lạc ngă tịnh là Niết Bàn.

60. Tịch tĩnh niệm Phật là Không Như Lai Tạng.

61. Tưởng đến h́nh tượng để niệm Phật là Bất Không Như Lai Tạng.

62. Viên thông niệm Phật là Không Bất Không Như Lai Tạng.

63. Mặt trời mọc niệm Phật là trước hết chiếu thời (xét soi thời khắc).

64. Khi ăn niệm Phật là chuyển chiếu sơ (xoay lại xét soi lúc ban đầu).

65. Giữa trưa niệm Phật là chuyển chiếu trung (xoay lại xét soi chặng giữa).

66. Buổi chiều niệm Phật là chuyển chiếu vào chặng sau.

67. Mặt trời lặn niệm Phật là hoàn chiếu thời (trở lại xét soi thời gian).

68. Niệm đức Phật ở ngoài cái tâm là Tiểu Giáo.

69. Niệm đức Phật trong tâm là Thỉ Giáo

70. Niệm đức Phật chính là tâm th́ là Chung Giáo.

71. Niệm Phật chẳng phải là tâm th́ là Đốn Giáo.

72. Niệm đức Phật viên dung trọn khắp là Viên Giáo.

73. Có Phật, có tâm, tịnh niệm liên tục là Sự pháp giới.

74. Không Phật, không tâm, chẳng cần tới phương tiện là Lư pháp giới.

75. Niệm Phật, niệm tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn là Sự Lư Vô Ngại pháp giới.

76. Dù Phật hay tâm đều chứa đựng khắp vô tận là Sự Sự Vô Ngại pháp giới.

77. Một môn Niệm Phật gồm vô tận nghĩa là Tổng Tướng.

78. Có bốn hay năm nghĩa môn, chẳng phải chỉ có một cách niệm Phật, là Biệt Tướng.

79. Mười sáu pháp quán v.v… cùng thành Niệm Phật là Đồng Tướng.

80. Y báo thanh tịnh, chẳng phải là chánh báo trang nghiêm, chính là Dị Tướng.

81. Một môn niệm Phật bao quát các nghĩa thành tựu là Thành Tướng.

82. Bốn thứ hay năm thứ, mỗi thứ đều trụ trong địa vị của ḿnh là Hoại Tướng.

83. Công đức của y báo lẫn chánh báo do niệm Phật liền trọn vẹn, đồng thời đầy đủ, đấy là Tương Ứng môn.

84. Các pháp trọn khắp chẳng rời niệm Phật, rộng hẹp tự tại là Vô Ngại môn.

85. Một căn niệm Phật, sáu căn đều nhiếp là môn “một và nhiều dung chứa nhau chẳng đồng”.

86. Niệm Phật tam-muội tức là hết thảy pháp là môn “các pháp tương tức tự tại”.

87. Lúc đang niệm Phật, các môn khác chẳng hiện, đấy chính là môn “bí mật ẩn hiển đều thành”.

88. Môn niệm Phật này đều nhiếp hết thảy chính là môn “vi tế tương dung an lập”.

89. Năm thứ niệm Phật nhiếp lẫn nhau trùng trùng là môn “cảnh giới lưới của Nhân Đà La (Indra: Đế Thích)”.

90. Thấy môn Niệm Phật liền thấy vô tận, chính là môn “mượn Sự tỏ rơ pháp để sanh ḷng hiểu biết”.

91. Trước sau niệm Phật chẳng khác với đương niệm là môn “thập thế cách pháp dị thành”.

92. Một pháp Niệm Phật mang vô tận pháp là môn “chủ bạn viên minh đầy đủ công đức”[26].

93. Niệm đức Phật của tự tâm là Bổn Giác.

94. Niệm Phật tâm tin tưởng chính là Danh Tự trong Thỉ Giác.

95. Niệm Phật hiểu được tâm là Tương Tự trong Thỉ Giác.

96. Niệm Phật chứng tâm là Phần Chứng trong Thỉ Giác.

97. Niệm Phật thành Phật là Cứu Cánh Giác.

98. Lúc đang niệm Phật tịch mịch vô vi là Pháp Thân Phật.

99. Lúc đương niệm Phật không đức ǵ chẳng đủ là Báo Thân Phật.

100. Lúc đương niệm Phật, phàm thánh cùng vui là Hóa Thân Phật.

Do vậy biết một pháp Niệm Phật nhiếp sạch hết thảy các pháp vậy.

 

III. Quy mạng hồi hướng

 

Kính lễ Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí, các vị thánh hiền, ngưỡng nguyện sức Tam Bảo gia bị sẽ khiến cho kinh sớ này trọn khắp các cơi nhiều như số vi trần, kẻ thấy, nghe, tùy hỉ và vâng giữ, tuyên nói, rốt ráo được sanh về cơi An Lạc. Đem công đức này hồi hướng về pháp giới cùng thành quả Vô Thượng Bồ Đề.

 

Lăng Nghiêm Kinh Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao

Quyển Hạ hết

(Phật lịch 2544, ngày 15 tháng Mười năm 2000, Bửu Quang tự đệ tử Như Ḥa kính dịch.

Ngày 06 tháng Giêng năm 2008, sửa chữa cảo bản lần thứ nhất)

 

Duyên khởi khắc bản Thế Chí Sớ Sao

 

Trong các đường lối tu hành, Niệm Phật là bậc nhất. Phương pháp Niệm Phật không chi hơn được kinh này. Soạn Sớ Sao cũng là chuyện chẳng đặng đừng mà thôi! Mùa Đông năm Mậu Ngọ (1678), tiên sinh Đới Phúc Trai ở vùng Kinh Triệu, ông Trương Nhân Trưởng tính mừng thọ cho cha bèn tổ chức pháp hội Hoa Nghiêm. Lúc ấy, tôi suất lănh đại chúng, tụng đến môn Niệm Phật của ngài Đức Vân liền suy nghĩ chín chắn, quán niệm sâu xa, trong đêm hôm ấy mộng thấy ḥa thượng bổn sư giảng cho tôi nghe chương Thế Chí. Sáng hôm sau, bèn nghiên cứu kỹ càng bộ Hoa Nghiêm Sớ Sao của ngài Thanh Lương rồi bắt đầu viết lời giải thích vào ngày mồng Tám tháng Chạp măi cho đến hôm Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng) mới gác bút.

Tháng Năm mùa Hạ năm ấy, cầm sách đến thỉnh giáo tiên sinh Đới Phúc Trai. Rằm tháng Bảy năm nay, tiên sinh bảo con trai quyên mộ, khắc in. Con trai tiên sinh vui vẻ vâng lệnh, liền dùng chuyện này để làm công cứ ḥng cầu lành bệnh, kéo dài cuộc sống, chuyện tăng thọ, tăng phước đều có các điều ứng nghiệm. Thợ khắc nói: “Đây là do Phật, Bồ Tát gia hộ hay không phải là do Phật, Bồ Tát gia hộ?” Tôi nói:

“Hăy nên biết rằng: Kinh này ư nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do bởi lẽ ấy, nếu là những tác phẩm khơi gợi năm thứ dục lạc, hoặc xiển dương sáu trần cảnh, hoặc nhằm thu hút tiếng tăm, hoặc nhằm kết thành cái quả cái nhân của tài sản trong thế gian th́ thí tiền để khắc bản in như thế sẽ bị tổn hại vô ích. Nay khắc pháp môn Niệm Phật tặng cho một người th́ một người được lợi ích, tặng cho ngàn vạn người th́ sẽ có ngàn vạn người được lợi ích. Trong một thời, một chỗ th́ một thời một chỗ được lợi ích. Tới cùng tận đời vị lai trọn khắp các cơi số lượng nhiều như cát th́ sẽ có lợi ích trong các phương nhiều như cát đến ức kiếp. Đấy chính là sức giống như ngài Thế Chí, nguyện sánh với Di Đà, nhiếp thủ người niệm Phật quay về cơi An Dưỡng. Công đức vô lậu ấy bằng với hư không, há có thể dùng tâm suy nghĩ, lời lẽ bàn luận được hay chăng? Hơn nữa, đă lănh hội Phật tâm, khiến cho Tam Bảo thường trụ, nếu Phật chẳng gia hộ, ai sẽ gia hộ đây? V́ thế, đối với những dấu hiệu nhỏ nhoi, vặt vănh này chớ nên sanh ḷng nghi!”

Mọi người đều chấp nhận là đúng, bảo tôi soạn văn để khuyên đời, nhằm dấy lên tín tâm cho khắp hết thảy mọi người. Tiên sinh Phúc Ông nghe vậy bèn nói: “Chuyện này mờ mịt chẳng cần phải gấp rút nêu ra. Tín tâm th́ ai nấy đă sẵn có, khuyên rộng răi làm ǵ?” Tôi nói: “Chẳng phải vậy. Sanh tử là chuyện lớn. Pháp môn này có thể thoát được sanh tử há bảo là nhỏ nhoi ư? Người tin tuy nhiều, nhưng chẳng thể thường trọn khắp, nay phô bày ra ḥng khiến kẻ chưa tin sẽ tin tưởng, người đă tin sẽ thêm tin tưởng, khuyên lơn lẫn nhau nào có hại ǵ?” Do vậy bèn viết vào cuối bản Sớ Sao để giúp cho sự lưu thông vậy.

      Ngày Mười Một tháng Mười năm Canh Thân (1680) đời Khang Hy, Quán Đảnh hành giả Tục Pháp viết tại Từ Vân Quán Đường.

 

 

 

 



[1] Cao Tề là một triều đại ở miền Bắc Trung Hoa tồn tại khá ngắn ngủi chỉ trong 27 năm (550-577) do Cao Dương (vốn thuộc sắc tộc Tiên Ty) soán đoạt ngôi nhà Đông Ngụy lập ra. Sử thường gọi là nhà Bắc Tề hoặc Cao Tề để phân biệt với nhà Nam Tề (497-502) do Tiêu Đạo Thành sáng lập. Lănh thổ nhà Cao Tề thuộc địa phận lưu vực Hoàng Hà thuộc các tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông và Sơn Tây.

[2] Theo phẩm Vô Thường thuộc quyển 4, kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già (bản dịch của ngài Thật Xoa Nan Đà), chính đức Phật đă giảng về Tứ B́nh Đẳng như sau: “Này Đại Huệ! Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương vào bốn ư bí mật b́nh đẳng mà ở giữa đại chúng nói như thế này: Ta trong thuở xưa đă làm Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật. Thế nào là bốn? Chính là Tự b́nh đẳng, Ngữ b́nh đẳng, Thân b́nh đẳng, và Pháp b́nh đẳng. Thế nào là Tự b́nh đẳng? Chính là ta có danh hiệu là Phật, hết thảy Như Lai cũng có danh hiệu là Phật. Danh hiệu Phật không sai biệt th́ gọi là Tự b́nh đẳng. Thế nào là Ngữ b́nh đẳng? Chính là ta phát ra lời nói gồm sáu mươi bốn thứ Phạm âm thanh, hết thảy Như Lai cũng nói như vậy. Tánh của Phạm âm thanh giống như tiếng chim Ca Lăng Tần Già ấy chẳng tăng, chẳng giảm, không sai biệt, đấy là Ngữ b́nh đẳng. Thế nào là Thân b́nh đẳng? Chính là Pháp Thân, sắc tướng và tùy h́nh hảo của ta và chư Phật b́nh đẳng không sai biệt, trừ khi v́ điều phục chúng sanh mà tùy loại hiện thân. Đấy gọi là Thân b́nh đẳng. Thế nào là Pháp b́nh đẳng? Chính là ta và chư Phật đều cùng chứng được ba mươi bảy phần pháp Bồ Đề. Đấy gọi là Pháp b́nh đẳng”.

[3] Thân Ngũ Ấm trong khi c̣n sống gọi là Hiện Ấm, trong giai đoạn từ khi tắt hơi đến khi tái sanh trong kiếp khác th́ gọi là Trung Ấm, thân tái sanh ấy gọi là Hậu Ấm.

[4] Cái lưới của Đế Thích kết bằng một ngàn hạt châu Ma Ni, soi bóng lẫn nhau, trùng trùng biến hiện.

[5] Tức Không Như Lai Tạng, Bất Không Như Lai Tạng, Không Bất Không Như Lai Tạng.

[6] Kinh này có tên đầy đủ là A Di Đà Phật Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh, mất tên người dịch. Trong kinh này, đức Phật ở thành Chiêm Bà giảng nói về Tây Phương Cực Lạc thế giới và công đức trang nghiêm. Cơi nước của A Di Đà Phật tên là Thanh Thái, cha tên Nguyệt Thượng, mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, con trai tên Nguyệt Minh, thị giả tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí huệ tên Hiền Quang, và nói ra bài Cổ Âm Thanh Vương Đại Đà La Ni cũng như cách thức thọ tŕ để được thấy A Di Đà Phật. Theo cổ đức phán định, do trong kinh này nói A Di Đà Phật có cha mẹ, con cái v.v… nên cơi Thanh Thái chỉ là cơi ứng hóa chứ không phải là cơi Cực Lạc (báo độ) như trong ba kinh Tịnh Độ, v́ trong Cực Lạc toàn là liên hoa hóa sanh làm sao c̣n có cha mẹ, vợ con khi Phật c̣n chưa thành đạo!

[7] Tức kinh Đại Phẩm Bát Nhă (Pañcavimśati Sāhasrikā Prajñāpāramitā), c̣n gọi là Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhă, do ngài Cưu Ma La Thập dịch từ năm Hoằng Thỉ thứ tư (402) đến năm Hoằng Thỉ 14 (412) đời Diêu Tần. Kinh này thường được gọi tắt là Ma Ha Bát Nhă Kinh. Theo Đại Trí Độ Luận, sáu mươi sáu phẩm đầu thuộc Bát Nhă Đạo, c̣n hai mươi bốn phẩm sau thuộc Phương Tiện Đạo. Kinh này c̣n có ba bản dịch là Quang Tán Bát Nhă Ba La Mật Kinh (do ngài Pháp Hộ dịch dưới thời Tây Tấn), Phóng Quang Bát Nhă Ba La Mật Kinh (do ngài Vô La Xoa dịch cũng vào thời Tây Tấn), và hội thứ hai trong bộ Đại Bát Nhă Kinh của ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường.

[8] Tứ Vô Sở Úy (Catvāri Vaiśāradyāni) chính là bốn thứ tự tin không hề sợ hăi của Phật, Bồ Tát:

1. Chư Pháp Hiện Đẳng Giác Vô Sở Úy (Nhất Thiết Trí Vô Sở Úy): Hiểu biết hết thảy pháp, trụ trong chánh kiến, không bị khuất phục nên trọn đủ ḷng tự tin không sợ hăi.

2. Nhất Thiết Lậu Tận Vô Sở Úy (Lậu Vĩnh Tận Vô Úy): Đoạn trừ hết thảy phiền năo không c̣n sợ hăi.

3. Chướng Pháp Bất Hư Quyết Định Thọ Kư Vô Sở Úy (Chướng Đạo Vô Úy): Chỉ bày những pháp chướng ngại trong việc tu hành, không hề sợ hăi bất cứ chướng nạn nào.

4. Chứng Nhất Thiết Cụ Túc Xuất Đạo Như Tánh Vô Úy (Xuất Đạo Vô Úy): Tuyên nói đạo xuất ly không sợ hăi.

[9] Tâm Số là danh xưng khác của Tâm Sở (Caitta hoặc Caitasika), c̣n được gọi là Tâm Sở Hữu Pháp, Tâm Sở Pháp, chính là thuật ngữ để chỉ những tác dụng phức tạp của tâm (Tâm Vương). Do những tác dụng này phụ thuộc vào cái tâm nên gọi là Tâm Sở, do được Pháp Tướng Tông hoặc Nhất Thiết Hữu Bộ biện định gồm nhiều pháp khác biệt, nên gọi là Tâm Số. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Xúc v.v… là những Tâm Số thường được nhắc tới.

[10] Ư Sanh Thân (Mano-maya-kāya), c̣n dịch là Ư Thành Thân hoặc Ư Thành Sắc Thân, Ma Nậu Thân, Ma Nô Mạt Na Thân, tức cái thân không phải do cha mẹ sanh ra, mà là do bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên v́ muốn hóa độ chúng sanh bèn dựa theo ư muốn để biến hiện ra. Từ ngữ Ư Sanh Thân c̣n dùng để chỉ những thân của người vào lúc kiếp sơ, chư Thiên Sắc Giới, Vô Sắc Giới, thân Trung Ấm v.v…

[11] Đây là cách lập luận dựa theo Nhân Minh Học. Mỗi một điều lập luận sẽ gồm ba phần: Tông, Nhân và Dụ. Tông là mệnh đề khẳng định một luận điểm, Nhân là phần giải thích v́ sao điều ấy đúng, c̣n Dụ là phần thí dụ để làm sáng tỏ ư nghĩa. Chẳng hạn, trong câu này th́ Tông là “Niệm Phật là pháp Có”, c̣n Nhân là “v́ cách Phật chẳng xa”. Dụ là người nhiễm hương.

[12] Thù là đơn vị đo lường thời cổ, một lượng là 24 thù, tức khoảng chừng 1,57 gram.

[13] Ba Lợi Chất Đa La (Paricitra), dịch nghĩa là Hương Biến Thụ (cây tỏa mùi thơm trọn khắp) hoặc Thiên Thụ Vương, là một loại cây trên cơi trời Đao Lợi. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa cuốn Hạ giảng: “Ba Lợi Chất Đa La, gọi đủ là Ba Lợi Da Đát La Câu Đà La, ở đây dịch là Hương Biến Thụ, nghĩa là rễ, thân, cành, lá, hoa, trái cây này đều thơm sực khắp cơi trời Đao Lợi. Ba Lợi nghĩa là trọn khắp, Chất Đa La là xen kẽ trang nghiêm”.

[14] Tiên Đà Bà (Saindhava) dịch nghĩa là Thạch Diêm (muối cứng như đá) là một loại muối ven bờ Ấn Độ giang (sông Indus). Theo kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 9, mật ngữ của Như Lai sâu xa khó hiểu. Ví như có vị quan hầu cận đại vương, vua muốn tắm bèn đ̣i Tiên Đà Bà, vị đại thần ấy có trí biết liền dâng nước. Vua muốn ăn, đ̣i Tiên Đà Bà bèn dâng muối. Khi vua muốn uống, đ̣i Tiên Đà Bà, vị đại thần bèn dâng ly. Khi vua muốn du ngoạn, đ̣i Tiên Đà Bà, bèn dâng ngựa. Vị đại thần có trí ấy khéo hiểu ư bốn thứ mật ngữ của vua. Do vậy, cổ nhân thường dùng thuật ngữ “nhất danh tứ thật” (một tên mà chứa đựng bốn thực chất) để sánh ví mật ngữ rất sâu khó hiểu của đức Như Lai. Loại hương Tiên Đà Bà ở đây giống như muối đọng thành khối nên gọi là Tiên Đà Bà. Do vậy, ngài Thanh Lương mới giảng: “Ở đây nên hiểu [Tiên Đà Bà] nghĩa là muối, hương giống như vậy”.

[15] Đây chính là Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào thời Nguyên Ngụy, được xếp vào hệ thống kinh Hoa Nghiêm trong Vĩnh Lạc Bắc Tạng.

[16] Phần Đoạn Thân chính là cái thân gánh chịu Phần Đoạn Sanh Tử, do nghiệp nhân thiện ác cảm lấy thọ mạng có ngắn dài khác nhau, h́nh thể khác biết, nhưng thọ lượng có hạn, rốt cuộc phải suy hoại, đoạn diệt nên gọi là Phần Đoạn.

[17] Trước sau, đại sư Thanh Lương Trừng Quán đă viết nhiều bộ sách sớ giải kinh Hoa Nghiêm. Từ tháng Giêng năm đầu niên hiệu Hưng Nguyên (784), đại sư soạn sớ giải cho kinh Hoa Nghiêm suốt bốn năm gồm 20 quyển, gọi là Hoa Nghiêm Kinh Sớ (nay thường gọi là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ, hoặc Thanh Lương Sớ). Sau đấy, Sư lại v́ các đệ tử như Tăng Duệ v.v… viết lời diễn giảng cho bộ Thanh Lương Sớ gồm mấy chục quyển, về sau hai bộ này được gộp in chung thành Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (thường được gọi tắt là Thanh Lương Sớ Sao hay Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao). Năm Trinh Nguyên 12 (796), do triều đ́nh triệu Sư về kinh đô tham gia dịch trường bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm (tức phẩm Nhập Pháp Giới do quốc vương Ô Trà tiến cống). Sư vâng chiếu viết sớ cho bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm vào năm Trinh Nguyên 14 (798). Để phân biệt với bộ sớ trước, Sư đặt tên là Trinh Nguyên Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Sớ (do vậy, bộ này thường được gọi tắt là Thanh Lương Trinh Nguyên Sớ).

[18] Theo Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển thứ 16, “sát chủng” được giảng như sau: “Sát chủng nương vào sát hải, các sát-độ (cơi Phật) nương vào sát chủng th́ sự rộng hẹp ắt biết được cái tên này do đâu mà có. Muốn nói rơ thế giới vô biên bèn lập ra cái tên này nhằm tạo phương tiện để chỉ rơ sự đông nhiều ấy. Nghĩa là tích tụ nhiều thế giới vào cùng một chỗ, thâu tóm các loại hiện hữu nên gọi là Chủng. Do các chủng loại như thế lại có rất nhiều, sâu rộng vô biên nên gọi là Hải”. Do Hoa Tạng thế giới gồm nhiều Phật sát (sát độ) khác biệt nên c̣n gọi là Hoa Tạng Sát Chủng. Do Cực Lạc và Sa Bà ở trong cùng một tầng trong Hoa Tạng nên bảo là “chẳng ra ngoài sát chủng”.

[19] A Na Luật (Aniruddha), c̣n phiên âm là A Ni Lô Đà, A Nậu Lâu Đà, A Nan Luật hoặc A Lâu Đà, dịch nghĩa là Vô Diệt, Như Ư, Vô Chướng, Vô Tham, Tùy Thuận Nghĩa Nhân, Bất Tranh Vô Hữu v.v… là em họ của đức Phật, đồng thời là một trong mười đại đệ tử của đức Phật. Ngài là con của Hộc Phạn Vương (chú của đức Phật). Khi Phật thành đạo, A Na Luật cùng xuất gia một lúc với Nan Đà, A Nan, Ưu Bà Ly v.v… Trong khi đức Phật thuyết pháp, Ngài thường ngủ gục, bị quở trách bèn lập thệ không ngủ đến nỗi mù cả hai mắt, nhưng do tinh tấn tu hành, tâm nhăn khai thông, trở thành bậc thiên nhăn đệ nhất trong các đại đệ tử của đức Phật. Trong kinh Lăng Nghiêm, Ngài tŕnh bày sở chứng là Nhăn Căn Viên Thông.

[20] Tinh minh tâm là một tên gọi khác của Chân Tâm, dùng chữ “tinh minh” nhằm diễn tả đặc tánh của chân tâm. Chân tâm ấy sáng suốt, nhận biết sự vật rơ ràng nên gọi là “minh”, nhận biết sự vật vạn pháp đúng như thật không bị xen tạp, ô nhiễm bởi vọng tưởng, thành kiến nên gọi là “tinh”.

[21] Nê Hoàn là cách phiên âm khác của chữ Nirvāna (Niết Bàn).

[22] Thập Bát Giới (Astādaśa Dhātavah) là mười tám pháp do nương vào sáu thức, sáu căn và sáu trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) để thành lập. Giới có nghĩa là chủng loại. Ngụ ư: Tự tánh của mười tám chủng loại khác nhau, nên gọi là Thập Bát Giới.

[23] Tức bộ Viên Giác Kinh Lược Sớ của ngài Khuê Phong Tông Mật soạn.

[24] Tức bộ Hoa Nghiêm Huyền Đàm Hội Huyền Kư do ngài Phổ Thụy soạn. Bộ sách này được đánh số 236 trong tập tám của Vạn Tục Tạng.

[25] Ngài Chân Như Triết đời sau làm Tống Khâm Tông. Tống Khâm Tông (Triệu Hoàn) được vua cha là Huy Tông nhường ngôi, lấy niên hiệu là Tĩnh Khang, nhưng đến đầu năm Tĩnh Khang thứ hai (1127), quân Kim đánh xuống phía Nam Hoàng Hà, chiếm đóng kinh đô Khai Phong, Sử gọi là “Tĩnh Khang chi biến”. Tháng Hai năm ấy, cha con Huy Tông và Khâm Tông bị bắt. Kim Thái Tông hạ lệnh đánh tuột hai vua Tống làm thường dân, ra lệnh lột long bào hai vua giữa chợ, rồi sai giải về Trung Kinh (tức Bắc Kinh hiện thời), bắt hai vua mặc áo trắng quỳ gối trước Thái Miếu của nhà Kim, đích thân dắt dê cho nội thị hiến tế, rồi vào chầu Kim Thái Tông. Vua Kim phong Huy Tông làm Hôn Đức Công, Khâm Tông làm Trùng Hôn Hầu rồi đày đi Yên Châu (nay thuộc tỉnh Cát Lâm), rồi lại đày lên thành Ngũ Quốc (thuộc tỉnh Hắc Long Giang hiện thời) cho đến khi chết. Như vậy, cả đời Khâm Tông chỉ là tù đầy, nhục nhă, sầu năo.

[26] Từ môn 83 đến môn 92 là cách phán định pháp Niệm Phật dựa theo Thập Huyền Môn do ngài Thanh Lương lập ra để phán định cảnh giới kinh Hoa Nghiêm. Xin xem chi tiết về Thập Huyền Môn trong Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ.