Trung Phong Tam Thời Hệ
Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng
Kư
phần 2
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích
Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học
Viện Úc Châu
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Tập
04
6. A Di Đà Kinh
6.1. Giải thích tựa đề
kinh
Xin xem Đệ Nhất Thời
Pháp Sự. Trước phần Đệ Nhất Thời
Pháp Sự, đọc ba lượt Nam Mô Liên Tŕ Hải
Hội Phật Bồ Tát, tôi đă giới thiệu cùng quư
vị rồi. Đoạn văn lớn kế tiếp
đó là tụng kinh, tụng Phật Thuyết A Di Đà
Kinh. Cũng cần phải đem toàn văn bản kinh này
giới thiệu giản lược cùng quư vị, bởi
lẽ, trong phần pháp sự Hệ Niệm này, chúng tôi
đă tỉnh lược [phần giải thích] huyền
nghĩa kinh A Di Đà; nhưng phần đầu [của
kinh này] là đề mục kinh, phải giảng qua
đề mục kinh cái đă.
Trong kinh đă nêu rất rơ, kinh
này vốn có tên là Xưng Tán Bất Khả Tư
Nghị Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm Kinh (稱 讚 不 可 思 議 功 德
一 切 諸 佛 所 護 念 經).
Đó là tên gốc của bản kinh này, danh xưng ấy
do chính đức Thế Tôn nói ra. Từ tựa đề
kinh, chúng ta có thể thấy được nghĩa thú[1]
của bộ kinh này. “Xưng
Tán” có năng xưng tán và sở xưng tán. Năng
xưng tán (người xưng tán) là “nhất thiết chư Phật” (hết thảy
chư Phật), chứ chẳng phải ai khác, thực
sự chẳng thể nghĩ bàn, sở xưng tán (cái
được xưng tán) là “bất
khả tư nghị công đức”, tức là công
đức chẳng thể nghĩ bàn. Công là “chấp tŕ danh hiệu, nhất
tâm bất loạn”; Đức là “đới nghiệp văng sanh, đốn siêu viên
chứng”. Ở đây, chúng tôi lại phải giải
thích sơ lược như sau: “Nhất thiết chư
Phật” là nói mười phương ba đời,
chẳng sót một đức Phật nào. Chẳng phải
một đức Phật xưng tán hay một vài
đức Phật xưng tán, chẳng phải vậy!
Mười phương ba đời hết thảy
chư Phật đều xưng tán. Ngoài ra c̣n có nghĩa là bốn mươi mốt
địa vị Phần Chứng Phật cũng đều xưng
tán.
Đây là hiểu theo nghĩa rộng, ư nghĩa này là thật,
chẳng phải giả vậy!
Pháp Thân Bồ Tát có năng
lực quán sát căn cơ, trí huệ, đức năng,
thần thông rất gần với Như Lai, các Ngài
tiếp dẫn hết thảy chúng sanh, đều có
năng lực quán sát những kẻ đó từ xưa
đến nay, thấy được đời
đời kiếp kiếp trong quá khứ của kẻ
đó. V́ sao thấy được? V́ đối với
người đă minh tâm kiến tánh, thời gian và không
gian không c̣n nữa. Không có không gian nên chẳng có xa -
gần; không có thời gian nên chẳng có quá khứ,
hiện tại, vị lai. Dẫu là đời quá khứ trong
bao kiếp lâu xa cũng giống hệt như ở trước
mắt, rơ ràng, rành rẽ, hết sức minh bạch.
Biết kẻ ấy trong đời đời kiếp
kiếp thuở quá khứ đă từng học những
ǵ, hiện tại gặp gỡ bèn dạy kẻ ấy tu
học pháp môn tương ứng với những
điều kẻ đó đă học trong quá khứ, kẻ
ấy sẽ học rất hào hứng, chẳng cảm
thấy khó khăn chi, lại tiến bộ rất nhanh. V́
sao? Trong A Lại Da Thức đă có chủng tử rồi!
Lúc thiện tri thức dạy
kẻ đó pháp môn ấy, chủng tử tập khí trong A
Lại Da Thức bèn phát khởi. Người tu hành
chứng quả có năng lực ấy, những vị đại
đức chưa chứng quả không có năng lực đó;
nhưng nếu như đă từng dạy dỗ trong
một thời gian dài, tiếp xúc nhiều người,
vị đó sẽ có kinh nghiệm phong phú, giống như
những kẻ xem tướng đoán mạng, trong một
đời người ấy đă gặp bao nhiêu
người, gặp người nhiều quá, cũng có
phần nào năng lực phân tích, nhưng phương pháp
quán sát căn cơ của họ chẳng thể
mười phần chuẩn xác. Những ai thực sự
có học vấn, thực sự có công phu, gần như đương
nhiên là phải có khả năng phỏng đoán đúng tới
sáu bảy phần. Vị đó chỉ dạy, đề nghị
quư vị tu học pháp môn nào; nếu quư vị thực
sự nghiêm túc nỗ lực tu học th́ cũng sẽ có
thành tựu. Đó là từ kinh nghiệm của vị
ấy; nếu chẳng có kinh nghiệm, sẽ khó ḷng làm
được!
Chúng ta gặp được
một vị thiện tri thức chẳng phải là
chuyện dễ. Cổ nhân thường nói đó là “duyên
thầy tṛ”, thầy tṛ có duyên phận cũng là có thể gặp
gỡ, chứ chẳng thể cầu được.
Thật vậy, thế tục thường nói “quư vị do
vận hên bèn gặp”. Có người suốt đời
mong gặp thiện tri thức, cầu gặp
được một vị thầy tốt, mà suốt
đời chẳng gặp, v́ chẳng có duyên phận. Nói
đúng ra, cốt lơi của cái duyên phận ấy là quư
vị có chân thành ham học hay không. Đấy chính là nhân
tố trọng yếu nhất! Tâm chân thành ham học,
biết đạo, biết tôn sư trọng đạo, đầy
đủ Tín - Giải - Hạnh; chưa cần nói
đến Chứng, tối thiểu là có thể tin, có
thể hiểu, có thể y giáo phụng hành. Có đủ những
điều kiện đó, đương nhiên là có khả
năng gặp được chân thiện tri thức. Nhà
Phật thường nói: “Phật
thị môn trung, bất xả nhất nhân” (Trong cửa
Phật, chẳng bỏ một ai), đó là Cảm. Chính bản
thân ta phải có đủ những điều kiện
ấy là Cảm; hễ có Cảm th́ Phật, Bồ Tát
liền Ứng. Nói tóm lại, pháp thế gian hay xuất
thế gian đều chẳng ngoài đạo lư cảm
ứng.
Trong kinh này, người xưng tán là
hết thảy chư Phật, cái được xưng
tán là “bất khả tư nghị công đức”.
Công là ǵ? “Chấp tŕ danh
hiệu, nhất tâm bất loạn”, công chẳng
thể nghĩ bàn; thấy đơn giản quá! Càng
đơn giản, đạo lư càng sâu! Nếu chẳng
thấu triệt đạo lư, sẽ chẳng thể khen
ngợi sự việc ấy. Mọi người cứ
nghĩ chấp tŕ danh hiệu là chuyện của mấy bà
già, dễ dàng quá, há có thể thành tựu được
sao? Tôi học Phật từng gặp rất nhiều
người như thế, phê b́nh Tịnh Độ,
miệt thị Tịnh Độ, chẳng coi Tịnh
Độ ra ǵ, coi đó là pháp thấp hèn nhất của
Phật pháp: Người tŕnh độ tệ nhất không
c̣n cách nào dạy được th́ dạy họ niệm A
Di Đà Phật vậy!
Lúc tôi mới học Phật cũng
nghĩ như thế. Tôi sanh khởi tín tâm đối
với pháp môn này là nhờ đọc kinh Hoa Nghiêm. Mọi
người đều ca tụng Hoa Nghiêm là pháp luân căn
bản, là vô thượng bảo điển của
Phật pháp, ai nấy đều công nhận như
vậy, không ai chẳng tôn trọng nó. Kinh A Di Đà đem
so với Hoa Nghiêm th́ khác biệt nhiều lắm, như
trời với đất vậy.
Trước kia, ba mươi mấy năm
trước, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm ở Đài Bắc. Lúc
đó là năm Dân Quốc 60 (1971), năm nay là Dân Quốc 92
(2003), đúng ba mươi hai năm trước. Mỗi
Chủ Nhật tôi giảng ba lần, h́nh như lúc ấy
mỗi lần giảng một tiếng rưỡi. Hai
lần giảng Bát Thập Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm bản 80
cuốn), một lần giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm
(kinh Hoa Nghiêm bản 40 cuốn). Tứ Thập và Bát
Thập giảng đồng thời. Giảng một
thời gian khá dài, có một bữa tâm huyết sôi nổi,
nghĩ Văn Thù, Phổ Hiền học pháp môn ǵ? Đệ
tử đắc ư nhất của Văn Thù là Thiện Tài,
Bồ Tát dạy Thiện Tài học pháp môn nào? Tôi khởi
lên nghi vấn ấy, tra kinh, đương nhiên đọc
đến cuối kinh vẫn không thấy nói.
Tra kỹ lần nữa, tôi bèn nghi
hoặc: Văn Thù, Phổ Hiền đều phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, lại xem kỹ phần nói
về Thiện Tài, Thiện Tài đắc Căn Bản Trí
trong hội của ngài Văn Thù, phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân trong hội của ngài Văn Thù. Thiền
Tông gọi đó là đại triệt đại ngộ,
bên Giáo Hạ gọi là đại khai viên giải. Lúc
ấy, Văn Thù Bồ Tát dạy đồng tử đi
tham học. Tham học là thành tựu Hậu Đắc Trí.
Trong kinh Đại Bát Nhă nói: “Bát
Nhă vô tri, nhưng không ǵ chẳng biết”. “Vô tri” là
Căn Bản Trí, “không ǵ chẳng biết” là Hậu
Đắc Trí. Thiện Tài đă thành tựu Căn Bản
Trí, thầy của Ngài dạy Ngài đi tham học, tức
là năm mươi ba lần tham học trứ danh.
Phương pháp tu học Căn Bản
Trí và Hậu Đắc Trí hoàn toàn chẳng giống nhau.
Căn Bản Trí là “thâm
nhập một môn, huân tu dài lâu”, chẳng thể
tiếp xúc tùy tiện với bất cứ ai, chẳng
thể tiếp xúc tùy tiện với bất cứ pháp nào,
tâm phải định. Dùng Thiền Định rất sâu
để buông bỏ vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, khôi phục chân tâm bổn tánh. Đó
là kiến tánh. Kiến tánh rồi, phương pháp dạy của
thầy thay đổi một trăm tám mươi
độ, dạy như thế nào? Bất cứ ai
cũng tiếp xúc được, bất cứ việc ǵ
cũng tham dự được, chẳng c̣n thâm nhập
một môn nữa, mà là học rộng nghe nhiều! Bởi
vậy, lúc đó tôi mới thực sự hiểu rơ Tứ
Hoằng Thệ Nguyện nói ǵ. “Phiền
năo vô tận thệ nguyện đoạn” là Căn
Bản Trí, “pháp môn vô
lượng thệ nguyện học” là Hậu
Đắc Trí. Chúng tôi mới hiểu rơ thế nào là “không ǵ chẳng biết”: Không nhất định là
một vị thầy nào, ai cũng đều là thầy
cả, mọi sự, mọi vật đều là tài
liệu để học tập, bởi thế mới
thành tựu “không ǵ chẳng biết”.
Chúng ta thấy một vị thiện tri
thức ban đầu hết sức quan trọng! Cổ
nhân Trung Quốc thường nói: “Tiên nhập vi chủ” (Điều ǵ học
đầu tiên sẽ là chánh yếu), vị thiện tri
thức đầu tiên quan trọng hơn mọi thứ
khác. Hăy xem kỹ phần tỳ-kheo Cát Tường Vân[2]; v́
tôi giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, Tứ Thập Hoa Nghiêm
là bản hoàn chỉnh của Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện Phẩm[3],
gồm bốn mươi quyển. Tỳ-kheo Cát
Tường Vân tu pháp môn ǵ? Pháp môn Niệm Phật. Ngài
dạy Thiện Tài hai mươi mốt pháp môn Niệm
Phật, hai mươi mốt môn ấy bao gồm hết
thảy Phật pháp, không môn nào chẳng phải là pháp môn
Niệm Phật, diệu kỳ chẳng thể nói nổi.
Nếu chúng ta vẫn chưa nắm
được yếu lănh, hăy quan sát kỹ Ngài tu pháp môn
Niệm Phật nào? Nh́n kỹ hơn sẽ thấy: Ngài tu
pháp môn niệm A Di Đà Phật, đă thế, lại c̣n
tu Tŕ Danh Niệm Phật; trong Tịnh Tông gọi là
Phật Lập Tam Muội, chuyên niệm A Di Đà Phật
cầu sanh Tịnh Độ. Pháp này c̣n gọi là Ban Châu Tam
Muội, dũng mănh tinh tấn đêm ngày chẳng nghỉ
ngơi, suốt ngày suốt đêm. Thông thường
hạn kỳ tu hành Ban Châu Tam Muội là ba tháng, lấy ba
tháng làm một giai đoạn hay một kỳ. Trong ba tháng
chẳng được ngủ nghỉ nên gọi là
Phật Lập. Có thể đứng hoặc đi,
nhưng quan trọng nhất là chẳng được
ngồi xuống, chẳng được nằm, rất
khổ sở! Đại khái tu pháp môn này, tuần lễ
đầu rất khổ, qua được một
tuần rồi bèn thấy b́nh thường. Phá
được cửa ải bèn thấy b́nh thường. Khế
nhập cảnh giới nên pháp hỷ sung măn!
Xưa kia có người tu pháp môn này,
người hiện tại chẳng làm được! Căn
tánh người hiện tại chẳng bằng tiền
nhân, quyết tâm, nghị lực chẳng bằng tiền
nhân, thân thể chẳng bằng tiền nhân; trước
kia, người ta khỏe mạnh hơn. Nói thật ra,
về chuyện tu hành, cổ nhân thường nói tu hành
phải bắt đầu từ lúc tuổi trẻ, có tinh
thần, có thể lực, tuổi cao chẳng làm được!
Nói chung, từ bốn mươi tuổi trở lên là khó
khăn rồi, thể lực đă suy, tinh thần
chẳng đủ. Bốn mươi mấy tuổi
mới tu là “mất dê mới lo làm chuồng”, nhưng có tu
vẫn hơn không tu. Chúng tôi thấy cổ nhân thành tựu
đều là người trẻ tuổi. Lục Tổ
Huệ Năng đại sư của nhà Thiền khai
ngộ năm hai mươi bốn tuổi, Ngũ Tổ
đem y bát truyền cho. Hôm qua tôi giới thiệu Trung Phong
quốc sư cùng quư vị, năm hai mươi lăm
tuổi xuất gia, năm hai mươi bảy khai ngộ,
tuổi đều rất trẻ. Thật là đại
triệt đại ngộ, thấu triệt nguồn
đáy. Đương nhiên, từ truyện kư ta thấy
các Ngài chẳng phải là hạng tầm thường, mà
là bậc tái lai. Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị
hiện: Năm ba mươi tuổi khai ngộ, thành
Đẳng Chánh Giác, chứng đắc Phật quả.
Thành Phật rồi bèn khởi đầu công việc
hoằng pháp lợi sanh, nói theo cách chúng ta bây giờ là giáo
dục, dạy học trong xă hội đa nguyên văn hóa
suốt bốn mươi chín năm, măi cho đến khi
viên tịch năm tám mươi tuổi.
Trong bốn mươi chín năm ấy,
Thích Ca Mâu Ni Phật chưa từng nghỉ phép, chưa
từng nghỉ ngơi. V́ sao vậy? Đó là chuyện sanh
tử đại sự, chẳng phải chuyện tầm
thường. Liễu sanh tử, xuất tam giới, làm sao
nghỉ ngơi được? Nghỉ một chút, công phu
gián đoạn giữa chừng, bèn thoái chuyển. Ngạn
ngữ Trung Quốc có câu:
“Cầu học như nghịch thủy hành châu, bất
tấn tắc thoái” (Cầu học như chèo thuyền
ngược nước, chẳng tiến ắt lùi). Tu
đạo cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, chỉ
cần quư vị chẳng tiến, ngay lập tức
bị lùi, vĩnh viễn phải tiến lên mới ḥng
đảm bảo ḿnh chẳng bị thoái chuyển. Phải
khắc phục hết thảy phiền năo tập khí
của chính ḿnh, dùng sức mạnh nào để khắc
phục? Điều này trong những lần giảng pháp
chúng tôi đă nói rất nhiều: Hiếu học! Nói cách
khác là làm thế nào để vun bồi ư nguyện ham
học của chúng ta! Ư nguyện ham học mạnh mẽ
sẽ chẳng bị thoái chuyển. Ư nguyện ham học
mạnh mẽ sẽ dễ khế nhập cảnh
giới, thực sự khế nhập, pháp hỷ sung măn!
Trong sách Luận Ngữ có một câu ư
vị vô cùng! “Học nhi
thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”
(tạm dịch: Học rồi thực hành theo, cũng
chẳng sướng sao?): Sự sung sướng ấy
khiến ta quên hết tất cả, gian nan khổ sở nào
cũng đều quên hết, cũng chẳng vui sướng
sao? Vui sướng ǵ vậy? Vui sướng học. Các
đồng học xuất gia chúng ta, các đồng
học học Phật vui nơi Đạo, mùi vị
của Đạo so với Học càng nồng đượm
hơn. Quư vị học Phật, nghiên cứu giáo pháp mà
vẫn chẳng khởi tâm hoan hỷ th́ quư vị chưa
vào được cửa. Đối với kinh giáo, quư
vị là người học tập kinh giáo, phải sanh
ḷng hoan hỷ th́ quư vị mới vào được
cửa. Niềm lạc thú đó, nỗi hoan hỷ đó,
tất cả hết thảy pháp trong thế gian không ǵ có
thể sánh bằng, đấy là cảnh giới tương
ứng.
Tôi thấy đầu tiên là tỳ-kheo
Cát Tường Vân hành Ban Châu Tam Muội, niệm A Di Đà
Phật cầu sanh Tịnh Độ, tinh tấn như
thế đó; Thiện Tài tham phỏng Ngài đầu tiên,
chẳng phải là nhập pháp nào trước hết th́
pháp đó là chủ yếu hay sao? Sau đó, lại tham
phỏng các thiện tri thức khác, mỗi một vị
thiện tri thức tu học pháp môn bất đồng,
Thiện Tài đều tham học hết. Chúng tôi lại
thấy cuối cùng, vị thiện tri thức thứ
năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát. mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền
Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, tôi mới hoảng
nhiên đại ngộ. Quư vị thấy đó: Pháp môn
đầu tiên là Niệm Phật, pháp môn cuối cùng là
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tôi liền
hiểu rơ Thiện Tài đồng tử tu pháp môn nào?
Suốt từ đầu đến cuối là niệm A Di
Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, công đức
chẳng thể nghĩ bàn!
Do đây, tôi hiểu rơ, không ai giảng
cho tôi cả, nhờ kinh Hoa Nghiêm tôi dứt sạch mối
ngờ vực ấy, chết sạch ḷng mong ngóng, so đo,
khiêm hư sát đất niệm Phật. Thật chẳng
dễ dàng, kinh A Di Đà nói [tŕ danh niệm Phật] là pháp
khó tin, quả thật là khó! Tôi học Phật mười
mấy năm mới phát sanh tín tâm đối với
Tịnh Độ, mới hiểu được ư
nghĩa của tên kinh - “Xưng Tán Bất Khả
Tư Nghị Công Đức”, mới lănh
hội được đôi chút. Thật cảm tạ
Thiện Tài, Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát.
“Chấp
tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn, đới
nghiệp văng sanh, đốn siêu viên chứng”, câu này thật trọng yếu.
Đới nghiệp văng sanh, phẩm vị văng sanh cũng
chẳng phải là thấp lắm. Dẫu cho văng sanh Hạ
Hạ Phẩm trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ
cũng là đốn siêu viên chứng. Trước đây
tôi đă thưa cùng quư vị, chúng tôi đọc trong Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh, chính đức Phật
nói: Hạ Hạ Phẩm Văng Sanh trong Phàm Thánh Đồng
Cư Độ tối đa là mười hai kiếp, hoa
nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh. Đó là sanh về
đâu? Sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Trụ trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm Độ là Địa
Thượng Bồ Tát (bậc Bồ Tát từ Sơ Địa
trở lên).
Đối với các pháp môn thông thường,
như trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
nói rất nhiều pháp môn khác, phá một phẩm vô minh,
chứng một phần Pháp Thân, đó là bậc Sơ
Trụ trong Viên Giáo. Tính từ ngày đó trở đi cho
đến khi thành tựu [Phật quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác] phải mất ba đại
A-tăng-kỳ kiếp. Quư vị phải nghe cho thật rơ:
Ba đại A-tăng-kỳ kiếp! A-tăng-kỳ
kiếp thứ nhất tu ba mươi địa vị:
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, ba mươi địa vị [phải tu chứng]
trong A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất.
A-tăng-kỳ kiếp thứ hai tu bảy địa
vị, từ Sơ Địa cho đến Thất
Địa. A-tăng-kỳ kiếp thứ ba tu ba
địa vị Bát Địa, Cửu Địa,
Thập Địa. Bởi thế, tu xong ba đại
A-tăng-kỳ kiếp sẽ thực sự chứng
đắc quả vị ǵ? Pháp Vân Địa Bồ Tát,
rất gần với quả vị rốt ráo, sở
chứng của địa vị này là Tịch Diệt
Nhẫn. Pháp Vân Địa là hạ phẩm Tịch
Diệt Nhẫn, Đẳng Giác là trung phẩm Tịch
Diệt Nhẫn, Diệu Giác là thượng phẩm
Tịch Diệt Nhẫn.
Nói “ba đại A-tăng-kỳ kiếp”
là từ Sơ Trụ của Viên Giáo cho đến Pháp Vân
Địa Bồ Tát, bốn mươi địa vị
phải tu mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Người
văng sanh Hạ Hạ Phẩm về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, mang theo nghiệp, đến khi hoa
nở thấy Phật, hăy nhớ kỹ tiếp đó là “ngộ Vô Sanh”, câu này rất
trọng yếu! Ngộ Vô Sanh là ǵ? Vô Sanh Pháp Nhẫn là
sở chứng của Thất Địa Bồ Tát. Quư
vị hăy nghĩ xem, trong thời gian mười hai
kiếp ở Tây Phương Cực Lạc thế
giới, Bồ Tát ở các nơi khác phải tu hành hai
đại A-tăng-kỳ kiếp, trong khi ở Tây
Phương Cực Lạc thế giới chỉ mất thời
gian mười hai đại kiếp, không ǵ sánh bằng
được! Tu hành trong thế giới Tây Phương
rất nhanh chóng!
Chúng ta nghĩ xem v́ sao họ thành tựu
nhanh chóng như thế? Nói theo thuật ngữ trong kinh
Phật, họ được “oai
thần bổn nguyện của Phật A Di Đà gia tŕ”,
nâng cao [cảnh giới] thật nhanh. Nếu nói theo cách nói
của người thế gian thông tục chúng ta, họ
được quang minh của A Di Đà Phật tưới
gội, v́ sao vậy? Họ là học tṛ của A Di Đà Phật,
chứ c̣n sao nữa! Quư vị thấy trong kinh Vô
Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật,
đó là Ngài đă thay mặt cho mười phương ba
đời hết thảy chư Phật để tán thán,
đức Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung
chi vương” (ánh sáng tôn quư nhất, là vua của các vị
Phật). Bởi thế, hết thảy chư Phật, dù
các đức Phật đều b́nh đẳng,
địa vị thực sự b́nh đẳng, trí huệ
b́nh đẳng, đức tướng b́nh đẳng, nhưng
trong sự b́nh đẳng ấy, có riêng một đức
Phật được hết thảy chư Phật tôn
kính. Không đức Phật nào chẳng tôn kính A Di Đà Phật,
không vị Phật nào chẳng kính ngưỡng A Di Đà Phật.
Học tṛ của A Di Đà Phật được quang minh
chiếu đến, bất luận thân cận một vị
Phật nào, v́ là học tṛ của A Di Đà Phật nên
được đặc biệt chiếu cố, thật
là hy hữu!
Phật Di Đà thực sự gia tŕ
kẻ đó, dù phiền năo tập khí chưa đoạn,
kẻ ấy vẫn có năng lực tham phỏng
mười phương hết thảy Như Lai. Trong kinh
không nói nhiều, chỉ nói là tham phỏng mười
phương mười vạn ức Phật; nói như
vậy là có dụng ư, dụng ư ǵ vậy? Tây Phương
Cực Lạc thế giới cách thế giới Sa Bà
mười vạn ức cơi Phật. Ư nói: Quư vị
đến thế giới Cực Lạc rồi, trở
về thế giới này rất dễ dàng, mỗi ngày
đều có thể trở về, muốn về là
về, dụng ư là đây: Có năng lực như thế
đó! Tham phỏng chư Phật, đương nhiên quư
vị nghe chư Phật thuyết pháp, mở mang trí
huệ, chẳng phải là pháp sư tầm thường,
mà chính là chư Phật đích thân giảng kinh thuyết
pháp cho ta. Quư vị ra đi, đương nhiên cúng
Phật, cúng Phật là tu phước báo. Bởi thế,
quư vị đến tham phỏng chư Phật là
phước huệ song tu, hằng ngày tham phỏng, c̣n ǵ tuyệt
hơn! Bởi thế, người ấy tu hành chứng
quả chỉ cần mười hai kiếp là thành công. Quư
vị tu hành trong mọi cơi Phật khác phải mất hai
A-tăng-kỳ kiếp, tu trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới chỉ mười hai kiếp là
thành.
Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng
Giác Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng, v́ sao cũng
muốn về Tây Phương Cực Lạc thế
giới? Ở đây có hai ư nghĩa:
1) Nghĩa thứ nhất là đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới thành tựu
nhanh hơn so với thế giới Hoa Tạng. Trong thế
giới Hoa Tạng phải mất một A-tăng-kỳ
kiếp, đến thế giới Cực Lạc chỉ
cần một hai ngày là thành công, đương nhiên
phải về đó.
2) Nghĩa thứ hai là làm gương cho
chúng ta thấy. Trong các vị Bồ Tát, chúng ta ngưỡng
mộ, sùng bái Văn Thù Bồ Tát. Nghe nói Văn Thù, Phổ
Hiền cũng đều phải cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta c̣n nói ǵ
nữa, đương nhiên theo gót các Ngài.
Từ đây ta mới thực sự thấu
hiểu “chấp tŕ danh
hiệu, nhất tâm bất loạn, đới nghiệp văng
sanh, đốn siêu viên chứng” là tán thán “công đức chẳng thể
nghĩ bàn”.
Kinh này là “nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”, tức
là kinh được hết thảy chư Phật hộ
tŕ, được hết thảy chư Phật nghĩ
tới. “Hộ” (護) là hộ pháp! Pháp môn Niệm Phật là
đại pháp bậc nhất để hết thảy
chư Phật độ chúng sanh, là đại pháp bậc
nhất chẳng thể nghĩ bàn! Hết thảy chư
Phật tán thán, hết thảy chư Phật tuyên
dương, hết thảy chư Phật đều
giới thiệu [pháp môn này] cho chúng sanh. Như Thích Ca Mâu Ni
Phật v́ hết thảy chúng sanh giảng bất luận
kinh nào, chẳng cần biết là căn tánh của chúng
sanh là giống nhau hay khác nhau, trong những thời điểm
khác nhau, có rất nhiều kinh chẳng giảng, nhưng ba
kinh Tịnh Độ nhất định phải giảng.
V́ sao? V́ ba kinh ấy thích hợp mọi căn tánh, là những
kinh điển chư Phật ắt phải giảng,
cũng là pháp môn chư Phật nhất định phải
giới thiệu với chúng sanh. Nếu căn lành của chúng
sanh chín muồi, tin được, nguyện
được, hành được, một đời này
thành tựu, thỏa măn đại nguyện độ chúng
sanh của Phật.
Đó là Hộ! Quư vị xem điều
thứ hai là “nhất thiết
chư Phật sở hộ”, đấy là hóa tha, “hoằng hộ Như Lai huệ
mạng” (hoằng dương, ǵn giữ huệ
mạng của Như Lai).
“Sở
niệm” là tự hành, “viên chứng Vô Thượng
Bồ Đề”. Văn Thù, Phổ Hiền không vị
nào chẳng nêu gương cho chúng ta xem. Bốn vị
đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm,
Thế Chí, đều đă thành Phật từ bao kiếp
lâu xa, nay ở trong pháp hội của Thích Ca Mâu Ni Phật
thả chiếc bè Từ, họ là cổ Phật tái lai,
xuất hiện dưới thân phận Bồ Tát
để làm khuôn mẫu, nêu gương, các Ngài đều
niệm Phật, đều niệm A Di Đà Phật, trong
hội Hoa Nghiêm đều phát nguyện văng sanh. Bởi
thế, hết thảy chư Phật sở hộ, sở
niệm chẳng hai: Hộ là niệm, niệm là hộ.
Nếu hộ nhưng không niệm, hoặc niệm
nhưng không hộ th́ đều chẳng đúng.
Đấy chẳng phải là hộ pháp, mà cũng
chẳng phải là niệm Phật! Hộ pháp nhất
định phải niệm Phật, niệm Phật
nhất định phải hộ pháp. Đấy là tên
gốc của kinh này.
Khi đại sư La Thập dịch
kinh này, Ngài đă thay đổi tên kinh, đổi thành “Phật
Thuyết A Di Đà Kinh”. Dưới tựa
đề này, tôi đă chú giải đơn giản là “thâm khế bổn kinh tông
chỉ” (khế nhập sâu xa tông chỉ kinh này). V́ sao
vậy? Kinh này khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật, đại
sư La Thập thẳng gọn, dùng ngay A Di Đà Phật
làm tên kinh, hay lắm, tên kinh tuyệt diệu! Từ
việc ngài La Thập đặt tên kinh như vậy, ta
biết tâm Ngài từ bi sâu nặng, tâm độ sanh tha
thiết.
“Phật
thuyết”: Thuyết là “sướng duyệt sở hoài”
(vui thỏa điều ḿnh mong mỏi). Chữ Thuyết (說:
nói) thời cổ c̣n đọc là
Duyệt (悅).
Quư vị đọc Luận Ngữ có câu: “Học nhi thời tập chi, bất diệc
duyệt hồ” (學 而 時 習 之,不 亦 說 乎). Chữ Duyệt trong câu này là chữ Thuyết
(說), sau này mới thêm bộ Tâm đứng
bên cạnh thành chữ Duyệt (悅: vui sướng).
Thời cổ chữ ít, Thuyết và Duyệt chỉ cùng
một chữ, nhưng lúc đọc trở thành hai âm, hai
ư nghĩa riêng biệt. Duyệt là hoan hỷ từ bên trong tâm,
chẳng phải vui vẻ bề ngoài. Bề ngoài là như
lúc gặp rất nhiều bè bạn rất vui sướng
th́ gọi là Lạc. C̣n Duyệt có thể là không có một người
nào khác, tự ḿnh cảm thấy rất vui sướng,
trong ḷng cảm thấy rất sung sướng, vui vẻ
th́ gọi là Duyệt.
“Sướng
duyệt sở hoài”: Hoài (懷) là nguyện vọng. Nguyện vọng
của Ngài là ǵ? Nguyện vọng độ cho hết
thảy chúng sanh mau chóng thành Phật, đấy là
điều chư Phật Như Lai ưa thích nhất. Nay
cơ duyên chúng sanh thành Phật đă chín muồi. Đă chín
muồi rồi th́ Phật bèn nói cho chúng sanh pháp môn này,
họ sẽ tin được, hiểu được,
hành được. Đấy là chúng sanh thành thục,
cơ duyên thành thục, thiện căn thành thục, “vị thuyết thử pháp, linh
nhất thiết chúng sanh nhất sanh cứu cánh thành Phật
cố” (bèn nói pháp này, khiến cho hết thảy chúng
sanh trong một đời rốt ráo thành Phật). Chẳng
cần đợi đến đời sau, hễ đời
này văng sanh th́ kể như thành Phật, thành Phật
rất nhanh. Chúng ta chẳng văng sanh th́ thôi, hễ văng sanh
th́ tuyệt đối chẳng thuộc ba phẩm
dưới. V́ sao vậy? Ba phẩm dưới tội
nghiệp rất nặng! Chúng ta chẳng tạo những
tội nghiệp nặng dường ấy, lúc mọi
người chúng ta văng sanh đại khái thuộc ba
phẩm Trung, chẳng thuộc ba phẩm Hạ. Ba phẩm
Trung văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, “hoa
khai kiến Phật”, đại khái là ba bốn
kiếp, chẳng cần đến mười hai
kiếp, ắt hẳn ba bốn kiếp, năm kiếp là
thành Phật, có phải là càng nhanh hơn nữa hay không?
Nói thật ra, người thế gian hằng
ngày khởi vọng tưởng, mê mất tự tánh,
đầu óc chật cứng mong cầu điều ǵ?
Cầu tiền tài! Họ chẳng biết trong A Di Đà
Phật có vô lượng của cải, của cải
ấy được bao gồm trong tướng hảo,
tướng hảo thuộc về phước báo. Trong
thế gian có một hạng người, cả
đời nỗ lực liều mạng học nghề,
học lấy một kỹ năng, học lấy một
môn kỹ hơn nữa, bất cứ kỹ thuật, tài
khéo nào cũng đều viên măn cả, rốt ráo cả!
Bữa nay chúng tôi chỉ nói đôi chút. Người thế
gian chẳng thể sánh bằng, chín pháp giới cũng
chẳng thể sánh bằng. Kẻ ấy chẳng cầu
nơi tự tánh, lại cầu bên ngoài tâm! Cầu pháp ngoài
tâm th́ một đời học được bao nhiêu?
Rất hữu hạn! Bởi thế, nếu quư vị
hiểu được những ư nghĩa bao hàm trong danh hiệu
A Di Đà Phật, quư vị sẽ bất tri bất giác
bị nhiếp thọ, nói theo cách bây giờ là chúng ta
bị Ngài hấp dẫn, nhà Phật gọi là “nhiếp thọ hết thảy
chúng sanh”.
Chữ cuối cùng trong tựa
đề là “Kinh”. Kinh (經) là tiếng Hán, cổ Ấn Độ
gọi là Tu Đa La, dịch nghĩa sang tiếng Hán là
Khế Kinh. Khế (契) là trên phù hợp với lư chư
Phật đă chứng, dưới phù hợp với
căn cơ chúng sanh được độ. Đấy
là ư nghĩa được bao hàm trong kinh điển
Phật giáo, v́ thế gọi là Khế Kinh.
Điều thứ hai “hựu cụ
quán, nhiếp, thường, pháp” (lại c̣n đủ các nghĩa: Quán, Nhiếp, Thường,
Pháp). Đây là cách các pháp sư thường dùng
nhất, dùng bốn chữ trên đây để giải
thích chữ Kinh.
“Quán” (貫) là “quán xuyên”
(貫穿: xuyên suốt). Một bản kinh văn
bất luận dài ngắn, chương pháp, kết
cấu, ư tưởng được hệ thống
hết sức nghiêm chỉnh. Nh́n từ chỗ nào? Quư
vị thấy trong Phật pháp có thể loại Khoa Phán (科判). Khoa Phán là nghiên cứu kết cấu
chương pháp của kinh, kinh có thứ tự từng
điều, chẳng lộn xộn. Văn chương
đạt đến mức tuyệt diệu, chẳng
thể thêm một chữ, thêm một chữ th́ sao? Dư
quá, không cần thiết. Chẳng thể bớt một
chữ, bớt một chữ là đứt đoạn,
chẳng liên tục. Văn chương đạt
đến mức ấy, quả là văn chương
bậc nhất, kinh Phật là như vậy đó.
Trong văn chương của cổ
nhân Trung Quốc, [tác phẩm] văn chương nào hay th́ cũng
đúng là như thế. Phổ biến nhất,
được mọi người thích đọc nhất
là sách Cổ Văn Quán Chỉ, đây là bản hợp
tuyển tinh tế của những bản văn
chương hay trứ danh trong hơn hai ngàn năm của
Trung Quốc, gồm hơn ba trăm thiên. Đây là những
tác phẩm tiêu biểu của văn học Trung Quốc,
thiên nào cũng đều là những áng văn chương
hay, đều có thể dùng phương pháp Khoa Phán của
kinh Phật để phân tích thật mạch lạc. [Những
thiên văn chương ấy] thứ tự phân minh, dùng
phương pháp Khoa Phán liền phán định
được. Lại xem văn chương, sách vở
của người hiện tại viết, văn
chương trong tạp chí, báo chí, nếu dùng Khoa Phán, sẽ
phán định chẳng ra. Từ đây quư vị mới
hiểu rơ văn chương rốt cục là hay hoặc
dở th́ tiêu chuẩn là ǵ? Tiêu chuẩn nằm ở
chữ Quán, có phải là từ đầu đến
cuối hoàn toàn xuyên suốt hay không, khoa phán xuyên suốt hay
không!
Quư vị xem kinh Hoa Nghiêm. Khoa phán và
biểu giải của kinh Hoa Nghiêm là cả một
cuốn sách to! Quư vị thấy kinh Hoa Nghiêm to lớn
dường ấy, nhưng nó có mạch lạc, có thứ
lớp, chẳng loạn một điểm nào. Kinh lớn
nhất trong những bộ kinh Phật là kinh Đại
Bát Nhă, gồm sáu trăm cuốn, có khoa phán hay chăng? Có!
Khoa phán gồm mấy chục cuốn, tôi đă từng
thấy qua, cũng là dùng biểu đồ vẽ ra, công
sức của cổ nhân thật phi thường. Bởi
thế, quư vị đồng học muốn học
giảng kinh th́ quan trọng nhất là phải biết
lập khoa phán. Quư vị nắm chắc được
một bộ kinh, có thể nắm từ đầu
đến cuối là nhờ biểu giải[4]; chương
pháp, kết cấu, hệ thống của kinh đều
bày ra được hết th́ quư vị đă thông
đạt bộ kinh ấy. Thông đạt kết
cấu, chương pháp trên mặt văn tự, ắt
hẳn cũng thông đạt nghĩa lư, chẳng bị
giảng lầm.
Trước kia tôi học kinh giáo ở
Đài Trung, thầy Lư Bỉnh
Trong bản chú giải Sớ Sao có khoa
phán, đại sư phân chia rất kỹ,
nhưng
dùng Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân[5] để
phân chia. Đương nhiên, nếu đọc cổ
thư đă quen th́ chẳng có vấn đề ǵ, đă hiểu
rơ rồi, nhưng đối với người hiện thời
th́ rất khó khăn! Bởi thế, pháp sư Sám Vân
dạy tôi vẽ thành biểu giải (biểu đồ).
Cách vẽ biểu giải là như thế nào? Theo cách
của Hoằng Nhất đại sư. Hoằng Nhất
đại sư soạn rất nhiều chú sớ,
đều có vẽ biểu đồ. Pháp sư Sám Vân dạy
tôi dùng phương thức đó, dựa theo phương
thức đó để vẽ biểu giải của ba
bản chú giải. Vẽ xong biểu giải rồi, tôi
vui sướng khôn cùng, v́ sao? Ư nghĩa của kinh vừa
nh́n liền thấy rơ rệt ngay, hết thảy đều
rơ ràng. Sau này, đến Đài Trung học với thầy
Lư, cách này rất hữu ích. Học kinh giáo với thầy
Lư mấy năm, chính tôi soạn được mấy
bộ khoa phán, rất đáng tiếc là dọn nhà trong nhiều
năm như thế, lúc dọn nhà đi các nơi,
những bản ấy bị mất hết.
Bản khoa phán của bộ kinh dài
nhất tôi viết bằng bút lông, h́nh như viết
hơn bốn mươi trang giấy, mỗi trang
mười hàng, đó là khoa phán của kinh Phật
Thuyết Vị Tằng Hữu Nhân Duyên, kinh này gồm hai
quyển. Bản khoa phán ấy soạn rất tỉ
mỉ, gần như câu nào cũng chia nhỏ ra, chia thành
từng tầng lớp gần như hơn hai mươi
tầng. Phối hợp cả Thiên Can lẫn Địa
Chi[6]
thành hai mươi hai chữ vẫn không đủ; tôi
phải dùng số Ả Rập[7],
dùng mẫu tự Anh văn. Tôi nhớ h́nh như
đến hơn hai mươi tầng. Khoa Phán là giải
thích kinh; v́ thế, nếu quư vị biết sử dụng
Khoa Phán, biết viết Khoa Phán, tự ḿnh soạn
được Khoa Phán th́ quư vị thông đạt
được kinh ấy, hiểu rơ ư nghĩa chính. Sớ
và Sớ Sao nhằm giải thích ư nghĩa một
đoạn, một câu kinh nào đó, c̣n giải thích toàn bộ
bản kinh là khoa phán.
Sau khi nền học vấn Phật pháp được
truyền đến Trung Quốc, Nho Gia có lối học
chương cú; thật ra, có người nói cách học
chương cú là học theo cách lập Khoa Phán của
Phật pháp. Chúng tôi biết rơ cách phanh âm (pinyin) của Trung
Quốc đúng là học từ Hoa Nghiêm tự mẫu[8] mà
ra, bởi lẽ Phạm văn là phanh âm (có nghĩa là
mỗi chữ Phạn được ghép bằng các
mẫu tự). Đấy là nói về sự ảnh
hưởng của kinh Phật đối với văn
học Trung Quốc, [Phật pháp đă] trao truyền
rất nhiều chỉ dạy hữu ích cho các văn
học gia Trung Quốc khiến cho họ có những phát
minh. Chữ Quán là xuyên suốt, tức là văn
chương đến mức hay khéo, ba chữ sau không có
nghĩa như vậy.
“Nhiếp”(攝) là ǵ? Là nhiếp thọ, chữ này không
dễ hiểu cho lắm. Chúng tôi nói theo cách thông tục là
“có sức hấp dẫn”. Kinh có sức hấp dẫn hết
sức mạnh mẽ, thu hút quư vị khiến quư vị chẳng
bỏ được. Tôi cũng hiểu điều
đó. Khi tôi học tiểu học, tôi nhớ lúc học
lớp Bốn tiểu học, bắt đầu
đọc tiểu thuyết chương hồi của
Trung Quốc. Những tác phẩm trứ danh trong loại
tiểu thuyết chương hồi như Tam Quốc Diễn
Nghĩa, Tây Du Kư, Thủy Hử Truyện, tôi bắt
đầu đọc năm lớp Bốn. Chúng rất
hấp dẫn! Xem tới đêm chẳng muốn ngủ;
coi hồi thứ nhất lại muốn xem tiếp hồi
thứ hai. Đến năm đầu cấp Sơ Trung
(Trung Học đệ nhất cấp), trong bốn năm
ấy, những truyện tiểu thuyết chương
hồi cổ của Trung Quốc tôi đă đọc hết,
tôi có căn bản về quốc văn là nhờ các
tiểu thuyết đó.
Trong đó, những tác phẩm hay, thực
sự hay, đúng là cổ nhân đánh giá không sai, có bốn
bộ lớn là Tam Quốc Diễn Nghĩa, Hồng Lâu
Mộng, Tây Du Kư và Thủy Hử Truyện. Bốn bộ tiểu
thuyết lớn này, tối thiểu đọc bốn
lần, đọc từ đầu đến cuối
bốn lần, tối đa là xem mười mấy
lần, đọc từ đầu đến cuối mười
mấy lần. Đọc như cháo rồi, từ
đấy về sau tốc độ đọc rất
nhanh, chúng có sức hấp dẫn rất mănh liệt như
thế đó, nhưng chỉ như thế nào? Nhiều
nhất là đọc chừng mười lăm lần,
đọc hết mười lăm lần, sau đó không
muốn đọc lại nữa! Sức hấp dẫn
của chúng đến đó thôi, không c̣n muốn xem lại
nữa!
Kinh điển của cổ nhân có
sức nhiếp thọ. Như Tứ Thư đó, quư
vị thấy ḿnh từ nhỏ đă đọc Tứ
Thư, đại khái là ở trường tư, trẻ
nhỏ độ chừng mười tuổi phải
học Tứ Thư, đọc đến già vẫn càng
đọc thấy thú vị tràn trề. Sức nhiếp
thọ của bốn tác phẩm văn học chẳng
thể sánh bằngTứ Thư. Sức nhiếp thọ
của bốn tác phẩm [tiểu thuyết chương hồi]
lớn tính hết mức không quá hai mươi lần.
Nếu quư vị đọc một bộ sách từ
đầu đến cuối hai mươi lần,
đọc hai mươi lần xong, tôi tin rằng quư
vị chẳng thể xem lại nữa, quá đủ rồi!
Nhưng một bộ Tứ Thư này đọc cả trăm
lần chẳng chán! Sức nhiếp thọ của
Phật pháp thực sự lớn lao, trong kinh từng nói
từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như
Lai, đời đời kiếp kiếp, thời gian
ấy phải tính bằng A-tăng-kỳ kiếp, vĩnh
viễn chẳng chán. Nhiếp là có sức thu hút như
thế đó.
“Thường” (常) nghĩa là những đạo lư
được nói trong kinh đều là chân lư vĩnh
hằng, quyết định chẳng bị hạn
chế bởi thời gian hay không gian. Sách vở thế
gian chẳng thể đạt được như
vậy. Sách vở thế gian, dẫu là trước tác
của thánh nhân, vẫn bị hạn cuộc trong một khu
vực, trong một giai đoạn, chỉ hữu hiệu
trong lúc đó thôi. Có rất nhiều tác phẩm cổ xưa
của Trung Quốc thực sự chẳng c̣n hiệu
quả trong thời hiện đại nữa, hiệu
quả thời gian đă mất rồi! Những
trước tác thực sự của thánh nhân, cổ thánh
tiên hiền Trung Quốc, về mặt tinh thần đúng
là siêu thời gian, siêu việt không gian, nhưng những
nguyên tắc được nhắc đến trong
những tác phẩm đó có những điều cần
phải tu chỉnh trong thời đại hiện tại
v́ chẳng c̣n thích hợp với thời hiện tại nữa!
Phật pháp không như vậy, Phật
pháp vĩnh hằng bất biến, thật chẳng
thể nghĩ bàn, siêu việt thời gian, siêu việt không
gian. Khi xưa, lúc tôi mới học Phật, đối
với Phật pháp hết sức ngưỡng mộ, yêu
thích, nhưng vẫn c̣n nghi hoặc. Vấn đề nghi
hoặc lớn nhất là Giới Luật. Chương Gia
đại sư thấy rơ điều này. V́ sao tôi nghi
hoặc? Tôi nói những đạo lư được giảng
trong kinh Phật hay lắm, thực sự đáng nên tán
thán, yêu thích vô cùng; nhưng Giới Luật là khuôn mẫu
để sống. Chúng ta biết nếp sống Trung
Quốc khác với ngoại quốc; người
đời nay chẳng giống người thời xưa.
Tôi thấy, tôi hiểu có nhiều phương thức sanh
hoạt, điển chương[9],
chế độ thời cổ đối với thời
đó th́ được, nhưng chẳng thể áp
dụng cho hiện thời. Quan niệm như vậy
biến thành thứ ǵ? Biến thành chấp trước
rất cứng chắc.
Tôi học Phật, chẳng thể
học làm cổ nhân! Lẽ nào người đời nay
học làm người thời cổ, mà lại
người ngoại quốc thời cổ? Phật là
người Ấn Độ, nay chúng ta làm người
Ấn Độ thời cổ c̣n ra thể thống ǵ? Nói
cách nào cũng chẳng thông! Bởi thế, đối
với Giới Luật tôi rất lănh đạm, đối
với kinh luận th́ tỏ ra hứng thú rất nồng
hậu. Khi đó, mỗi Chủ Nhật tôi được
gặp Chương Gia đại sư một lần, gần
như luôn nghe Ngài hữu ư hoặc vô ư dùng một câu
cảnh tỉnh tôi: “Giới Luật
rất trọng yếu”. Bởi thế, sau khi lăo nhân gia
văng sanh, tôi ở bên ḷ thiêu Ngài; ḷ thiêu ấy chỉ dành
riêng cho ḿnh Ngài sử dụng, tôi dựng lều tranh ở
đó suốt ba ngày. Trong ba ngày, ba đêm tôi suy nghĩ, tôi
theo thầy học ba năm, Ngài dạy tôi những ǵ? Không
nghĩ đến th́ thôi, chứ nghĩ đến th́
ấn tượng sâu đậm nhất là câu “Giới Luật rất trọng
yếu”.
Tôi nghĩ không ra; thật ra, tôi rất
coi nhẹ chuyện đó, rất xem thường, bị
Ngài nh́n thấy được, Ngài dùng câu đó đánh
thức tôi. Nếu Ngài không viên tịch, tôi chẳng
phản tỉnh, chẳng nhận biết được điều
ấy. Ngài khuất núi rồi, tôi mới phản tỉnh,
nhận biết điều ấy, tôi cho rằng nhất
định phải có đạo lư. Bởi thế mới
giở xem giới luật, nhờ đó, đột nhiên
hiểu ra. Trung Quốc nói đến Lễ, Nho Gia nói
đến Lễ, chính là pháp thế gian. Pháp thế gian
lễ nhạc của Tam Đại (ba vương triều)
khác nhau; Hạ, Thương, Châu không giống nhau. Qua
khắp các đời sau đó, lễ nhạc đều
phải đặt mới, phải cải cách, phải tu
chỉnh, đều đổi mới quy chế; giống
như luật pháp cận đại, ngay cả hiến
pháp của quốc gia, cứ bao nhiêu năm đó lại
phải tu chỉnh một lần; nếu không tu chỉnh
th́ sao? Không tu chỉnh sẽ không thích hợp với nhu
cầu của mọi người trong hiện thời;
bởi thế, pháp luật phải luôn tu chỉnh.
Chúng ta thành lập một tổ chức
nhỏ, tôi lập Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim
Hội ở Đài Bắc, chúng tôi có chương tŕnh và
nguyên tắc làm việc chi tiết. Đối với chương
tŕnh và nguyên tắc làm việc chi tiết, nhất là nguyên tắc
làm việc chi tiết, cứ mỗi nửa năm chúng tôi lại
phải kiểm thảo, tu chỉnh một lần; c̣n chương
tŕnh th́ mỗi năm phải kiểm thảo một
lần, tu chỉnh thường xuyên. Bởi thế,
chương tŕnh, nguyên tắc làm việc chi tiết
của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội rất
kiện toàn, v́ sao? Tu chỉnh hơn mười mấy
lần, rút kinh nghiệm khiến cho chúng rất hoàn
chỉnh. Những thứ này là pháp thế gian, v́ thế
phải tu chỉnh theo thời gian, theo địa
phương. Do nghĩ Phật pháp là pháp xuất thế
gian, chẳng phải pháp thế gian, từ đây tôi bèn nghĩ
thông suốt. Giới Luật là ranh giới phân chia giữa
pháp thế gian và xuất thế gian, nó chẳng phải là
pháp thế gian. Nếu quư vị muốn siêu việt
thế gian, muốn siêu việt luân hồi lục
đạo, siêu việt mười pháp giới th́ Giới Luật
rất hữu dụng.
Giới Luật là khuôn phép tu hành bao nhiêu
kiếp của chư Phật, Bồ Tát, là khuôn phép
để thoát khỏi luân hồi lục đạo, là khuôn
phép vượt khỏi mười pháp giới, chẳng
phải là khuôn phép để sống b́nh thường;
bởi thế, chẳng thể sửa đổi Giới
Luật được! Đặc biệt là Ngũ
Giới, quư vị nói Ngũ Giới có đổi
được hay không? Chẳng sát sanh, quư vị có thể
nói là sai hay không? Chẳng trộm cắp, tại gia
chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống
rượu, không thay đổi được! Có
đổi cũng không được. Mấy đại
giới mang tánh nguyên tắc ấy đúng thật là siêu
việt không gian, siêu việt thời gian, làm sao thay
đổi được? Pháp ấy là Thường,
đó là Thường.
“Pháp” (法) là pháp tắc, nay ta gọi là nguyên lư,
nguyên tắc. Bởi thế, trong pháp thế gian t́m
chẳng ra Thường và Pháp, chỉ riêng Phật pháp mới
có. Phật pháp vĩnh hằng, dù pháp thế gian biến
đổi thế nào, Phật pháp vẫn bất biến.
Đó là bốn chữ mọi vị giảng kinh
thường dùng để giảng ư nghĩa chữ Kinh.
Tiếp đó là câu: “
Đă giới thiệu tựa đề
Phật Thuyết A Di Đà Kinh cùng quư vị xong; dưới
đây là kinh văn, nay chúng ta xem kinh văn, đoạn
thứ nhất của kinh văn là từ đoạn:
6.2. Tự Phần
Như thị ngă văn:
Nhất thời Phật tại Xá Vệ
Quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên, dữ
đại tỳ-kheo tăng, thiên nhị bách ngũ
thập nhân câu, giai thị đại A La Hán, chúng sở tri
thức: Trưởng lăo Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục
Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly
Bà Đa, Châu Lỵ Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La
Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô
Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na,
Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà.
Như thị đẳng chư
đại đệ tử, tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát:
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật
Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát,
Thường Tinh Tấn Bồ Tát, dữ như thị đẳng
chư đại Bồ Tát, cập Thích Đề Hoàn Nhân
đẳng, vô lượng chư thiên đại chúng câu.
如是我聞。一時佛在舍衛國。祇樹給孤獨園。與大比丘僧。千二百五十人俱。皆是大阿羅漢。眾所知識。長老舍利弗。摩訶目犍連。摩訶迦葉。摩訶迦旃延。摩訶俱絺羅。離婆多。周利槃陀伽。難陀。阿難陀。羅睺羅。憍梵波提。賓頭盧頗羅墮。迦留陀夷。摩訶劫賓那。薄拘羅。阿[少/兔]樓馱。如是等諸大弟子。並諸菩薩摩訶薩。文殊師利法王子。阿逸多菩薩。乾陀訶提菩薩。常精進菩薩。與如是等諸大菩薩。及釋提桓因等。無量諸天大眾俱。
Cho đến
đoạn sau đây:
Nhĩ thời,
Phật cáo Trưởng Lăo Xá Lợi Phất:
- Tùng thị Tây
phương quá thập vạn ức Phật độ,
hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Kỳ độ hữu Phật,
hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp.
爾時佛告長老舍利弗。從是西方。過十萬億佛土。有世界名曰極樂。其土有佛。號阿彌陀。今現在說法。
Đối với đoạn kinh này,
Ngẫu Ích đại sư phán định từ đầu
cho đến đây là Tự Phần. Liên Tŕ, Ngẫu Ích, U
Khê mỗi vị phân đoạn khác nhau, mỗi vị có
cách hiểu riêng. Hôm nay tôi giới thiệu [kinh A Di Đà] cùng
quư vị bèn dùng những điều tôi đă giảng trong
Di Đà Yếu Giải Nghiên Tập Báo Cáo (Báo cáo những
điều nghiên cứu, học tập từ tác phẩm
Di Đà Yếu Giải) là tác phẩm giảng nghĩa tôi
đă soạn, thừa dịp này ôn tập cùng các
đồng học một lượt.
Trong đoạn này, tôi
đặt một tiêu đề nhỏ “kinh tự đích khải thị” (khải
thị về tựa đề kinh). Trong phần này,
trước hết là giải thích danh nghĩa, tức là
giải thích ư nghĩa của danh từ, thuật ngữ.
Chữ “như thị”
biểu thị ư nghĩa tín thuận, “ngă văn” biểu thị sư thừa (sự
truyền thừa từ thầy sang tṛ); “nhất thời” biểu thị cơ cảm
(căn cơ cảm ứng), “Phật”
là giáo chủ, “Xá Vệ quốc,
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên” là xứ sở.
Cả một đoạn từ “Xá
Lợi Phất” cho đến “chư thiên đại chúng câu” nói đến thính
chúng (những người đến nghe pháp). Đó là “lục chủng thành tựu”
(sáu món thành tựu) mở đầu kinh Phật, giống
như biên bản buổi họp trong hiện tại, ghi
lại thời gian, địa điểm, những
người tham dự, ai là chủ tịch, phần
đầu biên bản hội nghị luôn có những
khoản đó. Kinh Phật cũng vậy, để
thủ tín cùng đời sau kinh này chẳng phải là
ngụy tạo, mà thực sự là do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói.
6.2.1. Thông Tự
6.2.1.1. Giới thiệu khái lược
lục chủng thành tựu
Câu đầu tiên của kinh là “như thị ngă văn”; do
khi Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n tại thế, lăo nhân gia dạy
dỗ toàn là ngôn thuyết, chẳng dùng văn tự,
giống Khổng Tử của Trung Quốc. Sách của
Khổng Tử đúng là sau khi Khổng lăo phu tử đă
qua đời, học tṛ đem những lời thầy
thường răn dạy ghi lại, mọi người
cùng nhau biên tập thành. Một đời Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng kinh thuyết pháp, giảng rất
nhiều; sau khi Phật diệt độ, đồ
đệ đa văn bậc nhất, người học
tṛ có kư ức tốt nhất là tôn giả A Nan. Trong tất
cả đồng học, A Nan có trí nhớ tuyệt
hảo, nghe một lần ghi nhớ vĩnh viễn,
cũng là một thiên tài, không phải ai cũng có khả
năng như thế.
Lúc tôi c̣n đi học, năng lực ra
sao? Tôi cũng là một kẻ nghe nhiều nhớ dai. Tôi
nghe một lần có thể nhớ được chín
mươi lăm phần trăm, tôi có năng lực
đó; bởi thế, kêu tôi nhắc lại là chuyện
dễ dàng, chẳng khó khăn ǵ; nhưng tôi thua ngài A Nan rất
xa! Ngài A Nan một đời chẳng quên, tôi nhớ
nhiều lắm là được một tuần, chừng
một tuần sau quên mất quá nửa, một tháng sau
khỏi tính nữa. Hiệu quả nhất là trong ṿng
một tuần, đă gọi là “nhớ dai”. Là học tṛ
cũng có điều hay, hay ở chỗ nào? Đối phó
với chuyện thi cử khá dễ dàng; nhưng cũng có
chỗ tệ, tệ là chẳng đọc sách. Đối
phó với thi cử quá đơn giản, trước
giờ thi cho tôi mười phút, tôi ôn lại bài vở một
lượt, chắc chắn sẽ đạt, chắc
chắn như thế. V́ thế, tôi dùng tất cả
thời gian làm ǵ? Xem tiểu thuyết. Bởi thế, trong
bốn năm, tiểu thuyết Trung Quốc khoảng
chừng đâu một hai trăm bộ tôi đọc
sạch, tốc độ xem cũng nhanh, thực sự cũng
có thể nhớ lâu.
Tôn giả A Nan đảm trách
nhiệm vụ trùng tuyên. Tôi đă thưa cùng quư vị
rồi đó, nếu không lâu hơn một tuần, tôi có
thể nhắc lại những ǵ thầy đă giảng
không sai mấy. Tôi chẳng thêm thắt ư ḿnh, thầy
giảng thế nào, tôi nói như thế đó, trong ṿng
một tuần chẳng có vấn đề ǵ, tối
thiểu nhắc lại được chín mươi
lăm phần trăm, tôi có năng lực ấy. Ngoài ra,
tôi cũng có khả năng hiểu rất tốt, có
ngộ tánh, đó là điều kiện chẳng thể
thiếu để học kinh giáo. A Nan rất lợi
hại, quư vị thấy đức Phật thuyết pháp
bốn mươi chín năm, những ǵ giảng trong
bốn mươi chín năm trước Ngài nhớ
kỹ, thật phi thường, chẳng thể không
khiến người ta [bội phục] năm vóc sát
đất. Ngài lên đài nhắc lại, đem những
lời Phật đă giảng khi trước như thế
nào thành thực nói ra, chẳng thêm vào một câu. Tôi nghĩ
rất có khả năng bị thiếu mấy câu, sức
kư ức của Ngài rất mạnh!
[Những lời A Nan nói]
được các đồng học thẩm tra, chấp
nhận, thính chúng là ai? Năm trăm vị đại A La
Hán, đều là đệ tử của Thích Ca Mâu Ni
Phật. Họ đến nghe, nghe xem A Nan có nói sai hay không.
Nói không sai! Chỉ cần một cá nhân nêu nghi vấn là
đoạn đó bèn bị gạt bỏ. Năm trăm
vị, vị nào cũng đồng ư, chép xuống, tạo
thành kinh điển. Bởi thế, đầu kinh ghi “như thị ngă văn”.
“Như
thị” là lúc Thích Ca Mâu Ni
Phật tại thế đă nói như thế. “Ngă” (我) là tôn giả A Nan tự xưng, đích
thân tôi nghe đức Phật nói, chẳng
phải nghe qua người khác. Ở đây, chúng ta
phải hiểu, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật hai
mươi năm rồi A Nan mới xuất gia, A Nan sanh
đúng ngày Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo. A
Trong kinh điển có một câu
chuyện, quư vị phải hiểu rơ. Thích Ca Mâu Ni Phật
độ A Nan xuất gia, A Nan nêu điều kiện: Tôi
thích kinh giáo, những kinh nào Phật đă thuyết
trước kia, xin Ngài v́ tôi nhắc lại một
lượt. Thích Ca Mâu Ni Phật chấp thuận. Bởi
thế, kinh A Hàm, Phương Đẳng trong hai
mươi năm A Nan chưa từng nghe qua, Thích Ca Mâu Ni
Phật giảng lại một lượt. Nói cách khác, bốn
mươi chín năm dạy dỗ
của đức Thế Tôn, A Nan được nghe
rất hoàn chỉnh, khác nào chẳng thiếu một
buổi học nào. Bởi thế, tôn giả A Nan là
người truyền Phật pháp, chúng ta phải tin
tưởng.
Ngoài ra, c̣n có thuyết nói A Nan là bậc
đại quyền thị hiện đến giúp Thích Ca
Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, lẽ nào chẳng thông
đạt đạo lư! Điều này cũng hợp lư, đây
là nói theo mặt Lư, nói như trên là nói theo mặt Sự, Lư
- Sự đều thông suốt. Bởi thế, đức
Phật dạy A Nan mai sau kết tập kinh điển,
câu đầu tiên là “như
thị ngă văn, nhất thời Phật tại thậm
ma địa phương” (Chính tôi nghe như thế này:
Một thời đức Phật tại chỗ nào
đó), đoạn kinh này là do đức Phật dạy A
Nan nói như vậy.
Thăng ṭa giảng kinh được
Phật lực gia tŕ, A Nan lên ṭa trùng tuyên, người nghe
ở dưới thấy A Nan được Phật gia
tŕ, giống như đức Phật, bởi vậy có
kẻ hoài nghi: “Chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni trở
lại hay sao?” Có người nói: “Không phải đâu, A Nan
thành Phật rồi!” A
“Nhất
thời”: V́ sao chẳng chép
là năm, tháng, ngày, lại nói “nhất thời”
(một thời). “Nhất thời” là nói thật, nếu
ghi năm, tháng, ngày th́ năm, tháng, ngày là giả, v́ sao? Ấn
Độ thời ấy chưa thống nhất, năm
tháng mỗi quốc gia khác nhau. Việc ấy ở Trung
Quốc cũng có. Đến hiện tại, mọi
người trên thế giới đều dùng dương
lịch, chúng ta gọi là Công Nguyên. Hiện thời chánh phủ
Trung Quốc cũng dùng Công Nguyên, nhưng tại Đài Loan
dùng Dân Quốc, năm nay là năm Dân Quốc 92, Công Nguyên là
năm 2003, không giống nhau. Tại Nhật Bổn dùng niên
hiệu B́nh Thành (Heisei)[10],
lại khác nữa! Lịch pháp Hồi giáo[11]
của thế gian cũng khác. Như vậy, trên
địa cầu này cho đến hiện tại,
lịch pháp vẫn chưa thống nhất, quư vị
muốn ghi lại năm, tháng, ngày, giờ rất phiền
phức, chẳng dễ tra cứu!
Huống chi thời gian là khái niệm
trừu tượng, “nhất
thời” là đúng, thầy tṛ đạo hợp, cơ
duyên chín muồi th́ gọi là “nhất
thời”. Ư nghĩa chữ “nhất
thời” giống với ư nghĩa chữ Kinh trong
Khế Kinh, cơ cảm tương ứng, thời
tiết nhân duyên chín muồi, giảng đúng lúc đó
mới phát sanh hiệu quả.
A! Bây giờ đă đến giờ
rồi, chúng tôi giảng đến đây thôi!
Tập 05
Chúng ta xem tiếp đoạn thứ
nhất kinh A Di Đà, từ “như
thị ngă văn” đến “kim
hiện tại thuyết pháp”. Trong phần tiểu chú,
đoạn thứ nhất là giải thích danh nghĩa,
tức là giải thích danh từ, thuật ngữ.
“Như
thị ngă văn”, “như thị” là Tín Thành Tựu. “Ngă
văn” là Văn Thành Tựu, cũng là sư thừa. “Nhất thời” là Thời
Thành Tựu. Phật là Chủ Thành Tựu, đây là
người chủ giảng.
“Xá Vệ Quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên”
là Xứ Sở Thành Tựu, giảng tại địa
phương nào. “Xá Lợi Phất”,
toàn bộ đại chúng là Thính Chúng Thành Tựu. Giống
như cách thức ghi biên bản hội nghị,
dưới đây tôi sẽ tŕnh bày giản lược
từng điều cùng quư vị.
6.2.1.2. Giảng về Tín Thành
Tựu
Trước hết giải thích hai
chữ Như Thị. “Thật
tướng diệu lư, cổ kim bất biến” (Lư
mầu Thật Tướng, xưa nay chẳng đổi)
đó là Như. Trước hết, chúng tôi nói hai câu này.
Chúng ta thường gọi Thật Tướng là Chân
Tướng, Thật (實) là chân thật, Tướng (相) là hiện tượng; h́nh dáng chân
thật của hiện tượng vũ trụ là ǵ? Phàm
phu chúng ta không thấy được chân tướng
vũ trụ, chúng ta chỉ thấy được
huyễn tướng, giả tướng, tướng
thiên biến vạn hóa; chẳng thấy được
chân tướng. Giống như chúng ta trông thấy
biển cả ba đào trào dâng, bên bờ biển thấy
sóng trào bọt trắng xóa, chúng ta trông thấy những
tướng trạng đó, trông thấy con sóng, trông
thấy bọt sóng, chân tướng của chúng là ǵ? Chân
tướng là nước; chỉ biết thưởng
thức sóng vỗ tung bọt, chỉ thấy
được tướng ấy, quên mất nước
đi, tướng thực sự là nước.
Chúng ta trông thấy vũ trụ thiên
biến vạn hóa, không một giây, một
phút
nào ngừng nghỉ, kinh Phật gọi là “sanh diệt trong từng sát-na”. Như sóng trào trong
biển, sóng nhô lên là sanh, sóng ch́m xuống là diệt. Sóng
vỗ tung bọt là sanh, sau khi sóng tan, bọt sóng tiêu
mất là diệt. Trong vũ trụ, sự sanh diệt
biến hóa vĩnh hằng không ngừng, chúng ta b́nh
thường chỉ biết được tướng
biến hóa ấy, bản thể của sự biến hóa
là ǵ? Sóng và bọt sóng do nước biến ra, bản
thể của chúng là nước. Vũ trụ to lớn
như thế, thiên biến vạn hóa trong đó, bản
thể của nó là ǵ? Trong kinh Phật gọi bản
thể ấy là Thật Tướng.
“Thật Tướng
diệu lư, cổ kim bất biến”: Tất cả hết thảy hiện
tượng sanh diệt trong từng sát-na, thiên biến
vạn hóa, nhưng bản thể của sự biến
hiện ấy vĩnh viễn không biến đổi,
bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng
đi, chẳng thường, chẳng đoạn,
chẳng một, chẳng khác (bất sanh, bất diệt,
bất khứ, bất lai, bất thường, bất
đoạn, bất nhất, bất dị); Trung Quán
Luận gọi là tám cái “Bất”
(bát bất) để h́nh dung [đặc tánh của bản
thể]. Đó là bản thể của vũ trụ, là “bản
lai diện mục của chúng ta trước khi được
cha mẹ sanh ra”. Đức Phật cho nó một danh
xưng là Như, Như Như, Chân Như, Tự Tánh, Chân
Tâm, Lư Thể. Trong kinh điển, đức Phật nêu ra
mấy chục danh từ, không quan trọng ǵ cả. V́ sao đức
Phật nói nhiều danh từ như thế? Nhằm dụng
ư dạy chúng ta đừng chấp trước danh từ,
danh từ là pháp phương tiện, chẳng phải
thật; nhưng trong giáo học, dùng những danh từ này
khiến cho quư vị ngộ nhập chân thật. Chớ nên
chấp trước danh từ; nếu chấp vào một
danh từ, quư vị chẳng thể ngộ nhập chân
thật. V́ vậy, chớ nên chấp trước
tướng danh tự! Đức Phật nói nhiều danh
từ như thế, với dụng ư làm cho quư vị
biết “nói sao cũng đều đúng”, chỉ cần
chẳng nói về điều này th́ không sai! Ngàn vạn
phần chớ nên chấp trước danh từ.
Bộ kinh này là kinh A Di Đà. Mục
đích tu học của kinh A Di Đà là cầu sanh Tịnh
Độ, thân cận A Di Đà Phật, đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới tu hành, chúng tôi
phải nói theo cách thông thường là “đến học
tập”. Học tập trong thế gian này có chi không
tốt? Hoàn cảnh học tập trong thế gian này không
tốt, hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người
với nhau) càng chẳng tốt! Trong thế gian này không có
thầy tốt, không có đồng học tốt, thọ
mạng lại ngắn, thời gian quá ngắn, chẳng
đủ dùng! A Di Đà Phật sáng tạo cho chúng ta
một hoàn cảnh tu học hoàn bị nhất, chỉ
cần chúng ta muốn sang đó, chúng ta thực sự có
thể đến đó được.
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giới
thiệu cho chúng ta đến học tập trong hoàn
cảnh ấy, chư Phật Như Lai là thầy, các vị
thượng thiện nhân là đồng học,
đồng học đều là bậc thượng
thiện. Chữ “thượng
thiện” chỉ cho ai? Chỉ Đẳng Giác Bồ Tát.
Như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới là đồng học,
là trưởng tràng, là lớp trưởng của chúng ta.
Nơi đó là hoàn cảnh tu học hoàn bị nhất,
trong hoàn cảnh ấy quư vị chẳng khởi tham - sân -
si. V́ sao? Tất cả hết thảy,
bất luận vật chất hay tinh thần lẫn thọ
dụng đều được biến hóa ra. Nghĩ
đến thứ ǵ, thứ ấy hiện ra, chẳng có tâm
tham. Trong xă hội ấy đều là thiện nhân,
chẳng có người ác, không ai có ác niệm, không ai có ác
ư, không ai nói năng thô lỗ, dù có tâm sân khuể, quư vị
cũng chẳng thể do đâu phát khởi
được. Nói cách khác, quư vị chẳng có
điều kiện nổi nóng, thật chẳng thể
nghĩ bàn! Không dấy lên tâm sân khuể được, sáu
căn tiếp xúc hoàn toàn là Phật pháp, toàn là giáo huấn của
thánh hiền, nhất định quư vị chẳng ngu si.
Nói cách khác, chẳng cần phải đoạn sân si,
cũng chẳng cần phải quan tâm đến nó! Đến
ở lâu trong thế giới ấy, sẽ tự nhiên
đoạn được sân si sạch sành sanh, mục
đích là ở chỗ này.
“Y Thật
Tướng lư, niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, quyết định vô phi” (Nương theo lư Thật Tướng,
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ quyết
định chẳng sai), “vô
phi” là chẳng sai lầm, quyết định chẳng
lầm, tức là Thị (đúng). Lời giải thích
ấy căn cứ vào tông thú[12]
của kinh này, nêu thành điều thứ nhất.
Thuyết pháp như vậy, bất luận trong thời
điểm nào, bất luận chỗ nào, nơi này,
phương khác, thảy đều chính xác, đều
chẳng sai lầm; nói trong thế giới Hoa Tạng
cũng vẫn chính xác. V́ sao? Chúng ta thấy Văn Thù,
Phổ Hiền trong hội Hoa Nghiêm nơi thế giới
Hoa Tạng, dùng mười Ba La Mật, mười
đại nguyện vương khuyên lơn, hướng
dẫn bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ cầu sanh Tịnh Độ, thân cận
A Di Đà Phật. Quư vị hăy nghĩ xem: Đó cũng là
lư do tại sao hội Hoa Nghiêm nơi thế giới Hoa
Tạng cũng là “quyết
định chẳng sai”. Từ chỗ này quư vị
tự nhiên nhận hiểu pháp môn này thù thắng chẳng
thể nghĩ bàn!
Hiện tại chúng ta cùng học tập
kinh Hoa Nghiêm, mục đích học tập kinh Hoa Nghiêm là ǵ?
Nhằm triệt để hiểu rơ pháp môn Tịnh
Độ. Kinh Hoa Nghiêm giảng thật tường
tận, giảng cho thật nhiều, giảng thật rơ
ràng, th́ không có ǵ khác ngoài nhằm làm cho chúng ta tin sâu
chẳng ngờ, hạ quyết tâm niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Nếu quư vị học kinh A Di
Đà, học kinh Vô Lượng Thọ mà bán tín bán nghi,
chẳng thể giải quyết vấn đề, hăy
học kinh Hoa Nghiêm. Huân tu kinh Hoa Nghiêm trong một thời
gian dài, sẽ trừ được gốc nghi,
đều thấy rơ, đều minh bạch hết. Kinh A
Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ là cương yếu
của Tịnh tông, nắm được cương lănh
th́ công phu tu học đắc lực, nguyện vọng
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có
thể trở thành sự thật.
Tiếp đó, có một cách giải thích
khác, xin mọi người hăy đọc: “Hựu vạn pháp câu tịch, nhất tâm bất
loạn vi Như, thị tâm thị Phật, thị tâm tác
Phật, vi Thị” (Lại nữa, muôn pháp đều
tịch, nhất tâm bất loạn là Như; tâm này là
Phật, tâm này làm Phật, đó là Thị). Đây cũng
là căn cứ vào chỉ thú của Tịnh tông mà nói,
nhưng trên phạm vi lớn hơn. Đạo lư “vạn pháp câu tịch”
rất sâu. Chúng ta thấy vạn pháp đều
động, sanh diệt trong từng sát-na, đều là
động. Vạn pháp đều động, chẳng Như;
Như là nói về Thể. Cái chúng ta thấy là tướng,
vướng mắc vào tướng. Tướng là
động, tác dụng là động, Thể bất
động. Giống như trong biển cả, chúng ta
thấy có sóng ṃi, bọt sóng sanh ra, tan mất là
động, tùy thuộc hướng gió, tùy thuộc phương
hướng của ḍng chảy[13] mà
di động không ngừng, đó là tác dụng của nó.
Nổi lên, ch́m xuống là tướng, lưu động
là tác dụng của nó; nhưng quư vị phải hiểu Thể
của nó không động, Thể là Như.
Nhất tâm bất loạn, nhất tâm,
tâm bất động; nhị tâm, nhị tâm là động.
Nhị tâm là trong tâm quư vị có vọng tưởng.
Sở dĩ gọi “tưởng” là “vọng tưởng”
là nhằm bảo cho quư vị biết nó chẳng thật.
Chân tâm là ǵ? Trong chân tâm chẳng có ư niệm, chân tâm ĺa
niệm, chân tâm vô niệm, đấy là điều kinh
Đại Thừa thường giảng. Hữu niệm th́
chẳng phải là chân tâm, vô niệm là chân tâm. Ở đây
lại phải hiểu rơ, vô niệm không phải là không
nghĩ ǵ, chẳng phải là cái ǵ ta cũng chẳng thèm
nghĩ đến, nếu ngỡ như vậy là vô
niệm th́ đă sai mất rồi! Đây đúng là “sai
chỉ hào ly, lầm lạc ngàn dặm”. V́ sao? Quư vị
tưởng “không nghĩ” ǵ là vô niệm th́ quư vị thực
sự tu thành công Vô Tưởng Định, quả báo trong
tương lai là [sanh lên] trời Vô Tưởng thuộc
Tứ Thiền Thiên, chẳng thể giải quyết
vấn đề, lầm lạc rồi!
Không nghĩ ǵ cũng chẳng dễ, cũng
phải có mức Thiền Định kha khá! Quư vị
thấy đó, phải là Tứ Thiền! V́ sao sanh trong
trời Vô Tưởng của Tứ Thiền Thiên chẳng
thể giải quyết vấn đề? Kẻ ấy
đọa trong vô minh, vô minh vẫn là Tưởng.
Chẳng tưởng động th́ tưởng tịnh,
tưởng cái bất động, kẻ ấy vẫn suy
tưởng [ư niệm] “vô tưởng”. Chẳng nghĩ
đến hữu tưởng sẽ nghĩ đến vô
tưởng, biến thành Vô Tưởng Định. Vô
niệm khác hẳn, phải hiểu cho rơ! Vô niệm không phải
là vô tưởng (không nghĩ tưởng ǵ), vô niệm là
không có vọng niệm; trong pháp Đại Thừa gọi “không
có vọng niệm” là “có chánh niệm”. Nếu trong tâm
vẫn phân biệt là “có chánh niệm” th́ là vẫn chấp
trước vào “có chánh niệm”, chánh niệm ấy lại
biến thành vọng niệm, điều này rất khó
hiểu!
Rốt cuộc, thế nào mới là chánh
niệm, thế nào mới là vô niệm? Trong kinh Phật có
một nguyên tắc chung: “Ĺa hết thảy vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước th́ gọi là
Vô Niệm”. Thấu hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch hết
thảy sự - lư, nhân - quả, tánh -tướng trong
vũ trụ th́ gọi là “chánh niệm”. Bởi vậy,
trong chánh niệm có trí huệ, có đức năng, có
tướng hảo, sống động, hoạt bát! Trong
ấy, nhất định chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, khác hẳn
với Vô Tưởng Định, chẳng giống
với Thiên Chân Niết Bàn[14]
của Tiểu Thừa. Vô Tưởng Định, Thiên
Chân Niết Bàn vô ích, có Thể nhưng không có Dụng; nói
thật ra, chính ḿnh chẳng đạt được
lợi ích viên măn, mà cũng chẳng thể làm lợi cho
chúng sanh được.
Trong hội Lăng Nghiêm, chúng ta thấy
Thích Ca Mâu Ni Phật quở trách người Tiểu
Thừa, khen ngợi Bồ Tát. Bồ Tát có Thể và
Dụng, Tiểu Thừa có Thể nhưng không khởi tác
dụng. V́ thế phải hiểu “vạn pháp đều tịch”, tướng của
vạn pháp là ở đâu? Tướng ấy ở ngay
trước mắt, nhưng nó chẳng sanh, chẳng
diệt, trọn khắp hư không pháp giới, sao chúng ta
không thấy? Trong hội Hoa Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă rất cảm thán nói: “Nhất
thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí huệ đức
tướng” (Hết thảy chúng sanh đều có trí
huệ và đức tướng của Như Lai), ngay
cả hiện tại, chưa bao giờ mất; điều
hết sức đáng tiếc là “đản
dĩ vọng tưởng, chấp trước, bất năng
chứng đắc” (chỉ v́ vọng tưởng,
chấp trước, chẳng thể chứng đắc). “Như thị” vốn có sẵn
nơi thân chúng ta, mỗi ngày từ sáng đến tối
chúng ta luôn dùng nó mà không biết. Là thứ ǵ trên thân ta
vậy? Chính là căn tánh của sáu căn; phải thưa
rơ cùng quư vị, căn tánh của sáu căn! Căn tánh
nơi sáu căn là “diệu lư
Thật Tướng”, là tướng tịch diệt,
tịch diệt thanh tịnh, là chân tâm, là bổn tánh không
hai, không khác với chư Phật Như Lai.
Nếu lại cùng quư vị luận định
sâu hơn th́ ngay nơi nhục thể chúng ta, các khoa
học gia hiện tại đă thấy và hiểu rất
rơ: Thân thể chúng ta đây do ǵ tạo thành? Do tế bào
tạo thành; tế bào do ǵ tạo thành? Do nguyên tử
tạo thành; nguyên tử do ǵ tạo thành? Do lạp tử
tạo thành. Kinh Hoa Nghiêm nói mỗi một lạp tử
ấy đều đầy đủ rất trọn
vẹn pháp tánh. Pháp tánh là Chân Như. Chân Như ở
tại đâu? Chân Như không chỗ nào chẳng tồn
tại. Trong mỗi một lạp tử đều có,
mỗi một nguyên tử đều có, trong mỗi tế
bào trên thân thể chúng ta đều có, rất đáng
tiếc là quư vị đang mê, chẳng giác ngộ.
Nếu quư vị thực sự giác
ngộ th́ mới hiểu “vạn
pháp đều tịch”! Chúng ta chẳng thấy thanh
tịnh tịch diệt, mà thấy những ǵ? Thấy vô
lượng vô biên tướng sanh diệt, tướng
biến hóa. Chuyện này là như thế nào? Chỉ
thấy tướng, không thấy tánh! Các vị Phật,
Bồ Tát, những người chân chánh tu hành giác ngộ thấy
được tánh, thấu hiểu tướng, hiểu
rất rơ hiện tượng, thấy được tánh,
thấy trong tướng sanh diệt có tánh không sanh
diệt. Đấy mới là hiểu rơ ràng, minh bạch
chân tướng sự thật. Như thị, nguyên lai
như thị (như thế đó, vốn là như thế
đó). Nhất tâm bất loạn cũng tức là nói “không
có vọng tưởng”. Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước thảy đều đoạn hết
th́ gọi là Như.
Tịnh Tông chẳng phải là tu hành mê
tín, chẳng khác ǵ lắm với Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Pháp
Tướng, Tam Luận, Tông Môn, Giáo Hạ. Trong kinh Kim Cang,
đức Phật nói: “Pháp môn
b́nh đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp môn b́nh
đẳng, chẳng có cao thấp). Tịnh Tông chẳng
nằm ngoài các pháp môn, so với hết thảy pháp môn khác,
nó thực sự b́nh đẳng, chẳng có cao - thấp.
V́ sao? Chỗ y cứ đều là Chân Như, đều là
Thật Tướng. “Thị tâm
thị Phật, thị tâm tác Phật” (tâm này là Phật,
tâm này làm Phật), ấy là Thị! Một mảy chẳng
sai! Tâm này là đức Phật vốn sẵn có, vốn
sẵn là như vậy, tâm chính là Phật, Phật chính là
tâm; tâm là Chân Như, Chân Như là tâm. Nay quư vị lại
phát tâm muốn làm Phật, quư vị nghĩ coi ḿnh có
thể làm Phật được hay chăng? Trong kinh
Đại Thừa, Thích Ca Mâu Ni Phật thường nói: “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng
sanh” (Hết thảy pháp đều từ tâm
tưởng sanh), hằng ngày nghĩ làm Phật,
đương nhiên sẽ làm Phật. Hiện tại v́ sao
bệnh truyền nhiễm SARS dữ dội đến
thế? V́ sao nó lây lan rộng dường ấy? Chẳng
có ǵ khác ngoài chuyện quư vị hằng ngày nghĩ
đến SARS, SARS bèn xảy đến, chuyện là như
vậy đó! Quư vị không nghĩ đến nó, dần
dần nó không c̣n nữa. Hết thảy pháp từ tâm
tưởng sanh, sao quư vị không nghĩ đến
điều tốt, chẳng nghĩ đến điều
lành?
Sáng sớm hôm nay, bên Mỹ gọi
điện thoại cho tôi, không ít người thấy tôi
trước đây trên TV có mấy lần giảng về
bệnh SARS, nay họ biên tập lại, phát lên đài
truyền h́nh vệ tinh. Tôi đặc biệt bảo
mọi người: Chúng ta phải tin tưởng lời
Phật, “nhất thiết pháp
tùng tâm tưởng sanh” (hết thảy pháp từ tâm
tưởng mà sanh), chẳng cần phải quan tâm
đến nó, chẳng cần phải nghĩ đến nó;
mà nghĩ đến điều ǵ? Chân thành, thanh tịnh.
Chân thành thanh tịnh nhất định sẽ chẳng
bị nhiễm hết thảy virus, chẳng bị lây
nhiễm. Trong tâm, trong tư tưởng quư vị chẳng
có độc, làm sao bị nhiễm độc cho
được? Chẳng tương ứng mà! B́nh
đẳng từ bi hóa giải virus, hóa giải
được chất độc của vi khuẩn SARS, có
thể hóa giải hết. Hai câu này hết sức trọng
yếu; chỉ cần chúng ta thực sự tu hành “chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi”, ôn dịch
bị hóa giải rất nhanh, không c̣n nữa. Thiên tai nhân
họa do đâu mà có? Từ vọng tưởng khởi,
từ tham - sân - si khởi, đó mới là cội gốc. Bởi
thế, chúng ta hằng ngày tưởng Phật, hằng ngày
niệm Phật, hằng ngày thấy Phật, nh́n
tượng Phật, hằng ngày đọc kinh Phật,
lẽ đâu chẳng thành Phật? Đó gọi là Thị.
Đến đây là giảng xong chữ Như Thị. Tiếp
theo đây, chúng ta lại xem tiếp chữ Nhất
Thời.
6.2.1.3. Giảng về Thời
Thành Tựu:
“Tế
ngộ lương thời, sư tư đạo hợp” (gặp đúng dịp tốt, thầy
tṛ đạo hợp), đó là “nhất
thời”. Bởi thế, chẳng ghi chép năm, tháng,
ngày đức Phật giảng kinh, dụng ư rất hay!
Chẳng ghi chép năm tháng ngày giờ lại có ư nghĩa
rất sâu: Khiến cho chúng ta ĺa khỏi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, bởi
lẽ thời gian và không gian phát sanh từ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chẳng
phải là sự thật. Trong Pháp Tướng Duy Thức
Học, không gian và thời gian bị xếp vào “bất tương ưng hành
pháp”. V́ sao gọi là bất tương ưng hành pháp?
Nói theo cách bây giờ, chúng thuộc về khái niệm
trừu tượng, chẳng phải là sự thật.
Bởi thế, nhà Phật dùng danh từ “bất
tương ưng hành pháp”, người hiện thời
gọi là “khái niệm trừu tượng”, chẳng có
sự thật. Chữ “nhất
thời” hay lắm!
“Tế
ngộ lương thời”
(gặp nhằm dịp tốt), nay ta gọi “tế ngộ” là cơ
hội, điều kiện đầy đủ, nhằm
vào lúc ấy “sư tư
đạo hợp” (thầy tṛ đạo hợp),
thầy gặp được tṛ ngoan, tṛ ngoan gặp
được thầy giỏi, tṛ vui thích học, thầy
vui vẻ dạy, gặp nhằm lúc đó là “nhất thời”. Thầy dù
có hay nhưng chẳng gặp được tṛ tốt th́ cũng
uổng công; dù tṛ có tốt chẳng gặp được
thầy giỏi, t́nh h́nh ấy rất nhiều. Bởi
thế, Thiện Đạo đại sư nói mấy câu
khiến chúng tôi càng nghĩ càng bội phục, lăo nhân gia
nói “tổng tại ngộ duyên
bất đồng” (nói chung là gặp duyên khác nhau). Duyên quan trọng nhất là nhân
sự (quan hệ giữa người với người);
chúng ta có thể thành tựu hay không? Cá nhân tu hành có thể
thành tựu hay không? Đối với xă hội,
đối với đại chúng có thể cống
hiến hay không? Đều là do gặp duyên khác nhau! Quan
trọng nhất là chí đồng đạo hợp.
Trong Phật pháp nói đến Lục Ḥa
Kính, điều thứ nhất là Kiến Ḥa Đồng
Giải, tức là cách nghĩ và cách nh́n của mọi
người nhất trí. Kiến lập sự nhất trí
bằng cách nào? Nhất trí là buông bỏ cách nghĩ và cách
nh́n của riêng ḿnh. Ta là phàm phu, đầu tiên phải
thừa nhận, phải khẳng định điều
đó. Ta là phàm phu, ta chưa giác ngộ, ta vẫn đang
mê. Đă chưa giác ngộ th́ cách nghĩ, cách nh́n của ta
không chính xác. Mọi người
chúng ta đều là phàm phu, hăy buông bỏ thành kiến
của chính ḿnh, tạm thời bỏ cách nghĩ, cách nh́n
của ḿnh sang một bên, chúng ta nghe lời Phật, chúng ta
tiếp nhận lời Phật dạy răn, học theo
cách nghĩ và cách nh́n của Phật, làm theo cách Phật làm,
đó gọi là “học
Phật”. Có giữ được cách nghĩ, cách nh́n,
cách làm của Phật hay không, điều này cần
phải có tín tâm. Tín tâm do đâu mà có? Chấp nhận
Phật là bậc giác ngộ, Phật là bậc minh tâm
kiến tánh, tư tưởng, hành vi của Phật
lưu lộ từ tánh đức trong tự tánh. Đến
khi chúng ta chứng đắc Phật quả rồi
(chứng đắc Phật quả là minh tâm kiến tánh,
là thực sự đạt được Như Thị),
th́ cách nghĩ, cách nh́n, cách làm của chúng ta hoàn toàn
giống với chư Phật Như Lai, Phật Phật
đạo đồng.
V́ sao? V́ thấy tánh rồi, tư
tưởng, kiến giải, ngôn hạnh của quư vị
toàn bộ đều từ tự tánh lưu lộ ra. Chưa
kiến tánh th́ chúng lưu lộ từ phiền năo tập
khí; bởi thế, chúng dính mắc tự tư, tự
lợi, dính mắc tham - sân - si - mạn. Chư Phật,
Bồ Tát, Pháp Thân Bồ Tát chắc chắn không tự
tư tự lợi, nhất định chẳng có tham -
sân - si - mạn, như vậy là rất hợp lư. Do vậy,
chúng ta phải tự phản tỉnh xem chúng ta c̣n có tự
tư tự lợi hay chăng? Chúng ta c̣n có tham - sân - si -
mạn hay chăng? Vẫn c̣n một chút. C̣n một chút là
trật rồi, c̣n một mảy may là trật rồi, quư
vị chưa giác ngộ, chưa kiến tánh; phải
đoạn cho đến một mảy cũng chẳng
c̣n, đó là Kiến Tánh. Chúng ta vẫn c̣n có tư tâm, [tức
là] vẫn c̣n có yêu - ghét, yêu thích cái này, chán ghét cái kia, trật
rồi! Ai ưa thích? Ta yêu thích. Ai chán ghét? Ta chán ghét. Quư
vị vẫn c̣n có cái Ta (Ngă). Hễ có Ngă là có tự tư
tự lợi.
Trong kinh luận Duy Thức Học thường
nói “bốn đại phiền năo thường theo sát”,
điều này chẳng cần phải học, mà là tập
khí trong đời đời kiếp kiếp từ vô
lượng kiếp đến nay. Đầu tiên là Ngă
Kiến, đây là gốc! Ngă Kiến là chấp
trước nghiêm trọng, chấp trước thân này là
Ngă, chấp trước cái có khả năng tư duy
tưởng tượng này nọ là Ngă, đó là Ngă
Kiến. Hễ có Ngă Kiến, chắc chắn sẽ
chấp trước Ngă Ái, có Ngă Si, có Ngă Mạn, bốn
đại phiền năo, đó là phàm phu! Người thực
sự giác ngộ sẽ chuyển Mạt Na Thức thành
B́nh Đẳng Tánh Trí, bốn thứ phiền năo trên đây
không c̣n nữa. Bởi thế, phải thường tự
nghĩ ḿnh là hạng người ǵ? Là phàm phu, chẳng
phải là Phật, chẳng phải là Bồ Tát!
Đă là phàm phu, thực sự biết
ḿnh là phàm phu, hăy buông bỏ thành kiến của chính ḿnh,
buông bỏ cách nghĩ, cách nh́n, cách làm, cách nói của chính
ḿnh, buông bỏ hết! Tùy thuận đức Phật
dạy răn, đó là hạng người thông minh bậc
nhất, người như vậy gọi là “chân chánh
học Phật”. Người ấy thực sự tu hành,
chẳng cần phải mất ba
đại A-tăng-kỳ kiếp mà có thể thành công trong
một đời. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp là
nói với ai? Nói với hạng người bán tín bán
nghi. Quư vị nói họ chẳng tu ư? Họ tu hằng
ngày, quư vị nói họ thực sự tu ư? Chẳng
thấy! Họ chưa quên được ḿnh. Lúc cảnh
giới hiện tiền vẫn là vọng tưởng,
tập khí làm chủ, hạng người như vậy
muốn thành tựu phải mất ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, phải mất vô lượng kiếp. Thực
sự buông phiền năo, tập khí xuống được,
hoàn toàn nghe theo lời Như Lai giáo huấn; câu cuối cùng
của kinh này là “y giáo phụng
hành”, thực sự y giáo phụng hành sẽ nhanh
lắm! Nhất là đối với pháp môn này là pháp môn thành
Phật ngay trong một đời. “Nhất thời”: Có thể thành tựu
được trong một thời.
6.2.1.4 Giảng về Chủ
Thành Tựu
Câu thứ tư là Chủ Thành Tựu “Phật”. Phật là dịch
âm tiếng Phạn “Phật
Đà Da”, người Hoa thích đơn giản,
lược bớt những âm cuối, chỉ gọi gọn
là Phật. Phật có nghĩa là “tự
giác, giác tha, giác hạnh viên măn, đại sư của
trời người, gọi là Phật”. Chữ Phật
này gồm rất nhiều ư nghĩa, bản thể của
nó là trí huệ, có ba thứ trí: Nhất Thiết Trí,
Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí. Trí
khởi tác dụng là giác, tự ḿnh giác; sau khi tự giác,
phải giúp người khác giác ngộ. V́ sao? Tự và Tha
là một, chẳng phải hai. Phải hiểu đạo
lư này, phải hiểu rơ chân tướng sự thật,
phải thấu suốt. Giác hạnh viên măn là trí huệ,
giác ngộ đến mức viên măn, vạn sự vạn
pháp trong vũ trụ nhân gian không ǵ chẳng hiểu rơ.
Rất nhiều tôn giáo ca ngợi thần, ca ngợi
Thượng Đế là “toàn tri, toàn năng”; giác hạnh
viên măn là toàn tri toàn năng, không ǵ chẳng biết, không ǵ
chẳng giác, không ǵ chẳng thể, đến lúc ấy,
ta gọi người ấy là Phật. Phật là tiếng
Phạn, “nhân thiên đại
sư”: Thầy
dạy tốt của nhân gian lẫn cơi trời. “Đại sư” là tiếng
tôn xưng tối cực, tôn xưng đến cùng cực,
“đại sư” là
Phật.
Nay có không ít người tự xưng là
Đại Sư, thời cổ không có việc này. Quư
vị thấy những vị pháp sư dịch kinh
thời xưa, đạo đức, học vấn, tu dưỡng
đều đạt đến mức độ cao,
nhưng họ khiêm hư. Chúng ta thường thấy trong
phần ghi tên người phiên dịch đề là Tam
Tạng Pháp Sư; khiêm tốn hơn một chút là Sa Môn,
chẳng dám xưng là Pháp Sư. Thông đạt Kinh -
Luật - Luận xưng là Tam Tạng Pháp Sư, chỉ
thông đạt một loại trong Kinh - Luật - Luận,
không dám xưng là Tam Tạng Pháp Sư. Thông đạt Giới
Luật xưng là Luật Sư, thông đạt luận
điển xưng là Luận Sư, thông đạt kinh giáo
thường xưng là Pháp Sư, chẳng dám thêm chữ Tam
Tạng. Tam Tạng Pháp Sư thông suốt hết thảy. Chẳng
ai dám xưng là Đại Sư cả! Đại Sư là
Phật. Các đồng học chúng ta phải nhớ
kỹ điều này, ngàn vạn phần trong tương
lai chẳng được tự xưng là Đại
Sư! Quư vị xưng là Đại Sư là quá kiêu
mạn, quá vượt phận. Người khác gọi quư
vị là Đại Sư th́ phải giảng rơ cho họ
hiểu minh bạch chẳng được xưng hô
như vậy. Xưng “đại pháp sư” vẫn là
miễn cưỡng, chữ Đại ấy là tôn
xưng, xưng là Đại Pháp Sư, chẳng thể
xưng là Đại Sư, phải hiểu nhé!
Giống như trong thế gian, danh
xưng chẳng được dùng loạn xạ. Đại
Sư là Phật, kẻ kia chưa phải là Phật mà
xưng Đại Sư là đă vượt phận
rồi. Ví như quư vị chẳng phải là Tổng
Thống, quư vị bảo mọi người “ta là
Tổng Thống”, người ta đều gọi quư
vị là Tổng Thống, thành ra thứ ǵ? Người
thế gian làm như vậy là phạm pháp! Trong Phật pháp
có phạm pháp hay chăng? Phạm pháp chứ! Pháp thế
gian chẳng xử phạt quư vị th́ thần hộ pháp sẽ
ra tay, quư vị vượt phận quá đáng rồi!
Nhưng rất nhiều bậc tổ sư, đại
đức sau khi đă viên tịch rồi, người
đời sau gọi các Ngài là Đại Sư nhằm
đặc biệt tỏ ḷng lễ kính các Ngài, vậy là
đúng. Các vị chẳng biết đến, người
đời sau tôn kính, như vậy là đúng.
Thế nhưng có một ngoại
lệ, tổ sư Tịnh Độ Tông nhất loạt được
gọi là Đại Sư, nhưng gọi là Đại
Sư cũng chẳng phải lúc họ đang c̣n sống,
mà đều là sau khi đă văng sanh, người đời
sau tôn xưng. Bởi lẽ, những vị Tổ Sư
ấy cũng là do người đời sau tôn trọng [mà
tôn làm tổ sư], chứ Tịnh Độ Tông không có
truyền thừa, chẳng phải do đời này truyền
cho đời kia. Các tông các phái khác đều là từ đời
này truyền sang đời kia, Tịnh Độ Tông không
như vậy, Tịnh Độ Tông không có! Do đâu có
Tổ Sư Tịnh Độ Tông? Do người
đời sau tuyển chọn, giống như tuyển
cử dân chủ vậy. Cá nhân ấy tu hành đạt thành
tựu trong Tịnh tông, đối với Tịnh tông có
cống hiến rất lớn, người đời sau
bèn xưng vị ấy là Tổ Sư, chẳng phải
chính vị ấy xưng là Tổ Sư. V́ thế, tổ
sư Tịnh Độ Tông là tuyển chọn dân chủ,
nhưng được xưng là Đại Sư chẳng
nhằm lúc họ đang c̣n sống.
Quư vị biết lúc Ấn Quang
đại sư c̣n tại thế, đều xưng là “pháp
sư Ấn Quang”. Quư vị thấy bản Văn Sao
đầu tiên, lúc lăo nhân gia c̣n tại thế, mang tựa
đề Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, không xưng là
đại sư. Sau khi lăo nhân gia đă văng sanh, người
đời sau gọi tác phẩm ấy là Ấn Quang
Đại Sư Văn Sao th́ được! Lúc Ngài c̣n
tại thế, chẳng thể xưng như vậy. “Nhân thiên đại sư”,
Phật xưng như vậy th́ được, Bồ Tát
đều chẳng được. Bồ Tát xưng là
Đại Sĩ, xưng là Khai Sĩ, xưng là Chánh Sĩ,
chẳng thể xưng Đại Sư. Đó là kiến
thức thông thường, chúng ta phải hiểu. A! Bây
giờ đă hết giờ rồi!
*
6.2.1.5. Giảng về Xứ
Thành Tựu
Xin hăy xem tiếp phần sau:
Tại Xá Vệ Quốc, Kỳ Thọ
Cấp Cô Độc viên.
在舍衛國,祇樹給孤獨園。
(Trong nước Xá Vệ, vườn của ông Cấp
Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà).
Xá Vệ (Srāvastī) là dịch âm
tiếng Phạn, dịch nghĩa là Văn Vật, “thử vân Văn Vật”
(ở đây kêu là Văn Vật). Văn Vật có hai
nghĩa:
1) “Văn”
ngụ ư ở nơi ấy có rất nhiều người
đa văn, nói theo cách bây giờ là có rất nhiều người
thấy nhiều biết rộng, có học vấn, có
đạo đức, có kiến thức. Nói cách khác, nói
như cách chúng ta hiện thường nói, khu vực ấy
tŕnh độ văn hóa rất cao. Chữ “Văn” biểu thị ư nghĩa này.
2) “Vật”
là sản vật phong phú.
Nói như bây giờ th́ Vật là văn
minh vật chất, Văn là văn minh tinh thần,
đều thù thắng phi thường. Đó là địa
phương tốt, rất khó có được.
Xá Vệ vốn là danh xưng của
một thành thị, thành thị ấy rất nổi danh,
nên dùng tên thành thị ấy để đặt tên cho
quốc gia. Giống như trong xă hội hiện tại,
chúng ta lấy Bắc Kinh đại diện cho Trung
Quốc, lấy
Kỳ Đà cũng là tiếng Phạn,
Tu Đạt Đa cũng là tiếng Phạn; đó là tên
của hai người. Kỳ Đà (Jeta) là tiếng Phạn,
Tu Đạt Đa (Sudatta) cũng là tiếng Phạn, đây
là tên của hai người. Kỳ Đà là thái tử, Tu Đạt
Đa là đại thần, trưởng giả. Hai
người này bố thí một khu đất, dâng cho
Phật kiến lập đạo tràng tại đó để
giáo hóa chúng sanh. Câu chuyện này không cần giảng, trong
Kinh Luật Dị Tướng có ghi, trong Pháp Uyển Châu
Lâm cũng có, rất nhiều chú giải kinh A Di Đà
của các vị pháp sư cũng giảng rất
tường tận, ở đây chúng tôi lược đi
không nói.
Tu Đạt Đa dùng vàng ṛng trải
đất để mua hoa viên của thái tử Kỳ
Đà, thái tử Kỳ Đà thấy ông ta làm như
vậy, bị cảm động. Chàng hỏi: “Thích Ca Mâu
Ni Phật là hạng người nào mà ông tôn trọng
đến thế? Hy sinh lớn lao như vậy?”
Vườn hoa của Thái Tử đẹp vô cùng, Tu
Đạt Đa đ̣i mua lại, Thái Tử cười
giỡn: “Nhà ông giàu có, vàng ṛng rất nhiều, ông đem
vàng ṛng trải kín chỗ này, tôi sẽ bán cho ông!” Tu
Đạt Đa làm thật, Kỳ Đà cảm
động nói: “Hai người ḿnh chung sức, chúng ta cùng
cúng Phật”. Tu Đạt Đa không chịu, nói: “Công
đức là một ḿnh tôi làm”.
- Tốt lắm! Vậy cũng tốt!
Đất này ông trải vàng ṛng, tôi bán đất cho ông;
hoa cỏ trong vườn này là của tôi, ông không có cách nào
dát vàng được. Tốt! Đất bán cho ông, tôi phá
sạch toàn bộ hoa cỏ cây cối đi!
Tu Đạt Đa hết cách: “Tốt!
Tốt! Hai người hợp tác”. Bởi thế gọi
là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên (Jetavane
Anāthapindikassa Ārāma, vườn của
ông Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà).
“Cấp Cô
Độc” (Anathapindika)
là Tu Đạt Đa. Người đương thời
trong thành thị đó tặng cho ông ta danh xưng ấy,
bởi ông thường bố thí người cô
độc, già cả; nói như bây giờ, trưởng
giả Tu Đạt Đa rất thích làm công tác từ
thiện xă hội, giúp đỡ người cô khổ và
người già cả. Kẻ không nơi nương dựa
ông đều chiếu cố, bởi thế
được tặng danh hiệu Cấp Cô Độc. Đạo
tràng ấy gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên
v́ Kỳ Đà là thái tử, đặt tên chàng ta lên
trước. Câu chuyện “hoàng
kim bố địa” (vàng ṛng phủ đất) chỉ
có vậy mà thôi!
Hai người bọn họ cúng
dường nơi ấy để Phật giáo hóa chúng
sanh, Thích Ca Mâu Ni Phật có tiếp nhận hay chăng? Đức
Phật hoan hỷ tiếp nhận. Nhưng ở đây,
chúng ta phải quan sát tỉ mỉ cho rơ, đức
Phật tiếp nhận sự cúng dường của họ
là tiếp nhận quyền sử dụng, chứ nhất
định không tiếp nhận quyền sở hữu.
Nếu nói vườn hoa này của tôi cúng dường Thích
Ca Mâu Ni Phật, quyền sở hữu đều giao cho
Thích Ca Mâu Ni Phật, th́ Thích Ca Mâu Ni Phật xuất gia, bây
giờ lại có một cái nhà, chẳng phải là “hồi gia” (trở về nhà)
ư? Quư vị nghĩ có phải đúng như vậy hay chăng?
Cả một đời Thích Ca Mâu Ni Phật tiếp
nhận quốc vương, đại thần, cư
sĩ, trưởng giả cúng dường, thảy
đều là quyền sử dụng, quyết định chẳng
có quyền sở hữu, nhất định phải hiểu
điều này! Tâm địa vĩnh viễn thanh tịnh, chắc
chắn không khởi tâm tham, nhất định chẳng có
phân biệt, chấp trước. Hành vi của lăo nhân gia
làm gương cho những người đời sau như
chúng ta. Chúng ta phải nhớ rơ, nếu coi quyền sở
hữu tài sản là của chúng ta th́ trật rồi, quư
vị hồi gia mất rồi!
Người chân chánh tu đạo
chẳng hề tham luyến mảy may ǵ trong thế gian
này. Bởi thế, nay chúng ta kiến lập đạo
tràng, nhất định phải thành lập một nhóm đại
biểu về mặt pháp lư. Tài sản ấy chẳng
thuộc quyền tư hữu của một cá nhân nào
cả, những người ấy hợp thành Đổng
Sự Hội (hội đồng quản trị).
Đổng Sự Hội có thể thỉnh người
tại gia hay xuất gia đảm nhiệm, người
ấy có quyền xử lư tài vật, nhân sự trong
đạo tràng, ủy thác người chân chánh hữu tu
hữu học, đức cao trọng vọng, dù là pháp
sư hay là cư sĩ đều được cả.
Ủy thác cho người ấy, tức là mời
người đó, Đổng Sự Hội thỉnh
người đó trụ tŕ, mời người ấy lănh
trách nhiệm làm người quản lư đạo tràng.
Người ấy đến quản lư, đến
phụ trách việc dạy dỗ, thực hiện sự
nghiệp hoằng pháp lợi sanh.
“Kỳ
Thọ Cấp Cô Độc viên” là người giữ chủ quyền đạo tràng
ấy, tức là thái tử Kỳ Đà và trưởng
giả Cấp Cô Độc, họ giống như
Đổng Sự Hội, mời mọc (trong nhà Phật
gọi là “lễ thỉnh”) Thích Ca Mâu Ni Phật và các
học tṛ của Ngài đến thường trụ
nơi đó, đến đó tu hành, giảng kinh,
thuyết pháp. Đương nhiên dân chúng nơi ấy
đến nghe kinh, người đến học tập hết
sức đông đảo. Trong kinh điển
thường nói là một ngàn hai trăm năm mươi lăm
người, nên lại phải nêu tên vài vị
thượng thủ. Trên thực tế, nêu tên những
vị thượng thủ nhằm biểu thị pháp
nghĩa nên phần đầu của các một bộ kinh
không hoàn toàn giống nhau. Lấy vài người đại
biểu cho nội dung của pháp môn ấy, nhằm dụng
ư này. Bởi thế, chẳng thể tùy tiện nêu tên, chúng
ta phải chú ư học tập điều này.
Người tu đạo, người
giác ngộ chắc chắn chẳng vướng mắc
danh văn, lợi dưỡng, thiền sư Trung Phong
đă làm gương cho chúng ta. Từ truyện kư của Ngài,
chúng ta đă thấy: Chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu là một
ngôi phạm sát[15]
bậc nhất, nay chúng ta gọi là một ngôi chùa to,
thỉnh Ngài làm phương trượng trụ tŕ, Ngài
từ tạ không làm. V́ sao? Nhằm răn dạy hậu
học tránh xa danh văn, lợi dưỡng, đa sự
chẳng bằng thiểu sự, thiểu sự chẳng
bằng vô sự! Cả một đời Thích Ca Mâu Ni
Phật theo đuổi công tác giáo huấn, là gương
mẫu cho chúng ta. Người xuất gia làm ǵ cho xă
hội? Người sống trong cơi đời chẳng
thể không làm ǵ, đều phải cống hiến
đôi chút cho xă hội và đại chúng. Sự cống
hiến là sự nghiệp cả đời ḿnh theo
đuổi, mọi người v́ ḿnh, ḿnh v́ mọi
người. Người xuất gia tiếp nhận
sự cúng dường của mọi người trong xă
hội, chúng ta đền đáp bằng cách nào? Trước
hết, phải hiểu rơ người xuất gia
đảm nhiệm vai tṛ ǵ trong xă hội?
Chúng ta cứ nh́n kỹ đức Thích
Ca Mâu Ni Phật là biết ngay, suốt đời dạy
dỗ. Dạy dỗ là giáo dục. Bốn mươi chín
năm giảng kinh thuyết pháp, giảng kinh hơn ba
trăm hội. Hơn ba trăm hội đó nói theo ngôn
ngữ bây giờ là thực hiện các hoạt
động; thực hiện các hoạt động quy mô
lớn nhỏ, trường kỳ, đoản kỳ
hơn ba trăm lần. Giống như chúng ta hiện nay
thực hiện các khóa giảng Phật học, mở lớp
bồi dưỡng huấn luyện ngắn hạn,
lập học viện trường kỳ; cũng có lúc
nhận lời các nơi khác mời đến giảng
kinh ngắn hạn, các hoạt động giảng
diễn như vậy; hơn ba trăm hội của
đức Thế Tôn giống như vậy đó. Hằng
ngày theo đuổi công tác giảng dạy, giáo hóa chúng sanh,
sự nghiệp ấy là sự nghiệp ǵ? Nói như
hiện tại là giáo dục xă hội. Đối
tượng được giáo hóa chẳng phân biệt
quốc gia, chẳng phân biệt chủng tộc, không phân
biệt tôn giáo tín ngưỡng, người đến
chẳng cự tuyệt, người đi không níu kéo, đó
là điều người hiện tại gọi là “giáo dục xă hội văn hóa
đa nguyên”. Chúng ta phải hiểu rơ, phải thấy
minh bạch. Thích Ca Mâu Ni Phật cả một đời
không làm những pháp hội như hiện tại, không
hề có! Siêu độ? Không có! V́ người chết
tụng kinh? Không có!
Chúng ta phải chú ư quan sát, những pháp
hội siêu độ giống như hiện tại là do
người đời sau lưu truyền, chứ
chẳng phải do đức Phật lưu truyền. Đối
với lịch sử chúng ta phải hiểu, phải
thấu suốt, đừng lầm lẫn phương
hướng, mục tiêu. Đức Phật dạy dỗ
chúng ta nhằm mục đích ǵ? Mục đích là dạy
chúng ta giác ngộ. Thành Phật là thành tựu giác ngộ
rốt ráo viên măn, giác chứ không mê, chánh chứ không tà,
tịnh chứ chẳng nhiễm, đó là Phật. Vườn
rừng, đạo tràng, thế nào là đạo, phải
hiểu cho rơ! Cái Đạo nói bởi Nho gia Trung Quốc là
luân lư đạo đức; cái Đạo nói trong nhà
Phật là luân lư giác ngộ, phương pháp giác ngộ, cảnh
giới giác ngộ, đó là Đạo, là con
đường Đạo. Con đường chuyển
phàm thành thánh, con đường phá mê khai ngộ, con
đường đoạn ác tu thiện, đó là con
đường Đạo! Những nơi chốn chỉ
dạy những điều ấy được gọi là “đạo
tràng”. Giới thiệu cùng quư vị đoạn
đầu tiên như thế.
6.2.1.6. Đại chúng cùng nghe
(Chúng Thành Tựu)
6.2.1.6.1. Thuyết minh thính chúng
Đoạn thứ hai là “đại chúng đồng văn” (đại
chúng cùng nghe). Từ “dữ
chư đại tỳ-kheo Tăng, thiên nhị bách ngũ
thập nhân câu, giai thị đại A La Hán chúng sở tri
thức” (và các đại tỳ-kheo tăng, một ngàn
hai trăm năm mươi người câu hội,
đều là đại A La Hán, được mọi
người hay biết) cho đến “cập Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, vô
lượng chư thiên đại chúng câu” (và Thích
Đề Hoàn Nhân v.v… vô lượng chư thiên đại
chúng cùng nhóm). Đó là đoạn thứ hai nói về “đại chúng đồng
văn”. Đối với đoạn này, tôi viết: “Vị hậu học thị
phạm, thiện tự thủ sư” (v́ hậu học
nêu khuôn phép, khéo giữ phép tắc làm thầy). “Thủ” là “thủ pháp” (tuân thủ phép tắc), Sư là pháp
sư. Những vị ấy đều là gương
mẫu, làm mô phạm cho đại chúng, chúng ta phải
học theo các Ngài.
Kinh văn ghi rất rơ “đại tỳ-kheo tăng”. Tỳ-kheo là
Tiểu Thừa, trước đó thêm chữ Đại,
ư nói chẳng phải Tiểu Thừa, mà là Đại
Thừa tỳ-kheo, học tập pháp Đại Thừa.
Đây là các đệ tử thường theo học với
Thích Ca Mâu Ni Phật, trường kỳ theo học với
thầy. Thầy đi đến đâu họ theo
đến đấy, theo suốt đời! Bởi
thế, họ là một đoàn thể khá quy mô, một
đoàn thể giáo học, một đoàn thể hoạt
động giáo dục xă hội, tổng số là một
ngàn hai trăm năm mươi lăm người,
lược đi con số năm người lẻ,
chỉ lấy số chẵn, thành một ngàn hai trăm
năm mươi người, chứ trên thực tế là
một ngàn hai trăm năm mươi lăm người.
Trong chú giải kinh A Di Đà đă nhắc đến
rồi, đă giới thiệu rất tường tận
rồi.
Lại xem tiếp, những người
ấy “giai thị đại A
La Hán, chúng sở tri thức”. Thật là bất phàm!
Thế nào là A La Hán (Arhat)? A dịch là Vô, La Hán là học
hỏi; bởi thế A La Hán dịch sang tiếng Trung
Quốc là Vô Học. Vô Học nghĩa là ǵ? Giống như
nay chúng ta đă tốt nghiệp rồi, họ đă viên
măn các học phần (credits) rồi, tốt nghiệp
rồi. Tốt nghiệp là vô học (không c̣n học
nữa). Bậc Vô Học Tiểu Thừa tu viên măn pháp
Tứ Đế, gọi là A La Hán, đắc Chánh Giác. A La
Hán là danh xưng học vị (degree); [các vị đại
tỳ-kheo ấy] đă đạt học vị A La Hán,
họ thực sự thành tựu Chánh Giác. Có nghĩa là
tư tưởng, kiến giải, ngôn hạnh của
họ đều không lầm lỗi, đoạn sạch Kiến
Tư phiền năo. Kinh luận thường nói tám
mươi tám phẩm: Tu Đà Hoàn đoạn sạch tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc phiền năo trong tam
giới. Tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc thuộc
tam giới cửu địa cũng đoạn sạch,
Kiến Tư phiền năo đoạn sạch th́ chứng
quả A La Hán.
Nói cách khác, họ chẳng có cái nhân luân hồi
trong lục đạo nữa; do nhân không c̣n nên siêu việt
luân hồi lục đạo. Nếu họ muốn
trở lại luân hồi trong lục đạo nhằm giáo
hóa chúng sanh th́ đó là “thừa
nguyện tái lai” (nương theo bổn nguyện
trở lại). Chúng sanh có cảm, họ bèn có ứng, nương
theo nguyện mà đến, chẳng do nghiệp lực.
Phàm phu trong sáu đường không ra khỏi luân hồi
lục đạo là v́ nghiệp lực. Nghiệp lực
là ǵ? Là Kiến Tư phiền năo. Kiến Tư phiền
năo chẳng đoạn, làm sao quư vị thoát khỏi luân
hồi lục đạo được! Quư vị
phải từ đó quán sát, suy nghĩ th́ mới biết là
khó, rất ư là khó! Bởi thế, chúng ta chẳng
thể không cảm tạ A Di Đà Phật. Nếu A Di
Đà Phật chẳng mở ra cho chúng ta pháp môn đới
nghiệp văng sanh này, nhất định chúng ta chẳng
thể thành tựu trong một đời này được!
Mỗi một vị đồng học
nghe rồi phải tự phản tỉnh, quư vị đă
đoạn được vọng tưởng, tạp
niệm hay chưa? Trong hết thảy thời, hết
thảy chỗ, cho đến lúc đêm ngủ, quư vị
chưa hề đoạn vọng tưởng. Đêm
ngủ bèn nằm mộng, mộng do đâu mà có? Do vọng
tưởng biến hiện ra. Quư vị không đoạn sạch
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
không ra khỏi luân hồi lục đạo
được! May sao có pháp môn đới nghiệp văng sanh
này. Trong kinh, đức Phật nói rất rơ rệt: Pháp môn
này là pháp khó tin. Khó tin mà tin được, thế là quư
vị phước đức khôn sánh, trí huệ khôn sánh.
Quư vị có thể chọn lựa pháp môn này, chết sạch
ḷng mong ngóng, so đo, khiêm hư sát đất tu học,
trong một đời sẽ siêu việt lục
đạo, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, Tiểu Thừa A La Hán chẳng thể sánh
bằng quư vị. Quư vị thù thắng hơn họ rất
nhiều!
Đại Thừa A La Hán chỉ
những ai? Tốt nghiệp Đại Thừa rồi,
không học nữa. Thưa cùng quư vị, đó là Pháp Vân
Địa Bồ Tát, tức là Thập Địa Bồ
Tát, tốt nghiệp rồi. Đại A La Hán tức là
Pháp Vân Địa Bồ Tát. Ở đây, đức
Phật bảo những vị này “đều là đại A La Hán”, chẳng phải
là Tiểu Thừa. Chẳng phải là Tiểu Thừa
nghĩa là sao? Họ đến đóng tuồng, sắm vai
Tiểu Thừa. Ở đây, họ diễn vai Tiểu
Thừa, chứ trên thực tế họ là đại A La
Hán. Trong số ấy, có không ít vị sẽ sớm thành
Phật, chẳng hạn như các ngài Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, ai nấy đều biết, họ là
Cổ Phật Tái Lai.
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế
Chí đều là Cổ Phật Tái Lai, nhưng làm chúng
Bồ Tát [trong kinh này]. C̣n ở đây, [các vị Thập Địa
Bồ Tát] thị hiện làm chúng Thanh Văn. Một
đức Phật xuất thế, ngàn đức Phật
ủng hộ, đều nhằm làm gương cho chúng ta.
C̣n chúng ta th́ nếu kẻ nào thành tựu, rất nhiều
kẻ khác muốn đả kích, ghen ghét, phá hoại,
chướng ngại, tạo vô lượng vô biên tội
nghiệp, đấy là mê! Người giác ngộ thấy
kẻ khác thành tựu th́ mọi người giúp đỡ,
ủng hộ kẻ ấy. Giống như diễn
tuồng, anh đóng vai chánh, tôi thay anh đóng vai phụ,
không ai chẳng hoan hỷ, đề cao anh. Tuồng hát
đó diễn hay, nhằm mục đích ǵ? Để giáo
hóa hết thảy chúng sanh, giúp hết thảy chúng sanh phá
mê khai ngộ.
Bởi thế, cổ đại
đức thường nói: “Nhược
yếu Phật pháp hưng, duy hữu Tăng tán Tăng” (Nếu
muốn Phật pháp hưng khởi th́ chỉ có Tăng khen
ngợi Tăng). Người xuất gia khen ngợi
lẫn nhau th́ Phật pháp hưng vượng. Nếu
hủy báng lẫn nhau, khen ḿnh, chê người, Phật pháp
bèn diệt mất. Phật pháp hưng vượng sẽ
có lợi cho chúng sanh, có lợi cho ḿnh; Phật pháp diệt
mất, ḿnh chẳng được lợi ǵ, chúng sanh
cũng chẳng lợi ǵ. Do vậy ta biết: Cát, hung,
họa, phước đều chỉ trong một niệm
của ta. Pháp thế gian lẫn xuất thế gian
đều là đạo lư này. Một nhà hưng
vượng, quư vị thấy người trong nhà đó
ḥa thuận, khen ngợi lẫn nhau, vui sướng, gia
đ́nh ấy hưng vượng. Nếu gia đ́nh ấy
ngờ vực, ḍ xét lẫn nhau, không tin tưởng nhau,
mỗi cá nhân đều thấy khuyết điểm
của đối phương, trọn chẳng nói tới
ưu điểm của đối phương, không lâu
sau, gia đ́nh ấy sẽ bại vong, đó là điều
chắc chắn!
Đoàn thể, công ty, hăng tiệm, cho
đến quốc gia, đều không ra ngoài lệ ấy.
Quốc gia làm thế nào để hưng vượng?
Thế giới phải làm sao mới được ḥa
b́nh? Thánh nhân thấy rất rơ ràng, giảng rất thấu
triệt. Nếu ta thực sự giác ngộ, hiểu rơ, y
giáo phụng hành, bắt đầu từ trong gia đ́nh, “gia
ḥa, vạn sự hưng”. Trong đoàn thể nhỏ
của chúng ta, tứ chúng đồng tu ở cùng một
chỗ, khen ngợi lẫn nhau th́ đạo tràng ấy
sẽ hưng vượng. Chứ ngờ vực, ghen ghét,
chướng ngại lẫn nhau th́ đạo tràng ấy
chẳng có tương lai. Đạo lư, chân tướng
sự thật ấy đều là nhân quả báo ứng,
chẳng thể không hiểu rơ, chẳng thể không kiêng
dè!
Người chết đi có đời
sau, có kiếp sau, chẳng phải chết là hết.
Nếu chết đi, mọi việc đều xong th́ sao?
Chẳng cần phải học Phật nữa. Chính v́
chết đi vẫn c̣n có đời sau, sau đời sau
c̣n có đời sau khác nữa, một đời này ḿnh
không tu cho tốt, chết đi không làm ǵ được,
phiền phức rất lớn. Người thông minh,
cổ nhân gọi là “tiền
hậu nhăn nhân” (“Tiền
hậu nhăn” tức là biết nghĩ đến
tương lai, biết nghĩ đến mai sau), suy
nghĩ nhiều về chuyện quá khứ, tương lai,
nghĩ đến đời đời kiếp kiếp,
nghĩ đến xă hội đại chúng, con
người ấy là người hiểu rơ, là
người giác ngộ. Nếu chỉ v́ ḿnh, chẳng
biết v́ người khác th́ là kẻ hồ đồ, là
điên đảo, mê hoặc. Bởi vậy, những
người kề cận Phật, kể cả tại gia
cư sĩ, trong số ấy có những vị cổ
Phật tái lai, đại Bồ Tát thị hiện, biểu
hiện bề ngoài giống phàm phu, phàm nhân, thật ra là
thánh nhân.
6.2.1.6.2. Biện định thính
chúng duyên do
6.2.1.6.2.1. Biện định
duyên do và vai tṛ của Thanh Văn Chúng
Chúng tôi thấy [sách Yếu Giải] nêu
lên ba điều chánh yếu: “Thanh
Văn cư thủ, xuất thế gian tướng
cố, thường tùy tùng cố, Phật pháp lại
Tăng truyền cố” (Thanh Văn đứng
đầu [trong thính chúng] v́ là tướng xuất thế
gian, v́ thường theo hầu Phật, v́ Phật pháp
phải nhờ vào Tăng để truyền). Đó là lư
do đặt hàng Tiểu Thừa vào vị trí đầu
tiên, bởi h́nh tướng của họ là h́nh tướng
xuất gia, Bồ Tát không nhất thiết mang h́nh tướng
xuất gia, phần đông mang h́nh tướng tại gia.
Bồ Tát không nhất quyết thường theo Phật;
Thanh Văn thường phải theo Phật. V́ sao? C̣n
chưa tốt nghiệp, tỳ-kheo là học tṛ chưa
tốt nghiệp; chưa tốt nghiệp đương
nhiên hằng ngày phải theo thầy. Bồ Tát tốt nghiệp
rồi nên có thể tách khỏi thầy. Bởi thế,
những học sinh ấy là học sinh c̣n đang theo học,
vẫn chưa tốt nghiệp.
Thuở ấy, đức Phật
dạy học không có trường sở cố
định, trường học đặt tại đâu?
Trong rừng, bên sông, bên khe nhỏ, chẳng có pḥng ốc,
chẳng có hết thảy trang bị, điều này chúng
ta đều biết rất rơ. Các Ngài sanh sống và ngủ
dưới gốc cây, ăn một bữa trưa,
chẳng có pḥng nhà, thiết bị ǵ cũng không có,
sống ngoài thiên nhiên. Trong quá khứ, chúng tôi có đọc
cuốn “Âm thanh hoang dă”, do người Mỹ viết về
thổ dân Úc châu. Hiện thời, thổ dân châu Úc vẫn
c̣n, bọn họ ở chính giữa nước Úc,
thuộc khu vực sa mạc, thiết bị ǵ cũng
chẳng có, giống như cuộc sống của Thích Ca
Mâu Ni Phật thời Ngài tại thế, ngủ dưới
gốc cây. Họ ăn toàn những thứ mọc hoang,
giống như những người du mục đi đây
đó kiếm ăn, chẳng ở chỗ nào nhất
định. Họ cũng chẳng có y phục để
mặc, thân thể khỏe mạnh, không hề ưu
lự, không có ǵ vướng mắc, không có phiền năo, tâm
linh cảm ứng. Phương thức sanh sống của
đức Phật lúc tại thế cũng giống
như thế đó.
Sau này, đạo đức, học
vấn, sự giáo hóa của đức Thế Tôn
được đế vương, đại thần
biết đến. Họ nghe rồi đều sanh tâm hoan
hỷ, rất mong mỏi đức Thế Tôn đến
sống và dạy dỗ trong đất nước của
họ. Đức Thế Tôn tùy duyên, chẳng cố chấp
tí nào, địa phương nào mời, Ngài liền
đến nơi đó. Nhờ vậy, tiếp xúc xă
hội rộng lớn, khuếch đại hiệu
quả giáo dục, đúng là lợi ích hết thảy chúng
sanh. Bồ Tát phân tán đến các nơi giáo hóa chúng sanh.
Cũng có lúc Phật phái Thanh Văn đi; rất nhiều
địa phương thỉnh, đức Phật
chẳng thể đến hết mọi nơi
được, bèn phái học tṛ đi. Dạy một
thời gian bèn quay về, thay phiên, luân lưu dạy
học, rất nhiều phen như thế.
Có những vị Bồ Tát, Thanh Văn
có duyên rất sâu đậm với người nơi
đó, nói cách khác, là thời gian dạy học ở nơi
ấy rất dài, họ là những học tṛ hết
sức ưu tú. Mỗi năm, đức Phật an cư
kết hạ ba tháng. Trong ba tháng ấy, tất cả
học sinh đi dạy bên ngoài đều phải quay
về, đều phải về bên đức Phật,
tiếp nhận tái giáo dục. An cư mùa Hạ là tái giáo
dục, nêu gương tốt nhất cho chúng ta. V́ sao? Xă
hội vĩnh viễn tiến bộ; nếu chính ḿnh không
tiến bộ, ắt sẽ thụt lùi, sẽ bị
đào thải. Do đây, quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật suy nghĩ rất châu đáo! Quư vị ở bên
ngoài giáo hóa người khác, mỗi năm lại quay
về học ba tháng để tự nâng cao tŕnh độ
của ḿnh.
Như hiện nay chúng ta biết, trong
nước, ngoài nước rất nhiều viên chức,
nhân viên kỹ thuật thuộc các công ty lớn mỗi
năm đều có thời gian cố định
được tái huấn luyện. Nếu họ chẳng
được tái giáo dục, sẽ chẳng theo kịp
tiến bộ kỹ thuật. Lúc tôi ở Mỹ quốc,
có những đồng tu làm việc trong các công ty, mỗi
năm độ chừng từ hai đến ba
lượt đi tái huấn luyện. Thời gian mỗi
lần khoảng chừng từ một tuần đến
hai tuần, để nâng cao năng lực, kỹ
thuật, học thức của chính ḿnh. Nếu chẳng
đi dự huấn luyện, quư vị lập tức
bị đào thải, khoa học kỹ thuật mới
lạ mỗi tháng, mỗi ngày, chúng ta phải đón
đầu trước. Ba ngàn năm trước Thích Ca Mâu
Ni Phật đă thành lập chế độ ấy,
mỗi năm có ba tháng tấn tu giáo dục, tái giáo dục,
đó gọi là An Cư mùa Hạ.
Người xuất gia, “Phật pháp lại Tăng truyền cố” (Phật
pháp phải dựa vào Tăng để truyền), câu này
rất quan trọng. Trách nhiệm của người
xuất gia là truyền thừa giáo
học của Như Lai. Nền giáo học xă hội đa
nguyên văn hóa chẳng thể gián đoạn nửa
chừng, chẳng những phải truyền từ
đời này sang đời khác, mà c̣n phải khuếch
trương rộng lớn; nhất là trong xă hội
hiện thời, [giáo học Phật pháp] càng cần
thiết cấp bách. Bởi thế người xuất gia
phải biết thân phận của chính ḿnh, biết sứ
mạng, chức trách của chính ḿnh. Tăng là một
đoàn thể, chẳng phải là danh xưng cá nhân. Phần
sau có một bản biểu giải. “Tăng-già” (Sangha), chúng ta gọi là Tăng,
tỉnh lược âm cuối, có nghĩa là Ḥa Hợp Chúng,
nay ta gọi Chúng là “đoàn
thể”. Đoàn thể ấy được tôn kính nhất trong tất cả hết
thảy
đoàn thể thế gian, v́ sao? Người trong đoàn
thể ấy ḥa hợp.
Ḥa hợp có Lư, có Sự. Lư là “đồng chứng nhất tâm
bất loạn vô thượng Bồ Đề”,
đấy là Tịnh Độ tông của chúng ta. Mọi
người chúng ta cùng ở một chỗ, mỗi cá nhân
đều có cùng một mục tiêu, một phương
hướng, tức là đều muốn chứng
đắc Nhất Tâm Bất Loạn. Chứng đắc
Nhất Tâm Bất Loạn th́ mới thực sự nắm
được điều kiện văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới là chứng đắc Vô
Thượng Bồ Đề! Về Lư, chúng ta cùng v́
mục tiêu ấy.
Về Sự, chúng ta cùng sanh hoạt
chung, cùng sanh hoạt chung là Sự. Phật dạy chúng ta
sáu điều kiện nhất định phải tuân
thủ:
1) Thứ nhất là Kiến Ḥa
Đồng Giải, chúng ta phải nhất trí cách nghĩ,
cách nh́n, nhất trí như thế nào? Hết thảy
đều chiếu theo kinh điển.
2) Giới Ḥa Đồng Tu: Giới là Giới
Luật, chúng ta nhất định phải tuân thủ
những quy định sanh hoạt.
3) Thân Ḥa Đồng Trụ: Chúng ta
sống trong tăng đoàn, đối xử ḥa thuận
với nhau.
4) Khẩu Ḥa Vô Tránh: Chẳng tranh
luận với nhau, bất luận ư kiến ǵ thảy
đều quy nạp vào A Di Đà Phật.
5) Ư Ḥa Đồng Duyệt: Tâm
địa chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi.
6) Lợi Ḥa Đồng Quân: Chúng ta
sống b́nh đẳng, không sai biệt, mười
phương cúng dường đều b́nh đẳng thọ
dụng.
Cuối cùng c̣n có một điều nữa
là Đồng Yết-ma. Yết-ma (kárma) là tiếng
Phạn, nói theo cách bây giờ là Hội Nghị. Việc ǵ
mọi người cũng phải cùng nhau họp lại
thương lượng, chẳng cá nhân nào độc
đoán, độc tài cả, chẳng được như
vậy. Bởi thế, Tăng đoàn thực sự phù
hợp với những điều người hiện
tại nói là “dân chủ, tự do, cởi mở”. Người
hiện thời nói “dân chủ, tự do, cởi mở”, ba
ngàn năm trước Tăng đoàn của Thích Ca Mâu Ni
Phật đă tự do, dân chủ, cởi mở. Bởi
thế, Phật pháp phải nhờ vào Tăng đoàn
để duy tŕ, để truyền thừa, để
phát dương quang đại.
Hôm nay hết giờ rồi, chúng tôi
giảng đến đây thôi.
Tập 06
Chúng ta tiếp tục xem Hệ Niệm
Pháp Sự. Trước hết là tŕ tụng Phật
Thuyết A Di Đà Kinh, tôi đă giới thiệu sơ
lược sáu thứ Thành Tựu của tựa đề
kinh cùng quư vị rồi. Nay chúng ta đang xem đoạn
văn từ câu “dữ
đại tỳ-kheo Tăng, thiên nhị ngũ bách
thập nhân câu” cho đến “cập
Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, vô lượng chư
thiên đại chúng câu”.
Đoạn kinh này được
Ngẫu Ích đại sư phân khoa là “đại chúng đồng văn” (đại
chúng cùng nghe). Đây là nêu gương cho hàng hậu học,
nhằm mục đích mong cho chúng ta biết học theo loại
nào [trong ba loại thính chúng] Những vị này đă làm
gương cho chúng ta, hăy suy nghĩ căn tánh của chính
ḿnh, thực sự lấy những vị đại
đức ấy làm gương để tự khích lệ
chính ḿnh tích cực nỗ lực học tập Phật
pháp.
Ở đây đại chúng
được chia thành ba loại, thứ nhất là Thanh
Văn xuất gia chúng. “Thanh
Văn cư thủ, xuất thế tướng cố, thường
tùy tùng cố, Phật pháp lại Tăng truyền cố” (Thanh
Văn đứng đầu, v́ là tướng xuất
thế, v́ thường theo Phật, v́ Phật pháp phải
nhờ vào Tăng để truyền). Đó là lời chú
giải trong sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư. Lần này chúng tôi giới thiệu tóm tắt sách
Yếu Giải, văn tự không nhiều, nhưng hàm
nghĩa rất sâu. Ai nấy đều biết rơ vấn
đề hiện thời là Phật pháp trong thời
đại hiện tại suy thoái đến tận cùng,
không c̣n có thể suy hơn được nữa, suy hơn
nữa th́ Phật pháp bị diệt mất. V́ sao Phật
pháp lại biến thành như thế? Câu “Thanh Văn cư thủ” (Thanh Văn
được nêu đầu tiên) ở đây đă
giải đáp vấn đề. Đối với ba câu
này của Ngẫu Ích đại sư, chúng ta phải
chăm chú phản tỉnh, ta có làm được như ba
câu ấy hay không?
Thứ nhất là “tướng xuất thế”, tướng
xuất thế chân chánh! Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu
gương cho chúng ta thấy: Đối với pháp
thế gian, Ngài thực sự chẳng nhiễm
trước mảy may. Chúng ta niệm niệm dính mắc
pháp thế gian, tham ái thế gian; điều này ta chưa
làm được, làm sao có thể đứng hàng
đầu? Bởi thế, đối với điều
này nhất định chúng ta phải nghiêm túc phản
tỉnh. Giáo nghĩa Đại Thừa trọng thực
chất, chứ không trọng h́nh dáng, nhưng hễ có
thực chất, ắt có h́nh dáng. Cổ thánh tiên hiền
Trung Quốc nói: “Thành ư
trung, tất định h́nh chi ư ngoại” (Ḷng Thành bên trong, nhất
định hiện ra ngoài). Nếu tư
tưởng, quan niệm của anh vượt ngoài thế
gian, tất nhiên hành vi của anh là xuất thế.
Pháp xuất thế gian được hiển
thị tại nơi đâu? Đối với danh văn,
lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thế
gian, chẳng hề có mảy may tâm tham luyến, niệm
niệm giống như Phật, Bồ Tát. Đến
thế gian này để làm ǵ? Đối với chính
bản thân họ là để tu hành, tu hành là trải qua
sự việc để luyện tâm; ta đến thế
gian này để đào luyện, rèn giũa, hoặc là
để khảo nghiệm, xem ta đối với
thế gian này c̣n khởi tâm động niệm hay không, c̣n
có vọng tưởng, chấp trước hay không?
Đến khảo nghiệm là v́ chính ḿnh. C̣n đối
với đại chúng, ta đến thay thế Phật,
Bồ Tát tiếp dẫn chúng sanh, dùng bản thân thực
hiện ḷng đại từ đại bi, phương
tiện thiện xảo của Phật, Bồ Tát, ḥng giúp
đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn.
Giúp đỡ nhằm ba mục đích:
1) Giúp hàng thượng căn trong
một đời này liễu sanh tử, xuất tam
giới, văng sanh Tịnh Độ, bất thoái thành
Phật. Đó là giúp hàng thượng căn.
2) Giúp hàng trung căn phá mê khai ngộ, giúp
họ nâng cao cảnh giới.
3) Giúp kẻ hạ căn gieo thiện
căn Bồ Đề.
Nói cách khác, bất luận thượng,
trung, hay hạ căn, chúng ta đều phải như chư
Phật, Bồ Tát, b́nh đẳng lợi ích. Nói về phía
ḿnh, Lư - Sự b́nh đẳng. Nói về phía chúng sanh, Lư b́nh
đẳng, nhưng Sự chẳng b́nh đẳng. V́ sao Sự
không b́nh đẳng? Thiện căn, phước
đức, nhân duyên của mỗi người khác
biệt, đạo lư là đây! Tướng xuất
thế chính là thấy thấu suốt, buông xuống,
tự tại tùy duyên, chất phác niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ.
“Thường
tùy tùng cố” (V́
thường theo Phật): Lúc Phật tại thế, họ
chẳng rời khỏi đức Phật; Phật
đến đâu, học tṛ theo đến đó, làm “thường tùy chúng”,
chẳng tách rời! Nay Phật không c̣n tại thế, chúng
ta phải thường tùy học như thế nào?
Thường nương theo kinh giáo, thường
nương theo thánh tượng Phật, Bồ Tát. Thánh
tượng khiến cho ḷng chân thành cung kính của ta có
chỗ quy hướng, cái tâm chân thành, cái ḷng cung kính
của ta từ đâu sanh khởi? Từ h́nh tượng
của Phật, Bồ Tát. Chúng ta thấy tượng
Phật, thấy tượng Bồ Tát, đương
nhiên khởi ḷng kính ngưỡng, cung kính lễ bái, mỗi
một Phật tử đều làm được điều
này; nhưng phải dùng một phần tâm t́nh chân thành cung
kính ấy dành cho hết thảy chúng sanh hiện hữu.
Nói cách khác, chúng ta cung kính chân thành đối với hết
thảy chúng sanh như đối với Phật không hai,
không khác. Đấy là ư nghĩa chân chánh của việc cúng
dường tượng Phật, tượng Bồ Tát.
Trong sự “thường
tùy” này, quan trọng nhất là “thường tùy kinh luận giáo hối”
(thường tuân theo những răn dạy trong kinh
luận), điều này quan trọng hơn bất cứ
ǵ khác. Nếu chúng ta chẳng thể tuân theo những ǵ kinh
luận dạy răn th́ chúng ta đă tách khỏi Phật,
Bồ Tát. Những đệ tử thường theo Phật
khi ấy là một ngàn hai trăm năm mươi lăm (1.255)
người, gồm những ai? Thầy tṛ ba anh em họ Ca
Diếp tổng cộng một ngàn vị, thầy tṛ Xá
Lợi Phất là một trăm vị, thầy tṛ Mục
Kiền Liên cũng gồm một trăm vị. Con ông
trưởng giả Da Xá cũng có một đoàn thể
nhỏ gồm năm mươi lăm vị. Bởi
thế cộng lại là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người. Những vị này “thường
tùy Phật học” (thường theo học với
Phật), chứ chẳng phải là theo Phật đi
chơi.
Các Ngài thị hiện điều ǵ?
Tự thị hiện buông xuống hết thảy, thuận
theo sự dạy răn của đức Phật. Quư
vị có nhận ra ư nghĩa này chăng? Nói như bây
giờ, các Ngài buông bỏ thành kiến, cách nghĩ, cách
thấy, cách nói, cách làm của chính ḿnh, hết thảy đều
tùy thuận sự dạy răn của đức Phật.
Đức Phật dạy ta nghĩ thế nào, dạy ta
thấy thế nào, dạy ta nói thế nào, dạy ta làm
thế nào, đều làm theo như thế, đó gọi là
“học Phật”. Chúng Thanh Văn nêu một tấm
gương rất tốt cho chúng ta!
Câu thứ ba là “Phật pháp lại Tăng
truyền cố” (Phật
pháp phải nhờ vào Tăng để truyền). Đúng
là v́ người xuất gia hiện tướng xuất
thế, thị hiện thường theo học với
Phật, nên Phật pháp mới có thể tồn tại lâu
dài trong thế gian. Chúng ta thường nghe nói “chánh pháp cửu trụ”,
nhưng phải làm được như vậy th́ chánh
pháp mới có thể trụ lâu dài. Nếu người
xuất gia (ở đây gọi là Thanh Văn) tấm ḷng, ư
niệm, hành vi đều là tham - sân - si - mạn, háo danh,
háo lợi, tham cầu hưởng thụ ngũ dục,
lục trần, không có tướng xuất thế,
khiến đại chúng trong xă hội thấy người
xuất gia c̣n thua cả người tại gia, th́ sao? Th́
là diệt Phật pháp. Đấy chẳng phải là
hưng khởi Phật pháp, mà là diệt Phật pháp. Quư
vị lại chăm chú xem xét trong cuộc sống
thường ngày của kẻ ấy, xử sự, đăi
người, tiếp vật, tùy thuận phiền năo
tập khí của chính ḿnh, hoàn toàn chẳng tuân thủ
sự dạy răn của Phật, Bồ Tát. Há Phật
pháp nhờ vào những kẻ ấy để truyền
thừa được ư? Họ đâu có Phật pháp!
Hôm trước tôi xuống núi, buổi chiều
ở lại Tịnh Tông Học Hội ở Bố Lư
Tư Bản (Brisbane), cư sĩ Cát Lai Mẫu (Martha Graham)
ở Tất Ni (Tuyết Lê: Sydney) cùng các đại
biểu Phật giáo Úc Châu (Úc châu có sáu tiểu bang) mở
cuộc họp hai ngày tại Tịnh Tông Học Hội.
Đại biểu Phật giáo các tiểu bang thảo
luận thành lập Úc Châu Phật Giáo Hội. Tổ
chức Phật Giáo toàn châu Úc vẫn chưa có, họ
đề xướng, thảo luận chương tŕnh,
trong cuộc họp ấy bắt đầu công tác
soạn thảo chương tŕnh. Tôi xuống núi cùng
với chín đại biểu gặp gỡ nhau. Trong
số đó, tôi thấy có một vị xuất gia ăn mặc
theo lối Nam Tông, nêu vấn đề sau: “Bản thân
Phật giáo chúng ta tông phái bất đồng, thậm chí
trong cùng một tông phái, các tự viện bất
đồng, mọi người chẳng ai qua lại
với nhau, mỗi người một cách”. Sư cảm
thấy rất khó chịu, nên mới nêu lên vấn
đề đó.
Tôi bảo ông ta năm ngoái tôi sang thăm
Nhật Bản, họp mặt cùng rất nhiều vị
phương trượng trụ tŕ lănh đạo
trọng yếu trong Tịnh Độ Tông Nhật Bản.
Lần họp mặt thứ nhất là để hoan nghênh
tôi đến thăm Nhật Bản, lần thứ hai là
để tôi đáp tạ. Trong đáp từ, tôi có nói,
như ai nấy đều biết Phật Giáo có
Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển Giáo, Mật
Giáo. Tại Trung Quốc c̣n có Tông Môn, Giáo Hạ. Trung
Quốc có mười tông phái Đại Thừa lẫn
Tiểu Thừa, trong Tông môn (Thiền) lại phân thành các
phái, trong mỗi phái lại chia thành hệ, có t́nh trạng
như vậy! Hệ phái bất đồng, thậm chí
trong cùng một hệ phái, nếu không cùng một
đạo tràng, quả thật có chuyện không qua lại
với nhau; đă thế c̣n mắc phải chứng
bệnh rất lớn, khen ḿnh, chê người, tự ḿnh
khen ngợi ḿnh, hủy báng người khác. Đó là nguyên
nhân khiến Phật giáo đọa lạc.
Bất kể tông phái chẳng tương
đồng, thảy đều y chiếu kinh luận
của Thích Ca Mâu Ni Phật để làm căn cứ tu
học cho chúng ta. Kinh luận đều do đức Phật
nói, bởi vậy, thực sự là người một
nhà, là anh em ruột. Chúng tôi nghĩ: Cha mẹ sanh ra rất
nhiều con, những đứa con ấy chẳng
thương yêu, ḥa thuận với nhau, mà ḱnh chống nhau,
không qua lại với nhau, chúng tôi nghĩ ḷng cha mẹ
rất buồn bực. Gia đ́nh ấy trở thành như
thế, cha mẹ buồn uất, thật là đại
bất hiếu! Nhiều tông phái trong nhà Phật chẳng
qua lại với nhau, đều cùng khen ḿnh, chê
người, chúng tôi nghĩ Thích Ca Mâu Ni Phật buồn
ḷng lắm! Phạm lỗi ǵ với Phật? Lỗi
đại bất kính, đại bất hiếu!
Nói chẳng dễ nghe, đó chẳng
phải hoằng dương Phật pháp, mà là phản
Phật giáo, phản đối sự răn dạy
của đức Phật trong kinh luận. Phật dạy
chúng ta “tâm bao thái hư, lượng
châu sa giới” (tâm bao thái hư, lượng trọn
khắp các cơi nhiều như cát), Phật chỉ dạy
chúng ta “từ bi vi bổn, phương
tiện vi môn” (từ bi làm gốc, phương tiện
làm cửa), Phật dạy chúng ta “nhân từ bác ái, phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui”. Chúng ta nghĩ, nói, làm, hoàn toàn trái
ngược với những điều ấy th́ có c̣n là
học Phật hay chăng? Đấy chẳng phải
học Phật, mà là phản Phật! Đệ tử
Phật phản đối sự răn dạy của
đức Phật, há chẳng phải là dùng chiêu bài Phật
giáo mà phản đối Phật ư? Họ tin
tưởng vào điều ǵ? Họ tin tưởng vào
phiền năo tập khí của chính ḿnh, tin tưởng danh
văn lợi dưỡng của chính ḿnh, tin vào những
thứ đó, chứ chẳng tin vào sự răn dạy
của đức Phật.
Đối với t́nh h́nh ấy,
phải làm sao? Thưa cùng quư vị, phải bắt đầu
từ chính bản thân ḿnh. Trong thời đại hiện
nay, tự do, dân chủ rộng mở, đề
xướng nhân quyền, nhân quyền cao hơn bất
cứ ǵ khác! Chúng ta không thể can thiệp vào chuyện
người khác, mà cũng chẳng thể phê b́nh
người khác, chỉ có tự kiểm điểm,
sửa lỗi, đổi mới, [tự xét] chính ḿnh có mắc
căn bệnh tệ hại ấy hay không? Điều
trọng yếu là phải bắt đầu từ chính
ḿnh. Người khác khen ḿnh chê người, chúng ta phải
khác họ, ta phải khiêm hư, khen ngợi người
khác. Dù người khác có chín mươi chín điều
bất thiện, họ vẫn c̣n có một chuyện lành,
chín mươi chín điều chẳng lành không cần
nhắc tới, cũng chẳng để bụng, tự
ḿnh tu cho thuần tịnh, thuần thiện, th́ tiền
đồ Phật pháp mới có chút ánh sáng.
Tôi khuyến khích các vị đại
biểu Phật giáo các nơi đến dự hội,
chúng ta phải tự giác ngộ, phải tự đoàn
kết, phải chủ động đi thăm các tông phái
khác biệt, người này với người kia phải
thường qua lại, phải khích lệ lẫn nhau. Ai
có thể tiếp nhận, chúng ta sẽ nắm tay cùng
thực hiện nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh; ai
không thể tiếp nhận, đừng miễn
cưỡng! Chẳng những chúng ta phải làm như
thế đối với những tông phái khác biệt trong
nhà Phật, mà đối với hết thảy các tôn giáo
khác biệt trong thế gian, chúng ta cũng phải chủ
động đi thăm hỏi.
Chúng tôi muốn đem quan niệm trong ba
câu “v́ tướng xuất
thế, v́ thường theo Phật, v́ Phật pháp phải
nhờ vào Tăng để truyền” để chân
thành, cung kính cúng dường tất cả tôn giáo trong
thế gian; hy vọng mỗi tôn giáo đều có thể
tích cực học tập kinh điển của họ,
thực hiện kinh điển, khiến cho những giáo
huấn trong kinh điển được tỏa sáng rạng
rỡ bởi chính những giáo đồ và hàng giáo
phẩm, chức sắc, th́ hạnh phúc, ḥa b́nh, mỹ măn
vĩnh cửu trên thế gian này mới ḥng thực sự
thực hiện được.
Giáo học Phật pháp, giáo huấn
của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc dạy chúng ta
những ǵ? Lúc giảng kinh chúng tôi thường nói: Dạy
chúng ta hiểu rơ chân tướng của ba sự thật.
Thứ nhất là hiểu rơ quan hệ giữa người
và người; thứ hai là dạy chúng ta hiểu rơ quan
hệ giữa con người và hoàn cảnh tự nhiên;
thứ ba là dạy chúng ta hiểu rơ mối quan hệ
giữa con người và trời đất quỷ
thần. Hiểu rơ ba điều này! Hiểu rơ rồi
mới giác ngộ, không hiểu rơ là mê hoặc, hiểu rơ sẽ
giác ngộ!
Giác ngộ rồi, trong đời này ta
có phương hướng và mục tiêu chính xác, sống
cuộc đời của Phật, Bồ Tát; tức là dùng
thiện tâm, thiện ư, thiện hạnh, thiện ngôn, dùng
tịnh tâm, tịnh ư, tịnh hạnh, tịnh ngữ
để đối đăi hết thảy chúng sanh,
đối đăi hết thảy vạn vật. Đức
Phật thường nói: “Tâm
bao thái hư, lượng châu sa giới”, chúng ta thực
sự học tập được điều đó, giống
như chư Phật, Như Lai, như Pháp Thân Bồ Tát,
tâm tịnh khắp pháp giới, ư lành trọn Sa Bà. Để
thực hiện trong cuộc sống, Ấn Quang
đại sư dạy chúng ta “đôn luân, tận
phận, nhàn tà, tồn thành, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tịnh Độ” (giữ vẹn luân
thường, tận hết trách nhiệm, ngăn ḷng tà,
giữ ḷng thành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh
Tịnh Độ). Phương hướng, mục tiêu
nhất định là như vậy.
Thanh Văn là thành tựu vô lượng
vô biên công đức lợi ích cho ḿnh lẫn người.
Bởi thế, cốt lơi của ba câu ấy, quan trọng
nhất là “thường tùy Phật học”. Họ
thường theo học với Phật, tuyệt! Câu này nói
rất hay. Nay chúng ta nhất định phải tuân theo
sự giáo huấn của đức Phật, lời giáo huấn
của Phật nằm trong kinh luận. Kinh luận rất
nhiều, “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”. Quư vị chọn tu theo bộ kinh
luận nào cũng được, đều giống nhau
cả. Cần nhất là phải biến những
đạo lư được giảng trong kinh luận
đó thành tư tưởng, kiến giải của chính
ḿnh, đó là điều quan trọng, chúng ta phải thực
sự học theo, phải buông xuống thành kiến
của chính ḿnh, thuận theo lời Phật răn dạy.
Trong kinh luận, đức Phật dạy chúng ta sống
như thế nào, làm lụng như thế nào, xử
sự, đăi người, tiếp vật ra sao, chúng ta
phải hoàn toàn học theo. Sống như Phật, Bồ
Tát, sống cuộc đời giác ngộ, chẳng c̣n mê hoặc
nữa!
6.1.1.6.2.2. Biện định
duyên do và vai tṛ của Bồ Tát chúng
Thứ hai, “Bồ Tát cư trung,
tướng bất định cố, bất
thường tùy cố, biểu Trung Đạo cố”
(Bồ Tát xếp vào giữa v́ h́nh tướng không nhất
định, v́ chẳng thường theo Phật, v́
biểu thị Trung Đạo). Bốn câu này cần
phải giải thích, chớ nên hiểu lầm! “Tướng bất định”:
Bồ Tát hiện tướng tại gia. Quư vị thấy
Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi
ba lần, năm mươi ba vị [thiện tri thức] đều
là Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, nếu nh́n từ bên ngoài, các
vị ấy đều là Pháp Thân Bồ Tát, từ bậc
Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên. Mang những thân
phận nào?
“Bất
thường tùy”: Chẳng
thường tùy là nói theo phương diện h́nh tướng.
Bọn họ chẳng giống với Thanh Văn hằng
ngày kề cận Thích Ca Mâu Ni Phật, họ thường
đơn độc giáo hóa một phương, nhưng
hết sức coi trọng cơ hội giáo dục, ấy
là Bồ Tát! Nhưng quư vị phải nhớ kỹ:
Bồ Tát học tập kinh luận của Phật, Bồ
Tát không một giây phút nào phóng túng; so ra, Thanh Văn không sao
bằng được; Bồ Tát hoàn toàn dung hóa, hoàn toàn
thực hiện được. Bởi thế, trong khi
sắp xếp, Bồ Tát được xếp vào giữa
“để biểu thị Trung
Đạo”, chúng ta phải hiểu rơ điều này.
Thanh Văn giống như học tṛ
tiểu học, phải theo thầy, tự ḿnh chưa
thuần thục, thầy đặt ra rất nhiều quy
củ, nhất định phải tuân thủ. Bồ Tát
như sinh viên đại học, như nghiên cứu sinh
(post-graduate student), chẳng c̣n có nhiều quy củ như
thế nữa. V́ sao? Họ đă có năng lực tự kiềm
chế. Học tṛ tiểu học không có năng lực tự
kiềm chế nên thầy phải đặt ra rất
nhiều quy củ để uốn nắn chúng. Bồ Tát
là sinh viên đại học, là nghiên cứu sinh, thầy
chẳng cần phải bận tâm đến những
điều nhỏ nhặt, họ đă có năng lực
tự chăm sóc ḿnh. Bồ Tát có năng lực phân
biệt chân - vọng, có năng lực phân biệt tà - chánh,
thị - phi, thiện - ác, lợi - hại. Bồ Tát có
những năng lực ấy, họ tự biết cách
tránh xấu, đón tốt, chẳng giống học tṛ
tiểu học chẳng biết ǵ, thầy phải luôn trông
chừng. Bồ Tát biểu thị Trung Đạo.
6.1.1.6.2.3. Biện định
duyên do và vai tṛ của ngoại hộ chúng
“Thiên nhân
lệ hậu” (trời
người được nêu sau cùng), tức “cập Thích Đề Hoàn Nhân
đẳng vô lượng chư thiên đại chúng câu”,
họ được xếp sau cùng. “Thế gian tướng cố”: là người cơi
tục, “phàm thánh phẩm
tạp”: Dù là người thế gian, nhưng trong
người thế gian lại có Phật, có Bồ Tát
ứng hóa trong đó. Dù ứng hóa trong ấy, nhưng
họ biểu diễn vai tṛ phàm phu trong thế gian. Bởi
thế, họ vẫn được kể vào sau cùng. “Ngoại
hộ chức cố”: Công việc chủ yếu
của họ là ngoại hộ (bảo vệ bên ngoài),
hộ tŕ Phật pháp, đến giúp sức, ủng hộ
việc giáo dục của Phật. Bởi thế, họ thị
hiện thành quốc vương, đại thần,
trưởng giả, cư sĩ, hết sức nhiệt
tâm đến giúp Thanh Văn, đến giúp Bồ Tát giáo
hóa đại chúng, đặc biệt là Thanh Văn;
bởi lẽ, Thanh Văn mang h́nh tướng xuất gia. Giáo
hóa chúng sanh phải có rất nhiều tăng thượng
duyên, họ đều làm công tác ngoại hộ.
Hiện thời, ta thường nói là xúc
tiến một hoạt động, nhất là trong
những hoạt động có quy mô lớn, chúng ta biết
rơ cần phải có nhân lực, vật lực, tài lực
tương đương. Một hoạt động
hoằng pháp quy mô lớn trong Phật pháp, nếu có từ
một vạn người, hai ba vạn người
trở lên tham gia, chúng ta hăy nghĩ xem cần phải có
địa điểm to lớn. Tất nhiên người
từ bốn phương tám hướng dồn
đến, phương tiện giao thông, chỗ ở,
ăn uống cho ngần ấy người chẳng
phải là chuyện dễ. Bởi thế, phải có
một tổ chức có khả năng mạnh mẽ
mới có thể chu toàn hoạt động ấy. Trong
hoạt động đó có những người
đến diễn giảng, giảng kinh, đương
nhiên cũng có khả năng là mọi người
đến cùng nhau niệm Phật, ai sẽ lănh chúng
niệm Phật? Chắc chắn cũng có những
người nhân cơ hội đó cầu được truyền
thọ Tam Quy Ngũ Giới.
Trong công tác trù bị, nhóm mời những
nghĩa công (volunteer, người
làm
công quả) đảm nhiệm việc tiếp đăi,
nghĩa công đảm nhiệm các bộ phận, số
người chẳng thể ít được! Tổ chức
một đại hoạt động như thế, rất
có thể phải cần đến một hai ngàn nghĩa
công, lại phải trù bị tài nguyên, tài lực, vật
lực thảy đều phải đầy đủ,
th́ hoạt động ấy mới thành công, mới tổ
chức viên măn được. Những việc ấy do
quốc vương, đại thần, trưởng
giả, cư sĩ hộ pháp thực hiện, trong xă
hội họ ủng hộ sự giáo học của
Phật pháp, thúc đẩy sự nghiệp hoằng pháp
lợi sanh. Nhà Phật chúng ta gọi là “pháp hội”,
người thời nay gọi là “hoạt động”. Lúc
Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n tại thế, những hoạt
động ấy lớn hay nhỏ, thời gian dài hay ngắn
không nhất định, suốt đời Ngài thực
hiện hơn ba trăm lượt, giảng kinh thuyết
pháp bốn mươi chín năm. Trong bốn mươi
chín năm, Ngài thực hiện hơn ba trăm lần
hoạt động. Hoạt động nhỏ th́ năm
ba ngày, hoạt động lớn có khi hai ba năm. Xưa
nay, trong nước, ngoài nước đều chẳng ra
ngoài lệ này; v́ thế, ngoại hộ hết sức quan
trọng.
Có rất nhiều vị ngoại hộ
nhiệt tâm dường ấy, ngoại hộ là những
chuyên viên, chứ không phải tay mơ; chư Phật,
Bồ Tát ứng hóa trong ấy. Trong nhà Phật
thường nói: “Một
đức Phật xuất thế, ngàn đức Phật
ủng hộ”. Trong số ngàn đức Phật
ấy, có khả năng là quá nửa hiện tướng
thế gian, mang thân phận tại gia đến hộ tŕ
Phật pháp, chứ chẳng phải là phàm nhân. Mọi
người cùng diễn một vở tuồng hay trên sân khấu,
nhằm mục đích ǵ? Nhằm mục đích giáo hóa
chúng sanh, dạy dỗ, hướng dẫn xă hội.
Chẳng riêng ǵ Phật giáo như thế, quư vị hăy chú
tâm quan sát kỹ, tất cả hết thảy tôn giáo
đều là giáo học của thần thánh.
Tôi cùng một số hiệu
trưởng các trường đại học bên này
cũng thường bàn luận về vấn đề này.
Hiện thời, sự giáo dục trong nhà trường chỉ
dạy khoa học kỹ thuật, công thương
nghiệp, dạy người ta cách kiếm tiền ra sao. C̣n
quan hệ giữa người với người, con
người phải yêu thương, giúp đỡ, tôn
trọng lẫn nhau th́ không hề giảng đến.
Bởi thế, tuy nền giáo dục của các
trường hiện nay rất phát đạt, nhưng
vấn đề xă hội ngày càng thêm nghiêm trọng.
Rốt cuộc là do nguyên nhân nào, có ai thực sự nghiêm
túc nghĩ đến hay chăng? Trong giáo dục hiện
tại, chẳng có sự giáo dục của thánh hiền, cho
nên chẳng có giáo dục về hạnh phúc. Chỉ có giáo
dục thánh hiền mới ḥng đạt được
hạnh phúc, an định, ḥa b́nh chân chánh.
6.1.1.6.3. Giảng tường
tận về Thanh Văn Chúng
6.1.1.6.3.1. Minh định
quả vị
Xin hăy xem tiếp:
Giai thị đại A La Hán, chúng sở
tri thức.
皆是大阿羅漢。眾所知識。
(Đều
là các vị đại A La Hán, được mọi
người quen biết).
“Giai
thị” nghĩa là một
ngàn hai trăm năm mươi lăm người ấy “đều là”. Chúng ta nghe nói như
vậy, biết rơ họ đều chẳng phải là
người tầm thường. A La Hán vốn là danh
xưng của quả vị Tiểu Thừa, quả
vị tối cao trong Tiểu Thừa gọi là A La Hán. A là
Vô, La Hán là Học; bởi thế, A La Hán dịch sang
tiếng Hán là Vô Học. Vô Học nghĩa là như nay chúng
ta nói “đă tốt nghiệp”. Công khóa tu học của anh
thảy đều viên măn cả rồi, chẳng c̣n ǵ
để học nữa, th́ gọi là tốt nghiệp
nơi pháp Tiểu Thừa. Nay ở đây, kinh chép là “đại A La Hán”, chỉ rơ
họ chẳng phải là Tiểu Thừa, mà là Đại
Thừa. Địa vị Vô Học trong Đại
Thừa là Thập Địa, tức là địa vị Pháp
Vân Địa thứ mười trong mười
Địa. Nói cách khác, một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị đây, học vị thấp
nhất là Pháp Vân Địa Bồ Tát, địa vị cao
lắm!
Kinh Nhân Vương chia Bồ Tát thành
năm bậc, đều dùng chữ Nhẫn để gọi,
cao nhất là Tịch Diệt Nhẫn. Pháp Vân Địa
Bồ Tát là Tịch Diệt Nhẫn. Thấp hơn một
bậc là Vô Sanh Pháp Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn ai nấy
đều nghe quen, trong kinh nhắc đến rất nhiều.
Trong kệ Hồi Hướng cũng thường nói
đến, c̣n Tịch Diệt Nhẫn ít nghe đến
hơn. Tịch Diệt Nhẫn cao hơn Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Trong bài kệ Hồi Hướng của Tịnh
tông, chúng ta thường niệm: “Hoa khai kiến Phật
ngộ Vô Sanh”, thường niệm hoài! Ngộ Vô Sanh
tức là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn là Thất
Địa, Bát Địa, Cửu Địa, ba địa
vị này chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Địa thứ mười, Đẳng Giác, Diệu Giác
(Diệu Giác là quả vị Như Lai), ba địa
vị này là Tịch Diệt Nhẫn, thanh tịnh tịch
diệt. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Sanh
diệt kư diệt, tịch diệt hiện tiền” (Sanh
diệt đă diệt rồi, tịch diệt hiện
tiền), nói về cảnh giới này, đây là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn! Như vậy, quư
vị mới hiểu thân phận rốt ráo của những
vị đó. Trên sân khấu, họ đóng những vai khác
nhau, chứ sự thật đều là Phật, Bồ Tát
Tịch Diệt Nhẫn.
Đă nói đến A La Hán th́ cũng
phải giới thiệu đơn giản như thế
này:
Trong danh từ A La Hán bao gồm ba ư
nghĩa:
1) Thứ nhất là Ứng Cúng.
Phước huệ viên măn, trong Tiểu Thừa là tiểu
viên măn, trong Đại Thừa là đại viên măn. Ngài
xứng đáng tiếp nhận đại chúng cúng
dường, cho nên gọi là Ứng Cúng. V́ sao? Ngài thực
sự là ruộng phước cho hết thảy chúng sanh,
cúng dường Ngài có phước báo, gieo phước
điền! Phước báo rốt cuộc ở tại
đâu? Ta gieo phước ấy, ta được
những ǵ? Con người hiện thời khởi tâm
động niệm chẳng ĺa khỏi tánh thực dụng,
đúng là rất thực dụng, không giả chút nào!
Vị A La Hán đó có trí huệ, có đạo đức,
có năng lực, chúng ta cúng dường Ngài, phục
vụ Ngài, chúng ta không có trí huệ, chẳng có phước
báo, Ngài trụ trong thế gian này, hoặc bất luận
trụ trong thế giới nào, Ngài luôn mang thiện tâm
thiện ư giáo hóa chúng sanh, dạy những ǵ? Dạy làm sao
tu phước, dạy làm sao tu huệ. Quư vị nói xem
hạng người như vậy ta có nên cung kính cúng
dường hay chăng? Chúng ta cung kính cúng dường có
phải là được phước báo hay chăng? Thực
sự được phước báo.
Trong sự nghiệp của Ngài, ta có
một phần duyên trong đó. Cúng dường bất
luận là bao nhiêu, thành tâm, thành ư, đó là pháp b́nh
đẳng. Cúng dường bao nhiêu không bàn đến,
thành tâm thành ư cúng dường, tận tâm tận lực cúng
dường, quư vị đạt được
phước huệ trọn phần. Tận tâm tận
lực cúng dường, thành tâm thành ư cúng dường, quư
vị đạt phước huệ chân thật. Quư
vị ức niệm Ngài, quan sát Ngài, thường xuyên
nghĩ đến Ngài, tự nhiên ta sẽ sanh trí huệ,
sanh phước đức. Chúng ta học Phật, thử
hỏi có phải là chúng ta thường nghĩ đến
Thích Ca Mâu Ni Phật, hoặc thường nghĩ
đến A Di Đà Phật, thường xuyên quán sát Thích
Ca, Di Đà. Các Ngài chẳng ở đây, ta quan sát bằng
cách nào? Trong kinh điển giới thiệu rất rơ ràng, đọc
tụng kinh điển là quan sát những hành vi của các
Ngài.
Ngài đối với hết thảy
mọi người, đối với hết thảy chúng
sanh - hết thảy chúng sanh ở đây bao gồm cả
hoàn cảnh tự nhiên, thực vật, khoáng vật.
Hiện tượng tự nhiên đều do các duyên ḥa
hợp mà sanh; bởi thế, đều gọi là “chúng
sanh”. Quán sát Ngài đối đăi thiên địa quỷ
thần bằng cái tâm ǵ, thái độ như thế nào,
hành vi ra sao? Chúng ta phải học tập theo đó. Bởi
lẽ, tấm ḷng, thái độ, cách làm của Ngài
đều là thuần chánh, chánh chứ không tà, giác chứ
không mê, tịnh chứ chẳng nhiễm, thuần tịnh,
thuần chánh, thuần giác. Quư vị tụng kinh, hằng
ngày niệm kinh, miệng có, tâm không, chẳng thể
đạt được lợi ích. Quư vị xem chẳng
phải là cổ đức thường dạy chúng ta: “Tụng kinh phải tùy văn
nhập quán” đó sao? Dơi theo kinh văn, khiến cho kinh
văn và tâm ḿnh dung hợp thành một thể, th́ gọi là
“tùy văn nhập quán”, thực sự biến thành
của ḿnh th́ mới thực sự được lợi
ích.
Nếu kinh vẫn là kinh của Thích Ca
Mâu Ni Phật, tư tưởng kiến giải của chính
ḿnh vẫn là phiền năo tập khí th́ có ích ǵ? Đọc
kinh kiểu đó chỉ là tốt lành ngoài miệng mà thôi,
tâm hạnh chẳng hề thay đổi, chẳng dung
nhập, chẳng khế nhập. Bởi thế, quư vị
chẳng thể khế nhập cảnh giới nói trong kinh
luận. Quư vị chẳng hấp thụ được
một tí xíu xiu chất bổ nơi kinh luận! Kinh
ấy chỉ niệm xuông; thời gian, tinh lực
đều lăng phí hết. Nói dễ nghe hơn một chút là
“một phen thoảng qua tai,
vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”,
gieo hạt giống vào A Lại Da Thức mà thôi, hiện tại
chẳng khởi tác dụng. Nói như vậy cũng là thật,
chẳng giả đâu! Do vậy, có đọc vẫn hơn
tốt hơn không đọc. Bất luận quư vị hữu
tâm hay vô tâm, trong A Lại Da thức đều được
gieo hạt giống. Hữu tâm, có ư thức đọc th́ sức
của chủng tử ấy mạnh hơn một chút. Vô
tâm, vô ư, bất đắc dĩ miễn cưỡng
tiếp nhận th́ sức của chủng tử ấy
rất yếu mỏng. Bố thí, cúng dường là tu
phước! A La Hán là Ứng Cúng.
Trước lúc chứng A La Hán th́ ôm bát
khất thực, bởi thế trong nhà Phật gọi
Khất Sĩ; tỳ-kheo xưng là Khất Sĩ (chữ
tỳ-kheo có ba ư nghĩa); chứng A La Hán rồi, chẳng
gọi là Khất Sĩ nữa, mà gọi là Ứng Cúng.
Khất là khất thực, người Trung Quốc
gọi là “khất cái” (ăn mày), nhưng họ chẳng
phải là Cái mà là Sĩ. Sĩ là ǵ? Là người
đọc sách ở Trung Quốc. Tỳ-kheo có đạo
đức, có học vấn, nên gọi là Sĩ.
2) Ư nghĩa thứ hai, A La Hán có nghĩa
là Sát Tặc (giết giặc). Trong quá khứ, trước
kia tôi ở Đài Loan, đă từng có một vị linh
mục Thiên Chúa giáo cũng thường xem kinh Phật. Có
lần, ông ta hỏi tôi: “Sao A La Hán vẫn c̣n bất
thiện như thế? Ông ta c̣n sát tặc! Phật giáo các
ông nói chẳng sát sanh, sao ông ta lại giết giặc?”
Đó là đọc theo văn tự, chẳng hiểu rơ ư
nghĩa bên trong. “Tặc” ở đây không phải là
người, mà là ǵ? Là phiền năo, ví phiền năo như kẻ
giặc. Bởi lẽ, nếu chúng ta gặp phải
giặc, tài vật sẽ bị chúng nó cướp hết,
tổn thất tài vật.
Phật nói con người có phiền năo
(Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, Vô Minh
phiền năo) chướng ngại pháp tài công đức
nơi tự tánh, khác nào bị kẻ trộm đoạt
đi, chẳng dùng được, chẳng thọ dụng
được. Bởi thế, ví phiền năo như
giặc, Sát Tặc là đoạn phiền năo, là chuyển biến
phiền năo, có nghĩa như vậy, chứ chẳng
phải là thực sự giết người! Phật,
Bồ Tát dầu gặp kẻ trộm vặt hay
cường đạo đến uy hiếp, cướp
đoạt, các Ngài vẫn gật gù, cười mỉm,
hoan hỷ, sung sướng, chắc chắn chẳng so
đo, lẽ đâu giết nó! Bởi thế, Tặc
ở đây là phiền năo. Tại nhân địa (khi c̣n tu
nhân), tức là nơi tỳ-kheo th́ xưng là Phá Ác, tức
là đoạn ác tu thiện.
3) Thứ ba, A La Hán có nghĩa là Vô Sanh.
Tiểu Thừa A La Hán chẳng c̣n thọ sanh trong luân
hồi lục đạo, đă dứt sanh tử trong luân
hồi lục đạo. Họ có vào luân hồi lục
đạo là thừa nguyện tái lai, chứ chẳng v́
nghiệp lực, bởi thế gọi là Vô Sanh. Nơi nhân
địa, tỳ-kheo xuất gia gọi là Bố Ma.
Một người thực sự phát tâm xuất gia, Ma
Vương đau đầu, cảm thấy hoảng
sợ, v́ sao? Ma Vương ái dục hết sức
nặng, mà cũng hết sức chấp trước.
Hắn thống trị thế gian này, tất cả
hết thảy người, hết thảy chúng sanh trong
thế gian hắn đều cho là quyến thuộc
của ḿnh. Nay quyến thuộc đó phát tâm xuất gia,
muốn ĺa khỏi hắn, muốn vượt khỏi tam
giới lục đạo, hắn rất bực bội, cho
nên hoảng hốt. Đó là ư nghĩa thứ ba.
Nay chúng ta hiểu Đại A La Hán, Đại
A La Hán Vô Sanh, phải nhanh chóng đoạn hết vô minh,
bốn mươi mốt phẩm vô minh chỉ c̣n hai
phẩm chưa đoạn, thực sự vô sanh. Sát
Tặc cũng là đoạn phiền năo, đoạn
sạch Trần Sa phiền năo, đoạn sạch Kiến
Tư phiền năo, Vô Minh phiền năo cũng sẽ phải
đoạn sạch. Trí huệ, năng lực,
tướng hảo giống như Phật quả,
chẳng kém Như Lai cho mấy, hết sức gần,
Bởi thế, Ngẫu Ích đại sư lại bảo
chúng ta: Các vị ấy đều là Pháp Thân đại
sĩ, thị hiện thân phận Thanh Văn để v́
chúng ta chứng minh pháp môn Tịnh Độ tŕ danh niệm
Phật này chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, gọi là
Đại.
Những vị ấy gần bên
đức Phật, mỗi cá nhân đều thị
hiện có năng lực thù thắng, nay chúng ta gọi là
“chuyên trường” (sở trường). Mỗi cá nhân
đều có sở trường thù thắng,
được đại chúng trong xă hội biết
đến, cũng như nay ta nói “mức độ
nổi danh rất cao”. Những vị ấy hằng ngày
theo Phật, học tập theo Phật, người
thế gian trông thấy như vậy sẽ chịu
ảnh hưởng của họ: Nhất định là
Phật rất có đạo đức, rất có học
vấn; nếu không, những vị kia sao lại học
với Ngài? Bởi thế, các vị ấy là Ảnh
Hưởng Chúng của hết thảy đại chúng.
Giúp Phật giáo hóa chúng sanh, đó là “chúng sở tri thức”. “Chúng” là đại chúng trong xă hội. Đại
chúng trong xă hội đều hay biết, mức độ
nổi danh rất cao, ai nấy đều nhận biết
(“tri thức”). Hoặc có thể nói: Tri là nghe tiếng,
Thức là từng gặp mặt. Hiểu ở mức
độ sâu hơn, Tri là biết người ấy,
cũng như đă từng gặp gỡ người
ấy; Thức là ǵ? Thức là khá hiểu rơ, biết rơ
người ấy. Tiếp đó, kinh nêu danh hiệu các
bậc Thượng Thủ.
6.1.1.6.3.2. Nêu tên chúng Thanh
Văn thượng thủ
Trưởng lăo Xá Lợi Phất.
長老舍利弗。
Tổng cộng gồm mười sáu
vị. Ngẫu Ích đại sư chia thành sáu loại
lớn:
1) Loại thứ nhất là đạo
đức, trí huệ, tài năng, “đức huệ tài
năng” là loại thứ nhất.
2) Loại thứ hai tương phản
sít sao, “ngu muội độn căn”. Ngu muội
độn căn chỉ có một vị, trong mười
sáu vị chỉ có một vị, khi nào giảng
đến, tôi sẽ giới thiệu cùng quư vị.
3) Loại thứ ba là “hiển thị
nhân quả”. Hiển (顯) là tỏ rơ, Thị
(示) là tŕnh bày. Quá
khứ gieo nhân, hiện tại chịu quả báo.
4) Loại thứ tư hoàn toàn
tương phản, “thiện tàng dưỡng hối”
(khéo giấu công phu tu dưỡng). Các vị này thực
sự có đạo đức, có học vấn, có năng
lực, nhưng chẳng tỏ lộ. Quư vị thấy
họ tựa hồ tầm thường, nh́n chẳng ra
đâu. Người Trung Quốc thường nói những người
như vậy là “thâm tàng
bất lộ”; nhưng Ngẫu Ích đại sư dùng
nhóm chữ ấy rất hay, thâm tàng bất lộ không bằng
“thiện tàng dưỡng
hối”.
5) Loại thứ năm là “thế pháp
phương tiện”, tức là tùy thuận thế gian, hành
pháp phương tiện.
6) Cuối cùng là “tinh tấn phá
chướng”, dũng mănh, tinh tấn phá nghiệp
chướng.
Chia thành sáu loại, nay chúng tôi giới
thiệu từng vị một.
Vị thứ nhất là Xá Lợi
Phất (Śāriputra), “trưởng
lăo Xá Lợi Phất”. Trong Phật pháp, Ngài đức
cao trọng vọng, lại c̣n cao tuổi. Tuổi tác
trẻ quá chẳng thể xưng là “trưởng lăo”, nói chung phải có tuổi
một chút. Trong quá khứ phải từ bốn
mươi tuổi trở lên. Người bốn
mươi tuổi trở lên, có đạo đức, có
học vấn mới xưng là Trưởng Lăo. Phật
môn cũng chẳng ngoại lệ, nhà Phật tính theo
thời gian xuất gia. Quư vị xuất gia đă lâu, có
đạo đức, có học vấn, mọi
người tôn xưng là Trưởng Lăo. Trong các
đồng học, ngài Xá Lợi Phất đại
diện cho trí huệ bậc nhất. Nếu nói theo cách bây
giờ, Ngài là một triết gia.
Trong xă hội đương thời,
vị này đức cao trọng vọng, mọi
người đều biết Xá Lợi Phất trí
huệ trác tuyệt, biện tài vô ngại, suốt cả
đời chưa từng gặp đối thủ.
Thử nghĩ con người như thế theo học
với Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời chẳng ĺa
khỏi Thích Ca Mâu Ni Phật, ở sát bên Thích Ca Mâu Ni
Phật th́ Thích Ca Mâu Ni Phật là người như
thế nào mà có thể khiến cho Xá Lợi Phất tâm
phục, khẩu phục, biểu hiện ra hành
động như thế? Tất nhiên Thích Ca Mâu Ni Phật
đáng để chúng ta tôn kính, đáng để chúng ta
học theo. Quư vị nh́n vào Xá Lợi Phất th́ hiểu
Ngài giúp Phật giáo hóa chúng sanh. Chúng tôi đọc trong kinh
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nói Xá Lợi Phất là cổ
Phật tái lai, đă thành Phật từ bao nhiêu kiếp
trước. Nay Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành
Phật tại nơi đây, Ngài cũng đến, thị
hiện thân phận Thanh Văn, giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo
hóa. Vị thứ hai là:
Ma Ha Mục Kiền Liên.
摩訶目犍連。
Ma Ha (Mahā) là
tiếng Phạn có nghĩa là Lớn. Đương
thời, tôn giả Mục Liên (Maudgalyāyana) cũng
rất nổi danh, được biết đến
rất nhiều. Sở trường của Ngài là “thần
thông đệ nhất”, cũng giống như nay ta nói
Ngài là nhà khoa học. Thần thông của các nhà khoa học
hiện nay thực sự chẳng thể so sánh với ngài
Mục Kiền Liên. Thiên nhăn của ngài Mục Kiền Liên
thấy được tam thiên đại thiên thế
giới, thấy được thế giới nhỏ li
ty. Khoa học gia hiện tại phát minh ra những khí
cụ: Viễn vọng kính có thể thấy được
rất xa, kính hiển vi thấy được thế
giới vi sinh vật; nhưng các nhà khoa học sáng chế
rất nhiều khí cụ, lợi dụng những khí
cụ đó để quan sát, chứ ngài Mục Liên không
cần đến chúng. Ngài thị hiện thần thông
biến huyễn khiến cho người ta tôn kính. Hai
vị tôn giả này đều là đạo đức, trí
huệ, tài nghệ vượt trỗi hơn người,
trong tất cả các đồng học, nói theo cách chúng ta hiện
thời, hai ngài là bậc nhân tài kiệt xuất. Vị
thứ ba là:
Ma Ha Ca Diếp.
摩訶迦葉。
Vị này cũng thị hiện rất
nhiều tài nghệ. Ma Ha dịch là Đại, Đại
Ca Diếp (Mahā-Kāśyapa). Ngài có
năm trăm đồ chúng (đệ tử), sau
đều quy y Thích Ca Mâu Ni Phật, toàn bộ biến thành
Thường Tùy Chúng của Phật. Danh hiệu Ca Diếp
có nghĩa là Ẩm Quang (uống ánh sáng); trên thân Ngài có ánh
sáng vàng, ánh sáng vàng ṛng từ đâu có? (Bởi thế Ngài
cũng là thị hiện nhân quả). Trong quá khứ, Ngài
dùng vàng ṛng tu bổ tượng Phật. Tượng
Phật cũ rồi, tượng Phật thếp vàng, nhưng
vàng thếp bị rớt mất, chẳng c̣n trang nghiêm
nữa. Ngài phát tâm thếp vàng, bởi thế, cảm
được quả đời đời kiếp
kiếp thân có ánh sáng vàng ṛng. nhục nhăn phàm phu không
thấy được sự việc này, chứ nói thật
ra, hoàn toàn không khó thấy, người tu Định
đều có thể thấy. Tâm địa thanh tịnh th́
quư vị sẽ thấy thân của mỗi cá nhân
đều có ánh sáng vàng ṛng, màu sắc chẳng giống
nhau, lớn nhỏ khác nhau. Từ màu sắc của ánh sáng
có thể biết được t́nh trạng sức
khỏe, đó là điều người hiện thời
rất quan tâm. Rất nhiều người luyện Khí Công
có chút thành tựu, thấy được khí của
người khác, nhà Phật chúng ta gọi là Quang, họ
gọi là Khí.
Khi trước tôi ở Mỹ Quốc,
ở Gia Nă Đại, từng gặp những
người có công năng đặc dị từ Trung
Quốc đến. Họ là bậc thầy Khí Công, bọn
họ dạy Khí Công ở đó. Họ đều có
thể thấy được, thấy người nào trên
thân có quang minh hoàng kim là tốt nhất. Ánh sáng vàng, ánh sáng
trắng, ánh sáng đỏ, ánh sáng lam, ánh sáng màu tro, rất
nhiều thứ. Thầy Khí Công cũng trị bệnh cho
người ta, họ trị bệnh bằng cách nh́n màu
của Khí, t́m ra bộ vị mắc bệnh, sau đó
mới trị liệu, cũng có hiệu quả kha khá. Bởi
thế, người theo học rất nhiều. Giống
như họ thấy được, người tu
Định cũng thấy được.
Tôn giả Ca Diếp là kim quang, quang minh
màu vàng ṛng, Ngài là vị Đầu Đà đệ
nhất. Đầu Đà (Dhuta) là khổ hạnh, khổ
hạnh Tăng. Ngài Ma Ha Ca Diếp nhà cửa giàu có,
xuất thân là con cháu gia đ́nh giàu có mà có thể tu khổ
hạnh, thật hiếm có, đáng quư! Nếu xuất thân
từ gia đ́nh bần cùng mà tu khổ hạnh th́ nói
trắng ra chẳng khiến mấy ai chú ư. Ngài xuất thân
từ gia đ́nh phú quư, lại muốn tu khổ hạnh,
đại chúng trong xă hội rất chú ư. V́ sao Ngài sống
cuộc đời như thế? Trong phương thức
sanh hoạt ấy nhất định có đạo lư,
nếu không, sao Ngài lại vứt bỏ phú quư, buông bỏ
hết thảy hưởng thụ, đi tu khổ
hạnh? Tu khổ hạnh, tham, sân, si, mạn, danh văn,
lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thảy
đều thực sự buông xuống. Buông xuống liền
được đại tự tại! Thích Ca Mâu Ni
Phật “niêm hoa vi tiếu”
(cầm cành hoa giơ lên mỉm cười), đại
chúng trong pháp hội khi ấy đều cảm thấy
hoang mang, chẳng biết Thích Ca Mâu Ni Phật ngụ ư ǵ?
Thật ra, chư vị phải hiểu
các Ngài đều diễn tuồng. Một ngàn hai trăm
năm mươi lăm vị ấy, đừng nói chi
khác, chỉ đơn giản là Thường Tùy Chúng
của đức Thế Tôn, đều là đại A La
Hán, lẽ đâu chẳng biết! Đương nhiên là
biết! Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đều
là cổ Phật tái lai, ngài Ca Diếp cũng là cổ
Phật tái lai. Vai kịch cuối cùng giao cho Ngài diễn,
dành cho ngài Ma Ha Ca Diếp biểu diễn. Bởi thế, ngài
Ca Diếp thấy động tác ấy của đức
Thích Ca Mâu Ni Phật bèn mỉm cười, Thích Ca Mâu Ni
Phật giao cành hoa cho tôn giả, nói: “Ta có Niết Bàn
diệu tâm, Ca Diếp hiểu được ư ấy, bèn
giao cho ông ta”. Ngài trở thành Sơ Tổ Thiền Tông. Câu
chuyện này có chép trong kinh điển.
Bởi vậy, Ngài “khổ
hạnh thanh cao”, Thiền
tâm là chân tâm, mọi
người
chúng ta thấy Ngài rất khổ, cuộc sống rất
khổ. Thật ra, Ngài sướng ta không hiểu nổi. Ngài
ở trong cảnh giới Thiền, chúng ta sống trong
ngũ dục lục trần, khổ lắm! Các Ngài
thấy đó là khổ. Ta thấy các Ngài khổ, các Ngài
thấy ta khổ. Ta cho ḿnh rất vui, ta chẳng hiểu
được niềm vui của các Ngài. Niềm vui Thiền
Duyệt, đừng nói chúng ta không thể hiểu tí xíu ǵ
về niềm vui Thiền Duyệt, ngay cả niềm vui
đọc sách chúng ta cũng chưa thể hiểu
nổi. Khổng lăo phu tử nói “học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học
rồi làm theo, cũng chẳng vui ư), nay chúng ta “học
rồi làm theo, chẳng khổ lắm ư?” Khổ quá
chừng, vui ở chỗ nào? Bởi thế, đừng
nói là cảnh giới của Phật, Bồ Tát; cảnh
giới của Khổng lăo phu tử đă có mấy ai
hiểu nổi? Trong lịch sử Trung Quốc,
người thực sự hiểu được niềm
vui đọc sách chẳng có mấy ai! Hiểu
được niềm vui đọc sách đều là thánh
hiền. Hiểu được niềm vui Thiền
Duyệt là cảnh giới của Bồ Tát, đâu
phải cảnh giới phàm nhân!
Tối cao là “sanh
diệt đă diệt, tịch diệt là vui”, là sở
chứng thuộc quả vị Như Lai. Từ Cửu
Địa Bồ Tát trở về trước đều
không có cách chi hiểu được. V́ thế, trong pháp
tánh có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, là chuyện
thật, chứ không phải giả. Thường là
bất sanh, bất diệt, vĩnh hằng bất
biến. Lạc là niềm vui thực sự, quyết
định chẳng khổ. Ngă là chủ tể, là tự
tại. Tịnh là thanh tịnh, mảy trần chẳng
nhiễm. Trong tự tánh vốn sẵn có [những đức
năng] như thế, đức Phật gọi là “tứ tịnh đức”, [tức
là] bốn thứ đức lớn thanh tịnh, hết
thảy chúng sanh ai nấy đều có đủ.
V́ sao bốn tịnh đức của
quư vị chẳng hiện tiền? V́ vọng tưởng,
chấp trước, nên chẳng thể chứng
đắc. Ĺa vọng tưởng, chấp trước là
Thiền Định rất sâu. Bởi thế, Thiền
Định chẳng phải là “diện
bích” (nh́n vào vách), Thiền Định diện bích
chẳng khởi tác dụng. Thiền Định là
sống động, trong hết thảy thời, hết
thảy chỗ, đi, đứng, nằm, ngồi
thảy đều là Thiền, v́ hết thảy chúng sanh
thị hiện mọi thứ, giáo hóa đủ cách. Tâm
kẻ ấy là tâm thanh tịnh, chẳng hề khởi tâm,
động niệm; phân biệt, chấp trước,
thảy đều chẳng có. V́ sao họ làm được
như vậy? Tánh đức tự nhiên lưu lộ, pháp
vốn là như vậy, người ấy vốn sẵn
là như vậy.
V́ vậy, nếu quư vị hỏi v́ sao những
mẫu nước kết tinh của tiến sĩ Giang Bổn
Thắng lại có những biến hóa như thế? Nó vốn
sẵn là như thế, chắc chắn chẳng hề có
mảy may vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước nào, nhất định chẳng có; nhưng nước
có năng lực, năng lực ấy là bản năng (năng
lực sẵn có) có thể phản ứng thuận theo hoàn
cảnh bên ngoài. Do phản ứng nên tạo thành biến hóa.
T́nh h́nh, năng lượng bên ngoài thiên biến vạn hóa,
nước cũng phản ứng biến hóa theo. Bởi vậy,
chắc chắn chẳng có hai kết tinh giống nhau. Điều
này cho thấy hết thảy chúng sanh chẳng có hai người
có cùng ư niệm, v́ ư niệm sanh diệt trong từng sát-na.
Trong một đời này, đời đời kiếp kiếp,
chắc chắn quư vị chẳng có hai ư niệm nào hoàn toàn
tương đồng! Từ phản ứng kết tinh của
vật chất, quư vị có thể chứng minh được
điều đó. Lại xem tiếp vị thứ tư:
Ma Ha Ca Chiên Diên.
摩訶迦旃延。
Đây cũng là bậc đức
huệ, tài năng, luận nghị bậc nhất. Ca Chiên
Diên (Katyayana) là tiếng Phạn, dịch nghĩa
sang tiếng Hán, th́ cổ nhân có vị dịch là Văn
Sức. Văn
(文) là văn thái
(phong cách văn chương), Sức (飾)
là bóng bảy. Nói theo ngôn từ hiện thời, Ngài là nhà
văn học, cũng là vị rất nổi danh trong xă
hội đương thời, luận nghị bậc
nhất. Luận nghị, có thể nói theo cách bây giờ là
b́nh luận gia. Muốn trở thành một b́nh luận gia,
nhất định phải biết nhiều thấy
rộng, học rộng nghe nhiều th́ mới làm
được. Ngài có học vấn cao thâm, thực sự
có trí huệ, học thức phong phú, mới có thể thành
một b́nh luận gia hạng nhất được,
luận nghị bậc nhất. Nay đă hết giờ
rồi.
Trung Phong Tam Thời Hệ
Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng
Kư,
phần 2 hết
[1] Nghĩa thú: Chỗ quy kết của
toàn bộ nghĩa lư trong một bộ kinh.
[2] Tỳ-kheo Cát Tường Vân
(Meghasrī-bhiksu), c̣n được dịch là tỳ-kheo
Đức Vân (trong Bát Thập Hoa Nghiêm).
[3] Bản Phổ Hiền Bồ Tát
Hạnh Nguyện Phẩm hiện đang lưu hành
hiện thời là quyển cuối bị thiếu trong
bản Tứ Thập Hoa Nghiêm, bản Bát Thập Hoa Nghiêm
gọi phẩm tên phẩm này là Nhập Pháp Giới. Trong
Tứ Thập Hoa Nghiêm, phẩm này có tên gọi là Phổ
Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, gồm 40
quyển.
[4] Biểu giải là chia nội dung
của một văn bản thành những đoạn
(gọi là khoa mục), lập tựa đề cho từng
đoạn (khoa đề) nhằm nói lên những ư
nghĩa chính của đoạn đó, rồi vẽ thành
biểu đồ. Nói cách khác, lập “biểu giải”
trong khoa phán giống như lập một sườn bài
ghi những chủ đề chính yếu cho một văn
bản, nhằm thể hiện kết cấu của
văn bản ấy. Nh́n vào biểu giải, người
giảng kinh sẽ dễ dàng nắm được ư nghĩa
của toàn bộ bản kinh cũng như tùy ư nói rộng
hay hẹp mà không sợ lạc đề, quên mất ư
chính. Để lập biểu giải, phải nghiền
ngẫm ư kinh, t́m ra được những ư tưởng
chính yếu trong từng đoạn cũng như ư chính
tổng quát của bản kinh, nên lăo pháp sư mới nói: “Chương pháp, kết cấu,
hệ thống của kinh đều bày ra được
hết th́ quư vị đă thông đạt bộ kinh
ấy”.
[5] Đây là cách phân đoạn bản chú
giải thuở xưa. Chẳng hạn phân đoạn
thứ nhất là Giáp, trong phân đoạn đó có ba
đoạn nhỏ, th́ mỗi đoạn nhỏ
được đánh số là Ất. Trong mỗi
đoạn Ất, lại chia thành nhiều ư nhỏ th́
mỗi ư nhỏ được đánh số là Bính v.v...
[6] Thiên Can là Giáp, Ất, Bính, Đinh v.v…
Địa Chi là Tư, Sửu, Dần, Măo v.v… Can có nghĩa là
thân chính, Chi là cành nhánh. Cách đánh số thứ tự này
được đặt ra từ nhà Hạ. Có nhiều
cách giải thích tên gọi của Thiên Can, phổ biến
nhất là dựa theo ư nghĩa chu kỳ sinh trưởng
của thực vật, chẳng hạn Can là vừa
nứt mầm, Ất là mầm cây trồi lên khỏi
mặt đất, Bính là tăng trưởng là mạnh
mẽ, cho đến Tân là hạt đă chín rơi
xuống, chuẩn bị cho chu kỳ sinh trưởng
kế tiếp, Nhâm là cây bắt đầu suy kiệt, Quư
là cây tàn lụi, vùi trở lại trong ḷng đất.
Địa Chi là cách chia quỹ đạo vận hành
của Mộc Tinh (sao Jupiter) thành 12 cung, họ gọi
Mộc Tinh là Tuế Tinh (ngôi sao chỉ sự vận hành
của một năm), tương ứng với chu kỳ
vận hành của Mộc Tinh trong 12 năm. Để
dễ nhớ, họ gán mỗi cung cho một con vật.
Dần dà Thiên Can, Địa Chi được phối
hợp với Âm Dương Ngũ Hành, vận dụng
trong bói toán, mang nhiều ư nghĩa rắc rối phức
tạp hơn là những kư hiệu để ghi nhớ
năm tháng như thuở đầu.
[7] Số Ả Rập (Arabic numeric system):
tức những số 1, 2, 3, 4… ta thường dùng hiện
tại. Gọi là số Ả Rập v́ hệ thống này
do người Ả Rập truyền vào châu Âu.
Trước kia, châu Âu chỉ biết dùng số La Mă.
[8] Phanh âm (hay c̣n đọc là bính âm) là
một cách phiên âm tiếng Quan Thoại bằng hệ
thống kư hiệu (người Hoa c̣n gọi nó là “chú âm phù
hiệu”) cũng như dùng mẫu tự Latin để ghi
âm, chẳng hạn như chữ “phóng hạ” (buông
xuống) trong tiếng Hán Việt, âm Quan Thoại
được ghi là fàng xià. Hoa Nghiêm tự mẫu tức
là 42 chữ cái của Phạn văn (Tất Đàm văn
tự - Siddham Sankrit), mỗi một chữ được
kinh Hoa Nghiêm giảng tương ứng với một pháp
môn giải thoát.
[9] Điển chương là danh xưng
để gọi chung tất cả những quy
định, pháp lệnh, sắc lệnh trong một triều
đại.
[10] B́nh Thành là niên hiệu của vua
Nhật hiện tại (Minh Nhân thiên hoàng - Akihito),
được sử dụng kể từ năm 1989 (B́nh
Thành nguyên niên). Theo hoàng gia Nhật, niên hiệu này xuất
phát từ phần Ngũ Đế Bản Kỷ sách
Sử Kư Tư Mă Thiên: “Phụ
nghĩa, mẫu từ, huynh hữu, đệ cung, tử
hiếu, b́nh nội, ngoại thành” (Cha có nghĩa, mẹ
nhân từ, anh nhường nhịn, em cung kính, con hiếu
thảo, trong b́nh yên, ngoài thành tựu).
[11] Lịch Hồi Giáo (At-taqwīm
al-hijrī) là âm lịch, cách tính toán rất phức
tạp. Mỗi năm có 354 hoặc 355 ngày, chia thành 12 tháng.
Năm thứ nhất trong lịch Hồi giáo là năm 622,
tức năm giáo chủ sáng lập đạo là Muhammad (Mohamed)
và bầy tôi là Abu Bakr phải bỏ trốn từ Mecca sang
Medina nhằm tránh né một cuộc mưu sát (cuộc
lưu vong này thường được gọi là Hijra
trong sử Hồi Giáo). Cách tính của lịch Hồi Giáo rất
phức tạp, tháng quan trọng nhất là tháng Chín
(Ramadan), tức mùa chay, tín đồ Hồi Giáo phải nhịn
ăn từ lúc mặt trời mọc cho đến khi mặt
trời lặn trong suốt tháng ấy.
[12] Tông: Điều chánh yếu hay pháp môn
chánh yếu được đề cao bởi một
bộ kinh. Hay nói theo ngôn ngữ hiện thời là chủ
đề chính của một bộ kinh.
Thú: Kết quả, mục tiêu sẽ đạt
được do tu tập pháp môn ấy.
[13] Ḍng chảy ở đây chính là “hải
lưu” (ocean current). Những ḍng hải lưu ấy
thường chuyển động theo chiều kim
đồng hồ ở Bắc Bán Cầu và ngược
chiều kim đồng hồ ở Nam Bán Cầu. Chúng sanh
ra do tỷ trọng và nhiệt độ của nước,
hướng gió khác nhau trên từng vùng biển. Nổi
tiếng nhất là hải lưu
[14] Thiên chân Niết Bàn: Niết Bàn của
Tiểu Thừa chưa viên măn, thấy chân tướng
sự thật c̣n thiên lệch, chưa viên măn, chấp vào
tịch diệt, nên c̣n gọi là “trầm không, trệ
tịch”.
[15] Phạm sát (Brahmākshetra):
Phạm có nghĩa là thanh tịnh. Sát có nghĩa là khu
vực, chẳng hạn Phật độ, Phật
quốc, đều gọi là Phật sát. Phạm sát có
nghĩa là ngôi chùa thanh tịnh.