Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Kư
phần 3
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Viện
Úc Châu
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Tập 07
Xin xem tiếp
Hệ Niệm Pháp Sự, phần A Di Đà Kinh. Lần
trước đă giảng đến vị thứ tư
trong mười sáu vị tôn giả, nay bắt đầu
từ vị thứ năm:
Ma Ha Câu Hy La.
摩訶俱絺羅。
Vị này là cậu ngài Xá Lợi Phất.
Trước kia, Ngài cũng là một nhân vật nổi tiếng
trong xă hội, cũng khá tự phụ, thích cùng người
khác biện luận. Trước kia, biện luận cùng chị,
Ngài luôn chiếm thế thượng phong; từ khi bà chị
mang thai, mỗi lần tranh luận Ngài đều thua. Ngài
nghĩ: “Không đúng rồi!
Thật ra chị ḿnh chẳng có năng lực ấy, không
căi hơn được ḿnh, chắc là đứa bé
đang nằm trong bụng phải là một đứa trẻ
có trí huệ. Đứa trẻ này sanh ra, nó là cháu ruột
ḿnh, ḿnh là cậu nó. Nếu ta biện luận thua nó, c̣n mặt
mũi ǵ làm cậu nữa!”
Bởi thế, bèn đi học đạo, đến các
nơi cầu thầy hỏi bạn, trong nhà Phật gọi
là “tham học”. Dũng mănh
tinh tấn, ngay cả thời gian để cắt móng tay
cũng không có; v́ thế Ngài để móng tay rất dài.
Người được mọi người kêu là
Trường Trảo Phạm Chí (thầy tu Bà La Môn để
móng tay dài) chính là Ngài vậy.
Sau này, Xá Lợi Phật sanh ra, quả nhiên trí
huệ phi phàm. Sau đấy, Xá Lợi Phất theo học
với Thích Ca Mâu Ni Phật, ngài Câu Hy La chẳng phục,
t́m Thích Ca Mâu Ni Phật toan tranh luận. Cuối cùng, Ngài chẳng
thể không bội phục, cũng phát nguyện xuất
gia, làm đệ tử thường tùy của Phật.
Ngài là bậc “vấn đáp
đệ nhất”, bác học, đa tài, học rộng,
nghe nhiều. Từ điểm này, ta thấy Tăng
đoàn của Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là có đủ mặt
những đại biểu thuộc tầng lớp văn
hóa tối cao đương thời. Trong phần trên, Ngẫu
Ích đại sư đă hé lộ sự thật: Các vị
ấy đều là cổ Phật, hoặc Pháp Thân Bồ
Tát tái lai, thị hiện đủ cách, ḥng báo cho đại
chúng trong xă hội biết Phật pháp chẳng thể
nghĩ bàn. Đây thực sự là một pháp môn khó tin. Nếu
quư vị có thể tin được, học được, hiểu được th́
lợi ích vô lượng
vô biên, đúng là chẳng thể kể được hết.
Vị thứ sáu là:
Ly Bà Đa.
離婆多。
Những vị này đều thuộc loại “đức huệ tài năng”.
Ngài là bậc “vô đảo loạn
bậc nhất”. Ly Bà Đa (Revata) dịch
sang tiếng Hán là Tinh Tú. Trong kinh Di Đà, chúng ta niệm
đến những câu “nhất
tâm bất loạn, tâm bất điên đảo”, ngài Ly
Bà Đa đúng là đại diện cho những cảnh giới
ấy. Cảnh giới ấy ta cũng thường gọi
là “chánh giác chẳng mê”. Ngài
thực hiện viên măn Tam Quy Y, thực sự thực hiện
“giác chứ không mê, chánh chứ
không tà, tịnh chứ không nhiễm”.
Đồng học các nơi thường có
người đến hỏi: “Đạo tâm chẳng dễ giữ ǵn, thường
bị thoái chuyển”. Với
những vị đồng học ấy, tôi đều nói
lời thành thực sau: “Đúng
là rất dễ bị thoái chuyển, làm thế nào giữ
cho không thoái chuyển? Quư vị phải tự nghĩ biện
pháp!” V́ sao tôi phải
nói như vậy? Mỗi cá nhân căn tánh bất đồng,
nghiệp duyên bất đồng. Do vậy, không có cách nhất
định nào để nói cả! Nếu có một
phương pháp [duy nhất], Thích Ca Mâu Ni Phật cần ǵ
phải giảng tám vạn bốn ngàn pháp môn, phải nói vô
lượng pháp môn? Nói một môn là đủ rồi!
Căn tánh chẳng tương đồng, cơ duyên chẳng
giống nhau vậy!
Về phương pháp mỗi người sử
dụng cũng phải thường biến hóa. Ví như
chúng ta đi đường, thấy phía trước không
thông, bị chướng ngại vật ngăn trở, làm
cách nào đây? Chẳng thể tiến thẳng được,
th́ phải đi ṿng, đi quanh, thông hiểu quyền biến!
Bản thân mỗi cá nhân có rất nhiều chướng ngại,
ḿnh phải có trí huệ, phải có phương tiện. Phương
tiện là phương pháp ổn thỏa, tốt đẹp
nhất để đột phá chướng ngại th́ quư
vị mới có thể thành tựu. Theo kinh nghiệm của
chính tôi, làm thế nào để chẳng bị thoái chuyển
ư? Lên đài giảng kinh! Cả một đời tôi
dùng phương pháp này.
Bởi thế, có người nói tôi rất
thích giảng, kẻ ấy không thấy rơ, kẻ ấy
không hiểu v́ sao tôi phải giảng kinh? Giảng kinh nhằm
buộc chính ḿnh chẳng thoái chuyển. Trong giai đoạn
mới học, tôi đă thưa cùng quư vị rồi đó,
vừa mới ra học giảng kinh, giảng một tiếng
đồng hồ, phải mất bốn mươi tiếng
chuẩn bị, toàn tâm toàn lực chuẩn bị cho công tác
lên ṭa giảng, không có thời gian, cũng chẳng có tinh thần
khởi vọng tưởng. Đấy là một
phương pháp rất tốt, tự ḿnh phải dùng
phương pháp hữu hiệu để bức bách chính
ḿnh th́ quư vị mới có thể thành tựu, quyết định
chẳng được
buông lung, lười nhác.
Tôi ở Mỹ quốc chẳng có cơ duyên giảng
kinh hằng ngày: Không có thính chúng! Tôi làm cách nào? Tôi mua một
cái máy thâu h́nh nhỏ, loại máy thâu h́nh nhỏ thời
đó lớn hơn [máy thâu h́nh] hiện nay, tôi để
trong pḥng tôi, mỗi ngày đối trước nó giảng
hai tiếng đồng hồ. Giảng xong mở lại
cho ḿnh coi, lại lấy chính ḿnh làm thính chúng. Nếu không học
như thế, làm sao có thể học cho thông được.
Phương pháp ấy tôi dùng ở Mỹ quốc từng
bị các đồng học phát hiện, v́ tôi cứ nhốt
ḿnh trong pḥng làm chuyện đó. Nếu chẳng giảng
kinh, nhất định bị thoái chuyển. Từ
phương pháp ấy, tôi tạo thành một thói quen, mỗi
ngày đều phải đọc kinh, mỗi ngày đều
phải t́m cơ hội giảng pháp, giữ cho ḿnh không bị
thoái chuyển. Bởi thế, phải dựa vào đó, chẳng
thể dựa vào người khác, chẳng thể dựa
vào đạo tràng. Nói thật ra, trong kinh đức Phật
dạy chúng ta: “Thế gian vô thường, quốc độ
nguy thúy“ (thế gian vô
thường, cơi nước mỏng manh). Phật
xưng là Vô Y Đạo Nhân (ông đạo không nương
tựa ai), lời răn dạy ấy chúng ta phải
thường ghi trong ḷng, người nương dựa
duy nhất là chính ḿnh, nương tựa vào sự tỉnh
giác cao độ của chính ḿnh.
Trong phần trước, chúng tôi đă thưa
cùng quư vị, chúng Thanh Văn này chẳng tách rời Phật,
thường theo Phật, tôi nói chúng ta cũng phải là Thường
Tùy Chúng của Phật. Phật ở tại đâu? Ở
trong kinh điển, kinh điển là trụ xứ của
chư Phật. Chúng ta phải nương nhờ kinh điển,
kinh điển là Phật, đáng nương cậy nhất,
vĩnh viễn chẳng bị biến đổi. Nhân t́nh
thế sự thiên biến vạn hóa, tâm chẳng thể chạy
theo bên ngoài, đuổi theo bên ngoài phiền năo rất nhiều.
Quư vị nói học theo các pháp sư giảng kinh ư?
Trước kia, tôi ở Đài Trung học kinh giáo, học
giảng kinh, thầy Lư đă nhiều lần bảo tôi: “Tương
lai ông giảng kinh không hay, mọi người chê cười
ông, vẫn không sao! Nếu giảng rất hay, ông không c̣n
đường nào để đi đâu!” V́ sao giảng
kinh hay sẽ không c̣n đường nào để đi? Cổ
nhân Trung Quốc có một câu rất có lư: “Đồng
hành tương kỵ” (người đi cùng đường
ghét nhau), ghen ghét ấy mà! Trong đạo tràng này, nếu
quư vị giảng hay hơn người khác, tất cả
mọi người đều ghen ghét ḿnh, nhất định
quư vị phải ra đi, bị dồn vào đường
cùng!
Lời thầy nói, tôi có ấn tượng rất
sâu đậm, dẫu vậy, vẫn không lo lắng,
chưa hề nghĩ sau này thực sự bị dồn vào
đường cùng. Nếu chẳng phải là nhờ cả
nhà Hàn Quán Trưởng phát tâm từ bi, đón tôi về ở
trong nhà bà, ở suốt mười bảy năm, măi cho
đến khi chúng tôi có được một cái Đồ
Thư Quán, tôi mới có thể rời khỏi nhà bà Hàn Quán
Trưởng, sống trong Phật Đà Giáo Dục Cơ
Kim Hội, sống trong Hoa Tạng Đồ Thư Quán. Lời
thầy Lư nói đă thành sự thật! Người có học
vấn, học vấn chân chánh, nhất định phải
hiểu được thế nào là thực sự thâm tàng
bất lộ, mới ḥng bảo toàn chính ḿnh. Bởi thế,
phải biết khiêm hư, nhường nhịn, chỗ
nào cũng chẳng dám hơn người khác, th́ chính ḿnh mới
tự bảo toàn được, cả một đời
nhất định chẳng nghĩ chuyện vượt
trỗi người khác, điểm này rất trọng yếu!
Ta học xong để hoằng pháp lợi sanh
trong tương lai ư? Không sai! Phải đợi cơ
duyên, chớ nên lo lắng. Quư vị có thành tựu, Phật,
Bồ Tát sẽ an bài thay cho quư vị. Tôi thực sự
đắc lực nhờ một câu giáo huấn của Chương
Gia đại sư. Thời tiết, nhân duyên đă chín muồi
th́ Phật, Bồ Tát sẽ an bài cho quư vị, tự ḿnh chẳng
phải nhọc ḷng. Nếu ta vội vàng gấp gáp, sẽ
thường có khó khăn chẳng ngờ xuất hiện!
Đúng là muốn nhanh chẳng được! Hoằng
pháp lợi sanh chắc chắn chẳng đơn thuần,
phải hội đủ rất nhiều điều kiện;
duyên chín muồi rồi th́ chư Phật, Bồ Tát, thiên
long thiện thần ủng hộ quư vị. Nếu thời
tiết, nhân duyên chưa chín muồi, ngàn vạn phần chính
ḿnh chẳng nên khinh thường, vọng động.
Đương
nhiên, đặc biệt đối với kẻ sơ học,
có thầy ở bên cạnh chiếu cố th́ tốt rồi.
Gặp phải nghi hoặc ǵ, bèn thỉnh giáo thầy, thầy
cho ư kiến để tham khảo. Thế nhưng giờ
đây, địa cầu đă thu nhỏ lại, có người
bảo nay nên gọi quả địa cầu này là “địa cầu thôn”, tôi cảm
thấy địa cầu so với một thôn vẫn c̣n
nhỏ hơn, phải nói đơn giản, thẳng thắn
là một đại gia đ́nh. Nhất là trong lúc kỹ thuật
thông tin phát đạt, ở bất cứ xó xỉnh nào
trên toàn thế giới vừa phát sanh một sự kiện
nhỏ nhặt ǵ, toàn thế giới đều biết cả;
từ mạng Internet, từ vệ tinh, truyền h́nh, lập
tức truyền đi.
Bởi
thế, nay ta ở trong thế gian này, có thể nói là chẳng
bị khoảng cách nào ngăn trở. Thầy của chúng
ta, bạn đạo đồng tham, thiện tri thức
chẳng cần biết ở nơi nào, chúng ta cứ bấm
điện thoại liền có thể tiếp cận. Quư vị
thấy những máy điện thoại cầm tay (cell
phone) hiện thời rất thuận tiện; có nghi hoặc
ǵ bèn có thể lập tức thỉnh giáo. Loại điện
thoại tối tân có màn h́nh, năm ngoái tôi đă từng thấy
[loại này] ở Nhật Bản. Gọi điện thoại
cho đối phương, vẻ mặt của đối
phương bèn hiện h́nh trong cell phone; trên máy điện
thoại có một màn huỳnh quang nhỏ, trông thấy mặt
người đối diện rất rơ rệt; cho thấy
khoảng cách không c̣n nữa, không gian chẳng c̣n nữa.
Chúng ta có c̣n phải giống như thời Thích Ca Mâu Ni Phật,
suốt ngày phải theo chân thầy nữa hay chăng? Chẳng
cần nữa! Quẩn bên chân thầy th́ có rất nhiều
việc chúng ta không thể làm được.
Tôi
tin là khoảng sau ba năm nữa, có lẽ loại cell
phone thấy được h́nh đối phương chắc
chắn rất phổ biến. H́nh như năm ngoái tôi
đă từng nói, mạng Internet quốc tế (hiện thời
gọi là broadband) phát triển không ngừng. Tôi tin là chẳng
đầy mấy năm nữa, mạng Internet và cell phone
rất có khả năng thay thế cho hệ thống TV vệ
tinh hiện thời. Là v́ sao? Chúng thực sự không thuận
tiện cho lắm, nhất định sẽ phát triển
theo phương hướng trên. Chúng ta học tập, mọi
đồng học ở cùng một chỗ học tập
Phật pháp, cần phải lợi dụng khoa học kỹ
thuật cao để tạo rất nhiều sự thuận
tiện cho chúng ta. Chúng ta có thể đối diện tṛ
chuyện qua màn ảnh nhỏ “như đang ở ngay
trước mặt”, khoa học kỹ thuật đă giúp
cho chúng ta như vậy.
Trong
đoạn này, tôn giả Ly Bà Đa là một vị đức
huệ tài năng. Vị thứ bảy là:
Châu Lợi
Bàn Đà Già.
周利槃陀伽。
Vị
này hoàn toàn tương phản với những vị vừa
kể trên. Ngài là kẻ ngu si độn căn, đây
cũng là biểu thị nhân quả, nhưng giới tuyến
giữa “hiển thị nhân quả”
và “tinh tấn phá chướng”
chưa được vạch ra.
Rất nhiều vị đồng học biết ngài Châu Lợi
Bàn Đà Già (Śuddhipanthaka),
trong các đệ tử của đức Thế Tôn, Ngài
là người ngốc nhất, trí nhớ tệ nhất.
Phật dạy bài kệ bốn câu, niệm bao nhiêu ngày vẫn
niệm không xuông, niệm câu trên, quên câu dưới, dạy
cho câu dưới, quên tuốt câu trên. Anh Ngài cũng xuất
gia, khuyên Ngài nên trở về nhà: “Không xong rồi! Ngươi
không có cách ǵ học được! Ngu đến thế
th́ thôi!” Ngài khóc lóc, gào khóc ầm ĩ; đức Phật
trông thấy, hỏi:
-
V́ sao con khóc?
-
Anh con muốn con quay về nhà.
Đức
Phật bảo Ngài:
-
Không sao cả, ông cứ ở đây mà chăm học.
Đức
Phật đưa cho Ngài cây chổi, dặn Ngài hằng
ngày quét đất, [vừa quét vừa] niệm “tảo
chửu” (quét dọn). Đức Phật dạy Ngài
đừng nghĩ đến ǵ khác, tay cầm chổi liền
quét dọn, ngày ngày quét tước, tinh thần ư chí tập
trung vào việc quét dọn. Đức Phật dạy Ngài
phương pháp như vậy. Không ít lâu sau, Ngài khai ngộ,
chứng quả A La Hán. Bạn đồng học đều
lấy làm lạ: “Sao ổng lại có thể khai ngộ, chứng
quả được?”
Đức
Thế Tôn bèn bảo đại chúng:
-
Đời trước, Châu Lợi Bàn Đà Già là một vị
Tam Tạng pháp sư, chẳng phải tầm thường,
giảng kinh thuyết pháp cho đại chúng, phải giữ
lại một chút, tiếc pháp mà! Sợ người khác đều
học cao hơn ḿnh. V́ thế, dạy người khác luôn
giấu bớt, chẳng chịu dạy trọn vẹn cho
người khác.
Đức
Phật nói đời này [ngài Châu Lợi Bàn Đà Già] ngu si
là do quả báo của tội tiếc pháp; đến lúc ấy,
mọi người mới hiểu rơ sự việc. Trong
kinh Phật thường nói tiếc của bị quả
báo bần cùng, tiếc pháp bị quả báo ngu si, đều
có nhân quả cả! Thích Ca Mâu Ni Phật có đủ trí huệ
viên măn, thần thông, đạo lực, Ngài biết cội
gốc chứng bệnh ngu si của ngài Châu Lợi Bàn
Đà Già nằm tại đâu; do vậy, có phương
pháp đối trị giúp ngài Châu Lợi khôi phục. Mọi
người chẳng có năng lực ấy, cho nên đành
phải bỏ mặc Ngài, chẳng dạy Ngài nữa. Ngài
là bậc “nghĩa tŕ đệ
nhất, khốn học thành công“ (giữ ǵn nghĩa lư bậc
nhất, học hành khó khăn mà thành công).
Bởi
vậy, có kẻ tự biết căn tánh của chính ḿnh rất
tệ, chẳng có tư chất, trí nhớ cũng dở, ta
làm sao có thể học Phật? Ở đây, ngài Châu Lợi
Bàn Đà Già thị hiện cho quư vị thấy, căn tánh
của quư vị, trí nhớ của quư vị so với ngài
Châu Lợi Bàn Đà Già th́ như thế nào? Nghĩ ra, ta c̣n
đỡ hơn Ngài một chút, Ngài có thể thành công th́
sao quư vị chẳng thể thành công? Ngài cổ vũ kẻ
Hạ Hạ căn rất lớn. Pháp môn này thích hợp khắp
ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn, những
người như vậy được nêu gương ở
chỗ này. Quư vị nói ḿnh có trí huệ ư? So với trí
huệ của ngài Xá Lợi Phất th́ sao? Chẳng bằng!
Ngài Xá Lợi Phất cũng niệm A Di Đà Phật, quư
vị có nên niệm hay chăng? Vị thứ tám là:
Nan Đà.
難陀。
Nan
Đà (Nanda) là em ruột Thích Ca Mâu Ni Phật. Anh em Thích Ca
Mâu Ni Phật gồm hai người, hai anh em ruột cùng xuất
gia. “Nghi dung thanh diệu đệ
nhất” (đẹp đẽ, oai nghi, tiếng nói hay bậc
nhất). Tướng mạo đẹp đẽ, rất
oai nghi, tiếng nói cũng hay. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng độ
Ngài xuất gia; sau khi xuất gia theo đuổi công tác giảng
dạy trong xă hội đa nguyên văn hóa. Thích Ca Mâu Ni Phật
vứt bỏ ngôi vua, chỉ có hai anh em, cũng đem em
theo luôn! Nếu nói theo thông tục, [chừng như] cả
t́nh lẫn lư đều chẳng thông, ḿnh xuất gia, lẽ
ra phải lưu lại đời sau cho gia đ́nh; nhưng
con trai Thích Ca Mâu Ni Phật cũng cho xuất gia luôn. Da Thâu
Đà La là phi tử của Phật, về sau cũng xuất
gia nốt. Nếu xuất gia chẳng phải là việc tốt,
sao Thích Ca Mâu Ni Phật lại làm như thế? Thực sự
đạt được lợi ích viên măn rốt ráo,
vĩnh viễn liễu thoát sanh tử. Vị thứ chín
là:
A Nan
Đà
阿難陀。
Tức
là tôn giả A Nan (Ānanda), danh tiếng vị
này rất lớn, ai nấy đều biết cả. Chúng
ta nói đến tôn giả A Nan chính là vị này đây. Ngài
là thị giả của Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng là em họ
của Phật. Anh em họ của Thích Ca Mâu Ni Phật tổng
cộng tám người; trong các anh em họ, Thích Ca Mâu Ni Phật
lớn tuổi nhất, Ngài là “lăo đại”, tôn giả A
Nan trẻ nhất, là em họ út. Ngài nhỏ hơn Thích Ca
Mâu Ni Phật chừng ba mươi tuổi. “Đa văn đệ nhất,
bác văn cường kư“ (Đa văn bậc nhất,
nghe rộng, nhớ dai). Sở trường của ngài A
Nan tương phản một trăm
tám mươi độ với ngài Châu Lợi Bàn
Đà Già! Tôn giả A Nan nghe Phật giảng kinh, nghe một
lần vĩnh viễn chẳng quên mất.
V́
thế, sau khi Phật diệt độ, chuyện kết
tập kinh tạng phải cậy tôn giả A Nan đem những
kinh do đức Phật đă nói trong cả một đời
nhắc lại một lượt; đại chúng căn cứ
vào lời trùng tuyên của Ngài. Như vậy, Phật pháp được
hoằng truyền cả mấy ngàn năm, học kinh giáo
theo phương pháp nào? Thảy đều là chọn lối
“phúc giảng” (nhắc lại); trong nhà Phật gọi là
“phúc tiểu ṭa”[1].
Phương pháp này khởi đầu từ ngài A Nan, là
nguyên do đó. Sau này, chư Tổ các đời truyền dạy
cho nhau cũng đều dùng phương pháp này, nhất
định chưa hề nói quư vị phải tự lấy
kinh luận mà nghiên cứu, phải tham khảo tư liệu
để soạn bài giảng, chẳng phải vậy! Chỉ
có phương pháp này, nhất định chẳng thể
biến đổi, phải phúc giảng (nhắc lại lời
thầy đă giảng) th́ quư vị mới ḥng tránh khỏi
lầm lỗi! Tự ḿnh chưa có ngộ xứ, chắc
chắn chẳng thể phát huy[2],
nếu phát huy sẽ lầm lạc.
Đời
Đường, thiền sư Bách Trượng độ
một con chồn, công án ấy rất
nhiều người
biết: “Thác hạ nhất cá
tự chuyển ngữ, đọa ngũ bách thế dă hồ
thân” (Trót nói lầm một chữ chuyển ngữ,
năm trăm đời đọa kiếp chồn hoang).
Con chồn ấy đời trước là pháp sư giảng
kinh, có người hỏi ông ta một câu, ông ta đáp sai,
phải chịu trách nhiệm nhân quả, v́ ông ta dạy sai
người khác. Bởi thế, vị pháp sư ấy chết
đi, bèn đọa làm thân súc sanh, biến thành con chồn.
Đến đời Đường, con chồn ấy tu
hành cũng khá, cũng có thần thông, biết nghiệp
chướng đời trước, nhưng không có cách nào
thoát thân chồn. Đúng ngay lúc đó, may sao gặp
được thiền sư Bách Trượng là một vị
Bồ Tát khai ngộ, là bậc minh tâm kiến tánh. Bách
Trượng đại sư giảng kinh thuyết pháp, chồn
thường đến nghe, hiện làm một vị lăo
cư sĩ râu tóc bạc phơ thường đến
nghe kinh, người trong đạo tràng đều biết
ông ta. Chỉ có Bách Trượng đại sư biết ông
ta không phải là người, mà là hồ ly tinh, mọi
người không biết!
Có
một ngày, lăo hồ ly đem đoạn công án trước
kia của ông ta thưa hỏi pháp sư Bách Trượng, cầu
pháp sư Bách Trượng cứu vớt. Bách Trượng
đại sư nói: “Ngày mai ông đến, ngày mai ta thượng
đường thuyết pháp, ông đem câu hỏi trước
kia người ta hỏi ông, đem đúng câu ấy hỏi
tôi” A! Hôm sau ông ta đến thật. Trong quá khứ có
người hỏi ông ta, tức là khi ông ta làm pháp sư có
người hỏi: “Bậc đại tu hành c̣n thuộc
trong nhân quả hay không?” Ông ta đáp như thế nào? “Bất lạc nhân quả!” (chẳng
thuộc trong nhân quả). Nói vậy là sai! Ngày hôm sau, ông ta
đem chuyện đó hỏi Bách Trượng đại
sư, Bách Trượng đại sư chỉ đổi
một chữ. Do vậy, ông cũng hỏi: “Người
tu hành c̣n rớt trong nhân quả hay không?” Bách Trượng đại
sư nói: “Đại tu
hành nhân bất muội nhân quả” (Bậc đại tu
hành chẳng lầm nhân quả).
Quư
vị thấy đó một đằng là “bất lạc”, một đằng là “bất muội”. Đổi một
chữ thôi, ông ta bèn thoát thân chồn. Ngày hôm sau, con chồn
già chết, Bách Trượng đại sư mới dẫn
vài người, mang cuốc, mang ky ra sau núi, bảo mọi
người: “Con chồn già sau núi đă chết rồi!”
Đến nơi, quả nhiên thấy con chồn già đă
chết rồi, Bách Trượng chỉ vào chồn nói: “Con
chồn già này hôm qua đến hỏi ta”, kể cho mọi
người nghe đoạn công án ấy. Đại chúng
nghe xong lông tóc dựng ngược. Nếu anh giảng kinh
thuyết pháp sai lầm, dạy lầm chúng sanh, tội lỗi
ghê gớm lắm! Bởi thế, đời này truyền
cho đời kia là phúc giảng, nhất định chẳng
dám xen tạp ư nghĩ riêng của ḿnh vào đó, th́ mới
khỏi gánh trách nhiệm nhân quả. Nếu giảng lầm
là thầy ḿnh giảng lầm chứ ta không giảng lầm.
Bởi
thế, chúng tôi học giảng kinh, thầy dạy chúng tôi
cách giảng như thế nào? Chính ḿnh chưa khai ngộ
(đừng nói là đại ngộ, tiểu ngộ
cũng chưa có) th́ nhắc lại lời thầy, nhắc
lại lời cổ nhân. Quư vị nghe tôi giảng kinh A Di
Đà, tôi giảng theo bản chú giải Sớ Sao của Liên
Tŕ đại sư, tôi giảng theo sách Yếu Giải của
Ngẫu Ích đại sư. Đối với Yếu Giải,
tôi cũng tham khảo hai bản, bản A Di Đà Kinh Yếu
Giải Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh và bản
A Di Đà Kinh Yếu Giải Thân Văn Kư của pháp sư
Bảo Tịnh, tôi giảng theo bản chú giải của
các Ngài. Các Ngài chú giải bằng thể loại Văn Ngôn,
tôi đem Văn Ngôn biến thành văn nói, biến thành
văn Bạch Thoại[3].
Nếu có giảng sai là các vị đó chú giải sai, tôi chẳng
giảng sai.
Lúc
mới học giảng kinh, học theo thầy. Trước
kia, chúng tôi học tập rất khổ sở, v́ sao? Không
có máy thâu âm, không có máy thâu h́nh, thầy giảng kinh, chúng tôi
toàn phải chép tay, phải dựa vào bút kư, khá là khó nhọc.
Thường bị ghi sót, làm sao ghi hoàn toàn được?
Ghi sót th́ làm sao? Hỏi bạn đồng học, xem vị
đồng học nào chẳng ghi sót câu ấy. V́ thế, mấy
bạn đồng học hợp lại, chỉnh lư bút kư.
Các đồng học chúng tôi lúc mới đầu giảng
kinh, thảy đều dựa theo lời giảng của
thầy Lư, phúc giảng, phúc tiểu ṭa, đều xuất
thân từ phương pháp ấy.
Tôi
nhớ năm 1977, đến Hương Cảng giảng
kinh Lăng Nghiêm lần thứ nhất, bản chú giải
tôi dùng làm cơ sở là bản Lăng Nghiêm Kinh Giảng
Nghĩa của pháp sư Viên Anh, tham khảo bản Lăng
Nghiêm Kinh Trực Giải của Tôn Trọng Hà. Trong thời
gian giảng kinh, có một hôm gặp pháp sư Diễn Bồi,
Ngài có không ít tín đồ tại Hương Cảng, thuê
bao cả một xe du lịch, đi ngắm phong cảnh
Hương Cảng, cũng kéo cả tôi cùng đi. Chúng tôi
tṛ chuyện trên xe, nói tới chuyện giảng kinh, Ngài rất
cảm khái nói: “Chúng ta đều xuất thân từ giảng
tiểu ṭa!” Ngài chỉ vào tôi bảo: “Tịnh Không! Ông
cũng chẳng ra ngoài lệ đó. Ông cũng xuất thân
từ giảng tiểu ṭa!” Không sai chút
nào! Những học sinh được huấn luyện từ
Phật học viện chẳng thể lên giảng đài
thuyết pháp, người thực sự có thể
thăng ṭa, giảng được, đều xuất
thân từ giảng tiểu ṭa.
Bởi
thế, giảng tiểu ṭa do tôn giả A Nan là người
thứ nhất khởi đầu,
kết tập kinh
tạng là phúc giảng. Phương pháp này truyền măi
đến ngày nay. Nay tôi dạy học tṛ, dạy học
viên thuộc Bồi Huấn Ban (lớp huấn luyện bồi
dưỡng) ở Tân Gia Ba đều dùng biện pháp này.
Hiện tại rất thuận tiện, ngày nay có băng
thâu h́nh, có băng thâu âm, quư vị có thể nghe đi nghe lại
không ngừng, chép thành bài giảng. Thời chúng tôi rất
nhọc nhằn, hết sức khó khăn, chẳng có thứ
ǵ hỗ trợ cả, phải dựa vào kư ức, phải
dựa vào bút kư rất cực nhọc. A! Nay đă hết
giờ rồi!
*
Chư
vị đồng học!
Chúng
ta xem tiếp vị thứ mười trong mười sáu
vị tôn giả:
La Hầu
La.
羅睺羅。
Tôn
giả La Hầu La (Rāhula) “mật hạnh bậc nhất”,
Ngài là nhà thực hành, là con của Thích Ca Mâu Ni Phật. Danh
tự này là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán
là Phú Chướng, tên nghe không hay, có chướng ngại! Ở
phần trên, trong bài Hương Tán có niệm câu “Tích nhật Da Thâu miễn nạn
tiêu tai chướng” (Xưa bà Da Thâu thoát nạn tiêu tai
chướng), Da Thâu Đà La là mẹ La Hầu La, Thích Ca
Mâu Ni Phật là cha. Ngài mắc phải nạn ǵ? Mẹ Ngài
mang thai sáu năm mới sanh ra Ngài. Người thông thường
chỉ ở trong thai mười tháng, La Hầu La sáu
năm. Do duyên cớ ǵ? Quả báo đấy! Đời
trước gây nhân chẳng lành, đời này phải chịu
nỗi khổ thai ngục. So với người thông
thường Ngài phải chịu khổ nhiều gấp bội,
người ta thông thường mười tháng, Ngài phải
chịu sáu năm, hơn bảy mươi tháng, dài gấp
bảy lần mọi người. V́ nguyên nhân ǵ? Trong kinh
luận nêu nhiều lẽ, trong Kinh Luật Dị Tướng
và Pháp Uyển Châu Lâm đều có ghi chép.
Theo
một thuyết, cũng là theo kinh nói, trong đời quá khứ,
ngài La Hầu La từng bít hang chuột, bít hang chuột sáu
ngày, con chuột không chui ra khỏi hang được. Hành
vi ác dữ cảm lấy quả báo như thế, ở
trong bụng mẹ cũng chẳng ra được. [Ngài
La Hầu La] lên chín tuổi, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy Xá Lợi
Phất và Mục Kiện Liên độ cho La Hầu La xuất
gia, Phật môn bắt đầu có sa-di, La Hầu La là vị
đầu tiên. Trẻ nít ham chơi, người khác thấy
La Hầu La hằng ngày chơi đùa, Thích Ca Mâu Ni Phật
biết trong chơi đùa có tu hành, “mật hạnh bậc nhất”. Ngài tu Giới - Định
- Huệ chẳng để lộ ra bóng dáng, người
khác không thấy. Trước kia, Chương Gia đại
sư bảo tôi điều này: “Phật
pháp trọng thực chất, chẳng trọng h́nh thức”.
Tôi nghe Chương Gia đại sư nói như vậy là
lần thứ nhất. Lần thứ hai, tại Tân Gia Ba gặp
tổng thống Nạp Đan (Sellapan Rama Nathan), ông ta
cũng nói như thế. Lúc ấy, tôi rất kinh ngạc, ông
ta nói giống hệt như Chương Gia đại
sư: Phật giáo trọng thực chất, chứ không trọng
h́nh thức. Đúng là người tầm thường chẳng
thể nói được như vậy. Vị thứ
mười một là:
Kiều
Phạm Ba Đề.
憍梵波提。
Là
bậc “được trời
cúng dường bậc nhất”, nay ta gọi Ngài là nhà
tôn giáo. Ngài cũng là “hiển
thị nhân quả”, làm gương cho chúng ta thấy. Kiều
Phạm Ba Đề (Gavāmpati) là tiếng
Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Ngưu Ty (trâu
nhơi). Miệng Ngài suốt ngày từ sáng đến tối
nhóp nhép, giống như trâu đang nhơi, Ngài vướng
tập khí ấy. Rốt cuộc là v́ nguyên nhân ǵ? Đức
Phật đă giảng rất rơ: Trong đời quá khứ,
tôn giả làm sa-di, trông thấy lăo ḥa thượng đang niệm
kinh, tuổi đă già lụn, răng cỏ rụng mất
nhiều, niệm chẳng rơ tiếng, chú sa-di ở bên cạnh
chê cười: “Lăo ḥa thượng! Ông niệm kinh giống
trâu nhơi quá!” Vị lăo ḥa thượng ấy lập tức
kêu chú sa-di sám hối, bảo: “Ta đă chứng quả A La
Hán, do khẩu nghiệp ấy, tương lai ngươi sẽ
bị đọa địa ngục”. Chú sa-di nghe xong hết
sức hoảng sợ, kinh hoàng, lập tức sám hối.
Dù sám hối, do dư báo, vẫn bị đọa vào súc
sanh đạo, năm trăm đời làm thân trâu. V́ vậy,
tập khí rất sâu.
Trước
kia châm chích người khác, ngỡ là chẳng có chuyện
ǵ, đâu biết là quả báo nghiêm trọng. Phật, Bồ
Tát thị hiện cho chúng ta thấy, đó là quả báo của
ác khẩu, chẳng phải là vọng ngữ (nói dối),
lưỡng thiệt (nói đôi chiều), ỷ ngữ (nói
thêu dệt). Quả báo của ác khẩu là như thế.
Những nghiệp khác: vọng ngữ là lừa dối
người, lưỡng thiệt là khêu dậy thị phi,
đáng tội rồi! C̣n ở đây bất quá là ǵ? Ôm
ḷng làm khổ người khác, châm chích người khác, chẳng
gây thương hại lớn cho lắm mà phải đọa
làm thân trâu năm trăm đời!
Đời
này tuy xuất gia học Phật, chứng đắc quả
A La Hán, nhưng tập khí vẫn c̣n. Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
Ngài hằng ngày phải khất thực trên cơi trời, v́
sao? Để người khác khỏi trông thấy Ngài
như thế, lại chê cười Ngài, lại mắc phải
quả báo đó, chẳng phải là hại người
ư? Làm thế nào đây? Lên trời, lên đó ứng cúng.
Chư thiên có thần thông, biết Ngài là đại A La Hán,
sẽ tôn kính Ngài, chẳng dám chê cười. Bởi thế,
mỗi ngày Ngài lên trời khất thực, chẳng ở
trong nhân gian, được trời cúng dường bậc
nhất. Sau tên Ngài, tôi viết “nhà
tôn giáo” v́ Ngài chẳng phải là kẻ tầm thường.
Vị thứ mười hai là:
Tân Đầu
Lô Phả La Đọa.
賓頭盧頗羅墮。
Tôn
giả Tân Đầu Lô Phả La Đọa (Pindola
Bharadvaja), danh hiệu của Ngài dịch thành Bất
Động. Ngài cũng có nhân duyên đặc biệt. Sau
khi đức Phật nhập diệt, chúng ta biết rất
nhiều vị đệ tử cũng trước sau nhập
Niết Bàn; chỉ có vị tôn giả này tuân lời Thích Ca
Mâu Ni Phật răn dạy, chẳng thể nhập Niết
Bàn. V́ thế, vị tôn giả này vẫn c̣n hiện hữu
trên thế gian. Phật giữ Ngài lại trong thế gian nhằm
ư ǵ? Dạy Ngài làm phước điền cho chúng sanh thời
Mạt Pháp, “ứng mạt thế
cúng, vi nhân thiên phước điền” (nhận đời
mạt cúng dường, làm ruộng phước cho trời
người).
Vị
tôn giả này sống lâu trong thế gian. Chúng ta muốn cúng
dường Tam Bảo, cũng học đ̣i cổ nhân làm
đại hội Vô Già một lần. Vô Già đại hội
là thuật ngữ chuyên dụng trong Phật học, tức
là b́nh đẳng cúng dường cho người xuất
gia, hay “trai tăng”. Nhà Phật thường nói Thiên Tăng
Trai (cúng trai tăng một ngàn vị), ngày nay chúng ta mời
một ngàn vị xuất gia đến ăn cơm, cúng
dường cơm chay, vật cúng dường hoàn toàn b́nh
đẳng, đó là Vô Già đại hội. Nhất định
có thánh hiền tăng đến thọ cúng (nhận cúng
dường), người cúng cơm có phước, thực
sự gieo phước điền. Tôn giả Tân Đầu
Lô thường đến ứng cúng, ở đâu có
người tu phước, Ngài bèn đến ứng cúng. Ngài
dùng thân biến hóa mà đến, quư vị nh́n không ra
đâu, chẳng khác ǵ người xuất gia thông thường.
Trai chủ cúng cơm trong tâm thành kính, thành kính là Cảm, tôn
giả bèn Ứng, cảm ứng đạo giao. Nếu cúng
Trai Tăng chẳng có thành ư, Ngài chẳng đến, phải
có thành ư! Tu phước, ta cúng Trai Tăng là v́ cầu
phước báo, cầu trí huệ, mong cầu chư Phật,
Bồ Tát âm thầm gia tŕ. Vị thứ mười ba là:
Ca Lưu
Đà Di.
迦留陀夷。
“Giáo hóa bậc nhất”, nay ta gọi Ngài là
nhà giáo dục. Ca Lưu Đà Di
(Kaludayin) dịch là
Hắc Quang. Ngài c̣n là sứ giả của Thích Ca Mâu Ni Phật,
có trí huệ, có phương tiện thiện xảo, đầy
đủ những điều kiện ấy mới có
năng lực giáo hóa chúng sanh. Giáo hóa chúng sanh quan trọng
nhất là lấy thân ḿnh làm gương, ngôn hạnh, oai
nghi thảy đều có thể cảm hóa chúng sanh. Công tác
quan trọng nhất của đệ tử nhà Phật là
ǵ? Cũng có rất nhiều người đă từng nghe
nói qua! Chính là lấy hoằng pháp làm gia vụ, sự việc
lớn nhất trong nhà Phật là giáo hóa chúng sanh. Thích Ca Mâu
Ni Phật làm gương cho chúng ta, giảng kinh hơn ba
trăm hội, hoằng pháp bốn mươi chín năm,
làm cho chúng ta thấy. Lúc nào mới ra giảng kinh? Trước
hết phải tu đức hạnh, lại phải thành tựu
học vấn. Cổ nhân Trung Quốc thường nói là “phẩm học kiêm ưu” (đạo
đức lẫn học vấn đều cao), Phẩm (品) là đức hạnh,
vừa có đạo đức vừa có học vấn th́
mới có thể tự hành dạy người. Tôn giả
nêu tấm gương tốt cho chúng ta. Tiếp đó là vị
thứ mười bốn:
Ma Ha Kiếp
Tân Na.
摩訶劫賓那。
Danh
hiệu vị này dịch nghĩa sang tiếng Hán là Pḥng Tú
(sao Pḥng)[4]
hay Tinh Tú. Tôn giả Ma Ha Kiếp Tân Na (Mahākapphina)
là bậc “tri tinh tú đệ
nhất”, nói như bây giờ Ngài là nhà thiên văn học,
cũng là một loại khoa học gia.
Bạc
Câu La.
薄拘羅。
Tôn
giả Bạc Câu La (Vakkula), Bạc Câu La dịch nghĩa
sang tiếng Hán là Thiện Dung. Thiện Dung là tướng
mạo đẹp đẽ, tướng mạo Ngài tốt
đẹp phi thường, vẻ mặt khiến người
thoạt trông thấy liền sanh tâm vui thích, “thọ mạng đệ nhất”,
nhân lành, quả lành. Trong kinh luận Đại Thừa, Tiểu
Thừa Phật giáo thường dạy chúng ta: Sở cầu
của hết thảy chúng sanh dẫu nhiều, nhưng quy
nạp lại th́ không ngoài ba loại lớn, thứ nhất
là giàu có, thứ hai là thông minh trí huệ, thứ ba là mạnh
khỏe sống lâu. Quư vị nghĩ xem có ai không mong cầu
ba thứ này? Ba thứ này đều là quả báo. Quả ắt
có nhân, nhân quả phải tương ứng. Ngạn ngữ
thường nói: “Phật thị
môn trung, hữu cầu tất ứng” (Trong nhà Phật,
có cầu ắt ứng). Chúng
ta hăy nghĩ xem trong nhà Phật, v́ sao có cầu ắt ứng?
Cầu chỗ khác không được, cầu trong nhà Phật
bèn được. V́ sao? Phật biết nhân quả, nhân như
thế nào, được quả như thế đó, đức
Phật hiểu rơ.
Nói
chung, nhân là tu Bố Thí. Đức Phật dạy con người
phước huệ song tu. Trong phước
huệ song tu, đặt phước lên đầu. Nhà Phật
thường nói: “Tu Huệ bất
tu Phước, La Hán thác không bát” (Tu Huệ chẳng tu Phước,
La Hán ôm bát rỗng). Anh tu Huệ, chứng đắc quả
A La Hán, nhưng chẳng tu Phước, đi khất thực
chẳng được ai cúng dường, ngày ngày đói
meo. Trái lại là “tu Phước
bất tu Huệ, đại tượng quải anh lạc”
(tu Phước chẳng tu Huệ, voi to đeo anh lạc).
Phước báo rất lớn, nhưng chẳng có trí huệ,
đời sau đọa trong đường súc sanh, đầu
thai làm thân voi lớn. Con voi lớn ấy có phước
báo, được vua nuôi. Quốc vương muốn
ra ngoài, cưỡi con voi lớn đó, khắp thân voi phủ
đầy anh lạc, châu báu, châu tỏa ánh sáng chói ḷa, có
phước nhưng không trí huệ! Bởi thế, đức
Phật dạy nếu ai phước huệ song tu th́ quả
báo của quư vị sẽ vừa có trí huệ vừa có
phước báo. Nếu cả hai thứ đều chẳng
tu, người ấy tất nhiên đời đời kiếp
kiếp bần cùng, hạ tiện. Chúng ta phải tin tưởng
lời Phật, lời Ngài trọng yếu hơn bất cứ
ǵ khác.
Hiện
nay rất nhiều trường đại học, viện
nghiên cứu đang nghiên cứu, khám phá cách làm giàu. Chúng tôi
trông thấy cảm khái vạn phần, quan sát cặn kẽ
coi họ dạy, họ học những ǵ? Toàn là đổ
công sức nơi duyên, chẳng có nhân! Ví như quản lư công
thương, mọi kỹ thuật cho đến các mối
quan hệ, họ căn cứ theo số liệu thống
kê. Trên thế giới có bao nhiêu đại tài chủ, họ
khởi đầu từ đâu? Kinh doanh như thế nào?
Làm sao kiếm được nhiều tiền như thế?
Nghiên cứu những thứ đó, muốn học đ̣i,
muốn bắt chước theo. Chuyên gia, giáo sư giảng
rành rẽ từng điều, nhưng chúng ta đứng
bên cạnh nghe ngóng, bản thân họ chẳng phát tài, thậm
chí cuộc sống của họ c̣n khá khó khăn. Cả
đời dạy trong trường đại học, lúc
về hưu (dạy khá th́ được phong danh hiệu
Giáo Sư), được các công ty mời mọc làm cố
vấn, chẳng làm tài chủ! Anh hiểu được
con đường làm giàu như thế, sao anh không phát tài?
Bởi thế, chúng ta đứng ngoài thấy rất rơ, những
điều họ học, họ dạy toàn là duyên, chẳng
có nhân ǵ cả!
Giống
như thế nào? Giống như chúng ta canh tác, trồng trọt.
Đối với kỹ thuật trồng trọt, có thể
nói là họ nghiên cứu rất kỹ, phân tích đất
đai, thành phần nước, phân bón, khí hậu, ánh nắng,
không khí, với những điều ấy họ đều
nghiên cứu rất kỹ lưỡng, khuyết điểm
của họ là ǵ? Họ không có hạt giống. Là những
chuyên gia, nhưng không có hạt giống th́ không trồng
được ǵ hết! Hạt giống là ǵ? Trong mạng
của quư vị phải có của cải. Trong mạng của
quư vị chẳng có của cải, dù kỹ thuật,
phương pháp hay đến đâu đi nữa, cũng
chẳng thể phát tài! Trong mạng thực sự có của,
chẳng cần hiểu phương pháp ǵ, bất luận
làm cách nào, tài nguyên vẫn cuồn cuộn đổ tới.
Sự
thật ấy chỉ có đức Phật biết rơ, đức
Phật nói rất minh bạch. Trong mạng của quư vị
có tiền của, trong bói toán gọi trường hợp
này là “tài khố” (kho của
cải), của cải ấy từ đâu mà có? Do bố
thí mà có! Trong quá khứ, quư vị tu Tài Bố Thí rất nhiều, nên “tài khố” trong mạng quư vị
phong phú, rất
lớn. Bất luận làm nghề ǵ cũng đều phát
tài. Trong quá khứ tiếc của, chẳng chịu bố
thí, trong đời này kho đụn trống rỗng, học
nghề khéo ǵ vẫn chẳng thể phát tài. Tối đa
là học xong khóa học, tốt nghiệp rồi bèn vào công
ty giúp người ta kiếm tiền, làm nhân viên cho người
ta, chính ḿnh chẳng phải là ông chủ!
Thông
minh trí huệ do bố thí pháp, khỏe mạnh sống lâu do
bố thí vô úy. Tôn giả Bạc Câu La thọ mạng bậc
nhất, chúng ta thấy như vậy, biết là trong quá khứ,
tôn giả đời đời kiếp kiếp bố thí
vô úy rất nhiều. Ngài là thiện nhân, đại từ,
đại bi, cứu khổ, cứu nạn, trông thấy hết
thảy chúng sanh mắc phải tai nạn, Ngài vui vẻ ra
tay giúp đỡ, do vậy, được quả báo
trường thọ. Vị cuối cùng là:
A Nậu
Lâu Đà.
阿耨樓馱。
Danh
hiệu này dịch thành Vô Bần, đây cũng là hiển
thị nhân quả. A Nậu Lâu Đà (Aniruddha) cũng là
trong đời kiếp quá khứ lâu xa về trước,
từng bố thí cúng dường một vị Bích Chi Phật.
Bích Chi Phật đi khất thực, Ngài cung kính cúng dường.
Ngài được phước báo dài nhiều kiếp (chẳng
thể tính số năm, phải dùng số kiếp để
tính). Bao kiếp chẳng chịu quả báo bần cùng.
Duyên phận tốt đẹp, gặp Bích Chi Phật, tự
ḿnh có thể cung kính cúng dường, được
phước báo ấy. Ngài cũng là em họ của Thích Ca
Mâu Ni Phật, lúc nghe kinh pháp thường ngủ gật, tinh
thần chẳng tỉnh táo, bị Thích Ca Mâu Ni Phật quở
trách. Đức Phật mắng Ngài giống như loài ốc,
loài nghêu, ngủ một giấc là ngủ cả ngàn năm,
chẳng nghe được danh hiệu Phật.
Ngài
A Nậu Lâu Đà rất buồn bực, sau khi bị Phật
quở, thật dũng mănh, tinh tấn, suốt bảy ngày
bảy đêm không ngủ, bị mù mắt v́ dụng công
quá độ. Thích Ca Mâu Ni Phật thương xót, dạy
Ngài tu một pháp môn, Ngài tu thành công. Tu thành công rồi, mở
được Thiên Nhăn, trong Tăng đoàn được
xưng là “bán đầu thiên
nhăn”. Ngài nh́n chẳng cần tṛng mắt, nửa đầu
đều là mắt, đều thấy được, thấy
phía trên, thấy khắp bốn phía, thấy cả đằng
sau, “bán đầu thiên nhăn” đấy!
Trong các vị A La Hán, Ngài là bậc “thiên nhăn đệ nhất, phước đức khốn
học” (thiên nhăn bậc
nhất, phước đức, nhọc nhằn học
hành).
Trong
kinh Phật dạy chúng ta, Thiên Nhăn của Tiểu Thừa
A La Hán thấy được một tiểu thiên thế
giới, thông thường, mọi A La Hán có thể thấy
được một tiểu thiên thế giới. Tiểu
thiên thế giới bao lớn? Nếu nói như cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ, chúng ta biết một thế giới
là một Ngân Hà Hệ (Milky Way, Galaxy). A La Hán thấy
được một ngàn Ngân Hà Hệ chẳng cần dùng
đến máy móc. Tất cả hết thảy tinh cầu
trong một ngàn Ngân Hà Hệ đó, muôn h́nh muôn sắc, Ngài
đều thấy rơ ràng, rành mạch; nhưng thiên nhăn do ngài
A Nậu Lâu Đà tu thành có năng lực thù thắng, thấy
được một đại thiên thế giới, tức
là một tam thiên đại thiên thế giới. Thế giới
Sa Bà này của đức Thích Ca Mâu Ni Phật đối với
Ngài cũng chẳng có vấn đề, toàn thể thế
giới Sa Bà, trên đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ Thiên, dưới đến A Tỳ địa ngục,
Ngài đều thấy rất rơ, đều hiểu rơ, “thiên nhăn đệ nhất” mà!
Sau đó, chúng ta tổng kết phần nói về
những vị ấy, từ ngữ “thử đẳng đại chúng” (các đại
chúng này) chỉ tất cả những vị thường
tùy của đức Thế Tôn, gồm một ngàn hai
trăm năm mươi lăm người, “bổn thị Pháp Thân đại
sĩ” (vốn là Pháp Thân đại sĩ). Trong phần
trên chúng tôi đă nói, những vị ấy là “đại A La Hán, chúng sở tri
thức” (đại A La Hán, được mọi
người hay biết). Đại A La Hán là tôn hiệu của
Pháp Vân Địa Bồ Tát, chẳng phải là danh hiệu
của người tầm thường. Thất Địa
Bồ Tát, Bát Địa Bồ Tát, Cửu Địa Bồ
Tát đều chẳng thể xưng [là Đại A La Hán].
Pháp Vân Địa Bồ Tát là Pháp Thân đại sĩ! Huống
hồ trong số đó, lại có không ít vị là cổ Phật
tái lai, “tác thị Thanh Văn” (thị
hiện làm Thanh Văn), họ đến nơi này để
thị hiện, chẳng thực sự là Tiểu
Thừa A La Hán, Thanh Văn là Tiểu Thừa!
Giống như diễn tuồng trên sân khấu,
Ngài được phân công diễn vai Tiểu Thừa A La
Hán, chứ trên thực tế đă sớm thành Phật. Nay
trên sân khấu đóng vai Tiểu Thừa A La Hán, hoặc là
quốc vương, đại thần, hoặc là trưởng
giả, cư sĩ; thế gian này là một sân khấu lớn.
Diễn xuất nhằm mục đích “chứng thử bất tư nghị pháp”, tức
là chứng minh [pháp chẳng thể nghĩ bàn này] cho đại
chúng! Trong câu “thử bất tư
nghị pháp”, chữ “thử”
chỉ kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà thực sự là pháp môn
chẳng thể nghĩ bàn, chỉ dạy hết thảy
chúng sanh đới nghiệp văng sanh, thân cận Phật Di
Đà, viên thành Phật đạo trong một đời, chẳng
cần đợi đến kiếp sau, một đời
bèn viên măn, mà cũng chẳng cần phải nói ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, vô
lượng kiếp ǵ cả, không cần đến! Một
đời thành tựu, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới vô lượng thọ.
Đến thế giới Cực Lạc thành
Phật, thành một vị Phật viên măn rốt ráo, chẳng
cần phải mất một thời gian rất dài. Kinh
Quán Vô Lượng Thọ cho biết: Văng sanh Hạ Hạ
Phẩm trong Phàm Thánh Đồng Cư Độ, đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới chứng
đắc quả Phật viên măn cũng chỉ mất
mười hai kiếp thôi! Quư vị hăy nghĩ nhé! So với
ba A-tăng-kỳ kiếp, vô lượng A-tăng-kỳ kiếp
th́ mười hai kiếp chẳng phải là quá ngắn hay
sao? Mà đó là ǵ vậy? Văng sanh Hạ Hạ Phẩm đấy
nhé! Nếu Thượng Thượng Phẩm văng sanh trong
Thật Báo Trang Nghiêm Độ, vừa về đó bèn “hoa khai kiến Phật, ngộ
Vô Sanh”, lập tức thành tựu, trở thành Vô Sanh Nhẫn
Bồ Tát. Vô Sanh Nhẫn Bồ Tát là Thất Địa, Bát
Địa, Cửu Địa, thực sự chứng
đắc! Trước khi chứng đắc th́ sao? Khi
chưa chứng đắc th́ thọ dụng, thần
thông, đạo lực của quư vị cũng chẳng
kém Thất Địa, Bát Địa Bồ Tát cho mấy.
Khi đức Phật giới thiệu cùng chúng ta bốn
mươi tám nguyện của A Di Đà Phật đă nói: “Sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới đều là A Duy Việt Trí Bồ
Tát”. A Duy Việt Trí Bồ Tát là Thất Địa Bồ
Tát, từ Thất Địa trở lên; bởi thế,
pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn! Các vị ấy đến
chứng minh cho Thích Ca Mâu Ni Phật, những ǵ Phật dạy
họ đều thị hiện, đều biến thành sự
thật.
“Tùng Phật chuyển
luân, quảng lợi nhân thiên” (theo đức Phật
chuyển pháp luân, lợi ích rộng khắp trời người).
“Chuyển luân” là giáo hóa chúng
sanh, giúp đức Phật thực hiện công tác giáo dục
trong xă hội đa nguyên văn hóa. “Quảng lợi” là lợi ích rộng lớn, bố
thí, cúng dường đại chúng trời người.
Chúng ta tu bố thí, cúng dường th́ chư Phật
Như Lai, chư đại Bồ Tát cũng tu bố thí
cúng dường tại đây. Phước trí như biển
trọn khắp pháp giới, hư không giới. Trong kinh nói
“quảng lợi nhân thiên”, tức
là đem pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật này giới thiệu
cùng đại chúng trời người. Người thiện
căn chín muồi sẽ thành tựu trong một đời
này. Họ hiểu rơ, họ giác ngộ, buông xuống vạn
duyên, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật.
“Kim văn Tịnh
Độ nhiếp thọ công đức” (nay nghe công
đức nhiếp thọ của Tịnh Độ),
nghĩa là đối với bộ kinh này, “tín thọ phụng hành, thật năi dĩ thân tác tắc,
khuyến ngô nhân thâm tín mạc nghi dă” (tin nhận phụng
hành, thực sự lấy bản thân làm gương, khuyên
chúng ta tin tưởng sâu xa, đừng nghi ngờ). Ở
đây, mười sáu vị tôn giả khuyên dạy chúng ta,
v́ đại chúng thực nghiệm. Chớ cậy ḿnh rất
thông minh, ta chẳng cần phải học pháp môn này, ta có
thể học pháp môn khác cao sâu hơn pháp môn này. Quư vị
có thông minh, trí huệ bằng ngài Xá Lợi Phất hay không?
Thần thông, năng lực có sánh bằng ngài Mục Kiền
Liên hay không? Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đều
chắc thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
quư vị hăy suy nghĩ kỹ đi!
Nếu quư vị nói tôi không có thiện căn,
tôi tội nghiệp sâu nặng, tôi chẳng có năng lực,
hăy xem ngài Châu Lợi Bàn Đà Già, so với Ngài th́ sao? Ta thấy
ngài Châu Lợi Bàn Đà Già đâu được như
ḿnh, thế mà ngài Châu Lợi Bàn Đà Già niệm A Di Đà
Phật bèn thành công; sao quư vị chẳng thể tu được?
Mười sáu vị tôn giả, ai nấy đều có sở
trường, giáo hóa các căn tánh bất đồng trong
thế gian này, nêu gương mẫu rất khéo cho mọi
người. Chỉ cần quư vị tin được, tiếp
nhận được, y giáo phụng hành, chẳng có ai
không thành công! Pháp môn này gọi là “vạn
người tu, vạn người đến”, chẳng
sót một ai hết!
Hiện tại, v́ sao niệm Phật chẳng
dễ dàng như vậy? Giống như thầy Lư thường
hay nói: “Một vạn người
niệm Phật, thực sự văng sanh cũng chẳng qua
hai ba người mà thôi!” Do nguyên nhân nào? Hai ba người
đó tin nhận phụng hành, c̣n những người niệm
Phật kia, hơn chín ngàn chín trăm
chín mươi bảy người kia, chẳng chịu
tin nhận phụng hành! Họ chỉ niệm Phật “miệng có, tâm không”, không buông xuống phiền
năo tập khí thế gian, đối với danh văn, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần thế gian vẫn
tham ái, vẫn lưu luyến, vậy th́ không có cách chi hết!
Trong Phật pháp thường nói “Phật
chẳng thể độ kẻ vô duyên”, bọn họ
là người vô duyên, vậy th́ không có cách chi hết! Thực
sự tin tưởng, thực sự tiếp nhận, thực
sự phụng hành, buông xuống vạn duyên, buông thân tâm thế
giới xuống, nhất tâm nhất ư chuyên cầu Tịnh
Độ, chẳng một ai không được văng sanh!
A! Nay đă hết giờ rồi!
Tập 08
6.2.1.6.4. Giảng rơ về Bồ Tát chúng
Chư vị đồng học!
Xin xem Hệ Niệm Pháp Sự, phần Bồ
Tát chúng trong Tự Phần của A Di Đà Kinh:
Tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát, Văn Thù Sư Lợi
Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha
Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, dữ
như thị đẳng chư đại Bồ Tát.
并諸菩薩摩訶薩。文殊師利法王子。阿逸多菩薩。乾陀訶提菩薩。常精進菩薩。與如是等諸大菩薩。
(Và các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A
Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát,
Thường Tinh Tấn Bồ Tát, và các vị đại Bồ
Tát như thế).
6.2.1.6.4.1. Quảng thích Bồ Tát chúng
Đoạn này là Bồ Tát chúng. Trong phần
trên đă giới thiệu chúng Thanh Văn gồm mười
sáu vị đại A La Hán, chủ yếu là tượng
trưng cho Tín. Bồ Tát chúng chỉ nêu bốn vị:
Văn Thù và Di Lặc là khuyên nên nguyện, Càn Đà Ha Đề
và Thường Tinh Tấn là khuyên nên hành, cùng với mười
sáu vị tôn giả ở phần trên là khuyên nên tin. “Tín, Hạnh,
Nguyện” là ba điều kiện trọng yếu nhất
của việc niệm Phật văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, ba điều kiện ấy thiếu
một chẳng được, nhất định phải
có đủ. Bởi thế, toàn bộ kinh, bất luận
Tự Phần, Chánh Tông Phần hay Lưu Thông Phần, chúng
ta đều thấy khuyên tin, khuyên nguyện, khuyên hành. Tuy
kinh văn không dài, nhưng kết cấu chương pháp,
hệ thống tư tưởng hết sức tinh vi, thâm
mật, viên măn, trọn đủ, chúng ta phải tích cực
học tập kinh này.
Bồ Tát tiếng Phạn là Bồ Đề
Tát Đỏa (Boddhisattva), người Trung Quốc thích nói
gọn, chữ Bồ Đề tỉnh lược âm cuối,
chữ Tát Đỏa cũng tỉnh lược âm cuối,
nên ta gọi Bồ Đề Tát Đỏa là Bồ Tát. Ma
Ha Tát (Mahasattva) là Đại Bồ Tát, Ma Ha là Đại, vị
Bồ Tát lớn trong chúng Bồ Tát. Chữ Đại Bồ
Tát thường chỉ bậc Bồ Tát địa thượng,
tức mười một địa vị từ Sơ
Địa cho đến Đẳng Giác được gọi
là Đại Bồ Tát, hay gọi là Ma Ha Tát. Trước
đó, có ba mươi địa vị, nếu thêm Tín Vị
vào thành ra bốn mươi địa vị, tức Thập
Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng;
bốn mươi địa vị này đều xưng
là Bồ Tát. Bồ Tát Ma Ha Tát bao gồm các địa vị
từ Sơ Tín cho đến Đẳng Giác Bồ Tát.
Tiếng Phạn Bồ Đề Tát Đỏa,
lúc dịch sang tiếng Hán th́ thời cổ dịch là
Đại Đạo Tâm Chúng Sanh. Ngẫu Ích đại
sư khi chú giải vẫn theo lối cổ dịch nên viết“đại
đạo tâm thành tựu hữu t́nh”. Bồ Tát vẫn
là hữu t́nh, chẳng giống như Phật, Phật hoàn
toàn biến t́nh thành trí huệ. Trước kia, lúc tôi mới
học Phật, tôi c̣n nhớ đă từng thỉnh giáo
Chương Gia đại sư: “Bồ Tát khác với Phật
như thế nào?” Chương Gia đại sư dạy tôi
một tỷ dụ: Lúc đó, trong khách sảnh có treo một
cái đồng hồ, vẫn phải lên dây thiều,
chưa dùng điện, vẫn phải vặn dây thiều.
Chúng ta đều biết – đây là kiến thức thông
thường – dây thiều là một sợi dây thép cuộn
lại, có tính đàn hồi, cuộn chặt nó lại, nó sẽ
dần dần bung ra, sức bung ấy sẽ thúc đẩy
đồng hồ chạy. Lúc nó bung ra hết, nó vẫn cuộn
lại, chẳng hoàn toàn thẳng đơ. Chương Gia
đại sư dùng chuyện đó làm tỷ dụ, Bồ
Tát như sợi dây thiều, dù đă bung ra hết,
nhưng vẫn c̣n một chút cuộn lại, chẳng phải
là bằng phẳng hết. Dây thiều của Phật
đă tháo bung ra hết, thẳng đơ rồi, Ngài
đem tỷ dụ ấy nói với tôi, ngụ ư: Bồ
Tát chưa một trăm phần
trăm biến t́nh thành trí huệ.
Ví như Đẳng Giác Bồ Tát, chín
mươi chín phần là Trí, vẫn c̣n một phần là
T́nh. Nh́n đâu cũng dường như đă b́nh rồi,
nhưng nh́n kỹ vẫn c̣n một chút T́nh, chẳng
như Như Lai đă một trăm phần
trăm chuyển Thức thành Trí. Bởi thế, Trí và T́nh là
cùng một chuyện, chẳng phải hai; lúc giác th́ gọi
là Trí, lúc mê th́ gọi là T́nh. T́nh là mê t́nh, Trí là giác trí. Đẳng
Giác Bồ Tát c̣n một phẩm sanh tướng vô minh tối
hậu c̣n chưa phá, đó vẫn là T́nh. Phải phá sạch
một phẩm vô minh ấy th́ trí huệ mới rốt ráo
viên măn.
Bởi thế, chữ Bồ Tát được
dịch là “đại đạo
tâm thành tựu hữu t́nh”. Sau này, ngài Huyền Trang chẳng
dùng chữ “đại đạo
tâm” để dịch, Ngài dịch là Giác Hữu T́nh. Nếu
gộp cả hai lối tân dịch và cựu dịch lại
để hiểu, ư nghĩa càng sáng tỏ. Thế nào là
đại đạo tâm? Giác ngộ là đại đạo
tâm. Giác tâm là đại đạo tâm, giác chứ không mê.
Huyền Trang đại sư dịch Bồ Đề Tát
Đỏa thành “chúng sanh hữu
t́nh giác ngộ”, thời cổ dịch là “đại đạo tâm thành tựu
hữu t́nh”, hợp hai cách nói này lại, chúng ta càng hiểu
rơ ư nghĩa.
Bồ Tát địa vị càng cao, trí huệ
càng lớn, t́nh chấp càng ít. Phàm phu hoàn toàn bất giác.
Phàm phu có giác ngộ, thông minh, có trí huệ, th́ trong Phật
pháp gọi cái giác ấy là “Tương
Tự Giác”, tức chẳng phải Chân Giác, chẳng phải
là Chánh Giác. Tiêu chuẩn của Chánh Giác là ǵ? Đoạn sạch
Kiến Tư phiền năo th́ mới gọi là Chánh Giác, bởi
thế, đối với lục đạo phàm phu chưa
đoạn Kiến Tư phiền năo, nếu dùng kinh Kim
Cang để nói, dùng tiêu chuẩn đó để nói th́ lục
đạo chúng sanh có “ngă tướng, nhân tướng,
chúng sanh tướng, thọ giả tướng”. Chỉ
cần có đủ bốn tướng ấy th́ chưa
giác. Dù rất thông minh, rất có trí huệ, trong nhà Phật
chỉ gọi là Tương Tự Giác, chẳng phải là
Chánh Giác, chỉ hơi giống thôi.
Chánh Giác nếu phá được bốn tướng,
phá Tứ Kiến rồi, tâm địa người ấy
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi,
không có ngă tướng, không có nhân tướng, không có chúng
sanh tướng, không có thọ giả tướng, th́ mới
gọi là Bồ Tát. V́ sao chẳng thể gọi lục
đạo chúng sanh là Chánh Giác? Chỉ v́ lục đạo
chúng sanh có Ngă, có Ngă tức là có tư niệm, [tức là] có
ḷng mong lợi ích riêng tư. Nói cách khác, khởi tâm động
niệm có vấn đề, nghĩ đến “lợi ích
của riêng ḿnh”, chỉ bận ḷng đến lợi ích của
chính ḿnh, chẳng đoái hoài lợi ích của người
khác; bởi thế, khởi tâm động niệm đều
là “tổn người, lợi ḿnh”.
Nói thật ra, người tốt hay kẻ xấu
đều chỉ là mức độ khác biệt. Người
tốt là ư niệm và hành vi “tổn người, lợi
ḿnh” nhẹ một chút, ít một chút; kẻ bất
thiện th́ ư niệm “tổn
người, lợi ḿnh” rất nặng, gây thành nhiều
việc! Sai khác ở chỗ này! Chẳng giống như Bồ
Tát, Bồ Tát hoàn toàn chẳng tự tư tự lợi;
Ngài vào trong thế gian này để làm ǵ? Vào trong thế
gian này để độ chúng sanh. Thế nào là độ
chúng sanh? Giúp cho hết thảy chúng sanh giác ngộ. Giúp hết
thảy chúng sanh giác ngộ mà nếu c̣n có chút tự tư
tự lợi, làm sao giúp chúng sanh giác ngộ cho được?
Phải hiểu đạo lư ấy! Thế gian và xuất
thế gian khác biệt ở chỗ này, một niệm khác
biệt vậy.
Thế nào là xuất thế gian? [Những người]
vô tư, vô ngă, v́ hết thảy chúng sanh phục vụ, chẳng
cần biết anh mang thân phận ǵ, già, trẻ, nam, nữ,
nghề nghiệp ra sao, đều là Bồ Tát. Nếu vẫn
c̣n có một ư niệm tự tư tự lợi, vẫn có
một niệm vị kỷ, dù quư vị có ở trong chùa
miếu, có sống trong núi thẳm, sống trong một ngôi
chùa quư báu (bảo sát), quư vị vẫn là thế gian, chẳng
phải xuất thế gian. Chúng ta phải hiểu đạo
lư này! So với Thanh Văn ở trên, Bồ Tát cao hơn nhiều
lắm! Thanh Văn là “tướng” xuất thế gian,
“tâm” chẳng thấy xuất thế gian. Quư vị thấy
rất nhiều người xuất gia (cổ nhân thường
gọi là “cổ tṛn tay thụng”.
Nay dùng chữ “cổ tṛn tay thụng”
để chỉ người xuất gia), “thân xuất, chứ tâm không xuất”. Trong tâm vẫn
là nhân ngă thị phi, vẫn là tham - sân - si -mạn, niệm
niệm quan tâm lợi ích của chính ḿnh, “tâm” chẳng hề
xuất! Thân tợ hồ là người xuất gia,
nhưng tâm chẳng xuất.
Quá nửa Bồ Tát thị hiện tại gia,
đấy là “tâm xuất, thân
chẳng xuất”, cao hơn Thanh Văn nhiều! Thấy
họ là hạng tại gia, có vợ con, họ có công ăn việc làm, cuộc sống chẳng
khác ǵ người thế gian cả. Họ không có ngă tướng,
không có nhân tướng, không có chúng sanh tướng, không
có thọ giả tướng, họ chẳng tự tư
tự lợi. Họ buôn bán, họ là thương nhân, họ
là thương nhân Bồ Tát. Họ là công nhân, họ là công
nhân Bồ Tát. Nếu họ làm công chức, làm quan, làm quan lớn
th́ họ là tể quan Bồ Tát. Bất luận làm nghề
ǵ, đều là Bồ Tát hết!
Bởi thế, quư vị thấy ở Trung Quốc
tạo tượng Bồ Tát, nổi tiếng nhất là bốn
vị Bồ Tát ở bốn đại danh sơn. Quư vị
xem kỹ tượng bốn vị Bồ Tát, chỉ có Địa
Tạng Vương Bồ Tát thị hiện tướng
xuất gia, Quán Âm Bồ Tát là tướng tại gia, Văn
Thù Bồ Tát cũng là tướng tại gia, Phổ Hiền
Bồ Tát cũng là tướng tại gia luôn. Ấn Độ
tạo tượng Bồ Tát Di Lặc cũng là tướng
tại gia. Người Trung Quốc tạo tượng Di
Lặc Bồ Tát theo h́nh dạng của ḥa thượng Bố
Đại, là tướng xuất gia. V́ sao tạo tượng
ḥa thượng Bố Đại? Ḥa thượng Bố
Đại là người thời Nam Tống, cùng một thời
đại với Nhạc Phi. Ngài xuất hiện trong vùng
Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang, là một người xuất
gia, chẳng ai biết tên Ngài là ǵ. Mỗi ngày, Ngài quảy
một cái túi vải lớn, người khác cúng dường
đều bỏ vào trong túi. Bởi thế, mọi người
gọi Ngài là Bố Đại ḥa thượng, bèn thành tên ḥa
thượng Bố Đại. Nhắc đến ḥa
thượng Bố Đại ai nấy đều biết.
Hằng
ngày du hóa bên ngoài, có ai hỏi về Phật pháp, Ngài cười
h́ h́, buông cái túi xuống đất, bỏ thơng hai tay. Quư vị
hỏi Ngài thế nào là Phật pháp? Ngài làm như vậy
cho quư vị thấy: "Buông
xuống!" Phật pháp là buông xuống. Buông xuống
rồi làm sao? Quảy túi vải lên, khoác trên vai bỏ
đi. Ngài dạy quư vị điều ǵ? Trước hết,
Phật pháp dạy quư vị buông xuống, buông xuống hết
thảy, buông xuống xong rồi bèn giúp đỡ hết
thảy chúng sanh, quư vị phải khởi lên ư niệm
đó. Bởi thế mới nói buông xuống được,
đưa lên được, đó là Bồ Tát. Một câu
chẳng nói, ư nghĩa rất sâu, mọi vấn đề
của quư vị đều được giải quyết
hết!
Lúc Ngài văng sanh, Ngài chẳng sanh bệnh, nói
đi là đi; bảo với mọi người ta là Di Lặc
Bồ Tát phát tâm tái lai, nói xong là đi. Ngài chẳng dối
người. Lúc lâm chung, đem bản lai diện mục của
chính ḿnh nói ra; bởi thế, sau này, người Hoa hễ tạo
tượng Di Lặc Bồ Tát bèn tạo giống h́nh
tượng ḥa thượng Bố Đại, duyên do là
như vậy. Các địa phương, quốc gia khác
trên toàn thế giới chẳng tạo tượng Di Lặc
Bồ Tát giống như vậy. Tại Ung Ḥa Cung[5]
ở Bắc Kinh có thờ một tượng Di Lặc Bồ
Tát rất cao. Lúc chúng tôi đến tham quan, [tăng sĩ ở
Ung Ḥa Cung kể] tượng Di Lặc Bồ Tát ấy đem
từ Ấn Độ qua, tạc bằng cả một
cây gỗ rất to lớn, đại khái cao chừng sáu bảy
tầng lầu. Lúc chúng tôi ngắm tượng, vị
phương trượng (họ gọi là Lạt-ma) bảo
tôi tượng này ch́m dưới đất tám thước
nữa.
Bất luận Bồ Tát thị hiện tại
gia hay xuất gia, nếu chú tâm quán sát, nhất định thấy
rơ Ngài học Định lẫn Huệ đều b́nh
đẳng, vận dụng cả Bi lẫn Trí, tự lợi,
lợi tha. Tự lợi chính là lợi tha, chính ḿnh thời
thời khắc khắc, nơi nơi chốn chốn nêu
gương tốt cho đại chúng trong xă hội, đó
là “đến trong thế gian này giáo hóa chúng sanh”. Bất
luận dưới thân phận nào, đều theo đuổi
công tác giáo dục, giáo dục xă hội, nay chúng ta gọi là
giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa.
6.2.1.6.4.2. Nêu tên các vị thượng thủ
trong Bồ Tát chúng
“Văn Thù Sư Lợi” (Mañjuśrī)
gọi là Pháp Vương Tử, v́ Phật là Pháp
Vương, Bồ Tát kế thừa sự nghiệp của
Như Lai, hoằng pháp lợi sanh, bởi thế gọi là
Pháp Vương Tử. Văn Thù Sư Lợi là tiếng Phạn,
dịch nghĩa sang tiếng Hán th́ trong Bát Thập Hoa Nghiêm
dịch là Diệu Đức, hoặc Diệu Cát Tường.
Ở Trung Quốc, Ngũ Đài Sơn là đạo tràng của
Văn Thù Bồ Tát; trong các vị Bồ Tát, Ngài biểu thị
trí huệ đệ nhất, giống như Xá Lợi Phất
đại diện cho trí huệ đệ nhất trong các
vị Thanh Văn. Trong kinh, danh hiệu các vị Thượng
Thủ nhằm biểu thị pháp, chúng ta nhất định
phải hiểu đạo lư này! [Xá Lợi Phật và Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát] biểu thị bộ kinh này,
pháp môn này và phương pháp lư luận tu học này là trí huệ
đệ nhất. Trong chúng Thanh Văn lẫn chúng Bồ
Tát đều kể tên bậc trí huệ đệ nhất
ngay đầu tiên, dụng ư rất sâu sa.
Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư giảng: “Phi dũng mănh
thật trí, bất năng chứng giải Tịnh Độ
pháp môn” (Chẳng phải là trí huệ dũng mănh, chân thật,
chẳng thể chứng hiểu pháp môn Tịnh Độ).
Câu nói này rất hay, chẳng phải là trí huệ dũng
mănh, chân thật, sẽ chẳng thể thực sự chứng
nhập, hiểu rơ pháp môn này; v́ thế, phải lấy
Văn Thù Bồ Tát để chứng minh. Trong kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta thấy chính bản thân ngài Văn Thù Bồ Tát
phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nhằm hiển
thị [pháp môn này] thực sự chẳng thể nghĩ
bàn. Trong cuốn Nghiên Tập Báo Cáo, [chúng tôi đă nhận định]
Văn Thù “tượng trưng
cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, pháp môn trong
kinh A Di Đà này, tức là pháp môn Tịnh Độ chính là
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vị thứ hai là A Dật Đa Bồ Tát, “A Dật Đa” (Ajita) là Di Lặc
Bồ Tát. Có người nói Di Lặc (Maitreya) là họ của
Bồ Tát, A Dật Đa là tên. Cũng có người nói A Dật
Đa là họ, Di Lặc là tên. Thật ra cái nào là tên, cái nào
là họ không quan trọng, chúng ta chẳng cần phải
phân biệt chấp trước. Ở Trung Quốc, chúng ta
quen gọi Ngài là Di Lặc Bồ Tát; đương thời
ở Ấn Độ thường gọi là A Dật
Đa, gọi Ngài bằng danh hiệu ấy. A Dật
Đa là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán
là Vô Năng Thắng, ư nói Ngài từ bi không ai hơn
được. Ḷng từ bi của Ngài là từ bi chân
thành, là từ bi thanh tịnh, là từ bi b́nh đẳng.
Tâm từ bi quả thật trọn khắp pháp giới
hư không giới; bởi thế, tại Trung Quốc Ngài
c̣n được gọi là Từ Thị Bồ Tát, từ
bi bậc nhất.
Đối với h́nh tượng Bố Đại
ḥa thượng, cổ đức có mấy câu tán thán
như sau: “Sanh b́nh đẳng
tâm, thành hỷ duyệt tướng”. Hai câu này rất
hay, hai câu này dạy chúng ta: Đối với hết thảy
chúng sanh, chúng ta phải sanh tâm b́nh đẳng, đối với
hết thảy chúng sanh phải hoan hỷ, “hỷ duyệt tướng” nay gọi là tâm yêu
thương, vui thích. Trong Đại Thừa Phật pháp
thường nói từ bi, từ bi là hỷ ái; nhưng sự
hỷ ái ấy chẳng phải là cảm t́nh. V́ thế, Phật
pháp chẳng dùng chữ “hỷ
ái” mà dùng chữ “từ bi”,
sợ người đời thấy danh từ “hỷ ái” bèn hiểu lầm.
Ḷng hỷ ái ấy chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, là trí huệ. Nhà Phật gọi ḷng hỷ ái ấy
là Từ Bi. Do đây biết rằng: Người thế
gian hỷ ái chẳng chân thành toàn vẹn, chẳng đủ
thanh tịnh, b́nh đẳng, trí huệ, chẳng có đủ
những điều ấy. Bởi thế, ḷng hỷ ái của
họ chẳng vĩnh hằng, thường bị biến
chuyển. Đối với hết thảy chúng sanh, Phật,
Bồ Tát hỷ ái vĩnh hằng bất biến, nếu
quư vị hỏi v́ sao ư? V́ các Ngài không tự tư, không
tự lợi, không có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Ḷng hỷ ái ấy xuất phát từ tự
tánh, tương ứng với chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, trí huệ. Nói cách khác, chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác được biến thành hiện
thực. Nếu không có từ bi, làm sao gọi là “chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng giác” cho được? Đều
trở thành danh từ trừu tượng hết! Từ “sanh b́nh đẳng tâm, thành hỷ
duyệt tướng” trở thành hiện thực, phải
hiểu điều này, phải nhận rơ điều này!
Ở đây, Bồ Tát thể hiện ư
nghĩa rất sâu, ngài Di Lặc “tượng
trưng cho Nhất Sanh Bổ Xứ”, điều này rất
trọng yếu. Di Lặc Bồ Tát là vị Phật thứ
năm trong thế giới Sa Bà của chúng ta, hiện tại
Ngài là vị Phật hậu bổ của Thích Ca Mâu Ni Phật,
trụ trong Đâu Suất nội viện. Trong những buổi
giảng, chúng tôi cũng thường nhắc tới chuyện
thành Phật; đầy đủ những điều kiện
nào th́ mới thành Phật? Tri túc! Người tri túc bèn thành
Phật. Bởi thế, Bổ Xứ Bồ Tát cũng chẳng
ở nơi nào khác, Ngài nhất định phải trụ
tại Đâu Suất. Đâu Suất (Tushita) là tiếng Phạn,
dịch nghĩa sang tiếng Hán là “Tri Túc”. Đâu Suất thiên là Tri Túc thiên. Có tri túc mới
có thể thành Phật; không tri túc, chẳng thể thành Phật!
Người tri túc chẳng mong cầu, người không tri
túc bèn tham cầu. Quư vị thấy Di Lặc Bồ Tát
tượng trưng cho ư nghĩa này rất khéo! Ở
đây, Di Lặc Bồ Tát tượng trưng cho pháp ǵ?
Tượng trưng cho pháp môn này, người tu học
pháp môn này giống như Bổ Xứ Bồ Tát, tuyệt
quá! Thực sự là pháp khó tin, nhưng sự thật
đúng như thế đó. Bởi lẽ, quư vị tu pháp
môn này, một đời thành Phật, đó chẳng gọi
là Bổ Xứ, th́ gọi là ǵ đây?
Nay Di Lặc Bồ Tát đang ở trên trời
Đâu Suất, tương lai sẽ hạ sanh trong thế
gian này, thị hiện thành Phật. Chúng ta tu học pháp môn
này văng sanh thế giới Cực Lạc, theo học với
A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc,
cũng là một đời viên măn thành Phật, chẳng cần
đợi đến đời thứ hai. Bởi thế,
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy cho chúng ta biết Tây
Phương Cực Lạc thế giới, trong thế giới
ấy, “chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ”
(các thượng thiện nhân cùng họp một chỗ),
“thượng thiện” là
Đẳng Giác Bồ Tát. Phàm những ai văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, ta đều có
thể gọi họ là Đẳng Giác Bồ Tát. Trong tương
lai, người ấy đến đâu để thành Phật?
Chẳng phải ở thế giới Cực Lạc, mà là ở
các nơi trong khắp pháp giới, hư không giới, chỗ
nào có duyên bèn đến đó thành Phật. V́ thế, tổ
sư đại đức thường chỉ dạy
chúng ta hăy rộng kết pháp duyên, rất trọng yếu!
Pháp duyên của quư vị thù thắng th́ trong tương lai
nơi để quư vị thành Phật sẽ rất nhiều!
V́ sao? Kinh luận thường nói: “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”, quư vị
muốn độ người hữu duyên th́ quư vị phải
rộng kết pháp duyên đối với hết thảy
chúng sanh, không kết duyên chẳng được.
Dưới
đây, lại mở ngoặc: “Trung
Quốc tạo tượng, biểu b́nh đẳng hỷ
duyệt - Cực Lạc chi ư” (Trung Quốc tạo
tượng nhằm thể hiện sự b́nh đẳng,
vui sướng, thể hiện ư nghĩa Cực Lạc).
Tôi vừa mới thưa cùng quư vị, cổ đức
tán thán tượng ngài Di Lặc là “sanh b́nh đẳng tâm, thành hỷ duyệt tướng”,
thành tựu tướng hỷ duyệt. Người tu Tịnh
Độ chúng ta phải giống như Di Lặc Bồ
Tát, bất luận ở đâu, bất luận gặp ai,
đều chắp tay cười h́ h́: “A Di Đà Phật”.
Người tu Tịnh Độ ấy chẳng cần phải
phân biệt người khác nói năng lành hay chẳng lành,
đều chẳng ăn nhằm ǵ hết! Họ nói lời
lành, ta A Di Đà Phật; họ nói lời chẳng lành, ta
cũng A Di Đà Phật. Hết thảy thị phi, thiện
ác đến chỗ ta thảy đều hóa thành A Di Đà
Phật, đại từ đại bi!
Hết
thảy pháp thế gian, xuất thế gian đều quy vào
A Di Đà Phật, vạn pháp quy nhất, nhất quy Tịnh
Độ. Nhà Thiền hỏi: “Vạn
pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” (Vạn pháp quy nhất,
cái nhất đó quy về đâu?) Chúng ta có câu trả lời:
“Vạn pháp quy nhất, nhất
quy Tịnh Độ”. Cái quy nhất ấy là quy vào một
câu danh hiệu, danh hiệu có công đức chẳng thể
nghĩ bàn; chúng ta chấp tŕ danh hiệu, quy tâm Tịnh
Độ.
Bởi
thế, hai vị Bồ Tát này khuyên nên nguyện, khuyên chúng
ta hăy phát nguyện, nhất định phải khẳng
định, nhận biết pháp môn này là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Pháp môn này “sanh b́nh đẳng tâm, thành hỷ duyệt tướng”,
là pháp môn Nhất Sanh Bổ Xứ, quư vị c̣n cầu ở
đâu nữa? Bởi lẽ, [những ai] văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là A
Duy Việt Trí Bồ Tát! A Duy Việt Trí là chứng trọn
vẹn ba thứ Bất Thoái! Chứng ba thứ Bất
Thoái là chứng đắc của Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo, tuy họ chứng được, nhưng
chưa viên măn. Chứng trọn vẹn ba thứ Bất
Thoái là hạng Bồ Tát nào? Tổ sư đại đức
bảo: Từ Thất Địa trở lên, chẳng phải
là hạng Bồ Tát b́nh thường, mà là Vô Sanh Nhẫn Bồ
Tát, gọi là A Duy Việt Trí. Trong
A Duy Việt Trí, cũng chia thành ba phẩm thượng,
trung, hạ. Hạ phẩm là Thất Địa, trung phẩm
là Bát Địa, thượng phẩm là Cửu Địa;
trên nữa là Như Lai quả địa. Quư vị thấy
pháp môn này thù thắng như vậy đó, chẳng cần
phải trải qua nhiều A-tăng-kỳ kiếp, hay ba
đại A-tăng-kỳ kiếp, chẳng cần! Một
đời thành tựu, chẳng cần phải trải qua
năm mươi mốt địa vị, không cần!
Pháp môn này là pháp môn viên đốn, là pháp môn hy hữu khôn
sánh!
Vị Bồ Tát thứ
ba là Càn Đà Ha Đề. Càn Đà Ha Đề (Gandhahastin) là
tiếng Phạn, dịch sang nghĩa Trung Quốc là Bất
Hưu Tức (chẳng ngơi nghỉ), dũng mănh tinh tấn.
Vị Bồ Tát thứ
tư là Thường Tinh Tấn. Quư vị thấy “Bất
Hưu Tức, Thường Tinh Tấn”, hai vị Bồ
Tát này tượng trưng cho hạnh môn, khuyên hăy nên hành. “Như Thiện Tài chi tham học,
nhất sanh tu chứng Tịch Quang Tịnh Độ” (như
Thiện Tài đi tham học, trong một đời tu chứng
Tịch Quang Tịnh Độ). Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện
Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần,
thị hiện cho chúng ta thấy [Ngài tu học] chẳng
ngơi nghỉ, luôn tinh tấn. Thiện Tài nêu gương ấy
cho ta thấy, một đời viên măn thành tựu.
Bốn vị Bồ
Tát này, Ngẫu Ích đại sư bảo ngài Văn Thù là cổ
Phật tái lai, ai nấy đều biết điều này.
Trong quá khứ, Ngài là thầy của bảy đức Phật.
Nói cách khác, bảy người học tṛ của Ngài nay
đă đều thành Phật, Ngài là thầy của bảy
vị Phật. Nay Ngài đến đây v́ chúng ta chứng
minh: Pháp môn này trí huệ đệ nhất, thù thắng khôn
sánh, Ngài có tư cách để chứng minh điều ấy
cho chúng ta.
Di Lặc Bồ Tát là
Đẳng Giác hậu bổ Phật; Bất Hưu Tức,
Thường Tinh Tấn đều là các Bồ Tát thuộc
địa vị cao, địa vị cao tức là Pháp Vân
Địa hoặc Đẳng Giác, v́ chúng ta thị hiện,
khuyên lơn, chỉ bảo chúng ta: Pháp môn này chẳng dễ
ǵ gặp được! Bài Khai Kinh Kệ có câu: “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”
(Trăm ngàn vạn ức khó gặp gỡ). Đầu
đời Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh viết: “Vô lượng kiếp lai, hy hữu
nan phùng chi nhất nhật” (Ngày gặp được
pháp môn Tịnh Độ là ngày hiếm có, khó gặp từ
vô lượng kiếp đến nay). Nay chúng ta gặp
được, trong ngàn vạn kiếp hy hữu khó gặp,
mà chúng ta gặp được; người ta thường
nói quư vị rất hên! Gặp được rồi th́
sao? Phải tin tưởng, phải phát nguyện cầu
sanh Tịnh Độ, phải dũng mănh, tinh tấn, chẳng
thể phụ bạc một đời này, phải khéo niệm
Phật! Phải biến việc này thành việc quan trọng
bậc nhất trong cuộc đời này, làm sao thực hiện
cho tốt? Phải nhớ lời Ấn Quang đại
sư.
Ấn Quang đại
sư xuất hiện trong thời cận đại, rất
nhiều đồng học biết Ngài là Đại Thế
Chí Bồ Tát tái lai. Trong thời đại hiện tại,
đạo tràng như thế nào sẽ thích hợp nhất
để tu hành, tu tập, bảo đảm quư vị văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Ngài dạy
chúng ta nguyên tắc: Đạo tràng có quy mô nhỏ, người
cùng tu chẳng quá hai mươi người. Đạo
tràng nhỏ, ít người, dễ duy tŕ cuộc sống,
chẳng cần hóa duyên, chẳng phải làm pháp hội, chẳng
phải làm Phật sự siêu độ, cũng chẳng
truyền giới, cũng chẳng giảng kinh, công khóa mỗi
ngày đều giống như Phật thất, Phật thất
suốt năm. Phật thất là bảy ngày, ở đây
chúng tôi đề xướng mười Phật thất,
tức là bảy mươi ngày, c̣n “thường niên Phật
thất” tức là suốt cả năm đều giống
như công khóa lúc đả Phật thất. Buông xuống vạn
duyên, nhất tâm cầu Tịnh Độ.
Đồng tham đạo
hữu như thế chẳng dễ cầu. Đạo
tràng của chúng ta chẳng thể hoàn toàn tuân theo chỉ thị
của Ấn Quang đại sư, v́ ở đây chúng ta
thêm một buổi giảng kinh. V́ sao phải giảng kinh?
Nếu chẳng hiểu rơ đạo lư Tịnh tông, chẳng
nhận rơ cảnh giới, thường bị ngă ḷng. Nghe
kinh nhiều, hiểu rơ đạo lư, giúp quư vị buông xuống,
giúp quư vị đoạn nghi sanh tín, tín nguyện kiên định,
đảm bảo quư vị một đời thành tựu,
đạo lư là đây. Mọi chuyện khác chúng tôi đều
không làm, đạo tràng này là giảng kinh, niệm Phật,
tâm vĩnh viễn định. Bây giờ hết giờ rồi!
*
6.2.1.6.5.
Quảng thích ngoại hộ chúng
Xin hăy xem
đoạn thứ ba của phần Thông Tự.
Cập
Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, vô lượng chư
thiên đại chúng câu.
及釋提桓因等。無量諸天大眾俱。
(Và Thích Đề Hoàn Nhân v.v… Vô lượng
chư thiên đại chúng cùng nhóm họp).
“Thích Đề Hoàn Nhân” (Śakro Devānām Indrah) là tiếng Phạn, có nghĩa là
Năng Vi Chủ. Trí huệ, đức hạnh của ông
ta đều trọn đủ để lănh đạo
chúng sanh, tên ông ta có nghĩa như vậy. Ông ta là chúa trời
Đao Lợi (Trayastrimśa), ta gọi là Đao Lợi
thiên vương. Vị được dân gian Trung Quốc
gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế chính là ông ta.
“Đẳng, vô lượng
chư thiên đại chúng câu”: “Đẳng” (等) là vân
vân, phía dưới ông ta có Tứ Vương Thiên (Cātummahārājika),
phía trên là các trời Dạ Ma (Yāma), Đâu Suất
(Tushita), Hóa Lạc (Nirmānarati), Tha Hóa Tự Tại
(Parinirmita-vaśavartin), lên trên nữa lại có Sắc Giới
(Rūpadhātu), Vô Sắc Giới (Ārūpyadhātu) “vô lượng chư thiên”, lấy
ông ta làm đại diện.
Thứ
hai, ông ta là hộ pháp rất đắc lực của
đức Thế Tôn. Đương nhiên, chư thiên đều
là hộ pháp, Phật pháp cũng chẳng trái nghịch t́nh cảm
của con người, chúng ta phải hiểu đạo
lư này. Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta hằng thuận
chúng sanh, tùy hỷ công đức; người thế gian
đều tôn kính Đao Lợi thiên chúa, đều phụng
thờ Ngọc Hoàng thượng đế, cho nên Thích Ca
Mâu Ni Phật hằng thuận chúng sanh, lấy Đế
Thích làm đại biểu. “Biểu
nhất thiết tôn giáo chi sĩ ưng tu” (Biểu thị
hết thảy những người thuộc hết thảy
tôn giáo đều nên tu). Ở đây, Đế Thích biểu
thị pháp: Mục tiêu giáo học của tất cả hết
thảy tôn giáo là Thiên Đường; nay Thích Đề
Hoàn Nhân cũng tham dự pháp hội này, tiếp nhận lời
Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Quư vị muốn đến Thiên
Đường, nhưng Thiên Chúa của quư vị nay
đang niệm Phật, quư vị cũng phải cầu
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
V́ thế, năm
xưa khi tôi mới học Phật, trong số bạn bè có
không ít tín đồ Cơ Đốc, chúng tôi đều là
bạn bè rất thân. Sau khi tôi học Phật, tôi khuyên họ
nỗ lực chiếu theo kinh điển Cơ Đốc
để tu học cho tốt; tôi chẳng khuyên họ học
Phật. Do vậy, có rất nhiều người ngạc
nhiên: “Sao ông lại dạy như vậy?” Tôi nói: “Đao Lợi
thiên chúa thường lễ thỉnh Phật, Bồ Tát giảng
kinh thuyết pháp trên thiên cung. Hiện thời, người
kia chẳng có duyên với Phật, tôi có khuyên ông ta cũng
chẳng tin. Khi ông ta sanh lên trời rồi, ông ta thấy Thiên
Chúa và rất nhiều thiên chúng nghe kinh nghe pháp!” Đi
đường ṿng như thế chẳng hề ǵ, vẫn
là cùng một chuyện mà! Do vậy, tôi chẳng khuyên những
người đó học Phật, làm như vậy không
hay, không hợp lư. Khi khuyên họ học Phật là [khuyên họ]
phản giáo, điều ấy có ảnh hưởng không tốt
đối với xă hội. Khuyên họ tích cực tu học,
thực sự sanh lên Thiên Đường, Phật cũng
đang giảng kinh thuyết pháp trên thiên đường!
Nếu chúng ta thực
sự văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
trong thiên cung có rất nhiều bằng hữu, chúng ta có thể
tùy thời đến tụ hội với họ. Họ
chẳng tự tại, chúng ta tự tại. Giống
như trong thế gian hiện tại này, có rất nhiều
người ra ngoại quốc chẳng dễ dàng, có kẻ
không có hộ chiếu (passport), có kẻ có hộ chiếu nhưng
không được chấp thuận. Chúng tôi có rất nhiều
hộ chiếu, xin phép rất thuận tiện, đến
đâu cũng được; ai không đến đây gặp
tôi được, tôi bèn đến đó gặp họ. Chúng
ta về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
chư thiên đến thế giới Cực Lạc chẳng
dễ dàng, nhưng người của thế giới Cực
Lạc đến bất cứ tầng trời nào đều
rất thuận lợi. Chúng ta có thể thường chiếu
cố kẻ ấy, thường xuyên gặp họ, hàn huyên
chuyện cũ, thật là sung sướng.
Thứ ba là “đại chúng, biểu nhất
thiết chúng sanh dục ly khổ, đắc cứu cánh lạc
giả, ưng đương tu” (đại chúng: biểu
thị hết thảy chúng sanh muốn ĺa khổ để
đạt được sự vui rốt ráo th́ phải
nên tu). Phạm vi của “đại chúng” rất rộng,
chẳng những là hết thảy loài người, mà trong
ấy c̣n gồm cả loài súc sanh, loài ngạ quỷ, loài
địa ngục, thảy đều gộp cả trong ấy,
hết thảy chúng sanh trong lục đạo. Nếu quư vị
thực sự muốn ĺa khổ, đạt được
sự vui rốt ráo, trừ pháp môn này ra, các pháp môn khác chẳng
thể thành công dễ dàng. Pháp môn này thực sự giúp quư vị
một đời thành tựu. Bởi thế, đoạn kinh
văn này là “phàm chúng khuyến
tu” (khuyên các phàm phu nên tu), hoằng hộ (hoằng truyền,
ǵn giữ), “hoằng hộ thử
kinh, sướng Phật bổn hoài” (hoằng truyền,
ǵn giữ kinh này, thỏa thích bản hoài của Phật).
Việc hoằng hộ
này bất luận người tại gia hay xuất gia ai nấy
đều nên làm. Sao gọi là Hoằng? Tự ḿnh y giáo tu
hành là Hoằng, tôi làm như vậy cho anh coi, bởi thế,
Hoằng và Hộ không thể tách rời nhau. Thiên chức của
bọn đệ tử Phật chúng ta là hoằng hộ
chánh pháp, trong thời kỳ Mạt Pháp bèn hoằng hộ
pháp môn Tịnh Độ. Đấy là thiên chức của
chúng ta. Nói đến “hoằng hộ” lại khiến tôi
liên tưởng đến người Trung Quốc, thiên
chức của quư vị phải là hoằng hộ truyền
thống đạo đức, văn hóa của dân tộc;
đó là thiên chức của quư vị.
Quư vị là người
quốc gia nào, là người thuộc dân tộc nào, hoặc
tín ngưỡng một tôn giáo nào đó, thiên chức của
quư vị là phải thực hiện sứ mạng hoằng
hộ dân tộc, quốc gia, tôn giáo đó. Nếu quư vị
chẳng thể làm trọn sứ mạng hoằng hộ,
th́ truyền thống đạo đức, văn hóa sẽ
bị suy vong! Suy đến cùng cực bèn diệt vong! Sao
quư vị chẳng có lỗi với tổ tông? Sao chẳng
mắc lỗi với những người đời trước?
Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm khẳng
định pháp nào cũng b́nh đẳng, không có cao, thấp.
Văn hóa của mỗi quốc gia đều hay, truyền
thống của mỗi một dân tộc đều hay, mỗi
một tôn giáo đều hay, đều cần có người
hoằng dương rực rỡ, rộng lớn.
Hiện tại, ở
Trung Quốc rất bất hạnh, phát sanh cơn bệnh
dịch SARS, rốt cuộc là Trung Y giỏi hay Tây Y giỏi?
Lời ông Đặng Tiểu B́nh nói rất có lư: “Chẳng
cần biết là mèo trắng hay mèo đen, mèo nào bắt
được chuột là mèo giỏi”. Dùng câu đó
để nói, chẳng cần biết Trung Y hay Tây Y, thứ
y học nào chữa lành bệnh nhân th́ nền y học đó
giỏi. Sao lại tranh căi lôi thôi trong lúc này? Tranh căi lôi thôi sẽ
hỏng chuyện, bao nhiêu người chết oan uổng! Đối
với những người chết oan uổng ấy, quư
vị không phải gánh trách nhiệm nhân quả ư? Đối
với thế gian, quư vị chẳng chịu trách nhiệm
pháp luật, nhưng quư vị chịu trách nhiệm nhân quả.
Quư vị có cảm thấy lương tâm cắn rứt
hay không? Nếu quư vị không có lương tâm,
đương nhiên chẳng cảm thấy lương tâm
cắn rứt, không có lương tâm mà! Nhưng quư vị
chẳng thoát khỏi nhân quả báo ứng đâu nhé!
Lúc này chớ nên tranh chấp,
cứu người khẩn yếu hơn! Cứu một mạng
người hơn tạo phù-đồ (tháp) bảy tầng,
công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn. Nếu quư
vị không cẩn thận, lơ đăng, hại một mạng
người, tương lai phải đền mạng.
Người Trung Quốc tin tưởng nhân quả, tin vào
luân hồi báo ứng. Nay người
Tây phương cũng dần dần giác ngộ, có
không ít người rất tích cực nghiên cứu sự việc
này.
Nếu như bây giờ
nói hết thảy đều lấy khoa học làm căn cứ,
chẳng hợp khoa học bèn chẳng tin, khoa học đến
nay có được bao nhiêu năm lịch sử? Tính cho cùng
th́ không quá ba trăm năm, ba trăm năm trước
đó người ta sống ra sao? Chưa có khoa học họ
sống làm sao? Ba trăm năm trước kia có ôn dịch,
chẳng phải là không có ôn dịch, trong lịch sử
Trung Quốc có ghi chép. Y dược, phương pháp cứu
người thời đó đều chẳng có căn cứ
khoa học!
Chúng tôi hoàn toàn chẳng
phản đối khoa học, chúng tôi tôn trọng khoa học;
nhưng vẫn c̣n có rất nhiều điều mà khoa học
hiện tại không thấu suốt, chưa phát hiện
được. Y dược Trung Quốc được
phát minh rất sớm, tối thiểu có lịch sử
năm ngàn năm, chỉ riêng năm ngàn năm kinh nghiệm
đă chẳng thể coi thường. Khoa học có thể
lật đổ nó hay chăng? Nếu như khoa học tiêu
diệt, hủy sạch mọi thứ vốn sẵn có
như những thứ truyền thống ưu tú nhất của
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, khoa học vạn
năng, th́ kết quả tối hậu của khoa học
là ǵ? Nhà khoa học sẽ tự nói “thế giới đến
ngày tàn!”
Người Trung Quốc
đáng thương! Vô cùng đáng thương! Trước
kia, tôi cùng tiên sinh Hồ Thu Vân tṛ chuyện, hết sức
cảm khái. Từ cuối đời nhà Thanh trở đi,
người Trung Quốc chôn vùi ḷng tự tin dân tộc,
Trung Quốc có tai nạn v́ đâu? Là v́ lư do đó. Hiện
tại, ôn dịch gây chết người, rất nhiều
người bị chết. Nguyên nhân v́ đâu? Chẳng tin
vào y dược Trung Quốc; v́ nguyên nhân nào? Chôn vùi ḷng tự
tin dân tộc, chẳng tin tưởng vào bất cứ thứ
ǵ do tổ tông truyền lại. Nếu nói theo nhân quả,
họ đáng phải nhận lănh kết quả ấy. Đó
là đại bất hiếu! Tổ tông nào chẳng yêu
thương con cháu, truyền lại những thứ tốt
nhất cho đời sau, quư vị không tin tưởng th́
không c̣n cách nào hết! Quư vị cứ muốn vứt sạch,
cứ muốn tiêu diệt đi, tội ấy nặng lắm!
Bởi vậy, nói
đến rốt ráo là vấn đề giáo dục của
Trung Quốc. Trong thiên Học Kư [của sách Lễ Kư] có hai
câu rất hay: “Kiến quốc,
quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất nước,
cai trị dân chúng, đều lấy giáo dục làm đầu).
Giáo dục triết học Trung Quốc, quan niệm giáo dục
từ thời Hán Vũ Đế[6] chế
định chính sách giáo dục cho đến đời Măn
Thanh chẳng thay đổi. Trước kia, chúng tôi học
lịch sử, đối với việc này chúng tôi cảm
thấy rất lạ lùng. Mỗi một triều đại
đều có những chuyện hưng khởi, thay đổi,
cớ sao giáo dục vẫn chẳng biến động?
Người Mông Cổ vào làm chủ Trung Quốc chẳng
biến cải, người Măn Thanh vào làm chủ Trung Quốc
cũng không thay đổi. Chúng ta chú ư xem kỹ, cổ
thánh tiên hiền Trung Quốc, đặc biệt là Nho gia,
trong bách gia chư tử, Hán Vũ Đế chọn giáo học
Nho gia làm giáo dục truyền thống của quốc gia.
Nho giáo dạy chúng ta điều ǵ? Châu phu tử, tức
Châu Hy đời Tống lập ra trường học
tư, bản yết thị ở thư viện hang Bạch
Lộc là cương lănh, tổng cương lănh, tổng
nguyên tắc giảng dạy của Nho gia, đơn giản
dễ hiểu. Giáo dục Trung Quốc mấy ngàn năm chẳng
ĺa khỏi chuẩn mực sau đây:
a) “Phụ tử hữu thân” (cha con thương yêu
nhau). Điều ấy có
sai lầm chăng? Nay chẳng c̣n nữa, cha chẳng từ,
con chẳng hiếu. Trước kia tiếp nhận giáo dục
Nho gia, cha từ, con hiếu, gia đ́nh ḥa thuận, yên vui.
b) “Quân thần hữu nghĩa” (vua tôi có nghĩa), nay
vua hoài nghi bầy tôi, bầy tôi chẳng trung với vua.
“Vua” là người lănh đạo một đoàn thể, “bầy
tôi” là người được lănh đạo, bằng mặt
không bằng ḷng, tốt ǵ đâu?
c) “Phu thê hữu biệt, trưởng ấu hữu tự,
bằng hữu hữu tín” (Chồng vợ có nhiệm vụ
sai khác trong gia đ́nh và xă hội, lớn nhỏ có tôn ty trật
tự, bạn bè giữ chữ Tín), nguyên tắc ấy có
ǵ không tốt?
Đấy là năm
điều dạy người ở Trung Quốc từ cổ
đến nay, có thể nói là bắt nguồn thời Nghiêu
- Thuấn! Bắt nguồn từ thời Nghiêu - Thuấn
th́ trong lịch sử Trung Quốc, phỏng chừng
hơn bốn ngàn năm trước, giáo dục Trung Quốc
dạy như vậy đó. Dạy chúng ta phương pháp
tư duy thông thường: “Bác
học, thẩm vấn, thận tư, minh biện, đốc
hành” (Học rộng, hỏi kỹ, suy nghĩ cẩn thận,
làm sáng tỏ, dốc sức thực hành). Phương pháp
này có thích hợp cho hiện tại hay không? Xử sự,
đăi người, tiếp vật, cương lănh đều
rất đơn giản, “ngôn
trung tín, hành đốc kính” (lời lẽ trung tín, việc
làm dốc hết ḷng thành kính), quư vị nghĩ có tốt
hay không? Ngôn ngữ phải chân thành, người hiện tại
hay bịp người. Toàn là nói dối, nói đâm thọc,
ác khẩu, nói thêu dệt. Đại khái, [người hiện
thời cho rằng] giáo học Trung Quốc từ cổ
đến nay chẳng phù hợp khoa học, hiếu -
đễ - trung - tín chẳng phù hợp khoa học, người
với người tôn trọng nhau, kính yêu nhau chẳng hợp
khoa học! Khoa học hoàn toàn chống trái những điều
đó th́ thế giới này sẽ biến thành thế giới
ǵ? “Xử sự, chánh kỳ
nghĩa, bất mưu kỳ lợi” (Xử sự, phải
đúng với đạo nghĩa, chẳng mưu cầu lợi
lộc), điều này chắc chắn chẳng hợp
khoa học; khoa học nói lợi - hại, Nho gia nói đạo
nghĩa, cốt sao hợp đạo nghĩa, chẳng cần
biết đến lợi - hại.
Bởi thế, cổ
thánh tiên hiền có thể bỏ ḿnh v́ người, đối
đăi người “kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân” (điều ǵ ḿnh
không muốn, chớ làm cho người khác). Giáo huấn
như vậy có sai lầm hay chăng? Phải nên làm ǵ?
Đúng là khoa học dạy chúng ta phải cạnh tranh,
đấu tranh, chiến tranh, vĩnh viễn tranh đấu,
đấu tranh suốt đời, đến chết vẫn
tranh giành chẳng thôi, sống trong đau khổ. Giáo dục
của Nho, Phật, thánh hiền dạy ta sống trong hoan
lạc, sống trong an ninh; nhưng bây giờ nói đến
an ninh chẳng có ai hiểu được, v́ sao? Từ
trước đến giờ, họ chưa từng sống
an ninh, từ trước đến giờ, họ chưa
biết thế nào là niềm vui thiên luân[7],
chưa hề có, chưa hề thấy qua, chưa hề
nghe đến. Họ toàn thấy, nghe tranh giành, đấu
tranh, chiến tranh, vĩnh viễn phải chiến thắng
hết thảy, không chiến thắng là thất bại, biết
làm sao được!
Bởi thế, nay chúng
ta nói đến hộ pháp, quả thật chẳng phải
dễ! Trong thời đại này, giáo huấn của thánh
hiền, truyền thống đạo đức văn hóa
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều bị
băng hoại toàn bộ. Do vậy, rất nhiều tiên đoán
từ xưa của Tây phương,
trong Thánh Kinh cũng có nói, ngay cả Cổ Lan Kinh
(Koran[8])
cũng nói đến ngày tận thế. Kinh Cổ Lan lại
c̣n dạy tín đồ phải tin vào một vị Chúa thật
(chân chúa), phải tin vào ngày tận thế.
Trong thời đại
này, chúng ta phải hướng về đâu? Quư vị phải
thực sự giác ngộ, phải nhớ kỹ những
giáo huấn của Ấn Quang đại sư, Ngài chỉ
cho chúng ta một sanh lộ: Đạo tràng quy mô nhỏ, ít
người cùng tu, chẳng phan duyên, nhất tâm niệm Phật,
cầu sanh Tịnh Độ. Nếu có cơ duyên bèn dạy
mấy tên học tṛ, truyền lại đạo của thánh
hiền. Không cần nhiều học tṛ, có được
một người là được rồi, có thể truyền
được rồi. Quư vị hăy nghĩ lúc Thiền tông
vừa truyền đến Trung Quốc, Đạt Ma Tổ
Sư đến Trung Quốc, truyền cho một ḿnh Huệ
Khả. Sau đó Đạo Tín, Tăng Xán đều là
đời đời đơn truyền, đến Lục
Tổ Huệ Năng đại sư, duyên chín muồi,
phước báo của chúng sanh hiện tiền, bởi thế,
Thiền Tông mới hưng vượng mạnh mẽ. Chỉ
cần ngọn lửa đèn ấy chẳng tắt, chỉ
cần một tia ánh sáng, duy tŕ giềng mối đạo
chẳng để nó suy đọa, sau này nhất định
có ngày phát dương quang đại. Đấy là chuyện
chúng ta phải làm trong hiện tại.
Nhưng trong công tác ấy,
tự ḿnh nhất định phải hiểu có chủ và
khách. Chủ là ǵ? Chủ là tự cầu sanh Tịnh Độ.
Truyền đạo, truyền pháp phải dựa theo duyên
phận! Chẳng có duyên phận th́ quư vị có muốn làm
cũng chẳng thành công. Phải có duyên phận, chúng sanh có
phước báo, được oai thần của chư Phật
gia tŕ, tự ḿnh thành tâm thành ư, chẳng có chút ḷng riêng tư
nào, đấy chẳng phải là chuyện dễ dàng! Nhưng
bất luận như thế nào, trước hết phải
thành tựu chính ḿnh, đấy là điều kiện tiên
quyết bậc nhất.
Trong thời kỳ Mạt
Pháp, chướng duyên rất nhiều, bởi thế,
đạo tràng nhỏ ít người, chướng ngại
bèn ít. Đạo tràng của chúng ta, sau khi dựng xong giảng
đường, tôi bảo mọi người: “Làm đến
đây là thôi!” Chúng tôi hy vọng làm được điều
Ấn Quang đại sư giáo huấn, chúng tôi y giáo phụng
hành. Mười người, hai mươi người hằng
ngày chắc thật niệm Phật, học kinh giáo, giải
hạnh tương ứng. Chúng ta có Học Hội ở Bố
Lư Tư Bản (Brisbane), Học Hội chúng ta cũng phải
làm gương, tuân thủ lời pháp sư Ấn Quang giáo
huấn, mong rằng chúng thường trụ chẳng quá
hai mươi người. Chúng ta có thể tổ chức
Phật thất, giúp đỡ những người ngoài
đạo tràng chân chánh phát tâm đến tu học. Vẫn
chiếu theo phương pháp trước kia, một năm
tổ chức bốn lần hoạt động là Phật
thất. Hoạt động Phật thất của chúng ta
kể cả người trong nhà không quá bốn mươi
tám người, bốn mươi tám người ứng với
bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, gồm
cả người trong nhà. Nếu trong nhà có hai mươi
người, chúng ta chỉ tiếp nhận hai mươi
tám người bên ngoài. Nếu trong nhà có ba mươi
người, chúng ta chỉ có thể tiếp nhận mười
tám người ngoài, nỗ lực tu tập!
Trong studio, chúng ta không
ngừng mời mọc những vị thầy giỏi dạy
cho chúng ta một vài lớp. Những lớp ấy chúng ta
không bắt buộc phải học, v́ sao? Sau khi chúng ta thâu
h́nh bèn phát lên mạng Internet, lưu thông trên đài truyền
h́nh vệ tinh, thực hiện hoạt động giáo dục
xă hội. Đó là chúng ta hoằng hộ chánh pháp, hoằng
hộ mối đạo của Nho, Phật, thánh hiền
giáo huấn, chúng ta làm công tác ấy, hy vọng cái tâm ḿnh sẽ
nhờ đó mà định, sẽ có thành tựu thực sự.
Chúng tôi dùng cách đó để báo ân Phật, báo ân cha mẹ,
báo ân tổ tông, báo ân hết thảy chúng sanh, phải thực
hiện bằng hành động, phải đạt được
thành tích mới được, chứ chẳng phải là
miệng nói xuông. Miệng nói xuông là giả, nào phải là thật.
Bởi thế, hôm nay trông thấy hai chữ Hoằng Hộ,
tôi vô cùng cảm xúc sâu xa!
Trong đoạn cuối
cùng này, có một điều “vô
vấn tự thuyết” (không ai hỏi tự nói). “Từ mẫn thâm thiết, cấp
độ chúng cố, nghĩa lư huyền bí nan tín, vô nhân khải
thỉnh” (ḷng từ mẫn sâu đậm, thiết tha,
v́ gấp độ chúng sanh, nghĩa lư u huyền, kín mật,
không có người khải thỉnh). Bộ kinh này không ai hỏi,
tự đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra. T́nh h́nh này không
nhiều, đức Thế Tôn giảng kinh hơn quá nửa
là v́ có người nêu câu hỏi, ở đây đức Phật
tự nói. Nói thật ra, pháp môn này không có ai có khả
năng để hỏi cả. Đức Phật thấy
trong đại chúng khi ấy có rất nhiều người
căn cơ chín muồi, chín muồi là có thể tin
được, có thể tiếp nhận được,
họ sẽ được lợi ích. Trong pháp Đại
Thừa thường nói: “Phật
chẳng độ kẻ vô duyên”.
Như trong cơn dịch
SARS lần này, có rất nhiều vị thầy lang rất
giỏi, tâm rất từ bi, muốn giúp đỡ,
nhưng người ta không tin, ấy là vô duyên. Trông thấy
người bệnh chết, mà không có cách ǵ cứu
được. Hữu duyên là ǵ? Tin tưởng, bằng ḷng
hợp tác với ḿnh, để cho ḿnh cứu. Tôi nghe nói ở
Bắc Kinh có ông đạo diễn họ Tạ, tên là Tạ
Phi, bị mắc bệnh SARS. Thầy lang họ Lưu ở
Bắc Kinh bốc thuốc cho ông Tạ, hết mười
tám đồng nhân dân tệ[9], ông
Tạ lành bệnh, được xuất viện. Đưa
vào bệnh viện cũng là lúc gặp hồi nguy ngập,
chữa theo Tây y phải gắn ống này nọ, rất
phiền phức. Chuyện được tiến hành
cũng là nhờ một bạn đồng hành của ông
ta, cũng là một Phật giáo đồ, tức là cư
sĩ Lăng Tư, van nài bệnh viện, xin bệnh viện
cho ông Tạ thử dùng thuốc Bắc trong thời gian ba
ngày. Hay quá! Vị thầy lang trong bệnh viện đó thật
đại từ đại bi đáp ứng. Ông Tạ bèn
uống thuốc Bắc, ba ngày sau kiểm tra lại, đă
khỏe, đă b́nh thường, bèn cho về, chỉ tốn
mười tám đồng nhân dân tệ mà thôi!
Chuyện đó nhà Phật
gọi là hữu duyên, Phật độ người hữu
duyên. Nếu quư vị chẳng tin tưởng, chẳng hợp
tác, không có cách ǵ hết! Đối với hết thảy
chúng sanh, đức Phật cũng giống như thế.
Sở dĩ, Thích Ca Mâu Ni Phật trông thấy học tṛ
Ngài trong thế gian này có người tin tưởng
được, có người hiểu được, có
người hành được, chẳng đợi người
khác hỏi, bèn tự ḿnh nói ra! “Ḷng
từ mẫn sâu đậm, thiết tha, gấp độ
chúng sanh”. Pháp môn này dạy quư vị thành Phật trong một
đời, khó tin nhất. Chẳng những người
b́nh thường không tin, Tiểu Thừa Thanh Văn, Duyên
Giác, Quyền Giáo Bồ Tát rất nhiều vị chẳng
tin tưởng pháp môn này. Vậy th́ cũng tốt thôi! Quư
vị cứ từ từ đi theo con đường dài
xa, quư vị mất vô lượng kiếp, ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, cứ đi thong thả! Pháp môn này một đời
viên măn, hữu hiệu phi thường, phương pháp
đơn giản, dễ dàng, “nghĩa
lư u huyền, kín mật, khó tin”, đạo lư, lư luận
rất sâu, rất huyền! Nếu chờ Phật đem
những sự việc này giảng thật rơ th́ quư vị
mới tin nổi, quư vị chẳng có thọ mạng dài
như thế đâu!
Trong các kinh Phật, có
một bộ kinh nhỏ tên là Tiễn Dụ Kinh (kinh thí dụ
mũi tên) để tỷ dụ việc này. Một
người trúng phải tên độc, thời cổ đối
với khoảng cách xa người ta dùng cung tên [tấn công].
Ông ta trúng phải tên độc, độc ngấm rất
sâu. Nay có thầy thuốc cho uống thuốc giải, rịt
thuốc vào [vết thương] sẽ ngay lập tức
lành mạnh. Nếu ông ta chẳng tin tưởng, cứ muốn
biết chất độc ấy là ǵ? Dùng thuốc ǵ để
giải? Đến lúc hiểu rơ những lư luận ấy
th́ chất độc đă phát tác mất rồi, mạng
c̣n đâu nữa? Bởi thế, lúc ấy điều ǵ
cũng không buồn hỏi, cứ tin là dùng ngay, sẽ hữu
hiệu, bèn được lành. Quư vị khỏe rồi mới
lại nghiên cứu th́ được, v́ quư vị có thời
gian. C̣n trong lúc đó, lúc tánh mạng nguy cấp mà vẫn
đ̣i nghiên cứu, chẳng phải là tự kiếm cái chết
ư?
Ở đây, đức
Phật dạy chúng ta tin vào thiện tri thức, đối
với họ ta phải có tín tâm. Quư vị không tin tưởng
họ, dù họ có đại trí huệ, có đại
năng lực cũng giúp không nổi! Đức Phật
có trí huệ rốt ráo viên măn, đức năng viên măn,
chúng ta tin tưởng hay không? Chẳng tin tưởng th́
không có cách ǵ hết! Ai có thể tin? Những người
thiện căn sâu dày. Trong đời quá khứ đă gieo
thiện căn sẽ tin được, hiểu được.
Nói thật ra, tín tâm của chúng ta đối với Phật
pháp cũng phụ thuộc vào thời gian vun bồi,
trưởng dưỡng mà có. Lúc thoạt đầu,
bước vào cửa Phật bán tín bán nghi, nhưng vị
thầy giỏi khéo kiên tŕ dẫn dụ, bởi thế,
thái độ dạy học của thầy là mấu
chốt quan trọng trong sự tiếp
dẫn học sinh.
Đối với học
tṛ, tâm thầy thực sự yêu thương, từ ái, quan
tâm, tôn trọng, khiến cho kẻ làm học tṛ chẳng nhẫn
tâm xa ĺa thầy. Dạy Phật pháp cho tôi, là hai vị thầy,
người đầu tiên là Chương Gia đại
sư, người sau là lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Chúng tôi thân cận
đại sư, đại sư dạy chúng tôi bố thí
pháp. Quan tâm, yêu thương che chở như thế đối
với chúng tôi là bố thí vô úy, khiến chúng tôi lúc tiếp
xúc Ngài, cảm thấy hết sức an toàn, hết sức
hoan hỷ, [đó là] nhiếp thọ chúng sanh. Chúng tôi phát
sanh ḷng tin đối với lời Ngài răn dạy, Ngài
đối với ḿnh tốt như thế, quan tâm như
thế, những ǵ Ngài dạy ḿnh nhất định là tối
hảo. Khởi ḷng tin đối với
thầy, nhất định làm theo lời thầy răn dạy,
dù chẳng làm được một trăm phần
trăm, ít ra cũng làm năm, sáu chục phần
trăm. Năm sáu chục phần trăm cũng rất hữu
ích rồi.
Do vậy, trong nhiều
năm, bản thân chúng tôi sống, xử sự, đăi
người, tiếp vật, đều tuân thủ lời
thầy giáo huấn. Thầy dạy tôi một nguyên tắc
chung “đời người khổ
đau, ngắn ngủi”, đời người khổ,
thọ mạng lại ngắn, nhất định phải
“đoạn ác tu thiện, tích
lũy công đức, không tranh chấp cùng người,
không mong cầu chuyện ǵ”. Thầy chỉ dạy chúng
tôi tổng cương lănh, tổng nguyên tắc như thế.
Bởi thế, gặp ai tranh chấp, tôi nhường; một
đời học nhường nhịn, học chịu thiệt
tḥi, v́ sao? Chịu thiệt tḥi là phước, chúng ta có thể
tiếp nhận, thực sự chịu lép là phước.
Cứ mỗi lần nhường nhịn, mỗi một
lần chịu lép, sau đấy đều rất thù thắng,
bất cứ phương diện nào đều tốt
hơn, cảnh giới ngày càng tốt hơn; do vậy,
đối với giáo huấn của thầy, của Phật,
Bồ Tát càng thêm tin tưởng.
Lúc tôi mới học Phật,
thưa cùng quư vị là bán tín bán nghi, lời thầy răn
dạy tôi chỉ thực hành được năm sáu chục
phần trăm là khá lắm rồi! Học sinh như vậy
chẳng dễ kiếm lắm đâu! Nay tôi đối với
giáo huấn của thầy, kinh giáo của Phật, Bồ Tát tin tưởng một trăm phần
trăm, phụng hành một trăm phần trăm. Theo thời
gian tu học, tín tâm kiên định, tri giải thâm nhập,
đạt lợi ích chân thật, pháp hỷ sung măn!
Tâm Kinh nói “chiếu kiến Ngũ Uẩn, độ
nhất thiết khổ ách” (soi thấy Ngũ Uẩn
đều không, độ hết thảy khổ ách); tuy
tôi chưa nhập được cảnh giới này, mới
mon men, gần kề mà thôi. Đấy là ân đức của
thầy, Phật, Bồ Tát giáo huấn, công lao của hộ
pháp. Được khéo che chở như thế trong những
lúc gian nan khốn khổ tột bậc, các vị ấy ra
tay giúp đỡ, khiến cho tôi cảm thấy ấm áp, chẳng
đến nỗi thoái đọa, đó là ân đức hộ
pháp. Con đường Bồ Đề xa lắm, chẳng
gần gũi ǵ! Quan trọng nhất là phải chịu
đựng được thử thách, chịu đựng
được gian nan, phải như cổ nhân nói: “Càng
vấp ngă, càng hăng hái”, càng tiếp tục gắng
công th́ đạo nghiệp mới có thể thành tựu.
Người thế gian tranh giành danh văn, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, rất tốt! Ta chẳng cần
những thứ đó. Bởi thế, chúng ta chẳng xung
đột với họ, họ cần cái ta không cần, ta
cần cái họ không cần. Ta cần đạo đức
nhân nghĩa, họ không cần. Ta chẳng cần danh
văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần,
họ cần. Bởi thế, chúng ta đối xử ḥa
thuận với nhau, chẳng xung đột quyền lợi.
Đọc đến đoạn này, hết sức cảm
thán. A! Nay đă hết giờ rồi!
Tập 09
Xin xem tiếp phần
Biệt Tự Tam Cương (ba cương lănh trong phần
Biệt Tự), chúng tôi đọc kinh văn một lượt,
may là kinh A Di Đà mọi người rất thông thuộc
rồi.
6.2.2. Biệt
Tự
Nhĩ thời, Phật
cáo trưởng lăo Xá Lợi Phất:
- Tùng thị Tây Phương
quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế
giới danh viết Cực Lạc. Kỳ độ hữu
Phật, hiệu A Di Đà kim hiện tại thuyết pháp.
爾時佛告長老舍利弗。從是西方。過十萬億佛土。有世界名曰極樂。其土有佛。號阿彌陀。今現在說法。
(Lúc bấy giờ, đức Phật bảo trưởng
lăo Xá Lợi Phất:
- Từ đây qua khỏi mười vạn ức
cơi Phật về phương Tây, có thế giới tên là Cực
Lạc. Cơi ấy có Phật, hiệu là A Di Đà nay hiện
đang thuyết pháp).
Mọi người hăy
coi đoạn này, đoạn này rất chẳng thể nghĩ bàn, đức
Thế Tôn giới thiệu cho chúng ta
điều trọng yếu nhất. Trong đoạn này có
ba điều:
1) Thứ nhất là: “Hữu
thế giới danh viết Cực Lạc” (Có thế giới tên là Cực Lạc),
chú ư chữ “có”. Chữ Có này hết sức khẳng định,
khiến cho chúng ta chẳng nẩy sanh mảy may hoài nghi;
đúng thật là có, có một thế giới tên là Cực
Lạc.
2) Điều thứ hai
là trong thế giới ấy có một đức Phật
tên là A Di Đà Phật. Quư vị thấy “kỳ độ
hữu Phật” (cơi ấy
có Phật), vậy là hai chữ Có. “Hiệu A Di
Đà”, A Di Đà Phật làm ǵ ở đó? “Kim hiện
tại thuyết pháp” (Nay
hiện đang thuyết pháp). Như vậy là đă nêu
ra v́ sao thế giới ấy là Cực Lạc? “Y báo trang nghiêm”: Đem thế
giới Cực Lạc so sánh với thế giới của
chúng ta, thế giới chúng ta là thế giới cực khổ,
c̣n của người ta là Cực Lạc, không có khổ;
chỉ có lạc, không có khổ. Kinh văn c̣n giới thiệu
v́ sao thế giới ấy là Cực Lạc? V́ y báo trang
nghiêm!
Câu thứ hai là Chánh Báo
Trang Nghiêm: “Kỳ độ hữu
Phật, hiệu A Di Đà” (Cơi ấy có Phật, hiệu A Di Đà).
3) Thứ ba là sự
nghiệp trang nghiêm: “Thuyết pháp”, thuyết pháp là sự
nghiệp, “nay hiện đang thuyết pháp”. Đức
Thế Tôn đem sự kiện hy hữu khó có này giới
thiệu cùng chúng ta, chúng ta nghe xong bèn có cảm tưởng
ǵ? Nói theo kiểu người hiện thời là có phản
ứng ǵ? So với thế giới của chúng ta, khác rất
xa. Thế giới này của chúng ta, nhất là trong hiện
thời, có thể nói là thế giới cực khổ, khổ
chẳng thể nói nổi; bởi thế, nghĩ đến
thế giới kia là thế giới Cực Lạc.
Tiếp
đó, kinh văn giới thiệu cùng chúng ta v́ sao thế giới
ấy cực lạc? Trong thế
giới ấy không có khổ, nên gọi là thế giới Cực
Lạc. V́ sao không có khổ? Có thầy giỏi chỉ dạy.
Nhân dân trong thế giới Cực Lạc đều là
người thiện căn chín muồi; chẳng như
người trong thế giới này của chúng ta. Thầy
trong thế giới chúng ta khá lắm. Nói thật ra, Thích Ca
Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật chẳng khác nhau, nhưng chánh
báo của thế giới Sa Bà chẳng trang nghiêm, nguyên nhân là
do đâu? Chúng sanh ở đây phiền năo tập khí rất
nặng, nghiệp chướng rất sâu, ương ngạnh
khó hóa độ. A Di Đà Phật có đến đây
cũng bó tay, mọi người chẳng chịu tiếp
nhận, làm cách nào được nữa? Chẳng thể sánh với Tây Phương Cực
Lạc thế giới được.
V́ sao Tây Phương Cực
Lạc thế giới người người thiện
căn đều thành thục? Chúng ta phải hiểu điều này. Thế giới Tây Phương
là quốc độ mới thành lập, A Di Đà Phật
thành Phật đến nay chỉ mới mười kiếp;
giống như một quốc gia mới được
thành lập trong thế giới này. Thế giới Sa Bà này
của chúng ta giống như một nước cổ
đă mấy ngàn năm; bởi thế, đời đời
kiếp kiếp tích lũy rất nhiều tệ hại,
chẳng thể dễ dàng sửa đổi được.
Tây Phương Cực Lạc thế giới là chỗ tu học
do A Di Đà Phật tạo thành, thoạt đầu không có
nhân dân, người trong thế giới Cực Lạc từ
đâu đến? Từ mười phương thế giới
di dân đến. Phàm những ai sanh về thế giới Cực
Lạc đều phải thỏa điều kiện,
không phù hợp điều kiện sẽ chẳng đến
được. Điều kiện ǵ? Thảy đều
là thiện căn, phước đức, nhân duyên chín muồi;
trong kinh nói rất rơ: “Bất khả dĩ thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ
quốc” (Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước
đức, nhân duyên để được sanh về cơi
ấy). Do đây biết rằng: Di dân đến nơi
đó đă được A Di Đà Phật chọn lọc
kỹ càng. Bởi thế, nhân dân trong thế gian ấy dễ
giáo hóa, chẳng ương ngạnh khó hóa độ như
ở đây.
Nếu chúng ta muốn
văng sanh, nay thấy thế giới kia tốt đẹp
như thế đó, đúng là hiếm có, khó gặp, chúng ta
muốn đến đó th́ đến bằng cách nào đây?
Nhất định phải đầy đủ thiện căn,
phước đức, nhân duyên. Nhân duyên dễ có, v́ sao?
Người khác có thể giúp ḿnh được. Chứ
riêng thiện căn, phước đức phải do chính
ḿnh tu, người khác chẳng thể giúp được.
Thế nào là thiện căn? Thế nào là phước đức?
Khi giảng kinh Văng Sanh (quư vị phải nhớ kỹ,
kinh Văng Sanh chính là ba kinh một luận trong Tịnh Độ,
chuyên môn giảng về chuyện văng sanh thế giới Cực
Lạc, gọi chung là kinh Văng Sanh), đă nói đến rất
nhiều lượt.
Thiện căn là tin
được, hiểu được, đó là thiện
căn. Quư vị tin tưởng, hiểu được
kinh văn, quư vị nh́n hiểu được, nghe hiểu
được, đó là thiện căn. Phước đức
là ǵ? Hành được, chứng được, quư vị
chịu y giáo phụng hành là có phước; quư vị không y
giáo phụng hành th́ không có cách ǵ hết! Nhân duyên là điều
kiện bên ngoài; nhân duyên quan trọng nhất là gặp
được thiện tri thức chân chánh đem pháp môn
này giới thiệu cùng quư vị. Nhân duyên ấy chúng ta
đă có.
Xưa kia, vị xuất
gia giới thiệu pháp môn này cho tôi là pháp sư Sám Vân; vị
tại gia giới thiệu pháp môn này là lăo cư sĩ Lư Bỉnh
môn này.
Về sau, tôi rời khỏi
Phố Lư, đến Đài Trung theo học kinh giáo với
thầy Lư. Hứng thú, chí nguyện đích thực của
tôi là kinh giáo. Thầy Lư thường khuyên tôi tu pháp môn Tịnh
Độ, thầy giảng kinh Di Đà. Tôi nghe xong, thực
sự rất cảm động, điều này thầy Lư
cũng nh́n ra. Đối với bọn đồng học
chúng tôi, trong lúc tṛ chuyện cùng đại chúng, cụ từng
nói tôi sẽ có dịp được thọ dụng kinh Di
Đà. Tôi thực sự chết sạch ḷng mong ngóng so đo,
khiêm hư sát đất, chẳng hoài nghi nữa, chuyên tu,
chuyên hoằng Tịnh Độ là lúc giảng kinh Hoa Nghiêm,
tôi đă từng kể cùng quư vị rồi. Giảng kinh
Hoa Nghiêm lần đầu giảng được một
nửa, tức là giảng một nửa Bát Thập Hoa
Nghiêm, Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng giảng được
một nửa. Có một ngày, tôi đột nhiên nghĩ
Văn Thù, Phổ Hiền tu pháp môn nào? Thiện Tài đồng
tử tu pháp môn ǵ? Quan sát kỹ càng, thảy đều là
pháp môn Niệm Phật, nên mới chết sạch ḷng mong
ngóng so đo, khiêm hư sát đất.
Văn Thù, Phổ Hiền
là hạng người nào? Chúng ta c̣n chưa đủ
tư cách làm thị giả cho các Ngài. Các Ngài đều niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, mới biết pháp
môn này thù thắng khôn sánh. Bởi thế, sự giáo học
là khẩn yếu nhất, trước kia tôi đă hiểu
được đạo lư này. Lúc đọc Lễ Kư, có
một câu gây ấn tượng hết sức sâu đậm:
“Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (Dựng nước, cai trị nhân dân, dạy dỗ
làm đầu), trong thiên Học Kư có câu như thế. Có thể
nói một thiên Học Kư là triết học giáo dục tối
cổ của Trung Quốc.
Sau này học Phật,
thấy sự nghiệp của chư Phật Như Lai,
Pháp Thân Bồ Tát là ǵ? Giáo học! Giáo học là sự nghiệp
của Bồ Tát, là gia nghiệp của Như Lai, nay gọi
là “giáo dục đa nguyên văn hóa”. Đời đời
kiếp kiếp (người Trung Quốc nói là “thế thế đại đại”)
thực hiện sự nghiệp này, đời trước
truyền cho đời sau, trong hết thảy hạnh nghiệp,
nó là một hạnh nghiệp tối thù thắng.
Bởi thế, Khổng
lăo phu tử từng nói, tôi hiểu được ư Ngài: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ?” (Học rồi thực hành,
cũng chẳng vui sao?) Tôi hiểu: Nếu quư vị học
tập hay dạy học chẳng khế nhập cảnh
giới, chẳng thể áp dụng những ǵ quư vị
đă học, đă dạy vào cuộc sống, sẽ chẳng
đạt được pháp hỷ. Pháp hỷ sung măn,
khoái lạc khôn sánh! Sự vui ấy chẳng phải là niềm
vui ngũ dục lục trần bên ngoài, chẳng phải
do bên ngoài kích thích, mà từ nội tâm lưu xuất, giống
như suối chảy từ nguồn. Từ tự tánh
phát xuất “cũng chẳng
vui sao”? Là sự vui lớn nhất trong hết thảy
pháp thế gian, xuất thế gian. Tôi cũng thường
hay nói “duyên của Khổng lăo phu tử rất thù thắng”,
Ngài không có ư nguyện giáo hóa xă hội. Ư nguyện cả một
đời Ngài là ǵ? Làm quan! Ngài mong mỏi có một chức
vị, đem cái học b́nh sinh của ḿnh cống hiến
cho xă hội, cống hiến cho quốc gia. Chúng tôi tin nếu
Khổng lăo phu tử làm được Tể Tướng
trong thời Liệt Quốc, rất có thể Ngài trở
thành một Châu Công thứ hai.
Nhưng thời tiết
nhân duyên của phu tử chẳng giống với thời
đại Châu Công. Phu tử sống nhằm thời Xuân
Thu Chiến Quốc, xă hội loạn lạc bất an,
nước lớn kiêm tính nước nhỏ; bởi thế,
thời cuộc thật bất lợi đối với
Khổng lăo phu tử. Ngài có muốn làm sẽ rất khó
khăn, bất quá chỉ được như Quản Trọng
là cùng, khá khó khăn! Thuở ấy, vua chúa các nước
chẳng ai chịu dùng Ngài, chu du các nước, cầu làm
được một chức quan nhỏ cũng không ai chịu
dùng. T́nh thế bất đắc dĩ, phải quay về
nhà dạy học, hy vọng truyền cái học của
ḿnh cho thế hệ sau, mong mỏi đồ đệ sẽ
phát huy hoài băo của ḿnh, cho nên mới về nhà dạy học!
Lúc quay về
nhà, lăo nhân gia đă sáu mươi tám tuổi, Khổng lăo
phu tử mất năm bảy mươi ba tuổi. V́ thế,
trên thực tế, Ngài mở trường dạy học tổng
cộng chỉ có năm năm, không lâu! Nhưng duyên ấy
thù thắng phi thường, thành tích dạy dỗ khả
quan, trong lịch sử Trung Quốc không t́m được
người thứ hai nào! Học tṛ ba ngàn người, vậy
là một ngôi trường tư khá quy mô. Học tṛ có thành
tựu (nay ta gọi là học tṛ xuất sắc) gồm bảy
mươi hai người – Thất Thập Nhị Hiền. Trong lịch sử Trung Quốc
măi cho đến ngày nay, không có một nhà giáo dục nào có
cách ǵ làm được như Khổng Tử! Đương
nhiên là có học tṛ thành tựu, nhưng không nhiều như
thế. Ngài được trong triều ngoài nội, các
đời cùng tôn xưng là Chí Thánh Tiên Sư, đấy là
điều lúc c̣n sống Khổng lăo phu tử chưa bao
giờ nghĩ đến, Ngài chưa hề nghĩ đến
việc theo đuổi công tác giáo dục.
Nhưng ngay từ lúc
trẻ tuổi Thích Ca Mâu Ni Phật đă biết rơ; Khổng
lăo phu tử mong cầu một chức quan, Thích Ca Mâu Ni Phật
là người kế thừa vương vị, nhưng chẳng
cần. Đức Phật chân chánh giác ngộ, giúp cho hết
thảy chúng sanh trong thế gian phá mê khai ngộ, giúp cho xă hội
quốc gia yên b́nh dài lâu. Dùng phương pháp nào mới ḥng
đạt được mục đích ấy? Giáo dục.
Thích Ca Mâu Ni Phật thực sự buông xuống vạn
duyên, theo đuổi công tác giáo dục xă hội, thực sự
là đa nguyên văn hóa, chẳng phân biệt
giới hạn quốc gia, chẳng phân biệt sắc dân,
cũng chẳng phân biệt văn hóa, chẳng phân biệt
tôn giáo tín ngưỡng, đúng là giáo dục không phân biệt,
người t́m đến chẳng cự tuyệt, người
đi không níu kéo. Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị hiện,
chứng thực hai câu ghi trong thiên Học Kư là chính xác, “giáo học vi tiên” (giáo dục
làm đầu). Bất cứ hạnh nghiệp thế
gian, xuất thế gian nào, bất luận xây dựng cái
ǵ, điều đầu tiên là ǵ? Giáo học là bậc nhất!
Khổng lăo
phu tử tự thuật cả một đời ḿnh: Ngài
nói về kinh nghiệm học vấn. Năm mười
lăm tuổi dốc chí nơi sự học, học khá lắm.
Ba mươi tuổi thành tài, bốn mươi chẳng sai
lầm, năm mươi biết mạng trời, sáu
mươi tai nghe đă thuần, bảy mươi tuổi
việc làm thuận theo ḷng mong muốn, nhưng chẳng
vượt khỏi quy củ. Năm bảy mươi ba tuổi
Ngài mất. Lời tự thuật ấy thuyết minh cảnh
giới học vấn của cả một đời Ngài, không ngừng tự hoàn thiện.
Luôn tự hướng thượng tức là tinh tấn chẳng
lười, trong đạo Phật gọi là “tinh tấn,
dũng mănh”, ở phần trên chúng ta đă thấy Bồ
Tát biểu thị pháp nhằm ngầm chỉ cho chúng ta, chỉ
dạy chúng ta “chẳng ngơi nghỉ, thường tinh tấn!”
Học vấn của phu tử đúng là như thế
đó.
Thích Ca Mâu Ni Phật
hướng đến toàn thế giới, Ngài theo đuổi
việc dạy dỗ suốt bốn mươi chín
năm, theo cách tính của người Hoa là năm
mươi năm, từ đầu đến cuối là năm
mươi năm. Ngài bắt đầu dạy dỗ
năm ba mươi tuổi, tám mươi tuổi tịch.
Người Hoa nói tám mươi tuổi là “hư tuế”[10], trên
thực tế là bảy mươi chín tuổi, Thích Ca Mâu
Ni Phật tịch diệt năm bảy mươi chín tuổi.
Học tṛ có thành tựu của Ngài so với Khổng lăo phu tử nhiều hơn rất nhiều,
đơn giản nhất là như ta thấy hàng Thường
Tùy Chúng thường được nhắc đến
trong kinh. Mỗi vị trong số Thường Tùy Chúng ấy
đều có thành tựu, không thành tựu sẽ chẳng
nhắc đến. Phải thực sự chứng quả
mới được nêu tên, ở đây nói rơ là một
ngàn hai trăm năm mươi lăm người, đều
là bậc chứng quả. Ở đây, chúng ta thấy một
ngàn hai trăm năm mươi lăm vị “giai thị đại A La Hán” (đều
là đại A La Hán). Trong phần trên chúng tôi đă thưa
cùng quư vị: Đại A La Hán là Pháp Vân Địa Bồ
Tát, là thánh nhân, không phải phàm phu.
Bởi thế, chúng ta
lắng ḷng quán sát: Hạng người thông minh bậc nhất
trong thế gian và xuất thế gian, người thực
sự có trí huệ sẽ tuyển chọn nghề nghiệp
nào trong thế gian? Dạy học. Người ấy chẳng
làm nghề ǵ khác. V́ sao? Dạy học là nghề nghiệp
cống hiến rất lớn cho thế gian, xuất thế
gian. Dạy người căn cơ chín muồi, dạy
người ta chuyển phàm thành thánh; để dạy
người căn tánh chưa thành thục th́ dạy kẻ
ấy phá mê khai ngộ; để dạy hết thảy kẻ
trung hạ căn, phàm phu th́ chỉ dạy họ chuyển
ác làm lành. Phật, Bồ Tát giáo hóa hằng thuận chúng
sanh, tùy hỷ công đức; bất luận quư vị muốn
học điều ǵ, Phật, Bồ Tát đều rất
hoan hỷ dạy cho quư vị. Nếu nay có kẻ hỏi:
“Tôi muốn cầu phát tài, Phật có dạy hay không?” Phật
dạy chứ, đúng là trong nhà Phật “hữu cầu tất ứng”. Phật có thể dạy
cho quư vị đời đời kiếp kiếp
được giàu sang lớn, chẳng giả đâu! Cầu
trí huệ, đời đời được đại
trí huệ. Hết thảy pháp thế gian và xuất thế
gian phải vào trong Phật pháp mới ḥng thực sự
viên măn rốt ráo.
Trong đời quá khứ
chúng ta đă gieo thiện căn, trong đời quá khứ đă
kết pháp duyên th́ trong một đời này mới gặp
được Phật pháp, đă gặp được Đại
Thừa, lại c̣n có thể cùng nhau học tập. Nếu
chúng ta chẳng thể gặp mặt nhau, quư vị có thể
nối mạng Internet, có thể nh́n vào màn huỳnh quang của
máy TV, thảy đều là người hữu duyên. Chỉ
cần y giáo phụng hành, quan trọng nhất trong việc
y giáo phụng hành là buông thành kiến của chính ḿnh xuống,
đấy là điều tôi thường nói: Buông xuống cách
nghĩ, cách nh́n, cách nói, cách làm của chính ḿnh đối với
hết thảy vũ trụ, nhân sanh, con người, sự
vật, phải buông những điều này xuống. V́
sao? Những thứ ấy toàn là lầm lạc, thực sự
là lầm lạc. Chẳng buông những thứ lầm lạc
ấy xuống, dù chúng ta có học theo Phật, Bồ Tát
th́ vẫn chẳng giống, vẫn học không ra ǵ! Nếu
thực sự buông xuống, triệt để buông xuống,
trong một đời này, chắc chắn quư vị học
rất giỏi, học rất giống, học rất
thành công.
Trong thời đại
hiện tại này, chúng ta bên trong có phiền năo tập khí,
đấy là điều mọi đồng tu chúng ta chẳng
thể chối căi được, đều phải thừa
nhận, đúng là nghiệp chướng rất nặng,
bên ngoài sức dụ dỗ mê hoặc hết sức mạnh
mẽ. Dụ dỗ mê hoặc bên ngoài là Ma, là Thiên Ma trong bốn
thứ Ma. Thiên Ma là ngũ dục, lục trần, danh
văn, lợi dưỡng từ bên ngoài mê hoặc. Bởi
thế, rất khó thành tựu, không lưu tâm một chút là
thoái chuyển liền, ngă ḷng liền. Bởi thế,
người học Phật th́ nhiều, người thành
công lại ít chính là v́ nguyên nhân này. Thích Ca Mâu Ni Phật giới
thiệu cho chúng ta một hoàn cảnh tu học tốt nhất
là thế giới Cực Lạc. Quư vị sang thế giới
Cực Lạc ấy, dù phiền năo tập khí nghiêm trọng
đến mấy cũng không sao, v́ chẳng có duyên. Chẳng
có duyên bên ngoài, dù trong tâm quư vị có phiền năo tập khí,
nó cũng chẳng thể phát khởi được. Chẳng
như thế giới Sa Bà này, duyên bất thiện trong thế
giới Sa Bà rất nhiều, lôi kéo phiền năo tập khí.
Thế giới Cực Lạc không như vậy, thế giới
là nơi “chư thượng
thiện nhân câu hội nhất
xứ” (các thượng thiện
nhân cùng ở một chỗ).
Ở nơi đây,
cơ hội học tập, nghe pháp đều chẳng dễ
dàng, đều hết sức khó khăn. Trong thế giới
Cực Lạc, A Di Đà Phật, chư đại Bồ
Tát giảng kinh, thuyết pháp, nghiên cứu, giảng dạy,
tu hành chưa hề gián đoạn. Vô lượng vô biên
pháp môn, quư vị muốn học pháp môn nào, quư vị bèn vào
pḥng học đó, ở đó có Bồ Tát chỉ dạy
quư vị. Duyên tốt quá! Ở đây, chúng ta muốn học
điều ǵ, t́m thầy chẳng ra, t́m hoàn cảnh tu học
chẳng được; huống hồ lại c̣n rất
nhiều chướng duyên chướng ngại chẳng thể
tưởng tượng được, khiến quư vị
chẳng học cho tốt được, khiến quư vị
chẳng đạt được tiến bộ. Thích Ca
Mâu Ni Phật khuyên chúng ta thay đổi hoàn cảnh tu học,
lấy thế giới Cực Lạc để thay đổi
hoàn cảnh. A! Chúng ta biết có Tây Phương Cực Lạc
thế giới, chúng ta muốn qua Tây Phương Cực Lạc
thế giới, khó hay dễ? Nói khó th́ chẳng khó, nói dễ
cũng chẳng dễ, vẫn là phải có đủ ba
điều kiện: thiện căn, phước đức,
nhân duyên.
Thiện căn là:
1) Tín tâm kiên định,
quyết định chẳng có mảy may nghi hoặc đối
với pháp môn Tịnh Độ.
2) Nguyện tâm kiên
định, trong một đời này, ta chỉ có nguyện
vọng: Cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Ngoại trừ nguyện vọng ấy ra, tổ
sư đại đức thường bảo là thân tâm
thế giới thảy đều thực sự buông xuống
hết, thực sự buông xuống!
Ắt phải có đủ
hai điều kiện ấy th́ mới là thiện căn.
Phước đức:
Gặp thiện tri thức là phước đức, quư vị
phải có phước mới được gặp. Gặp
được thầy tốt, đồng học tốt,
đều là những chuyện chỉ có thể gặp, chứ
không thể cầu! Thầy dạy dỗ, đồng học
thiết tha giùi mài, quư vị sẽ hiểu được,
sẽ phát ngộ. Hiểu rơ rồi, chắc chắn trong
cuộc sống thường nhật, quư vị sẽ thực
hiện những điều quư vị tin và hiểu. Quư vị
làm được “nhất tâm
xưng niệm”, kinh Vô Lượng Thọ bảo là “phát Bồ Đề tâm, một bề
chuyên niệm”. Đấy là phước đức thực
sự. Phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm
có bị chướng ngại hay chăng? Có đồng học
đă từng hỏi tôi [chuyện ấy]. Người công
phu đắc lực chẳng gặp chướng ngại,
nếu công phu chẳng đắc lực bèn có chướng
ngại.
Chúng tôi nêu lên hai ví dụ
rơ ràng nhất. Trước kia, chúng tôi ở Cựu Kim
Sơn (
Ở Mỹ chẳng
bao lâu, đứa trẻ đă lớn, vào tiểu học. Bà
cụ vẫn trông nom việc nhà, mỗi ngày dọn dẹp
nhà cửa, nấu hai bữa cơm. Bởi lẽ, buổi
sáng ăn điểm tâm, người đi làm bèn đi làm,
đứa đi học bèn đi học, chiều về
ăn cơm tối, nói chung đều ăn trưa ở
ngoài. Bà cụ ở nhà rất thanh tịnh! Gia đ́nh ấy
trở thành đạo tràng của bà, công phu niệm Phật
chẳng gián đoạn, cũng chẳng ai biết đến.
Đến một ngày mới nhận ra, mới biết bà
cụ ấy chẳng tầm thường. Bà mất vào một
buổi tối, cũng chẳng biết mất lúc nào. Sáng
dậy, con trai, con dâu, cháu nội đều dậy cả
rồi, muốn ăn điểm tâm để đi học,
đi làm, thế nhưng ngày hôm ấy
không có điểm tâm, bà cụ không thức dậy. Họ
bèn mở cửa pḥng t́m bà cụ: “Sao hôm nay lạ quá!
Cụ chẳng thức dậy?” Mở cửa ra, thấy
bà cụ ngồi trên giường, ngồi xếp bằng
trên giường, đă mất từ lâu, ngồi mà qua
đời. Mọi người cũng sững sờ.
Coi kỹ, bà cụ
đă viết sẵn di chúc đặt trước mặt
trên giường để dặn ḍ hậu sự. Kỳ
diệu hơn nữa là đồ tang của con trai, con dâu
và cháu, bà cụ đă may sẵn. Cụ biết trước
lúc ra đi, chẳng biết đă chuẩn bị sẵn từ
lúc nào, tự đă chuẩn bị sẵn hậu sự cả
rồi, đồ tang cũng bày sẵn trên giường.
Bà Cam kể cho tôi nghe chuyện này. Người tu hành thực
sự không có chút ǵ để có thể nhận ra, cụ bà
chẳng gặp trở ngại ǵ. Vẫn thường
chăm sóc việc nhà, biết trước lúc mất, chẳng
bệnh, nói đi là đi, đi rất đẹp đẽ,
đi rất tự tại dường ấy. Đó là
người có công phu tốt đẹp, chẳng có trở
ngại ǵ.
Ngoài ra là một vị
xuất gia, quư vị thường nghe pháp sư Đàm
Hư kể: Một lần, chùa Cực Lạc ở Cáp
Nhĩ Tân [tổ chức lễ] truyền giới lần
thứ nhất, thầy Tu Vô là một vị xuất gia
không được ai coi trọng. Thầy không biết chữ,
trước khi xuất gia làm thợ nề, làm việc nặng.
Sau khi xuất gia, ở trong chùa đều làm những việc
nhọc nhằn nhất; người khác chẳng muốn
làm, thầy đều t́nh nguyện làm: dọn nhà cầu,
trồng rau, chẻ củi, gánh nước, thầy chuyên
làm những việc đó. Cái ǵ thầy cũng không biết,
chỉ có một câu A Di Đà Phật chẳng buông lung, bất
luận làm ǵ đều niệm A Di Đà Phật. Bởi
thế, thầy làm rất vui vẻ. Với ai thầy
cũng đều cung kính v́ thầy chẳng biết làm ǵ,
chẳng bằng ai cả.
Trong thời gian truyền
giới, thầy phát tâm săn sóc bệnh nhân, chừng mấy
bữa sau thưa với lăo ḥa thượng xin nghỉ. Lăo
ḥa thượng nói:
- Ông đến chưa
được mấy ngày đă muốn đi. Muốn đi
th́ đợi truyền
giới xong hăy đi!
Thầy thưa:
- Con chẳng phải
là đến nơi nào khác, mà là về thế giới Cực
Lạc.
Lăo ḥa thượng thoạt
nghe, thật bất ngờ, hỏi:
- Chừng nào thầy
đi?
- Chẳng quá mười
ngày!
Ngày thứ hai, thầy
lại đến gặp lăo ḥa thượng, lăo ḥa thượng
hỏi:
- Chuyện ǵ?
- Ngày mai con đi!
Quư vị thấy tấm
gương tốt, khuôn mẫu tốt cho chúng ta là như
thế đó: Ở trong chùa làm việc nặng, suốt
ngày chẳng nghỉ ngơi mà tu hành thành công, chẳng có
chướng ngại chi hết. Thầy Tu Vô buông xuống
được, chuyện ǵ cũng chẳng tranh giành, người
ta đi trước, thầy luôn lùi ra sau.
Chẳng tranh cùng mọi
người, “ư nhân vô tranh,
ư sự vô cầu” (với người chẳng
tranh, với sự chẳng cầu), bởi thế, đối
với mỗi cá nhân đều cung kính, dẫu người
khác coi thường thầy, nhưng đối với bất
cứ ai thầy chẳng bị trở ngại. Thầy sống
cuộc đời của thầy, thầy niệm Phật
cũng chẳng ai biết. Lúc mất rất đẹp
đẽ, tự tại dường ấy, thật là tấm
gương tốt cho chúng ta! Nay chúng ta nghe người khác
nói mấy câu, trong tâm chẳng mặc kệ được,
c̣n đúng hay chăng? Thầy Tu Vô là như thế, sao thầy
chẳng được văng sanh? Quư vị đánh thầy,
chửi thầy, làm nhục thầy, thầy vẫn cười
h́ h́, đảnh lễ quư vị, chắp tay với quư vị,
cung kính quư vị, chẳng bận ḷng! V́ sao? Thầy muốn
về thế giới Cực Lạc, c̣n quư vị chẳng
muốn đến đó. Thầy muốn đến bèn thực
sự đến. A! Bây giờ hết giờ rồi.
*
Xin hăy xem tiếp phần
ba điều chánh yếu trong phần Biệt Tự, chúng
ta đọc kinh văn một lượt:
Nhĩ thời, Phật cáo
trưởng lăo Xá Lợi Phất:
- Tùng thị
Tây Phương quá thập vạn ức Phật độ,
hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Kỳ
độ hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại
thuyết pháp.
爾時佛告長老舍利弗。從是西方。過十萬億佛土。有世界名曰極樂。其土有佛。號阿彌陀。今現在說法。
(Lúc bấy giờ, đức
Phật bảo trưởng lăo Xá Lợi Phất:
- Từ đây qua khỏi
mười vạn ức cơi Phật ở phương Tây,
có thế giới tên là Cực Lạc,
trong cơi ấy có Phật hiệu là A Di Đà nay hiện
đang thuyết pháp).
Trong đoạn kinh
văn này, quan trọng nhất là hai chữ Hữu: “Hữu thế giới” và “hữu Phật”, nay hiện tại
“có”, “nay hiện tại” là
khuyến tín, “thế giới,
Cực Lạc” là khuyến nguyện, “A Di Đà Phật” là khuyên hành diệu hạnh Tŕ
Danh. Đấy là ba điều chúng tôi đặc biệt
nhấn mạnh, ba sự việc hết sức quan trọng
trong ba câu kinh. Trong sách Yếu Giải của Ngẫu Ích
đại sư, vừa mở đầu, Ngài đă giảng:
“Pháp môn Tịnh Độ độ
khắp ba căn, dứt bặt đối đăi một
cách viên dung, chẳng thể nghĩ bàn”. Mấy câu ấy
hết sức quan trọng.
Kích thước tác phẩm
Yếu Giải không lớn; cuối Yếu Giải, Ngẫu
Ích đại sư có viết lời Bạt không dài lắm,
tŕnh bày duyên khởi Ngài viết Yếu Giải. Tác phẩm
Yếu Giải ấy được hoàn tất trong chín
ngày. Cận đại, Ấn Quang đại sư nói tác
phẩm Yếu Giải ấy dù A Di Đà Phật tái lai chú
giải kinh A Di Đà cũng chẳng thể hay hơn
được. Quả thật đă khen ngợi đến
mức cùng cực.
Chúng ta biết Ấn
Quang đại sư là Đại Thế Chí Bồ Tát tái
lai, đối với bản Chú Giải ấy, Đại
Thế Chí Bồ Tát tán thán như thế, vậy th́ người
viết chú giải là ai? Chúng tôi nghĩ nếu chẳng phải
là A Di Đà Phật, th́ chắc chắn là Quán Thế Âm Bồ
Tát; nhưng Ngẫu Ích đại sư chẳng bộc lộ
thân phận, chẳng biết Ngài là vị nào tái lai? Ấn
Quang đại sư nói lời ấy là có ngụ ư. Nếu
chúng ta chú tâm cảm nhận, sẽ hiểu tác phẩm Yếu
Giải ấy giá trị càng cao, phân lượng càng nặng.
Chúng ta gặp được bản chú giải hiếm có
khó gặp này, đều là do chúng ta có phước. Chúng ta
gặp được bản Yếu Giải này là do phước
đức, do có duyên phận tốt.
Trước kia, tôi giảng
kinh ở Tân Gia Ba, có một bữa tôi đến gặp
pháp sư Diễn Bồi, Ngài đăi tôi cơm trưa; tại
bàn ăn chúng tôi bàn đến vấn đề này. Pháp
sư Diễn Bồi hỏi tôi: “Ấn Quang đại
sư tán thán như thế có phải là quá mức hay
chăng?” Tôi đáp lời lăo nhân gia: “Không quá lố chút nào!
Lời Ngài tán thán rất hay”. Chúng ta biết Ngẫu Ích
đại sư là đệ tử sau khi thầy đă mất
của Liên Tŕ đại sư, trong nhà Phật rất khó
được như thế, cũng giống như Mạnh
Tử là học tṛ sau khi thầy đă mất của Khổng
Tử. Đây là hai nhân vật tiêu biểu thế gian và xuất
thế gian. Mạnh Tử mong t́m được một vị
thầy giỏi, t́m không ra. Học theo Khổng Tử, Khổng
Tử đă qua đời, nhưng trước tác của
Khổng Tử c̣n đó, Mạnh Tử t́m được.
Chiếu theo trước thuật của Khổng Tử, y
giáo phụng hành! Có chỗ nào không hiểu rơ, có nghi ngờ
bèn thỉnh giáo nơi học tṛ của Khổng lăo phu tử,
bèn học thành công.
Nhưng Ngài học ra
sao? Vượt trội hơn bảy mươi hai hiền
nhân sống cùng thời Khổng lăo phu tử, Ngài giỏi
hơn bọn họ. Bởi thế, Trung Quốc đời
đời tôn sùng Mạnh Tử là Á Thánh. Khổng lăo phu tử
là Chí Thánh, Mạnh phu tử là Á Thánh, tức là bậc thánh
nhân chỉ kém Khổng Phu Tử, học tṛ sau khi thầy
đă mất mà thành công! Ngẫu Ích đại sư là
đồ đệ sau khi thầy đă mất của ngài
Liên Tŕ, Liên Tŕ đại sư đă mất rồi, trước
tác của Liên Tŕ đại sư c̣n đó. Bởi thế,
với pháp môn Tịnh Độ, Ngài đọc bộ Sớ
Sao của Liên Tŕ đại sư, đọc bản Viên
Trung Sao của U Khê đại sư, hai vị ấy đều
là trưởng bối, [ngài Ngẫu Ích đọc tác phẩm
của hai vị trưởng bối] được lợi
ích rất nhiều. V́ sao Ngài soạn Yếu Giải? Trong bộ
Yếu Giải, Ngài có kiến giải riêng, khác với kiến
giải của hai vị đại sư tiền bối. Trong
tác phẩm này có rất nhiều câu thuyết pháp trọng yếu,
người xưa chưa từng đề cập đến.
“Tuyệt đăi viên dung”
là tuyệt đối viên dung, chẳng thể nghĩ bàn. “Gồm thâu trọn vẹn, siêu
việt trọn vẹn hết thảy pháp môn”. Câu nói này
được nêu lên trong sách Yếu Giải, trong quá khứ
chưa có ai nói như thế. Đấy là điều được
phát hiện bởi Ngẫu Ích đại sư, là kiến
giải độc đáo của Ngẫu Ích đại
sư, khiến hậu nhân sanh ḷng tin kiên định đối
với bản kinh này. Chúng tôi nhiều năm học tập
kinh Hoa Nghiêm, giảng giải Hoa Nghiêm, đối với Sớ
Sao và Yếu Giải càng khế nhập sâu hơn. V́ sao? Tuy
kinh không dài, nhưng nghĩa thú đă bao trọn kinh Hoa
Nghiêm, truyền cùng một mạch. Bởi thế, đến
cuối đời Thanh, trong niên hiệu Hàm Phong, cư
sĩ Ngụy Mặc Thâm đem phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện, tức là phẩm cuối cùng “mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”
[của kinh Hoa Nghiêm] ghép vào Tịnh Độ Tam Kinh, gọi
là Tịnh Độ Tứ Kinh. Nếu quư vị thấy có
bản khắc gỗ đề Tịnh Độ Tứ
Kinh, quư vị biết bản Tịnh Độ Tứ Kinh
đó do cư sĩ Ngụy Mặc Thâm biên tập. [Lúc
đó], Tịnh Độ gồm bốn kinh một luận.
Đến đầu
thời Dân Quốc, Ấn Quang đại sư ghép Lăng
Nghiêm Kinh Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông
Chương vào sau Tịnh Độ Tứ Kinh, biến
thành Tịnh Độ Ngũ Kinh. Các bạn đồng học
Tịnh Độ chúng ta phải hiểu rơ ràng lai lịch
kinh điển Tịnh tông. Thoạt đầu, vốn chỉ
có ba kinh một luận, một luận đó chính là Văng
Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát, tức là tác phẩm
nói lên sự tu hành của chính Bồ Tát, có thể nói là bản
báo cáo tâm đắc. Trong bản báo cáo ấy, Ngài cho chúng ta
biết Ngài thực hiện ba kinh trong cuộc sống,
trong công khóa như thế nào, rất đáng cho chúng ta tham
khảo. Bởi thế, chúng ta phải coi trọng mấy
câu của Ngẫu Ích đại sư.
“Tuyệt đăi viên dung, bất khả tư nghị”, đều là nói về A Di Đà Phật.
Những ư nghĩa được nêu ở đây chúng tôi
đều tóm tắt từ sách Yếu Giải. Một câu
A Di Đà Phật đầy đủ Tam Học, Tam Học
là Giới, Định, Huệ. Tam Huệ là Văn, Tư,
Tu, “đầy đủ Tam Học,
Tam Huệ, hết thảy pháp môn”. Cổ nhân nói: “Trong tám vạn pháp môn, Niệm Phật
bậc nhất”. Sự đầy đủ ấy nay
ta thấy rất rơ, rất minh bạch từ Vô Lượng
Thọ Kinh; nhất là từ bản hội tập của
cư sĩ Hạ Liên Cư, cực diệu, thực sự
chẳng thể nghĩ bàn! Bản hội tập của cụ
do năm bản dịch gốc hội tập thành. Mấy
năm nay, có người phản đối bản hội
tập ấy, ai phản đối chúng tôi gởi cho bốn
chữ: “Mạc danh kỳ diệu”
(tuyệt diệu chẳng thể diễn tả được).
Chưa nêu được chỗ diệu nên họ mới
phản đối. Nếu họ hiểu rơ chỗ áo diệu
của đạo lư, họ sẽ tán thành cả hai tay, kẻ
ấy chưa hề nghiên cứu, chưa hề học tập,
ai nói sao ḿnh hùa theo như vậy, như thế là trật rồi!
Ở Đài Loan, có một
vị cư sĩ hết sức hiếm có. Ông ta đem bản
hội tập đối chiếu với năm bản
nguyên dịch rất tường tận, soạn thành một
cuốn sách. Có người gởi cho tôi xem, tôi xem xong rất
hoan hỷ, nhờ ông ta in một ngàn cuốn, nay sách đă
gởi tới rồi. Một ngàn cuốn sách ấy chẳng
phải là tôi muốn xem, mà chuyên để gởi tặng
những ai hoài nghi bản hội tập. Quư vị có hoài
nghi ǵ, cứ viết thư gởi cho chúng tôi, tôi sẽ gởi
một bản, quư vị đọc kỹ. Trong lời tựa
cho bản ấy, cư sĩ Mai Quang Hy[11] có
viết: “Mạt Pháp chín ngàn
năm, tu Tịnh Độ đắc độ nhất
định là do bản kinh này”. Trong kinh, đức Phật
có dự ngôn: “Tương lai Phật
pháp diệt hết, bản kinh này lưu thông một
trăm năm, kinh này diệt sau cùng”. Mai đại
sĩ khẳng định, trong tương lai hết thảy
kinh điển diệt hết, chỉ c̣n mỗi bản Vô
Lượng Thọ kinh này, khẳng định [bản
được lưu lại] là bản hội tập này.
Tôi tin như vậy, chẳng hoài nghi chút nào.
Duyên của bản hội
tập ấy hết sức thù thắng, trong quá khứ lăo
cư sĩ Triệu Phác Sơ từng tán thán. Cụ Phác
Sơ đă từng đọc bản Chú Giải của
lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ tại Trung Quốc đại
lục. Cuốn Giảng Kư [ghi chép lời giảng] kinh này
của tôi được chính cụ Phác Sơ đề tựa
sách, hết sức hoan hỷ. Có một lần, tôi gặp
cụ nhằm đúng khóa thứ hai lớp huấn luyện
bồi dưỡng tại Tân Gia Ba, chúng tôi dạy khóa đó,
dùng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ [làm tài
liệu giảng dạy], trọng điểm là soạn lại
khoa phán. Chúng tôi chỉ viết cái sườn khoa phán, để
các đồng học mỗi ngày nghiên cứu thảo luận,
cuối cùng tạo thành bản cố định. Bản ấy
chúng tôi in theo lối xếp đôi giấy[12],
hoàn toàn vẽ bằng biểu đồ.
Tôi gởi cho cụ
Phác Sơ một bộ, cụ cầm trên tay: “Vô Lượng
Thọ kinh nay mới hoàn chỉnh, có khoa hội tường
tận, có giảng giải tường tận như thế,
có bản Đại Kinh Giải tuyệt luân tinh vi của
Hoàng Niệm Tổ”. Cụ trông thấy hết sức cao hứng.
Nhà Phật thường nói: “Phật
chẳng độ kẻ vô duyên”. Duyên phận tốt
đẹp dường ấy, quư vị gặp được
không tin, chẳng thể tiếp nhận th́ là kẻ vô
duyên, th́ đúng như thầy Lư nói kẻ ấy phải
luân hồi nhiều kiếp. Khi nào anh tin tưởng, anh tiếp
nhận, anh chiếu theo phương pháp lư luận trong kinh
ấy tu hành, nhất định anh sẽ văng sanh.
Tiếp đó, trong phần
biểu giải tôi đă soạn, quư vị có thể đọc
thấy: “A Di Đà Phật, duy
tâm vi tông, duy Phật vi tông, tuyệt đăi viên dung vi tông,
siêu t́nh ly kiến vi tông” (A Di Đà Phật, dùng duy tâm làm
tông, chỉ lấy Phật làm tông, lấy viên dung tuyệt
đối làm tông, lấy siêu t́nh ly kiến làm tông), như
vậy mới là nêu rơ sự chẳng thể nghĩ bàn. Quư
vị thường học tập (đây cũng là điều
chúng tôi thường đề xướng gần cả
năm nay) Tam Thời Hệ Niệm. Pháp sự Tam Thời
Hệ Niệm (là phương pháp tu hành), do thiền sư Trung
Phong lăo nhân gia biên định vào đầu đời
Nguyên. Quư vị thấy trong phần khai thị, lăo nhân gia
nói: “Duy tâm Tịnh Độ, tự
tánh Di Đà”, chẳng khác ǵ kinh Hoa Nghiêm đă nói. Quư vị
phải thực sự hiểu rơ “tâm ta là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là
tâm ta”, “phương này tức Tịnh Độ, Tịnh
Độ tức phương này”. Vấn đề ở
chỗ mê - ngộ bất đồng. Ngài Trung Phong xác thực
là bậc Bồ Tát đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, chẳng phải người tầm
thường. Đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh, địa vị thấp nhất là Sơ
Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, phải là từ Sơ Trụ
trở lên. Thế giới Cực Lạc do đâu mà có? A Di
Đà Phật do đâu mà có? Chỉ do tâm hiện, chỉ do
thức biến. Đấy là điều thứ nhất.
Tông là căn nguyên, phải biết do đâu mà có.
“Tâm”: Tâm rất khó hiểu.
Mọi người trông thấy chữ Tâm bèn nghĩ đến
Nhục Đoàn Tâm (quả tim thịt), quả tim trong thân
thể, là một cơ quan trong thân ta. Chẳng phải nói
về cái tâm ấy, cái tâm ấy chẳng có tác dụng ǵ hết.
Loại thứ hai là Duyên Lự Tâm, nay ta thường gọi
là tư tưởng, có thể nghĩ tưởng. Triết
học gia Tây phương cũng nói
như thế này: “Tôi suy
tưởng nên tôi tồn tại”. Chúng ta suy nghĩ,
đại khái cái suy nghĩ ấy là do tâm ta. So ra, Duyên Lự
Tâm cao hơn Nhục Đoàn Tâm một bậc, nhưng vẫn
chưa trúng. Có thể suy tưởng, có thể phân biệt,
có thể biết tà - chánh, đúng - sai, thiện - ác; đó
là Thức. Chỉ do Thức hiện, đó là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, trong Phật
pháp gọi là “vọng tâm”, chẳng phải là chân tâm. Vẫn
c̣n có cái chân tâm, vậy chân tâm là ǵ?
Chân tâm là “linh tri”, chúng
ta cũng có thể nói: Chân tâm là trí huệ Bát Nhă như trong
nhà Phật thường nói. Trí huệ Bát Nhă vốn có sẵn
trong tự tánh. Trí huệ Bát Nhă là Thể của tự tánh;
đức năng, tướng hảo là tự tánh khởi
tác dụng. Thể của tự tánh thuần túy là trí huệ,
sau khi mê biến thành vô minh, biến thành phiền năo. Kinh Hoa
Nghiêm thường nói là biến thành vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Bởi thế, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước là hiện
tượng được dấy lên sau khi chân tâm bị
mê, chúng được gọi là vọng tâm, chẳng gọi
là chân tâm. Chân tâm không vướng mắc phân biệt, vọng
tưởng, chấp trước; chân tâm ở đâu? Chân
tâm chẳng hề rời khỏi ta, chẳng ĺa hết thảy
pháp.
Tôi đă tŕnh bày cùng quư
vị, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản
làm thí nghiệm kết tinh nước, có vị đồng
học ghi tóm tắt lại từ mạng Internet
đưa cho tôi xem. Đấy là chuyện khoảng chừng
hai tháng trước. Tôi xem xong, lập tức nghĩ trong
kinh Lăng Nghiêm; đức Phật nói mấy câu : “
Tiếp đó, lại
nói: “Hết thảy nhân quả”,
hết thảy nhân quả là mười pháp giới, “thế giới, vi trần”,
lớn là thế giới, thế giới là tinh hệ
(galaxy), cơi nước tam thiên đại thiên thế giới
của Phật, đó là nói về cái to lớn. Hiện tại,
khoa học hướng về hai cực đoan: Một là
hướng về cái lớn vô cùng, tức vật lư không
gian; hai là hướng về cái nhỏ vô hạn, tức
lượng tử lực học (quantum mechanics). Những
điều này trong kinh Phật đều có nói. “Thế giới, vi trần”,
thế giới là lớn nhất, vi trần là nhỏ nhất,
“do tâm mà thành Thể”, từ
đâu mà có? Từ tâm biến hiện ra. Tâm ở đâu?
Không có thứ ǵ chẳng phải là tâm, tâm biến ra hết!
Giống như cổ
đại đức giảng Phật pháp, nói hết thảy
Phật pháp do tâm biến, mọi người chẳng hiểu,
bèn nêu tỷ dụ, thí như “dùng
vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng”,
rất dễ hiểu. Đem tâm ví với vàng; đem thế
giới, vi trần, hết thảy các pháp ví như các món vật,
những món đồ ấy do đâu có? Do vàng biến hiện
ra, tức do tâm biến hiện ra. Đặc tánh của
tâm là ǵ? Đặc tánh của nó là linh tri, trong phần khai
thị, Trung Phong đại sư gọi [chân tâm] là “linh tri tâm”. Linh tri cũng chẳng
dễ hiểu, trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật giảng
rơ hơn. Kinh Lăng Nghiêm dùng bốn chữ “kiến, văn, giác, tri” (thấy,
nghe, hay, biết); Trung Phong đại sư gọi là Linh,
trong chữ Linh bao gồm khả năng thấy, nghe, cảm
nhận. Không ǵ chẳng linh, tất cả hết thảy
vạn vật đều linh! Bởi vậy, hết thảy
vạn vật là do tâm biến, đặc tánh của tâm là
có thể thấy nghe, có thể hay biết; ông Giang Bổn
Thắng từ việc kết tinh nước phát hiện
ra điều đó. Quả thật nước có thể
thấy, nghe, hiểu được ư nghĩ của con
người, linh minh giác tri.
Bởi thế, chúng tôi
biết tin đó, lập tức nghĩ đến những
điều kinh Lăng Nghiêm đă nói. Chẳng riêng ǵ nước,
nếu ông ta thí nghiệm trên tất cả hết thảy
vạn vật, đúng là sẽ đều như thế. Thí
nghiệm đơn giản nhất là trên hoa quả, cây cỏ
chúng ta vun bón. Bất luận quư vị trồng thứ ǵ
trong sân, hoặc với những cây Bồn Tài (bonsai), mỗi
ngày đều nh́n nó, quan tâm đến nó, tṛ chuyện cùng
nó, hoa cỏ mọc rất tươi tốt, mọc rất
đẹp. Mỗi ngày quư vị chỉ đơn giản
nói với nó mấy câu, ngày ngày nói với nó, quư vị thấy
một tuần sau nó càng lớn càng đẹp. Quư vị lại
làm thí nghiệm khác: Để riêng một chậu cây, mỗi
ngày chán ghét nó, nó lớn nhưng rất xấu. Một tuần
lễ sau, nó càng ngày càng xấu, có thể làm thí
nghiệm như vậy!
Chúng tôi nghe nói: Hiện
tại ở không ít trường học, bọn học tṛ
nhỏ làm thí nghiệm đối với cây cỏ, hoa lá;
quả nhiên phát hiện nếu chúng thường nghe lời
khen ngợi, cây cối sẽ đặc biệt phát triển
tốt. Nếu thường bị chửi mắng ác độc,
bị miệt thị, cây ủ rũ, thiếu sanh khí.
Điều đó chứng tỏ lời Phật dạy
trong kinh là đúng, chẳng phải giả! Nếu quư vị
lại thí nghiệm, bùn cát đều có cảm ứng,
đều thấy được, nghe được, cảm
nhận được, biết được, không có một
vật nào chẳng như vậy. “Do tâm mà thành thể”: Triết Học thường
gọi Thể là “bản thể”, [chữ Thể nói trong
kinh Phật chính là] bản thể của vũ trụ vạn
hữu. Bản thể của vũ trụ vạn hữu
là “kiến, văn, giác, tri”,
đấy là Bát Nhă vốn sẵn có nơi tự tánh. Bởi
vậy, hết thảy đức năng, hết thảy
tướng hảo thảy đều trọn đủ,
không có pháp nào chẳng đầy đủ kiến -
văn - giác - tri.
Ông Giang thực hiện
thí nghiệm kết tinh nước đă tám chín năm, tổng
kết những sự kiện nào sẽ khiến nước
kết tinh thành h́nh dạng đẹp nhất? Một là
yêu thương, hai là cảm ơn, cảm
tạ. Dùng những điều đó ngày ngày nói với
nước, nước sẽ xuất hiện những kết
tinh đẹp nhất. Bởi thế, tiến sĩ Giang
nói thân thể con người chúng ta bảy mươi phần
trăm là nước, nếu chúng ta có tâm yêu thương,
có ư niệm cảm ơn, đối với hết thảy
người, hết thảy sự, hết thảy vật,
thường đem ḷng yêu thương, có tâm cảm tạ
th́ tất cả hết thảy vạn sự, vạn vật
và bảy mươi phần trăm nước trong nội
tâm, thân thể đều xuất hiện những kết
tinh đẹp đẽ nhất. Người ấy nhất
định mạnh khỏe sống lâu, hoàn cảnh bên ngoài
nhất định biến thành tốt đẹp vô cùng.
Đấy là như các nhà Phong Thủy thường nói: “Phong Thủy chuyển biến
theo ư niệm của con người”, trong nhà Phật gọi
là “cảnh chuyển theo tâm”.
Ư niệm của con
người, ư niệm thiện có thể cải biến
toàn thể thế giới. Trái lại, ư niệm ác có thể
tạo thành mối nguy hại lớn nhất cho thế giới.
Bởi vậy, thế giới an hay nguy, thế giới
sướng hay khổ, căn nguyên là v́ đâu? Căn nguyên
là ư niệm của chúng sanh sống trong thế giới ấy.
Ông ta rút ra kết luận ấy từ chứng minh khoa học,
trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật đă giảng rất
rơ ràng, minh bạch.
“Duy tâm làm tông” là nói về
Lư; “chỉ lấy Phật làm
tông” là nói theo phương pháp tu học. Pháp môn này của
chúng ta là “chấp tŕ danh hiệu A Di Đà Phật”. A Di
Đà Phật nghĩa là ǵ? A dịch là Vô, Di Dà là Lượng,
Phật là Trí hoặc Giác. Toàn bộ danh hiệu này dịch
ra là “vô lượng trí huệ, vô lượng giác ngộ”,
ư niệm ấy tốt đẹp. Vô lượng trí giác là
Phật tánh, nơi hết thảy vạn vật th́ gọi
là Pháp Tánh, [c̣n nơi hết thảy hữu t́nh chúng sanh th́
gọi là Phật tánh]. Chúng ta niệm A Di Đà Phật là
niệm điều ǵ? Niệm pháp tánh. Vạn sự, vạn
vật, không pháp nào chẳng giác, không pháp nào chẳng trí, trí
giác trọn khắp hư không pháp giới. Bởi vậy,
pháp môn này chủ trương Tŕ Danh Niệm Phật, tuyệt
đối viên dung, hoàn toàn là cảnh giới Hoa Nghiêm. Lại
c̣n nói thêm: “Đầy đủ
Tam Học, Tam Huệ, hết thảy pháp môn”, đó là
viên dung tuyệt đối.
Bởi vậy, ngay từ
tựa đề bản hội tập của lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư, chúng ta đă thấy ngay, tựa
đề kinh rất dài: Phật Thuyết Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh. Quá nửa tựa đề kinh này nói về
quả đức, “Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm” là quả đức!
Phần tiếp đó nói về tu đức, tu những
ǵ? “Thanh tịnh b́nh đẳng
giác”. Trong Tam Học, Thanh Tịnh là Giới học, B́nh
Đẳng là Định học, Giác là Huệ học. Quư
vị thấy chẳng những là Tam Học mà c̣n là Tam Bảo,
Thanh Tịnh là Tăng Bảo, B́nh Đẳng là Pháp Bảo,
Giác là Phật Bảo. Tam Học, Tam Bảo! Tam Học
cũng là Tam Tạng, Giới là Luật Tạng, Định
là Kinh Tạng, Huệ là Luận Tạng. Tam Huệ là một
Thể, một mà ba, ba nhưng một. Kinh Hoa Nghiêm nói “một tức là nhiều, nhiều
tức là một”, tuyệt đối viên dung.
Kinh Hoa Nghiêm là viên dung,
đại pháp viên đốn, chỗ quy túc cuối cùng của
đại pháp viên đốn là mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng nhập
vào đâu? Vào Vô Lượng Thọ Kinh, nhập vào kinh A Di
Đà. Vô Lượng Thọ Kinh, A Di Đà Kinh là tổng kết
của kinh Hoa Nghiêm, là quy túc của kinh Hoa Nghiêm. Theo kinh
Lăng Nghiêm, “siêu t́nh ly kiến”
(vượt khỏi kiến giải do chấp trước
t́nh thức) là cảnh giới của quả Như Lai,
không phải là cảnh giới của Bồ Tát, đó chính
là một câu A Di Đà Phật!
Mọi
người chẳng hiểu rơ ư nghĩa này, bởi thế,
thường hay coi thường: Câu A Di Đà quá dễ
dàng, ai chẳng niệm được? Đứa trẻ
lên ba c̣n niệm được. Sự áo diệu trong một
câu Phật hiệu không ai biết đến. Ai có thể
hiểu rơ ràng thấu triệt? Chỉ có Phật và Phật
mới có thể hiểu rốt ráo, chỉ có đạt
đến quả vị Phật mới biết một câu
danh hiệu này chẳng thể nghĩ bàn. Nói cách khác, ngay cả
Đẳng Giác Bồ Tát c̣n chưa hiểu trọn. Cổ
nhân có tỷ dụ: Đẳng Giác Bồ Tát như ngắm
trăng qua một bức mành, sợi mành bằng loại
trừu đoạn[13] rất
mỏng, dệt rất mịn. Thời cổ dùng loại
the này làm cánh cửa sổ, ánh sáng lọt qua được.
Đêm tối ngắm trăng sáng, dù mành hay cửa sổ bằng
the che khuất, vẫn ngắm trăng rất rơ, nhưng
là sao? Vẫn c̣n cách một tầng. Đối với sự
việc này, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn c̣n như cách bức
mành ngắm trăng, chẳng dễ dàng! Bởi vậy,
pháp môn này gọi là pháp khó tin, quư vị thực sự tin
được là quư vị có phước khí, thực sự
có thiện căn. Trong kinh dạy một câu hay lắm: “Bất khả dĩ thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ
quốc” (Chẳng thể dùng chút thiện căn, phước
đức, nhân duyên để được sanh về cơi
đó). Xác thực là quư vị có thiện căn, có phước
đức, có nhân duyên th́ quư vị mới có thể tin
được, rất ư là khó vậy!
Chúng tôi
chẳng thể giảng tường tận sách Yếu Giải,
v́ trong tương lai tôi sẽ giảng tường tận
kinh A Di Đà một lần nữa. Khi giảng lần nữa,
tôi sẽ giảng Yếu Giải. Trước kia đă giảng
Sớ Sao một lần, c̣n giữ được băng
ghi âm, h́nh như không phải là băng ghi h́nh. Chúng tôi nhớ
có hơn ba trăm cuốn, mỗi cuốn dài chín
mươi phút, hơn ba trăm cuốn đó nghe! Trong tương
lai giảng lần nữa, chúng tôi sẽ đem Yếu Giải
cùng các đồng học học tập lần nữa,
chúng ta sẽ tích cực học tập tốt đẹp một
lần nữa.
Tuy mấy
câu kinh văn này không dài, nhưng trong Yếu Giải đại
sư chú giải chẳng ít, chứng tỏ mấy câu này
nói lên cương lănh của toàn bản kinh, ba đại
cương lănh “khuyến tín,
khuyến nguyện, khuyến tu”. Chấp tŕ danh hiệu
là tu. Sau phần chú giải của Ngài, c̣n có mấy câu: “Di Đà tự Phật, thuyết
pháp tự Pháp, hiện tại hải hội tự Tăng”
([Kinh nói] Di Đà là giới thiệu Phật, nói thuyết
pháp là giới thiệu Pháp, nói hải hội hiện diện
là giới thiệu Tăng). Phật -Pháp - Tăng Tam Bảo,
Tam Bảo cùng một Thật Tướng, đó là “giới
thiệu Thể”. Từ đây khởi ḷng tin, phát nguyện,
tu hành, đó là “nêu Tông”. “Tín nguyện
hạnh thành, tất đắc văng sanh kiến Phật, văn
pháp, tự Dụng” (Tín nguyện hạnh thành, ắt
được văng sanh thấy Phật, nghe pháp, là nêu lên Dụng).
“Duy nhất Phật giới vi
sở duyên cảnh, bất tạp dư sự, tự giáo
tướng” (Chỉ một Phật giới là cảnh
sở duyên, chẳng xen tạp những việc khác, là nêu ra
giáo tướng). Lời lẽ, văn tự rất
đơn giản, nhưng ư nghĩa châu toàn phi thường,
rất khó lănh hội.
Trong phần chú sớ,
Ngài nói “Phật - Pháp - Tăng
cùng một Thật Tướng”, Thật Tướng là
chân tướng sự thật của vũ trụ và chúng
sanh (chúng tôi chẳng nói “nhân sanh”, phạm vi của nhân sanh
quá hẹp, chúng sanh có phạm vi lớn hơn). V́ thế mọi
người phải hỏi vũ trụ do đâu mà có? Hư
không xuất hiện như thế nào? Vũ trụ do
đâu có? Sanh mạng từ đâu có? Hết thảy chúng
sanh từ đâu đến? Câu hỏi lớn đấy!
Trong Phật pháp có lời giải đáp rất minh xác, tuy nói
rất tỉ mỉ, rất minh
xác, nhưng ít người hiểu nổi.
Có lần
cư sĩ Chung Mậu Sâm thấy trên mạng Internet các nhà
khoa học tŕnh bày những sự việc ấy gần giống
với Phật pháp, ông ta đă báo cáo những điều đó
với chúng ta ở nơi đây. Bản báo cáo ấy khá lắm,
tiếc là vẫn chưa hiểu rơ, chưa giải thích rơ
được những sự việc ấy. Thực sự
giảng rơ ràng, minh bạch vẫn là kinh Phật. Các nhà khoa
học phát hiện “hữu” thực sự phát sanh từ
“không”, tức là trong Vô sanh ra Hữu, “không vô” có thể sanh
ra Hữu. Đó là phát hiện mới nhất của khoa học.
Vũ trụ h́nh thành là “nhất
thời đốn hiện” (xuất hiện ngay trong
cùng một lúc), sự giải thích ấy không sai. Nhất
thời đốn hiện, một thời nào? Không nói rơ
được. Nay đă hết giờ rồi, đợi
đến phần sau thấy có những câu nào liên quan
đến vấn đề này, chúng tôi sẽ tŕnh bày tiếp
cùng quư vị. Hiểu rơ chân tướng sự thật
đó, tâm chúng ta bèn định, vọng tưởng tự
nhiên buông xuống được. Dù chẳng buông xuống
hoàn toàn, cũng giảm thiểu được hơn một
nửa, có ích rất lớn cho việc tu học. A! Nay
đă hết giờ rồi!
Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Kư,
phần 3 hết
[1] Phúc tiểu ṭa là lối tập giảng,
trong đó, học tṛ sẽ lên ṭa giảng, giảng lại
dựa theo lời giảng của thầy trước
đó. Tham dự những buổi giảng như vậy chỉ
có thầy và các đồng học, không có người ngoài
tham dự nên gọi là “tiểu ṭa”. Mục đích của
phúc tiểu ṭa nhằm giúp cho người giảng luyện
tập, cũng như tiếp nhận sự đóng góp ư kiến
của thầy và đồng học.
[2] Phát huy ở đây có nghĩa là tự
ḿnh lập ra ư kiến riêng nhằm giải thích những
điều người trước chưa nói tới, hay
chưa giảng cặn kẽ.
[3] Văn ngôn và Bạch Thoại là hai thể văn của Trung Quốc. Bạch Thoại c̣n gọi là Ngữ Thể, một thể viết theo tiếng nói. Nói cách khác, đó là h́nh thức văn viết của tiếng Phổ Thông (Mandarin) hay Hán Ngữ hiện đại. Văn Ngôn là loại bút ngữ dùng trong biên chép hoặc trước thuật, là loại Hán ngữ được dùng phổ biến từ phong trào Ngũ Tứ (1919) trở về trước. Đối với người Trung Quốc, một cách thực hành để phân biệt hai thể văn ấy là: “Hễ dùng tai nghe và hiểu được là Bạch Thoại; hễ không dùng mắt để xem th́ không hiểu được th́ là Văn Ngôn”. (Theo Trần Văn Chánh, Từ Điển Hư Từ Hán ngữ cổ đại và hiện đại, nxb Trẻ, TPHCM, 2002).
[4] Sao Pḥng (Pḥng Tú, gọi đầy đủ
là Pḥng Nhật Thố) là một trong Nhị Thập Bát Tú.
Nhị Thập Bát Tú không phải là 28 ngôi sao riêng lẻ mà
là hai mươi tám cḥm sao (tinh cung) theo Chiêm Tinh Học Trung
Hoa. Người Hán chia bầu trời thành bốn khu vực,
gọi là Thanh Long (phương Đông), Huyền Vũ
(phương Bắc), Bạch Hổ (phương Tây), và Châu
Tước (phương
[5] Ung Ḥa Cung chính là một ngôi chùa theo truyền
thống Phật giáo Tây Tạng rất lớn tại Bắc
Kinh. Đây chính là vương phủ cũ của hoàng tử
Dẫn Chân, tức hoàng thứ tư của vua Khang Hy. Dẫn
Chân được phong tước Ung Ḥa thân vương
nên vương phủ được gọi là Ung Ḥa
vương phủ. Khi Dẫn Chân trở thành vua Ung Chánh
đă biến nơi này thành hành cung, rồi ban cho Hoạt
Phật Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ
cư ngụ. Ung Ḥa Cung chính thức trở thành chùa Tây Tạng
vào năm Càn Long thứ 9 (1744).
[6] Hán Vũ Đế (156-87 trước
Công Nguyên) là hoàng đế thứ bảy của nhà Hán, tên
là Lưu Triệt, tên tự là Thông, là con trai thứ 10 của
Hán Cảnh Đế (Lưu Khải), được phong
làm Thái Tử từ lúc mới lên bảy, làm vua lúc 16 tuổi,
được coi là một minh quân có công đặt nền
móng vững vàng cho kỷ cương, điển chế,
pháp luật, hệ thống quan chức, thuế má và giáo dục
hoàn chỉnh cho Trung Hoa. Ông ta theo chủ trương pháp trị,
chú trọng phát triển nông thương, cũng như
đổ nhiều công sức khai thác quặng sắt, nấu
muối v.v... Nghe theo kiến nghị của Đổng Trọng
Thư, ông đă độc tôn Nho Giáo, băi bỏ bách gia
chư tử. Tuy vậy, ông ta có nhược điểm
thiếu khoan dung, quá khắc nghiệt, khiến cho nhiều
người phải chịu h́nh phạt oan uổng như
sử gia Tư Mă Thiên chẳng hạn. Tư Mă Thiên chỉ
v́ khuyên vua đừng phạt tội chém cả gia đ́nh
Lư Lăng khi ông này bại trận dưới tay quân Hung Nô,
Hán Vũ Đế cho là Tư Mă Thiên cấu kết với
Lư Lăng bèn phạt Tư Mă Thiên phải chịu tội
“cung h́nh” (thiến).
[7] Thiên luân là những mối quan hệ
luân thường chánh đáng chẳng hạn cha con, anh em,
vua tôi v.v... Niềm vui thiên luân là niềm vui sống giữ
đúng luân thường, mọi người thương
yêu, kính trọng lẫn nhau.
[8] Koran (c̣n viết là Qur’an,
Quran, Kuran, Koran, Qur’ān, Coran, al-Qur’ān) là thánh kinh của đạo Hồi bằng
tiếng Ả Rập. Hồi Giáo tin đây là những lời
mặc khải của Thượng Đế (Allah) truyền
cho giáo tổ đạo Hồi là Đại Tiên Tri Muhammad
trong ṿng 22 năm (610-632) qua sự truyền rao của thiên
sứ Jibril (Gabriel). Những lời giảng này được
biên tập thành thánh kinh Koran ngay khi Muhammad c̣n sống.
[9] Nhân dân tệ (Renminbi): Đơn vị
tiền tệ của Trung Hoa Đại Lục.
[10] Hư tuế là cách tính tuổi, ta
thường gọi là tuổi ta, tức là vừa sinh ra
đă tính là được một tuổi, không chờ
đến sinh nhật đầu tiên mới là một tuổi.
[11] Cư sĩ Mai Quang Hy (1880-1947) là cậu
của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Cụ có tên tự
là Hiệt Vân, quê ở huyện Nam Xương, tỉnh
Giang Tây. Gia đ́nh cụ có truyền thống thư
hương nhiều đời, rất được trọng
vọng. Cụ đỗ khóa thi Hương năm 19 tuổi,
được bổ làm Đạo Viên tỉnh Hồ Bắc
năm 23 tuổi, rất được tổng đốc
Hồ Quảng là Trương Chi Động coi trọng, cử
làm giám đốc trường Vơ Bị Hồ Bắc, sau
đấy, ông Trương phái cụ Mai sang Nhật theo học
trường Lục Quân Chấn Vũ Học Đường,
để được huấn luyện thành sĩ quan chỉ
huy. Sau khi tốt nghiệp, cụ c̣n theo học tại Nhật
Bổn Tảo Đạo Điền Đại Học,
ngành chính trị kinh tế. Khi ấy, nhà Thanh đứng
trước t́nh thế đất nước nghiêng ngửa,
phải nghĩ đến chuyện duy tân, chiêu mộ hiền
tài cải cách đất nước. Bạn bè khuyên cụ
tham chánh, cụ khảng khái bảo: “Công thành bị đọa, danh thành bị thiếu
đức, thầy ta là cụ Dương chẳng dạy
ta như thế”. Cụ Dương ở đây chính là
nhà học giả Phật giáo Dương Nhân Sơn. Cụ
Mai học Phật là do người cùng làng là Khuê Bá Hoa
hướng dẫn, cụ Khuê là anh một người bạn
học của cụ Mai. Cụ Mai theo học Đại Thừa
Khởi Tín Luận, Hoa Nghiêm, Tam Luận và các kinh điển
trọng yếu của Tịnh Độ với cụ
Dương. Từ đấy, cụ Mai chuyên tâm học Phật,
trở thành một hành giả Tịnh Độ nhiệt
thành và là một nhà nghiên cứu Duy Thức Học có uy tín,
cụ từng nói: “Chẳng phải
sách Phật sẽ không đọc, chẳng phải Phật
hạnh sẽ chẳng hành”. Cùng với cư sĩ Hạ
Liên Cư là hai nhân vật nổi danh với tài diễn giảng
thời ấy “Bắc Hạ,
Nam Mai”. Cụ để lại những tác phẩm nổi
tiếng như Tướng Tông Cương Yếu, Tướng
Tông Cương Yếu Tục Biên, Tướng Tông Sử
Truyện Lược Lục, Đại Thừa Tướng
Tông Thập Thắng Luận.
[12] “Xếp
đôi giấy” (triệp điệp bản) là lối
in theo sách cổ, sách được in từng trang trên một
tờ giấy dài, khi in xong sẽ gấp sách thành từng
trang không đóng gáy, chỉ gắn b́a ở hai đầu.
[13] Trừu đoạn: Các loại the lụa
rất mịn.