Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
Quyển thứ ba
(Phần 3)
49. Lời tựa sách Phó Đại Sĩ
Truyện Lục
Nhất niệm tâm tánh của
chúng sanh và chư Phật không hai. Tuy đang mê bất giác,
khởi Hoặc tạo nghiệp, tạo đủ mọi
tội, nhưng Phật tánh sẵn có vốn không tổn thất.
Ví như Ma Ni bảo châu rớt trong nhà xí, trọn chẳng
khác ǵ vật dơ, người ngu chẳng biết là quư
báu, bèn coi như uế vật. Người trí biết là diệu
bảo vô giá, chẳng hiềm ô uế, vào trong nhà xí nhặt
lấy, dùng đủ mọi phương cách gột rửa
cho sạch. Sau đấy, treo trên tràng[1]
cao, châu liền phóng đại quang minh, tùy theo ḷng mong cầu
của con người mưa khắp các thứ báu. Do vậy,
người ngu mới biết là quư báu.
Đại
Giác Thế Tôn xem các chúng sanh cũng giống như thế:
dẫu là kẻ hôn mê, điên đảo, phiền hoặc,
tạo đủ Ngũ Nghịch, Thập Ác, vĩnh viễn
đọa trong ba ác đạo, tâm Phật vẫn chẳng
hề có một niệm buông bỏ, luôn t́m cơ duyên, gia bị
âm thầm hoặc hiển nhiên, v́ họ thuyết pháp ngơ hầu
họ hiểu rơ Hoặc nghiệp huyễn vọng, ngộ
Phật tánh chân thường, cho đến khi viên chứng
Vô Thượng Bồ Đề mới thôi! Đối với
người tội ác cực nặng c̣n như thế, th́
đối với người nghiệp nhẹ, người
giữ giới thiện, có đầy đủ sức Thiền
Định sâu, không một ai chẳng được đối
xử như vậy. Phàm trong tam giới, có những người
tuy đă thâu liễm được thân tâm, khuất phục
được các phiền hoặc, nhưng t́nh chủng vẫn
c̣n, phước báo một khi đă hết liền đọa
xuống cơi dưới, gặp cảnh chạm duyên vẫn
khởi Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp cảm khổ,
luân hồi sáu nẻo, trọn chẳng có lúc nào ngưng; cho
nên kinh Pháp Hoa nói: “Ba cơi không yên
ví như nhà cháy. Các khổ đầy dẫy, thật
đáng kinh sợ”.Nếu không phải là nghiệp tận
t́nh không, đoạn Hoặc chứng chân th́ chẳng mong chi
thoát khỏi tam giới. Chỉ có mỗi một ḿnh pháp môn
Tịnh Độ chỉ cần có đủ ḷng tin chân thật,
nguyện thiết tha, tŕ danh hiệu Phật liền có thể
nhờ vào Phật từ lực văng sanh Tây Phương.
Đă được văng sanh bèn nhập cảnh giới Phật,
thọ dụng như Phật, hai thứ phàm t́nh lẫn
thánh kiến đều chẳng sanh. Chính là pháp môn đặc
biệt ngàn vạn phần ổn thỏa, thích đáng, chẳng
sót một ai vậy; đang thời Mạt Pháp, bỏ pháp
này th́ không c̣n cách ǵ khác nữa.
Như
Lai dùng tự lực - tha lực, hai thứ pháp môn thông
thường và đặc biệt để lợi khắp
hết thảy. Bồ Tát gánh vác gia nghiệp của Phật,
chỉ chuyên chú thượng cầu hạ hóa. Do vậy,
tùy loại hiện thân trong pháp giới mười
phương, tùy cơ thuyết pháp, ḥa quang đồng sự
mới dẫn dắt được. Hoặc ẩn, hoặc
hiển, trọn không có tướng nhất định! Có
những vị bên trong ẩn thánh đức, bề ngoài hiện
dáng vẻ lạ lùng, như: Phật Di Đà hóa làm Thiện
Đạo, Phong Can[2]; Quán
Âm hóa làm Bảo Chí[3],
Tăng Già[4];
Văn Thù, Phổ Hiền hóa thành Hàn Sơn, Thập Đắc[5];
Di Lặc hóa thành Bố Đại ḥa thượng. Ngôn hạnh
của họ phàm t́nh chẳng thể lường
được, mờ mịt chẳng biết họ là hạng
người như thế nào! Đến lúc lâm chung mới
phát lộ, hoặc do chết đi, khám nghiệm mới biết
rơ được! Cũng có vị vừa ẩn vừa hiển,
chỉ bày rơ cả Bổn lẫn Tích, như Di Lặc hóa
thành Phó Đại Sĩ vậy. Có lúc Ngài dựa theo Tích, ẩn
Bổn, tự bảo ḿnh là phàm phu. Có lúc dựa theo Bổn,
ẩn Tích, như tự xưng là Di Lặc. Ấy là v́ tâm
lượng của chúng sanh quá hẹp nhỏ, nếu chẳng
phải là kẻ có chút sở đắc bèn lầm tưởng
ḿnh đă dự vào hàng thánh th́ cũng là kẻ đề
cao thánh cảnh, nhưng cam phận phàm ngu! Do vậy, Đại
Sĩ lấy thân ḿnh làm gương, khiến cho họ biết
Ngài đă chứng Đẳng Giác nhưng vẫn tự bảo
là phàm phu th́ những kẻ lầm lạc tự tưởng
ḿnh cao quư cũng như kẻ cam phận phàm ngu đều
được tỉnh ngộ mạnh mẽ.
Những
chuyện Đại Sĩ đă làm, những pháp Ngài nói
trong suốt một đời tuy đều trực chỉ
hướng thượng, nhưng vẫn chẳng bỏ
sót một điều lành nào. Lục Độ đều
tu, chẳng chấp một pháp. C̣n như những vị
đệ tử học pháp với Ngài, không ai chẳng khế
nhập chân thường sâu xa, nhanh chóng hiểu Uẩn, Giới
là không, bỏ thân mạng, của cải để làm
đại pháp thí. V́ thế, đạo lừng lẫy cả
hai triều, đức đượm đời sau. Măi
đến ngày nay, cả một ngàn mấy trăm năm,
bất cứ ai thấy nghe đều gieo thiện căn.
Chùa Song Lâm ở Nghĩa Ô[6]
chính là nơi Đại Sĩ tiềm tu, hăy c̣n bản khắc
ván truyện lục, tuy được sao chép, in khắc nhiều
lần, nhưng chưa từng được người
mắt sáng giảo đính đến nỗi sai ngoa không biết
bao nhiêu mà kể!
Cư
sĩ Tôn Ngọc Tiên ở Phụng Hóa đến Song Lâm lễ
yết Đại Sĩ, mang về sách ấy, liền muốn
in lại để truyền rộng đạo của
Đại Sĩ, xin Quang giảo đính ngơ hầu trừ
hết những lỗi tệ, hiển hiện trọn vẹn
thiên chân. Quang gắng dốc hết ḷng ngu thành, lắng
ḷng giảo đính, sửa chữa. Tuy chưa thể chẳng
sót lỗi nào, nhưng đă có thể hoàn lại diện mục
sẵn có của sách ấy rồi. Ngọc Tiên lại cho rằng
bi kư của Đại Sĩ văn sâu nghĩa thẳm, nếu
không chú thích thật khó dẫn người nhập vào chỗ
thù thắng, khơi gợi ḷng kính ngưỡng cho người
khác, bèn xin cư sĩ Hoàng Vô Ngôn chú thích cặn kẽ, ngơ hầu
dù văn hay nghĩa đều [rơ ràng] như các đường
chỉ trong ḷng bàn tay để người đọc chẳng
tốn công suy nghĩ, t́m ṭi, đều biết được
sự - lư, bổn - tích của Đại Sĩ, để
làm hướng dẫn hầu được độ
thoát trong ba hội Long Hoa[7] vậy.
50. Lời tựa khắc lại cuốn
Quán Hà Tập
Tâm chính là gốc của các pháp
thế gian và xuất thế gian. Nếu triệt ngộ tự
tâm th́ thấy hết thảy pháp đều lưu lộ từ
tự tâm, thấy hết thảy những cảnh giới
biến diệt, đổi dời đều là Thật
Tướng Chân Như tịch diệt thường trụ.
Kinh Lăng Nghiêm có nói đến chuyện thấy con sông chẳng
phân biệt trẻ - già[8],
ngài Tăng Triệu nói “gió lốc xoáy núi nhưng núi bất
động, sông rạch chen nhau rót vào nhưng [núi] chẳng
bị cuốn đi”, đều nhằm chỉ bày ư chỉ
nhỏ nhiệm “từ ngay
nơi sanh diệt thấy được chân thường”
vậy! Nếu hiểu được điều này th́ có
thể gọi là hạng phàm phu đă liễu sự, là
người tu đạt được cái gốc. Dẫu
cho cười chê, hay nóng giận, chửi bới đều
có thể tháo niêm cởi trói cho người, khiến
người ta khởi tử hồi sanh; cần ǵ phải
lên ṭa giảng nghĩa mới là thuyết pháp ư? Khổng
Tử nói: “Hai ba người
các anh cho là ta có giấu diếm ǵ chăng? Ta không giấu
ǵ cả! Ta không làm chuyện ǵ mà chẳng chỉ dạy
hai ba anh cả, đấy chính là bản tánh của Khâu
này!”[9]
Đạo
của thánh nhân ví như ánh dương xuân. Ánh dương
xuân chiếu xuống th́ cây to, cỏ nhỏ không ǵ chẳng
sum suê, tốt tươi. Dẫu cho mầm cháy, hạt
hư chẳng thể sanh thành, nhưng cũng chưa từng
không được hưởng sự ấm áp để
được nhuận trạch vậy! Người
căn tánh thiên bẩm sâu xa thấy những điều cao
dày trước sau chẳng thể mô phỏng, rộng lớn
tinh vi, chẳng thể nghĩ lường, thật ra chẳng
có ǵ lạ lùng, đặc biệt, chẳng qua chỉ là những
chuyện nói năng, xử sự hằng ngày mà thôi. Tâm này
mầu nhiệm, phàm - thánh giống nhau, Như Lai viên măn Bồ
Đề, chúng sanh vĩnh viễn luân hồi trong lục
đạo, đều chẳng ĺa khỏi tâm này. Chỉ do
nhân duyên mê - ngộ, nghịch - thuận mà đến nỗi
khổ - vui, thăng - trầm khác nhau như trời với
vực.
Cư
sĩ Bành Tế Thanh ở Trường Châu[10]
túc căn sâu dầy, học vấn uyên bác, vừa đậu
Tiến Sĩ bèn ngộ khổ, không, thấy phú quư như
mây nổi, chẳng thích làm quan, thấu hiểu thật tế
của tâm tánh bèn tận lực tu Tịnh nghiệp, hết
sức muốn phổ độ kẻ mê bèn ḥa quang đồng
sự, cho nên có những trước tác tự thuật bổn
hoài, kỷ sự[11],
xướng họa, tuy thuộc văn tự, nhưng quả
thực chứa đựng nỗi ḷng sâu xa. Ư niệm yên
đời, làm cho dân chúng lương thiện, hướng
dẫn kẻ mê, tuyên nói lẽ chân được lộ rơ
trong những lúc ngâm vịnh tùy dịp, tùy cảnh. Có thể
nói: “Chẳng có địa vị
mà thực hiện việc cai trị, chẳng lên ṭa mà thuyết
pháp” vậy! Thâu thập những trước tác, chia
thành bốn quyển, đặt tên là Quán Hà Tập. Ấy
chính là lấy từ ư nghĩa “từ
việc nh́n con sông, nghiệm ra cái Thấy chẳng thay
đổi” của kinh Lăng Nghiêm vậy. Lại mong
những ai xem tập sách này chớ suy lường nơi
nghĩa lư văn tự, chỉ nên nh́n vào sự quán. Quán đă
thấu tỏ th́ sông chẳng thay đổi! Đấy
chính là ư nghĩa tổng quát của cái tên ông Bành đă đặt.
Ông
Lưu Triều Thị thấy sách này có ích cho đời,
bèn in khắc lưu thông, thật là nghĩa cử thù thắng
tạo phương tiện dẫn dạy vậy. Ông nhờ
tôi viết lời tựa. Tôi mong những ai xem đến
thơ ông Bành th́ trước hết sẽ học theo đạo
của ông Bành, đạo ấy ra sao? Là diệu ngộ tự
tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương mà thôi! Nếu lănh ngộ được điều
này th́ mười phương thế giới sâm la vạn
tượng đều hiện thành bài thơ mới. Nếu
không, dẫu cho thanh vận véo von, câu chữ đối nhau
khít khao, vẫn chẳng có mảy may nguyên khí nào. Như gương
vẽ trên vách, như hoa cắt từ lụa, h́nh tạm
cho là giống, nhưng muốn cho nó hiện tướng
sáng, tỏa mùi thơm th́ nhất quyết chẳng thể
được!
51. Lời tựa lưu thông bản thạch
ấn Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh
Bản thể của Pháp Thân
hoàn toàn rời khỏi danh tướng, chân cảnh Tịch
Quang chẳng thuộc Căn - Trần, chẳng phải có,
chẳng phải không, Ngũ Nhăn[12]
chẳng thể thấy được, chẳng phải
tâm, chẳng phải sắc, Tứ Trí[13] lấy
ǵ để tuyên nói. Tịch - chiếu trống rỗng,
thông suốt, Chân Như tịnh diệu; vạn đức
trọn đủ, không pháp ǵ chẳng hiển hiện. Phật
thường trụ nơi thanh tịnh c̣n chẳng thể
diễn nói, chúng sanh luân hồi trong nhơ uế há lập
được ư? Đây thật sự là lư thể sẵn
có của chúng sanh và Phật, là nguồn pháp của Vô Thượng
Bồ Đề vậy. Lư này chúng sanh và Phật b́nh đẳng,
không có cao - thấp. Nhưng do chúng sanh đang mê, tuy sử
dụng thường ngày nhưng chẳng biết, tuy có
đủ Pháp Thân lại lầm lạc chịu sanh tử,
tuy ở trong Tịch Quang, lại lầm thấy là uế
ác. Do vậy, Như Lai rủ ḷng Từ rộng nói các kinh,
khiến cho khắp hết thảy chúng sanh phản vọng
quy chân, khôi phục tâm tánh vốn có.
Nhưng
tự lực đoạn Hoặc, chứng đạo trong
đời này th́ hàng trung hạ căn không cách ǵ thành tựu
được. Do vậy, có bậc đại sĩ tên là
A Xà Thế, vận ḷng đại từ bi, muốn cho đức
Phật khai thị đại pháp môn đặc biệt, lạ
lùng chẳng thể nghĩ bàn là pháp “cậy vào Phật từ lực, bỏ uế lấy
tịnh, khiến cho khắp những căn thượng
trung hạ đều được lâm chung văng sanh”; cho nên Ngài đặc biệt
thị hiện hạnh xấu ác, làm chuyện đại
ác nghịch: giam cha, nhốt mẹ để làm duyên phát khởi,
ngơ hầu mẹ Ngài là bà Vi Đề Hy thỉnh Phật
giáng lâm, nguyện ĺa Sa Bà, nguyện sanh Tịnh Độ.
Khi ấy, đức Thế Tôn phóng hào quang từ giữa
chặn mày, hiện đủ mọi cơi Phật tịnh diệu.
Bà mẹ chỉ nguyện sanh về cơi Cực Lạc, lại
thỉnh cầu phương pháp để giúp chúng sanh
được sanh về cơi ấy. Bởi thế, đức
Như Lai nói ra mười sáu phép diệu quán y báo, chánh báo,
những ai có thể y theo lời dạy tu hành, không một
ai chẳng được măn nguyện. Chẳng những
thiện nhân được như thế, dù là kẻ
Ngũ Nghịch, Thập Ác, lúc lâm chung tướng địa
ngục hiện, được tri thức dạy niệm
danh hiệu Phật hoặc đủ mười tiếng
hoặc chỉ một tiếng cũng được nhờ
Phật từ lực đới nghiệp văng sanh. Thật
có thể nói là ống thổi ḷ lớn (ống bễ trong
ḷ rèn) để chuyển phàm thành thánh, là đại pháp môn
phô bày bổn hoài của Phật, có lực dụng vượt
trội mọi giáo pháp trong cả một đời đức
Phật.
Nếu
Như Lai chẳng mở ra pháp này th́ bao nhiêu chúng sanh trong
đời Mạt Pháp ai có thể thoát ĺa được biển
khổ? Do vậy, biết Thích Ca, Di Đà nương đại
nguyện luân, khởi ḷng Từ vận tâm Bi độ
thoát chúng sanh. Một vị thị hiện sống trong cơi
uế, dùng uế, dùng khổ để chiết phục,
đưa đi; một vị thị hiện sống trong
cơi tịnh, lấy tịnh, lấy vui để nhiếp
thọ, un đúc; c̣n vua A Xà Thế giúp sức tán trợ,
riêng hiện tướng ác nghịch ḥng thành tựu ḷng
chán ĺa; cùng với đức Thế Tôn hai cơi, đe và búa
thành toàn cho nhau[14].
Một nghịch, một thuận, là hóa nghi (phương thức
giáo hóa) rốt ráo để chúng sanh đời Mạt rốt
ráo đắc độ. Lợi ích ấy khó thể tán
dương trọn hết. Làm chuyện phi đạo
nhưng thông đạt Phật pháp, nếu chẳng phải
là bậc đă chứng Pháp Thân từ lâu, ai có thể làm
được?
Kinh
này lấy “tâm này làm Phật,
tâm này là Phật, chúng sanh và Phật rốt ráo chẳng hai”
làm Thể. Nếu ai có thể tin tưởng ngay nơi
đây th́ người ấy tuy chưa ra khỏi Sa Bà nhưng
đă không c̣n là khách trọ lâu ngày trong Sa Bà nữa, chưa
sanh về Cực Lạc mà đă là khách quư của Cực Lạc.
Cư sĩ Trí Hải Lưu Triều Thị xưa có linh
căn, dốc sức tu Tịnh nghiệp, nhân đọc
kinh này, động ḷng hiếu thuận, nghĩ mẹ ḿnh
là bà phu nhân họ Trương thủ tiết nuôi con côi, thờ
bố mẹ chồng trọn hiếu, đức sáng nữ
giới, làm gương cho hàng khuê các. Bà cụ dốc ḷng
tin nhân quả, giữ Thập Trai lâu ngày, chánh nhân Tịnh
nghiệp đă khá đầy đủ, tiếc là sanh ḷng
tin phát nguyện chuyên tŕ Phật hiệu để cầu
văng sanh chưa đến mức dốc hết sức lực.
Do vậy, ông Lưu bèn phát tâm lưu truyền kinh này.
Cư
sĩ Đào Ngọc Canh bút pháp siêu diệu, có thể bén gót
họ Chung, họ Vương[15];
nhân đó, bèn nhờ ông ta cung kính viết kinh để in
thạch ấn thí tặng, khiến cho khắp mọi
người thấy nghe cùng gieo tịnh nhân. Do công đức
này khiến cho thần thức của mẹ được
siêu tịnh vực, nghiệp từ tạ trần lao, sen
chín phẩm nở hoa, Phật thọ kư ngay trong một
đời. Phải biết kinh này và hai kinh A Di Đà, kinh
Vô Lượng Thọ chính là pháp môn được đặc
biệt lập ngoài những giáo lư thông thường trong cả
một đời giáo hóa của Như Lai, như thuốc
A Già Đà trị đủ vạn bệnh. V́ thế, bất
luận nghiệp nặng hay nhẹ, Hoặc (phiền năo) dầy
hay mỏng, chỉ cần tín nguyện niệm Phật th́
không một ai chẳng được văng sanh, như châu Ma
Ni tùy ư tuôn các báu. Do vậy, chỉ cần nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, đợi đến
khi nghiệp tận t́nh không, tâm lẫn Phật cùng mất
th́ hết thảy pháp môn, hà sa diệu nghĩa không ǵ chẳng
dung hội, quán thông nơi tự tâm. Pháp môn Tịnh Độ
mầu nhiệm như thế đó! Những ai trên muốn
siêu độ những bậc trưởng thượng
đă mất, dưới tế độ mọi phẩm,
khiến cho hết thảy mọi người chẳng phế
bổn phận, chức nghiệp, ai nấy được
thoát ly sanh tử luân hồi ngay trong đời này th́ sao
không gấp gáp theo đuổi pháp môn này?
52. Lời tựa cho Phật Quang Nguyệt
Báo
Phật
Quang là Trí Thể sẵn có ngay trong tự tâm của phàm - thánh,
chúng sanh và Phật trong mười pháp giới. Thể ấy
linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường
hằng, bất sanh, bất diệt, vô thủy, vô chung, dọc
th́ suốt khắp ba đời nhưng ba đời do
đây dứt bặt, ngang th́ trọn khắp mười
phương nhưng mười phương do đây tiêu mất.
Được gọi là Không nhưng vạn đức trọn
bày. Gọi là Có nhưng mảy trần chẳng lập.
Chính là hết thảy pháp, nhưng ĺa hết thảy tướng,
tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng.
Tuy Ngũ Nhăn chẳng thể thấy được, Tứ
Biện[16] chẳng
thể tuyên thuyết, nhưng pháp ǵ cũng phải nhờ
vào sức nó, đâu đâu cũng gặp gỡ. Chỉ v́
chúng sanh chưa ngộ nên chẳng những không thể thọ
dụng được, trái lại c̣n nương theo sức
chẳng thể nghĩ bàn này để khởi Hoặc tạo
nghiệp. Do nghiệp chuốc khổ, khiến phải
sanh tử luân hồi trọn chẳng khi nào hết. Đem
chân tâm thường trụ thọ lấy huyễn báo sanh
diệt, ví như người say thấy nhà xoay, nhà thật
sự chẳng xoay. Kẻ mê cho là phương hướng
chuyển dời, phương hướng quả thật
chẳng động. Hoàn toàn do vọng nghiệp biến hiện,
trọn chẳng có thật pháp nào để đạt
được!
Do
vậy, khi đức Thích Ca Thế Tôn ta thị hiện
thành Phật đạo, triệt chứng Phật quang, bèn
than: “Lạ thay! Lạ thay! Hết
thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ,
đức tướng của Như Lai nhưng do vọng
tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng
đắc. Nếu ĺa vọng tưởng, chấp trước
th́ Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều
được hiện tiền”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Diệu tánh viên minh ĺa các danh
tướng, vốn chẳng có thế giới, chúng sanh. Do
vọng nên có sanh, do sanh nên có diệt. “Sanh - diệt” gọi
là Vọng. Diệt vọng gọi là Chân. Đấy gọi
là Vô Thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn
của Như Lai”. Hai thứ danh hiệu này được
dùng thay cho nhau. Ngài Bàn Sơn[17]
nói: “Tâm nguyệt riêng tṛn, ánh
sáng phủ trùm muôn h́nh tượng. Ánh sáng không chiếu cảnh,
cảnh cũng chẳng c̣n. Tâm - cảnh đều mất,
nào c̣n có vật ǵ?” Ngài Quy Sơn nói: “Linh quang riêng chiếu, thoát khỏi Căn Trần. Thể
lộ chân thường, chẳng chấp vào văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên thành. Chỉ ĺa vọng
niệm chính là Như Như Phật”.
Do
vậy, biết: Mọi thứ ngôn giáo của Phật, Tổ,
không ǵ chẳng nhằm chỉ bày tâm tánh sẵn có của
chúng sanh, khiến cho họ bỏ mê về ngộ, khôi phục
cái nguồn, hoàn lại cái cội mà thôi! Nhưng chúng sanh
căn cơ có cạn - sâu, mê có dầy - mỏng, chẳng
nhờ vào đủ mọi ngôn giáo chỉ dạy, đủ
mọi pháp môn đối trị th́ mây mê ngăn chướng
tánh không, biết nhờ vào đâu để mỗi người
đều thấy thấu suốt vầng tâm nguyệt cho
được? Do vậy, lúc đức Như Lai mới
thành đạo diễn giảng kinh Đại Hoa Nghiêm, liền
bàn thẳng vào đại pháp vượt ngoài pháp giới,
chẳng phải là pháp mà hàng Quyền - Tiểu có thể dự
phần được, ngơ hầu những hàng đại
căn cơ túc căn đă chín muồi cùng được
chứng chân thường, sanh lên ngay bờ giác. Lại v́
hàng độn căn chúng sanh chưa được lợi
ích, Phật bèn dần dần khéo léo khuyên dụ, tùy thuận
căn cơ diễn thuyết: Hoặc dùng Ngũ Giới,
Thập Thiện đưa họ vào hai thừa Nhân - Thiên
khiến cho họ gieo nhân thù thắng tiến vào Phật
đạo, hoặc dùng Tứ Đế, Thập Nhị
Nhân Duyên, Lục Độ vạn hạnh đưa vào ba
thừa Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát khiến cho họ có
được cận duyên chứng Phật đạo. Bắt
đầu từ thời A Hàm cho đến thời Bát Nhă,
không thời nào chẳng thuận theo căn tánh để tuyên
nói khiến cho chúng sanh dần dần tiến lên, theo
đường về nhà, nhưng bản hoài của Phật
vẫn c̣n ẩn kín chưa nói. Đến hội Pháp Hoa,
khai Quyền hiển Thật, khai Tích hiển Bổn, Nhân -
Thiên - Quyền - Tiểu đều là Nhất Thừa.
Người khách coi ḿnh là kẻ hèn, thật sự là con ông
trưởng giả. Thọ kư cho khắp ba căn, phô bày thông
suốt lớn lao bổn hoài, cùng với hội Hoa Nghiêm
ban đầu, đầu và cuối soi rọi lẫn nhau.
Có thể nói là “một đại sự nhân duyên đă
được giao phó toàn thể, trọn chẳng c̣n giấu
diếm điều ǵ!” Lại do chúng sanh đời Mạt
căn cơ kém hèn, việc đoạn Hoặc chứng Chân
thật hiếm có người. Do vậy, đặc biệt
mở ra một môn Tịnh Độ, để thượng
- trung - hạ căn dù thánh hay phàm đều cùng trong một
đời này thoát khỏi Sa Bà sanh sang Cực Lạc, dần
dần chứng được quang minh thọ mạng vô
lượng. Ḷng từ bi sâu xa lớn lao ấy thật là
cùng cực không c̣n ǵ hơn được nữa!
Đến
khi đại giáo truyền sang Đông, bậc đại
sĩ hoằng pháp ai nấy chuyên chú một môn, hoặc Thiền,
hoặc Giảng, hoặc Luật, hoặc Mật, như bốn
cửa thành gần cửa nào bèn vào cửa nấy. Như vạn
món thuốc, thuốc nào trị đúng bệnh bèn uống.
Như những chức vụ trong các ty thuộc các bộ,
giúp đỡ nhau hoàn thành công việc hành chánh. Như sáu
căn hỗ trợ nhau, phụ trợ cho một thân. Tuy mỗi
người đề cao một pháp, nhưng thật ra
pháp nào cũng đều thông, pháp nào cũng đều trọn
vẹn; chẳng qua từ chỗ thực hành mà nói th́ mới
có những tên gọi như vậy. C̣n như một pháp Tịnh
Độ th́ giống như thuốc A Già Đà trị
chung vạn bệnh, như Ma Ni bảo châu tùy ư tuôn các thứ
báu. Nếu có thể thâu nhiếp sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối, sẽ đắc Tam Ma Địa, tự
chứng Viên Thông, hết thảy công đức, hà sa diệu
nghĩa, chẳng nhọc ḷng cầu bên ngoài, đều hiện
nơi tự tâm. Đó là v́ dùng Quả Địa Giác (sự
giác ngộ nơi chứng quả) làm Nhân Địa Tâm (cái
tâm khi tu nhân); đến mức cùng cực th́ Nhân trùm biển
Quả, Quả thấu tột nguồn Nhân. Sự mầu
nhiệm của pháp môn này dù hết cả kiếp vẫn
khó tuyên thuyết, ai gặp được th́ c̣n may mắn
nào hơn?
Ḥa
thượng Khả Đoan chùa Trường Sanh ở Duy
Dương xưa đă trồng cội đức, tham cứu
Thiền - Giảng đă lâu. Năm Dân Quốc thứ tám
(1919), do sư Tánh Liên thoái ẩn, giao cho ḥa thượng làm
Trụ Tŕ. Nhân đó, nghĩ kinh Hoa Nghiêm chính là căn bản
pháp luân của Như Lai, bèn tận lực diễn giảng,
ngơ hầu hết thảy chúng sanh dù u hay hiển[18],
đều cùng phát khởi thiện căn Nhất Thừa.
Phải mất cả ba năm mới giảng hết bộ
kinh, nhưng hàng cư sĩ hộ pháp cảm ḷng chí thành của
Sư, lại xin tiếp tục giảng ḥng bồi dưỡng
nhân tài. Nhân đấy, Sư mở Hoa Nghiêm đại học
viện, hạn định số học sinh là bốn
mươi tám người. Lại nghĩ đoạn quang
minh chẳng thể nghĩ bàn này chiếu khắp pháp giới,
cố nhiên là do sức thần thông đạo lực, là
phước huệ trang nghiêm của Như Lai, nhưng
quang minh này ai nấy đều có, chẳng ai là không. Tuy vậy,
[giống như] hạt châu trong chéo áo, tượng trong
khuôn, người hiểu được Bổn tuy có,
nhưng kẻ chấp vào Tích thật nhiều. Nỡ nào để
cho những người cùng có quang minh này phần nhiều ở
măi trong nhà tối, chẳng thụ dụng được;
trái lại, c̣n biến ánh sáng chân thường viên măn chiếu
khắp pháp giới chẳng thể nghĩ bàn này thành cội
gốc để kết nghiệp sanh tử ư?
Do
vậy, Sư tính mỗi tháng ra một lần báo, đặt
tên là Phật Quang. Do nhất niệm tâm tánh, Phật
như, chúng sanh như, nhất như, vô nhị như[19],
nên phàm là nhân duyên ban bố giáo hóa của Như Lai, thật
tế của tâm tánh chân thường, nhân quả, Ngũ Giới,
Thập Thiện, sự cảm ứng của việc kiêng
giết, phóng sanh, thiện hạnh thế gian, Tịnh nghiệp
xuất thế, nỗi khổ luân hồi sanh tử, báo ứng
nhân quả nhỏ nhiệm, cũng như lời hay hạnh
đẹp, trước thuật, bài giảng của bậc
cao nhân triết sĩ đều được tùy duyên ghi
chép để giúp cho [người đọc] quán cảm.
Tuy là Chân - Tục cùng diễn nói, nhưng sâu - cạn đều
đầy đủ, lời thô lẽ tế đều
quy về Đệ Nhất Nghĩa. Do vậy, người
nhân trông thấy cho là Nhân, người trí trông thấy cho là
Trí, lấy đó làm hướng dẫn ban đầu để
bước vào cảnh giới Phật, là duyên thù thắng
để mở rộng tâm quang.
Nếu
người đọc biết được tự tâm vốn
là Phật tâm, liền biết Phật quang chính là tâm quang. Nhưng
tâm quang này tịch - chiếu viên dung, tịch nhưng
thường chiếu, nên là vô lượng quang; chiếu
nhưng thường tịch nên là vô lượng thọ. Lư
thể của vô lượng quang thọ hết thảy mọi
người đều có. Muốn thật sự chứng vô
lượng quang thọ th́ phải đợi đến
khi văng sanh Tây Phương gặp mặt Di Đà, được
Phật thọ kư, viên măn Bồ Đề xong rồi mới
đạt được triệt để. Đây chính
là ư chỉ sâu xa của chỗ quy tông kinh Hoa Nghiêm “dùng mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc”. Phàm những
ai cùng hàng với tôi, đă được may mắn hăy nên
tin tưởng chắc thật.
53. Lời tựa quyên mộ tu sửa tháp viện
của Vân Cốc thiền sư
Cao Tăng đắc đạo
vào thuở xa xưa, đến một ngàn mấy trăm
năm sau, nếu có ai trông thấy tượng Ngài, hoặc
đọc trước thuật, đi qua những nơi Ngài
đă lưu ngụ, chiêm ngưỡng ngôi tháp đóng kín, đều
có thể khiến cho người ấy sanh ḷng hổ thẹn,
sanh tâm kính ngưỡng, dũng mănh phát khởi đại
chí, tận lực tu Tịnh nghiệp để mong noi dấu
gương lớn, chấn hưng pháp đạo, ngơ hầu
huệ mạng của Như Lai được tiếp nối
chẳng dứt, chẳng đến nỗi phụ ư
nghĩa “con người sánh
cùng với trời đất xưng là Tam Tài, Tăng cùng với
Phật, Pháp được gọi là Tam Bảo”.
Thiền sư Vân Cốc đời
Minh chính là người như vậy. Sư nương nguyện
lực xưa, vào năm Hoằng Trị thứ 13 (1500), thị
hiện sanh trong nhà họ Hoài ở Tư Sơn, Gia Thiện[20],
đi tu từ bé, triệt ngộ tự tánh. B́nh sinh tu tập
tuy chú trọng vào Thiền, nhưng đối với các
tông Tánh, Tướng, tâm yếu của Nho, Đạo, không
ǵ chẳng dung hội quán thông. V́ thế, nhằm lúc Thiền
- Giáo suy đồi, Nho - Đạo tối tăm, Sư làm
cho Tông phong chấn hưng, tâm pháp sáng tỏa, khiến cho
thế đạo nhân tâm được lợi ích quả
thật chẳng nhỏ. Những người kế thừa
được pháp của Ngài, dung thông cả Nho lẫn
Thích khiến cho tâm pháp Linh Sơn, Tứ Thủy được
tỏ bày rơ ràng th́ Tăng như Hám Sơn đại
sư, tục như ông Viên Liễu Phàm là những nhân vật
nổi tiếng nhất. Sư tịch diệt năm Vạn
Lịch thứ ba (1575), được dựng tháp bên chùa
Thê Chân. Đến năm Vạn Lịch 45 (1617), ngài Hám
Sơn đến lễ tháp, thấy tháp viện vắng lặng,
chỉ có một vị Tăng chăm nom hương
đèn. Nhân đó, bèn giao cho cư sĩ Trầm Định
Phàm tu bổ cho trang nghiêm và lập ruộng Trường
Sanh để làm kế sách lâu dài. Đến nay đă
hơn ba trăm năm, hiện thời tuy nền móng vẫn
c̣n, nhưng tường vách, nhà cửa không c̣n, khiến cho
di tích của cổ đức không ai biết đến nữa.
Gần đây, thế đạo nhân tâm ngày càng đi xuống,
tà kiến lẫy lừng, chánh pháp suy vi. Nếu chẳng
nêu bày gương mẫu tốt lành của cổ đức,
làm sao chấn hưng Tông phong, khiến cho tà ma, ngoại
đạo quy hàng cho được?
Cư
sĩ Đồ Ban Âm ở Gia Hưng lo lắng, toan dựng
lại tháp viện, in khắc, lưu truyền những
chuyện hạnh - đức của Ngài, ngơ hầu hết
thảy mọi người xuất gia, tại gia đều
biết gương thơm của cổ đức. Từ
đấy, văn hồi được quyền tạo hóa: “Mạng do ta lập”, đoạn
trừ phiền năo chướng, “Phật từ tâm hiện”, kế thừa
được chí của các vị Hám Sơn, Liễu Phàm, an
ủi ḷng Vân Cốc thiền sư. Nhưng do công tŕnh rộng
lớn sức một người khó thành, chẳng thể
không cầu các vị đại đàn-việt giúp đỡ.
Nếu như ai nấy đều có thể nương
theo lời dạy “mạng do
ta lập, phước do chính ta cầu” của Vân Cốc
Thiền Sư, dốc sức thực hiện th́ ngũ
phước, tam đa đều nườm nượp
trên thân, thiên tai nhân họa tuyệt chẳng nghe trong đời.
Công huân khôn lường, lợi ích chẳng thể nêu
được. Mong sao chẳng đến nỗi v́ tiếc
tài sản là của cải chung của năm nhà mà chẳng
làm việc phước tam sinh hữu hạnh này. Do vậy
trần thuật duyên do, mong mọi người cùng tán trợ
vậy!
54. Lời tựa tái bản bộ Tây
Phương Công Cứ[21]
Pháp môn Tịnh Độ chính là
pháp môn đặc biệt để phổ độ chúng
sanh của Như Lai. Đức Như Lai nghĩ
thương chúng sanh nên thị hiện thành Chánh Giác, thuận
theo mọi căn cơ, khéo léo khuyên dụ dần dần.
Với hàng đại căn bèn dạy ngộ “nhất tâm tạo trọn mọi
thứ”, đoạn Hoặc chứng chân, dùng đó
để tiến thẳng vào Bồ Đề. Với hàng
tiểu khí th́ dạy hiểu rơ nhân quả ba đời,
hướng lành, tránh dữ để làm phương tiện
nhập đạo. Tuy Đại - Tiểu bất đồng,
Quyền - Thật khác biệt, nhưng đều phải
đoạn được hai thứ Kiến Hoặc và
Tư Hoặc mới có thể thoát khỏi phần đoạn
sanh tử. Nếu Hoặc nghiệp chưa hết, đạo
quả chưa thành, dẫu có tu tŕ vẫn chẳng thể
tự làm chủ được! Ở trong sanh tử
đă lâu, người tấn đạo th́ ít, kẻ lui sụt
th́ nhiều là v́ đạo chẳng thắng nổi tập
khí, nghiệp ràng buộc tâm. Ví như chén bát chưa nung, gặp
mưa liền ră. Tuy có công từ trước vẫn hoàn
toàn chẳng được lợi ích ǵ. Do lẽ đó, Phật
bèn đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho dù phàm hay
thánh, dù trí hay ngu đều dùng ḷng tin sâu, nguyện thiết
tha, tŕ danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Đây chính là dùng tín nguyện của
chính ḿnh để cảm Phật từ bi, cảm ứng
đạo giao ắt được nhiếp thọ. Đến
khi lâm chung được theo Phật văng sanh. Đă văng sanh
là đă đoạn Hoặc, mau chứng Vô Sanh. Người
có đủ nghiệp chướng buộc ràng cũng dự
vào địa vị Bất Thoái. Từ đấy thân cận
Di Đà, dự vào hải chúng, được un đúc,
dưỡng dục, giáo hóa, nhiễm mùi hương mầu
nhiệm của Như Lai, chướng hết, trí trọn,
khôi phục Phật tánh sẵn có. Nâng đỡ căn
cơ kém cỏi, khéo dụ sơ tâm, chỉ có ḿnh pháp môn
này thật là bậc nhất. Ân Như Lai rộng lớn
châu đáo, dẫu thiên địa, cha mẹ cũng không thể
sánh ví được muôn một!
Người xưa muốn cho
đồng nhân ai nấy đều tu Tịnh nghiệp; do
vậy bèn tập hợp kinh, chú, những bài văn, lời
nói và những sự ứng nghiệm tạo thành một cuốn
sách, đặt tên là Tây Phương Công Cứ. Công Cứ
có nghĩa là cái chuôi (cốt lơi) và bằng khoán vậy. Nếu
có thể thọ tŕ A Di Đà Kinh sẽ biết thế giới
Cực Lạc chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng
những điều vui, y báo, chánh báo trang nghiêm, đủ mọi
công đức; A Di Đà Phật hiện đang thuyết
pháp, thọ mạng, quang minh vô lượng, thệ nguyện
rộng sâu; các thượng thiện nhân cùng ở chung một
chỗ, đều do tu diệu hạnh “nhiều phước
đức nhân duyên” tín nguyện niệm Phật mà
được sanh. [Biết vậy rồi] ai mà không thật
sự v́ sanh tử, phát tâm Bồ Đề, dùng ḷng tín nguyện
sâu xa, thiết tha để mong gần là được
đạt lên địa vị Bất Thoái, xa là viên thành Phật
đạo? Huống chi chư Phật sáu phương lợi
ích khắp các chúng sanh, Bổn Sư Thích Ca đắc vô
thượng đạo, không vị nào chẳng khởi
đầu từ pháp này mà rốt cuộc cũng quy về
pháp này đó ư?
Ấy
là v́ hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, tâm
này làm Phật, tâm này là Phật, do lấy Quả Địa
Giác làm Nhân Địa Tâm, cho nên nhân bao trùm biển quả,
quả tột nguồn nhân. Pháp môn mầu nhiệm, không c̣n
ǵ mầu nhiệm hơn được nữa, là chỗ
quy tông cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Quả thật pháp
này đă diễn giảng trọn vẹn thông suốt bổn
hoài của Như Lai. Có duyên gặp được th́ chính
là nhiều thiện căn, phước đức, nhân
duyên. Nhằm ngăn ngừa nghi ngờ, lui sụt, nên c̣n gộp
cả vào sách những đồ thuyết[22] ứng
nghiệm. Ông Từ Triệu Hành xưa có linh căn, đau
xót song thân mất sớm, mong họ cùng lên chín phẩm sen;
do vậy, phát tâm tái bản để rộng lưu truyền.
Ngơ hầu cha mẹ trong đời này cũng như kẻ
oán người thân nhiều kiếp, khắp cả pháp giới
chúng sanh cùng vào biển nguyện của Phật Di Đà.
Tôi mến ḷng hiếu thuận của ông ta, bèn thuật những
nét chánh. Nếu người đọc không cho lời tôi là
sai, ắt sẽ có ngày tự chứng đại sự
nhân duyên rất sâu vô thượng này vậy, c̣n mong mỏi
ǵ hơn!
55. Lời tựa cho Hồng Kiều Tịnh
Độ Đường ở Lạc Thanh[23]
Pháp môn Tịnh Độ chính là
pháp môn phổ độ chúng sanh, viên đốn, thẳng tắt,
rộng lớn, giản dị nhất của Như Lai. V́
sao nói vậy? Do trong hết thảy pháp môn đều phải
đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc mới ḥng liễu
thoát sanh tử. Nhưng đoạn Kiến Hoặc giống
như cắt ngang ḍng nước rộng bốn
mươi dặm, huống chi Tư Hoặc? Đoạn
Kiến Hoặc liền chứng Sơ Quả. Nếu
ước theo Viên Giáo th́ là bậc Sơ Tín. Đoạn sạch
Tư Hoặc liền chứng Tứ Quả, tức là Thất
Tín trong Viên Giáo. Sơ Quả Sơ Tín vẫn c̣n sanh tử,
Tứ Quả Thất Tín mới liễu thoát được.
Nhưng Thiên Thai Trí Giả đại sư thị hiện
thuộc vào địa vị Ngũ Phẩm. Tuy sở ngộ
đă bằng với chư Phật, khuất phục trọn
vẹn Ngũ Trụ phiền năo[24],
nhưng Kiến Hoặc vẫn chưa hề đoạn
được. Thế nhưng Bổn Địa của
đại sư thật sự chẳng thể suy lường,
lâm chung chỉ nói ḿnh chứng Ngũ Phẩm [là v́] Ngài lo
sâu xa cho đời Mạt chẳng dốc sức đoạn
Hoặc chứng chân, chỉ lấy minh tâm kiến tánh làm
chuyện rốt ráo. Minh tâm kiến tánh chính là đại
triệt đại ngộ. Nếu là bậc tối thượng
thượng căn th́ hễ ngộ bèn chứng, nên liền
giải quyết xong. Nếu không, dẫu biết được
chuyện vị lai như sư Viên Trạch vẫn chẳng
tránh khỏi bị thọ sanh lần nữa. Như Ngũ
Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo
Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, [tuy thế] vẫn
chưa phải là quá tệ. Như sư Hải Ấn Tín
trở thành con gái ông Châu Pḥng Ngự, kể ra đă khó chịu
đựng nổi. Ông Tăng núi Nhạn Đăng trở
thành Tần Cối th́ thật đáng thương xót quá sức!
Tự
lực đoạn Hoặc chứng chân liễu sanh thoát tử
khó khăn quá lắm! Những giáo lư tu chứng thông thường
đức Như Lai đă nói trong cả một đời
tuy là nhiều thứ pháp môn khác nhau, nhưng chẳng hề
có chuyện c̣n đầy đủ Hoặc nghiệp lại
có thể liễu sanh thoát tử! Chỉ có ḿnh pháp môn Tịnh
Độ, hễ có đủ ḷng tin chân thành, nguyện thiết
tha, dùng tâm chí thành tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
Phương, bất luận Hoặc nghiệp dầy - mỏng,
công phu cạn - sâu, đều trong lúc lâm chung nhờ vào Phật
từ lực đới nghiệp văng sanh. Đă được
văng sanh là đă siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử.
Từ đấy, dần dần tấn tu, liền tự
chứng được Vô Sanh cho đến viên măn Phật
Quả.
Đây
chính là pháp môn đặc biệt do Như Lai thương
xót chúng sanh căn cơ kém hèn làm cho họ đều
được ngay trong đời này nhanh chóng thoát luân hồi.
Phải biết pháp môn Tịnh Độ thật ra để
thâu nhiếp người căn cơ thượng thượng!
V́ thế, Thiện Tài đă chứng Đẳng Giác, Phổ
Hiền Bồ Tát c̣n dạy dùng mười đại nguyện
vương hồi hướng văng sanh ngơ hầu viên măn Phật
quả. Lại c̣n đem điều ấy khuyên khắp
Hoa Tạng hải chúng. Do vậy, biết rằng: “Một pháp hồi hướng
văng sanh Tịnh Độ chính là bước cuối cùng
để viên măn Phật quả!”
Đời
có kẻ cuồng chẳng xét kỹ giáo lư, thấy ngu phu
ngu phụ đều có thể tu tŕ pháp này, bèn miệt thị
là pháp Tiểu Thừa. Chẳng biết đây chính là pháp
môn bậc nhất “thành thủy
thành chung, một đời thành Phật” của kinh Hoa
Nghiêm. Cũng có kẻ ngu tri kiến hẹp ḥi, cho rằng
công phu của chính ḿnh cạn mỏng, nghiệp lực sâu
dầy, làm sao văng sanh cho được? Chẳng biết
tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh chư Phật không hai.
Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp đọa địa ngục,
gặp thiện tri thức dạy cho niệm Phật hoặc
đủ mười tiếng hoặc chỉ mấy tiếng
rồi liền lâm chung c̣n được văng sanh. Quán kinh
nói thế, cớ sao không tin? Bọn họ c̣n văng sanh, huống
chi chúng ta dẫu có tội nghiệp, nhưng c̣n có chút công
phu, so với phường Ngũ Nghịch, Thập Ác niệm
mười tiếng hay mấy tiếng kia, đương
nhiên c̣n cao hơn rất nhiều, cớ sao lại tự
khinh, tự bỏ, đến nỗi đánh mất lợi
ích vô thượng này!
Như
Lai gọi pháp môn Tịnh Độ này là “pháp khó tin” bởi lẽ pháp này hạ thủ dễ
dàng nhưng thành công cao, dùng sức ít nhưng được
hiệu quả nhanh chóng, viên đốn, thẳng tắt, rộng
lớn, giản dị hơn hẳn những giáo lư thông
thường trong cả một đời đức Phật
giáo hóa. Nếu chẳng phải xưa đă có thiện
căn, quyết khó thể tin nhận phụng hành. Tôi
thường nói: “Chín pháp giới
chúng sanh ĺa môn này th́ trên chẳng thể viên thành Phật
đạo, mười phương chư Phật bỏ
pháp này th́ dưới chẳng thể lợi khắp quần
manh”, đấy chính là sự thật vậy! Nay đang
là lúc nào? Chính là thời đao binh, đói kém, tật dịch
đều nhóm họp, tuy chưa đến nỗi là ba tiểu
tai[25],
nhưng cũng đă là hiện tượng của ba tiểu
tai vậy! Huống chi tà thuyết tung hoành, tri thức hiếm
hoi, muốn nghe chánh pháp thật chẳng dễ ǵ! Có cư
sĩ Hồ Thiên Bộc phát Bồ Đề tâm, dốc
ḷng tu Tịnh nghiệp, lại muốn cho đồng nhân
ai nấy đều được lợi ích, bèn cực lực
đề xướng, khuyên dạy. Đúng là lấy chuyện
“giúp cho sự sanh trưởng của trời đất,
thay Phật hoằng dương, giáo hóa” làm thiên chức!
Người một phương nghe ông thuyết pháp, cảm
thời thế này, khôn ngăn cái tâm chán ĺa, ưa thích[26]
tràn trề nẩy sanh. Một người xướng, mọi
người ḥa, không đâu chẳng phục tùng. Do vậy,
cư sĩ tự bỏ ra đất đai và quyên mộ
thiện tín, lập Niệm Phật Đường,
đào ao phóng sanh và lầu Tàng Kinh, Công Đức Đường,
Hương Tích Trù (tức nhà bếp), Ứng Cúng Đường
(trai đường), nghiễm nhiên từ mặt đất
vọt lên một đại đạo tràng.
Niệm
Phật Đường thật rộng lớn, trong ấy
thờ tượng đứng của Tây Phương Tam
Thánh ngơ hầu hành nhân thường ngắm nh́n, lâm chung liền
được tiếp dẫn. Ngay chính giữa lập ṭa
thuyết pháp, người nghe ngồi chung quanh. Dù đông
đến ngàn người cũng chẳng chật chội,
ngơ hầu người từ bốn phương tới
cũng chẳng đến nỗi than thở v́ chen chúc. Lầu
Tàng Kinh thỉnh đủ kinh khắc từ các nơi cho
những người phát tâm thọ tŕ, nghiên cứu. Công
Đức Đường th́ ghi đủ những số
mục công đức của những người đă
đóng góp. Lại c̣n lập đầy đủ các bài vị
để người c̣n tăng phước tăng thọ,
kẻ mất lên thẳng Liên Bang. Nhưng nếu đă chuyển
pháp luân, không giúp thực luân (ăn uống) th́ quyết khó
thể ở lâu chẳng về. Do vậy, lập riêng
Hương Tích Trù, Ứng Cúng Đường khiến cho
người niệm Phật nghe pháp ai nấy đều
được thỏa ḷng vừa ư mới thôi. Ao Phóng Sanh ở
trước pháp đường dành để nuôi những
con vật suưt bị nấu nướng, chẳng những
nuôi sống sắc thân chúng, lại c̣n dùng tiếng kinh, Phật
hiệu giúp cho huệ mạng của chúng. Những công
tŕnh xây dựng đều hết sức châu đáo. Ước
tính tốn hơn một vạn sáu ngàn đồng, nay
đă lạc thành, tính khai giảng vào ngày Rằm tháng Tám Âm
lịch này, quả là chuyện hiếm thấy trong đời
Mạt Pháp.
Lại
nhờ bạn ông ta là Trương Vân Lôi gởi thư cho Quang,
xin viết lời tựa dẫn giải ḥng khởi phát, mở
rộng tín tâm. Nhân đó, tôi bèn đem nguyên do đức
Như Lai nói ra hai thứ pháp môn thông thường và đặc
biệt, cũng như tâm hạnh của Hồ cư
sĩ và cách thức sắp đặt, tŕnh bày đại
khái, ngơ hầu người đọc đều bắt
chước theo. Nếu người thấy nghe đều
cùng phát tâm này th́ phong tục thuần mỹ, dân mạnh, vật
mạnh, chuyển ngũ trược ác thế thành Liên Bang
thanh tịnh. Đấy chính là điều Quang tôi thường
thơm thảo cầu đảo vậy. Nguyện các
thượng thiện nhân ai nấy rủ ḷng thương
xót th́ may mắn lắm thay!
56. Lời tựa sách A Di Đà Kinh Trực
Giải
Một niệm tâm tánh của
chúng ta quả thật chẳng hai, chẳng khác với Phật
Thích Ca, Phật Di Đà; nhưng Phật Thích Ca, Phật Di
Đà đă thành Phật đạo từ trần điểm
kiếp trước, lại c̣n bao lần thị hiện
giáng sanh, bao lần thị hiện nhập diệt để
thực hiện sự giáo hóa. Phật muốn làm cho chúng ta
noi theo dấu thơm, nhưng chúng ta không có sức đoạn
trừ phiền năo Hoặc nghiệp, măi cho đến ngày
nay vẫn trong sanh tử luân hồi thoạt ch́m thoạt nổi,
chẳng biết làm thế nào để ngưng dứt. Dẫu
bao kiếp trước từng nghe Phật pháp, y giáo tu
hành, nhưng do tự lực hèn yếu chẳng thể
đoạn Hoặc, nên vẫn cứ đắm ch́m trong biển
khổ sanh tử y như cũ không thể thoát được!
Im lặng suy nghĩ, há chẳng hổ thẹn ư?
Phật
Thích Ca, Phật Di Đà xét thấu lẽ ấy, đặc
biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật, dạy
nương vào Phật từ lực vượt ngang ra khỏi
tam giới khiến cho thượng trung hạ căn cùng
được văng sanh Tây Phương, có thể nói thật
là đại từ bi đến cùng cực không chi hơn
được nữa! Nhân duyên khởi lên giáo pháp, pháp tắc
tu tŕ được thấy trọn vẹn trong Tịnh
Độ Tam Kinh, nhưng kinh A Di Đà ngôn từ giản dị,
nghĩa lư trọn vẹn, dễ dàng thọ tŕ. Do vậy,
cổ nhân xếp vào kinh nhật tụng, muốn cho nhà nhà
được khuyến hóa, thấu hiểu, đều
được tắm gội pháp trạch! Bởi thế,
các thiện tri thức thảy đều chú thích, khác nào mặt
trời, mặt trăng giữa trời nên không nghĩa nào
chẳng hiển hiện, không căn cơ nào chẳng
được thâu nhiếp. Nhưng hàng sơ cơ đối
với văn sâu nghĩa thẳm khó thể lănh hội, cho
nên cư sĩ Vương Hiển Giang đặc biệt
tạo phương tiện, đem những điều
sách Yếu Giải đă chú sớ diễn giải lại bằng
ngôn ngữ thông thường, dễ hiểu, đặt tên
là Trực Giải, kèm thêm những nghi vấn về Tịnh
Độ. Cái tâm tự lập, lập người, tự
lợi, lợi tha ấy có thể nói thật là thiết
tha. Hiển Ấm pháp sư viết lời tựa, muốn
cho hết thảy đồng nhân ai nấy đều sanh
ḷng tin chân thật, chất phác niệm Phật, bèn sai Quang
viết thêm lời tựa khác, nên tôi bèn tŕnh bày chuyện
này cùng người đọc.
57. Lời tựa sách Thập Tam Kinh Độc
Bản
Trời
đất dùng hai khí Âm - Dương để hóa sanh vạn
vật. Thánh nhân dùng “thành minh nhất trí” để giáo dục
quần manh. Ấy là Đạo vậy! Theo chiều ngang
truyền khắp muôn nước, theo chiều dọc
lưu truyền muôn đời. Những người hiểu
biết đều tuân hành, không ai biết suy nghĩ chẳng
phục. Dẫu thánh nhân sống lại cũng chẳng thể
lập pháp nào khác. Cũng chẳng qua là phát huy đạo Thành
Minh cho được phô bày trọn vẹn triệt để,
giăi bày hết cả ra mà thôi! Thập Tam Kinh là đại
kinh, đại pháp “cách vật trí tri, thành ư chánh tâm, tu - tề
- trị - b́nh” được nhị đế, tam
vương[27], Châu
Công, Khổng Tử, Mạnh Tử tiếp nối ngôi trời
lập ra để giáo hóa muôn đời. Nó chính là lư tột
cùng thiên địa không riêng tư, là lương tri sẵn
có của chúng ta. Thoạt đầu chẳng có ǵ đặc
biệt, lạ lùng, huyền diệu, chẳng thể đạt
đến được, dẫu là kẻ ngu phu ngu phụ
cũng vẫn có thể thực hiện được. Bởi
lẽ, con người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một
lư này. Nghiêu - Thuấn cũng như mọi người, mà
ai nấy cũng đều có thể trở thành Nghiêu - Thuấn.
Nếu tuân hành theo th́ ai nấy đều thành thánh, thế
giới đại đồng.
Thế
đạo suy sụp, nhân tâm tệ bạc là do Nho gia chẳng
biết đạo nằm ở chỗ tận tụy thực
hành, một mực chạy theo cái ngọn, nhất loạt
gác lại chuyện “khắc kỷ, giữ lễ, dứt
ḷng tà, giữ ḷng thành” không bàn đến nữa, chỉ lo
học thuộc từ chương, ḥng làm cái vốn tiến
thủ, xử thế. Do vậy, biến cái đạo giúp
cho quyền sanh thành, giáo hóa của thánh nhân trở thành một
nghề khéo ḥng thâu danh đoạt lợi. Đúng là vu hăm,
khinh miệt thánh nhân, trái nghịch thiên địa đến
cùng cực vậy! Do thế, người đọc sách
tâm chẳng hiểu nghĩa sách, thân chẳng hành theo đạo
sách đă dạy. Khi làm văn bèn phát huy đạo hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ chẳng sót
mảy may nào, nhưng xét đến chỗ suy nghĩ, xử
sự, hoàn toàn chẳng có những khí phận ấy! Khác ǵ
kép hát diễn tuồng, khổ - sướng, buồn - vui
diễn cho thật giống, thật ra chẳng mảy may
ǵ liên can đến chính hắn. Mối tệ ấy một
khi khởi lên dần dần ngày càng trở thành quá đáng.
Do vậy, những kẻ có thiên tư quen thói cuồng vọng,
xấu hổ phải noi theo dấu của Nghiêu, Thuấn,
Châu, Khổng, cứ muốn vượt lên, rốt cuộc
thành ra vứt bỏ thánh kinh, đua nhau soạn sách mới.
Tà thuyết vừa dấy, [đại chúng] đua nhau phụ
họa, đến nỗi những kẻ tiểu nhân xấu
hèn muốn phô phang cái tâm cướp đoạt, gian dâm của
chính ḿnh, bèn vội vă đề xướng và thực hiện
thuyết chung vợ, chung tài sản; chỉ sợ dân chúng
chẳng giống với loài cầm thú, sợ cương
thường luân lư gây trở ngại cho chính ḿnh, đến
nỗi thiên tai nhân họa liên tục giáng xuống, vận
nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Ví như
đi đêm vứt đuốc, đi biển bỏ thuyền,
muốn chẳng sa xẩy, ch́m đắm, há có được
chăng?
Ông
Thi Triệu Tăng sợ đạo này diệt mất bèn
cùng với hai ba người cùng chí hướng lập ra
Quốc Học Chuyên Tu Quán, tụ tập những người
có chí nơi đạo này để chuyên tinh nghiên cứu,
đích thân tận lực thực hành, mong lưu truyền
rộng những điều sở đắc. Ông
Đường Văn Trị hơn mười năm qua
tinh thông đạo này, sưu tập những bản Thập
Tam Kinh hay nhất, chọn lấy những bản chú giải
giản dị, xác đáng, gộp thành một tập; lại
đối với mỗi một kinh chọn ra mấy câu
ḥng nêu được ư nghĩa chính, ghép vào cuối kinh. Dụng
tâm có thể nói là hết sức tha thiết. Ông Thi bèn cho khắc
in để lưu truyền trong các trường học,
ngơ hầu ai nấy đọc tụng, tập tành theo. Khắc
xong, chính ông ta và ông Đường đều viết lời
tựa, thuật rơ duyên do. Lại nhờ tôi viết lời
tựa. Tôi nghĩ Thập Tam Kinh lưu truyền trong đời
như mặt trời, mặt trăng sáng vằng vặc
giữa trời, ai có mắt đều thấy; cần ǵ
đợi ông Tăng tầm thường chỉ biết
cơm cháo này chỉ bày nữa ư? Tuy đạo cố
nhiên không hai, nhưng người nhân kẻ trí thấy khác,
nên chẳng ngại đem sở kiến của ḿnh thuật
cùng người nhân, kẻ trí, chưa chắc chẳng giúp
ǵ được cho việc thấu hiểu kinh, mong thành
thánh vậy.
Trộm
nghĩ: Đạo được phát minh bởi Thập
Tam Kinh chính là đạo “cách vật trí tri, thành ư, chánh tâm,
tu - tề - trị - b́nh”, nhưng xiển phát yếu chỉ
“cách vật trí tri, thành ư chánh tâm, tu - tề - trị - b́nh”
chỉ có sách Đại Học là nói lớp lang, tŕnh bày tột
cùng. Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử đều phát
huy nghĩa này, nhưng chẳng nói tuần tự theo thứ
lớp. Do vậy, biết Tứ Thư chính là chú sớ của
kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, Châu Lễ, Lễ Nghi, Lễ
Kư để đạo ấy được sáng tỏ lớn
lao. Hiếu Kinh thúc đẩy cho việc thực hành đạo
ấy được hữu hiệu. Ba truyện Xuân Thu[28]
chính là những chứng nghiệm của chuyện tuân thủ,
trái nghịch, được - mất vậy. Do đó, bổn
tâm của chúng ta, đạo tân truyền của chư
thánh đều được sáng tỏ. Dùng đó để
kế tục cổ thánh, mở lối cho hậu học.
Công ấy bằng với công trời che đất chở.
Những kẻ bỏ kinh khác ǵ muốn vứt bỏ trời
che đất chở để tự lập ư? Những
kẻ ấy chẳng biết sự vụ quá đáng! Hướng
theo đó mà cầu th́ mọi chuyện mong thành thánh thành hiền,
đạo trị quốc tân dân không điều ǵ chẳng
rơ ràng như từng đường chỉ trong bàn tay.
Không mong thành thánh thành hiền th́ thôi, chứ nếu muốn
thành thánh thành hiền th́ đạo thánh hiền tự sẵn
đủ nơi thân và tâm chúng ta. Những giải thích từ
sách Nhĩ Nhă[29] chính
là chú thích chung cho các kinh, ngơ hầu dù văn hay nghĩa
đều được hiểu rơ. Như vậy, Nhĩ
Nhă là giải nghĩa ở mức độ ban đầu,
c̣n Tứ Thư là pháp môn tổng tŕ thành thủy thành chung.
Bàn
đến ư nghĩa trọng yếu ở một mức
độ cao hơn th́ Minh Đức là gốc, c̣n làm sáng tỏ
Minh Đức lại chính là mấu chốt để từ
phàm tiến lên thánh, để con người hợp với
trời. “Làm sáng tỏ được Minh Đức”
(minh Minh Đức) th́ trong là thánh đạo, ngoài là
vương đạo đều được trọn vẹn
vậy. Nhưng muốn làm sáng tỏ Minh Đức th́ phải
trừ khử “món vật” nhân dục cho hết sạch
không c̣n sót ǵ khiến cho Chân Tri sẵn có ngay trong tâm
được triệt để phơi bày trọn vẹn.
Bổn phận của người đọc sách chỉ nằm
trong mấy điều ít ỏi này mà thôi. C̣n ǵ thẳng tắt,
c̣n ǵ dễ dàng hơn? Mới biết ai cũng có thể
là Nghiêu - Thuấn, ngu phu ngu phụ cũng có thể biết
được, làm được. Đấy chính là chân ngữ,
thật ngữ; do con người có cùng một tâm này, tâm
cùng một lư này. Muốn cho thế đạo nhân tâm chuyển
từ loạn thành yên, biến ác nghiệt thành thuần ḥa,
mà bỏ điều này th́ không c̣n cách ǵ nữa! Không biết
ông Thi, ông Đường có cho lời tôi luận là đúng
hay không? Nhưng những điều này là luận trên pháp
thế gian, chớ lầm tưởng là luận về
pháp xuất thế gian. Tha thiết dặn ḍ vậy!
58. Lời tựa dùng phẩm Đoạn Thực
Nhục (dứt ăn thịt) của kinh Lăng Già để
răn thần đừng hưởng đồ cúng mặn
(viết thay cho cư
sĩ Lư Trí Duệ ở huyện Y tỉnh An Huy)
Kính cẩn dựa theo lời Phật:
Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, do nhân
duyên tội phước mà luân hồi sáu nẻo. Nếu chẳng
tận lực tu Giới - Định - Huệ để
mong đoạn sạch tham - sân - si và sanh tín phát nguyện
niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới th́ không cách nào thoát ly được.
Đây chính là v́ ta cùng hết thảy chúng sanh sống trên
không, dưới nước, trong sáu nẻo từ vô thỉ
đến nay không ai chẳng xoay vần làm cha mẹ, anh
em, thê thiếp, con cái, bạn bè, thân thích, không một ai
trong vị lai chẳng được nghe Phật pháp tu Giới
- Định - Huệ, đoạn sạch phiền hoặc,
viên thành Phật đạo. Do vậy, Như Lai truyền dạy
các đệ tử kiêng giết, phóng sanh, chớ ăn các
loại thịt. Nhưng t́nh ư mê muội của thế tục
thường cho rằng cúng đồ mặn mới là cung
kính, chẳng biết cả ḿnh lẫn người đều
gieo nhân ác đến nỗi tương lai phải chịu
ác báo.
Nay
ta đă biết tội lỗi của việc ăn thịt
há nỡ để người trong cùng một làng vẫn
chấp vào t́nh kiến mê muội ấy, để nhân duyên
tội nghiệp ăn thịt làm lụy đến vị
tôn thần ư? Lại sợ tôn thần chưa hiểu
thấu duyên do mà sanh sân nộ, giáng xuống tai họa khiến
người trong làng mê muội càng nặng, khiến cho ác
báo trong tương lai của người trong làng và tôn thần
càng thêm sâu, thêm lớn, chẳng dễ ǵ tiêu diệt
được! Do vậy, riêng lấy phẩm Đoạn
Thực Nhục từ kinh Nhập Lăng Già[30] của
đức Phật đă nói cung kính thiêu trước ḷ
hương của thần, ngơ hầu trên hiểu thấu
ḷng từ của Phật, dưới thương xót tấm
ngu thành, yêu tiếc mạng loài vật, chẳng hưởng
của cúng tế bằng thịt. Phàm những khi cúng chay
bèn ban cho may mắn. Nếu dùng đồ mặn bèn hiện
ra họa ương, khiến cho người trong làng cùng cảm
nhận đức thông minh, chánh trực, hiếu sanh, ghét
giết chóc của tôn thần, khiến cho gió Từ thổi
khắp, ḥng bồi đắp gốc đạo Bồ
Đề, văn hồi kiếp vận, cùng vui thái b́nh vô sự.
Kính mong thần hăy sáng soi th́ người trong làng may mắn
lắm, vận nước may mắn lắm!
59. Lời tựa cho Đồng Giới Lục
của chùa Phổ Chiếu ở Dương Châu
Như Lai đại pháp ứng
khắp chín giới, thượng thánh hạ phàm đều
được un đúc. Tuy pháp môn vô lượng chẳng
dễ nói trọn, nhưng nêu đại cương chung
th́ chỉ có Giới - Định - Huệ. Ấy chính là chỗ
trọng yếu để nhập đạo. Thoạt
đầu th́ dùng Giới để giữ thân, kế
đến dùng Định để lắng tịnh ư niệm,
rồi dùng Huệ để phá Hoặc. Do vậy, đoạn
được Ngũ Trụ Phiền Hoặc, chứng
được bí tạng tam đức. V́ thế, kinh
Lăng Nghiêm dạy: “Nhiếp
tâm là Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định
phát Huệ”. Đây gọi là Tam Vô Lậu Học. Ba pháp
này như ba chân của cái đỉnh, nếu khuyết một
th́ khó thể đứng vững. Tuy nói có ba nhưng tu th́
chỉ một tâm. Bởi lẽ Giới không có Định
- Huệ th́ chẳng phải là Giới xuất thế;
Định không có Giới - Huệ th́ chẳng phải là
Định xuất thế. Huệ không có Giới - Định
chẳng phải là Huệ xuất thế. Do vậy biết
ba pháp ấy vốn là một pháp. Nói có ba là do chú trọng
hoằng dương nơi mặt nào mà đặt tên,
cũng như do nơi tu chứng đạt được
ích lợi mà phán định ư nghĩa. Kinh Phạm Vơng dạy:
“Ta là Phật đă thành, các ông
là Phật chưa thành. Thường nên tin như thế th́
Giới Phẩm đă trọn đủ”. Lại dạy:
“Chúng sanh nhận lănh giới của
Phật liền nhập vào địa vị chư Phật,
địa vị bằng với Đại Giác, thật sự
là con chư Phật vậy”. Đủ thấy Giới
thống nhiếp các pháp. Do đó, tri thức hoằng
dương, người học tu tŕ, không ai chẳng lấy
Giới làm nhiệm vụ trước tiên.
Phổ
Chiếu Tự do Đạo Thanh lăo nhân sáng lập. Lăo nhân
thị hiện sanh tại Tứ Xuyên, tuổi mới
nhược quan (20 tuổi) liền chán trần lao, bèn
đến xuất gia tại Hoa Nghiêm Đảnh ở Nga
Mi Sơn, được thọ giới rồi tận lực
tham cứu đến cùng để thấu tỏ tâm yếu,
muốn tham học các nơi để mở rộng tâm
địa, khi đi qua Dương Châu được thân
sĩ làng Vĩnh Trấn ngoài cửa Từ Ngưng biết
đến, thỉnh Sư trụ tŕ tại tiểu miếu
Thái Dương Cung nơi ấy. Lăo nhân xét thấy chỗ ấy
có thể lập đạo tràng, do vốn có túc duyên, nên bèn
chấp nhận. Vào năm đầu đời Quang Tự
(1875) nhà Thanh trước kia bèn quyên mộ khắp mười
phương mở mang nền móng, điện Phật, lầu
kinh chót vót tận mây. Phàm những ǵ tùng lâm nên có, việc tu
hành cần phải có th́ không ǵ chẳng đầy đủ.
Từ đấy mùa Đông tọa Thiền, mùa Hạ giảng
pháp, rộng mở cửa cứu độ. Thiện
sĩ, đạt nhân thảy đều y chỉ. Đến
năm Quang Tự 22 (1896), lên kinh đô thỉnh kinh,
được vua chấp thuận sắc tứ biển
ngạch “Phổ Chiếu Thiền Tự”. Quả thật
không c̣n ǵ may mắn hơn. Liền vào mùa Đông năm ấy,
khai đàn truyền giới để báo ân nước, cầu
phước cho dân. Cho đến năm Dân Quốc thứ
năm (1916), đă mở giới đàn năm lần, ba lần
mở trường giảng, luôn luôn tu tŕ. Tuy Thiền - Tịnh
cùng hành, nhưng chú trọng nơi Tịnh Độ. Đến
năm Dân Quốc thứ 8 (1919), Sư tuổi đă tám
mươi tư, bèn thị hiện viên tịch trở về
Cực Lạc, cùng với hải hội thánh chúng thân cận
Di Đà để chứng vô lượng quang thọ;
đệ tử thế độ đắc pháp rất
nhiều.
V́
Sư có vị cao túc[31] tên
là Đạo Hương, thân thiết và thuận thảo với
Quang, muốn vào mùa Đông này đưa Ngài ra khỏi khám[32] dựng
tháp thờ, vào ngày Rằm tháng Chín bèn mở đàn truyền
giới đến ngày mồng Tám Đông nguyệt (tháng Chạp)
là viên măn để báo ân Phật, tạo phước ngầm
cho thầy, sai Quang viết lời tựa. Quang nghĩ Phật
giáo lấy Hiếu làm gốc; cho nên, kinh Phạm Vơng dạy:
“Hiếu gọi là Giới,
cũng gọi là chế chỉ (ngăn dứt), hiếu
thuận là pháp đạo tột cùng. Y giáo phụng hành mới
gọi là Hiếu”. Y giáo phụng hành th́ những ǵ Phật
đạt được chính ta sẽ đạt
được, từ phiền năo sẽ thành Bồ Đề,
ngay trong sanh tử chứng Niết Bàn, mới khỏi cô phụ
ân Phật giáo hóa, chẳng phụ bạc tánh linh của
chính ḿnh, là bậc trượng phu lỗi lạc, là con chân
thật của đức Như Lai. Nếu chẳng y giáo
phụng hành th́ dưới lớp ca-sa, đánh mất thân
người, nỗi khổ tam đồ ác đạo dẫu
hết cả kiếp vẫn chưa thể nói hết
được. Nguyện các Phật tử thọ giới
ai nấy đều gắng lên.
60. Lời tựa khắc lại bộ Thủy
Lục Nghi Quỹ
Ơn
Phật rộng lớn, trọn khắp, chẳng c̣n sót tí
ǵ. Thoạt mới thành Chánh Giác, bèn nói ra pháp Ngài đă chứng,
chỉ riêng hàng Pháp Thân đại sĩ mới có thể
lănh hội được; nhân, thiên, phàm phu, Tiểu Thừa
chẳng thấy, chẳng nghe. Do vậy, bèn từ Thật
bày ra Quyền, ẩn Đại dùng Tiểu, tùy thuận
cơ nghi, khéo léo khuyến dụ dần dần, đợi
đến khi đă đoạn Phiền Hoặc, đă chứng
Chân Đế, rồi mới quở trách mọi lẽ, nhiều
cách đào thải, khiến cho phát đại tâm cầu Phật
quả, chẳng trụ vào pháp mà tu vạn hạnh. Đến
khi căn cơ đă chín muồi bèn hội tam quy nhất,
khai Quyền hiển Thật, thọ kư thành Phật cho khắp
tất cả, diễn bày thông suốt lớn lao bổn
hoài xuất thế. Từ đấy, hiểu rơ hết thảy
các pháp đều là Phật pháp, hết thảy mọi
người đều là Phật tử, không c̣n ai cam ḷng
thoái khuất.
Lại
c̣n thương xót những kẻ tự lực kém hèn, hiện
tại quyết khó thể liễu thoát, liền đặc
biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ khiến cho họ
cậy vào Phật từ lực văng sanh Tây Phương. Có
những kẻ tội chướng sâu nặng, định
nghiệp chẳng dễ chuyển dời, bèn mở rộng
bí mật quán đạo khiến cho họ nương vào sức
Tam Mật[33] diệt
cho hết sạch không c̣n sót. Nhưng hai pháp này là đạo
để phàm lẫn thánh cùng tu, là pháp thành thủy thành
chung; do chúng rơ ràng thiên về hàng phàm phu bị nghiệp buộc
ràng khiến cho họ mau được lợi ích thù thắng
mà nói như vậy; chứ thật ra mười
phương tam thế chư Phật không vị nào chẳng
do pháp này mà viên thành Phật đạo, không vị nào chẳng
dùng pháp này để phổ độ quần manh.
Đến
khi pháp truyền sang Chấn Đán, Lương Vơ Đế
lên ngôi, thuật giấc mộng cùng cao tăng để phổ
độ các hàm linh; nhân đó, [chư Tăng] đọc
trọn Đại Tạng, soạn thành nghi quỹ này. Từ
đấy lưu thông cho đến ngày nay. Xét về nguồn
cội th́ dùng vô lượng oai đức đà-la-ni để
phát khởi. Xét trên mặt trước thuật và cách xếp
đặt th́ hết thảy các pháp trong cả một
đời giáo hóa không ǵ chẳng nêu trọn để
đọc tụng, tu tŕ. Do đó, pháp môn ấy rộng lớn,
lợi ích sâu rộng, không những làm cho lục đạo
phàm phu mau thoát khỏi nghiệp trói buộc mà c̣n làm cho tam
thừa thánh nhân mau chứng Bồ Đề.
Người
có thể hoằng đạo, ḷng thành kham phù hợp lẽ
chân! Nếu vị trai chủ thỉnh pháp và các sư tác
pháp ai nấy đều dốc kiệt ḷng thành, tận
ḷng kính th́ lợi ích không thể nào diễn tả
được. Ví như mùa Xuân về trên cơi đất, thảo
mộc đều được sanh thành; vầng trăng
sáng vằng vặc giữa trời, sông ng̣i mỗi đều
hiện bóng. V́ thế, đương nhân được
nghiệp tiêu trí rạng, chướng hết, phước
cao, tiên vong đều được sanh về Tịnh
Độ, sở cầu không ǵ chẳng toại ư, lại
khiến cho oán thân bao kiếp, hàm linh trong pháp giới đều
được tắm gội ân quang Tam Bảo, cùng kết
duyên chủng Bồ Đề. Nếu trai chủ chẳng
thành tâm th́ công đức bỏ tiền [làm pháp hội] hữu
hạn, tội lỗi khinh mạn pháp vô cùng. Tăng chúng chẳng
chí thành th́ thổi ống bễ, thổi sáo thành kinh, nhịp
chày giă gạo thành lễ[34].
Lúc Tam Bảo long thiên giáng lâm, làm chuyện lỗ măng, quấy
quá, tắc trách, làm sao núi tội không cao chót vót, biển
phước cạn khô, sống th́ mắc họa tai, chết
bị khổ sở[35]
cho được? Sách này là bản của Hàng Thản[36],
mờ mịt quá sức, chùa Thiên Đồng dù khắc
cũng khó được phổ cập. Do vậy, Tịch
Công chùa Vạn Thọ ở Duy Dương, Dũ Công chùa Bảo
Luân v.v… quyên tiền để khắc lại hầu
được lưu truyền rộng răi, sai Quang ghi lại
năm tháng. Do vậy, lược thuật nguyên ủy
cũng như điều lợi, mối tệ, để
người theo đuổi pháp này chỉ được lợi
ích, chẳng bị tổn hại, th́ Phật thánh hoan hỷ,
phước lẫn huệ cả hai cùng tăng trưởng.
Nguyện những người tu pháp này ai nấy đều
gắng lên.
61. Lời tựa quyên mộ tu bổ, xây dựng
ao phóng sanh chùa Đại Phật ở Tân Xương[37]
Nho th́ lấy “trung hậu, khoan thứ,
thương yêu người và vật như ruột thịt,
như chính ḿnh” làm trách nhiệm, ắt phải coi người
khác cho đến loài vật đều như chính bản
thân ḿnh th́ mới là người học đạo thật
sự. Họ Thích lấy từ bi tế độ làm trọng.
V́ vậy, thương xót các loài vật đều có Phật
tánh, muốn thực hiện sự cứu giúp. Hiềm rằng
người đời sát sanh ăn thịt đă thành thói
quen, chẳng biết như vậy là sai, đến nỗi
đời đời kiếp kiếp lần lượt
giết lẫn nhau trọn chẳng khi nào ngơi! Chẳng
đáng buồn ư? Phải biết con người và loài
vật cùng mang cái thân máu thịt này, cùng có tánh linh tri này,
cùng sống trong ṿng trời đất, chỉ v́ đây - kia
kiếp trước tội - phước bất đồng
đến nỗi đời này h́nh dáng, thể chất,
lanh lợi - ngu xuẩn sai khác. Cậy ḿnh mạnh lấn
áp kẻ yếu, ăn thịt chúng nó để no bụng
ḿnh, khoái ḷng sướng ư, cho là có phước báo, chẳng
biết một khi phước lực vừa hết, nghiệp
báo hiện tiền, đọa trong dị loại: Lúc bị
người ta giết hại, thân không chống lại
được, miệng không nói được, trong tâm lo
sợ, đau khổ, mới biết chuyện ăn thịt
là tội lỗi lớn! Người ăn thịt quả
thật là La Sát[38].
Dù có muốn chẳng bị người khác giết ăn
thịt cũng không thể được.
Do
vậy, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Do
người ăn thịt dê, dê chết thành người,
người chết thành dê, như thế cho đến
mười loại giống như vậy, chết chết, sống sống, ăn
nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng sanh ra cho đến tận
đời vị lai”. Huống chi từ nhiều kiếp
đến nay lại sanh ra nhau. Đă không có đạo lực
để cứu tế, nỡ nào khiến chúng nó chịu
nỗi đau cùng cực bị dao chặt xẻ để
cho ta hưởng vị ngon nơi lưỡi miệng
ư? Trong kinh Nhập Lăng Già, đức Thế Tôn quở
trách thói ăn thịt nhiều lần. Có câu: “Hết thảy chúng sanh từ vô
thỉ đến nay, luân hồi trong sanh tử chẳng
ngơi, không ai chẳng từng là cha mẹ, anh em, con cái,
quyến thuộc, cho đến là bằng hữu, người
thân ái, tôi tớ. Qua đời khác bèn mang thân chim, thú v.v… Sao
lại bắt lấy chúng để ăn thịt?” Phàm
những người sát sanh ăn thịt, nếu nghĩ
đến điều này ắt sẽ run rẩy, kinh sợ,
tỉnh ngộ. Thà tự giết ḿnh, chẳng thể giết
hết thảy loài vật!
Vùng
Tân Xương có quả núi tên là Thạch Thành, trên núi đục
cái khám và tượng Di Lặc to cả trăm thước,
do ba vị sư là Tăng Hộ, Tăng Thục đời
Tề và Tăng Hựu đời Lương tạo dựng.
Tướng hảo trang nghiêm, đẹp đẽ không thể
sánh tầy. Chùa nơi ấy là Tây Môn của Thiên Thai, Trí Giả
đại sư nhập diệt tại đó. Có lẽ muốn
ngụ ư: Trước là kế tục Linh Sơn, sau là phụ
trợ hội Long Hoa. Suốt cả đời Đại
Sư tùy cơ thuyết pháp, Ngài đặc biệt chú trọng
phóng sanh. Do dân vùng Thiên Thai đa số theo nghề đánh
cá, để cứu vớt, Ngài mua một chỗ đánh
cá, biến thành ao phóng sanh. Lại c̣n giảng cho ngư dân
nghe kinh Kim Quang Minh. Ngư dân nghe pháp đều hiếu
sanh, bỏ giết chóc, ai nấy đều bỏ
đăng, đó trên sông ng̣i . Cả sáu mươi ba chỗ
rộng đến hơn ba trăm dặm, đều biến
thành ao phóng sanh. Những ai đánh bắt trộm bèn lập
tức mắc họa. Đến đời Đường
vẫn y như vậy. Nhưng lâu ngày, người đă
khuất, pháp tàn, lệnh cấm lỏng lẻo, đến
nỗi cái ao ngoài chùa Đại Phật cũng trở thành
chỗ đánh cá. Cư sĩ Mă Khế Từ ngưỡng
mộ đức hạnh tốt đẹp, công huân thù thắng
của các vị Tăng Hộ, Tăng Thục, Tăng Hựu,
Trí Giả, muốn cho đồng nhân và hết thảy loài
vật sống trên cạn, dưới nước, bay trên
không đều được hưởng hết tuổi
trời, cùng sanh về Cực Lạc, tương lai cùng
được dự ba hội Long Hoa, nên đặc biệt
xin ban hành lệnh nghiêm cấm, cho khắc lên đá ngơ hầu
tồn tại vĩnh cửu.
Nhưng
ao đă lâu chưa vét, bùn lầy đầy ứ, lại
c̣n phải dựng tường vây quanh bên ngoài để
pḥng kẻ bắt trộm. Lại c̣n phải dựng cầu,
sửa đập, cất đ́nh, đắp đường;
nào phải chỉ nhằm làm cho quang cảnh đẹp mắt
mà thật ra là muốn cho những người đến
lễ Phật trông thấy cảnh sắc ḷng vui thư
thái, trên là khế hợp tâm Phật, ngơ hầu tiêu trừ
được thiên tai nhân họa mà không hay không biết! Nhưng
do công tŕnh rộng lớn không thể không quyên mộ mười
phương quan viên, thân sĩ, thương gia cùng hết
thảy thiện tín. Khẩn khoản mong mọi người
phát ḷng “chúng sanh và Phật
đồng thể, loài vật và ta chẳng hai”, cùng bỏ
ra tịnh tài khiến cho quang cảnh này được
thành tựu th́ công đức ấy có cùng thọ lượng
với mười phương hư không.
62. Lời tựa truyền giới của Kim
Sơn Giang Thiên Thiền Tự
Như Lai dùng ba sự để
khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài nơi đời,
chúng sanh [nhờ đó] đều được độ
thoát. Ba sự ấy là ǵ? Chính là Giới - Định - Huệ.
Do chúng sanh một bề trái giác, xuôi trần, luân hồi sáu
nẻo, nay muốn cho họ trái trần, hợp giác, tiến
lên chứng được Niết Bàn; nếu không có Giới
th́ do không bị trói buộc ắt sẽ rong ruổi theo trần
cảnh bèn khởi Hoặc tạo nghiệp. Nếu không có
Định th́ sóng thức dâng trào, tâm làm sao vô sở trụ
cho được? Nếu không có Huệ th́ do đâu mà chứng
triệt để được chân tâm sẵn có, các vọng
Hoặc huyễn khởi biết nhờ đâu để
diệt nhanh chóng cho được? V́ thế, kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Nhiếp tâm là Giới,
nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ.
Đây chính là Tam Vô Lậu Học”. Phải biết ba
pháp này cả ba đều là một, hoàn toàn là một
nhưng lại là ba, chớ nói Giới chỉ là nền tảng
ban đầu của Định và Huệ! Phàm Luật Nghi
Giới giữ cho thân không vi phạm th́ có thể gọi là
“nền tảng ban đầu”, nhưng Định kết
hợp với Giới giữ cho [vọng] tâm chẳng khởi;
Đạo kết hợp cùng Giới th́ nghiệp tận
t́nh không, thấu tột lẽ Chân, trí sáng suốt, há chẳng
phải là công dụng toàn thể lớn lao của Định
- Huệ, há có nên coi Giới chỉ là nền tảng ban
đầu mà thôi ư? Định kết hợp với Giới
hay Đạo kết hợp với Giới vẫn lấy
Luật Nghi làm bản thể; nhưng do công dụng tŕ giới
sâu hay cạn mà lập ra hai tên, chứ ngay từ ban đầu
nào có Giới Bổn được nói riêng rẽ ư? Người
đời thường bàn luận về Luật Nghi, nhưng
chẳng hề biết đến ư nghĩa lớn lao chế
định Giới của Như Lai nên xem thường;
nhưng Chân Giới, Chân Định, Chân Huệ, không ǵ chẳng
từ sự nghe để un đúc mà đạt được,
thật đáng than thở vậy!
Pháp đạo của Như Lai
phạm vi rộng lớn trọn khắp mười giới.
Tuy những vị hoằng pháp đại sĩ ai nấy
đều tam học viên minh (hiểu rơ thông suốt Giới
- Định - Huệ), nhưng tạo lập môn đ́nh, mỗi
một vị không thể không có một pháp chuyên chú riêng. Nếu
chuyên chú nơi “chỉ, tác, tŕ, phạm”[39]
th́ gọi là Luật. Nếu chuyên chú nơi tu quán, giảng
diễn th́ gọi là Giáo. Nếu chuyên chú tham cứu bản
lai để mong triệt ngộ th́ gọi là Tông. Tông mang
tên là “giáo ngoại biệt truyền”
(truyền riêng ngoài giáo), nhưng Luật - Giáo chính là “giáo nội chân truyền”. Nói “biệt truyền” là nhằm
làm cho con người thấy được bản thể
nằm ngoài ngôn ngữ, chứ không có nghĩa là Tông vượt
ra khỏi giáo lư! Thử nh́n xem: Đức Thế Tôn cầm
cành hoa giơ lên, Ca Diếp mỉm cười, quang cảnh
nơi bổn địa triệt để hiển lộ
trọn vẹn. Hiểu được điều này th́ tất
cả h́nh sắc trong thế gian không ǵ chẳng phải là
cành hoa đức Thế Tôn đă giơ lên, không ǵ chẳng
làm cho con người thấy thấu triệt bản lai diện
mục trước khi được cha mẹ sanh ra. Huống
chi vô thượng diệu pháp được tuyên nói bởi
kim khẩu của Như Lai lại chẳng phải là cành
hoa ấy, lại chẳng thể làm cho con người
đích thân thấy được bản lai diện mục
hay sao? Thế nhưng, trời người trăm vạn,
dù thấy đức Thế Tôn giơ cành hoa lên nhưng hết
thảy đều ngơ ngác, cũng như đang cỡi
trâu lại đi t́m trâu, trọn chẳng thể t́m
được!
Nếu
biết “trực hạ tiện
thị”[40] sẽ
thành tựu ngay trong hiện tại biết bao nhiêu, đỡ
tốn sức biết bao nhiêu. Do họ mê chẳng biết
quay trở lại giống như cái đầu của
chàng Diễn Nhă[41],
vô cớ phát cuồng bỏ chạy, hạt châu trong chéo áo
mà oan uổng chịu bần cùng. Thật đáng buồn
thay! Phải biết dù là Luật, là Giáo, hay là Tông, phải
toàn vẹn ba điều này mới ḥng tiếp nối huệ
mạng Phật, truyền được pháp đạo của
Phật. Nếu thiếu khuyết th́ trên chẳng đủ
để chứng Vô Thượng Bồ Đề, dưới
chẳng đủ để độ hết thảy hàm
thức! Lô Xá Na Phật[42] lấy
Giới làm Thể. Do không điều ác nào chẳng tận
nên gọi là Tịnh, do không điều thiện nào chẳng
trọn vẹn nên gọi là Măn. Đoạn ác tu thiện
chính là hành tŕ hai thứ Chỉ và Tác vậy. Luật là Phật
thân, Giáo là Phật ngữ, Tông là Phật tâm. Ba thứ thân -
ngữ - tâm quyết khó tách rời, quyết khó thể thiếu
nhau. Nếu không, một cánh khó bay, một bánh xe khó lăn.
Muốn tự lợi, lợi tha, lại càng khó được
như nguyện!
Kim
Sơn là đạo tràng trứ danh hơn một ngàn
năm qua, tuy tu trọn ba pháp nhưng chuyên chú nơi Tông. V́
thế, xưa nay những bậc đại triệt đại
ngộ ở đấy không biết bao nhiêu mà kể. Cứ
cách vài năm lại truyền giới một lần, một
là để kế thừa quy mô lớn lao trước kia của
Phật, hai là làm gương mẫu tốt lành cho hàng hậu
học. Cựu trụ tŕ Thanh Công và trụ tŕ Dung Công đều
là bạn cũ mấy mươi năm trước. Mùa
Thu năm nay lên núi ngắm cảnh, hai vị khẩn khoản
lưu lại nghỉ đêm, nhân đó cho biết chúng
thường trụ nơi ấy định mở đàn
truyền giới vào năm sau, sai Quang viết lời tựa
để phát huy ư nghĩa. Đối với Tông, đối
với Giáo, đối với Luật, Quang đều chẳng
có tâm đắc ǵ, làm sao đảm nhận nổi lời
phó chúc? Chỉ đành đem những ǵ đă lănh hội hằng
ngày từ Phật, Tổ, cổ đức qua sự thấy
biết hèn tệ của ḿnh tŕnh bày tóm lược cho xong
trách nhiệm.
Kinh
Di Giáo nói: “Hàng tỳ-kheo các ông
sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng trân kính Ba La Đề
Mộc Xoa[43], như trong tối gặp
được ánh sáng, như người nghèo được
của báu. Nên biết đấy chính là đại sư của
các ông, giống như ta trụ thế chẳng hề khác
ǵ!” Kinh Phạm Vơng dạy: “Ta
là Phật đă thành, các ông là Phật chưa thành. Nếu
tin được như thế th́ giới phẩm đă
đầy đủ”. Lại nói: “Chúng sanh nhận lănh giới của Phật tức
là đă dự vào địa vị của chư Phật,
địa vị đă giống với Đại Giác, thật
sự là con của chư Phật”. Xin các Phật tử
thọ giới ai nấy hăy tự biết ḿnh vốn
đă là Phật, do mê trái nên đâm ra dùng sức công đức
Phật tánh ấy để luân hồi sáu nẻo, bị
các sự khổ cùng cực.
Như
Chuyển Luân Thánh Vương mộng thấy ḿnh là con kiến,
lần theo mùi tanh tưởi dưới thềm, tự thấy
ḿnh thấp hèn, nhỏ nhoi, chứ thân vua nằm trên giường
vẫn y như cũ chẳng bị mất. Đến khi
tỉnh giấc, mới biết là huyễn mộng biến
thành thân con kiến, trọn chẳng có thật thể. Hết
thảy chúng sanh cũng giống như vậy. [Chúng sanh là]
Phật vốn chưa thành, nghiệp vốn là không,
nhưng lầm tạo. Đề cao thánh cảnh, cam bề
phàm ngu, nhường cho riêng ḿnh đức Thích Ca Thế
Tôn làm bậc trượng phu hùng mănh, há chẳng đáng buồn
quá đỗi ư? Nếu các Phật tử thọ giới
ai nấy gắng công th́ chẳng những không phụ một
phen Dung Công khổ tâm truyền giới, mà c̣n có thể an ủi
thánh ư của đức Như Lai một phen xuất thế
chế giới vậy.
63. Lời tựa cho bộ Trừng Tín Lục
Tu Bổ Cầu Cống từ huyện Cận đến Khưu
Ải Trấn[44]
Cuộc sống người dân
hằng ngày sự vụ đa đoan. Nếu chẳng nhờ
vào giao thông qua lại, đây - kia đắp đổi nhau
th́ chẳng sự nào được thành, sanh kế
cũng bị đoạn tuyệt theo. Do vậy, sửa
sang đường sá chính là nhiệm vụ cấp bách của
việc trị quốc b́nh thiên hạ. V́ vậy, kinh Thi mới
có câu: “Châu đạo như chỉ,
kỳ trực như thỉ” (đường nhà Châu phẳng
như mài, thẳng như mũi tên), kinh Thư mới có những
câu như “vương đạo
đăng đăng, vương đạo b́nh b́nh” (đường
vua thênh thang, đường vua bằng phẳng). Nếu
có kẻ bảo những câu ấy nhằm sánh ví nề nếp
cai trị của nhà vua, chứ không phải nói về
đường sá, th́ hăy nghĩ thử xem: Nếu
đường sá không tu bổ, chẳng những truyền
phát hiệu lệnh bị trở ngại, đ́nh trệ,
mà nông, công, thương cổ[45]
qua lại cùng những quan chức đến nhậm chức,
đi công tác đều chẳng thể nhanh chóng toại ư
được! Huống chi nếu không có những chuyện
“như mũi tên, như được mài, thênh thang, bằng
phẳng” th́ dùng những điều đó để
sánh ví nề nếp cai trị của vua th́ có khác ǵ phỉ
báng nề nếp cai trị của nhà vua hay chăng?
Do
vậy, sách Châu Lễ [chép chuyện vua] lập ra chức
Tư Hiểm Hầu, Nguyệt Lệnh c̣n ghi lệnh sửa
sang đường sá. Đến như những vị
chánh thần hộ quốc giúp dân như hai vị đại
đế Đông Nhạc[46],
Văn Xương thảy đều thị hiện làm
chuyện này. Chẳng thấy hai Ngài sửa cầu đắp
đường có ích cho người đi, và sửa chữa
những con đường khúc khuỷu mấy trăm
năm, bắc cầu cho ngàn vạn người qua lại
đó sao? Hơn nữa, Tŕ Địa Bồ Tát do sửa
sang, bồi đắp đường sá phẳng phiu nên chứng
viên thông. Do vậy, biết tam giáo thánh hiền không ai chẳng
chú trọng chuyện này.
Từ
huyện Cận đi về phía Đông đến Khưu Ải
Trấn hơn hai mươi dặm đường, đi
qua những cây cầu lớn - nhỏ tổng cộng có
hai mươi ba cái. Xây dựng, tu bổ đă lâu, dần dần
thấy hư hỏng. Người trong ấp là tiên sinh Mă
Nguyên Bồi phát tâm sửa chữa vào năm ngoái. Do vậy
bèn quyên mộ các thiện tín ai nấy bỏ ra tịnh tài
và đích thân đứng trông coi thợ, để mỗi
một cây cầu đều được khôi phục
dáng vẻ cũ. Những chỗ nào sông to, nước sâu
th́ dựng thêm lan can đá để ngừa cho người
đi đêm hôm và kẻ không mắt khỏi bị té ngă, tổng
cộng tốn hơn hai ngàn đồng. Nay công việc
đă xong, muốn đem công sá sửa chữa cầu và các
khoản tiền quyên góp ghi chép đầy đủ vào sổ,
đem in rồi gởi tặng để tỏ rơ ḷng thành
tín. Lại muốn cho người đọc biết
được lợi ích nên xin Quang phát huy nghĩa ấy
để cho ai nấy đều chú ư. Nhưng loại sách
này đọc xong liền thành phế vật, cho nên bèn phụ
thêm lời chú thích của tiên sinh Lục Đ́nh Tiếp đối
với sách Trị Gia Cách Ngôn của tiên sinh Châu Bách Lư và
cuốn Thường Thức Tinh Hoa được ghi chép
bởi Lăo Thân Báo. Hai tác phẩm này đều có thể dùng
để xử thế, trị gia, dạy con thật thiết
thực cũng như là pháp để lúc nhỏ th́ biết
làm những ǵ thích đáng, lớn lên mong thành thánh thành hiền.
Dụng tâm đáng gọi là chân thành, tha thiết. Nguyện
những người đọc cùng lấy tâm này làm tâm ḿnh
th́ lợi ích há có thể nghĩ bàn cho thấu được
chăng?
64. Lời tựa sách Tịnh Độ Thích
Nghi
Phật pháp sâu rộng, khác nào
đại hải. Hạng phàm phu sát đất ai có thể
thấu nguồn tột đáy, một hơi nuốt hết
cho được? Tuy nhiên, nếu sanh được tâm
chánh tín sẽ tự có thể tùy phần tùy sức ai nấy
được lợi ích. Ví như Tu La, hương tượng
và các loài muỗi ṃng uống nước biển cả,
loài nào loài nấy đều được no bụng mới
thôi. Như Lai xuất thế tùy thuận chúng sanh, v́ họ
thuyết pháp, khiến ai nấy đều được
lợi ích cũng giống như thế. Nhưng chúng sanh
thời Mạt nghiệp chướng sâu nặng, thiện
căn cạn mỏng, tâm trí hẹp kém, thọ mạng ngắn
ngủi. Lại thêm tri thức hiếm hoi, tà ma ngoại
đạo tung hoành, nếu tu những pháp môn khác mà muốn
cho trong đời này đoạn Hoặc chứng chân, liễu
sanh thoát tử quả thật là chuyện rất khó, hiếm
có. Chỉ có một ḿnh pháp Tịnh Độ chuyên cậy
vào Phật lực cho nên chẳng cần luận đến
đoạn chứng, chỉ dựa vào tín nguyện. Tín nguyện
nếu có đủ, dù là phường tội lớn cực
ác sắp đọa A Tỳ địa ngục cũng vẫn
có thể cậy vào sức Thập Niệm, chóng nhờ vào
Phật từ tiếp dẫn văng sanh.
Ôi!
Như Lai đại từ phổ độ, chẳng bỏ
sót một ai. Chỉ có mỗi pháp này thật là châu đáo,
thiết tha nhất. Do vậy, Tây Thiên, Đông Độ, Bồ
Tát, tổ sư, cao tăng, đại nho, không ai chẳng
dùng pháp này để tự lợi, lợi tha. Tất cả
trước thuật cực kỳ rộng lớn, muốn
t́m hiểu nguyên ủy nào phải là chuyện dễ dàng. Cư
sĩ Vị Ngư Lâm Sư Thượng túc căn sâu dầy,
dốc ḷng tu Tịnh nghiệp, tận tâm chuyên tinh nghiên cứu
đă nhiều năm, muốn hướng dẫn khắp
các đồng nhân đều sanh về Tịnh Độ
nên trích lấy những nghĩa trọng yếu từ các
kinh luận, trước thuật Tịnh Độ, soạn
thành tác phẩm, như ghép các miếng da thành áo cừu,
như gom hoa làm mật, quả thật thích hợp thời
tiết, căn cơ, phô diễn biện tài khéo léo, soạn
thành tất cả năm mươi bảy thiên, đặt
tên là Tịnh Độ Thích Nghi (cởi gỡ mối nghi về
Tịnh Độ). Lời lẽ ngắn gọn nhưng
tinh xác, lư sâu nhưng rơ ràng, khiến người đọc
không mối nghi nào chẳng cởi gỡ, dù nghĩa nào
cũng đều phục. Do đây, chẳng muốn phát
sanh ḷng tin phát nguyện tŕ danh hiệu Phật cầu sanh
Tây Phương cũng chẳng thể được!
Nhưng
cư sĩ đă có thể tập hợp một hai câu, một
tiết, một đoạn của tiền nhân, rồi lại
dựa theo ư của ḿnh kết hợp thành văn, sao không
dùng văn của chính ḿnh để phát huy? Ấy là v́ muốn
cho người đọc biết được những
điều vừa nói ấy đều có xuất xứ.
Tuy do chính ḿnh soạn tập, nhưng quả thật trích từ
kinh, luận, ngữ lục và các trước thuật, là
những điều do Phật, Bồ Tát, tổ sư, các
thiện tri thức đă nói, gây ảnh hưởng sâu cho
người, gây xúc cảm thiết tha cho người, so với
việc chuyên dùng lời lẽ của ḿnh để tŕnh
bày thật hơn hẳn nhiều lắm. Trộm nghĩ:
Thuyết pháp cho bậc thượng trí th́ dễ, bởi
người trí hiểu được lư, không c̣n ngờ vực;
như ngựa hay thấy bóng roi liền chạy[47],
lúa tốt được mưa ngọt liền sum suê. V́ kẻ
hạ ngu thuyết pháp cũng dễ, do tâm kẻ ấy
không có thành kiến, tin tưởng hành theo ngay; như chất
ngọt có thể trộn được, như lụa trắng
dễ nhuốm màu. Chỉ khi nào v́ kẻ trung căn thuyết
pháp th́ quả thật chẳng dễ. Bởi lẽ tri thức
của họ phức tạp, lộn xộn, tà - chánh chẳng
phân, thường hay dùng phàm t́nh suy lường thánh trí, dùng
tục kiến (kiến giải thế gian) để lănh hội
chân lư. Dù nói đủ mọi thứ hướng dẫn,
khơi gợi, họ vẫn cứ hoài nghi hết điều
này sang điều khác. Do vậy, phải đặt ra những
câu vấn đáp đến hơn năm mươi bảy
lần, khiến cho những mối hồ nghi hết sạch,
Phật lư được tỏ bày. Người biết tốt
- xấu thảy đều tuân hành. Có thể nói là tận
tâm, chuyên tinh, dốc kiệt ḷng thành, là bậc kiện
tướng dẹp sạch nghi hoặc. Nhưng mọi mối
nghi đă cởi gỡ, phải dũng mănh phát đại
chí, chỉ giữ mỗi một niệm th́ tâm vương
do Phật lực sẽ luôn tỉnh giác, giặc cướp
phiền năo không đất dung thân, muốn chẳng quy hàng
cũng không được! Giặc cướp phiền
năo đă quy thuận sự giáo hóa của Phật th́ tuy
chưa ra khỏi Sa Bà đă không c̣n là người khách lâu
ngày ở Sa Bà nữa; tuy chưa sanh Cực Lạc nhưng
đă là khách quư cơi Cực Lạc. Như thế, trên chẳng
cô phụ Phật giáo hóa, dưới chẳng phụ bạc
tánh linh của chính ḿnh. Đến cùng tột đời vị
lai, cùng với hải hội đại chúng thân cận A
Di Đà Phật trong cơi Tịch Quang Tịnh Độ, há
chẳng phải là bậc đại trượng phu hùng
mănh ư? Nguyện người thấy nghe đều gắng
sức lên.
65. Lời tựa cho lần tái bản tác phẩm
sớ giải kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật của
ngài Thiện Đạo
Con người sống trong thế
gian, họa - phước, cát - hung thay nhau xảy tới,
nhưng bị tổn hại hay lợi ích chỉ là do con
người khéo dùng tâm hay không. Chư Phật xót
thương chính ḿnh và hết thảy chúng sanh bị ba khổ,
tám khổ, vô lượng các khổ bức bách năo hại.
Do vậy, suy nghĩ khổ báo đang phải chịu là ác
nghiệp từ đời quá khứ cảm thành. Ác nghiệp
đă tạo là do đối trước sáu trần cảnh,
chẳng biết chúng như huyễn, như hóa, lầm khởi
tâm tham - sân - si mà ra. Do vậy, biết phiền hoặc tham
- sân - si chính là đại oán gia của hết thảy chúng
sanh. Từ đấy, dùng Giới - Định - Huệ
đoạn tham - sân - si, khôi phục thiên chân sẵn có để
thành vô thượng giác đạo. Như vậy, ba khổ,
tám khổ v.v… quả thật là người hướng dẫn
tốt lành cho chư Phật ba đời, là duyên lành vô
thượng để chúng sanh vĩnh viễn ĺa các nỗi
khổ, thường hưởng những sự vui.
Quán
Vô Lượng Thọ Phật Kinh là đại pháp khiến
cho khắp tất cả dù phàm hay thánh đều cùng trong một
đời này văng sanh Cực Lạc, dù Đốn hay Tiệm
đều chứng Vô Sanh Nhẫn, cho đến viên thành Phật
đạo. Do thánh th́ tự lực đầy đủ,
kiêm cậy vào Phật lực nên sự chứng nhập của
họ thẳng chóng nhất; cho nên, Hoa Tạng hải chúng
cùng nguyện văng sanh. C̣n kẻ phàm th́ cậy vào Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh, do vậy bèn siêu phàm nhập
thánh, chứng địa vị Bất Thoái. Từ đấy,
tu dần dần cho đến khi viên măn Bồ Đề mới
thôi. Trong kinh này, phần nói về Trung Phẩm dạy về
giới thiện, phước thế gian, Hạ Phẩm
nói về chúng sanh tạo các ác nghiệp và Ngũ Nghịch,
Thập Ác sắp đọa địa ngục, do xưng
niệm danh hiệu Phật bèn được văng sanh. Lực
dụng như thế rộng sâu bậc nhất. Ấy là
do vua A Xà Thế nương đại nguyện luân, thị
hiện hạnh ác nghịch, giam cha, ngăn mẹ để
phát khởi [nhân duyên giảng kinh này]. Bà mẹ vua nhàm ĺa Sa
Bà, phát nguyện sanh về Cực Lạc, lại v́ chúng
sanh đời Mạt, cầu pháp văng sanh. Thế Tôn bèn nói
ra mười sáu phép quán, quán tưởng y báo của cơi
nước Tây Phương đủ mọi trang nghiêm, chánh
báo là tướng hảo, oai đức của Phật,
Quán Âm, Thế Chí và nhân lẫn quả của cửu phẩm
văng sanh.
Trong
phần đầu của phép Quán Tượng thứ tám,
đă nêu tỏ tông yếu như sau: “
Xét
từ khi kinh này được truyền sang đây, Trí Giả,
Thiện Đạo, Thanh Lương, Linh Chi mỗi vị
đều soạn sớ, về sau chỉ có mỗi bản
sớ giải của ngài Trí Giả được lưu
truyền. Ba bản kia đều bị ẩn kín. Vào đời
Quang Tự nhà Thanh, cư sĩ Dương Nhân Sơn từ
Đông Doanh (Nhật Bản) thỉnh về bản chú giải
kinh này của ngài Thiện Đạo. Bản sớ giải
kinh Vô Lượng Thọ của ngài Huệ Viễn, bản
chú giải Văng Sanh Luận của ngài Đàm Loan đều
là những pháp bảo đă bị ẩn mất từ lâu,
[nay] đều được khắc in, lưu hành. Bản
sớ giải của ngài Thiện Đạo không luận
đến thâm ư đế quán, chỉ giải thích thẳng
vào kinh văn để hàng căn cơ trung hạ dễ
dàng thâm nhập. Đến khi đă thâm nhập th́ chẳng
nói đến đế quán nhưng tự nhiên hiểu rơ
phép đế quán. Có thể nói là khế lư, khế cơ,
khéo nói pháp yếu. Hóa thân của Phật Di Đà chẳng
phải là lời đồn hư huyễn[49].
Vị tổ thứ hai của Liên Tông, muôn đời kính
ngưỡng. Hiềm rằng sách được lưu
truyền đă lâu, sai ngoa quá nhiều; do đấy bèn lắng
ḷng giảo chánh kỹ càng để khắc lại vậy.
66. Lời tựa cho bài Phổ Thuyết Tam
Quy Ngũ Giới tại nhà giam thứ nhất ở kinh
đô trong ngày Nguyên Đán năm Giáp Tư
Tâm tánh của chúng sanh không khác
ǵ chư Phật; nhưng do mê chưa ngộ nên làm chúng sanh
lâu dài. Phẩm Như Lai Xuất Hiện của kinh Hoa
Nghiêm có câu: “Lạ thay! Lạ
thay! Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ, đức
tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng,
chấp trước nên chẳng thể chứng đắc.
Nếu ĺa vọng tưởng, chấp trước th́ Nhất
Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí đều
được hiện tiền”. Phải biết trí huệ,
đức tướng và vọng tưởng, chấp
trước chỉ trong một tâm, thoạt đầu vốn
không phải là hai vật. Hễ mê th́ toàn thể trí huệ,
đức tướng biến thành vọng tưởng,
chấp trước; ngộ th́ toàn thể vọng tưởng,
chấp trước lại biến thành trí huệ, đức
tướng. Ví như nước kết thành băng,
băng tan thành nước. Tướng tuy có khác biệt,
thể vốn chẳng hai. Hiểu rơ điều này th́ ai
chẳng nguyện đoạn Hoặc nghiệp huyễn vọng,
khôi phục tâm tánh sẵn có? [Những chuyện như]
đề cao thánh cảnh, cam phận phàm ngu, chấp tánh phế
tu, dùng kiến giải lầm lạc lấy phàm lạm
thánh sẽ đều không thể do đâu mà sanh khởi
được!
Kinh
Thư nói: “Thánh mất niệm
nên thành cuồng,cuồng khắc chế được ư
niệm bèn thành thánh”. Mạnh Tử nói: “Ai cũng có thể là Nghiêu - Thuấn. Đạo của
Nghiêu - Thuấn chỉ là hiếu - đễ mà thôi!” Do vậy,
biết: Chẳng thể hành hiếu đễ để
làm Nghiêu - Thuấn, chẳng khắc chế ư niệm để
thành thánh và chẳng thể khôi phục trí huệ, đức
tướng để trở thành Phật th́ đều là
hạng tự ruồng rẫy, tự vứt bỏ, chẳng
chịu gắng sức thực hiện vậy! Như Lai
lúc mới thành Chánh Giác, v́ khắp hết thảy phàm - thánh
nói Phạm Vơng Kinh Bồ Tát Giới, có câu: “Các ông là Phật sẽ thành, ta là Phật đă thành.
Thường tin tưởng như thế th́ giới phẩm
đă đầy đủ”. Lại nói: “Chúng sanh nhận lănh giới của Phật chính là
đă dự vào địa vị chư Phật; địa
vị giống như Đại Giác, thật sự là con của
chư Phật vậy”. Điều chánh yếu là muốn
làm cho con người hiểu thấu suốt một niệm
tâm tánh nhỏ nhoi này chính là cội gốc của đạo
Bồ Đề do chính Như Lai đă chứng vậy.
Đă biết như thế th́ ai c̣n chịu thuận theo
nhiễm duyên phiền năo khiến cho bầu trời chân
tánh thanh tịnh rốt ráo bị mây mê sương Hoặc ngăn
lấp nữa ư?
Lại
khéo léo khuyên dụ dần dần để hàng căn
cơ nhỏ trước hết thọ Tam Quy, đem thân
tâm quy y Phật Pháp Tăng Bảo, tự có thể phản
vọng quy chân, trái trần hiệp giác, rồi dạy cho
Ngũ Giới “chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng
tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu” th́
những lời lẽ, hành vi thường ngày sẽ không
phạm những tội lỗi, thân tâm thanh tịnh. Có những
người phát tâm đại Bồ Đề th́ lại dạy
họ tiến lên thọ Bồ Tát đại giới, khiến
cho lư - sự viên dung, phước - huệ cùng tiến, ḥng
trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ
chúng sanh. Kinh đô là chỗ đầu năo của thiên hạ,
v́ thế tội phạm trong nhà tù rất đông. Lại
do thói đời ngày càng suy bại, chiến tranh, mất
mùa liên tiếp, đến nỗi bọn lưu manh ngây ngô,
phạm phải phép nước bị giam cầm trong ngục.
Há phải đâu chỉ trói buộc làm khổ thân tâm họ,
mà thật ra là muốn cho họ sửa lỗi đổi
mới, trở thành lương dân tuân theo luật pháp. Lại
do gần đây Phật học xương minh, chánh phủ
đặc biệt mời những vị cao tăng thông
đạt Phật pháp thường đến trại giam
khai thị những ư nghĩa trọng yếu của Phật
pháp và cái nhân gây ra sanh tử luân hồi, cũng như pháp
liễu sanh thoát tử, ngơ hầu ai nấy đều biết
tâm này là tâm Phật, ắt sẽ tự tuân hành hạnh Phật.
Muốn liễu sanh thoát tử, mà chẳng tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tây Phương quyết khó được
như nguyện.
Bọn
họ nghe vậy như đối trước
gương sáng, xấu - tốt tự biết, như gặp
mẹ hiền, mừng vui không ǵ ví dụ được.
Tiếng kinh, danh hiệu Phật sáng tối không gián đoạn,
biến nhà ngục thành đạo tràng, khiến bạn tù
thành pháp lữ. Quả thật là chuyện lạ từ
xưa đến nay chưa từng nghe. Đủ chứng
tỏ Phật pháp quả thật là ḷ nung lớn lao để
nung phàm đúc thánh vậy. Bất luận vàng cứng sắt
chai đến đâu hễ bỏ vào trong ấy đều
đúc thành tượng Phật, tượng Bồ Tát vi diệu
trang nghiêm. Những ai bảo Phật pháp vô ích cho quốc
gia, có hại cho đời, đều là những kẻ
chưa thấy màu sắc đă bàn luận mù quáng, khiến
ḿnh tự lầm, làm người khác lầm lạc. Viên
quan giám ngục do phát đại tâm, bèn đặc biệt
thỉnh bậc pháp sư có đức vào ngày Nguyên Đán
năm Giáp Tư, nói Tam Quy Ngũ Giới cho khắp các Phật
tử trong nhà giam, ngơ hầu họ dùng Quy Giới chế
phục thân tâm, khiến cho vọng tưởng, chấp
trước không hề c̣n nữa, trí huệ, đức
tướng sẽ được triệt để phô
bày trọn vẹn. Hàng Phật tử các ông thoạt đầu
đă phạm quốc pháp đến nỗi bị cầm
tù, kế đến do được nghe Phật pháp liền
nhiễm Phật hương, trở thành pháp khí của Phật.
Do nhân duyên ác trở thành nhân duyên thiện, nếu chẳng
phải là đă trồng thiện căn từ nhiều kiếp,
vạn phần chẳng được may mắn như thế
này đâu!
Ví
như Ma Ni bảo châu có thể thỏa ư người
mưa ra khắp các món báu. Do không hay biết nên quăng
trong hầm xí, chẳng những không có công năng mưa ra
các báu, mà thể chất c̣n chẳng khác ǵ những vật
nhơ. May gặp được người trí biết là
của quư báu nhất, vào nhà xí nhặt ra, gột rửa
đủ cách, lại dùng hương xông để khôi phục
lại tánh chất sẵn có. Sau đấy, treo trên tràng
cao, châu lại phóng quang minh, tùy ư người cần ǵ bèn
mưa ra khắp các báu. Phật thấy hết thảy
chúng sanh cũng giống như vậy. Do đó, dẫu kẻ
mê đến cùng cực, làm đủ mọi chuyện ác
nghịch, như vua Ca Lợi[50] cắt
chặt thân thể, hoàn toàn không có một niệm buông bỏ,
mà vẫn thường t́m cơ hội để chỉ dạy,
khơi gợi, khiến cho họ được độ
thoát. Ấy là v́ Phật chỉ xem trọng Phật tánh, c̣n
hết thảy tội cấu ác nghịch Ngài chẳng buồn
xét đến. Nếu các ông hiểu được những
điều vừa nói trên đây dù là pháp hay ví dụ, ắt
sẽ tự chẳng cô phụ Phật giáo hóa, chẳng phụ
bạc tánh linh của chính ḿnh, mà một phen hậu ư của
chánh phủ, của giám ngục quan, của vị Tăng
thuyết pháp, thuyết giới cũng chẳng bị trở
thành uổng công. Lại mong ai nấy nỗ lực tấn
tu th́ may mắn lắm thay!
67. Lời tựa khắc kinh Kim Cang lên đá
Kinh Kim Cang là tiêu chuẩn để
phát tâm Bồ Đề, hành đạo Bồ Tát, thượng
cầu hạ hóa. Kinh dạy: “Tất
cả hết thảy các loài chúng sanh ta đều làm cho họ
nhập Vô Dư Niết Bàn để được diệt
độ, nhưng vô lượng vô số vô biên chúng sanh
được diệt độ như vậy thật ra
chẳng có một chúng sanh nào được diệt độ!”
Bởi lẽ tâm tánh của chúng sanh xét ngay trên bản thể
đă là Vô Dư Niết Bàn, chỉ v́ mê nên huyễn vọng
tạo thành tướng sanh tử luân hồi. Giống
như say thấy nhà xoay, nhà thật ra không xoay; mê cho là
phương hướng đổi dời, phương
hướng thật ra chẳng chuyển. Chẳng qua v́ họ
đặc biệt chỉ bày khiến cho họ khôi phục
lại cội nguồn sẵn có mà thôi. Nói: “Chỉ hết phàm t́nh, chứ không có thánh giải; chỉ
có trừ đi pháp ngăn lấp, chứ không có pháp làm cho
sáng tỏ”, chính là diễn tả ư trên vậy.
Lại
dạy chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp để hành bố thí. Bố thí đứng đầu
lục độ, vạn hạnh. Kinh văn giản lược,
chỉ nêu bố thí làm thí dụ. Nếu chẳng trụ
vào tướng để thực hành lục độ vạn
hạnh th́ tam luân thể không, nhất đạo thanh tịnh,
ĺa trọn vẹn phàm t́nh thánh kiến “ta, người,
chúng sanh, thọ giả”, chứng trọn vẹn Chân
Như diệu tâm thường - lạc - ngă - tịnh. Không
trụ vào đâu để sanh tâm, không có ǵ để đạt
được mà thành Phật, thật đúng là vô thượng
diệu pháp để tam thế chư Phật trên thành Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh, tu trọn vạn
hạnh nhưng một pháp chẳng lập. V́ thế,
người thọ tŕ phước đức quả báo chẳng
thể nghĩ bàn. Do vậy, danh nhân xưa nay đa phần
đều thọ tŕ, biên chép kinh này, ấy là v́ muốn cho
dân chúng đều lần lượt được hiểu
đạo tự giác này. Cư sĩ Hưu Tử
Đường Thiên Tước xưa có linh căn dốc
ḷng tin tưởng Phật pháp, kiến địa cao siêu,
thư pháp tinh diệu, riêng viết kinh này, cho khắc
đá để lưu truyền, ḥng tiếp nối chí hướng,
sự nghiệp của các vị Âu Dương Tuân, Triệu
Mạnh Phủ, Đổng Kỳ Xương[51].
Công đức ấy chỉ có Phật mới biết
được; do vậy, chẳng nề hà hèn kém, lược
thuật nghĩa kinh để thưa cùng người
đọc, ngơ hầu cùng lên được bờ giác.
68. Lời tựa khắc in lưu thông cuốn
Phật Di Giáo Kinh Giải
Phật ân rộng lớn, trọn
khắp chẳng cùng tận vậy thay! V́ sao nói thế? Do
hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều
có thể thành Phật. Chỉ v́ mê chưa ngộ nên đến
nỗi ngược ngạo dùng sức công đức của
Phật tánh để lầm lạc khởi tham - sân - si
nơi sáu trần cảnh, tạo giết - trộm - dâm. Do
Hoặc tạo nghiệp, do nghiệp thọ báo, trải
bao kiếp lâu xa thường bị luân hồi sáu nẻo,
trọn chẳng có lúc ra. Phật trong kiếp xưa biết
điều này rồi, liền phát đại nguyện, muốn
cho hết thảy chúng sanh tận hư không trọn pháp giới
đều cùng ngộ Phật tánh vốn sẵn có, cùng
thoát sanh tử luân hồi, cùng thành vô thượng giác đạo,
cùng nhập Vô Dư Niết Bàn. Do vậy, v́ khắp pháp giới
chúng sanh trải bao nhiêu kiếp lâu xa hành Bồ Tát đạo,
chỉ cần điều ǵ có lợi ích th́ không ǵ chẳng
hưng khởi, đề cao, tu trọn Lục Độ nhưng
chẳng chấp vào một pháp nào, làm được hạnh
khó làm, nhẫn được điều khó nhẫn. Hành bố
thí th́ quốc thành, vợ con, đầu, mắt, tủy,
năo đều chẳng tiếc nuối. Do đó, kinh Pháp Hoa
nói: “Ta thấy Thích Ca Như Lai
trong vô lượng kiếp, [hành] hạnh khó, hạnh khổ,
tích công chứa đức, cầu đạo Bồ Đề
chưa từng ngưng nghỉ. Xem khắp tam thiên đại
thiên thế giới, thậm chí chẳng có chỗ nào chừng
bằng hạt cải chẳng phải là nơi Bồ Tát
xả thân mạng v́ chúng sanh. Sau đấy, mới thành
đạo Bồ Đề”. Chỉ một hạnh bố
thí này dẫu thọ một kiếp c̣n chẳng thể nói
trọn được, huống chi những thứ khác
như tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, trí huệ cũng như Tứ Nhiếp[52],
vạn hạnh nữa ư? Đến khi Hoặc nghiệp
hết sạch, phước huệ viên măn, chứng thấu
suốt tự tâm, thành vô thượng đạo, v́ khắp
chúng sanh nói ra pháp Phật đă chứng là v́ muốn cho họ
đều cùng đắc pháp Ngài đă đắc.
Nhưng
v́ thượng căn ít ỏi, trung - hạ lại nhiều,
nên Phật bèn tùy cơ lập giáo, khiến cho ai nấy tùy
phận được lợi ích. Đến khi một kỳ
sự nghiệp đă xong, liền nhập Niết Bàn,
nhưng vẫn chẳng bỏ ḷng đại bi, thị hiện
thành Chánh Giác trong những thế giới phương khác
để tế độ. Thị hiện sanh trong cơi này
và thế giới phương khác như vậy cố nhiên
chẳng thể dùng toán số, thí dụ để diễn
tả được nổi. Ví như mặt trời sáng
rỡ, v́ chiếu cơi đời, mọc - lặn chẳng
đứng yên. Cũng như người lái thuyền v́
để chở người nên qua lại không ngừng. Nếu
xét theo chuyện xuất thế lần này th́ [Phật giáng
thế] vào năm 26 đời Châu Chiêu Vương[53], mười
chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành đạo,
giảng kinh hơn ba trăm hội. Do v́ không căn cơ
nào chẳng gồm thâu, không pháp nào chẳng trọn vẹn;
lại do hạng trung hạ căn tự lực yếu
hèn, chẳng thể thoát sanh tử ngay trong một đời
này, dù có tu tŕ nhưng phiền hoặc chưa đoạn,
nếu thọ sanh lần nữa sẽ bị mê mất rất
nhiều. Do vậy, riêng mở ra pháp môn tín nguyện niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho dù thánh
hay phàm, dù ngu hay trí đều cùng trong đời này văng sanh
Tây Phương. Kẻ thượng căn mau thành Phật
đạo, kẻ trung hạ vĩnh viễn thoát luân hồi.
Quả thật là đạo thông đạt để tam
thế chư Phật phổ độ chúng sanh, là diệu
pháp để chúng sanh trong chín giới mau chứng Phật
quả. Nhưng chỉ cần đầy đủ ḷng tin
chân thành, nguyện thiết tha, chí thành khẩn thiết tŕ
danh hiệu Phật để cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, bất luận công phu sâu - cạn,
Hoặc nghiệp nặng - nhẹ, không ai chẳng
được Phật nhiếp thọ đới nghiệp
văng sanh như thuyền cứu người chết đuối
không hề chọn lựa. Chỉ những kẻ tín nguyện
chẳng thật, tâm hạnh trái nghịch với Phật
là không được Phật tiếp dẫn.
Phật
nghĩ thương chúng sanh từ vô thỉ trước
đến tận vị lai sau, trên lên đến bậc
Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến lục
đạo phàm phu, không một ai chẳng thuộc vào đại
bi thệ nguyện mênh mông. Ví như hư không bao hàm hết
thảy, sâm la vạn tượng cho đến trời
đất thảy đều chứa đựng hết.
Cũng như nhật nguyệt chiếu khắp muôn
phương, dẫu kẻ mù từ lúc lọt ḷng chẳng
thấy được ánh sáng cũng vẫn được
ánh mặt trời, mặt trăng chiếu đến mà
được làm người. Nếu không có ánh mặt trời
chiếu rọi ắt chẳng có duyên sống c̣n, nào phải
chỉ những người tự thấy được
ánh sáng mới được nhờ ơn ư? Những kẻ
Thế Trí Biện Thông cậy vào kiến giải câu nệ,
hẹp ḥi, chê bai Phật pháp, cho là có hại cho thánh đạo,
bịp đời, dối dân, trọn chẳng khác ǵ kẻ
mù từ lúc lọt ḷng chửi mặt trời, cho là mặt
trời không có ánh sáng vậy! Hết thảy ngoại đạo
đều trộm lấy ư nghĩa trong kinh Phật cho là
chính ḿnh có, lại c̣n trộm lấy những danh từ của
Phật pháp để hành tà pháp. Do vậy biết Phật
pháp chính là gốc đạo của hết thảy pháp thế
gian, xuất thế gian vậy.
Ví
như biển cả chảy ngầm dưới đất,
những chỗ nó tưới tắm, chảy lộ ra
ngoài chính là vạn con sông; nhưng vạn con sông, không con nào
chẳng đổ vào biển cả. Những kẻ báng Phật
kia đâu phải là báng Phật mà chính là tự báng ḿnh đấy
chứ! Bởi lẽ một niệm tâm tánh của họ
toàn thể là Phật nên Phật mới thuyết pháp giáo
hóa đủ cách như thế, mong cho họ bỏ mê quy ngộ,
tự chứng được Phật tánh sẵn có mới
thôi. Do Phật tánh quan trọng nhất, đáng mến tiếc
nhất, nên Phật chẳng tiếc công sức như thế.
Dù kẻ ấy chẳng tin nhận th́ cũng chẳng nỡ
buông bỏ. Nếu chúng sanh chẳng sẵn đủ Phật
tánh, chẳng kham làm Phật, Phật cứ uổng công lập
bày như thế, hóa ra nếu chẳng phải là gă khờ
bậc nhất trong thế gian th́ cũng là gă đại vọng
ngữ bậc nhất trong thế gian ư? Thiên long bát bộ,
tam thừa thánh hiền há chịu hộ tŕ, y chỉ Phật
hay sao?
Phật
Di Giáo Kinh chính là di chúc khi sự nghiệp một đời
đă xong xuôi, sắp nhập Niết Bàn, Phật thiết
tha dặn ḍ hàng đệ tử và hết thảy chúng
sanh. Văn tự tuy giản lược, nhưng nghĩa
lư thật châu đáo. Kinh dạy tôn trọng kính quư Ba La
Đề Mộc Xoa như tôn trọng kính quư đức Thế
Tôn. Nếu tôn trọng giới luật của Phật như
vậy th́ sẽ như thường ở sát bên Phật,
không xa cách chút nào. Do vậy, Phật dạy: “Phải biết đây chính là
đại sư của các ông, giống như ta đang ở
trong đời chẳng hề khác ǵ!” Tiếp đó,
kinh nói đến Giới Tướng, lợi ích tŕ giới,
những tổn thất do không tŕ giới, và những pháp
chế tâm, ăn uống có chừng mực v.v… dặn ḍ cặn
kẽ nhiều lượt, không điều nhỏ nhặt
nào chẳng nhắc tới. Dẫu là mẹ hiền sắp
sửa qua đời, v́ con cái tính kế cũng chẳng thể
châu đáo được như vậy. Thật có thể
nói là đổ tim đổ gan, mỗi một chữ là một
bụm máu. Là đệ tử Phật, nên nỗ lực tu
tŕ như thế nào để khỏi phụ ḷng Phật
mong mỏi, người chưa biết Phật pháp phải
nên cảm kích hành theo như thế nào để khỏi cô
phụ ơn sâu ấy. Những lời ấy dường
như chuyên dạy cho hàng tỳ-kheo, nhưng thật ra ngụ
ư dạy trọn khắp hết thảy phàm - thánh trong chín
pháp giới, không sót một ai! Bởi lẽ bậc viên đốn
thọ pháp, không pháp ǵ chẳng viên. Phật dùng một âm
thanh nói pháp, chúng sanh tùy loại đều hiểu, há lẽ
di giáo sáng rỡ này chẳng thích ứng với Tam Hiền
Thập Thánh ư? Nhưng Phật xem hết thảy chúng
sanh đều như con một; ngay trong lúc sắp nhập
diệt ấy, nỡ nào chẳng khuyến khích, khuyên
lơn thêm ư? Những kẻ bàn luận trong đời
sau, đa phần cho rằng kinh này dành cho hạng căn
cơ nhỏ nhoi và chỉ răn dạy riêng cho hàng tỳ-kheo,
khiến cho tâm quang chiếu khắp chín pháp giới rốt
cuộc trở thành những giáo huấn dành cho hạng xuất
gia Tiểu Thừa, chẳng đáng đau tiếc ư?
Cư
sĩ Trần Nguyên Tôn túc căn sâu dầy, học vấn
uyên bác, thuở đầu chưa thấy được
kinh Phật cũng noi dấu bọn Hàn, Âu, Châu, Tŕnh, mấy
năm gần đây mở đọc kinh Phật mới
biết Phật là thánh nhân của các thánh, là trời đối
với các trời, tất cả ngôn giáo không ǵ chẳng phù
hợp Nho giáo, dùng để b́nh trị cơi đời th́
đạo cách vật trí tri, chánh tâm thành ư, tu - tề - trị
- b́nh mới được viên măn rốt ráo. Bởi lẽ
Nho Giáo chỉ nói đến đời này, c̣n Phật bàn trọn
vẹn ba đời. Nếu thật sự biết nhân quả
ba đời, dù hằng ngày chẳng muốn cầu lấy
cách vật trí tri, thành ư chánh tâm tu thân cũng chẳng
được! Trong đời những kẻ miệng nói
phải, tâm sai trái, làm ra vẻ hiền lành nhưng ngầm
làm ác đều là v́ không biết “tâm thông pháp giới”
cũng như không biết tam thế nhân quả mà ra. Nếu
như biết th́ dù là hạng cực hèn kém, cũng chẳng
chịu đối trước gương sáng hiện các
tướng xấu, để chịu xấu hổ vậy!
Tiếc
rằng cơi đời phần nhiều không biết, đến
nỗi chính ḿnh an hưởng phú quư, sang cả, lại sai giết
người đầy thành, ngập ruộng, chẳng
thương xót mảy may. Than ôi! Đau đớn thay ḷng
người đời Mạt! Tàn nhẫn đến cùng cực!
Nếu không có thuyết nhân quả ba đời của
Như Lai th́ những kẻ được hết tuổi
thọ mới chết cũng sẽ hiếm hoi lắm! Nếu
có muốn xuất thế cũng chẳng cần phải
làm phương cách chi khác, chỉ cần y theo ngôn giáo của
Phật đối trị phiền năo tập khí cho hết
sạch không c̣n sót thừa ǵ th́ dù thân ở trong cảnh tục,
vẫn chẳng ngại đoạn Hoặc chứng chân,
liễu sanh thoát tử, hướng đến Phật quả,
giống như cư sĩ Duy Ma ở Tây Thiên và Phó Đại
Sĩ, Lư Trưởng Giả, Bàng cư sĩ v.v… ở cơi
này. Nếu như không đủ sức th́ c̣n có một pháp
cậy Phật từ lực văng sanh Tây Phương để
nhờ cậy được. Há phải đâu hết thảy
mọi người đều phải bỏ cơi tục xuất
gia mới là đệ tử Phật ư? Những kẻ
nào nói Phật pháp vứt bỏ luân lư, trái nghịch thánh
giáo đều là do chưa đọc kinh Phật, chẳng
biết v́ sao Phật thành Phật, lầm lạc dùng ư kiến
ức đoán của phàm phu để phán đoán hồ
đồ!
Do
vậy, nói: Muốn rốt ráo văn hồi thế đạo
nhân tâm mà không đề xướng, xương minh Phật
pháp sẽ không thể được! [Ông Trần Nguyên Tôn]
cảm kích ân Phật thật sâu đậm, thiết tha, lại
muốn cho hết thảy đồng nhân cùng biết đến
ân Phật, đem kinh Phật Di Giáo, dùng lời lẽ phổ
thông để chú thích ư nghĩa ngơ hầu chánh khách, giới
học thuật, thương gia, nông gia, nhân sĩ các giới
đều được thấm gội từ ân của
Phật, chẳng đến nỗi sẵn có Phật tánh
mà thường bị mê mất, trầm luân măi măi trong biển
khổ sanh tử, không thể ra được! Ông ta muốn
khắc in để lưu hành, cậy Quang viết lời
tựa. V́ ân sâu đức dầy của Phật nhiều
người chưa biết nên Quang tŕnh bày đại
lược. C̣n như tấm ḷng đại từ bi v́
chúng sanh, người đọc sẽ tự cảm nhận
được qua những ǵ đă nói trong kinh, nên chẳng
tŕnh bày cặn kẽ!
Ôi
chao! Phật v́ chúng sanh dẫu thiên địa, phụ mẫu
cũng chẳng thể sánh ví được một phần
hằng hà sa số! Tôi trước kia đă lậm chất
độc của họ Hàn, họ Âu, làm gă Nhất Xiển
Đề, may chưa bị sa lầy trong đời này,
may mắn được gặp Phật pháp, chỉ sợ
những người giống như tôi chưa chắc
đă được may mắn gặp gỡ Phật pháp
như tôi. Do vậy, thốt lời mổ tim vẩy máu này,
những mong ai nấy trên chẳng cô phụ ân Phật,
dưới chẳng phụ tánh linh của chính ḿnh mà thôi!
69. Lời tựa sách Tâm Kinh Thiển Giải
Rơ ràng là tâm, Phật, chúng sanh ba
pháp không sai biệt. Cái tâm vô sai biệt ấy hư linh
đỗng triệt, trong lặng thường hằng vừa
tịch vừa chiếu, chẳng phải có, chẳng phải
không, dứt tuyệt danh xưng thánh - phàm, không có h́nh ảnh
sanh diệt huyễn vọng. Ĺa tâm duyên tướng, v́ thế
t́nh thức chẳng suy lường được. Vượt
khỏi cửa ải văn tự, v́ thế ngôn ngữ chẳng
thể h́nh dung được. Như Lai trí huệ rộng
lớn, tự tại nơi pháp, khéo dùng lời lẽ
để tỏ bày đạo vượt ngoài ngôn ngữ,
nói rộng hay lược đều phù hợp, đều
đạt đến chỗ khéo léo viên măn. Do vậy, kinh
Đại Bát Nhă nói rộng, ước theo Phật pháp,
chúng sanh pháp để chỉ rơ tâm pháp nên nhiều đến
sáu trăm quyển. C̣n kinh này nói giản lược, ước
trên tâm pháp để dạy rơ Phật pháp và chúng sanh pháp nên
văn từ chỉ có hai trăm sáu mươi chữ;
nhưng sự - lư, nhân - quả của mười pháp giới
không ǵ chẳng đầy đủ. Dùng đại lược
để nhiếp sự rộng răi, không sót một
nghĩa nào.
Nếu
nói giản ước th́ hai câu “chiếu
kiến Ngũ Uẩn giai không, độ nhất thiết
khổ ách” (soi thấy Ngũ Uẩn đều không,
vượt hết thảy khổ ách) chính là mấu chốt
của toàn bộ bản kinh. Nếu nói giản lược
hơn nữa th́ một chữ “Chiếu”
pháp nào cũng phô bày trọn vẹn, pháp ǵ cũng hoàn toàn mất,
phô bày lẫn diệt mất đều vắng lặng, Nhất
Chân tỏ lộ rốt ráo. Quán Tự Tại là người
đă chứng đắc cái tâm ta trước hết, chúng
ta há chẳng học theo Ngài ư? Thật có thể gọi
là “tâm ấn của Như Lai,
cương tông của Đại Tạng, kim chỉ nam cho
chín pháp giới, mấu chốt của Đại Bát Nhă”,
nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, công đức cũng
chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, xưa nay những
người thọ tŕ, đọc tụng trọn khắp
vũ trụ; người trước thuật hoằng
dương khó thể kể xiết. Lư tuy rất sâu,
nhưng từ ngữ phải phù hợp căn cơ. Nếu
không, tuy khế lư nhưng chẳng khế cơ! Cư
sĩ Lư Ḥa Lạc tri kiến viên dung, văn tự hoạt
bát, muốn cho kẻ sơ cơ dễ hiểu nên dùng
văn Bạch Thoại để thiển giải (giải
thích nông cạn, sơ lược). Bàn về lư thật hết
sức thấu triệt, nhưng chỉ dùng những từ
ngữ thật phổ thông, Đại Vân đăng tải
trước, rồi cho in lại thành sách, vui sướng
ḷng người. Soạn xong lại khắc in lưu truyền
măi măi khắp cơi. Quang tầm thường, kém cỏi, thiếu
khả năng, khôn ngăn kính ngưỡng, kính cẩn viết
lời tựa dẫn giải để giúp lưu thông vậy!
70. Lời tựa thuật duyên khởi sách
Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Hết thảy các pháp thế
gian, xuất thế gian đều do thời tiết, nhân
duyên mà phát khởi. V́ thế, cổ đức nói: “Nếu thời tiết đến,
lư tự tỏ bày”. Thật đúng là như thế!
Quang tầm thường, kém cỏi, trăm chuyện chẳng
làm được một điều nào, ăn bám chùa Pháp
Vũ ở núi Phổ Đà ba mươi hai năm. Trước
kia đọc Phổ Đà Chí, thấy những điều
ghi chép trong ấy đều thuộc chuyện hưng - phế
của đạo tràng và những chuyện tầm thường
như vậy. C̣n như sự - lư, bổn - tích trong những
kiếp xưa của Quán Âm Đại Sĩ cũng như
những nhân duyên Ngài cảm ứng trong cơi này đều
thiếu sót, sơ sài, khôn ngăn người ta phải thở
dài! Năm Dân Quốc thứ sáu (1917), ba vị cư sĩ
Vương Thái Thần, Châu Hiếu Hoài, Trần Tích Châu lên
núi t́m gặp. Ông Vương, ông Châu nói Phổ Đà là
đạo tràng thánh địa của Quán Âm Đại
Sĩ, trong nước, ngoài nước đều kính
ngưỡng, sao lại băi bỏ ṭa giảng đă lâu, nỡ
để pháp đạo tịch mịch? Xin thầy hăy
phát tâm giảng kinh, chúng con sẽ v́ thầy trù liệu, lo
toan chi phí. Quang viện cớ ḿnh kém cỏi, hết sức
từ chối. Ông Tích Châu bèn nói:
- Sơn Chí đă lâu không tu chỉnh,
bản gỗ khắc đă mờ câm. Nếu thầy chịu
sửa chữa, con sẽ khắc in.
Quang
nói:
-
Chuyện ấy nào phải dễ dàng. Nếu chiếu theo
lệ cũ th́ phải là văn nhân mới làm nổi. Nếu
đem những chuyện tu - chứng, bổn - tích trong những
kiếp xưa kia của Đại Sĩ và những sự
tích cảm ứng trong phương này, mỗi chuyện
đều lược thuật những nét chánh khiến
cho người đọc đều biết ân Đại
Sĩ trọn khắp các cơi số lượng nhiều
như cát, ḷng từ tế độ không ngằn mé; từ
đấy, phát khởi chánh tín, thân tâm quy y, gần là đạt
được phước trong đường trời - người,
xa là chứng quả Bồ Đề, mà không xem khắp
Đại Tạng, tra cứu đủ mọi sách vở
sẽ không thể làm được. Nếu chẳng phát
huy các sự - lư, bổn - tích, cảm ứng của Đại
Sĩ th́ chính là bỏ chủ dốc chí nơi khách, bỏ
gốc theo ngọn, có khác ǵ những sơn kinh thủy chí[54] tầm
thường? Làm sao tỏ rơ Phổ Đà là đạo
tràng ứng hóa của Đại Sĩ, lại sao có thể
tỏ rơ Đại Sĩ là bậc cha mẹ đại từ
bi của pháp giới chúng sanh, có nhân duyên rất sâu đối
với chúng sanh trong cơi Sa Bà cho được? Nhưng Quang
do túc nghiệp đến nỗi tâm không tri thức, mắt
gần như mù ḷa, c̣n phải sám hối một hai năm
đợi đến lúc nghiệp tiêu trí rạng, chướng
hết mắt sáng th́ sẽ chẳng tiếc thân mạng gắng
làm cho thành tựu. Nếu như nghiệp nặng chẳng
thể cảm ứng để trừ khử cho hết [nghiệp
chướng] được th́ sẽ qua Giang Tây, cầu
cư sĩ Lê Đoan Phủ thay Quang lo liệu việc này.
Ông này học vấn quán thông Nho - Thích, văn tài xuất
chúng, ắt phát huy được tâm hạnh, sự tích từ
bi của Đại Sĩ.
Năm
sau, cư sĩ Từ Úy Như đem Văn Sao ấn hành,
khiến cho những ai không xem xét kỹ, lầm tưởng
Quang là bậc tri thức, từ đấy, thư từ
qua lại, ngày càng không rảnh rỗi để làm. Mùa Xuân
năm Dân Quốc thứ tám (1919), ông Đoan Phủ quy Tây,
cái tâm đă phát trước kia trở thành chuyện nói
xuông. Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 11 (1922), Tri Sự[55]
vùng Định Hải là ông Đào Tại Đông lên núi cho
biết: “Sơn Chí được lưu thông sẽ khiến
cho ai nấy do tin tưởng đều cải ác làm lành,
phản vọng quy chân, quả thật là nhiệm vụ quan
trọng để văn hồi thế đạo nhân tâm, hăy
nên gấp rút tu chỉnh”. Quang thấy tâm ông Đào hộ
pháp khẩn thiết, ḷng cứu thế ân cần, liền thưa
với chủ nhân hai chùa Phổ Tế và Pháp Vũ khẩn
khoản xin ông Đào đích thân đảm nhiệm chuyện
này. Ông Đào do bận bịu việc công, bèn ủy thác vị
nhân sĩ trong vùng là ông Vương Nhă Tam đảm nhiệm.
Hết thảy sự việc th́ ngoài có ông Đào, trong núi
có ḥa thượng Khai Như đă thoái ẩn[56] cùng
thương lượng, châm chước lo liệu, Quang
không rảnh rỗi nên tuyệt chẳng hề hỏi
đến. Năm sau, ông Đào được thăng chức,
chuyển lên huyện Hàng, nhưng vẫn gởi thư từ
qua lại để bàn bạc, châm chước chuyện
này. Nếu chẳng phải xưa đă từng được
Đại Sĩ phó chúc, há có được như thế
hay chăng? Lúc mới vừa bàn bạc chuyện tu chỉnh
Sơn Chí xong xuôi, chưa đầy một tháng th́ cư
sĩ Hứa Chỉ Tịnh từ Bành Trạch, Giang Tây,
đến viếng thăm, vừa gặp gỡ liền thành
[bè bạn] thuận thảo. Quang thuật đầu
đuôi chuyện cũ, đem chuyện sách Đại
Sĩ Tụng nhờ vả, ông bèn chấp thuận ngay. Nếu
chẳng phải là Đại Sĩ thầm gia bị, sao
có dịp gặp gỡ như vậy cho được?
Ông
Hứa bèn tra cứu khắp Kinh Tạng và các sách vở, phải
mất hai năm mới hoàn thành bản thảo, soạn
thành tụng văn gần hai vạn chữ. Lại c̣n chú
thích ư nghĩa để người đọc biết hết
căn cội. Lại trích lục các kinh để làm chứng
cớ. Tụng Văn gồm ba quyển, dẫn chứng từ
kinh văn gồm một quyển, tổng cộng hơn
ba trăm bảy mươi trang, được gởi
đến [Phổ Đà] vào đầu mùa Hạ. Những
ư nghĩa của Tụng Văn đă được tŕnh
bày trong lời tựa của ông Hứa; ở đây không
nhắc lại nữa. Trước kia, Quang vốn muốn
đặt phần này vào đầu bộ Sơn Chí, nay v́
số quyển quá nhiều, nên đặc biệt cho khắc
in riêng để lưu truyền khắp hậu thế. Nếu
in chung với bộ Sơn Chí ắt khó thể lưu truyền
rộng khắp được. Đại Sĩ từ vô
lượng kiếp đến nay phân thân trong các cơi nhiều
như bụi trần, bổn - tích cảm ứng của
Ngài chỉ ḿnh Phật biết được nổi. Mấy
quyển tụng văn này chẳng qua chỉ là một hạt
bụi nơi đại địa, một giọt nước
trong biển cả, khiến cho những ai chẳng biết
ḷng từ sâu xa, ḷng bi lớn lao của Đại Sĩ sẽ
biết được đại khái. Từ đấy, hổ
thẹn, đột nhiên dũng mănh nói: “Tâm của chúng ta và
tâm của Đại Sĩ không hai không khác, Đại
Sĩ đă viên thành Phật đạo bao kiếp lâu xa, lại
dùng bi tâm vô tận chẳng ĺa cơi Tịch Quang, thùy tích[57]
trong chín giới hiện đủ mọi sắc thân độ
thoát chúng sanh. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến
nay luân hồi sáu nẻo, được hưởng ân dẹp
khổ ban vui của Ngài không biết là bao nhiêu! Măi cho đến
ngày nay, vẫn c̣n là phàm phu. Trên đă phụ thâm ân Đại
Sĩ cứu vớt, dưới phụ bạc Phật
tánh sẵn có của chính ḿnh. Lặng im suy nghĩ, há không
thẹn đến chết ư? Ngài đă là trượng
phu th́ ta cũng thế. Chẳng nên tự khinh để rồi
lui sụt!”
Do
vậy, chuyển biến phàm t́nh noi theo dấu Thánh, khắc
kỷ, giữ lễ, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, tận
lực hành điều thiện thế gian, kiêm tu Tịnh
nghiệp, lâu dần đều được biến
đổi. Bậc thượng th́ ngay trong đời này
đoạn Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử, bậc
hạ th́ đến lúc lâm chung cậy vào Phật từ lực
văng sanh Tây Phương. Được như thế th́ ai
nấy đều giữ vẹn lễ nghĩa, ai nấy
biết nhân quả, tự nhiên can qua dứt, tai họa do
con người gây ra vĩnh viễn dứt mất, mưa thuận
gió ḥa, quyến thuộc trời thường đến. Nhiệm
vụ trọng yếu căn bản để văn hồi
thế đạo nhân tâm như ông Đào đă nói chính là chuyện
này! Mong sao những ai thấy nghe đều cùng phát ḷng kính
ngưỡng Đại Sĩ, gắng sức tu tập th́
may mắn lắm thay!
71. Lời tựa in lại sách Giáo Quán
Cương Tông Thích Nghĩa Kỷ
Biển Giáo mênh mông, rộng sâu
chẳng thể lường; nếu chẳng có ǵ để
chỉ quy sẽ mịt mờ không biết hướng về
đâu. Do vậy, đại sư Trí Giả vào đời
Trần - Tùy dùng Ngũ Thời Bát Giáo để phán định
những pháp đă nói trong suốt cả một đời
của đức Như Lai, hiển lộ bản hoài xuất
thế của Như Lai. Phật chỉ muốn cho hết
thảy chúng sanh cùng thành giác đạo, nhưng do căn cơ,
khí lượng bất nhất, nên lại tùy thuận
cơ nghi, dần dần khuyến dụ khéo léo, v́ Thật
lập ra Quyền để tiếp dẫn. Đợi
đến khi họ đă được lợi ích nơi
Quyền, bèn khai Quyền hiển Thật cùng quy vào bí tạng,
mới biết nguyên do “tâm, Phật,
chúng sanh, ba thứ không sai biệt; Phật như, chúng sanh
như, nhất như, vô nhị như”. Có thể nói là
giương Phật nhật trong không trung chiếu khắp
cơi đất, trao Quả Giác cho đứa con nghèo cùng, sai
nó nối ngôi đấng Pháp Vương.
Nhưng
do văn từ quá nhiều chẳng thuận tiện cho kẻ
sơ cơ, nên Ngẫu Ích đại sư mới thâu tóm những
nghĩa trọng yếu, soạn ra sách Cương Tông. Những
chỗ nào ư nghĩa bị ẩn kín bèn giải thích đại
lược để người học biết hết ư
nghĩa Như Lai thuyết giáo và pháp nương theo Giáo
để tu Quán. Có chỗ giống như chỉ dẫn
đi về núi báu, trao thẳng Ma Ni bảo châu cho. Từ
đấy, hiểu rơ: Không chỉ Đệ Nhất
Nghĩa Đế “viên diệu bất sanh bất diệt,
chẳng phải có, chẳng phải không” là tâm ấn của
Như Lai, mà ngay cả những pháp thiên - nhân - Quyền - Tiểu
v.v… và những lời lẽ xử sự trong đời,
những nghề nghiệp để kiếm sống v.v…
không ǵ chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa Đế,
đều là tâm ấn của Như Lai. Ví như vẽ rồng
điểm mắt, rồng lập tức bay lên. Do pháp
không có tự tánh, chuyển biến do tâm, người
căn cơ viên măn thọ pháp, không pháp nào chẳng viên.
Mặc
Am Pháp Sư dùng cách thích nghĩa (giải thích ư nghĩa)
để chú thích dưới mỗi phần. Lại c̣n soạn
phần Kỷ[58] để
mong người đọc vừa đọc đến liền
hiểu rơ. Người học có được bộ sách
này đỡ tốn tâm lực, lại dễ lănh hội,
may mắn chi bằng? Trưởng lăo Pháp Dụ chùa Bảo
Luân tại Duy Dương muốn in lại để truyền
bá rộng răi, sai Quang giảo chánh những chỗ sai lầm
và trần thuật duyên khởi vậy.
72. Lời tựa cho Phật Học Nghiên Cứu
Tùng Thư của Thế Giới Cư Sĩ Lâm tại
Thượng Hải
Chúng sanh và Phật tâm tánh như
một, trọn chẳng có hơn - kém cũng như tăng-
giảm, nhưng Phật an trụ trong Tịch Quang, chúng
sanh luân hồi trong sanh tử, là v́ ngộ và chưa ngộ,
và do thuận tu - nghịch tu mà ra. Như Lai biết chúng
sanh đều có đủ Phật tánh, đều kham làm
Phật. Do vậy, thị hiện sanh trong thế gian, thị
hiện thành Chánh Giác, tùy cơ diễn nói hết thảy
pháp môn Quyền - Thật để kẻ lợi căn
ngay từ đó khai - thị - ngộ - nhập tri kiến
Phật; những kẻ độn căn cũng dần dần
được un đúc nên được ngộ nhập.
Đợi đến khi ngộ - chứng cùng cực mới
khôi phục lại Phật tánh sẵn có, mới ĺa khỏi
danh tướng “phàm - thánh, chúng sanh - Phật” sai biệt.
Đấy chính là “làm cho hết
thảy chúng sanh đều nhập vào Vô Dư Niết Bàn
để được diệt độ, nhưng quả
thật không có chúng sanh nào được diệt độ”.
Ôi!
Tâm Như Lai độ sanh có thể nói là từ bi đến
cùng cực, không c̣n ǵ hơn được nữa! Về
sau, chư Bồ Tát, tổ sư, thiện tri thức, ai nấy
đều tiềm tu mật chứng, hoằng truyền,
xiển dương, phát huy để trên th́ nối tiếp
huệ mạng Như Lai, dưới làm bến bờ cho
chúng sanh. Từ khi pháp truyền sang Đông Chấn (Trung
Hoa), một ngàn mấy trăm năm qua, những kẻ ngộ
tự tánh, đoạn phiền hoặc, thoát sanh tử, chứng
Niết Bàn làm sao kể xiết! Những người nối
tiếp kế thừa c̣n có thể thay đổi phong tục,
chiến thắng tàn bạo, khử trừ giết chóc, khiến
cho dân ngày càng hướng thiện nhưng chẳng biết
v́ sao! Do vậy, xưa nay những bậc cao nhân lỗi lạc
vượt trỗi hơn người không ai chẳng dùng
pháp này để tự hành, hóa độ người ngơ hầu
thiên hạ thái b́nh, muôn nước đều yên ổn.
Đến thời Hàm Phong - Đồng Trị nhà Thanh, chiến
tranh liên tiếp xảy ra, pháp vận suy sụp dần.
Về
sau, băi bỏ cử nghiệp, những người thiên
tư cao ai nấy ngoài các môn khoa học ra c̣n nghiên cứu thêm
Phật pháp, mới biết [Phật pháp] là đạo duy
nhất vô nhị trong thế gian. Trong lúc thế đạo
nhân tâm đă suy hăm đến cùng cực này, muốn cứu
văn mà chẳng xương minh Phật học th́ không c̣n có
cách nào hết. Do vậy, ai nấy đều lấy việc
đề xướng Phật học làm nhiệm vụ cấp
bách, nên hội Nghiên Cứu, Cư Sĩ Lâm được
lập ra khắp nơi. Pháp chẳng chấp nhất, tùy
theo căn cơ con người, dù Thiền hay Giáo, dù Hiển
hay Mật, thảy đều tu tŕ và phát huy. Lại c̣n chú
trọng pháp môn Tịnh Độ để mong người
đă ngộ và kẻ chưa ngộ, đều cùng trong
đời này thoát ly sanh tử luân hồi. Ấy là v́ chúng
sanh đời Mạt Pháp tự lực yếu hèn, nếu
không nhờ vào Phật lực, quyết khó thể giải
thoát ngay trong đời này. Trong hội Hoa Nghiêm, Hoa Tạng
hải chúng, Đẳng Giác Bồ Tát c̣n dùng mười
đại nguyện vương hồi hướng văng
sanh, huống ǵ những kẻ học Phật trong đời
Mạt ư? Do vậy, biết pháp môn Tịnh Độ
chính là pháp môn thành thủy thành chung để mười
phương ba đời hết thảy chư Phật
trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng
sanh.
Thượng
Hải là nơi quan trọng của toàn quốc, các cư
sĩ trong Cư Sĩ Lâm muốn phổ biến pháp hóa của
Phật, ngoài việc giảng kinh niệm Phật ra, mỗi
quư (ba tháng) lại ra một số Lâm San ngơ hầu thúc
đẩy rộng răi. Nay lại tiếp tục cho ra đời
Phật Học Nghiên Cứu Tùng Thư. Đối với
các bộ Khởi Tín Luận, Lăng Nghiêm Kinh Chỉ Yếu,
đối với những kinh luận sâu xa uyên áo đều
dùng những lời lẽ rơ ràng, giản dị để
phát huy, ngơ hầu người sơ cơ dễ lănh hội,
ḥng khỏi bị nỗi khổ “do không phù hợp nên không
thâm nhập được”, đều được
hưởng lợi ích “do ngón tay chỉ mà thấy
được mặt trăng”. Từ đây, tiếp tục
ấn hành lưu truyền để tỏa rạng ánh sáng
Phật nhật, khiến hết thảy đồng nhân
cùng ngộ thiên chân Phật tánh sẵn có, ngơ hầu khỏi
phụ đại sự nhân duyên xuất thế của
Như Lai, mà chuyện văn hồi thế đạo nhân tâm
cũng có thể lấy đây làm căn cứ. Phàm những
ai đồng hàng với tôi ai nấy nên giúp đỡ
để [cuốn Tùng Thư này] được truyền
bá khắp pháp giới vậy.
73. Lời
tựa sách Kim Cang Công Đức Tụng
Lục Độ là pháp trọng
yếu để Bồ Tát trên cầu Phật đạo,
dưới độ chúng sanh. Nhưng năm Độ [đầu
tiên] như kẻ mù, Bát Nhă như người hướng
dẫn. Năm Độ nếu thiếu Bát Nhă th́ chẳng
thể rốt ráo đến bờ kia, chẳng thể gọi
là Ba La Mật. Bát Nhă như tâm, năm Độ kia như
thân. Bát Nhă không có năm Độ th́ cũng chẳng thể
rốt ráo đến được bờ kia, chẳng
được gọi là Ba La Mật! Nếu hai thứ này
đều đầy đủ th́ mỗi một Độ
đều rốt ráo đến được bờ kia,
đều được gọi là Ba La Mật. Kinh Kim Cang
chính là khuôn phép để phát Bồ Đề tâm, hành Bồ
Tát đạo, tu khắp lục độ vạn hạnh.
Do kinh văn giản lược chỉ nêu bố thí làm mẫu,
như chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp để hành bố thí v.v… nên có thể độ
thoát hết thảy chúng sanh, nhưng chẳng thấy ta là
người độ và pháp dùng để độ
cũng như tướng chúng sanh được độ,
th́ bốn tướng chẳng sanh, ba tâm[59]
há được? Không trụ vào đâu để sanh tâm,
vô sở đắc để làm Phật. Do vậy, thọ
tŕ bốn, ba, hai, một câu th́ công đức khó thể nói
được, c̣n nói chi là tŕ toàn bộ kinh. Do vậy, từ
cổ đến nay, nhiều người đọc tụng.
Người đốn ngộ tự tánh triệt chứng
duy tâm, sống dự vào ḍng thánh, chết về An Dưỡng
kể sao cho xiết? Kế đến là tiêu trừ tội
nghiệp, tăng trưởng thiện căn, chuyển họa
thành phước, từ ngu trở thành trí lại càng nhiều
hơn nữa. Cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh đem những
sự tích cảm ứng đă được ghi chép từ
xưa đến nay phân loại rồi soạn những
bài tụng. Bạn ông ta là Lưu Khế Tịnh lại viết
lời chú thích để người đọc đều
biết được nghĩa lư uyên thâm, công đức rộng
lớn, sanh ḷng chánh tín, gắng bắt chước tu theo.
Tùy theo công hạnh cạn hay sâu cũng sẽ được
các thứ lợi ích. Kinh dạy: “Hết thảy chư Phật và đạo Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật đều
phát xuất từ kinh này. Nếu có thể phát tâm chí thành
cung kính thọ tŕ th́ sẽ thuộc vào trong số chư Phật
vị lai”, xin hăy gắng sức lên!
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
Quyển thứ ba
(phần 3 hết)
[1] Tràng (dhvaja) vốn là một loại cờ hiệu dùng để trang nghiêm đạo tràng, có h́nh ống tṛn, chung quanh có tua. Về sau, những trụ cao, có h́nh ống hoặc h́nh lục lăng hay bát giác, bốn mặt khắc kinh cũng được gọi là Tràng hay Kinh Tràng. Tràng nói ở đây chính là loại cột trụ cao.
[2] Phong Can là một vị Tăng sống
vào thời Đường, giỏi làm thơ, cùng Hàn
Sơn và Thập Đắc được gọi là Quốc
Thanh Tự Tam Ẩn (ba vị ẩn dật chùa Quốc
Thanh). Sư để tóc dài rũ ngang mày, mặc áo vải,
thân cao hơn bảy thước (Tàu). Thoạt đầu
sống tại chùa Quốc Thanh trên núi Thiên Thai, ngày lo giă gạo,
đêm ngâm vịnh, nói năng không câu nệ, đa phần
thường là những lời huyền kư. Nếu ai ṭ ṃ hỏi
đến chỉ đáp hai chữ “tùy thời”. Sư từng
ca hát nghêu ngao, có lần cưỡi hổ chạy vào chùa
khiến chúng Tăng kinh sợ. Vào thời Tiên Thiên (712-713),
Sư lên Kinh Triệu (Trường An) hoằng hóa, từng
trị bệnh cho ông Lư Khưu Dận. Do sự chỉ
điểm của Sư, ông Lư từng đến tham
phỏng hai vị Hàn Sơn, Thập Đắc. Theo Truyền
Đăng Lục, ông Lư t́m đến chùa Quốc Thanh
thấy Hàn Sơn, Thập Đắc cười hi hí, lộ
vẻ ngây ngô, bất giác phục xuống lễ. Vị Tri
Khách tăng kinh ngạc: “Sao đại quan lại lễ
hai gă cuồng vậy?” Hàn Sơn nắm tay họ Lư
cười hề hề: “Phong Can lắm miệng quá! Lễ
ta làm chi!” Nắm một lúc thả ra, rồi Hàn Sơn, Thập
Đắc nắm tay nhau chạy ra khỏi cửa chùa,
không bao giờ trở lại nữa. Sự tích ghi chép về
ngài Phong Can không nhiều, không rơ Sư thị tịch
năm nào, hiện chỉ c̣n mấy bài thuộc tập
Phong Can Thi và một số bài thơ chép trong tập Hàn
Sơn Thi Tập.
[3] Bảo Chí (418-514),
sống vào thời Nam Triều, c̣n được gọi
là Bảo Công hoặc Chí Công ḥa thượng. Sư người
huyện Kim Thành, Nam Quân, Thiểm Tây, họ là Châu. Xuất
gia từ nhỏ, theo ngài Tăng Kiệm tu tập Thiền
Định. Vào niên hiệu Thái Thủy (466-471) đời
Lưu Tống, Sư đến Đô Ấp, không ở
nơi nào nhất định, thường hay nói thơ, có
những lời lẽ tựa hồ sấm kư. Dân chúng chen
nhau đến hỏi việc họa phước. Tề
Vũ Đế cho là Sư mê hoặc quần chúng nên bắt
giam, nhưng cứ thấy Sư ngày ngày rong chơi ngoài phố.
Vào trong ngục xem vẫn thấy Sư nằm đó. Vua
nghe vậy, bèn đón vào vườn hoa cho ở trong ấy,
cấm không được ra; nhưng vẫn thấy
Sư hằng ngày dạo khắp các chùa Long Quang, Kế Tân,
Hưng Hoàng, Tịnh Danh v.v… Đến khi Lương Vơ
Đế sáng lập triều đại, mới bỏ lệnh
giam. Sư thường luận Phật pháp rất nhiều
với vua. Sư thị tịch tháng Chạp năm Thiên
Giám 13, thọ 96 tuổi. Vua sai an táng tại đồi
Độc Long thuộc Chung Sơn, dựng chùa Khai Thiện
cạnh mộ tháp, ban thụy hiệu là Quảng Tế
đại sư. Các đời vua về sau đều
phong tặng thụy hiệu như Diệu Giác đại
sư, Đạo Lâm Chân Giác Bồ Tát, Từ Ứng Huệ
Cảm đại sư v.v… Căn cứ trên những ghi
chép về những pháp ngữ của Sư, sách Phật Tổ
Lịch Đại Thông Tải kết luận ư chỉ của
Sư ngầm hợp tông chỉ nhà Thiền. Sư cũng là
người chủ biên công việc biên soạn bộ sám
đồ sộ Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (thường
gọi là Lương Hoàng Sám).
[4] Tăng Già (628-710),
sống vào thời Đường, vốn là người
xứ Bắc Hà, Thông Lănh, Tây Vực. Trong niên hiệu Long
Sóc (661-663), Sư đến Tây Kinh, đi khắp các miền
Giang Hoài, rồi trụ tại chùa Long Hưng ở Sở
Châu. Về sau Sư t́m được một tượng
Phật vàng ở huyện Lâm Hoài thuộc Tứ Châu (nay thuộc
tỉnh An Huy), trên tượng có bài minh Cổ Hương
Tích và bài minh Phổ Chiếu Vương Phật, bèn lập
chùa Lâm Hoài để thờ. Sư thường biến hiện
những tướng thần dị, chẳng hạn
như hiện thân Quán Âm mười một mặt. Người
đời kính ngưỡng, gọi là hóa thân của Quán Âm
Đại Sĩ. Năm Cảnh Long thứ hai (708) thời
Đường Trung Tông, Sư vâng chiếu vào cung giảng
pháp, được tôn làm Quốc Sư. Chẳng lâu sau, tại
chùa Tiến Phước, Sư trị bệnh, cầu
mưa linh nghiệm, nên chùa Lâm Hoài được sắc tứ
biển ngạch “Phổ Quang Vương Tự”. Ngày mồng
Hai tháng Ba năm Cảnh Long thứ tư, Sư thị tịch
tại chùa Tiến Phước, thọ 83 tuổi.
[5] Hàn Sơn: Ẩn sĩ đời
Đường, sống trong hang tối ở rặng Hàn
Nham cách núi Thiên Thai của tỉnh Chiết Giang 14 dặm,
không ai rơ họ tên Ngài nên gọi theo chỗ ở thành tên Hàn
Sơn. Hàn Sơn thường đến chùa Quốc Thanh bầu
bạn với sư Thập Đắc. Sư Thập
Đắc trông nom trai đường chùa này. Cơm thừa
thức ăn dư của đại chúng bỏ lại,
sư Thập Đắc thâu thập, đựng trong một
cái giỏ trúc đợi Hàn Sơn đến cùng ăn. Hàn
Sơn h́nh dung xốc xếch, dáng vẻ điên rồ.
Đến chùa Quốc Thanh có lúc đi thong dong, có khi chạy
đuổi người, có lúc ngửa mặt lên không quát mắng.
Tăng chúng bực bội, ùa ra xua đuổi, bèn uốn
ḿnh vỗ tay, cười ha hả bỏ chạy. Ngài mặc
áo rách nát, h́nh dung tiều tụy, lấy vỏ cây làm
mũ, chân đi guốc gỗ to. Thích ngâm thơ xướng
kệ, lời lẽ ngập tràn đạo vị. Khi thứ
sử Thai Châu là Lư Khưu Dận đến bái phỏng,
ngài cùng sư Thập Đắc bỏ trốn. Lư
đuổi theo đến Hàn Nham tặng quần áo, thuốc
men. Ngài hét to: “Giặc! Giặc! Ta trốn giặc!” Rồi
ẩn ḿnh vào hang, lại nói: “Báo với các ông, hăy nên nỗ
lực!” Hang đá bèn tự đóng kín lại, không c̣n thấy
dấu tích chi nữa. Sư Đạo Kiều t́m những
di vật của Ngài chỉ t́m được hơn một
trăm bài thi tụng, bèn sao chép, ấn hành đặt tên là
Hàn Sơn Thi. Theo truyền thuyết, các vị Linh Sơn
Quy Hựu, Triệu Châu Tùng Thẩm đều đă từng
đàm luận Phật pháp với ngài Hàn Sơn.
Như trên đă nói,
ngài Thập Đắc là một vị ẩn tăng trông
coi trai đường chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai vào
đời Đường, không tường nguyên quán, họ
tên. Ban đầu, ḥa thượng Phong Can trên đường
đi Xích Thành gặp một đứa trẻ bị bỏ
rơi bèn đem về Quốc Thanh nuôi dưỡng, đặt
tên là Thập Đắc (nhặt được). Đến
lớn, sai trông coi hương đăng. Một ngày nọ,
Sư lên ṭa ngồi đối diện tượng Phật
ăn uống như bè bạn, gọi Kiều Trần
Như là tiểu quả Thanh Văn, coi như chỗ không
người, Tăng chúng xua đuổi, băi chức
Hương Đăng, đuổi xuống trông coi trù
pḥng. B́nh thường, Sư luôn làm ra vẻ điên cuồng,
chia cơm thừa canh cặn cùng Hàn Sơn. Trong chùa có miếu
thờ thần bảo vệ Già Lam, mỗi ngày cúng chim cho
thần làm thức ăn. Thập Đắc bèn dùng gậy
đánh tượng thần: “Ngươi chỉ biết
ăn, không biết có bảo vệ, giữ yên cho chùa hay
không?” Tối ấy, thần báo mộng cho toàn thể
Tăng chúng trong chùa: “Thập Đắc đánh ta!” Sáng ra,
cả chùa kể chuyện nằm mộng giống nhau, mới
biết Thập Đắc không phải là người
thường.Trong lúc Tăng chúng tụ tập bố-tát (tụng
giới), Thập Đắc xua trâu chạy vào Tăng
đường, nói: “Ta không thả
trâu. Bầy trâu này đa số là người giữ chức
tước trong chùa này”. Rồi gọi pháp danh những
vị Tăng đă mất, gọi tên nào, con trâu ấy theo
tiếng gọi ngoan ngoăn đi đến. Cả chùa sững
sờ. Đời Thanh, năm Ung Chánh 11 (1733), vua phong tặng
Hàn Sơn là Ḥa Thánh, Thập Đắc là Hợp Thánh. Tục
gọi là Ḥa Hợp Nhị Thánh, dân chúng hay tạc tượng
hai vị để cầu may. Người Âu Mỹ thường
dịch sai thành Ho Ho Brothers.
[6] Chùa Song Lâm ở núi Vân Hoành, huyện Nghĩa Ô, tỉnh Chiết Giang. Do trước chùa có hai cây to dính nhau nên gọi như vậy, về sau chùa được đổi tên là Bảo Lâm Tự, nhưng dân gian vẫn quen gọi là chùa Song Lâm.
[7] Khi Bồ Tát Di Lặc thành Phật, Ngài thành đạo dưới cội Bồ Đề. Cây ấy có những nhánh cây trông giống h́nh dáng con rồng phun ra những đóa hoa nên gọi là cây Long Hoa. Ngài sẽ thuyết pháp trong ba hội độ vô lượng chúng sanh nên gọi là Long Hoa Tam Hội.
[8] Kinh Lăng Nghiêm có chỗ giảng về cái thấy: Đức Phật hỏi vua Ba Tư Nặc: “Khi c̣n là đứa trẻ vua thấy sông Hằng và nay đă già nh́n lại sông Hằng th́ hai cái thấy ấy có khác nhau hay không?” Nhân đó, Phật giảng thân tuy biến đổi, nhưng cái thấy không khác. Cái Thấy ấy chính là tác dụng của chân tâm.
[9] Nguyên văn: “Nhị tam tử dĩ ngă vi ẩn hồ? Ngô vô ẩn hồ nhĩ! Ngô vô hành nhi bất dữ nhị tam tử giả, thị Khâu dă!” Chúng tôi dịch câu này theo sự giải thích của bộ Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải, thiên Thuật Nhi, sách Luận Ngữ, trang 185.
[10] Nay là Ngô Huyện thuộc tỉnh Giang Tô.
[11] Kỷ sự: Thể loại văn chương ghi chép những sự việc.
[12] Ngũ Nhăn là nhục nhăn, thiên nhăn, pháp nhăn, huệ nhăn và Phật nhăn.
[13] Tứ Trí: Diệu Quán Sát Trí, Thành Sở Tác Trí, B́nh Đẳng Tánh Trí và Đại Viên Kính Trí.
[14] Ở đây, Tổ dùng h́nh ảnh ḷ rèn để ví cho pháp môn Tịnh Độ. Pháp môn Tịnh Độ như cái ống bễ lớn thổi cho phiền năo tan chảy. Rồi tâm tánh ấy lại được rèn cặp, như sắt nóng được đặt trên đe, dùng búa đập để rèn thành vật dụng. Hoặc cũng có thể hiểu là vua A Xà Thế và hai đức Thế Tôn kẻ tung người hứng để pháp này có dịp triển khai.
[15] Chung là Chung Dao, Vương là Vương Hy Chi, đều là những nhà đại thư pháp thời Tấn.
[16] Biện Tài là biện luận khéo léo, tức
tài năng thuyết pháp khéo léo. Tứ Biện tức Tứ
Biện Tài, c̣n gọi là Tứ Vô Ngại Biện Tài, tức
Pháp Vô Ngại Biện Tài, Nghĩa Vô Ngại Biện Tài, Từ
Vô Ngại Biện Tài, Biện Vô Ngại Biện Tài. Bốn
thứ này c̣n được gọi là Tứ Vô Ngại Giải,
Tứ Vô Ngại Trí.
[17] Bàn Sơn Bảo Tích là đệ tử nối pháp của Mă Tổ Đạo Nhất, sống vào thời Đường, sống tại Bàn Sơn thuộc U Châu (Hà Bắc), tuyên dương Tông phong, nên có hiệu là Bàn Sơn Bảo Tích. Không rơ năm sanh và năm mất, thụy hiệu là Ngưng Tịch Đại Sư.
[18] U là quỷ thần, hoặc những người đang đọa lạc trong ác đạo. Hiển là người đang sống trong thế gian.
[19] Như có nghĩa là thường hằng, không biến đổi. Câu này không thể dịch cho gọn nên giữ nguyên tiếng Hán. Ư nói: Nhất niệm tâm tánh nơi Phật thường hằng, nơi chúng sanh cũng thường hằng, tâm tánh của chúng sanh và Phật giống hệt nhau, b́nh đẳng, không sai khác. Giống hệt nhau không sai khác nên gọi là “nhất như vô nhị như”.
[20] Tư Sơn thuộc huyện Gia Thiện, tỉnh Chiết Giang.
[21] Tây Phương Công Cứ do Bành Tế
Thanh biên tập, nay được xếp vào quyển 109 của
Tục Tạng Kinh. Thật ra, đây là một tác phẩm
cổ không biết do ai biên soạn, nội dung tuy hay nhưng
tŕnh tự khá lộn xộn, không rơ ràng, Bành Tế Thanh chỉ
có công biên tập, sắp xếp lại cho hợp lư
hơn, về sau Dật Nhân pháp sư lại biên tập lần
nữa và được tổ Ấn Quang giám định,
mới thành diện mạo như ngày nay.
[22] Đồ thuyết: Hiểu theo nghĩa hẹp có nghĩa là truyện bằng tranh. Hiểu theo nghĩa rộng, đồ thuyết là những bài viết có h́nh vẽ để dẫn giải hoặc những đồ biểu (chart) giúp hệ thống hóa vấn đề đang tŕnh bày.
[23] Hồng Kiều là một thị trấn thuộc huyện Lạc Thanh, tỉnh Chiết Giang.
[24] C̣n gọi là Ngũ Trụ Địa Hoặc,
tức Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Vô Minh Phiền Hoặc
gộp thành một trụ, bốn trụ kia là Dục Ái Trụ
Địa, Sắc Ái Trụ Địa, Hữu Ái Trụ
Địa, Vô Minh Trụ Địa. Do hết thảy phiền
năo đều nương vào năm thứ này nên chúng
được gọi là Trụ (nương ở, nắm
giữ). Do chúng phát sanh ra các phiền năo nên gọi là Trụ
Địa. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển
5, giảng:
1.
Kiến Nhất Thiết Xứ Trụ Địa: chính là
Kiến Hoặc gồm Thân Kiến v.v… trong tam giới.
2.
Dục Ái Trụ Địa: gồm phiền năo trong Dục
Giới, ngoại trừ vô minh và Kiến Hoặc, chấp
vào Ngũ Dục bên ngoài (Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp).
3.
Sắc Ái Trụ Địa: phiền năo trong Sắc Giới,
không tính Kiến Hoặc, Vô Minh, không chấp vào Ngũ Dục
bên ngoài, nhưng chấp vào sắc thân.
4.
Hữu Ái Trụ Địa: phiền năo trong Vô Sắc Giới,
không gồm Kiến, Vô Minh, đă bỏ ĺa chấp trước
tham Sắc, nhưng vẫn c̣n yêu mến cái thân của chính
ḿnh.
5.
Vô Minh Trụ Địa: tức hết thảy vô minh trong
tam giới. Vô minh là cái tâm si ám, là cội gốc của hết
thảy phiền năo.
Duy Thức Tông chủ trương bốn món Trụ đầu là chủng tử của Phiền Năo Chướng, món cuối là chủng tử của Sở Tri Chướng. Tông Thiên Thai gọi món đầu tiên là Kiến Hoặc, ba món giữa là Tư Hoặc, món cuối là Vô Minh Hoặc. Họ gọi chung Kiến Tư Hoặc là Giới Nội Hoặc (phiền hoặc trong tam giới), c̣n Vô Minh Hoặc là Giới Ngoại Hoặc.
[25] Tam Tai là c̣n gọi là Tam Tai Kiếp. Tam Tai xuất
hiện trong kiếp Trụ và kiếp Hoại của thế
giới. Có nhiều cách hiểu Tam Tai khác nhau đôi chút:
1.
Theo Câu Xá Luận, quyển 12 th́ Trụ Kiếp được
chia thành 20 thời kỳ nhỏ. Khi tuổi thọ của
hữu t́nh giảm từ tám vạn năm xuống mười
năm, rồi lại tăng dần lên khoảng hai
mươi lần. Cứ mỗi khi con người giảm
tuổi thọ đến chừng c̣n 10 tuổi th́ phát sinh
một lần tai ách, tổng cộng có Đao Binh Tai (dùng
vũ khí giết hại nhau), Tật Dịch Tai (dịch bệnh
lưu hành), Cơ Cẩn Tai (đói kém mất mùa). Đây gọi
là ba Tiểu Tai. C̣n Đại Tam Tai phát sinh vào thời kỳ
Hoại Kiếp. Các kinh như Đại Lâu Thán, Khởi Thế
Kinh, Trường A Hàm (tiểu kinh Chuyển Luân Thánh
Vương Tu Hành), Ưu Bà Tắc Giới kinh, Đại
Tỳ Bà Sa Luận đều nói giống như vậy.
2.
Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 1 th́ Tiểu Tam Tai là:
a.
Cơ Cẩn Tai, con người thọ tám vạn bốn
ngàn năm. Cứ mỗi một trăm năm con người
giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi
th́ hạn hán lớn không mưa, cây cỏ không mọc
được, vô lượng người trong thế gian
bị chết đói.
b.
Tật dịch tai: Đến lúc con người tuổi thọ
giảm c̣n 20 tuổi th́ bệnh dịch phát sanh, con người
chết v́ tật dịch vô số.
c. Đao binh tai: Khi tuổi
thọ con người c̣n 10 tuổi, ai nấy đều
đánh lẫn nhau, tay cầm nhánh cỏ cũng hóa thành
vũ khí tàn sát lẫn nhau.
[26] Tức tâm chán nhàm, xa ĺa Sa Bà, ưa thích, ham muốn sanh về Cực Lạc.
[27] Nhị đế tam vương: Nhị đế là Nghiêu, Thuấn, Tam Vương là Đại Vũ, Thành Thang, Văn Vương.
[28] Ba truyện Xuân Thu: tức là các bộ Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện. Những cuốn này đều thuật những chuyện thuộc thời Xuân Thu nên gọi là ba truyện Xuân Thu.
[29] Nhĩ Nhă là một bộ từ điển cổ giải thích tên những nhân vật, sự vật, được hoàn thành vào thời Tây Hán.
[30] Kinh Lăng Già (Lankāvatārasūtra),
gọi đầy đủ là Lăng Già A Bạt Đa La
Bảo Kinh, do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch năm
443 vào thời Lưu Tống. Lăng Già là tên núi, A Bạt
Đa La có nghĩa là Nhập (vào). Ư nói: Đức Phật
vào trong núi Lăng Già diễn nói bản kinh quư báu này. Đây
là một trong sáu bản kinh y chỉ để lập
cước của Tướng tông. Đại ư kinh phô diển
toàn thể thế giới vạn hữu đều do tâm tạo,
những đối tượng được chúng ta nhận
thức không phải ở bên ngoài mà ở ngay trong nội
tâm. Kinh này kết hợp hai hệ tư tưởng
Như Lai Tạng và A Lại Da Thức. Kinh nhấn mạnh
căn nguyên của mê là do tập khí từ vô thủy không
thể hiểu rơ các pháp đều do tự tâm hiển hiện.
V́ thế, khi nào triệt ngộ bản tánh của ư thức
sẽ bỏ được sự đối lập giữa
chủ thể nhận lấy (năng thủ) và đối
tượng bị lấy (sở thủ). Trong Đại
Tạng, kinh này có ba bản dịch:
1. Bản dịch của
ngài Cầu Na Bạt Đà La, c̣n gọi là Tứ Quyển
Lăng Già Kinh hoặc Tống dịch Lăng Già Kinh.
2. Lăng Già Kinh do ngài
Bồ Đề Lưu Chi năm 513 dịch vào thời Bắc
Ngụy, c̣n gọi là Thập Quyển Lăng Già Kinh
3. Đại Thừa
Nhập Lăng Già Kinh do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào
đời Đường từ năm 700 đến 704.
Trong ba bản Hán dịch,
bản Tứ Quyển Lăng Già phổ biến nhất v́
theo truyền thuyết, tổ Đạt Ma đă phó chúc
kinh này cho Nhị Tổ Huệ Khả để truyền
tâm ấn Thiền Tông. Theo truyện ngài Pháp Xung trong bộ
Cao Tăng Truyện ghi chép th́ Tứ Quyển Lăng Già
được giảng thuật theo hai chi: Chi thứ nhất
là các sư thuộc hệ phái của tổ Tăng Xán, y cứ
theo sự giảng thuật của Nhất Thừa Tông của
Ấn Độ. Chi thứ hai là hệ phái của ngài
Đàm Vân Thiên, diễn giảng kinh này theo tư tưởng
của Nhiếp Đại Thừa Luận. Vào thời Nam
Bắc Triều, kinh này chưa được phổ biến
lắm. Đến đời Đường, do Thiền
Tông lớn mạnh nên kinh này cũng được hết
sức quư trọng. Đương thời có những tông
phái mệnh danh là Lăng Già Tông, Lăng Già Sư. Đến
khi những vị như Thần Hội chủ
trương dùng học thuyết Bát Nhă thay cho chủ
trương kinh Lăng Già th́ kinh Kim Cang mới trở thành
kinh điển chủ yếu của Thiền Tông.
[31] Cao túc: Học tṛ giỏi giang của một vị thầy, thường gọi là “cao đồ”.
[32] Khám là một chỗ khoét vào ḷng tháp hoặc núi để an trí tượng Phật hoặc để quan tài của các vị sư viên tịch.
[33] Tam Mật: Thân mật, ngữ mật, ư mật.
[34] Ư nói chỉ có nhịp điệu tiết tấu tụng niệm nhịp nhàng như thổi ống bễ đều đặn, lễ cúi lên rạp xuống nhịp nhàng như chày giă gạo, chứ không mang ư nghĩa ǵ hết.
[35] Nguyên văn “khiển trích”: Quở phạt, đày đi xa.
[36] Hàng Thản là một danh xưng khác của thành phố Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang.
[37] Tân Xương là tên một huyện thuộc tỉnh Chiết Giang.
[38] La Sát (Rāksasa) là một loài ác quỷ,
đôi khi c̣n phiên âm là La Sát Sa, La Xoa Sa, La Khất Sát Sa, A Lạc
Sát Sa… dịch nghĩa là Khả Úy (đáng sợ), Tốc Tật
Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Hộ Giả (người bảo
vệ). Tương truyền La Sát chính là danh xưng của
cổ dân Ấn Độ, khi tộc người Aryan chinh
phục Ấn Độ, từ ngữ này bèn trở thành
đại từ chỉ những loài hung ác. Quỷ La Sát
nam thân đen đúa, tóc đỏ lừ, mắt xanh lam,
nhưng La Sát Nữ dung mạo tuyệt đẹp, có khả
năng mê hoặc con người rất lớn. Loài quỷ
này thích ăn thịt uống máu con người. Loài quỷ
này có thần thông bay đi rất nhanh hoặc chạy rất
nhanh trên mặt đất. Trong địa ngục cũng
có những loài quỷ La Sát làm lính canh ngục, chuyên hành hạ
tội nhân, thường được gọi bằng
danh từ chung là A Bàng La Sát. Chúng thường có h́nh đầu
trâu, đầu dê, đầu nai, đầu thỏ, thân
người, hoặc chân có móng như trâu. Trong Mật Giáo,
có loài quỷ hộ pháp thường được gọi
là La Sát Thiên. Loài quỷ thần này thân h́nh đoan chánh, mặc
giáp trụ, tay cầm binh khí, cỡi sư tử trắng.
La Sát Thiên thường được vẽ ở góc Tây
[39] “Chỉ, tác, tŕ, phạm”: Thuật ngữ của Luật Tông. Chỉ là ngăn cấm, Tác là nên làm, nên thực hành. Tŕ là giữ giới, Phạm là vi phạm, phạm giới. Lấy giới “không uống rượu” làm thí dụ, th́: Không uống rượu là Chỉ. Người thọ giới chớ uống rượu, đó là điều người ấy nên làm (Tác). Vâng giữ giới ấy là Tŕ, uống rượu là Phạm. Nói rộng hơn, dưới một điều kiện nào đó, dẫu làm điều bị ngăn cấm, nhưng vẫn không bị coi là phạm nếu có lư do chánh đáng. Chẳng hạn, do bệnh tật phải uống thuốc có chất rượu th́ phải bạch cùng Tăng chúng, th́ không phạm giới. Khi hết bệnh không được uống chất rượu nữa (dù là chất rượu rất nhẹ, như bia cũng không nên uống).
[40] Trực hạ tiện thị (c̣n gọi “Đương hạ tức thị”): Thuật ngữ nhà Thiền, có thể hiểu đại lược là từ ngay nơi sự vật thấy được chân tánh, từ ngay nơi cái tâm phàm phu huyễn vọng thấy được Phật tánh chân thường v.v… Hễ thấy được th́ ngay khi đó bèn giải ngộ Phật tâm, bèn chứng được Lư Tức Phật.
[41] Trong kinh Lăng Nghiêm có chuyện chàng Diễn Nhă soi gương thấy cái đầu của chính ḿnh bèn sợ hăi đến nỗi phát cuồng. Phật dùng chuyện này để ví cho tâm điên đảo cuồng vọng của chúng sanh.
[42] Lô Xá Na: Thông thường, danh hiệu này
được hiểu là tên gọi tắt của Phật
Tỳ Lô Giá Na, c̣n được phiên là Lô Giá Na, Lưu Xá
Na, hoặc dịch nghĩa là Tịnh Măn. Tông Hoa Nghiêm coi Lô
Xá Na chỉ là tên gọi tắt của Phật Tỳ Lô Giá
Na. Theo tông này, Lô Xá Na dùng để chỉ Báo Thân Phật,
c̣n Tỳ Lô Giá Na là tên hiệu của vị giáo chủ Hoa
Tạng thế giới. Nhưng tông Thiên Thai chủ
trương Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân Phật, c̣n Lô Xá Na là
Báo Thân Phật, Phật Thích Ca là Ứng Thân Phật. Trong
kinh Phạm Vơng, chính Phật Thích Ca cầu Báo Thân Phật
Lô Xá Na nói ra các giới pháp, nhất là giới Bồ Tát.
[43] Ba La Đề Mộc Xoa (Pratimoksa) có nghĩa là Giới Luật của chúng xuất gia để ngăn ngừa những lỗi ác nơi thân - khẩu - ư. Chữ này được dịch nghĩa là Tùy Thuận Giải Thoát, Xứ Xứ Giải Thoát, Biệt Biệt Giải Thoát, Biệt Giải Thoát, Tối Thắng, Vô Đẳng Học v.v… Giới này pḥng hộ các căn, tăng trưởng thiện pháp nên lấy chữ Ba-la-mộc- xoa (Pramukha nghĩa là cánh cửa ban đầu dẫn vào thiện pháp) làm ư nghĩa chính. V́ thế gọi là Ba La Đề Mộc Xoa. Giới Luật này bao gồm 8 giới tụ như Ba La Di, Tăng Tàn, Bất Định, Xả Đọa, Đơn Đọa, Ba La Đề Đề Xá Ni, Chúng Học, Diệt Tránh.
[44] Khưu Ải Trấn nằm về phía Đông thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang.
[45] Cổ có nghĩa là khách buôn, lái buôn
[46] Đông Nhạc Đại Đế, danh xưng đầy đủ là Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế, hoặc gọi tắt là Thiên Tề Vương, hoặc Thái Sơn Phủ Quân. Đông Nhạc chính là Thái Sơn trong Ngũ Nhạc. Theo Đạo Giáo, Đông Nhạc Đại Đế là danh tướng Hoàng Phi Hổ thời Trụ Vương, tinh trung báo quốc, bị vua Trụ thảm sát. Thần Đông Nhạc chưởng quản phước, lộc, thọ của nhân gian, trừng phạt kẻ gian ác, đứng đầu Thập Điện Minh Vương. Ngài cũng là vị thần chủ tể âm ty địa phủ. Người Trung Hoa tin thần Đông Nhạc xử đoán công minh, không sai một mảy nên rất tôn trọng, nhằm dịp lễ vía vào mồng Một tháng 10, mọi người nô nức cúng tế.
[47] Trong kinh Di Giáo, Phật từng ví người học đạo như ba hạng ngựa, ngựa giỏi thấy bóng roi người cưỡi vừa giơ lên đă chạy. C̣n ngựa ngu đần, bướng bỉnh, roi đánh thấu xương vẫn chưa chịu chạy.
[48] Theo các kinh điển ghi chép, thời đức Phật tại thế, con người chỉ cao có tám thước [Tàu], đức Phật cao gấp đôi người thường, tức là một trượng sáu. Về sau, theo Quảng Hoằng Minh Tập và Pháp Uyển Châu Lâm, tại Trung Hoa có các quy định như tượng đứng cao một trượng sáu, tượng ngồi cao tám thước… Theo Wikipedia, một trượng khoảng 3.33 m. Một trượng bằng mười thước, như vậy một thước Tàu khoảng 33 cm (theo ngu ư, thời cổ, những đơn vị này phải nhỏ hơn nữa, v́ nếu khi ấy, con người trung b́nh cao tám thước, tức khoảng 2.4m, quá cao, quá to lớn so với hiện thời!)
[49] Tương truyền ngài Thiện Đạo, Nhị Tổ Tịnh Độ Tông, chính là hóa thân của Phật A Di Đà.
[50] Khi Phật c̣n là một tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục, vua Ca Lợi v́ ghen tức khi thấy các cung nữ vây quanh nghe tiên nhân thuyết pháp, nên ra lệnh chặt đứt tay chân của tiên nhân. Tiên nhân không oán hận, c̣n phát nguyện khi thành Phật sẽ độ vua trước nhất. Vua Ca Lợi sau này thành tôn giả Kiều Trần Như.
[51] Âu Dương Tuân (557-641), tự Tín Bản, người
xứ Lâm Tương, Đàm Châu (nay thuộc huyện
Trường Sa, tỉnh Hồ Nam), là một nhà thư pháp
lỗi lạc sống vào thời Tùy Đường, sở
trường về lối viết chữ Khải. Tài
thư pháp của ông nổi tiếng đến nỗi vua
Cao Ly từng sai sứ sang xin chữ. Tác phẩm thư pháp
tiêu biểu của ông là Hóa Độ Tự Bi (bia chùa Hóa
Độ), Văn Ngạn Bác Bi. Lối viết chữ Khải
của ông được coi là mẫu mực, được
người sau sưu tập cho khắc thành sách để
các nhà thư pháp phỏng theo luyện tập.
Triệu Mạnh Phủ
(c̣n đọc là Thiếu, hay Triệu) (1254-1322) tự Tử
Ngang, hiệu Tùng Tuyết, biệt hiệu là Tùng Tuyết
Đạo Nhân, người xứ Âu Ba, Hồ Châu, tỉnh
Chiết Giang, cũng là một nhà thư pháp nổi tiếng
vào đời Tống. Ông xuất thân từ hoàng tộc,
thông minh dĩnh ngộ từ nhỏ, sách nh́n qua một
lượt liền thuộc ngay, thông hiểu văn
chương nghệ thuật sâu sắc. Ông cũng lănh ngộ
Phật học rất khá. Do cuối đời Tống,
các nhà thư pháp chú trọng viết cho bay bướm, không
thể hiện được chí khí qua thư pháp, nên họ
Triệu đề nghị khôi phục phong cách cổ, lấy
phong cách viết chữ của Vương Hy Chi làm mẫu
mực. Về loại chữ Khải, ông đề nghị
dùng cách viết trong bài Lạc Thần Phú của
Vương Hy Chi, lối chữ Thảo học theo cách viết
trong Thập Thất Thiếp cũng của Vương Hy
Chi. Triệu Mạnh Phủ nổi tiếng nhất về
tài viết chữ theo lối Khải và Hành. Tương
truyền, mỗi ngày ông có thể viết được một
vạn chữ, chữ nào cũng tài t́nh, mạnh mẽ
Đổng Kỳ
Xương (1555-1636): là một nhà thư họa nổi tiếng
thời Minh, tự Huyền Tể, hiệu Tư Bạch,
Tư Ông, biệt hiệu là Hương Quang, người xứ
Hoa Đ́nh, Tùng Giang (nay thuộc huyện Tùng Giang, Thượng
Hải). Ông đậu tiến sĩ thời Vạn Lịch,
từng đảm nhậm các chức Biên Tu, Hồ Châu Phó
Sứ, Thái Thường Tự Khanh, Lễ Bộ Thị
Lang, Nam Kinh Lễ Bộ Thượng Thư v.v… Tài vẽ
và viết chữ của ông nổi tiếng suốt cuối
đời Minh, đầu đời Thanh. Ông sở trường
vẽ sơn thủy. Người đời sau khen nét bút
của ông an nhàn, ôn ḥa, trong sáng, mới mẻ, tú lệ. Ông
thường vẽ tranh sơn thủy bằng bút mềm,
sinh động nh́n măi không chán. Tác phẩm nổi tiếng
nhất là Đồng Quan Phố Tuyết Đồ. Ông
cũng để lại một số trước tác
như Họa Thiền Thất Tùy Bút, Dung Đài Tập, Họa
Chỉ, Họa Nhăn v.v…
[52] Tứ Nhiếp Pháp (catvāri samgraha
vastūni) là bốn
phương cách Bồ Tát dùng để lôi kéo chúng sanh, khiến
họ sanh tâm thân ái ḥng dẫn nhập Phật đạo,
gồm:
1. Bố Thí Nhiếp,
c̣n gọi là Bố Thí Tùy Nhiếp Phương Tiện, Huệ
Thí, Tùy Nhiếp Phương Tiện v.v… tức là dùng tâm thấy
không có sự bố thí lănh nhận để bố thí pháp
cũng như tài thí. Cách thực hiện là tùy theo chúng sanh
ưa thích của cải hay đạo pháp mà tùy hỷ thí
cho, không hề sanh chấp trước vào việc bố
thí ấy.
2. Ái Ngữ Nhiếp:
C̣n gọi là Năng Nhiếp Phương Tiện, Ái Ngữ
Nhiếp Sự, Ái Ngữ Nhiếp Phương Tiện, Ái
Ngôn, Ái Ngữ v.v… nghĩa là tùy theo căn tánh của chúng
sanh mà khéo léo khuyên dụ họ hướng về Bồ
Tát đạo.
3. Đồng Sự
Nhiếp, c̣n gọi là Tùy Thuận Phương Tiện, Tùy
Chuyển Phương Tiện, Đồng Lợi, Đồng
Hạnh, Đẳng Lợi, Đẳng Dữ…. nghĩa là
thân cận chúng sanh cùng hưởng khổ - vui giống
như thế, rồi lại dùng pháp nhăn quán sát họ
ưa thích ǵ bèn thị hiện điều ấy khiến
cho họ được lợi ích, cùng nhập đạo.
4. Lợi Hành Nhiếp:
C̣n gọi là Lợi Ích Nhiếp, Độ Phương Tiện,
Lợi Nhân hay Lợi Ích, có nghĩa là dùng thiện hạnh
nơi thân khẩu ư lợi lạc chúng sanh, khiến họ
yêu thích đạo pháp.
[53] Châu Chiêu Vương (Cơ Hà) làm vua từ năm 979 đến 961 trước Công Nguyên, như vậy ông chỉ làm vua 19 năm. Không rơ chỗ này nguyên bản có bị khắc lầm Mục Vương thành Chiêu Vương hay không?
[54] Sơn kinh thủy chí: tức những cuốn sách tŕnh bày đặc điểm lịch sử của một vùng núi non, sông ng̣i nào đó.
[55] Tri Sự vào cuối đời Thanh, nhỏ hơn chức Tri Huyện. Nhưng tại Đài Loan dưới thời lệ thuộc Nhật Bản th́ Tri Sự lại lớn hơn Tri Huyện. Tri Sự ở Trung Hoa là người đứng đầu một trấn hay một hạt.
[56] Ḥa thượng Khai Như trước kia làm Trụ Tŕ chùa Pháp Vũ, sau xin nghỉ làm Trụ Tŕ nên gọi là “thoái cư” (tạm dịch là “thoái ẩn”).
[57] Từ bổn địa, thị hiện các thân hay sự tướng để hóa độ gọi là “thùy tích” (lưu dấu). Chẳng hạn như Bồ Tát Quán Âm đă thùy tích tại Phổ Đà.
[58] Tức phần tóm tắt những ư chính trong một chương.
[59] Tam tâm (theo giáo nghĩa Thiên Thai) là:
1. Giả danh tâm: Tâm chấp
trước Ngă thật có, chính là kiến giải của
ngoại đạo.
2. Pháp tâm: Tâm chấp
trước pháp thật có, chính là tâm của hàng Tiểu Thừa
thuộc phái Nhất Thiết Hữu Bộ.
3. Không tâm: Chấp trước Ngă lẫn Pháp, không biết
tâm vốn chẳng phải có, chẳng phải không, bất
sanh, bất diệt.