Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 6

http://new.amtb-aus.org/Item/4698.aspx

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Lộc và Huệ Trang

 

Tập 11

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ mười, hàng thứ năm, chúng ta xem từ câu thứ hai: “Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh”, bắt đầu xem từ chỗ này. Chúng ta hăy đọc kinh văn.

      Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (tức A Di Đà kinh Đường dịch bổn) vân” (Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (tức kinh A Di Đà, bản dịch đời Đường) đă nói). Trong kinh văn có một câu như thế này: “Ngă quán như thị lợi ích an lạc đại sự nhân duyên, thuyết thành đế ngữ” (ta thấy đại sự an lạc lợi ích như thế, nói lời đúng thật). Trong câu nói này, “ta” là Thích Ca Mâu Ni Phật [tự xưng]. Chúng ta biết bộ kinh Phật Thuyết A Di Đà Kinh giống như thường lệ, trong một đời, đức Thế Tôn chỉ giảng một lần, chẳng giảng lần thứ hai. Hiện thời, trong Đại Tạng Kinh, kinh này có hai bản dịch, một là do Cưu Ma La Thập đại sư phiên dịch, dịch theo ư, [tức là] chẳng phải là trực dịch (dịch theo sát nguyên văn từng chữ trong nguyên bản), mà hoàn toàn dịch theo đại ư của kinh; [bản dịch của] Huyền Trang đại sư là trực dịch, tức là căn cứ theo văn tự của kinh điển bằng tiếng Phạn để phiên dịch. Nói như vậy, Huyền Trang đại sư dịch khá sát, trung thành với nguyên văn, La Thập đại sư dịch theo ư nghĩa, không chiếu theo văn tự. Trong cái nh́n của người Trung Quốc, bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư giống như văn chương do người Trung Quốc viết, rất hợp với khẩu vị của chúng ta, cho nên được lưu truyền rất rộng; bản của Huyền Trang đại sư tuy là trực dịch, giữ nguyên diện mạo của nguyên văn, nhưng chúng ta không ưa thích lắm, nên bản này chẳng được lưu thông, chỉ được lưu giữ trong Đại Tạng Kinh.

Đức Phật nói lời ấy, Ngài thấy “đại sự lợi ích an lạc như thế”, tức là thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật phổ độ chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới, chẳng giống các cơi Phật thông thường, cơi của A Di Đà Phật dạy người ta thành Phật trong một đời; v́ thế, [kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ] chẳng khác ǵ Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là Nhất Thừa giáo. Cái gọi là Nhất Thừa giáo đă được giảng rất rơ ràng trong phần trước, giáo pháp ấy giảng về lư luận và phương pháp thành Phật trong một đời. Phật Thuyết A Di Đà Kinh cũng dạy người ta thành Phật trong một đời, đấy là ưu điểm, ở đây bảo là: “Lợi ích an lạc như thế”. Ưu điểm là phù hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn hạ căn, kẻ hạ hạ căn cũng có thể thành Phật trong một đời, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, kinh này [được nói ra] v́ cùng một đại sự nhân duyên như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa.

      Mục tiêu tu học của hết thảy các kinh Đại Thừa là Bồ Tát, mục tiêu tu học của kinh Tiểu Thừa là A La Hán. Điều này giống như trong nhà trường trên thế gian hiện thời họ mở trường Trung Học, khi [học sinh] tốt nghiệp sẽ là tốt nghiệp Trung Học; c̣n khi tốt nghiệp Đại Học th́ là sinh viên Đại Học, có thể đạt được học vị Học Sĩ (Cử Nhân), khác hẳn! Mỗi trường học khác nhau. Nhà trường của A Di Đà Phật rất lạ lùng! Chúng tôi thường nghĩ đây là một ngôi trường “trọn gói”[1], quư vị vào trường ấy học, chỉ có lên lớp, không bị ở lại lớp, mà cũng không bị đuổi xuống lớp dưới, tuy thời gian dài hay ngắn khác nhau, nhưng chắc chắn thành Phật trong một đời, Ngài bảo đảm cho quư vị. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa giống như nghiên cứu sở (graduate school), c̣n trường của A Di Đà Phật là từ Tiểu Học cho đến nghiên cứu sở, là một loại trường học như vậy đó! Điều này giống như Liên Tŕ đại sư đă viết trong Di Đà Sớ Sao: “Kim đản nhất tâm tŕ danh, tức đắc Bất Thoái” (Nay chỉ nhất tâm tŕ danh, liền đắc Bất Thoái). Bất Thoái là Văng Sanh Kinh của Tịnh Tông. Từ ngữ Văng Sanh Kinh nhằm chỉ Tịnh Độ “ngũ kinh nhất luận” trong hiện tại, những kinh luận này đều nhằm dạy con người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều nói “viên chứng ba món Bất Thoái”, đây là pháp khó tin. Đối với ba thứ Bất Thoái, Tiểu Thừa chứng đắc Vị Bất Thoái, Đại Thừa Bồ Tát chứng đắc Hạnh Bất Thoái, đạt đến Pháp Thân Bồ Tát mới chứng đắc Niệm Bất Thoái. Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới chứng đắc Niệm Bất Thoái, hoặc ba thứ Bất Thoái, nhưng chưa đạt đến viên măn, chưa thể bảo là “viên”. Chứng đắc viên măn ba món Bất Thoái là ai? Từ Thất Địa trở lên, quư vị thấy địa vị rất cao, A Duy Việt Trí Bồ Tát đấy nhé!

      Trong bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, có một nguyện là: “Hễ ai sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, viên chứng ba món Bất Thoái”. Ngài hoàn toàn chẳng nói “ngoại trừ cơi Phàm Thánh Đồng Cư”, chẳng nói! Ngài chẳng nói câu ấy th́ nói cách khác, hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. Làm sao có thể nói cho xuôi? Chúng tôi học đă nhiều năm như thế, rốt cuộc hiểu rơ ràng, minh bạch: Người ấy do được bổn nguyện gồm bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật gia tŕ, nên trí huệ và oai thần bằng Thất Địa Bồ Tát, chẳng khác Thất Địa Bồ Tát; chẳng phải do năng lực của chính người ấy, mà do A Di Đà Phật gia hộ, được bốn mươi tám nguyện gia hộ. Nếu nói đến chuyện chứng đắc th́ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi nào quư vị sẽ chứng đắc? Trong kinh thường nói: “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”, đó là quư vị thật sự chứng đắc. Khi quư vị chưa ngộ Vô Sanh, cũng có nghĩa là đang thuộc vào ba bậc chín phẩm trong bốn cơi trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị vẫn chưa có năng lực nâng cao [cảnh giới] lên, thật sự đạt tới cơi Thật Báo. Khi quư vị tự ḿnh thật sự chứng đắc cơi Thật Báo, sẽ không cần A Di Đà Phật gia tŕ; nhưng khi chưa chứng đắc cơi Thật Báo, hoàn toàn phải nhờ A Di Đà Phật gia tŕ. Trí huệ, thần thông, năng lực, và hưởng thụ giống như trong cơi Thật Báo, hễ sanh về thế giới Cực Lạc sẽ đạt được. Giống như đầu thai luân hồi trong lục đạo, quư vị đầu thai vào nhà đế vương, vừa sanh ra liền được hưởng thụ sự phú quư của bậc đế vương. Do vậy, chúng ta sanh về thế giới Cực Lạc, liền hưởng thụ thần thông và đức tướng của A Di Đà Phật, liền được hưởng thụ ngay! Nếu hiểu rơ và nhận biết điều này, chúng ta sẽ chẳng hoài nghi sự trang nghiêm thù thắng khôn sánh như Văng Sanh Kinh đă giảng, đó là Phật lực gia tŕ. Đấy là nói về “chỉ nhất tâm tŕ danh, liền đắc Bất Thoái”.

      “Thử năi trực chỉ phàm phu tự tâm cứu cánh thành Phật” (Đây là chỉ thẳng: Từ ngay tự tâm của phàm phu mà rốt ráo thành Phật), ở chỗ này, trước chữ “thành Phật” đă thêm chữ “cứu cánh” (rốt ráo), v́ sao? A Duy Việt Trí Bồ Tát mới có thể thêm hai chữ “rốt ráo”. Nếu chẳng có hai chữ “rốt ráo”, mà nói là “thành Phật” th́ Sơ Trụ trong Viên Giáo đă thành Phật. Thêm vào hai chữ “rốt ráo” th́ khẳng định là từ Thất Địa trở lên mới viên chứng ba món Bất Thoái. Mấu chốt là hai chữ tiếp theo: “Nhược năng đế tín” (nếu có thể tin chắc thật), hai chữ trọng yếu là “đế tín”. “Đế” () là thật, quư vị thật sự tin, một mảy hoài nghi cũng chẳng có th́ mới gọi là “đế tín”. Thật sự tin tưởng, quư vị sẽ thật sự làm; thật sự tin, thật sự muốn văng sanh, thật sự niệm Phật. Thật sự niệm Phật là ǵ? Hết thảy duyên đều buông xuống, trong mười hai thời, trong tâm quả thật chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, hết thảy những thứ khác đều buông xuống, kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm cũng đều buông xuống. V́ sao? Từ một câu A Di Đà Phật, quư vị sẽ đắc Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là nhất tâm bất loạn, từ Sự nhất tâm đạt đến Lư nhất tâm. Đă đạt Lư nhất tâm bất loạn, trong phần sau, chúng ta sẽ nói về Lư nhất tâm, là đă kiến tánh, kiến tánh bèn thật sự thành Phật. Đắc Lư nhất tâm bất loạn, văng sanh thế giới Cực Lạc, chẳng thuộc trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, mà cũng không thuộc cơi Phương Tiện Hữu Dư. Thưa quư vị, niệm đến Sự nhất tâm bất loạn sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, niệm đến Lư nhất tâm bất loạn liền đạt đến cơi Thật Báo. Thật sự có thể niệm đến [cơi ấy] ư? Đúng là có thể niệm đến [cơi ấy], chúng ta hiểu đạo lư này rất rơ ràng, v́ lẽ ǵ? Người ấy đă buông toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, đạo lư ở chỗ này. Chúng ta hăy suy nghĩ: Chúng ta chưa buông xuống, nhưng người ấy thật sự buông xuống. Buông xuống sẽ kiến tánh, kiến tánh là viên măn, trí huệ viên măn, đức hạnh viên măn, tướng hảo viên măn, đắc đại viên măn. Viên măn th́ c̣n có chướng ngại hay chăng? Không chỉ đối với hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm không có chướng ngại, mà đối với vô lượng vô biên kinh luận do mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đă nói, quư vị chẳng bị chướng ngại chút nào. V́ sao? [Những kinh luận ấy] đều do tự tánh lưu lộ, quư vị đă kiến tánh. Trong sự giáo học của Phật pháp, không có ǵ khác, chỉ là dạy quư vị hăy bỏ hết vọng, trở về tự tánh. Trở về tự tánh, quư vị sẽ chứng đắc Phật quả rốt ráo, rốt ráo thành Phật.

      “Hà tu biến lịch tam thừa, cửu kinh đa kiếp” (há cần phải trải khắp ba thừa, trải qua nhiều kiếp lâu xa), không cần phải trải qua các địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, tiến lên từng bước một, không cần thiết! Trải qua các địa vị trong tam thừa đúng là phải mất nhiều kiếp lâu xa, không chỉ là ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp là nói theo kinh Hoa Nghiêm, từ phàm phu tu đến bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa trong Biệt Giáo phải mất vô lượng kiếp! Sơ Trụ trong Viên Giáo là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Học từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta biết: Tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn; nhưng vô minh đă thật sự đoạn hết. Quả thật chẳng động tâm, chẳng khởi niệm, nhưng tập khí khởi tâm động niệm vẫn có; v́ thế, nó chẳng trở ngại sự. Muốn đoạn sạch tập khí này, phải mất thời gian bao lâu? Cần tới ba A-tăng-kỳ kiếp để đoạn tập khí. Không có thứ ǵ khác có thể đoạn trừ tập khí; sau một thời gian lâu dài, nó sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa! Đoạn tập khí trong thế giới Cực Lạc cũng nhanh, thời gian được rút ngắn trên một mức độ lớn. Do vậy, các vị Pháp Thân Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng theo Văn Thù, Phổ Hiền đến thế giới Cực Lạc để làm ǵ? Để rút ngắn thời gian đoạn tập khí, đạo lư là như vậy đó.

      “Bất việt nhất niệm, đốn chứng Bồ Đề” (chẳng ngoài một niệm, mau chóng chứng Bồ Đề). Bồ Đề ở đây là Vô Thượng Bồ Đề, là nhất niệm, là danh hiệu Di Đà gồm bốn chữ. “Nam-mô” chẳng phải là danh hiệu, A Di Đà Phật mới là danh hiệu. Nam-mô có nghĩa là quy y, quy mạng, hay lễ kính. Do vậy, lúc Liên Tŕ đại sư tại thế, trong bộ Trúc Song Tùy Bút có một câu chuyện như thế này: Có người thỉnh giáo lăo nhân gia: “Lăo nhân gia b́nh thường niệm Phật như thế nào?” Ngài nói Ngài niệm bốn chữ A Di Đà Phật. “Ngài dạy người khác th́ sao?” “Ta dạy người khác niệm sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật”. V́ sao khác nhau? Liên Tŕ đại sư nói: “Trong một đời này, ta nhất định muốn sanh về Tịnh Độ, cho nên kiểu cách khách sáo nào cũng chẳng cần, những lời lẽ khách sáo đều bỏ sạch”. Kinh dạy chúng ta chấp tŕ danh hiệu, danh hiệu là bốn chữ, Ngài bèn niệm bốn chữ. V́ sao dạy người khác niệm sáu chữ? Người khác chưa chắc đă có quyết tâm kiên định muốn sanh về Tịnh Độ, cho nên thêm chữ Nam-mô, tức là quy y A Di Đà Phật, quy mạng A Di Đà Phật, cung kính A Di Đà Phật, không nhất định trong một đời này người ấy đă có thể văng sanh. Thêm vào chữ “cung kính”, đó là nói năng cung kính. Chính ḿnh thật sự muốn văng sanh, chẳng cần dùng đến lời lẽ cung kính, không cần thiết! Những chữ khách sáo đều không cần! A Di Đà Phật sẽ không trách quư vị, quư vị rất nghe lời! Thích Ca Mâu Ni Phật dạy quư vị chấp tŕ danh hiệu, danh hiệu là A Di Đà Phật, trong danh hiệu không có chữ Nam-mô. Quư vị thấy lời này rất có ư nghĩa!

      Ấn Quang đại sư cả đời dạy người khác niệm sáu chữ, v́ sao? Ngài thấy chúng sanh đông đảo, nhưng chẳng mấy ai thật sự muốn văng sanh, nên [dạy họ] niệm hồng danh sáu chữ nhằm kết pháp duyên với A Di Đà Phật. Quư vị hiểu tổ sư dạy người khác sử dụng tâm ǵ, quư vị sẽ hiểu rơ! Tín nguyện kiên định, chẳng có mảy may hoài nghi, trong một đời này ta quyết định phải văng sanh, quư vị thật sự buông xuống vạn duyên. Những trường hợp như vậy nhiều lắm! Quư vị đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện, sẽ thấy những tấm gương như vậy hiện tiền, thật sự cầu văng sanh, biểu diễn cho chúng ta xem. Mấy năm trước, ở Thâm Quyến, ông Hoàng Trung Xương nghe kinh, thường nghe chúng tôi nói như vậy, ông ta thật sự giác ngộ, đại triệt đại ngộ! Sự đại triệt đại ngộ của ông ta chẳng phải là minh tâm kiến tánh, mà là ngộ “bất việt nhất niệm, đốn chứng Bồ Đề” (chẳng ngoài một niệm, mà mau chóng chứng Bồ Đề), ông ta ngộ điều này. Buông xuống hết thảy, mỗi ngày niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ, tiếp đó hoàn toàn niệm Phật hiệu, ước hẹn kỳ hạn cầu chứng đắc, ước định thời gian là ba năm, xem thử có thể văng sanh thế giới Cực Lạc hay không? Niệm tới hai năm mười tháng, biết trước lúc mất, ra đi, chẳng sanh bệnh, c̣n thiếu hai tháng nữa mới đủ ba năm, đến thế giới Cực Lạc là đi làm Phật. Chúng tôi giảng kinh tại nơi đây là Thị Chuyển và Khuyến Chuyển, cư sĩ Hoàng Trung Xương làm Chứng Chuyển cho chúng tôi, tam chuyển pháp luân đă toàn vẹn. Ông ta làm chứng cho chúng tôi. Do điều này có thể biết: Triệt ngộ là thật sự buông xuống. V́ sao chúng ta chưa thể buông xuống? Giác chưa đủ tŕnh độ. Thật sự giác ngộ sẽ thật sự triệt để buông xuống, như trong kinh Đại Thừa đă nói: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp c̣n nên bỏ, huống là phi pháp). “Pháp” [trong câu này] là Phật pháp. Phật pháp cũng không cần, nắm vững một câu A Di Đà Phật [là đủ rồi]. “Đốn chứng Bồ Đề, khởi phi đại sự” (Mau chóng chứng Bồ Đề, há chẳng phải là đại sự?). Đi làm Phật! Sau thời gian hai năm mười tháng bèn đi làm Phật.

      “Khả kiến Tịnh Tông chánh thị trực chỉ đốn chứng chi pháp” (đủ thấy Tịnh Tông chính là pháp chỉ thẳng, đốn nhập), đây là một đại sự nhân duyên, “Dĩ niệm Phật tâm, nhập Phật tri kiến. Tịnh Tông chi hưng khởi, chánh do thử đại sự nhân duyên dă” (dùng cái tâm niệm Phật để nhập tri kiến của Phật. Tịnh Tông hưng khởi chính v́ đại sự nhân duyên này). “Hạ” là tiếp theo đó, “tường minh bổn kinh hưng khởi chi nhân duyên” (giảng rơ nhân duyên hưng khởi của bản kinh này). Trong phần trên là nói về nhân duyên chư Phật Như Lai xuất hiện trên thế gian này. Căn tánh của chúng sanh khác nhau, nhưng tổng mục tiêu, tổng phương hướng của chư Phật là nhất trí, ngàn kinh muôn luận tuy khác đường nhưng về cùng một chỗ, cuối cùng là trở về Tịnh Độ. Do vậy, trong Phật pháp, chẳng cần biết quư vị tu hành theo tông nào, phái nào, hay pháp môn nào, có ba khoa mục chung bắt buộc phải tu:

1) Thứ nhất là giới luật. Giới luật là khoa mục chung, là cơ sở. Quư vị phải vun bồi cội rễ vững vàng, giống như xây nhà, bất luận quư vị xây cao đến đâu, bất luận xây theo kiểu nào, trước hết, phải đắp nền. Giới luật là nền móng, không có giới luật th́ điều ǵ cũng chẳng thể thành tựu!

2) Thứ hai là lư luận, đây là khoa mục chung. Đối với Pháp Tướng Duy Thức, Hoa Nghiêm là một bộ kinh điển trọng yếu trong Pháp Tướng Duy Thức. Pháp Tướng Duy Thức có sáu kinh, mười một bộ luận; trong sáu kinh có kinh Hoa Nghiêm giảng về căn nguyên của vũ trụ. Trong Hoàn Nguyên Quán đă giảng rất hay: “Hiển nhất thể, khởi nhị dụng” (hiển lộ một thể, khởi lên hai tác dụng). Nhị Dụng, bất luận là y báo hay chánh báo, nhỏ như vi trần, lớn như hư không pháp giới, đều có ba thứ trọn khắp chẳng thể nghĩ bàn. Thứ nhất là “trọn khắp pháp giới”, thứ hai là “sanh ra vô tận”, thứ ba là “chứa đựng không và có”. Lư này chung khắp, mỗi một pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn cũng chẳng thể vượt ra ngoài, đó là lư luận để quư vị dựa vào.

3) Thứ ba là quy túc, [tức là] quư vị tu hành, kết quả cuối cùng đều là văng sanh thế giới Cực Lạc. Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều quy vào thế giới Hoa Tạng, đến cuối cùng đều quy vào thế giới Hoa Tạng. Sau khi đă đến thế giới Hoa Tạng, Văn Thù và Phổ Hiền sẽ dẫn quư vị cùng tới thế giới Cực Lạc. Do vậy, thế giới Cực Lạc là nơi quy túc chung.

Đó là ba khoa mục chung. Đối với đoạn này, chúng ta học tập tới đây.

      Lại xem đoạn kế tiếp: “Xứng tánh cực đàm, Như Lai chánh thuyết”. Ở đây, chia thành mấy đoạn nhỏ; đây là đoạn thứ nhất, dùng Giáp, Ất, Bính, Đinh[2] để đánh số theo thứ tự. “Hoa Nghiêm, Pháp Hoa quân viên đốn xứng tánh chi giáo, đản kỳ quy thú khước tại bổn kinh” (Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều là giáo pháp Viên Đốn xứng tánh, nhưng chỗ quy thú của chúng lại thuộc trong kinh này). Hai bộ kinh này từ xưa tới nay, vào thời đại Tùy - Đường đă được các vị tổ sư đại đức nhất trí công nhận, khẳng định là kinh Nhất Thừa. Trong giáo pháp suốt một đời của đức Thế Tôn, có tổng cộng ba bộ kinh Nhất Thừa, ngoài Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, c̣n có một bộ nữa là Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng ngoại trừ một phẩm Phạm Vơng Bồ Tát Giới được dịch sang tiếng Hán, những phẩm khác chưa truyền tới Trung Quốc. Bộ kinh này cũng là một kinh lớn, phân lượng rất lớn, nhưng chỉ truyền sang Trung Hoa một phẩm, tức là Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm. Những kinh này đều là Viên Giáo viên măn, Đốn Giáo thành tựu nhanh chóng, thành tựu trong một đời, xứng tánh, trong ấy không có phương tiện quyền xảo, mà là thẳng chóng, thỏa đáng. Chỗ quy thú của chúng là ở trong kinh này (kinh Vô Lượng Thọ). Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, chúng ta thấy, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, Hoa Nghiêm quy vào Vô Lượng Thọ, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Nghiêm hải hội quy vào Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đấy là thật, chẳng giả tí nào, trong kinh đă nói rơ ràng.

      “Ngẫu Ích đại sư tán bổn kinh vân: Tuyệt đăi viên dung, bất khả tư nghị” (Ngẫu Ích đại sư khen ngợi kinh này như sau: “Dứt bặt đối đăi một cách viên dung chẳng thể nghĩ bàn”). Ngẫu Ích đại sư tán thán kinh Vô Lượng Thọ viên dung đến tột bực, “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy”, “áo tạng, bí tủy” (kho sâu thẳm, cốt lơi kín nhiệm) là những từ ngữ h́nh dung sự cao thâm, áo diệu. Đây là nói với ai? Nói với những người từ Quyền Giáo Bồ Tát trở xuống, họ không hiểu, chưa đại triệt đại ngộ, sẽ chẳng thể nhập cảnh giới này. Cảnh giới Hoa Nghiêm, cảnh giới Pháp Hoa phải là người triệt ngộ, minh tâm kiến tánh mới có thể lănh ngộ; kẻ chưa kiến tánh c̣n cách một tầng! Tinh tủy sâu kín của Pháp Hoa (Pháp Hoa bí tủy) là nói về Lư trong kinh ấy. “Nhất thiết chư Phật chi tâm yếu, Bồ Tát vạn hạnh chi tư nam, giai bất xuất ư thử hỹ” (tâm yếu của hết thảy chư Phật, kim chỉ nam cho muôn hạnh Bồ Tát đều chẳng ra khỏi kinh này), chữ “thử” chỉ kinh Vô Lượng Thọ. Bồ Tát vạn hạnh là nguyên tắc chỉ đạo sự tu hành tối cao của Bồ Tát, [nguyên tắc ấy] ở trong kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ trực tiếp dạy mọi người niệm Phật sanh về Tịnh Độ, trực tiếp dẫn dắt người văng sanh Tịnh Độ trong một thời gian rất ngắn sẽ đạt tới mục tiêu triệt ngộ tâm tánh. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Phật đă nói: Một người niệm Phật sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tu trong thế giới Cực Lạc đến khi minh tâm kiến tánh, tu đến mức khế nhập cơi Thật Báo Trang Nghiêm, sẽ cần thời gian bao lâu? Đức Thế Tôn bảo là mười hai kiếp. Chúng ta thấy mười hai kiếp rất dài, nhưng tại Tây Phương Cực Lạc thế giới, mười hai kiếp cũng rất ngắn, chẳng dài! Tu hành trong thế giới này, muốn tu chứng đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, quư vị thấy kinh thường nói phải mất thời gian bao lâu? Phải mất vô lượng kiếp, chẳng phải mười hai kiếp, mà là vô lượng kiếp! Tu hành trong các cơi Phật khác cần tới vô lượng kiếp, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là mười hai kiếp, quư vị thấy thời gian đă rút ngắn bao nhiêu!

      Hơn nữa, vừa đến nơi ấy, trí huệ, thần thông, và đạo lực đều giống như Thất Địa Bồ Tát. Lời này có nghĩa là ǵ? Ư nghĩa rất sâu, có nghĩa là nói quư vị vừa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ có năng lực giống như Pháp Thân Bồ Tát, ngàn xứ khẩn cầu, bèn ứng hiện trong ngàn xứ. Chúng sanh nơi nào có cảm, quư vị bèn có thể tới đó giáo hóa họ, nên dùng thân ǵ để độ được, quư vị liền hiện thân ấy, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, có đại bản lănh và thần thông to dường ấy! Quư vị phải hiểu: Những điều đó chẳng phải do chính quư vị tu được, mà do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, khiến cho quư vị khởi ra tác dụng ấy, chẳng thể nghĩ bàn! Đây chẳng phải là nói đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chờ khi ta tu thành tựu rồi mới có thể độ chúng sanh, quư vị cứ tới đó là [sẽ độ chúng sanh] được. Trong thế giới của thập phương chư Phật không hề có [chuyện này]. “Thị cố bổn kinh xưng vi xứng tánh chi cực đàm dă” (Do vậy, kinh này được xưng tụng là lời bàn luận xứng tánh đến mức cùng cực), đây cũng là nói từ trong tự tánh của chư Phật Như Lai và A Di Đà Phật viên măn lưu lộ. Giảng đến chỗ cùng cực, “cực” () là viên măn.

      Ở đây, cụ Hoàng đă trích dẫn rất nhiều. “Hựu Nhật”, “Nhật” là Nhật Bản. Cao tăng Đạo Ẩn trong tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Chân Giải, trong Vạn Tục Tạng có cuốn này, chúng ta có thể đọc từ Vạn Tục Tạng; trong đó có một đoạn như sau: “Ngũ Trược chi thế, tạo ác chi thời, thánh đạo nhất chủng kim thời nan tu, kỳ nạn phi nhất” (Hiện tại nay là đời Ngũ Trược, lúc tạo ác; cho nên khó tu một thứ thánh đạo v́ sẽ gặp nhiều chướng nạn). Quư vị thấy trong hiện thời, đặc biệt là trong xă hội hiện tiền, đúng là Ngũ Trược đă ô nhiễm đến mức cùng cực. Ngay cả bầu trời trong xanh cũng chẳng nh́n thấy nữa! Chúng ta thấy bầu trời khói đen mù mịt, ô nhiễm đến tột cùng! V́ sao? Chúng sanh tạo ác. Hăy suy nghĩ xem có điều nào trong Thập Ác chẳng làm? Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt, tham, sân, si, chúng ta hăy lắng ḷng suy nghĩ, quan sát cẩn thận một phen, hiện thời có người nào sống trên địa cầu chẳng tạo? Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác thảy đều tương ứng [với Thập Ác], ai nấy đều gây tạo. Quay trở lại suy nghĩ, ta có tạo hay không? Hữu ư hay vô ư cũng đều tạo, biết làm sao được nữa? Có cách nào chẳng tạo? Thưa quư vị, niệm Phật sẽ chẳng tạo nữa! Ta niệm Phật một giờ, trong một giờ ấy sẽ không tạo; niệm Phật hai giờ, trong hai giờ ấy sẽ chẳng tạo. Chẳng niệm Phật, chắc chắn sẽ hữu ư hay vô ư tạo, tập khí quá nặng mà! Do vậy, chẳng đọc kinh, chẳng niệm Phật th́ làm sao được nữa? Khi đọc có thể chẳng tạo, phải biết rằng: Thời thời khắc khắc phải phản tỉnh, thời thời khắc khắc phải kiểm điểm.

      “Thánh đạo nhất chủng kim thời nan tu” (hiện thời khó tu một thứ thánh đạo), thánh đạo là Phật, Bồ Tát đạo. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, tu tập bất luận pháp môn nào trong hiện tại đều khó lắm, thật là khó! Tŕ giới có thể không tạo nghiệp hay chăng? Thời thượng cổ th́ được! Đức Thế Tôn đă nói: “Thời kỳ Chánh Pháp, giới luật thành tựu”. Người tŕ giới tâm địa thanh tịnh sẽ chẳng tạo nghiệp. Nay chúng ta hăy suy nghĩ: Chúng ta tŕ giới là tạo hay chẳng tạo nghiệp? Thưa quư vị, đại khái là chẳng tạo ác nghiệp, nhưng tạo thiện nghiệp, vẫn là tạo nghiệp! Nói cách khác, tâm quư vị vẫn chưa thanh tịnh, không thoát khỏi lục đạo luân hồi; bất quá quư vị chẳng đọa tam ác đạo, đời sau sẽ hưởng quả báo trong cơi nhân thiên. Đấy chẳng phải là ư Phật! Ư Phật là dạy chúng ta không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới; đấy là niềm kỳ vọng của đức Phật đối với chúng ta. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là vượt thoát mười pháp giới, hạ hạ phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng đă vượt thoát mười pháp giới. Đấy là niềm kỳ vọng của chư Phật đối với chúng ta, chẳng thể không biết. “Kỳ nạn phi nhất” (chẳng phải chỉ là một nạn), câu này nói rất hay, đặc biệt là trong thời đại chúng ta, chúng ta mới hiểu sâu sắc, chướng nạn quá nhiều!

      “Đặc thử nhất môn, chí viên cực đốn, nhi thả do kỳ giản dị trực tiệp” (chỉ riêng pháp môn này chí viên, cực đốn, lại c̣n đơn giản, dễ dàng, thẳng chóng). Pháp môn này tốt đẹp; trong thời đại như vậy, nếu chưa thể khiến cho cả thiên hạ đều thiện, phải làm sao cho [ít nhất] bản thân ta là thiện, đóng cửa niệm Phật tại nhà. Trước đây, tôi từng dạy người ta, người b́nh thường mỗi ngày kiếm tiền không nhiều lắm. Trong quá khứ, tôi giảng kinh tại Đài Bắc, người thường xuyên đến nghe kinh, gần như chẳng thiếu buổi nào, có tới mười mấy người lái taxi. Tôi từng nói đùa với bọn họ, nhưng cũng là lời chân thật, tôi nói: Các ông mỗi ngày kiếm tiền, kiếm một ngày, ăn ba ngày hay năm ngày chẳng có vấn đề ǵ, có thể nghỉ ngơi năm ba ngày. Một ngày kiếm tiền có thể sống đủ năm ba ngày. Tôi nói: Quư vị hăy gắng kiếm tiền một năm, có thể nghỉ ba năm, dùng thời gian ba năm để gắng công niệm Phật. V́ sao? Vấn đề ăn uống đă được giải quyết rồi! Ba năm thành công, sang thế giới Cực Lạc; nếu không thành công, quay về lái taxi tiếp, lái một năm, lại có thể nghỉ ngơi ba năm. “Đặc thử nhất môn, chí viên, cực đốn”: Ăn, mặc, đi, ở, càng đơn giản càng hay! Phật, Bồ Tát chẳng phải cầu cạnh ai trong bất cứ phương diện nào! Chẳng có! Trong Tăng đoàn nguyên thủy, Thích Ca Mâu Ni Phật chọn cách sống là khất thực, ăn Ngọ một bữa, ngủ dưới gốc cây. Người Trung Quốc thường nói: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao” (người đạt đến mức chẳng cầu mong ǵ, phẩm hạnh tự cao trỗi). Ngài thật sự vô cầu. Chẳng cầu cạnh thế gian, nói toàn những câu chân thật, chẳng lừa gạt người khác. Đúng là đơn giản, dễ dàng, thẳng chóng!

      “Tắc xuất thế chi chánh thuyết thiên tại tư kinh, nhất đại sở thuyết quy thử kinh, như chúng thủy quy ư đại hải” (Chánh thuyết xuất thế riêng thuộc trong kinh này. Cả một đời thuyết pháp quy về kinh này, như các ḍng nước xuôi về bể cả), câu sau là tỷ dụ. Chánh thuyết xuất thế thuộc riêng trong kinh này, tôi nghĩ câu nói của Thiện Đạo đại sư, chắc là đă căn cứ trên câu kinh văn này để nói. Câu danh ngôn của Thiện Đạo đại sư là: “Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải” (sở dĩ chư Phật xuất thế chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà). Mười phương ba đời hết thảy chư Phật, dùng thân Phật xuất hiện trong thế gian, nên dùng thân Phật để độ, bèn dùng thân Phật giáo hóa. Hết thảy chư Phật thị hiện thân Phật đến thế gian này để làm ǵ? Chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà! Có nghĩa là ǵ? Nói kinh Vô Lượng Thọ. “Nhất đại sở thuyết quy thử kinh” (Cả một đời thuyết pháp quy về kinh này), trong một đời, suốt bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói hết thảy các kinh nhằm nói lên điều ǵ? Nói kinh Vô Lượng Thọ, ngàn kinh muôn luận chỗ nào cũng chỉ về. Có người chẳng ưa thích pháp môn này, không hợp khẩu vị! Đức Phật bèn tùy thuận khẩu vị của người ấy mà giảng cho kẻ ấy nghe [pháp môn thích hợp], giảng đến cuối lại quẹo trở về, quay về Vô Lượng Thọ, đấy là phương tiện thiện xảo của đức Phật. Thật vậy, lời Thiện Đạo đại sư nói chẳng sai, “chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà”, kinh Hoa Nghiêm nói nhiều ngần ấy, đến cuối cùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Tỷ dụ [trong đoạn này] dễ hiểu, “như chúng thủy” (như các ḍng nước), sông ng̣i, Trường Giang và Hoàng Hà cuối cùng đều đổ vào biển cả.

      “Do thử ngôn chi, bách vạn A-tăng-kỳ nhân duyên dĩ khởi Hoa Nghiêm chi điển, nhất đại sự nhân duyên dĩ thành Pháp Hoa chi giáo, diệc duy vi thử pháp chi do tự” (Do vậy, nói: Trăm vạn A-tăng-kỳ nhân duyên phát khởi kinh Hoa Nghiêm, một đại sự nhân duyên để thành kinh Pháp Hoa cũng chỉ là nguồn gốc của pháp này), nói rất hay! Vào đời Đường, các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam đều phái nhiều tăng nhân (người xuất gia) sang Trung Quốc du học. Khi ấy, Thiên Thai Trí Giả đại sư và Thiện Đạo đại sư của Tịnh Tông chúng ta đều là những bậc thầy nổi tiếng. Đối với những nước nhỏ ấy, rất nhiều người sau khi trở về nước đă trở thành tổ sư đại đức, đều là học tṛ của Thiện Đạo đại sư hay Trí Giả đại sư. Nay chúng ta sang Nhật Bản, gần như trong mỗi ngôi chùa, quư vị đến viếng Tổ Đường, đều thấy họ tạc tượng thờ Tổ Sư là ngài Thiện Đạo hay Thiên Thai đại sư, ở Trung Quốc không có. Họ c̣n vẽ h́nh các Ngài, treo trên xà nhà. Quư vị ngẩng đầu nh́n sẽ thấy tượng vẽ hay tượng đắp [của các Ngài]. Họ vô cùng tôn trọng tổ sư, đặc biệt là Thiện Đạo đại sư đă truyền dạy Tịnh Độ Tông. Chùa miếu Nhật Bản dùng [tên hiệu của] Thiện Đạo đại sư để đặt tên chùa, gần như đến nơi nào quư vị cũng đều thấy Thiện Đạo Tự. Quư vị thấy [tên chùa] là Thiện Đạo Tự, chắc chắn là đạo tràng tu Tịnh Độ. Đối với chuyện này, trong bài tựa của lăo cư sĩ Mai Quang Hy, chúng ta đọc thấy: Những vị đại đức Tăng thời Tùy - Đường đă rất nghiêm túc suy t́m trong giáo pháp cả một đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật: Trong một đời Ngài, hết thảy các kinh do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, bộ kinh nào trọng yếu nhất, có thể đại diện cho hết thảy các kinh giáo đă nói trong bốn mươi chín năm? Mọi người cùng suy cử kinh Hoa Nghiêm, xưng tụng kinh Hoa Nghiêm là căn bản pháp luân, hết thảy các kinh giáo khác là quyến thuộc của Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là một cái cây to, nó là căn bản, những kinh khác là cành lá trên cây ấy; nhưng Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy vào Tịnh Độ. Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ biến thành căn bản của căn bản, cuối cùng, kinh ấy (Hoa Nghiêm) quy vào kinh này (Vô Lượng Thọ), căn bản của căn bản. V́ thế, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, những giáo pháp Đại Thừa đều biến thành ǵ? Biến thành pháp dẫn khởi của kinh Vô Lượng Thọ. Đối với cách nói này, tôi bội phục năm vóc sát đất, v́ sao? V́ sao tôi tin tưởng Tịnh Độ? Do kinh Hoa Nghiêm mà tin tưởng, từ kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm mà tin tưởng.

      Thầy tôi khuyên tôi nên tin tưởng, tôi bề ngoài vâng lời, nhưng trong ḷng chẳng phục. Đương nhiên tôi rất tôn kính thầy, nhưng vẫn ngờ vực Tịnh Tông. Lúc ấy, tôi có cách nghĩ sai lầm rất lớn, sự hiểu lầm này rất nhiều người vướng phải, ngỡ Tịnh Độ là pháp phương tiện do Thích Ca Mâu Ni Phật dùng để tiếp dẫn những bà già thiếu hiểu biết, chẳng biết pháp môn này rốt ráo là như thế nào, không hiểu! Tôi đă kể với quư vị, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm được phân nửa, [khi đó là] lần giảng thứ nhất, [giảng] lần này là lần thứ hai. Giảng lần đầu tiên cũng giảng không ít năm, mười bảy năm đă giảng được phân nửa. Có một hôm, bỗng nhiên nghĩ: “Rốt cuộc Văn Thù, Phổ Hiền học những ǵ? Thiện Tài đồng tử là môn sinh đắc ư của Văn Thù Bồ Tát, là pháp tử của Văn Thù Bồ Tát, Ngài tu ǵ vậy?” Lật đến phần sau của Tứ Thập Hoa Nghiêm, giở đến quyển thứ ba mươi chín, thấy Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, điều này khiến tôi bị rúng động rất lớn. Văn Thù là thầy của bảy vị Phật, Phổ Hiền được tôn xưng là Nguyện Vương, [các Ngài] thật sự tu [Tịnh Độ]! Trong các vị Bồ Tát, hạnh môn triệt để nhất là Phổ Hiền, Ngài đại diện cho hạnh môn. Tôi nẩy sanh ḷng tin đối với Tịnh Độ là nhờ Hoa Nghiêm. Ở đây, cụ Hoàng nói: “Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lưỡng kinh chỉ thị bổn kinh chi đạo dẫn, bổn kinh giả chánh thị nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy” (Cả hai kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa chỉ là pháp dẫn đường cho kinh này. Kinh này đúng là chỗ chỉ quy của cả Đại Tạng giáo), tức là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa nhằm dẫn khởi pháp này, pháp này là Vô Lượng Thọ kinh. Quả thật là tôi đă được [kinh Hoa Nghiêm] hướng dẫn, nên mới thật sự phát tâm học tập [pháp môn Tịnh Độ]. Chúng ta thấy một câu nói của cư sĩ Bành Tế Thanh, trong sách này cũng được lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn rất nhiều; ông Bành nói kinh Vô Lượng Thọ là trung bổn Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi giảng lần đầu tiên, giảng được phân nửa, sau khi liễu giải vấn đề bèn buông kinh Hoa Nghiêm xuống, chẳng giảng [Hoa Nghiêm] nữa, mà giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi giảng mười lần, trước sau tổng cộng giảng từng lần một thành mười lượt, lần này là lần thứ mười một. Kinh này là trung bổn Hoa Nghiêm, chẳng khác ǵ Hoa Nghiêm.

      “Hoa Nghiêm kinh mạt, Phổ Hiền đại sĩ thập đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc, thị kỳ minh chứng” (cuối kinh Hoa Nghiêm, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền đại sĩ dẫn về Cực Lạc là một chứng cớ rơ ràng), chẳng giả tí nào! “Thánh giáo như chiên đàn, phiến phiến giai hương. Pháp pháp viên đốn, bổn vô cao hạ” (thánh giáo như chiên đàn, miếng nào cũng thơm. Pháp nào cũng viên đốn, vốn chẳng cao thấp), là như kinh Kim Cang đă nói: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”, đúng vậy, chẳng giả tí nào! Pháp không có cao thấp, nhưng người có cao thấp, do căn tánh của mỗi người khác nhau. Tiếp theo là: “Duy dĩ chúng sanh cấu trọng chướng thâm, tâm thô, trí liệt” (chỉ v́ chúng sanh cấu nặng, chướng sâu, tâm thô, trí hèn), đó là có cao thấp. V́ vậy, tổ sư đại đức phán giáo, tuyệt đối chẳng phân chia theo nội dung kinh, mà phân chia theo căn tánh của con người, căn tánh nào sẽ thích hợp học tập kinh điển nào! Nói thật ra, kinh đâu có Đại Thừa hay Tiểu Thừa, đều là b́nh đẳng. Do vậy, cổ đức Trung Quốc đă nói: “Viên nhân thuyết giáo, vô giáo bất viên” (người viên măn bàn về giáo pháp, giáo pháp nào cũng là viên măn), câu này hay lắm! “Viên nhân” là người khai ngộ, người kiến tánh, dù là giáo pháp Tiểu Thừa giáo cũng nói thành cảnh giới Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu bổn, mọi người thường niệm, cũng chẳng cảm thấy hy hữu, lạ lùng chi hết, nhưng bộ Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư đă nâng kinh ấy lên cảnh giới Hoa Nghiêm. Quư vị đọc Sớ Sao, chính là như cổ đức đă nói “viên nhân thuyết giáo, vô giáo bất viên”. Liên Tŕ đại sư dùng “thập môn khai khải” và giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm để giảng giải kinh A Di Đà, đề cao địa vị Tịnh Độ Tông. Vào thời ấy, người ta khinh thường Tịnh Độ, chẳng muốn học pháp môn này, mà thích học Giáo, hay học Thiền. Liên Tŕ đại sư thấy rất rơ ràng: Quư vị học Giáo chẳng khai ngộ, học Thiền chẳng đắc Thiền Định. Nói cách khác, quư vị đă phí uổng tinh lực và thời gian! Do tâm đại từ bi nên Ngài khuyên quư vị niệm Phật. Quư vị coi thường Tịnh Tông, nên Ngài dùng kinh Hoa Nghiêm để giải thích. Sau khi nghe, nhận thấy [cảnh giới trong kinh Di Đà] chẳng khác cảnh giới Hoa Nghiêm, quư vị mới có thể phát khởi tín tâm, mới có thể quay đầu. Ḷng từ bi vô tận!

      Kế tiếp, Ngẫu Ích đại sư viết Yếu Giải. Yếu Giải không dài, nhưng đúng là danh phù hợp thật, lời chú giải của Ngài đúng là đơn giản, nhưng trọng yếu. Lăo pháp sư Ấn Quang tán thán: “Dù A Di Đà Phật tái lai, tự viết chú giải kinh Di Đà, cũng chẳng thể hay hơn được!” Tán thán đến tột bậc! Xưa kia, tôi ở Tân Gia Ba, pháp sư Diễn Bồi là bạn già, có lần Sư mời tôi dùng cơm, có nhắc tới vấn đề này, hỏi tôi: “Lời tán thán ấy của Ấn Quang đại sư có phải là hơi quá lố một chút hay không?” Sư hỏi tôi như vậy. Tôi thưa: “Chẳng quá lố tí nào! Câu nào cũng là lời thật!” Hơn hai mươi năm trước, gần như ba mươi năm, tôi ở Mỹ, có một cư sĩ hỏi tôi, ông ta cũng hết sức hiếu học. Ông ta nói: “Pháp sư Tịnh Không! Nếu chỉ cho phép thầy chọn lựa một bộ trong Đại Tạng Kinh, thầy sẽ chọn bộ nào?” Tôi chẳng do dự mảy may, bảo ông ta: “Tôi chọn lựa Di Đà Kinh Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư”. Quá hay! Tôi tán thành câu nói Ấn Quang đại sư cả hai tay. Tuy văn tự không nhiều lắm, nhưng có nhiều ư tưởng trong ấy từ trước đến nay các vị tổ sư đại đức chưa hề nói đến, mà Ngài có thể nói ra, nói rơ ràng dường ấy, nói thấu triệt ngần ấy, quả thật hết sức khó có! Trong bản chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ đă trích dẫn [sách Yếu Giải] rất nhiều, chúng ta có thể đọc thấy điều này.

      Tiếp đó là nêu tỷ dụ: “Cơ ngộ vương thiện, nhi bất năng xan” (đói gặp cỗ vua mà chẳng dám ăn), nói lên điều ǵ? Đây là nói chúng sanh thiếu phước. Không chỉ riêng đối với Thích Ca Như Lai, đây là kinh bậc nhất và pháp môn bậc nhất để hết thảy chư Phật ứng hóa trong mười pháp giới, ứng hóa trong lục đạo, phổ độ chúng sanh, nhưng kẻ ấy chẳng tin, chẳng tiếp nhận, nghe không hiểu, đúng là nghe chẳng hiểu, chẳng giả! Tôi hiểu rất rơ đạo lư này, v́ sao kẻ ấy nghe không hiểu? Đối với pháp môn này, kẻ ấy hoài nghi, đó là chướng ngại. Kẻ ấy ngạo mạn, xem thường bộ kinh nhỏ này, không thèm quan tâm tới. Thiếu phước báo mà! Đưa cho hắn kinh bậc nhất của chư Phật Như Lai, hắn chưa thể tiếp nhận. Đúng là tám chữ [trong lời nhận định của cụ Hoàng] đă nói rất hay: “Cấu trọng, chướng thâm, tâm thô, trí liệt” (cấu nặng, chướng sâu, tâm thô, trí kém), đúng là giống như gặp được thức ăn của quốc vương mà chẳng dám xơi!

      “Duy bổn kinh tŕ danh nhất pháp, năi dị hành đạo, nhân nhân năng tu” (Chỉ một pháp Tŕ Danh trong kinh này mới là đạo dễ hành, ai cũng có thể tu được). Nói đến kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ và Tiểu Bổn Di Đà Kinh tương đồng, đề xướng tŕ danh, không như Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, kinh ấy đề xướng tu Quán, nên c̣n gọi là Thập Lục Quán Kinh. Trong mười sáu phép Quán, phép cuối cùng, tức phép Quán thứ mười sáu, là tŕ danh. Tŕ danh được đặt sau cùng, pháp sau cùng là pháp quan trọng nhất! Quư vị xem biểu diễn văn nghệ hay diễn tuồng, màn hay nhất chắc chắn là “áp trục hư” tức màn diễn xuất cuối cùng. Phật pháp cũng là như vậy, thứ tốt nhất đặt ở cuối cùng. Quư vị xem phần Hai Mươi Lăm Pháp Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm, [hai mươi lăm môn Viên Thông] được xếp theo thứ tự lục căn, lục trần, lục thức, thất đại, xếp theo thứ tự ấy. Theo thứ tự thuận, pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm phải thuộc vị trí thứ hai, kết quả là quư vị thấy các pháp ấy chẳng được xếp theo thứ tự thuận, pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát được đặt ở cuối cùng, chứng tỏ điều ǵ? Pháp môn ấy là pháp môn đặc biệt, chẳng phải là pháp môn thông thường. Trên thực tế, đây là hai pháp môn đặc biệt, nhưng rất nhiều người hiểu lầm, chỉ nói tới Nhĩ Căn Viên Thông, phớt lờ pháp Niệm Phật Viên Thông của Đại Thế Chí Bồ Tát. Do Quán Thế Âm Bồ Tát thay đổi vị trí, từ thứ hai chuyển đến cuối cùng, hết sức rơ rệt, quư vị vừa nh́n liền biết ngay, c̣n Đại Thế Chí Bồ Tát [nếu theo thứ tự thuận] được xếp vào vị trí thứ hai mươi ba, Di Lặc Bồ Tát được xếp vào vị trí hai mươi tư, nhưng lại đổi chỗ đôi chút: Di Lặc Bồ Tát xếp ở vị trí hai mươi ba, Đại Thế Chí Bồ Tát xếp xuống vị trí hai mươi bốn, chỉ thay đổi một vị trí, cho nên rất nhiều người không chú ư. Trong chương Hai Mươi Lăm Viên Thông có hai pháp môn đặc biệt, chẳng phải là một! Hai vị này không được xếp theo thứ tự thuận, nên [pháp môn của hai Ngài] là các pháp môn đặc biệt, đặc biệt trọng yếu! Chúng ta đọc kinh, nghiên cứu giáo pháp, chớ nên không lưu ư những chỗ như vậy. Tŕ danh mới là đạo dễ hành, người nào cũng có thể tu.

      “Đại Thế Chí Viên Thông Chương viết: ‘Tịnh niệm tương kế, tự đắc tâm khai’, tức phàm phu tâm, khai Phật tri kiến” (Chương Đại Thế Chí Viên Thông chép: “Tịnh niệm nối tiếp, tâm tự khai ngộ”, chính là [dùng ngay cái] tâm phàm phu mà khai tri kiến Phật). Cụ trích dẫn câu này hay lắm, “tịnh niệm tương kế” là công phu, cũng là nhất tâm tŕ danh; “tự đắc tâm khai” là khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, không cần tới phương pháp nào khác, chỉ là một câu Phật hiệu. “Tức phàm phu tâm, khai Phật tri kiến”, khai Phật tri kiến là đại triệt đại ngộ, là minh tâm kiến tánh, chẳng cần dùng phương pháp nào khác. Qua các đời, chúng ta thấy người niệm Phật trong thời gian ba năm bèn thành công, biết trước lúc mất, tự tại văng sanh; chúng ta hăy nghĩ coi những người ấy tâm có tự được khai ngộ hay chăng? Công phu tịnh niệm nối tiếp mà chắc chắn có, tâm sẽ được tự khai. Sau khi tâm đă tự khai, v́ sao chẳng giảng kinh, chẳng hoằng pháp? Giảng kinh, hoằng pháp phải có pháp duyên; người ấy thiếu pháp duyên nên ra đi. Người ấy ra đi, có giảng kinh hay không? Có hoằng pháp hay không? Có! Người ấy làm như vậy đă nêu gương tốt nhất cho người đời sau, chẳng dùng ngôn giáo, mà dùng thân để biểu diễn. Trong Phật pháp, chúng tôi giảng kinh, dạy học hơn năm mươi năm, ông Hoàng Trung Xương biểu diễn, trong một thời gian chẳng dài [vẫn có thể văng sanh], đă nêu ra một ví dụ tốt nhất, chứng minh cho chúng tôi giảng kinh, dạy học, công đức ấy thù thắng lắm! Nếu quư vị không tin, thấy người ta y giáo phụng hành, niệm hai năm mười tháng bèn thành công, [liền vỡ lẽ]: “Là thật! Chẳng giả!” Có bao nhiêu kẻ thiếu ḷng tin, do dự, chần chừ, vừa trông thấy [tấm gương của ông Hoàng Trung Xương], ḷng tin bèn kiên định! Ông ta thật sự tiếp dẫn đại chúng văng sanh, mà cũng là tiếp dẫn kẻ hữu duyên. Người ta thấy gương ấy, thật sự phát khởi ḷng tin: Nghiêm túc như ông ta, thật sự làm, ai nấy đều thành tựu!

      “Chí ư căn khí thiển giả, đản năng chí tâm tín nhạo, nguyện sanh bỉ quốc, năi chí thập niệm, lâm mạng chung thời, mông Phật nhiếp thọ, tiện sanh Cực Lạc, hoa khai kiến Phật, ngộ nhập Vô Sanh. Kỳ diệu tật tiệp, mạc quá ư thị” (C̣n như kẻ căn khí cạn cợt, chỉ cần chí tâm tin ưa, nguyện sanh cơi kia, dẫu chỉ mười niệm, lúc mạng sắp hết, được Phật nhiếp thọ, liền sanh về Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, ngộ nhập Vô Sanh, kỳ diệu, nhanh chóng, không chi hơn được). Kẻ căn khí nông cạn, tham Thiền chưa thể đắc Định, học Giáo chưa thể đại khai viên giải; chữ “căn khí thiển” chỉ hạng người ấy. Chỉ cần người ấy chí tâm tin tưởng, ưa thích. “Chí tâm” là chân thành đến tột bậc, quyết định chẳng hoài nghi mảy may, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, tin tưởng kinh Vô Lượng Thọ, tin tưởng kinh A Di Đà, khăng khăng một mực thâm nhập một môn. “Nhạo” () là yêu thích. Không cần nhiều, một quyển sách nhỏ mỏng manh là được rồi! Nguyện sanh về Tịnh Độ, nguyện này vô cùng trọng yếu. Trong một đời này, khẳng định một phương hướng, một mục tiêu như thế, quyết định phải làm được! Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói rất khéo: Hành nhân, tức là người niệm Phật, có được văng sanh thế giới Cực Lạc hay không, [điều ấy] được quyết định bởi [hành nhân] có tín nguyện hay không? Chỉ cần quư vị thật sự tin, thật sự nguyện, không ai chẳng văng sanh! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị cao hay thấp, tùy thuộc công phu niệm Phật của quư vị sâu hay cạn. Câu này hay lắm! Công phu cạn là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, v́ sao? Chưa niệm đến nhất tâm bất loạn. Niệm đến Sự nhất tâm bất loạn, sẽ sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, niệm đến Lư nhất tâm bất loạn sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Công phu niệm Phật sâu hay cạn, trong ba cơi đều có chín phẩm, [tức là] đều có ba bậc chín phẩm, tùy thuộc công phu cạn hay sâu. Văng sanh hay không là do có tín nguyện hay không, câu nói này hay quá! Cổ nhân chưa có ai nói vậy, nhưng trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói như thế.

      Do vậy, trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh. Hạnh là quư vị thật sự niệm. “Năi chí thập niệm” (dẫu chỉ mười niệm), “mười niệm” là như nguyện thứ mười tám “mười niệm ắt sanh” trong bốn mươi tám nguyện đă nói. Đó là nói khi lâm chung, trong một đời này chưa có duyên gặp gỡ, đến khi lâm chung mới gặp thiện hữu nói cho biết phương pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, khuyên kẻ ấy niệm Phật. Điều kiện là người ấy nghe xong, ngay lập tức tiếp nhận, có thể tin tưởng, phát nguyện, bèn có thể văng sanh, dẫu trong một đời chưa hề gặp [pháp môn này trước khi lâm chung]! Ở Mỹ, tôi đă được gặp một người. Tại đặc khu Hoa Thịnh Đốn (Washington DC), có một đồng tu cả đời chẳng tín ngưỡng tôn giáo nào, bị ung thư. Ông ta mở tiệm bán bánh ḿ, con người hết sức tốt lành, thật thà. Khi lâm chung, mắc bệnh ung thư, bệnh viện đă không nhận chữa trị nữa, bảo đă hết cách cứu. Người nhà lănh về, đến khắp nơi cầu thần, bái Phật, mong có kỳ tích xuất hiện. Chúng tôi ở nơi ấy, có các đồng học học Phật thành lập một hội Phật giáo, có tên là Hoa Phủ Phật Giáo Hội (hội Phật giáo Washington). Có mấy đồng học [thuộc hội ấy] đến thăm ông ta, thấy t́nh trạng như vậy, bèn khuyên: “Nhân gian rất khổ, đừng cầu lành bệnh, hăy niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc”. Đem y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc giảng cho ông ta nghe. Nghe xong, ông ta hết sức hoan hỷ, bảo người nhà chẳng cần chạy chữa cho ông ta nữa, tất cả hăy cùng niệm Phật giúp ông ta cầu sanh Tịnh Độ. Niệm ba ngày, ông ta thật sự văng sanh. Trước khi lâm chung ba ngày, ông ta mới chuyển biến ư niệm. Hễ niệm Phật, ông ta sẽ không đau. Ông ta vốn bị bệnh ung thư rất đau đớn; [nay do niệm Phật] không đau nữa. V́ thế, ông ta ḷng tin tràn trề, niệm ba ngày, ra đi rất thuận lợi. “Mười niệm ắt sanh” là thật, chẳng giả! Khi lâm chung được Phật nhiếp thọ, Phật đến tiếp dẫn, liền sanh về Cực Lạc, hoa nở kiến Phật, ngộ nhập Vô Sanh.

      Trong kinh Di Đà, có một câu kinh văn Huyền Trang đại sư và La Thập đại sư phiên dịch hoàn toàn khác nhau. Bản dịch của ngài La Thập có câu “nhất tâm bất loạn”; bản dịch của Huyền Trang đại sư không có câu này, Ngài ghi là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng phải là nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn khó, nhất tâm hệ niệm dễ, chúng ta đều có thể làm được. Có phải là Cưu Ma La Thập đại sư dịch sai hay không? Nói thật ra, La Thập đại sư chẳng dịch sai, mà Huyền Trang đại sư cũng chẳng dịch sai! Nguyên văn là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng dịch sai! Đó là nguyên văn. La Thập đại sư dịch theo ư, khi lâm chung, [Tịnh nghiệp hành nhân] thật sự nhất tâm bất loạn. Khi lâm chung, công phu thành phiến, chưa đạt đến nhất tâm, nhưng khi Phật đến tiếp dẫn, trước hết, Phật quang chiếu tới quư vị, Phật quang vừa chiếu, khiến cho công phu của quư vị nâng cao gấp bội. Quư vị đă có công phu thành phiến, Ngài vừa chiếu, ngay lập tức trở thành nhất tâm bất loạn, chẳng dịch sai! Đức Phật giúp đỡ chúng ta, bản thân chúng ta chẳng có công phu ǵ th́ không được rồi! Đức Phật chẳng có cách nào giúp đỡ quư vị! Phật giúp quư vị là tương đối, [nghĩa là] quư vị có một phần công lực, Ngài sẽ gia tŕ quư vị một phần. Quư vị có mười phần công lực, Ngài sẽ gia tŕ quư vị mười phần. Chính ḿnh phải thật sự tu. Nếu chính ḿnh chẳng thật sự tu, chỉ cầu Phật gia tŕ, đó là chuyện không thể thực hiện được! Hai bên phải đối ứng mà! Chính ḿnh nhất định phải nghiêm túc nỗ lực nâng cao [cảnh giới] của chính ḿnh, đến khi lâm chung, hiệu quả gia tŕ sẽ vô cùng rơ rệt. V́ thế, pháp môn này đúng là kỳ diệu, nhanh chóng; tốc độ nhanh chóng không chi hơn được!

      “Nhất thiết chúng sanh do thử đắc độ, thập phương Như Lai năi xứng bổn hoài” (Hết thảy chúng sanh do pháp này đắc độ mới xứng hợp bổn hoài của mười phương Như Lai). Thật vậy! Mười phương Như Lai ứng hóa trong thế gian này chỉ v́ một chuyện này: Giúp chúng sanh ĺa khổ, được vui, chẳng v́ chính ḿnh. Các Ngài đâu có ư niệm lo toan cho bản thân, các Ngài chẳng v́ ḿnh, mà v́ chúng sanh mà đến [thế gian này]. Chúng sanh khổ sướng bởi đâu? Do mê hay ngộ mà ra. V́ sao quư vị khổ? V́ quư vị tạo nghiệp bất thiện. Cớ sao quư vị tạo nghiệp bất thiện? Do quư vị mê hoặc, nên mới tạo nghiệp, mới cảm lấy ác báo. Bởi lẽ, đức Phật biết: Sướng do đâu mà có? Sướng từ khai ngộ mà có. Sau khi đă ngộ, chắc chắn chẳng tạo ác nghiệp, đó là tiểu ngộ. Khi đại ngộ, thiện lẫn ác đều chẳng tạo, tạo ǵ? Phật pháp nói là “tịnh nghiệp”, tức nghiệp thanh tịnh. Thanh tịnh nghiệp là ǵ? Vẫn là đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện, đoạn ác, tu thiện, nhưng trong tâm thanh tịnh, chẳng có dấu vết ǵ, bèn gọi là “tịnh nghiệp”; đấy cũng là thật sự buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, đoạn ác, tu thiện th́ gọi là “tịnh nghiệp”.

      Phật dùng phương pháp ǵ để giúp những chúng sanh khổ nạn và chúng sanh trong lục đạo? Phật dùng giáo học. V́ thế, thuở lăo nhân gia tại thế đă nêu gương cho chúng ta: Sau khi khai ngộ bèn bắt đầu dạy học. Ba mươi tuổi khai ngộ, bảy mươi chín tuổi viên tịch, suốt bốn mươi chín năm chẳng bỏ sót ngày nào, hằng ngày dạy dỗ. Phật môn đệ tử chúng ta bất luận tại gia hay xuất gia, nhất định phải ghi nhớ: Đức Phật xuất hiện trong thế gian này để làm ǵ? Dùng phương pháp ǵ? Chúng ta phải học tập điều ấy. Phật giáo truyền đến Trung Quốc là giáo dục, chẳng phải là tôn giáo, quư vị chớ nên không biết điều này! Đạo tràng Phật giáo là cơ sở, thời cổ gọi là Tự. Tự có nghĩa là ǵ? V́ sao gọi là Tự? “Tự” () là cơ quan làm việc của chính phủ, trực tiếp thuộc quyền cai quản của hoàng đế. Nếu quư vị đến Bắc Kinh, đến thăm Cố Cung[3], trong Cố Cung có chín Tự[4]. Một đơn vị bầy tôi của hoàng đế được gọi là Tự. Tự, có nghĩa là vĩnh viễn thiết lập, chẳng thể phế trừ! Do vậy, Tự được thành lập từ đời Hán cho măi đến đời Thanh cũng không thay đổi. Triều đại thay đổi theo mỗi đời, chỉ riêng chín Tự không thay đổi danh xưng. Phật giáo truyền đến Trung Quốc cũng được gọi là Tự, v́ thế, dưới hoàng đế có mười Tự, tức là vốn đă có chín tự, thêm vào cơ cấu này (nhà chùa) thành mười Tự. Tự này (nhà chùa Phật giáo) làm chuyện ǵ? Lo dạy học. Giáo dục Trung Quốc biến thành hai cơ cấu: Bản thân nhà vua nắm giữ một cơ cấu, giáo dục của Phật Đà do chính nhà vua nắm giữ, nên được phổ cập rất nhanh, phổ cập toàn quốc, v́ mọi người tôn kính hoàng thượng. Cơ cấu kia là giáo dục Nho gia do Tể Tướng nắm giữ, nó có một bộ riêng, gọi là bộ Lễ. Bộ Lễ là bộ giáo dục. Tể Tướng cai quản bộ giáo dục, hoàng thượng tự ḿnh nắm giữ nhà chùa, tức bộ giáo dục của Phật Đà. Hai nền giáo dục tồn tại song song ở Trung Quốc, Phật giáo chẳng phải là tôn giáo.

      Hiện thời, Phật giáo biến thành tôn giáo, tứ chúng đệ tử chúng ta bất xứng với Thích Ca Mâu Ni Phật, v́ sao trở thành nông nỗi này? Chúng ta thấy chùa chiền thời cổ, mỗi ngày làm chuyện ǵ? Giảng kinh, dạy học, giống như một ngôi trường. Điện đường là pḥng học, Ḥa Thượng Thủ Tọa phân ṭa giảng kinh, giống như trong nhà trường hiện thời, lớp học khác nhau. Giảng đường này giảng Hoa Nghiêm, giảng đường kia giảng Vô Lượng Thọ, giảng đường nọ giảng Bát Nhă; họ có thầy, mỗi ngày lên lớp. Chẳng cho phép học tṛ lớp nào cũng đều học, chẳng phải vậy! Học tṛ chỉ có thể chuyên dồn công sức nơi một môn; quư vị học lớp của thầy nào, bèn đến giảng đường ấy. Một môn thâm nhập, chẳng phải là bảo quư vị môn ǵ cũng đều học, chẳng phải vậy! Thầy cũng chuyên dạy một môn, tṛ cũng chuyên học một môn. Học c̣n chưa xong một môn, chẳng thể học môn thứ hai. Quư vị có thể học rất nhiều môn, nhưng chẳng phải là học cùng một lúc. Học từng môn một th́ được phép. V́ thế, nhà chùa là cơ cấu giáo dục. Nhất là đến thời đại Tùy - Đường, mười tông phái của Trung Quốc h́nh thành, đề xướng chế độ tùng lâm, đó chính là mở rộng quy mô, chính thức biến [nhà chùa] thành Đại Học. Chủ tịch tùng lâm là Phương Trượng, Trụ Tŕ, Hiệu Trưởng. Quư vị thấy các vị chấp sự (đảm đương trách nhiệm) dưới vị ấy: Thủ Tọa là giáo vụ, Duy Na là huấn đạo, trông nom việc giáo huấn, uốn nắn, Giám Viện trông nom tổng vụ (quản lư mọi sự vụ chung), hoàn toàn giống cách phân công trong trường Đại Học hiện thời. Trong Đại Học hiện thời, quư vị thấy Giáo Vụ Trưởng (Provost), Huấn Đạo Trưởng (Proctor), Tổng Vụ Trưởng (Dean of General Affairs), danh xưng khác nhau, nhưng công việc hoàn toàn tương đồng. V́ thế, Phật giáo truyền đến Trung Quốc đă biến hóa mang tánh chất cách mạng, được tổ chức theo quy củ chính thức, mang h́nh thức một trường học chính quy. Phật giáo vào thời đức Thế Tôn và vào thời mới truyền sang Trung Quốc mang tánh chất trường tư, giống như tư thục giáo dục, chưa được “chế độ hóa” (Institutionalized). Chế độ hóa là điểm đặc sắc trong Phật giáo Trung Quốc.

      Khi tôi mới học Phật, thầy tôi đă nói chuyện này rất nhiều lần, đương nhiên là đặt hy vọng nơi tôi, nhưng tôi không có đại phước báo như thế. Thầy đă bảo tôi rất nhiều lần: “Muốn cho Phật giáo hưng vượng trở lại, nhất định phải khôi phục chế độ tùng lâm”. Nếu nói theo cách bây giờ, nhất định phải lập Đại Học Phật giáo th́ Phật pháp mới có thể hưng vượng. Chuyện này chúng ta chỉ đành trông chờ quốc gia, cá nhân chẳng có năng lực ấy, nói theo Phật pháp là chẳng có đại phước báo dường ấy! V́ thế, đức Thế Tôn đem đại sự Phật pháp hưng vượng hay suy vi phó thác cho quốc vương, đại thần, để họ hộ tŕ. Trong quá khứ, tại Trung Quốc, lịch đại đế vương đều hộ tŕ Phật pháp, đặc biệt là nhà Thanh là dân tộc thiểu số vào làm chủ Trung Quốc, thống trị một quốc gia to như thế, họ dùng phương pháp ǵ? Dùng giáo dục. “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân chúng, lấy giáo dục làm đầu). Họ dùng giáo dục của Nho, Thích, Đạo, giữ vững nền cai trị tới hai trăm sáu mươi năm, giữ ổn định trong một thời gian dài. Cuối cùng, đúng là [thành quả ấy] bị hủy mất bởi chính Từ Hy Thái Hậu. Từ Hy Thái Hậu nắm quyền, bèn phế trừ sự giảng học. Trong quá khứ, trong cung đ́nh luôn lễ thỉnh những vị cao tăng đại đức Nho, Thích, Đạo vào dạy học trong cung đ́nh, hoàng thượng dẫn văn vơ bá quan nghe giảng, những ư nghĩa được giảng đều [được thâu thập] trong Tứ Khố Toàn Thư. Tôi đọc Tứ Khố Toàn Thư, thích xem những thứ như Luận Ngữ, Mạnh Tử, [để t́m hiểu] cách giảng nghĩa tại cung đ́nh trong quá khứ là như thế nào? Những nghĩa lư đă giảng giải đều được thâu thập trong bộ Tứ Khố, bản ấy là bản tiêu chuẩn. Họ thật sự làm, không giống như hiện thời, hiện tại không làm! Đến thời Từ Hy, không làm như vậy nữa. Từ Hy chuộng quỷ thần, thích cầu cơ, gặp chuyện ǵ chính ḿnh chẳng thể giải quyết, bèn chẳng hỏi han ai khác, mà thưa hỏi trong đàn cầu cơ, cho nên bà ta làm mất nước! Chương Gia đại sư kể cho tôi nghe chuyện này. Chương Gia đời trước là quốc sư của nhà Thanh[5]. Do vậy, Phật giáo bị biến thành tôn giáo, giáo dục của Phật Đà chẳng c̣n nữa, chúng ta phạm lỗi với Thích Ca Mâu Ni Phật ở chỗ này!

      Chẳng liễu giải th́ thôi, chẳng cần phải nhắc tới, nhưng thật sự liễu giải, nhận biết rồi, chúng ta nhất định phải đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật. Bản thân tôi tiếp nhận sự giáo huấn của Chương Gia đại sư, Ngài khuyên tôi xuất gia, lại c̣n dặn tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Tôi hiểu ư lăo nhân gia, chẳng cô phụ thầy, suốt đời chúng tôi đi theo con đường này. Đi theo con đường này rất nhọc nhằn, nhưng đáng công lắm! Mong các đồng học chúng ta đều có thể giác ngộ, thật sự phát tâm dạy học, bất luận là tại gia hay xuất gia đều có thể [làm công tác giáo hóa]. Thuở đức Thế Tôn tại thế, cư sĩ tại gia Duy Ma Cật (Vimalakīrti) giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, giảng kinh, dạy học mỗi ngày. Thời đầu Dân Quốc, tiên sinh Âu Dương Cánh Vô là một vị đại đức trong Phật môn đă thành lập Chi Na Nội Học Viện, thâu nhận hàng xuất gia lẫn tại gia, tổ chức rất thành công; nhưng v́ t́nh h́nh chiến tranh, hoạt động được hai năm rồi phải đóng cửa học viện. Ông ta nói rất hay: “Phật môn là sư đạo”. Sư đạo có nghĩa là thầy là lớn nhất, tôn sư, trọng đạo! Chúng ta thấy trong kinh Duy Ma, đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật là Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, nghe cư sĩ Duy Ma giảng kinh, lễ tiết hoàn toàn giống như [lễ tiết dành cho] Thích Ca Mâu Ni Phật. Cư sĩ Duy Ma là kẻ tại gia, khi lên ṭa giảng kinh, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đảnh lễ cư sĩ ba lạy, nhiễu quanh ba ṿng. Đó là tôn sư trọng đạo, Ngài là thầy mà! Tuy quư vị xuất gia, là học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật, quư vị vẫn là học tṛ, vẫn chưa đạt tới địa vị như Ngài (Duy Ma Cật). V́ vậy, nói theo Phật pháp, hai vị Phật đồng thời xuất hiện trong thế gian thuở ấy, một vị là xuất gia Phật, vị kia là tại gia Phật, hai vị Phật, quyết định chẳng thể khinh mạn! Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp, nhất định phải tôn trọng đôi bên; chẳng thể nói vừa xuất gia bèn ngạo nghễ, ngă mạn, coi thường người khác. Trong giới cư sĩ, thật sự có những bậc đại đức, tu hành rất tốt đẹp, thậm chí có người khai ngộ, làm sao quư vị có thể khinh mạn họ được? Nhất định phải hiểu điều này! Bất luận tại gia hay xuất gia, nếu thật sự học Phật, phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật khiêm hư, cung kính hết thảy chúng sanh, phải nêu gương thật sự đoạn trừ tham, sân, si, mạn. Kẻ c̣n có ngạo mạn th́ như thế nào? Quư vị là phàm phu! Bởi lẽ, mười phương Như Lai xuất hiện trên cơi đời chẳng có chi khác, [chỉ là] mong giúp cho hết thảy chúng sanh sớm có ngày thành Phật, sớm có ngày rời khỏi lục đạo, rời khỏi mười pháp giới, đấy là tâm nguyện của Phật.

      Kế đó là: “Hựu bổn kinh sở tuyên, năi Như Lai chân thật thuần nhất chi pháp, vô hữu quyền khúc, cố danh chánh thuyết” (Kinh này lại tuyên dương pháp chân thật thuần nhất của Như Lai, chẳng quyền biến, cong quẹo, nên gọi là Chánh Thuyết). Mấy câu này hết sức quan trọng, v́ trong hết thảy kinh giáo, đức Thế Tôn khai thị quả thật có nói phương tiện, có khi nói uyển chuyển, tùy thuận, [những cách nói như vậy] rất nhiều, hết sức phổ biến, v́ sao? Chúng sanh căn tánh khác nhau. Do vậy, giáo học trong Phật môn thường được gọi là “đại giảng đường” hay “đại giảng ṭa”. “Đại” có nghĩa là ǵ? Căn tánh của thính chúng hoàn toàn khác nhau, có kẻ không biết chữ, có người tŕnh độ Tiểu Học, cũng có người học lớp Tiến Sĩ, mỗi cá nhân nghe giảng đều hoan hỷ, mỗi người nghe đều được lợi ích, đấy chẳng phải là chuyện dễ! Không giống như lên lớp trong trường học, học tṛ có tŕnh độ ngang nhau, dễ giảng, ở đây là hoàn toàn khác nhau, “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp” (Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp), hết thảy chúng sanh không chỉ nghe hiểu, mà c̣n đều được thụ dụng. Đó gọi là “đại giảng ṭa”; những vị giáo thụ[6] hay giáo sư b́nh thường sẽ chẳng thể làm được. Do vậy, giảng đường trong Phật môn người đến chẳng cự tuyệt, người đi không giữ lại. Quư vị thông đạt quyền biến, hễ giảng sâu, phải quan tâm đến những kẻ tŕnh độ nông cạn, xét coi họ có hiểu hay không? Nếu giảng nông cạn, cũng phải quan tâm đến những kẻ có tŕnh độ cao; phương diện nào cũng phải xét đến. V́ thế, đức Phật có Thật và có Quyền, có thẳng, và có cong (nói phương tiện, ṿng vo để từ từ hướng dẫn đến mục tiêu), dùng phương pháp dạy học thiên biến vạn hóa, có thể thích hợp các loại căn khí khác biệt. Nhưng kinh này không như vậy, nói thẳng thừng, thỏa đáng, chẳng nói phương tiện, chẳng nói loanh quanh, câu nào cũng giảng pháp chân thật, trực tiếp hướng dẫn quư vị trở về tự tánh. Quư vị phải biết: Văng sanh Cực Lạc là trở về tự tánh. Trở về tự tánh là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phương pháp hết sức đơn giản, ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng, đạt đến rốt ráo viên măn.

      “Hựu năi Thế Tôn xứng kỳ bổn tánh, ḥa bàn thác xuất, hào vô bảo lưu, cố danh xứng tánh” (Lại nữa, Thế Tôn xứng hợp bổn tánh trao bày hết cả ra, chẳng có chút mảy may giấu diếm, nên gọi là Xứng Tánh). Mấy câu này nói rất hay, kinh Vô Lượng Thọ từ bản tánh của Thích Ca Như Lai tự nhiên lưu lộ, lại c̣n là viên măn lưu lộ. Giống chúng ta tặng quà, dọn hết cả mâm ra, chẳng giữ lại mảy may nào, tuyên dương toàn bộ tự tánh. Những kinh điển đàm luận xứng tánh như vậy, giăi bày trọn hết như thế không nhiều lắm! V́ thế, kinh này cực viên, cực đốn, nên gọi là xứng tánh. “Nhất thiết hàm linh giai nhân thử nhi đắc độ thoát, năi xứng tánh trung đăng phong tạo cực chi đàm, cố vi Xứng Tánh Cực Đàm” (Hết thảy hàm linh đều do đây mà được độ thoát, thật là bàn luận xứng tánh đến cùng tột, nên gọi là Xứng Tánh Cực Đàm). “Cực” () là đạt tới đỉnh điểm. Bởi lẽ, kinh Vô Lượng Thọ là chỗ quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm đàm luận xứng tánh, nhưng so với kinh Vô Lượng Thọ th́ kinh Vô Lượng Thọ là “xứng tánh cực đàm”, đăng phong tạo cực (đạt tới tột đỉnh). Đây cũng là nói rơ: Kinh Hoa Nghiêm bước vào Tịnh Độ mới thật sự viên măn. Nếu chẳng do mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, kinh Hoa Nghiêm chẳng viên măn. V́ sao? Hoa Nghiêm chỉ có thể độ bậc thượng thượng căn, đối với căn tánh thượng trung hạ sẽ chẳng khế cơ. Hễ dẫn về Cực Lạc, từ thượng thượng căn cho đến thượng trung hạ toàn bộ đều độ được, Hoa Nghiêm bèn viên măn! Thượng trung hạ căn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn bộ đều biến thành thượng thượng căn, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta học pháp môn Tịnh Độ chớ nên không biết điều này! Quư vị biết những đạo lư và chân tướng sự thật này, mới có thể chết sạch so đo, khăng khăng tu một môn này, chắc chắn thành tựu trong một đời này. Đối với thế giới này, đối với thiên đường, hay đối với mười pháp giới, chẳng c̣n có ư niệm tham luyến nữa! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

Tập 12

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang mười hai, ḍng thứ nhất. “Ất, tam căn phổ bị, thánh phàm tề thâu” (tiểu đoạn thứ hai là thích hợp khắp ba căn, thâu gồm thánh lẫn phàm). Chúng ta xem đoạn này, đây là đoạn thứ hai của phần Giáo Khởi Nhân Duyên.

      “Phù chúng sanh căn khí thiên sai vạn biệt, Thế Tôn cố thuyết bát vạn tứ thiên pháp môn quảng ứng quần cơ” (Chúng sanh căn khí ngàn muôn sai khác; do vậy, đức Thế Tôn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để thích ứng rộng răi các căn cơ). Vừa mở đầu đă bảo chúng ta: Đức Phật thuyết pháp chẳng ĺa Nhị Đế: Chân Đế là cảnh giới đức Phật đích thân chứng đắc, Tục Đế là do căn tánh của chúng sanh trong mười pháp giới khác nhau. Do vậy, Chân Đế là Nhất Phật thừa, Tục Đế có tám vạn bốn ngàn pháp môn. “Tám vạn bốn ngàn” cũng chẳng phải là một con số cố định, mà để h́nh dung rất nhiều, vô lượng vô biên pháp môn nhằm thích ứng các thứ căn cơ sai khác trong thế gian. “Hoa Nghiêm Viên Giáo, chuyên tiếp thượng thượng căn nhân” (Hoa Nghiêm là Viên Giáo, chuyên tiếp độ bậc thượng thượng căn): Bộ kinh Hoa Nghiêm giảng thật nhiều, thích ứng với căn cơ của chúng sanh, chứ không phải là chẳng hề thích ứng. Tuy ứng theo căn cơ để thuyết pháp, nhưng [kinh ấy] vẫn quy về tự tánh y như cũ. V́ thế, đối tượng giáo học của kinh ấy là bậc thượng thượng căn. Chúng ta cũng biết bộ kinh ấy do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng đầu tiên sau khi kiến tánh, giảng trong Định; v́ thế, người Tiểu Thừa chẳng thừa nhận. Người Tiểu Thừa chỉ thừa nhận Tứ A Hàm[7] giảng ở Lộc Dă Uyển (Mrigadava, Sārnātha), chứ [đức Phật giảng trong] Định đâu có ai thấy! Trong Định giảng cho ai? Cho bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, các vị ấy là thính chúng, cũng là từ Sơ Trụ trở lên như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói: Thập Trụ Bồ Tát, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, giảng cho bốn mươi mốt địa vị, họ đều là Phật, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Do vậy, đức Thế Tôn và chư Phật Như Lai đă nêu ra báo cáo. Giống như vào đời Đường, Lục Tổ Huệ Năng sau khi khai ngộ, đă hướng về ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn thưa bày, Ngài thưa tŕnh rất đơn giản, chỉ có năm câu, c̣n Thích Ca Mâu Ni Phật báo cáo rất tỉ mỉ, nhưng cảnh giới hoàn toàn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp.

      Cảnh giới khai ngộ của Thích Ca và cảnh giới khai ngộ của Lục Tổ như nhau, sau khi khai ngộ, thật sự thích ứng rộng răi mọi căn cơ, nên dùng thân ǵ để độ bèn hiện thân ấy. Phật Thích Ca ở Ấn Độ, căn tánh nơi ấy là căn tánh Phật, cho nên phải dùng thân Phật ḥng [làm cho kẻ hữu duyên] đắc độ, Thích Ca Mâu Ni Phật bèn hiện thân Phật. Huệ Năng đại sư tại Trung Quốc, đối tượng thuyết pháp tại Trung Quốc thuở ấy là tỳ-kheo, đáng nên dùng thân tỳ-kheo để độ, liền hiện thân tỳ-kheo mà thuyết pháp. Nói theo ba mươi hai ứng thân[8] của Quán Thế Âm Bồ Tát, bất luận hiện thân ǵ cũng đều b́nh đẳng. Ngài là một vị Phật thật sự, chẳng phải là Phật giả. Đối tượng tiếp dẫn [của Lục Tổ] là bậc thượng thượng căn, [thính chúng nếu] chẳng phải là bậc thượng thượng căn sẽ chẳng có phần. Từ Đàn Kinh chúng ta thấy: Huệ Năng đại sư trong một đời độ được bao nhiêu người? Bốn mươi ba người. Cũng có nghĩa là trong hội của Ngài, bốn mươi ba người đại triệt đại ngộ, có cảnh giới b́nh đẳng với Ngài. Đây là chuyện không tiền tuyệt hậu trong lịch sử Trung Quốc, trước Lục Tổ không có t́nh huống hưng thịnh như thế, mà sau Lục Tổ cũng chẳng thấy t́nh huống hưng thịnh ấy. Từ nay về sau, pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật hăy c̣n chín ngàn năm nữa, có chuyện như vậy trong thời kỳ Mạt Pháp hay không? Không có! Trước kia, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo tôi: Từ nay về sau, trong Thiền Tông chẳng c̣n bậc đại triệt đại ngộ, không c̣n có người căn tánh như thế! Trong Mật Tông, “tam mật tương ứng, tức thân thành Phật” cũng không có, chỉ có niệm Phật văng sanh, thân cận A Di Đà Phật là hạng người đắc độ. Chỉ có pháp môn này thích hợp khắp ba căn, gồm thâu phàm lẫn thánh, măi cho đến khi Phật pháp trong thế gian này bị tiêu diệt, cũng có nghĩa là nói [cho tới] khi pháp vận một vạn hai ngàn năm của đức Thế Tôn chấm dứt, pháp môn này luôn luôn hữu hiệu. Nói cách khác, từ nay về sau, chúng ta có thể đắc độ chỉ do một môn này; trừ một môn này ra, đúng là khó lắm, thật sự chẳng dễ dàng!

      Trong hội Hoa Nghiêm, “trí huệ như Xá Lợi Phất, thần thông như Mục Kiền Liên, ư Phật Thanh Văn đệ tử trung quân xưng đệ nhất” (trí huệ như Xá Lợi Phất, thần thông như Mục Kiền Liên, trong các đệ tử Thanh Văn của đức Phật, các Ngài đều được gọi là bậc nhất). Ngài Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất, ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất. “Đản tại Hoa Nghiêm hội thượng, như manh, như lung, huống thị hạ ư thử giả, cố vân hạ căn tuyệt phần” (nhưng trong hội Hoa Nghiêm, các Ngài đều như mù, như điếc, huống hồ những kẻ kém hơn các Ngài. V́ thế, nói: “Kẻ hạ căn trọn chẳng có phần”). Như hai vị này, trí huệ, thần thông đều là đệ nhất, nhưng trong hội Hoa Nghiêm, các Ngài nghe không hiểu, mà cũng chẳng thấy. Phàm là người tham gia pháp hội Hoa Nghiêm, từ kinh điển chúng ta thấy, ngoài hàng Bồ Tát ra, có Thanh Văn hay không? Có chứ! Cũng có Duyên Giác, c̣n có thiên thần, thậm chí c̣n có nhiều vị thần trong thế gian này đều tham gia. Họ là lục đạo phàm phu, v́ sao có thể tham gia? Ở đây, kinh đă ban cho chúng ta một khải thị rất lớn, nói rơ nơi này (thế giới Sa Bà) là cơi Phàm Thánh Đồng Cư; có nhiều phàm phu trên thực tế là Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trong lục đạo, chẳng phải là phàm phu thật sự. Thần cây, thần núi, thần sông, địa thần, địa thần là thổ địa thần, cũng hiện diện trong hội Hoa Nghiêm, đó là ǵ? Những vị thần ấy toàn là Pháp Thân đại sĩ, Pháp Thân Bồ Tát, là bậc thượng thượng căn thị hiện trong ấy. Do vậy, có thể biết: Chúng sanh càng có khổ nạn, chư Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này càng nhiều, nhưng lũ phàm phu mắt thịt chúng ta chẳng nhận biết! Nếu trong nhân gian không có Phật, Bồ Tát nhiều như thế, đại địa đă sớm ch́m lỉm mất rồi. Chúng ta nương nhờ phước của các Ngài, các Ngài đang âm thầm giúp đỡ chúng ta, nhưng chúng ta không biết. Nếu chúng ta có thể hồi tâm hướng thiện, y giáo phụng hành, không chỉ chính ḿnh đắc độ, mà c̣n có thể giúp đỡ địa cầu, và cũng có thể giúp hóa giải tai nạn trong xă hội này. Tuy chưa thể hóa giải hoàn toàn, nhưng tai nạn giảm khinh, rút ngắn thời gian [tai nạn], khẳng định sẽ có thể thu được hiệu quả. Sau khi chúng ta thâm nhập kinh tạng, quư vị sẽ thấy rơ ràng, minh bạch chuyện này. Ở đây, cụ Niệm Tổ cho chúng ta biết: Nếu chẳng giống như Mục Kiền Liên hay Xá Lợi Phất, đương nhiên trọn chẳng có phần nơi pháp môn [Hoa Nghiêm] này.

      “Chí ư Tiểu Thỉ chư giáo, năi tiếp quyền tiểu chi cơ” (C̣n như các giáo pháp Tiểu Giáo và Thỉ Giáo nhằm tiếp dẫn căn cơ quyền tiểu). Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên là Hoa Nghiêm ngũ giáo. So với cách tổ chức nhà trường th́ Tiểu Giáo như Tiểu Học, Thỉ Giáo là Trung Học. Tiểu Giáo thật sự là Tiểu Thừa, Thỉ Giáo là khởi đầu của Đại Thừa, Chung Giáo là Đại Thừa viên măn. Trong đây cũng có rất nhiều tầng lớp: Năm mươi mốt tầng cấp Bồ Tát. Chung Giáo là kết cục của Đại Thừa, là tầng cao nhất. Cao hơn nữa là căn tánh đặc biệt, chẳng phải căn tánh b́nh thường, mà là đốn căn hay viên căn. Tiểu, Thỉ, Chung là [các giáo pháp theo đường lối] thông thường; chúng ta nói là “thượng, trung, hạ ba thừa”. V́ thế, các giáo pháp Tiểu Giáo và Thỉ Giáo nhằm tiếp dẫn các căn cơ quyền tiểu. “Đối ư thượng căn, tắc hữu giáo thiển cơ thâm chi thất, diệc bất ứng cơ” (đối với thượng căn, sẽ phạm lỗi giáo pháp nông cạn mà căn cơ sâu xa, cũng chẳng phù hợp căn cơ): So với thượng căn, Tiểu Giáo và Thỉ Giáo quá nông cạn, căn khí của bậc thượng thượng căn quả thật là căn sâu, tâm lớn, lượng lớn; v́ thế, [Tiểu Giáo và Thỉ Giáo] cũng không ứng hợp căn cơ. Đấy là nói về kinh Hoa Nghiêm. “Duy bổn kinh chi tŕ danh niệm Phật pháp môn, thánh phàm tề thâu, lợi độn tất bị” (chỉ có pháp môn tŕ danh Niệm Phật trong kinh này gồm thâu thánh lẫn phàm, lợi căn lẫn độn căn đều thích hợp). Đó là so sánh giữa kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ dùng phương pháp tŕ danh niệm Phật, dễ hơn!

       Kinh Hoa Nghiêm tu ǵ? Tu Chỉ Quán. Trước đây, chúng ta từng học Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, cách tu trong ấy như thế nào? Ngũ Chỉ Lục Quán[9], Tiểu Giáo và Thỉ Giáo chẳng thể tiếp nhận! Nói cách khác, những pháp đó dành cho người thượng thượng căn học. Họ học Hoa Nghiêm mới thụ dụng được. Chẳng phải là người có căn tánh như vậy mà học kinh Hoa Nghiêm th́ chỉ là học văn tự, không thể thụ dụng. Học kinh Hoa Nghiêm mà thật sự thụ dụng, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng thuộc vào cơi Phàm Thánh, cũng chẳng thuộc cơi Hữu Dư, trực tiếp sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, khác hẳn! Đối với phương pháp tŕ danh niệm Phật, bậc thánh nhân như Văn Thù, Phổ Hiền là thánh nhân, Quán Âm, Thế Chí là thánh nhân, đại thánh; phàm phu như bà già, ông lăo chẳng biết chữ, nhưng tin tưởng, thật sự hành, khi lâm chung cũng có thể văng sanh, [đó là] gồm thâu cả thánh lẫn phàm. “Lợi căn” là thượng thượng căn, “độn căn” là trung hạ căn; [đối với căn cơ nào], pháp môn này cũng đều thích hợp. V́ thế, trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, hết thảy chúng sanh đắc độ phải trông cậy vào bộ kinh này, nương theo pháp môn này. Thật sự chết sạch so đo, khăng khăng tu pháp môn này, không một ai chẳng thành tựu, Thiện Đạo đại sư bảo: “Vạn người tu, vạn người về”.

      “Triệt thượng” là nêu ví dụ để nói th́ trên là “tắc như Phổ Hiền, Văn Thù” (như Phổ Hiền, Văn Thù), đây là hai vị đại Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Phông nền sau lưng chúng tôi là h́nh Hoa Nghiêm Tam Thánh, chính giữa là Tỳ Lô Giá Na Như Lai, hai bên là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Các đồng học học Phật đều biết: Văn Thù trí huệ đệ nhất trong hàng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát là vị tu hành đệ nhất giữa các Bồ Tát. Một vị là giải môn đệ nhất, một vị là hạnh môn đệ nhất. Nếu nói theo cách hiện thời, Phổ Hiền Bồ Tát thật sự làm, làm thật sự triệt để, thật sự viên măn. V́ thế, hễ nói tới tu hành, hết thảy các vị Bồ Tát đều tôn Phổ Hiền đứng đầu, không ai chẳng tán thán. Hai vị này “thượng phát nguyện cầu sanh Cực Lạc” (c̣n phát nguyện cầu sanh Cực Lạc); ở đây, sách đă dẫn bài kệ phát nguyện của các Ngài. Trong quyển thứ ba mươi chín của bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, “Phổ Hiền kệ vân: Nguyện ngă lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhất thiết chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc văng sanh An Lạc sát” (ngài Phổ Hiền có bài kệ rằng: “Nguyện khi tôi sắp mạng chung, trừ sạch hết thảy các chướng ngại, gặp mặt đức Phật A Di Đà, liền được văng sanh cơi An Lạc”). “An Lạc sát” là Tây Phương Tịnh Độ. Bài kệ của ngài Văn Thù có ư nghĩa hoàn toàn tương đồng. Bài kệ do Văn Thù Bồ Tát nói [mỗi câu] gồm năm chữ: “Nguyện ngă mạng chung thời, diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến A Di Đà, văng sanh An Lạc sát” (Nguyện khi tôi mạng chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp mặt A Di Đà, văng sanh cơi An Lạc). Trong phần trước, tôi đă từng thưa bày cùng quư vị, tôi tiếp nhận pháp môn Tịnh Độ, chết sạch so đo, một mực niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ là do đọc hai bài kệ này!

      Chuyện này đă xưa lắm rồi. Thuở trước, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, có lúc nọ, nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp môn ǵ? Thiện Tài đồng tử tu pháp môn ǵ? Bèn tra duyệt kinh về chuyện này, mới biết Văn Thù và Phổ Hiền niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thiện Tài là môn sinh đắc ư, là đệ tử truyền pháp của Văn Thù, làm sao có thể khác thầy cho được? Chẳng thể nào có chuyện ấy! Xem kỹ năm mươi ba lần tham học, khi ấy năm mươi ba lần tham học đă giảng được phân nửa, một mực giảng theo kiểu nuốt trộng quả táo, người ta hỏi tôi Thiện Tài đồng tử học ǵ, tôi đáp không được. Tôi nghĩ dường như môn nào Ngài cũng đều học. Ngài là một bậc đại thông gia, học rộng nghe nhiều, thật ra, chẳng phải vậy! Quay trở lại, đọc cẩn thận lần nữa, [mới biết] Thiện Tài đồng tử tu tŕ danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, giống như thầy Ngài. Nói như bây giờ, Ngài đă tốt nghiệp từ giảng ṭa của thầy, tốt nghiệp là ǵ? Đắc Căn Bản Trí sẽ gọi là tốt nghiệp. Căn Bản Trí là ǵ? Thiền Tông gọi nó là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Khi ấy, địa vị của Ngài là Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo [như trong] kinh Hoa Nghiêm [đă dạy], Ngài chứng đến địa vị này. Thầy nói: “Được rồi, ngươi chẳng cần phải trụ tại đây nữa, hăy đi ra ngoài tham học”. Cũng có nghĩa là trong hội Văn Thù, Ngài đă làm được chuyện này. Hai nguyện đầu trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là đại Bồ Đề tâm, Ngài đă phát, đó là Đại Thừa, đă phát đại Bồ Đề tâm. “Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”, Ngài đă đoạn, đoạn hết Kiến Tư phiền năo, đă đoạn Trần Sa phiền năo, đă đoạn Vô Minh phiền năo, đă thực hiện viên măn hai điều này. Sau khi viên măn, bèn làm như thế nào? Nguyện thứ ba: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Năm mươi ba lần tham học chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”.

      Bản thân Ngài học pháp môn ǵ? Chính Ngài học Tịnh Độ. Thông tin này do đâu mà có? Nh́n vào năm mươi ba lần tham học của Ngài, quư vị thấy vị thiện tri thức thứ nhất là Sơ Trụ Bồ Tát. Nếu chính Ngài chưa chứng đắc Sơ Trụ, sẽ chẳng thể tham học với bậc Sơ Trụ. Thầy Ngài giới thiệu: “Ngươi hăy đến tham học với tỳ-kheo Cát Tường Vân, ngươi hướng về Ngài thỉnh giáo”. Tỳ-kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội, c̣n gọi là Phật Lập tam-muội, cũng là pháp tu hành thù thắng bậc nhất trong Tịnh Độ. Mỗi kỳ tu học trong pháp môn này là chín mươi ngày, trong chín mươi ngày chớ nên ngủ nghỉ, chẳng được ngồi, chỉ được phép đứng hay đi, cho nên gọi là Phật Lập tam-muội, chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Mỗi kỳ là chín mươi ngày, thân chẳng khỏe mạnh sẽ không thể tu được. Tuổi tác đă cao sẽ chẳng có cách nào tu pháp môn này; nói chung phải là người tuổi trẻ, có thể lực. Khá ư là khó khăn! Ngài thân cận tỳ-kheo Cát Tường Vân; tỳ-kheo Cát Tường Vân khai thị, giảng giải hai mươi mốt pháp môn Niệm Phật. “Hai mươi mốt” chẳng phải là con số, mà là viên măn, đại viên măn, Mật Tông nói như vậy. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm, Hiển lẫn Mật thảy đều có; Hiển, Mật, Tông, Giáo thảy đều được gộp trong ấy. Hai mươi mốt loại pháp môn Niệm Phật ấy nếu triển khai sẽ là vô lượng pháp môn do mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai đă nói. Có pháp môn nào chẳng phải là Niệm Phật? Môn nào cũng đều là! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất” (một chính là hết thảy, hết thảy chính là một), mới biết pháp môn Niệm Phật thù thắng. Quư vị thấy vừa mở đầu đă nói với quư vị điều này. Trung Quốc lẫn Ấn Độ đều có khái niệm giống như thế, gọi là “tiên nhập vi chủ” (môn ǵ được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ yếu). Đầu tiên là học pháp môn Niệm Phật. Chúng ta lại nh́n tới vị cuối cùng, tức vị thứ năm mươi ba, vị thiện tri thức thứ năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát, càng nói rơ rệt hơn: Mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Quư vị thấy Thiện Tài [tham học với các thiện tri thức], một vị đầu tiên, một vị cuối cùng, từ đầu đến cuối là một môn, thâm nhập một môn. V́ sao phải đi tham học? Tham học nhằm thành tựu Hậu Đắc Trí. V́ sao? Nếu quư vị hành Bồ Tát đạo, phải rộng độ chúng sanh. Căn tánh của chúng sanh thiên sai vạn biệt, pháp môn ǵ quư vị đều biết, chẳng thể không biết, th́ quư vị mới có thể độ hết thảy chúng sanh. V́ thế, tham học nhằm để tiếp dẫn chúng sanh có căn tánh bất đồng, chẳng phải v́ chính ḿnh! V́ chính ḿnh th́ một câu A Di Đà Phật bèn minh tâm kiến tánh, đă thành Phật rồi. Biểu diễn cho chúng ta xem mà!

      Do vậy, trong quá khứ, khi giảng học, tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng học, đối với Tứ Hoằng Thệ Nguyện, trong thế gian này chúng ta chỉ học hai nguyện đầu, hai nguyện sau chúng ta chưa làm được. Chúng ta chỉ học hai nguyện trước, hai nguyện sau đến thế giới Cực Lạc mới viên măn, đến thế giới Cực Lạc học rộng nghe nhiều. Chưa tới thế giới Cực Lạc, ta cứ thâm nhập một môn. Ta nhờ vào một môn để ổn thỏa, thích đáng giữ lấy thế giới Cực Lạc; sau khi thân cận A Di Đà Phật mới bèn học rộng nghe nhiều. Hiện thời đừng nên làm [như vậy]; nếu trong hiện tại mà học rộng nghe nhiều, quư vị sẽ tự khiến chính ḿnh bị lỡ làng! Nếu quư vị phân tâm, tinh thần, tinh lực, và thời gian sẽ chẳng đủ dùng. Điều thứ hai là quư vị đă bị phân tâm, chẳng thể tập trung tinh thần, ư chí; nói cách khác, một môn vẫn chưa học tốt đẹp, đáng tiếc lắm! Chẳng thà trong một đời này, chúng ta thâm nhập một môn, trường thời huân tu, chính ḿnh quyết định có thành tựu, đến thế giới Cực Lạc rồi mới học rộng nghe nhiều, ổn thỏa, thích đáng, phương pháp này tốt đẹp lắm! Hăy học theo Liên Tŕ đại sư, Ngài đă nói hai câu rất tuyệt diệu: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ” (Tam Tạng mười hai bộ loại, nhường cho người khác ngộ). Ta không làm, nhường cho người khác làm. “Bát vạn tứ thiên môn, diệc nhượng cấp biệt nhân hành” (tám vạn bốn ngàn pháp môn cũng dành cho người khác hành), chính chúng ta chỉ đi theo một con đường. Trong một đời này, chỉ theo một con đường, một phương hướng, một mục tiêu, chết sạch so đo, khăng khăng chấp tŕ danh hiệu, cầu sanh Tịnh Độ; đấy là đúng, sẽ thành công. Cần ǵ phải chuốc lấy lắm nỗi phiền phức như thế? Khiến cho cái tâm được định, tự tư, tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn thảy đều buông xuống. Phải biết những thứ ấy chướng đạo; không chỉ chướng ngại quư vị chứng quả, mà c̣n chướng ngại quư vị khai ngộ, cũng như chướng ngại quư vị văng sanh. Không buông những thứ ấy xuống, quư vị sẽ bị thiệt tḥi to lớn. Chúng ta học Phật, nếu muốn thành tựu trong một đời này, quyết định phải biết điều này. Phải học theo Văn Thù, học theo Phổ Hiền, quư vị thấy những vị Bồ Tát này: Văn Thù Bồ Tát là thầy của bảy vị Phật, học tṛ đều thành Phật cả rồi. Học tṛ của Địa Tạng Bồ Tát lăo nhân gia thành Phật chẳng thể đếm xiết. Trong pháp hội tại Đao Lợi thiên cung, chúng ta thấy: Chư Phật đến từ mười phương đều là học tṛ của Ngài. Điều này đă tạo ḷng tin cho chúng ta.

      “Hựu như bổn kinh vân” (lại như kinh này nói), tức là trong phẩm cuối cùng, trong đoạn kinh văn cuối cùng của kinh Vô Lượng Thọ đă chép: “Phật cáo Di Lặc, ư thử thế giới” (đức Phật bảo ngài Di Lặc: Trong thế giới này), “thế giới này” là thế giới Sa Bà, chẳng phải là địa cầu, mà là thế giới Sa Bà, “hữu thất bách nhị thập ức Bồ Tát, dĩ tằng cúng dường vô số chư Phật, thực chúng đức bổn, đương sanh bỉ quốc” (có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát đă từng cúng dường vô số chư Phật, gieo các cội đức, sẽ sanh về nước ấy). Đây là nói về thế giới Sa Bà, là khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật trong hiện tại. Hiện thời, trên địa cầu mới có sáu mươi bảy ức, chưa đến bảy mươi ức, [chỉ là] sáu mươi bảy ức. Quư vị thấy [kinh chép] “bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát” thuộc thế giới Sa Bà, đấy cũng là nói tới lục đạo và mười pháp giới thuộc khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong khu vực giáo hóa này, trong giai đoạn pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, trong tương lai có bảy trăm hai mươi ức người niệm Phật văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta có thuộc trong số đó hay không? Tùy thuộc chính ḿnh. Nếu chính ḿnh thật sự tin tưởng, nguyện thiết tha, sẽ thành công trong một đời này, chẳng cần đợi đến đời sau, mà thành tựu ngay trong một đời này. Bồ Tát cúng dường Phật thành tựu thiện căn, chúng ta phải học theo, chớ nên phớt lờ lời giáo huấn của đức Thế Tôn. Các đồng học học Tịnh Độ dùng ǵ để cúng dường chư Phật? Chữ “chư Phật” chỉ những ai? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo chúng ta: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. Quá khứ Phật là những người đă thành Phật, chẳng có cách nào tính toán con số ấy; hiện tại Phật là mười phương thế giới chư Phật, mỗi thế giới có một vị Phật, thế giới vô lượng vô biên vô tận vô số. Chúng ta đọc phẩm Thế Giới Thành Tựu và phẩm Hoa Tạng Thế Giới của kinh Hoa Nghiêm, thấy kinh nói rất nhiều, rất rơ ràng, đó là hiện tại Phật; c̣n vị lai Phật th́ sao? Vị lai Phật là hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh trong tương lai sẽ đều thành Phật, những loài bay, ḅ, ngọ nguậy, ruồi nhặng, kiến đều có thể thành Phật, chớ nên khinh dễ chúng! Chúng rất thông minh, có linh tánh, người học Phật phải xem chúng như Bồ Tát (đều tôn trọng chúng), chúng sẽ vô cùng hợp tác với chúng ta. Trong mười mấy năm gần đây nhất, chúng tôi có thể tṛ chuyện, trao đổi với các tiểu động vật: Chúng ta cùng chung sống, chẳng tổn hại lẫn nhau, thật sự có thể đối xử ḥa thuận với nhau, đối đăi b́nh đẳng, đấy là cúng dường.

      Trong cúng dường, quan trọng nhất là cúng dường bằng cách y giáo phụng hành, chúng ta thật sự tu tập, nêu gương cho chúng sanh, họ thấy, họ cũng nghe, hiểu, chúng ta tu tập, chúng sanh cũng cùng tu với chúng ta. Ngay cả những loài tiểu động vật bay, ḅ, ngọ nguậy cũng không phải là ngoại lệ, chúng đều có linh tri. Đứng trên phương diện tâm thức của chúng ta để nói, chúng nó cũng Thọ, Tưởng, Hành, Thức, phải đối xử tốt đẹp với chúng. Chúng ta gọi chúng nó là Bồ Tát, gọi chúng nó là Bồ Tát kiến, kiến sẽ rất vui vẻ, bảo: “Con người rất tôn trọng chúng ta, gọi chúng ta là Bồ Tát”. Chúng nó có thể hiểu, chứ chẳng phải không hiểu. Chúng ta làm việc ở nơi đây, chúng nó nhiễu loạn chúng ta, chúng ta mời chúng nó rời khỏi, đừng trở ngại chúng ta làm việc, chúng nó bèn bỏ đi, rất nghe lời. Kiến đều bỏ đi hết, c̣n có hai ba con. Cớ sao hai ba con ḅ tới ḅ lui trên bàn Phật, v́ sao chúng không đi? Ban đêm có một pháp sư nhỏ tuổi nằm mộng, được kiến nói cho biết: Chúng nó đang tuần tra, xem c̣n có con nào chẳng đi. Kiến nói chúng nó có nhiệm vụ, h́nh như bốn con kiến tuần tra. V́ thế, chúng ta chớ nên trách lầm chúng. Về sau, chúng tôi đều biết, kiến thảy đều đi hết, c̣n có mấy con [ở lại để] tuần tra. Như vậy là các tiểu động vật có tánh thông linh. Không chỉ động vật, mà thực vật cũng chẳng phải là ngoại lệ. Cây cối, hoa, cỏ, chúng ta trồng nhiều rau trong vườn, chúng đều thông suốt, thông hiểu t́nh cảm của con người.

      Do vậy, phạm vi của bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát rất rộng, đó là những kẻ có duyên với Phật, thiện căn sâu dầy. Thiện căn sâu dầy ấy do đâu mà có? Do rộng tu cúng dường. Phổ Hiền Bồ Tát chỉ dạy chúng ta: “Lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng dường, sám trừ nghiệp chướng”, quư vị thực hiện tốt đẹp bốn khoa này, nghiêm túc thực hiện, sẽ thành tựu thiện căn, “thực chúng đức bổn” (gieo trồng các cội đức). Lễ tiết rất trọng yếu, không thể phớt lờ. Lễ phép với người khác, người ta sẽ vui vẻ. Người khác lễ phép đối với ta, ta cũng rất vui vẻ. Bởi lẽ, con người có cùng một tâm này, tâm cùng một Lư này. Đầu tiên là “lễ kính chư Phật”, từ nội tâm phát sanh tâm cung kính, quan trọng nhất là [cung kính] đối với ai? Đối với vị lai Phật, tức là đối với hết thảy chúng sanh, phải có tâm cung kính, chớ nên coi rẻ, quư vị khinh mạn là trật rồi! Chẳng tôn trọng người khác là chuyện nhỏ, tổn hại đức hạnh của chính ḿnh [là chuyện lớn], Tánh Đức của chính ḿnh chưa thể hiện tiền, sanh ra chướng ngại. Đó là ngạo mạn, cuồng vọng, tự đại, gây chướng ngại cho Tánh Đức và thiện căn của chính ḿnh. Do vậy, đầu tiên, đức Phật phải dạy chúng ta chuyện này. Nho gia cũng giống như vậy. Quư vị đọc Lễ Kư, vừa mở sách ra, mở đầu là: “Khúc Lễ[10] viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ chép: “Không ǵ chẳng kính”), có cùng một ư nghĩa với “lễ kính chư Phật”. Kinh Mân Côi[11] của đạo Thiên Chúa là khóa tụng sớm tối của họ, tôi đă từng giảng [kinh này], đĩa CD/DVD [ghi lời giảng] của tôi được lưu thông trong đạo Thiên Chúa. Đoạn thứ nhất [của kinh ấy] nói về sự khiêm tốn, nhún nhường, Thánh Mẫu Maria khiêm nhường. Mẹ chúa Jesus đối với hết thảy mọi người đều khiêm hạ, nhún nhường, cung kính, Đức Bà đă nêu gương tốt. Tấm gương của Đức Bà chính là “lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai” như trong Phật pháp đă nói, chúng ta phải học theo Ngài. Cổ thánh tiên hiền của Trung Quốc dạy chúng ta hăy “ẩn ác, dương thiện” (ẩn giấu điều ác, đề cao điều lành). Người khác có chuyện ǵ tốt đẹp chúng ta phải tán dương, phải ca ngợi. Người khác phạm lỗi lầm ǵ, trọn chẳng nói tới, quyết định chớ nên ghim trong ḷng; đó gọi là “tu hành, học Phật”. V́ sao? Chúng ta học Phật rốt cuộc là học ǵ? Tịnh Độ tu ǵ vậy? Tựa đề của kinh đă nêu ra cương lănh tu học cho chúng ta: Tu tâm thanh tịnh. Trong tựa đề của kinh có “thanh tịnh b́nh đẳng giác”, đấy là tổng cương lănh tu học của Tịnh Tông. Chúng ta thường muốn ghim khuyết điểm của người khác trong ḷng, biến cái tâm của chính ḿnh thành thùng rác cho người khác, làm sao quư vị có thể đạt được thanh tịnh? Nếu quư vị đạt được tâm thanh tịnh th́ tâm thanh tịnh là Sự nhất tâm bất loạn, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thuộc cơi Đồng Cư, mà sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, phẩm vị được nâng cao với một mức độ to lớn. Nếu quư vị hiểu rơ đạo lư này, thông hiểu chân tướng sự thật này, có c̣n ghim những sai quấy của người khác trong tâm ḿnh nữa chăng? [Ghi nhớ lỗi lầm của người khác sẽ] bị thiệt tḥi to lớn, tạo thành lỗi lầm to lớn. Thường nghĩ tới khuyết điểm của người khác, dẫu quư vị có thể văng sanh, chỉ sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, phẩm vị chẳng cao!

      V́ thế, các Tịnh Tông đồng học chúng ta hiểu rơ rồi, quyết định chẳng làm chuyện ngốc nghếch. Ai nấy đều biết ẩn ác dương thiện, kẻ làm ác có lương tri sẽ nghĩ: “Ta làm ác, người khác đều tha thứ, cũng không đả động tới ta! Ta làm một tí chuyện tốt, họ đều tán dương”, từ từ đánh thức lương tâm của kẻ ấy, hắn bèn sửa đổi, quư vị đă giúp cho một người “quay đầu là bờ”. Chúng ta hăy cẩn thận quan sát dụng tâm của chư Phật, Bồ Tát, sẽ dần dần hiểu rơ, muốn học tập Phật. Thật ra, đối với những kẻ làm nhiều chuyện lầm lỗi, chúng ta gặp họ, dùng tâm thái ǵ để đối đăi họ? Nếu dùng tâm thái của Phật, cảnh giới của chúng ta sẽ được nâng cao. Bởi lẽ, những người ấy làm lành hay làm ác cũng đều là thiện tri thức của chúng ta, đều có thể giúp cho chúng ta tiến bộ hơn. Nho gia nói: “Tam nhân hành, tất hữu ngă sư” (Ba người cùng đi, ắt có người là thầy ta). Ba người ấy là ai vậy? Chính ḿnh là một, c̣n một người lành, một kẻ ác, hai người ấy đều là thầy của ta. Ta trông thấy người lành, nghĩ ngợi: Người ta có thiện hạnh, ta có hay không? Nếu ta không có, hăy học tập theo người ấy; nếu đă có th́ phải ǵn giữ. Kẻ làm ác cũng là thầy của ta, ta trông thấy, hăy suy nghĩ ta có phạm lỗi lầm ấy hay chăng. Hễ có, bèn sửa đổi; nếu không, hăy càng thêm gắng sức. Kẻ làm ác c̣n có ích cho chúng ta hơn người làm lành, v́ sao? Trong khi tu sám hối, chư vị sẽ thấy: Ta t́m không được khuyết điểm của chính ḿnh, dường như chính ḿnh chẳng có khuyết điểm nào, thấy người khác toàn là khuyết điểm, chẳng thấy ḿnh có một khuyết điểm nào hết!

      Quư vị có thể phát hiện khuyết điểm của chính ḿnh như thế nào? Thấy khuyết điểm của người khác, hăy hồi quang phản chiếu xem ta có [khuyết điểm ấy] hay không, sẽ t́m ra. Đó là đại ân nhân, chân thiện tri thức của chính ḿnh. Người ấy giúp quư vị sửa đổi, quư vị có thể nào chẳng cảm ơn người ấy hay chăng? Quư vị c̣n nói những điều sai quấy của kẻ ấy, đó là vong ân phụ nghĩa! Hăy cảm kích, tri ân, báo ân người ấy, thường hồi hướng công đức tu học của chính ḿnh cho người ấy. Nếu không có người ấy, làm sao ta có thể tiến cao hơn? Nếu không do người ấy, làm sao biết chính ḿnh c̣n có khuyết điểm? Do vậy, trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói rất hay: “Nếu người thật sự tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác”. Không có lỗi! Giống như diễn tuồng, người ấy đóng vai phản diện, nhằm nhắc nhở ta, đâu phải là người ấy thật sự có khuyết điểm! Chúng ta đối đăi với người ấy như Bồ Tát, người ấy không có khuyết điểm. Hành vi của người ấy đă giúp đỡ ta, khiến cho ta phát hiện lỗi lầm của chính ḿnh. Chúng ta dùng tâm thái này, đó là Bồ Tát tâm, là Bồ Đề tâm. Tổ sư đại đức bảo kẻ quên mất Bồ Đề tâm, dẫu tu hết thảy thiện pháp vẫn gọi là ma, chẳng phải là Phật. Chắc chắn Phật chẳng thể rời khỏi Bồ Đề tâm, chúng ta phải học tập điều này, thời thời khắc khắc đừng quên gieo trồng các cội đức.

      “Triệt hạ, tắc Quán Kinh trung, Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung đắc ngộ thiện hữu giáo dĩ niệm Phật, thập niệm thành công, diệc sanh bỉ quốc” (Thấu dưới là như trong Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, lúc lâm chung gặp được bạn lành dạy niệm Phật, mười niệm thành công, cũng sanh về cơi ấy). Chuyện này là thật! Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Văng Sanh Truyện đă ghi chép [những sự tích của] cổ nhân. Nếu chúng ta hơi lưu ư, [sẽ thấy] trong hiện tại cũng có! Chính chúng tôi mắt thấy, tai nghe. Trước kia, tôi ở Hoa Phủ của nước Mỹ, tức Washington DC, có một Hoa kiều, tức là người Trung Quốc, đó là ông Châu Quảng Đại. Người này chẳng phải là Ngũ Nghịch, Thập Ác, mà là người tốt, thiện nhân, nhưng cả đời chẳng tin tôn giáo, tôn giáo nào cũng không tin. Người này tâm địa thiện lương, rất tốt bụng. Ông ta bị ung thư, khi sắp mất, nhà thương đă ngừng trị liệu, bảo thân nhân đưa về nhà. Khi ấy, người nhà đi khắp nơi cầu thần, bái Phật, xem có kỳ tích nào xuất hiện hay không. Đó gọi là “gặp chuyện bèn ôm chân Phật”, t́m được hội Phật giáo của chúng tôi. Khi ấy, ở Hoa Phủ có hội Phật giáo mang tên là Hoa Phủ Phật Giáo Hội, thành lập chưa được bao lâu, do mấy đồng học Tịnh Độ thành lập một hội như vậy, mời tôi làm hội trưởng. Tôi quen biết với lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ ở nơi ấy. Có mấy đồng tu đến trợ niệm cho ông ta, nh́n bộ dạng của ông ta đúng là bó tay, bèn khuyên nhủ, hướng dẫn, nói đời người khổ sở, cần ǵ phải lưu luyến, hăy buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, giảng giải và giới thiệu thế giới Cực Lạc cho ông ta nghe. Người này có thiện căn, thiện căn ấy chính là thiện căn trong đời quá khứ, nhưng trong một đời này, ông ta chưa gặp thiện duyên, đến lúc ấy mới gặp gỡ. Ông ta nghe xong bèn vui vẻ, tiếp nhận, bảo người nhà: Đừng đến khắp nơi t́m cách trị liệu cho ông ta nữa, không cần! Cả nhà hăy giúp ông ta niệm Phật cầu văng sanh. Căn bệnh của ông ta đau đớn lắm, nhưng ư niệm vừa chuyển, chẳng c̣n đau đớn nữa, chẳng c̣n đau khổ nữa, vui vẻ cùng niệm Phật với mọi người, ba ngày bèn ra đi. Đúng như kinh đă dạy: “Nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật” (Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày). Chẳng sai! Niệm ba ngày ba đêm ông ta bèn ra đi. Khi mất có tướng lành, toàn thân mềm mại. Khi hỏa táng có xá-lợi. Đây là một người chẳng tin tưởng tôn giáo, lâm chung gặp thiện hữu bèn thành công. Dẫu đă tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, có thể cứu được hay không? Có thể cứu được! Trong phần sau của bốn mươi tám nguyện, có một câu: Nếu kẻ ấy chẳng tin, sẽ không thể cứu! Kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, khi lâm chung có tín tâm và nguyện tâm kiên định, vẫn có thể cứu được! Như Ngẫu Ích đại sư đă nói: “Điều kiện quan trọng nhất để có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hay không là do có tín nguyện hay không. Thật sự có tín nguyện, chắc chắn được văng sanh, phẩm vị cao hay thấp là do công phu niệm Phật của quư vị sâu hay cạn”. Lời ấy rất có lư! Niệm đến mức tâm thanh tịnh, nếu chúng ta dùng tựa đề kinh để nói th́ niệm đến mức tâm thanh tịnh bèn sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, niệm đến b́nh đẳng giác sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. “B́nh đẳng giác” là Lư nhất tâm bất loạn, thanh tịnh tâm là Sự nhất tâm bất loạn, chúng ta phải nỗ lực hướng đến mục tiêu này. B́nh đẳng là ǵ? Chẳng có tâm phân biệt, thật sự giác ngộ. Tâm phân biệt đă chẳng có, lại nâng [cảnh giới] lên cao hơn thành “nhập pháp môn Bất Nhị”, Tánh Tướng bất nhị, Sự Lư bất nhị, sanh Phật bất nhị (chúng sanh và Phật ), người ấy sẽ sanh vào cơi Thật Báo, đến thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật. Có thể thấy pháp môn này thù thắng khôn sánh.

      Tiếp đó, sách viết: “Khả kiến bổn kinh năi quảng thâu vạn loại, phổ bị tam căn chi A Già Đà dược, năng dũ vạn bệnh” (Có thể thấy kinh này rộng thâu muôn loài, là thuốc A Già Đà thích hợp khắp ba căn có thể trị lành muôn bệnh). A Già Đà (Agada) là tiếng Ấn Độ, giống như người Trung Quốc nói tới “vạn ứng đan”; thuốc này bệnh ǵ cũng đều trị được, chắc chắn có lợi, chứ không có hại ǵ. Đây là nói bộ kinh này căn cơ nào cũng đều phù hợp, bậc thượng thượng căn như Văn Thù, Phổ Hiền, hạ hạ căn là kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, chỉ cần quư vị có thể tin tưởng, chịu phát nguyện, chắc chắn được văng sanh, chẳng thể nghĩ bàn! Khi lâm chung có thể tin, có thể nguyện, tôi nghĩ đấy cũng chẳng phải là ngẫu nhiên, mà do người ấy có túc thế nhân duyên. Người ấy có đời quá khứ, tuy trong một đời này không có duyên gặp gỡ, nhưng trong đời quá khứ, chắc chắn đă từng học Phật, chắc chắn đă tu pháp môn này. Do vậy, khi lâm chung gặp thiện hữu nhắc nhở, chủng tử trong A Lại Da của người ấy bèn lập tức khởi hiện hành, chẳng phải là ngẫu nhiên! V́ thế, nay chúng ta hăy giúp những kẻ không tin gieo chủng tử. Giúp kẻ không tin gieo chủng tử bằng cách nào? Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, tay cầm tràng hạt (xâu chuỗi), miệng niệm A Di Đà Phật, đó là gieo chủng tử cho chúng sanh. Trên đường đi, quư vị vừa đi vừa niệm Phật, người bên cạnh hữu ư hay vô t́nh nghe, thấy, đă gieo chủng tử vào A Lại Da Thức, kết duyên với Tịnh Độ Tông. Chủng tử ấy gọi là “chủng tử kim cang”, vĩnh viễn bất hoại. Trong đời kế tiếp hoặc đời sau, gặp duyên, chủng tử ấy sẽ khởi hiện hành, khởi tác dụng. Do vậy nói người xuất gia dẫu bất hảo, nói trắng ra là người xuất gia ấy phá giới, công đức vẫn to hơn quư vị, v́ sao? Người ấy mặc y phục [biểu thị cho] h́nh tượng [Phật giáo], vừa đi ra ngoài, người ta trông thấy, đă gieo chủng tử về ấn tượng nơi Phật, quư vị chẳng có năng lực ấy! Tuyệt diệu lắm! Quư vị nói xem: Trong một đời này, người ấy đă gieo thiện căn cho bao nhiêu người? Hăy nên tôn kính [người xuất gia, dẫu người ấy có phá giới đi nữa] là do đạo lư này! Xưa kia, tôi dạy học trong nhà trường, dạy tại đại học mấy năm, dạy khoảng năm năm, tôi bảo các đồng học, khi ấy, các đồng học trong nhà trường dường như cảm thấy học Phật sẽ bị kẻ khác chê là mê tín, khó chịu lắm, nên lén lút học Phật. Tôi bảo họ: “Các vị phải chánh đại quang minh mà học, phải phổ độ chúng sanh. Tay đeo xâu chuỗi, đừng sợ kẻ khác cười. Dẫu người ta có cười nhạo quư vị: ‘Anh xem gă bạn học đó mê tín quá chừng!’ Tuy nói các vị mê tín, chủng tử Phật của người ấy đă được gieo xuống rồi, đó là chuyện tốt, đâu phải chuyện xấu”. Trên b́a sách học dùng trong nhà trường đều có đề tên, tôi nói: Quư vị đừng viết tên họ của ḿnh, mà hăy ghi A Di Đà Phật, người ta trông thấy cuốn sách ấy bèn niệm A Di Đà Phật. Quư vị thấy đó, chẳng phải là lại độ được một người hay chăng? Rất nhiều đồng học thật sự sử dụng phương pháp này của tôi; về sau, dần dần trở thành một phong cách. V́ thế, phương tiện thiện xảo rộng độ hữu t́nh. Nếu chúng ta hiểu đại đạo lư, đại nhân duyên ở đây, sẽ đối với người xuất gia, đối với người niệm Phật khởi tâm cung kính, h́nh tượng họ đă biểu lộ cũng nhằm biểu thị pháp, công đức thù thắng khôn sánh!

      Cuối cùng, “cố bổn kinh vân: Trị tư kinh giả, tùy ư sở nguyện, giai khả đắc độ” (v́ thế, kinh này nói: “Người gặp được kinh này, tùy theo sở nguyện đều có thể đắc độ”). Cụ Hoàng dùng câu nói này để tổng kết đoạn này. Gặp bộ kinh này, “trị” () là gặp. Gặp gỡ bộ kinh này, tùy theo ư nguyện của quư vị, đều có thể đắc độ. Ư nghĩa của “tùy ư” vô cùng rộng, đấy là như trong Phật môn đă nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong nhà Phật, có cầu ắt ứng), “tùy ư sở nguyện” là có cầu ắt ứng. Quư vị cầu ǵ được nấy! Cầu thế giới Cực Lạc, quư vị được thế giới Cực Lạc. Cầu thấy A Di Đà Phật, quư vị sẽ có thể thấy A Di Đà Phật. Cầu thành Phật, được thành Phật. Cầu thành Bồ Tát, quư vị thành Bồ Tát. Tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian này cũng giống như thế, nhưng đó là những chuyện lông gà vỏ tỏi nhỏ nhặt, quư vị cầu điều ǵ đều có thể cầu được, chẳng hề có chuyện cầu không được! Nhưng quư vị nhất định phải giác ngộ: Chẳng thoát khỏi lục đạo, sẽ vĩnh viễn chẳng thể ĺa khổ, lục đạo khổ lắm! Nhân thiên là thiện đạo, thiện đạo mà c̣n khổ dường ấy, huống chi ác đạo! Quư vị phải chú tâm quan sát, hiện thời súc sanh có khổ hay không? Đặc biệt là gia súc. Hiện thời, nếu quư vị đầu thai trong đường súc sanh, biến thành một con lợn hay một con gà, hoặc một con vịt, quư vị thấy hiện thời lợn, gà, vịt, thậm chí ḅ, loại ḅ chuyên nuôi để lấy thịt, nh́n vào t́nh trạng sống của chúng, từ lúc đẻ ra cho đến khi xuất chuồng, được nuôi lớn trong chuồng, một chuồng nhốt quá nhiều, xoay ḿnh cũng chẳng thể xoay được! Cuộc sống trước khi bị giết của chúng là như thế này: Suốt đời bị nhốt chặt, đến khi bị giết, quư vị nói thử xem tâm t́nh của chúng ra sao? Chúng nó có oán hận hay chăng? Con người có cùng cái tâm này, tâm có cùng Lư này. Người và súc sanh chẳng khác, chúng nó oán hận, bất b́nh. Oán hận nên thịt của chúng có chất độc, mang rất nhiều nguồn bệnh. Đó là lư do v́ sao hiện thời ăn thịt bị bệnh nhiều như vậy. Cổ nhân Trung Quốc đă nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất” (Bệnh từ miệng vào, họa từ miệng ra), đó là chân lư. Hiện thời, không chỉ thịt chẳng thể ăn, đó là thứ độc địa, mà ngay cả đồ chay trong hiện tại cũng biến thành chất độc! Rau dưa có phân hóa học và thuốc sát trùng!

       Người thế gian khổ quá, đừng nên lưu luyến thế gian nữa, văng sanh sớm một ngày là sớm được giải thoát một ngày, lưu luyến thế gian là sai lầm! Chúng ta niệm Phật, Phật c̣n chưa đến tiếp dẫn chúng ta, chứng tỏ nghiệp báo của chúng ta chưa tiêu hết, nghiệp chướng chưa tiêu trừ. Để tiêu trừ nghiệp chướng, phải cậy vào ai để tiêu trừ nghiệp chướng? Dựa vào chính ḿnh, chẳng có người nào khác giúp đỡ được! Tiêu bằng cách nào? Ta có thọ mạng, trong mạng ta c̣n có phước báo, chẳng cần nữa, hăy bỏ sạch, chướng ngại sẽ chẳng c̣n nữa, Phật sẽ đến tiếp dẫn quư vị. Nếu quư vị phát tâm Đại Thừa, hết thảy đều từ bỏ, hiện thời vẫn c̣n thân thể, hăy lợi dụng cái thân này để giúp đỡ các chúng sanh khổ nạn nhiều hơn, khuyên dạy họ, giúp đỡ họ, dẫn theo những người ấy văng sanh, đó là chuyện tốt, chẳng có vị Phật, Bồ Tát nào chẳng tán thành. Sanh tử tự tại, muốn đi lúc nào bèn đi lúc đó, chẳng vướng mắc tí ti nào, càng tốt đẹp hơn! Chúng ta thấy con người trong thế gian đáng thương quá, tai nạn nhiều như thế đó! Chúng ta biết có tai nạn, do đâu mà biết? Từ kinh điển nhà Phật, trong kinh điển, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, đó là chân lư. Người trên thế giới suy tưởng ǵ? Phim “2012” đă được chiếu trên toàn cầu. Sau khi phim ấy được phát hành, ai nấy đều nghĩ đến tai nạn; dẫu không có tai nạn, tai nạn vẫn xảy tới, do tâm tưởng mà! V́ vậy, tôi xem bộ phim ấy xong, nói: “Đó là ư trời, có hai tác dụng: Một là dạy con người hăy đề cao cảnh giác, đoạn ác tu thiện, đừng tạo tội nữa. Đó là giúp chính ḿnh, thành tựu chính ḿnh. Mặt khác, sanh ḷng sợ hăi, hằng ngày nghĩ đến tai nạn, không có tai nạn mà do ta suy niệm nên tai nạn sẽ xảy tới, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng mà!” Tôi xem bộ phim ấy xong, đă bảo rất nhiều đồng học: “Đó là ư trời”. Đại khái, con người hiện thời tạo tội nghiệp nhưng không có cách nào trị được, pháp luật cũng chẳng trị được, quốc gia cũng chẳng trị được! Tổng thống, hoàng đế cũng chẳng trị được, làm sao đây? Chỉ có ông trời ra tay. “Ông trời ra tay trừng trị” là “tai họa thiên nhiên” như chúng ta thường nói trong hiện thời, quả thật rất đáng sợ!

      Vậy th́ phải hỏi: Có thể hóa giải tai nạn hay không? Nói theo Phật pháp, câu trả lời là khẳng định, chỉ cần hồi tâm hướng thiện. Đức Phật dạy chúng ta hai câu, đó là câu Khẩu Đầu Thiền trong Phật môn: “Cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si), tai nạn sẽ hóa giải. Nếu quư vị thật sự làm, sẽ thật sự hữu hiệu! Sẽ thấy hiệu quả ở chỗ nào? Từ chính ḿnh! Chính ḿnh có tai nạn, có bệnh khổ, nếu quư vị tuân theo phương pháp này để tu, bệnh khổ được lành, nghiệp chướng cá nhân sẽ tiêu! Nghiệp chướng đă tiêu rồi, thân thể khôi phục sức khỏe. Đó gọi là “tướng do tâm sanh, cảnh tùy tâm chuyển”, trong kinh đức Phật thường nói như vậy. Tướng mạo của quư vị thuận theo ư niệm mà chuyển biến, sức khỏe cũng giống như thế. Tâm địa của quư vị là thiện niệm, sẽ khỏe mạnh, trường thọ. Nếu trong tâm là tịnh niệm, càng khỏe mạnh, trường thọ. Tâm lẫn hạnh đều thiện, hoàn cảnh cư trụ của ta sẽ chẳng có tai nạn. Dẫu ở nơi ấy người tạo tác ác nghiệp rất nhiều, nhưng có một ít người đang tu thiện, tuy nơi ấy có tai nạn th́ cũng nhẹ nhàng, chẳng nghiêm trọng. Cổ đức từng nói: “Giữa một trăm người, có một người tu thiện, chín mươi chín người kia đều hưởng lây”, một phần trăm đấy nhé! Lời này là thật đấy, chẳng giả đâu!     Chúng ta lại xem tiếp đoạn kế: “Thượng minh bổn kinh, quảng ứng quần cơ, nhi kỳ ân đức vưu thâm ư ngă sài phàm phu” (Trên đây đă nói rơ kinh này thích ứng rộng răi các căn cơ, nhất là đối với lũ phàm phu chúng ta, càng có ân đức sâu đậm), nói theo hiện thời, “sài” () là “đẳng” (: ngang hàng), [“ngă sài”] là những kẻ cùng hàng với chúng ta. Trong phần trước đă nói về sự ứng cơ (thích ứng với các căn cơ), trong đoạn này, luận về công đức. “Đương kim Mạt Pháp, chúng sanh phước huệ thiển bạc, cấu chướng thâm trọng, duy lại thử phương tiện pháp môn. Đản bằng tín nguyện tŕ danh, tiện năng công siêu lũy kiếp, văng sanh Cực Lạc, kính đăng Bất Thoái” (Nay đang thời Mạt Pháp, chúng sanh phước huệ cạn mỏng, cấu chướng sâu nặng, chỉ cậy vào pháp môn phương tiện này, chỉ nhờ vào tín nguyện tŕ danh, công liền có thể vượt trỗi bao kiếp, văng sanh Cực Lạc, nhanh chóng chứng lên Bất Thoái). Chúng ta đọc đến chỗ này, tiểu đoạn này nói đến chúng ta trong hiện tại. Cụ Hoàng Niệm Tổ là người đương đại, đă văng sanh chưa lâu. Khi trước, mỗi năm, tối thiểu tôi sang Bắc Kinh một hai lần, chẳng v́ chuyện ǵ khác, mà chỉ nhằm đến gặp cụ. Sau khi cụ đă mất, tôi c̣n đến thăm một lần, gặp con gái và học tṛ cụ. Đoạn văn này nói về chúng ta trong hiện thời, người hiện thời thật sự phước mỏng, huệ cạn, chẳng có trí huệ, mà cũng không có phước báo; nói cách khác, chúng ta phiền năo tập khí sâu nặng! “Cấu” () là nhiễm ô, “chướng” () là nghiệp chướng, chúng ta tạo tác nghiệp chướng bất thiện. V́ sao sanh ra chuyện này? Đối với tiêu chuẩn thiện ác, chúng ta không biết; nói chung cứ tưởng chính ḿnh luôn làm đúng, không biết chính ḿnh đă lầm lỗi, làm ác. V́ thế, chúng ta quan sát cẩn thận sẽ thấu hiểu, đừng xét nét người khác, hăy xét nét chính ḿnh!

      Thuở trước, khi c̣n trẻ, tôi giảng kinh, thường nhắc tới khóa tụng buổi sáng. Mục đích của khóa tụng buổi sáng là ǵ? Nhắc nhở chính ḿnh, ngày hôm nay ta đừng quên mất giáo huấn của đức Phật, hăy thường đề cao cảnh giác, y giáo phụng hành, đó là quư vị thật sự tụng niệm khóa sáng. Chúng tôi đă từng biên tập lại nghi thức tụng niệm của cổ nhân. Nghi thức do cổ nhân biên soạn có quá nhiều chú ngữ, hiện thời [người tụng] chẳng hiểu rơ ư nghĩa của chú ngữ, cho nên không đạt được hiệu quả. Do vậy, chúng tôi tuyển chọn, ấn định kinh văn bản mới dành cho các đồng học Tịnh Tông chúng ta. Các đồng học Tịnh Tông có Triêu Mộ Khóa Tụng Bản (nghi thức tụng niệm sớm tối) do tôi biên tập. Kinh văn để niệm cho buổi sáng là phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ. Trong khóa sáng, hăy suy nghĩ: A Di Đà Phật đă phát bốn mươi tám nguyện, ta có phát hay không? Đối chiếu với chính ḿnh, mong muốn biến bốn mươi tám nguyện ấy thành bổn nguyện của chính ḿnh, tâm nguyện của chúng ta và A Di Đà Phật tương đồng. Với khóa tối, chúng tôi chọn phần kinh văn từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy, đoạn kinh văn ấy giảng điều ǵ? Dạy chúng ta tŕ giới, phản tỉnh, sửa đổi, sám hối, dùng phần này để làm khóa tối. Trong khóa tối, phải thật sự phản tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi, khóa tụng đối với chúng ta mới có lợi ích. Luôn chọn lựa kinh Vô Lượng Thọ là pháp phương tiện. Chuyên tu, khóa sáng niệm kinh Vô Lượng Thọ, khóa tối cũng niệm kinh Vô Lượng Thọ, chuyên tu mà! Bọn chúng ta không có nhiều thời gian như thế, bèn trích lục những phần kinh văn trọng yếu trong kinh Vô Lượng Thọ để sớm tối nhắc nhở chính ḿnh, mục đích không ǵ chẳng nhằm tiêu nghiệp chướng, xa ĺa phiền năo, tập khí, chúng ta học Phật mới có thể công phu đắc lực. Nếu quư vị chẳng nhớ kinh văn, chưa thể lư giải, quư vị tu tập bằng cách nào?

      Hóa giải tai nạn hiện tiền. Hiện thời tai nạn rất nặng, trên khắp thế giới có ai chẳng tạo nghiệp? Tạo nghiệp ǵ vậy? Vừa mở kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo ra, quư vị sẽ biết ngay: Hoàn toàn trái phạm, đúng là Ngũ Nghịch, Thập Ác. Thập Ác là ǵ? Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt, tham lam, sân khuể, ngu si. Quư vị nói thử xem: Trong thế gian hiện thời, ai chẳng tạo? [Ngay cả] trẻ nhỏ cũng tạo! Trẻ nhỏ tạo bằng cách nào? Trẻ nhỏ học từ TV, mỗi ngày xem TV, TV sẽ dạy chúng nó. Đi học, tại Trung Quốc tôi không biết, chứ ở ngoại quốc, lớp Một Tiểu Học đă cho dùng computer. Thông tin từ computer rất nhiều, điều ǵ chúng nó cũng đều học. Xong luôn, tạo Thập Ác! Tạo Thập Ác sẽ có hành vi Ngũ Nghịch xuất hiện, giết cha, giết mẹ, giết thầy, giết A La Hán cũng giống như giết thầy! Đây là xă hội hiện tiền của chúng ta, càng nghĩ, càng đáng sợ, càng nh́n, càng đáng sợ. Trong đời chúng ta đây, c̣n có thể duy tŕ t́nh trạng trước mắt, chứ hai mươi năm sau sẽ làm như thế nào đây? Ai có năng lực duy tŕ trật tự xă hội? Chẳng có ai hết! Tổ tiên chúng ta thường nói, đến khi con người trị không được, cha mẹ không quản được con cái, pháp luật không quản được dân, thượng thiên sẽ ra tay. Khi thượng thiên can thiệp sẽ là tai nạn, cả đống tai nạn thảy đều xuất hiện. V́ vậy, cứu vớt thế giới, nói thật sự là kinh Vô Lượng Thọ, trong Đại Thừa Phật pháp, kinh này hữu hiệu nhất! Pháp môn này đúng là pháp môn phương tiện, “đản bằng tín nguyện tŕ danh” (chỉ cậy vào tín nguyện tŕ danh), ba điều kiện này, thật sự tin, mảy may hoài nghi cũng chẳng có, thật sự nguyện văng sanh, tŕ danh là niệm Phật, thật sự làm, trong mười hai thời, một câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn.

      Vài ngày trước, cư sĩ Lưu Tố Vân từ miền Đông Bắc đến chỗ này báo cáo, nói suốt mười mấy giờ. Người này là như thế nào? Là người thật sự làm! Lúc năm mươi chín tuổi, bà ta bị bệnh nặng, người phương Bắc đều biết [căn bệnh nghiêm trọng này], hồng ban lang sang (Lupus Erythematosus)[12]. Bị bệnh này th́ hầu như chẳng thể nào trị lành, y học Trung Quốc lẫn Tây Phương đều chẳng có cách nào chữa trị, bà ta có nhiều bạn bè mắc bệnh này, họ đều mất cả rồi. Bà ta bị bệnh này, tín nguyện tŕ danh, đối với A Di Đà Phật, đối với thế giới Cực Lạc chẳng có mảy may hoài nghi nào, coi nhẹ sanh tử, nhất tâm nhất ư muốn cầu sanh Tịnh Độ. Bác sĩ cho bà ta biết, cũng là nói thật: “Bệnh của bà chẳng có hy vọng ǵ, bà phải chuẩn bị tâm lư, v́ có thể chết bất cứ lúc nào!” Bà ta cười h́ h́: “Nếu tôi chết, A Di Đà Phật sẽ đến đón tôi, tôi về thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là quê nhà của tôi, tôi chẳng sợ hăi tí nào!” Bà ta lành bệnh, bác sĩ cảm thấy lạ quá, làm sao lành bệnh được? Bà ta nói: Do Niệm Phật mà lành bệnh! Cả ngày từ sáng đến tối là một bộ kinh Vô Lượng Thọ, toàn là A Di Đà Phật. Bà ta c̣n nghe kinh, nghe kinh Vô Lượng Thọ, nghe CD/DVD rất dụng công. Trong bài báo cáo, bà ta nói mỗi ngày nghe một đĩa. Đó là bài giảng của tôi trong thuở trước, mỗi đĩa dài một giờ, mỗi ngày nghe mười tiếng, mỗi đĩa nghe mười lượt, nghe rất thuần thục. Niệm kinh Vô Lượng Thọ, nghe kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật, lành bệnh! Bác sĩ tin lời bà ta, bà ta có ưu điểm lớn nhất mà lũ chúng ta chưa làm được là cả đời chẳng nói dối, con người vô cùng trung hậu, thật thà, chẳng dối gạt người khác, câu nào cũng đều nói thật. Năm nay, bà ta sáu mươi sáu tuổi, do tôi xem đĩa CD/DVD phỏng vấn được thâu vào ngày Bốn tháng Năm năm 2003, dài nửa tiếng, do đài truyền h́nh phỏng vấn, nên tôi nghĩ: Bà ta đă nhiều tuổi như thế, người này có c̣n sống hay không? Tôi bảo các đồng học bên Hương Cảng hỏi thăm, biết người này c̣n sống, họ c̣n t́m được số điện thoại của bà ta nữa. Tôi liền gọi điện thoại cho bà ta, khi ấy, tôi đang chữa răng tại Đài Loan, đă nghe tin tức như thế. Nói chuyện điện thoại, bà ta rất căng thẳng, mà cũng rất kinh ngạc. Tôi hỏi bà khỏe không, thân thể như thế nào? Tốt lắm! Mỗi năm một khỏe hơn! Tôi liền mời bà ta sang Hương Cảng gặp mặt, đúng là khỏe lắm, quư vị thấy: Giảng mười mấy tiếng ở chỗ chúng ta, sau khi giảng xong, Hướng Tiểu Lỵ mời bà ta sang Thâm Quyến. Ở Thâm Quyến, bà ta rất cực nhọc, mỗi ngày giảng gần như sáu tiếng, lại c̣n phải trả lời thắc mắc của người khác, mỗi ngày giảng tám tiếng, giảng hai ngày, phải quay về. Do bốn chữ “tín nguyện tŕ danh”, bà ta hết bệnh, sống khỏe mạnh và hạnh phúc dường ấy! Tôi giảng kinh đă nhắc tới [chuyện này] vài lần, nay bà ta đă trở thành người nổi tiếng rồi, rất nhiều nơi mời bà ta đến giảng diễn. Bà ta là người hết sức hướng nội (introvert), tôi bảo bà ta: “Hiện nay, bà chưa thể tốt lành cho riêng ḿnh được! Hiện thời, phải làm cho cả thiên hạ cùng tốt lành, phải đến khắp nơi hoằng pháp, phải đi giúp đỡ người khác”. Bà ta cũng rất khó có: “Phật, Bồ Tát dạy ta làm như thế nào, ta bèn làm như thế ấy”. Bốn chữ ấy (tín nguyện tŕ danh) trọng yếu lắm! Chúng ta nắm chắc bốn chữ này, sẽ giải quyết vấn đề trong một đời này, chắc chắn sanh về Tịnh Độ.

      “Tiện năng công siêu lũy kiếp” (liền có thể công vượt trỗi bao kiếp), lời này là thật đấy! Nếu chẳng tu pháp môn này th́ trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận quư vị muốn tu hành pháp môn nào, tu đến mức thoát khỏi mười pháp giới phải mất bao lâu? Phải khá nhiều kiếp quư vị mới có thể thoát khỏi mười pháp giới. Quư vị vượt thoát lục đạo, chứng A La Hán quả. A La Hán lại phải tu hành ḥng thoát ĺa mười pháp giới, đây chẳng phải là chuyện dễ, trong Phật pháp thường nói là “vô lượng kiếp”. Nhưng dùng pháp môn Tịnh Độ th́ Tịnh Độ được gọi là “hoành siêu”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn là tiến lên theo từng giai đoạn một, nên gọi là “thụ xuất” (thoát ra theo chiều dọc). Pháp môn Tịnh Độ chẳng dùng phương pháp ấy, từ trong nhân đạo (loài người), trực tiếp tiến sang thế giới Cực Lạc nên gọi là “hoành siêu” (siêu thoát theo chiều ngang). “Văng sanh Cực Lạc, kính đăng Bất Thoái” (văng sanh Cực Lạc, nhanh chóng đạt Bất Thoái), “kính” () là nhanh chóng, “tiệp kính” (捷徑: con đường tắt), quư vị bèn chứng đắc Bất Thoái Chuyển, trong kinh văn luôn nói như thế. Trong kinh Vô Lượng Thọ, chính A Di Đà Phật nói, phẩm thứ sáu tức phần bốn mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật nói: Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, “giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát), nói câu ấy. A Duy Việt Trí (Avaivartika) là tiếng Ấn Độ, dịch nghĩa sang tiếng Hán, có nghĩa là Bất Thoái Chuyển. Trong Bất Thoái Chuyển bao gồm ba thứ Bất Thoái Chuyển: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất Thoái. Ba thứ Bất Thoái Chuyển đều chứng đắc, là quả vị ǵ vậy? Nói thông thường, [địa vị ấy phải là] Sơ Trụ trong Viên Giáo hay Sơ Địa trong Biệt Giáo; cũng có nghĩa là người ấy đă vượt thoát mười pháp giới, đă văng sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật th́ mới chứng ba thứ Bất Thoái. A La Hán chỉ chứng Vị Bất Thoái, Bồ Tát chứng được Hạnh Bất Thoái, chứ Niệm Bất Thoái vẫn chưa đạt được, đều chưa ra khỏi mười pháp giới. Chứng đắc Niệm Bất Thoái, vượt thoát mười pháp giới, thật sự thành Phật!

      Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, một phẩm phiền năo tập khí chúng ta vẫn chưa đoạn, hoàn toàn cậy vào tín nguyện tŕ danh, phải dựa vào đó, nương cậy Phật lực gia tŕ! Chính chúng ta chỉ cần thực hiện được bốn chữ “tín nguyện tŕ danh”, Phật lực sẽ gia tŕ, chúng ta bèn có thể văng sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói cách khác, mang theo phiền năo, tập khí, nên gọi là “đới nghiệp văng sanh”. Tu pháp môn khác sẽ chẳng thể [làm như vậy được], quư vị không thoát khỏi lục đạo luân hồi! Tu pháp môn này rất may mắn, không chỉ ra khỏi lục đạo, mà c̣n thoát khỏi mười pháp giới, quư vị nói xem: Khó có dường ấy! Đúng là công vượt trỗi bao nhiêu kiếp! Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho dù hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng chứng ba món Bất Thoái. Chứng ba món Bất Thoái mà trước đó c̣n có thêm một chữ, [tức là Viên], viên chứng ba món Bất Thoái! Điều này cũng không đơn giản! “Viên” () là viên măn, [“viên chứng” là] chứng đắc viên măn ba món Bất Thoái, đó là ai? Từ Thất Địa Bồ Tát của Viên Giáo trở lên như kinh Hoa Nghiêm đă nói. Chứng ba món Bất Thoái th́ Sơ Trụ đă chứng đắc, nhưng nếu thêm chữ Viên th́ phải là đă đạt đến Thất Địa! Không ai tin tưởng [chuyện này]; v́ thế, pháp môn này được gọi “nan tín chi pháp” (pháp khó tin). Chúng ta có thể tin tưởng là nhờ vào đâu mà tin tưởng? Cậy vào bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Chẳng nhờ bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, làm sao có thể [tin được pháp môn này]? Đối với phàm phu, nói thật ra, [viên chứng ba thứ Bất Thoái] chẳng phải do chính quư vị chứng đắc. Trí huệ, đạo hạnh, thần thông, và phước báo của quư vị b́nh đẳng với Thất Địa Bồ Tát là nhờ vào phước báo của A Di Đà Phật. Sang bên đó, hưởng phước của Ngài, chẳng phải là phước của chính ḿnh, mà là hưởng phước của Phật. Nếu chính ḿnh chứng đắc Thất Địa, [tức là] trong thế giới Cực Lạc, chính ḿnh tu hành đă chứng đắc Thất Địa, đấy mới là phước báo của chính ḿnh. Nếu chính ḿnh chưa chứng đắc tới cấp bậc ấy, bèn hưởng thụ phước báo của A Di Đà Phật, cho nên tin tưởng, chẳng có nghi vấn ǵ. Đối với chúng ta, A Di Đà Phật ân đức to quá! Do vậy, chúng ta hăy nên tin tưởng những lời này, đó là lời thành thật, chân xác của Phật, của Tổ. Nói theo Lư, trong kinh đức Phật thường dạy: “Hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng”.

      Niệm niệm chẳng bỏ pháp môn này; pháp môn này là pháp môn bậc nhất, c̣n thù thắng hơn Hoa Nghiêm. Khi tôi giảng kinh này, mới thật sự biết cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói [kinh Vô Lượng Thọ] là trung bổn Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi cũng không nghĩ sẽ giảng. Lúc ấy, tôi phát nguyện trong một đời chuyên giảng bộ kinh này, giảng lần lượt từng lần, đă giảng được mười lần rồi. Về sau lại giảng kinh Hoa Nghiêm, duyên ấy do lâm trưởng Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm là Lư Mộc Nguyên khải thỉnh. Ông ta thay mặt lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ và Hàn Quán Trưởng, v́ trong quá khứ, họ đă khải thỉnh, nhưng tôi chẳng phát tâm. Đến Tân Gia Ba, nhắc tới chuyện này, ông ta hết sức nhiệt tâm, trọn đủ oai nghi khải thỉnh, rất long trọng, rất trang nghiêm, tôi liền nhận lời, [điều này] cũng khiến cho chúng tôi hết sức cảm niệm: Trong quá khứ, Hàn Quán Trưởng của Hoa Tạng Đồ Thư Quán khi bệnh t́nh nguy kịch, trước khi văng sanh hai ngày, đă thỉnh cầu lần nữa, mong muốn lưu lại một bộ CD/DVD giảng kinh Hoa Nghiêm cho người đời sau tham khảo. Do bà ta bệnh nặng, nhằm an ủi bà ta, nên tôi đáp ứng, tôi nói: “Được rồi! Chờ đến khi bà lành bệnh, chúng tôi sẽ khai giảng lần nữa”, duyên phận như thế đó! Bộ kinh này (kinh Vô Lượng Thọ) quả thật là cương yếu của kinh Hoa Nghiêm, vấn đề ǵ cũng đều giải quyết. Trưa ngày hôm nay, mấy đồng tu Mă Lai đặc biệt đến Hương Cảng thăm viếng, có bàn tới một vấn đề, “thực hiện giáo học bằng kinh điển của tôn giáo nhằm cứu nguy địa cầu”. Đoàn kết tôn giáo vẫn chưa đủ. Kinh điển của mỗi tôn giáo đều hay, quư vị lật ra xem, trong ấy đều là giảng về luân lư, đạo đức, nhân quả. Mỗi tôn giáo đều phải thật sự chú ư, coi trọng thực hiện giảng kinh, giáo học, cảm hóa ḷng người, khuyên dạy mọi người quay đầu là bờ, thế giới này sẽ được cứu! Đó gọi là “cảnh tùy tâm chuyển”, ai nấy đều có thể hướng thiện, người người đều có thể buông sai lầm xuống, buông ác niệm xuống, buông ác hạnh xuống, thế giới sẽ thật sự được cứu. Chúng ta bàn đến vấn đề này, vấn đề là sẽ thực hiện cụ thể như thế nào?

      Tiếp theo, sách viết: “Nhược vô như thị vi diệu pháp môn, phàm phu hà năng độ thử sanh tử nghiệp hải, nhi đăng bỉ ngạn” (Nếu không có pháp môn vi diệu như thế này, phàm phu làm sao có thể vượt khỏi biển nghiệp sanh tử này, vượt sang bờ kia). Trong thời Mạt Pháp, từ nay về sau hăy c̣n chín ngàn năm nữa, trừ pháp môn này ra, chẳng có bất cứ một pháp môn nào mà ḥng thành tựu, v́ sao? Mỗi pháp môn đều phải đoạn phiền năo, quư vị có thể đoạn Kiến Tư phiền năo hay chăng? Chẳng nói chi khác, không tính tới Tư Hoặc, chỉ nói tới Kiến Hoặc, quư vị có thể đoạn hay chăng? Kiến Hoặc đoạn xong, mới chứng Sơ Quả trong Tiểu Thừa. C̣n theo kinh Hoa Nghiêm của Đại Thừa, đó là địa vị Sơ Tín Bồ Tát; nói cách khác, [lúc ấy] quư vị mới nhập môn! Kiến Hoặc là ǵ? Nói chi tiết sẽ gồm tám mươi tám phẩm, nói đại lược, đức Phật quy nạp Kiến Hoặc thành năm loại lớn. Thứ nhất Thân Kiến, thứ hai là Biên Kiến, thứ ba là Kiến Thủ Kiến, thứ tư là Giới Thủ Kiến, thứ năm là Tà Kiến. Năm loại lớn này, quư vị có thể đoạn trừ hay chăng? Thật sự đoạn trừ, quư vị làm được bốn câu trong kinh Kim Cang: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” th́ mới đoạn được. Chúng ta hăy tự hỏi chính ḿnh có thể làm được hay không? Làm không được! Đúng là khó! Từ vô thỉ kiếp tới nay đă chấp trước thân này là ta. Nay đức Phật bảo “thân này chẳng phải là ta”, quư vị đừng v́ cái thân mà bận tâm. Bận tâm v́ cái thân chính là tạo oan nghiệt. Thân chẳng phải là ta, mà là ǵ? Thân là cái ta có, giống như y phục. Y phục chẳng phải là ta, y phục là cái ta có, thân thể là cái ta có. Do vậy, quư vị nhất định phải biết, ta bất sanh, bất diệt, ta vĩnh viễn chẳng chết. Thân thể có sanh diệt, giống như y phục, mặc rách một bộ quần áo bèn đổi bộ khác. Thân chúng ta dùng vài chục năm chẳng c̣n thuận tiện sử dụng nữa, bèn thay đổi, rất tự tại, rất vui vẻ, đổi lấy quần áo mới. Nhưng khi “thay quần áo” sẽ liên quan đến nghiệp lực của quư vị, quư vị suốt đời tâm lành, hạnh lành, sẽ càng thay đổi càng tốt đẹp. Nếu quư vị tâm hạnh bất thiện, càng thay đổi càng tệ: Đời này mang thân người, đời sau đổi thành thân súc sanh, đổi thành thân quỷ đói, càng thay đổi càng tệ! Nhưng bất luận thay đổi thân nào, thân luôn chẳng phải là chính ḿnh, phải hiểu chuyện này! Thế tục thường nói chính ḿnh là ǵ? Linh hồn là chính ḿnh. Linh hồn chẳng sanh tử, nó đến kiếm thân xác trong lục đạo, đi t́m một cái thân. T́m một cái thân cũng chẳng phải là tùy theo ư nghĩ của chính ḿnh! Nếu tùy thuộc ư nghĩ của chính ḿnh, chúng ta sẽ t́m lấy thân trời tốt đẹp hơn để hưởng phước trời. Việc t́m lấy cái thân mới bị chi phối bởi nghiệp lực. Vẫn là hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng! Tâm quư vị lành, sẽ t́m được [cái thân mới] toàn là tốt lành; tâm quư vị bất thiện, cái thân [và hoàn cảnh sống mới] mà quư vị t́m được cũng bất thiện. Do vậy, biết: Thiện tâm và thiện niệm trọng yếu lắm!

      Hiện thời, hoàn cảnh bên ngoài luôn dẫn dụ chúng ta khởi tham, sân, si, mạn. Tham, sân, si, mạn là tâm niệm bất hảo nhất. Nếu thật sự hiểu nhân quả báo ứng, quư vị sẽ có thể kềm chế chính ḿnh. Theo lư luận nhân quả: “Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định” (một miếng ăn, một hớp uống, không ǵ chẳng được định sẵn). Trong mạng mà có, quư vị sẽ nhất định đạt được. Nếu trong mạng không có, dùng thủ đoạn như thế nào cũng đều chẳng chiếm được, tội t́nh ǵ mà quư vị phải tạo ác, chẳng đáng! Phát tài như thế nào? Trong mạng quư vị có, bất luận quư vị buôn bán ǵ cũng đều phát tài. Trong mạng không có, quư vị nghĩ hết mọi cách vẫn chẳng phát tài. Quư vị cầm súng cướp bóc người khác cũng chẳng thể phát tài! Mới sờ đến súng đă bị cảnh sát thộp cổ! Quư vị chẳng có th́ cần chi nữa! Ông Hồ Tiểu Lâm hiểu rơ đạo lư này, trước đây đă dùng thủ đoạn bất chánh để kinh doanh, buôn bán, trật rồi! Nay đă hoàn toàn sửa đổi sai lầm ấy, thật thà kiếm tiền, doanh số hằng năm đều tăng lên. Ông ta mới hoảng nhiên đại ngộ, vốn chẳng phải là dùng bất thiện thủ đoạn mà ḥng kiếm được, chẳng phải vậy! Do thủ đoạn bất thiện mà đạt được th́ vẫn là do trong mạng của chính quư vị đă có. Nếu trong mạng quư vị không có, [vận dụng] thủ đoạn ǵ cũng chẳng đoạt được! Do vậy, chúng tôi suy ngẫm: Người Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, toan chiếm lănh Trung Quốc, nhưng họ thiếu phước báo, Trung Quốc chẳng phải của họ, đánh nhau tám năm rồi vẫn phải đầu hàng, chẳng phải là của họ mà! Chính phủ Măn Thanh ở ngoài biên ải[13] vào Trung Quốc thống trị hai trăm sáu mươi năm, họ làm được là v́ trong mạng họ có, đất đai ấy là của họ. Nếu chẳng phải là của họ, dùng chiến tranh hay chiếm đóng đều chẳng được. Đúng là “nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định”. Dùng thủ đoạn chiến tranh để đoạt được vẫn là do trong mạng của chính ḿnh có, nhưng thủ đoạn chiến tranh là thủ đoạn hết sức tồi tệ! Quư vị giết bao nhiêu người, gây tổn thất tài sản cho bao nhiêu người dân, đó là điều ác cực lớn, đều có báo ứng, quư vị hưởng hết phước sẽ mắc quả báo. Làm vua mà làm không tốt, sau khi mất nước, c̣n phải trả nợ, c̣n phải thường mạng, đâu có chuyện tiện nghi như vậy! V́ thế, người thật sự hiểu rơ chân tướng sự thật, vọng niệm hoàn toàn đoạn dứt. Ǵ là tốt? Vẫn là niệm Phật tốt đẹp, vẫn là vượt thoát lục đạo luân hồi, vượt thoát mười pháp giới là tốt đẹp! Người ấy làm chuyện này, chẳng làm ǵ khác! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây!

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

phần 6 hết

 



[1]Trọn gói”: Tạm dịch chữ “nhất điều long”, một ngôi trường gọi là “nhất điều long” khi nó có toàn bộ các cấp lớp, chẳng sót một lớp nào.

[2] Giáp, Ất, Bính, Đinh v.v... là cách đánh số thứ tự theo lối truyền thống trong cổ văn, giống như chúng ta dùng số La Mă hoặc các con số 1,2,3... để đánh số từng đoạn.

[3] Cố Cung, c̣n gọi là Tử Cấm Thành là cung điện hoàng đế của hai triều đại Minh và Thanh tại Bắc Kinh. Cố Cung do hoàng đế Minh Thành Tổ (Châu Lệ) bắt đầu xây dựng vào năm 1406 khi dời kinh đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh, măi đến niên hiệu Vĩnh Lạc thứ tư (1420) mới hoàn thành. Tổng công tŕnh sư (kiến trúc sư trưởng) là Khoái Tường, một trong những thiết kế sư (kiến trúc sư) nổi tiếng của công tŕnh này là thái giám Nguyễn An (vốn bị nhà Minh bắt về nước khi chiếm Việt Nam dưới đời Hồ Quư Ly).

[4] Quy chế “cửu tự” đă có từ thời Tiền Hán. Đây chính là chín cơ cấu quản lư sự vụ trực thuộc chánh quyền trung ương. Chín cơ cấu này do cửu khanh (chín vị đại thần quyền hạn nhỏ hơn Tam Công) đứng đầu, tâu tŕnh trực tiếp với hoàng đế, không qua sự quản lư của Tể Tướng (hay Thủ Phụ). Dinh thự của cửu khanh gọi là Tự. Do đó, chín cơ quan này cũng được gọi là Tự. Cửu Tự gồm:

1. Thái Thường Tự: Chưởng quản nghi lễ, phụ trách các điển lễ của quốc gia (thường gọi chung là Quốc Tế) như lễ tế trời, tế xă tắc v.v..., đồng thời quản lư âm nhạc cung đ́nh, cũng như quản lư các thuật sĩ và y sĩ. Cơ quan này về sau trực thuộc bộ Lễ.

2. Quang Lộc Tự: Chưởng quản những sự vụ thường ngày trong cung, phụ trách yến tiệc, chuẩn bị các nhu cầu ăn mặc trong cung.

3. Vệ Úy Tự: Chưởng quản vũ khí và canh gác, pḥng bị trong cung, nhất là chịu trách nhiệm bảo vệ kho vũ khí, sắp đặt các thứ nghi trượng và ngự lâm quân bảo vệ khi vua xuất du.

4. Tông Chánh Tự: Chưởng quản sự vụ trong hoàng tộc, tông thất, cũng như gia phả của ngoại thích (họ hàng của các hoàng hậu, phi tần), bảo vệ, tu bổ lăng miếu của hoàng gia, kiêm nhiệm chưởng quản tăng nhân, đạo sĩ.

5. Thái Bộc Tự: Chưởng quản xe ngựa của hoàng gia, kho dự trữ, các băi chăn nuôi, cung cấp quân lương.

6. Đại Lư Tự: Chưởng quản pháp luật. Đây là cơ quan tư pháp tối cao, gần như Tối Cao Pháp Viện hiện thời. Các vụ trọng án do các quan Án Sát (Niết Ty) các tỉnh phải đệ đạt hồ sơ lên Đại Lư Tự trước khi phán án chung thẩm. Nếu cần, Tam Pháp Ty đồng thời tham gia thẩm tra vụ án. Thời Minh, Đại Lư Tự kiêm nhiệm vai tṛ mật vụ, có thể bắt giữ bất cứ ai, kể cả hoàng thân, quốc thích. Đại Lư Tự cùng với Ngự Sử Đài và bộ H́nh được gọi là Tam Pháp Ty.

7. Hồng Lô Tự: Chưởng quản chuyện tiếp đón sứ thần ngoại quốc, tiếp nhận lễ vật, chuẩn bị tặng phẩm của hoàng đế đối với các phái bộ ngoại quốc, cũng như hướng dẫn nghi lễ cho các sứ thần ngoại quốc triều kiến hoàng đế.

8. Tư Nông Tự: Chưởng quản lương thực, hàng hóa, vải vóc trong toàn quốc, gần như tương đương với bộ Tài Chánh hiện thời. Về sau, vai tṛ của Tư Nông Tự bị bộ Hộ thay thế, hầu như chỉ c̣n giới hạn vai tṛ trong kinh thành. Vai tṛ của Tự này đôi khi xen lẫn với Thái Phủ Tự.

9. Thái Phủ Tự: Chưởng quản sự giao dịch mua bán hàng hóa, tiền tệ, dự trữ, trả lương, phát bổng cho các quan, cũng như khống chế vật giá.

[5] Nói “đời trước” v́ người Mông Cổ tin ngài Chương Gia là một vị hoạt Phật (tức tu sĩ được coi là hóa thân của các tổ sư, Phật, Bồ Tát) chuyển thế nhiều lần. Chương Gia đại sư (Lobsang Pelden Tenpe Dronme, 1891-1957), thầy của ḥa thượng Tịnh Không, là đời thứ mười chín. Vị “Chương Gia đời trước” được nhắc đến ở đây là Chương Gia đời thứ mười bảy (1849-1875) được vua Hàm Phong (chồng Từ Hy Thái Hậu) mời vào kinh để coi sóc việc nhập tạng kinh điển, chưởng quản Lạt Ma Giáo toàn quốc, và vị kế tiếp là Chương Gia đời thứ mười tám (1878-1888) đều là quốc sư nhà Thanh. Tuy nói Chương Gia có đến mười tám đời, nhưng trên thực tế chỉ có bảy đời, v́ vị Chương Gia thứ nhất (Dragpa Oser, 1607-1641) được tăng sĩ Mông Cổ coi là hóa thân lần thứ mười ba của tôn giả Channa (người Hoa thường phiên âm là Tôn Đạt, c̣n ghi là Chandaka, tức ngài Xa Nặc, người đánh ngựa của đức Phật Thích Ca). Ngài Xa Nặc là một trong sáu vị tỳ-kheo thường được gọi là Lục Quần Tỳ Kheo chuyên gây rối trong Tăng đoàn để đức Thế Tôn có cơ hội chế giới.

[6] Giáo Thụ là cách người Hoa dịch chữ Professor, tức là các giáo sư trong trường Đại Học, và được chia thành nhiều cấp như Giảng Ṭa Giáo Thụ (Chair Professor), Giáo Thụ (Professor), Phó Giáo Thụ (Associate Professor), Trợ Lư Giáo Thụ (Assistant Professor), Giảng Sư (Instructor). C̣n chữ Giáo Sư chỉ chung các thầy giáo, nhất là trong các trường Tiểu Học, Trung Học, nhưng hầu như rất ít khi dùng chữ Giáo Sư mà thường gọi là Lăo Sư.

[7] Tứ A Hàm (Āgama), c̣n phiên âm là A Hàm Mộ, hay A Cấp Ma, tương ứng với Nikāya trong hệ thống Phật giáo Nam Truyền. Tứ A Hàm trong Đại Tạng Kinh được dịch từ tiếng Bắc Phạn (Sankrit), trong khi Nikāya chép bằng tiếng Nam Phạn (Pali). A Hàm có nghĩa là lần lượt lưu truyền. Du Già Sư Địa Luận quyển tám mươi lăm giảng: “Bốn loại như thế, do thầy tṛ lần lượt truyền cho nhau đến nay; do đạo lư này, nên gọi là A Cấp Ma”. Tứ A Hàm gồm bốn bộ Trường A Hàm Kinh (Dīrgha Āgama, hai mươi hai quyển, do ngài Trúc Phật Niệm dịch vào thời Diêu Tần, tương ứng với bộ Dīgha Nikāya của Nam Tông), Trung A Hàm Kinh (Madhyama Āgama, sáu mươi quyển, do ngài Đàm Ma Nan Đề dịch vào thời Phù Tần, tương ứng với bộ Majjhima Nikāya của Nam Tông), Tạp A Hàm Kinh (Samyukta Āgama, năm mươi quyển, do ngài Cầu Na Bạt Đà La và Bảo Vân dịch vào đời Lưu Tống, tương ứng với Samyutta Nikāya của Nam Tông), Tăng Nhất A Hàm (Ekottara Āgama, năm mươi mốt quyển, do ngài Trúc Phật Niệm dịch, tương ứng với Anguttara Nikāya của Nam Tông).

[8] Thông thường nói là ba mươi ba ứng thân, ở đây, chỉ nói ba mươi hai tức là không kể thân Bồ Tát.

[9] Ngũ Chỉ là chiếu pháp thanh hư ly duyên chỉ, quán nhân tịch phạ tuyệt dục chỉ, tánh khởi phồn hưng nhĩ chỉ, định quang hiển hiện vô niệm chỉ, Sự Lư huyền thông phi tướng chỉ.

Lục Quán là: Nhiếp cảnh quy tâm chân không quán, tùng tâm hiện cảnh diệu hữu quán, tâm cảnh bí mật viên dung quán, trí thân ảnh hiện chúng duyên quán, đa thân nhập nhất cảnh tượng quán, và chủ bạn hỗ hiện đế vơng quán.

Nếu muốn biết chi tiết các phép Chỉ và Quán này, xin xem bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán do ḥa thượng đă giảng.

[10] Khúc Lễ là một bộ phận của sách Lễ Kư, chuyên giảng về những lễ tiết nhỏ nhặt nhưng quan trọng trong cuộc sống.

[11] Đúng ra phải đọc là Mai Côi (玫瑰: hoa hồng), nhưng thường bị đọc trại thành Mân Côi, Văn Côi, Môi Côi, Mai Khôi, hay Môi Khôi trong tiếng Việt. Bản kinh này vốn có tên bằng tiếng Latin là Rosarium, có nghĩa là “vườn hồng” hay “tràng hoa hồng” nhằm vinh danh Đức Mẹ Maria. Thuật ngữ này cũng dùng để chỉ chuỗi hạt thường được dùng trong khi cầu kinh của Công Giáo. Thông thường, người Công Giáo tin bản kinh này và chuỗi Mân Côi do chính Đức Mẹ truyền cho thánh Dominic (Domingo, thánh Đa Minh) vào năm 1214. Khi thực hành, tín hữu Công Giáo đọc kinh này ra tiếng hay đọc thầm theo tŕnh tự: Một kinh Lạy Cha (Pater Noster), sau đó là mười kinh Kính Mừng (Ave Maria), và kết thúc bằng một kinh Sáng Danh (Gloria Patri), mỗi tŕnh tự như thế gọi là một “mầu nhiệm” (Mysteria, hay c̣n dịch là suy niệm), được hiểu là một bộ mười kinh. Một “mầu nhiệm” c̣n được gọi là một “sự”, tương ứng với một sự kiện về cuộc đời chúa Jesus và Đức Mẹ theo kinh Tân Ước. Đến thế kỷ 16, kinh Mân Côi đă bao gồm mười lăm “mầu nhiệm”, được chia làm ba nhóm: Mầu nhiệm năm sự vui (Mysteria Gaudiosa), mầu nhiệm năm sự thương (Mysteria Dolorosa), mầu nhiệm năm sự mừng (Mysteria Gloriosa). Tất cả hầu như không có ǵ thay đổi cho đến năm 2002, Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị (John Paul II) công bố thêm năm “mầu nhiệm” mới, đó là “mầu nhiệm năm sự sáng” (Mysteria Luminosa). Do vậy, kinh Mân Côi hiện thời có hai mươi “mầu nhiệm”.

[12] Đây là một chứng bệnh rối loạn hệ thống miễn nhiễm (Immune system) của con người, gây tổn hại nghiêm trọng đến phổi, da, thận, tế bào máu, và tim. Trong căn bệnh này, hệ thống miễn nhiễm của người bệnh tự tấn công các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể, khiến bệnh nhân bị viêm nhiễm lâu dài. Y giới vẫn chưa biết rơ nguyên nhân của căn bệnh này. Bệnh kéo dài dai dẳng, có lúc tiềm ẩn, rồi bùng phát, khiến cho các tế bào bị tấn công, thân thể bệnh nhân sưng phồng, lở loét, các khớp đau cứng, khó thở, mệt mỏi, sốt cao, rụng tóc, lở miệng, ngứa ngáy, sợ ánh sáng, sưng các hạch lâm-ba (lympho nodes), nhức đầu, đau bụng, ói mửa, tim loạn nhịp, ho ra máu, da mọc vảy nến, bong tróc, đầu ngón tay tím tái. Trong trường hợp nghiêm trọng, người bệnh không thể cử động, thậm chí mặt sưng phù nề biến dạng trông hao hao như mặt con sói nên mới gọi là Lupus. Chữ “hồng ban lang sang” (lở loét nổi mẩn đỏ, mặt giống con sói) nhằm h́nh dung t́nh trạng phù nề và biến chứng trên da của người bệnh. Không rơ danh từ y khoa tiếng Việt dịch căn bệnh này chính xác như thế nào, chứ thuật ngữ y tế của Hà Nội dịch là “bệnh lupus viêm ban đỏ” nghe không ổn lắm!

[13] Dân Măn Thanh sống chủ yếu ở vùng Liêu Ninh, tức ở ngoài Sơn Hải Quan. Sơn Hải Quan là cửa ải trọng yếu của cực Đông vùng Trung Nguyên, nằm giữa ranh giới tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh. Sơn Hải Quan thuộc rặng Yên Sơn, địa thế hiểm yếu. Cái tên Sơn Hải Quan do đại tướng Từ Đạt của nhà Minh đặt ra khi vâng chiếu tu bổ Vạn Lư Trường Thành do nhận thấy ải này nằm giữa Yên Sơn và Bột Hải.