ẤN
QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO TỤC BIÊN
QUYỂN
THƯỢNG
PHẦN
1
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Minh Tiến & Huệ
Trang
Lời Tựa
Ấn Tống
Ấn
Quang Văn Sao Tục Biên
Pháp môn Tịnh
Độ lớn lao [không ǵ] ra ngoài [phạm vi của nó] được,
như trời che khắp, như đất nâng đều.
Không một pháp nào chẳng được kiến lập
từ pháp này, không một ai chẳng được pháp này
un đúc. Do hết thảy các pháp Đại, Tiểu Thừa
đức Như Lai đă nói trong suốt một đời
đều là tùy theo căn tánh của chúng sanh mà nói, hoặc
khế lư nhưng chẳng thể khế hợp khắp mọi
căn cơ; hoặc khế cơ nhưng chẳng thể
khế hợp chí lư (lư tột cùng) một cách triệt
để. V́ thế, bản hoài xuất thế độ
sanh của đức Như Lai bị khuất lấp
chưa được thông suốt, đại pháp khiến
cho chúng sanh được liễu thoát ngay trong đời này
c̣n bị ẩn kín chưa được tỏ bày. [Pháp hội]
Hoa Nghiêm tuy đă hướng dẫn về Tây
Phương, nhưng hàng Nhân, Thiên, Quyền Thừa [Bồ
Tát] chưa được nghe. Các kinh cũng nhiều phen nói
đại lược những đầu mối tốt
lành, nhưng cương yếu pháp môn chưa được
đặt để. Do vậy, đức Như Lai khởi
ḷng Vô Duyên Từ, vận tâm Đồng Thể Bi, trong hội
Phương Đẳng, đặc biệt nói ba kinh Tịnh
Độ Di Đà, độ khắp ba căn, thâu trọn
chín giới, xiển dương đạo mầu thành thủy
thành chung của Như Lai, dạy cho chúng sanh quy mô vĩ
đại “tâm làm, tâm là”.
Cơ lẫn lư đều khế hợp, phàm lẫn thánh
đều được nhờ, như thuốc A Già
Đà trị chung vạn bệnh, như mười
phương hư không bao hàm trọn muôn h́nh tượng,
khiến cho khắp thánh - phàm đều thành tựu đạo
nghiệp trong đời hiện tại, tỏ bày thông suốt
bản hoài xuất thế độ sanh của Như Lai!
Nếu đức Như Lai chẳng nói pháp này th́ chúng sanh
đời Mạt Pháp không một ai có thể liễu thoát
sanh tử ngay trong một đời này.
Quang túc nghiệp
sâu nặng, sanh nhằm nơi đoạn diệt Phật
pháp, mới sanh được nửa năm, lại mắc
bệnh mắt nhắm nghiền sáu tháng. Đến tuổi
đi học, bao lượt gặp cảnh giặc cướp,
binh đao quấy nhiễu. Vừa có chút hiểu biết,
lại trúng phải chất độc báng Phật của
bọn Tŕnh - Châu. May là học thức hoàn toàn chẳng có
ǵ, chẳng thể tạo nghiệp đọa A Tỳ ngay
trong khi c̣n sống. Nếu tài trí được như bọn
họ, ắt đến nỗi tạo tội
khiên mười phương hư không chẳng dung.
Do ư ác ấy, mắc bệnh khổ lâu dài, cả mấy
năm hệt như phế nhân. Một ngày nọ mới
biết ḿnh lầm lạc, bèn xuất gia làm Tăng mong diệt
tội lỗi. Tông - Giáo lư sâu không có sức nghiên cứu, Tịnh
Độ đạo lớn quyết chí tuân hành, toan làm một
ông Tăng chỉ biết cơm cháo, chỉ lo tự độ,
chẳng mộng hoằng pháp lợi sanh! Năm ba
mươi ba tuổi, đến chùa Pháp Vũ núi Phổ
Đà, Trụ Tŕ là ḥa thượng Hóa Văn biết Quang
chỉ biết ăn cơm, không làm chuyện chi khác
được, bèn cho làm thực khách thường xuyên, chẳng
giao phó chút việc cỏn con ǵ. Hơn hai mươi năm
qua cũng khá được an lạc, suốt năm không
ai đến thăm, không nhận được lá thư
nào.
Năm Tuyên
Thống thứ ba (1911), tờ Phật Học Tùng Báo
được phát hành tại Thượng Hải, ông Cao Hạc
Niên mấy lần gởi báo qua bưu điện cho xem. Thấy
những văn tự được in trong báo ấy phần
nhiều hợp công đạo, nhưng những điều
lạm bàn về chánh trị trong báo có chỗ hơi thiên vị,
tôi trộm sợ rằng có người sẽ viện vào
chuyện ấy để chê cười Phật pháp, bèn
dùng cái tên Vân Thủy Tăng Thích Thường Tàm để
gởi thư xin nhà báo hăy lập luận cho công b́nh, đừng
để ngọc đẹp có vết, nhưng những vị
biên tập chẳng thèm để mắt đến. Về
sau, ông Hạc Niên lên núi này, tôi kể đầu đuôi; ông
ta bèn đem mấy thiên cảo văn đăng báo, kư tên
là Thường Tàm, chẳng một ai biết đến.
Năm Dân
Quốc thứ sáu (1917), ông Từ Úy Như nhận
được ba lá thư từ bạn hữu, bèn in ra
năm ngàn bản, đặt tựa là Ấn Quang Pháp
Sư Tín Cảo (bản thảo thư từ của pháp
sư Ấn Quang) tặng cho mọi người. Năm Dân
Quốc thứ bảy (1918), ông thâu thập được
hơn hai mươi bức thư nữa, đem in tại
Bắc Kinh, đặt tựa là Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao, đem sách ấy đến Phổ Đà xin quy
y. Quang bảo ông ta quy y với ngài Đế Nhàn. Năm Dân
Quốc thứ tám (1919), lại in bộ Tục Biên. Mùa Thu
năm ấy, mẹ ông mất tại nơi cư ngụ ở
đất Thân (Thượng Hải). Tang ma xong xuôi, bèn nhờ
Thương Vụ Ấn Thư Quán ghép bộ Sơ Biên và
Tục Biên thành một. Năm Dân Quốc 12 (1923), Quang bảo
Thương Vụ Ấn Thư Quán in riêng bản Tăng
Đính, chia làm bốn quyển, lưu bản[1]. Lần
đầu, in hai vạn bộ. Năm Dân Quốc 14 (1925), lại
cho Trung Hoa Thư Cục in bản Tăng Quảng, vẫn
chia thành bốn quyển. Từ đấy, bất luận
văn tự ǵ cũng đều nhất loạt không
lưu lại bản nháp nữa, một là để khỏi
lăng phí tiền tài thí chủ, hai là chẳng đến nỗi
làm gai mắt huệ của người thông sáng.
Năm Dân
Quốc 19 (1930), yểm quan tại chùa Báo Quốc ở Tô
Châu, vị Đương Gia[2] [chùa
ấy] là thầy Minh Đạo cho người sao trộm.
Năm Dân Quốc 24 (1935), thầy ấy qua đời mới
thôi. Năm Dân Quốc 26 (1937), Quang tỵ nạn tại
Linh Nham Sơn, người chép lại bèn giao bản cảo
cho vị Đương Gia [chùa Linh Nham] là thầy Diệu
Chân. Thầy Diệu Chân lại cho sao lục, đăng tải
trong những tờ bán nguyệt san. Quang biết, nhưng lọt
vào thế không làm ǵ được, chỉ đành giảo
duyệt kỹ càng để in, ḥng măn nguyện thầy ấy.
Quang lúc nhỏ kém học vấn, lớn lên chẳng biết
ǵ, văn cực vụng về, chất phác, chẳng
đáng lọt vào mắt. Nhưng những điều Quang
nói đều dựa theo ư kinh Phật, lời Tổ rồi
tùy cơ nói giản lược đó thôi, chẳng dám vọng
sanh ư kiến gây lầm lạc cho người, lại thêm vào
đó những ǵ ḿnh đă từng trải hơn năm
mươi năm. Nếu chịu bỏ qua văn để
nắm lấy ư nghĩa, ắt có thể coi như một
cái mốc gỗ để chỉ thẳng chuyện Tây quy
(trở về Tây Phương Cực Lạc) cũng chẳng
ngại ǵ! Xin hăy dốc sức về Tây, dũng mănh tiến
thẳng lên phía trước. Chớ v́ cột mốc gỗ
này xấu hèn mà chẳng muốn thấy lộ tŕnh về
Tây th́ người dựng mốc lẫn người quy
Tây đều cùng chẳng tiếc nuối.
Thêm nữa,
bộ Sơ Biên tuy đă in hơn mười vạn bộ,
nhưng bậc đại thông gia thấy sách này chỉ
chuyên nói đến chuyện “tín nguyện niệm Phật,
nhân quả báo ứng, giữ vẹn luân thường, tận
hết bổn phận, giáo dục gia đ́nh”, toàn là những
lời văn nôm na khuyên đời, hoàn toàn chẳng phải
là những lời lẽ “vén mây thấy trăng, mở cửa
thấy núi”, mở rộng tâm mục cho người, tỏ
bày thông suốt bản hoài của Phật, cho nên coi như
đồ bỏ. Cũng có những người cùng một
căn tánh như Quang, xem [bộ sách này] như diệu bảo.
Do đây mà người bỏ mê theo ngộ, bỏ tà về
chánh, sống giữ vẹn luân thường, mất sanh về
Cực Lạc đông lắm. Bộ Tục Biên ngoài những
điều đă nói như trong bộ Sơ Biên, c̣n thêm những
chuyện như “[khuyên] sản phụ niệm Quán Âm, sữa
độc giết chết con cái”. Đấy đều là
những điều cao tăng, thầy thuốc xưa nay
chưa hề nói đến mà Quang cứ nhắc đi nhắc
lại.
Cổ nhân
nếu chẳng phải là tướng giỏi th́ cũng
là lương y, chỉ mong giúp đời, cứu sống
người. Quang là ông Tăng vô tri vô thức chỉ biết
đến cơm cháo, do một ḿnh ông Từ Úy Như lan
truyền cái hư danh, rốt cuộc muôn người nhận
tiếng hư, đón tiếng vang, cho là thật, xem như
thiện tri thức. Họ đă “đem sai ngoa truyền sai
ngoa”, Quang chẳng ngại “dùng lầm lạc đáp tạ
lầm lạc”, dạy người sống có nơi
nương tựa, lúc mất có chỗ quy túc, sanh nở
không ách nạn, con chẳng chết ngang, để tận
hết tấm ḷng tôi. Dẫu gai con mắt huệ của bậc
thông hiểu, nhưng v́ có ích cho người, không gây hại
cho đời, nên bèn tùy thuận ư của hai thầy Minh
Đạo, Diệu Chân cho lưu thông [sách này] và lược
thuật duyên khởi. Hiểu tôi hay bắt tội tôi,
đều không kể đến vậy!
Năm Dân Quốc 28
(1939), Kỷ Măo, đầu Hạ, Thường Tàm Quư
Tăng Thích Ấn Quang kính soạn (năm 79 tuổi)
ẤN
QUANG PHÁP SƯ
VĂN
SAO TỤC BIÊN
QUYỂN
THƯỢNG
PHẦN
1
I. THƯ TỪ
1. Một lá thư gởi khắp
(lời lẽ tuy vụng về chất phác, nhưng nghĩa vốn lấy từ kinh Phật. Nếu chịu hành theo, lợi lạc vô cùng. Năm Dân Quốc 21 - 1932)
Pháp môn Tịnh
Độ, độ khắp ba căn, lợi - độn
trọn thâu, chính là đại pháp để đức
Như Lai phổ độ hết thảy thượng
thánh hạ phàm khiến cho họ liễu sanh tử ngay
trong một đời này. Đối với pháp này chẳng
tin, chẳng tu, chẳng đáng buồn ư? Pháp môn này lấy
ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông[3].
Tín là tin thế giới chúng ta đây là khổ, tin thế
giới Cực Lạc là vui. Tin ta là nghiệp lực phàm
phu, quyết định chẳng thể cậy vào Tự Lực
để đoạn Hoặc chứng Chân ḥng liễu sanh
thoát tử. Tin A Di Đà Phật có đại thệ nguyện;
nếu có chúng sanh niệm danh hiệu Phật, cầu sanh
cơi Phật, người ấy lúc mạng chung, Phật ắt
rủ ḷng từ tiếp dẫn sanh về Tây Phương.
Nguyện là nguyện mau thoát ĺa thế giới khổ sở
này, nguyện mau văng sanh thế giới Cực Lạc kia. Hạnh
là chí thành khẩn thiết, thường niệm Nam Mô (âm đọc là Nạp-mạc[4]) A Di Đà Phật, thời thời khắc
khắc chớ để tạm quên. Sáng tối đối
trước Phật lễ bái, tŕ tụng, tùy theo bản
thân rảnh rỗi hay bận bịu mà lập một khóa
tŕnh[5].
Ngoài ra, [trong lúc] đi - đứng - ngồi - nằm và làm
những chuyện chẳng phải dùng đến tâm th́
đều khéo niệm. Lúc ngủ nên thầm niệm, chẳng
nên niệm ra tiếng. Chỉ nên niệm bốn chữ A
Di Đà Phật để khỏi bị nhiều chữ
khó niệm. Nếu áo mũ không chỉnh tề, hoặc
đang lúc rửa ráy, đại tiểu tiện, hoặc
đến chỗ không sạch sẽ đều nên niệm
thầm. Niệm thầm có cùng một công đức
[như niệm ra tiếng], niệm ra
tiếng không hợp lễ. Bất luận niệm lớn
tiếng hay niệm nhỏ tiếng, niệm Kim Cang (niệm
có tiếng nhưng người bên cạnh không nghe
được), niệm thầm
trong tâm, đều phải niệm cho rơ ràng rành rẽ trong
tâm, miệng niệm cho rơ ràng rành rẽ, tai nghe cho rơ ràng
rành rẽ. Như thế th́ tâm chẳng rong ruổi theo bên
ngoài, vọng tưởng dần dần dứt, Phật niệm
dần dần thuần, công đức rất lớn!
Người
niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng
sự sư trưởng (tức thầy dạy ta và
những vị có đạo đức), từ tâm không giết (nên ăn chay trường,
hoặc ăn chay kỳ. Nếu chưa dứt được
ăn mặn th́ đừng đích thân giết), tu Thập Thiện nghiệp (tức
là thân chẳng làm chuyện sát sanh, trộm cắp, tà dâm; miệng
chẳng nói dối, thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời
ác; tâm chẳng khởi niệm tham dục, nóng giận, ngu
si). Lại c̣n phải cha nhân từ,
con hiếu thuận, anh nhường, em kính, chồng ḥa, vợ
thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, nghiêm túc tận
hết bổn phận của chính ḿnh. Chẳng cần biết
người khác có trọn hết bổn phận đối
với ta hay không, ta phải luôn trọn hết phận ta.
Nếu có thể đối với gia đ́nh và xă hội trọn
hết t́nh nghĩa, tận hết bổn phận th́ gọi
là “thiện nhân”. Thiện nhân niệm Phật cầu sanh
Tây Phương chắc chắn khi lâm chung liền
được văng sanh bởi tâm hợp với Phật,
nên cảm được Phật từ tiếp dẫn. Nếu
tuy thường niệm Phật, nhưng tâm chẳng
nương theo đạo, hoặc đối với cha mẹ,
anh em, thê thiếp, con cái, bạn bè, xóm làng chẳng thể
tận hết bổn phận th́ tâm đă trái nghịch Phật,
khó thể văng sanh! Do tự tâm phát sanh chướng ngại,
Phật cũng không có cách nào rủ ḷng từ tiếp dẫn
được!
Lại phải
nên khuyên cha mẹ, anh em, chị em, thê thiếp, con cái, xóm
làng, thân hữu đều cùng thường niệm “nam-mô A
Di Đà Phật” và “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” (mỗi
ngày nếu niệm một vạn câu Phật hiệu th́ niệm
năm ngàn câu Quán Âm, nhiều hay ít chiếu theo đây mà gia
giảm). Bởi chuyện này lợi
ích rất lớn, nỡ nào để người sanh ra ta
và quyến thuộc của ta cũng như thân hữu chẳng
được hưởng lợi ích này hay sao? Huống
chi hiện tại đang là lúc cơi đời hoạn nạn
lớn lao, tai họa xảy đến không cách ǵ đối
phó được. Nếu thường niệm Phật và
niệm Quán Âm, chắc chắn được Phật từ
che chở, gặp dữ hóa lành. Dẫu không tai nạn
cũng được nghiệp tiêu, trí rạng, chướng
tận, phước tăng. Huống chi, khuyên người
niệm Phật cầu sanh Tây Phương chính là thành tựu
cho kẻ phàm phu thành Phật, công đức rất lớn!
Dùng công đức này hồi hướng văng sanh, ắt
được măn nguyện.
Phàm tụng
kinh, tŕ chú, lễ bái, sám hối và cứu tai nạn, giúp kẻ
nghèo, mọi thứ công đức từ thiện đều
phải hồi hướng văng sanh Tây Phương, chớ
nên cầu phước báo nhân - thiên trong đời sau. Hễ
có tâm ấy sẽ chẳng có phần văng sanh! Hễ sanh tử
chưa giải quyết xong, phước càng lớn ắt
nghiệp càng nặng. Hễ sanh lần nữa, khó khỏi
đọa trong ba đường ác địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. Nếu muốn lại được thân
người, lại được gặp pháp môn Tịnh
Độ liễu thoát ngay trong một đời, khó như
lên trời! Phật dạy người niệm Phật cầu
sanh Tây Phương là để con người liễu
thoát sanh tử ngay trong đời này. Nếu cầu phước
báo nhân - thiên đời sau th́ là trái nghịch lời Phật
dạy, giống như đem một viên bảo châu vô giá
trong khắp cơi đời đổi lấy một thẻ
đường để ăn, chẳng đáng tiếc
ư? Người ngu niệm Phật chẳng cầu sanh Tây
Phương, cầu phước báo nhân thiên đời sau
cũng chẳng khác ǵ!
Người
niệm Phật chẳng được lạm tu con
đường tham cứu của nhà Thiền, bởi
người tham cứu chẳng chú trọng nơi tín nguyện
cầu sanh; dẫu có niệm Phật cũng chỉ chú trọng
khán câu “người niệm Phật
là ai?” để cầu khai ngộ mà thôi! Nếu sanh Tây
Phương th́ không một ai chẳng khai ngộ! Nếu
khai ngộ mà Hoặc nghiệp hết sạch th́ có thể
liễu sanh tử. Nếu Hoặc nghiệp chưa hết
sẽ chẳng thể cậy vào Tự Lực để
liễu sanh tử. Lại do không có tín nguyện nên chẳng
thể cậy vào Phật Lực để liễu sanh tử.
Tự Lực lẫn Phật Lực cả hai đều
không nhờ cậy được, muốn thoát luân hồi
há có được chăng? Phải biết: Pháp Thân Bồ
Tát lúc chưa thành Phật đều phải cậy vào oai
lực của Phật, huống chi nghiệp lực phàm phu
phí công bàn chuyện Tự Lực, chẳng cậy Phật
Lực ư? Lời lẽ tuy cao siêu, nhưng hạnh thật
hèn tệ. Phật Lực, Tự Lực lớn - nhỏ,
nào phải chỉ khác biệt như trời với vực!
Nguyện đồng nhân[6]
đều hiểu nghĩa này.
Người
niệm Phật chớ nên bắt chước kẻ ngu,
làm những “Phật sự”
như hoàn thọ sanh[7], gởi
kho v.v… bởi chuyện “hoàn thọ sanh” chẳng phát xuất
từ kinh Phật, mà do người đời sau ngụy
tạo. “Gởi kho” là nguyện chết đi làm quỷ,
chuẩn bị sẵn tiền tiêu dùng trong quỷ đạo.
Đă có tâm nguyện làm quỷ sẽ khó thể văng sanh. Nếu
chưa làm, hăy chớ có làm. Nếu trót đă làm hăy bẩm
rơ cùng Phật: “Đệ tử
tên là… chỉ cầu văng sanh, tiền trước kia gởi
kho nơi cơi âm, đều dùng chẩn tế cô hồn hết”
th́ mới chẳng gây chướng ngại cho việc văng
sanh. Phàm những kinh như Thọ Sanh, Huyết Bồn,
Thái Dương, Thái Âm, Nhăn Quang, Táo Vương, Thai Cốt,
Phân Châu, Diệu Sa[8]
v.v… đều do những kẻ lầm lạc ngụy tạo,
chớ nên niệm. Kẻ ngu chẳng biết niệm kinh
Đại Thừa (tức là các kinh A Di Đà Kinh, Vô
Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh, Tâm Kinh, Kim Cang, Dược Sư, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm,
Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v...) Ngả ḷng tin theo các thứ ngụy kinh
ngụy tạo mù quáng ấy, ắt phải làm những
chuyện hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá huyết
hồ mới an tâm được! Có người hiểu
lư nói những kinh ấy là ngụy tạo, cũng chẳng
chịu tin. Phải biết: Làm Phật sự th́ chỉ có
niệm Phật là công đức lớn nhất. Nên dùng tiền
làm chuyện hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá huyết
hồ[9]
để thỉnh vị Tăng có chánh niệm niệm Phật
th́ lợi ích lớn lắm.
Người niệm Phật
nên ăn chay trường. Nếu như chưa thể th́
nên giữ Lục Trai, hoặc Thập Trai (mồng 8,
14, 15, 23, 29, 30 là Lục Trai. Thêm vào ngày mồng Một, 18,
24, 28 th́ thành Thập Trai. Gặp tháng thiếu th́ ăn lên
trước đó một ngày. Lại c̣n tháng Giêng, tháng
Năm, tháng Chín là ba tháng chay, nên ăn chay trường, làm
các công đức). Từ giảm dần
đến vĩnh viễn dứt ăn mặn th́ mới hợp
lư. Tuy chưa dứt được ăn mặn, hăy nên mua
thịt làm sẵn, đừng sát sanh trong nhà. Do trong nhà
thường nguyện cát tường (tốt lành, may mắn),
nếu hằng ngày sát sanh th́ nhà ấy liền trở thành
nơi giết chóc. Nơi giết chóc chính là chỗ oán quỷ
tụ hội, chẳng tốt lành, [điều này] quan trọng
lắm! Do vậy, phải kiêng sát sanh trong nhà.
Người niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nhưng muốn cho cha mẹ lúc lâm chung quyết định văng sanh Tây Phương mà không nói sẵn cho quyến thuộc biết về việc trợ niệm lâm chung, và lợi - hại của việc phô trương mù quáng và khóc lóc sẽ chẳng thể được! V́ vậy, muốn cho cha mẹ khi lâm chung được hưởng sự lợi ích do quyến thuộc trợ niệm, chẳng bị cái hại phá hoại chánh niệm, nhưng lúc thường ngày không nói cho họ biết sự lợi ích của việc niệm Phật, khiến cho ai nấy đều thường niệm, sẽ không thể được! Như thế chẳng những có ích cho cha mẹ mà thật sự c̣n có ích cho những quyến thuộc hiện đời, con cháu đời sau. Lâm chung trợ niệm bất luận già - trẻ đều nên như vậy, xem cuốn Sức Chung Tân Lương[10] sẽ tự biết (Thượng Hải Phật Học Thư Cục, chùa Báo Quốc ở Tô Châu đều có bán cuốn ấy).
Nữ nhân khi sanh nở thường đau đớn chẳng kham nổi, [nếu] mấy ngày chưa sanh rất có thể bị mất mạng. Lại có người sanh xong bị băng huyết, đủ mọi nỗi nguy hiểm, và con cái mắc chứng kinh phong chậm hay gấp, đủ mọi nỗi nguy hiểm. Nếu nhằm lúc sắp sanh, hăy chí thành khẩn thiết niệm ra tiếng rơ ràng “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, chớ nên niệm thầm trong tâm, bởi niệm thầm sức nhỏ, nên cảm ứng cũng nhỏ. Lại do lúc ấy dùng sức đẩy đứa con ra, nếu thầm niệm th́ rất có thể do bế khí mà thành bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết niệm chắc chắn chẳng bị đau đớn, khó sanh và băng huyết sau khi sanh, đứa con mắc các chứng kinh phong v.v… Dẫu cho khó sanh đến tột bậc, người đă sắp chết, hăy nên dạy sản phụ ấy và những người chăm sóc chung quanh đều cùng niệm Quán Thế Âm ra tiếng, người nhà dẫu ở pḥng khác cũng đều có thể niệm, chắc chắn công phu chưa đến một khắc liền được an nhiên sanh nở. Ngoại đạo chẳng hiểu lư, chấp chết vào một pháp cung kính, chẳng biết căn cứ vào sự để luận lư, đến nỗi những bà cụ niệm Phật coi sanh nở là chuyện đáng sợ, dẫu là con gái ruột, con dâu cũng chẳng dám nh́n đến, huống chi là dám dạy họ niệm Quán Âm ư? Phải biết Bồ Tát mang tâm cứu khổ, lúc sắp sanh tuy lơa lồ, bất tịnh, nhưng là chuyện không thể nào tránh được, chứ không phải là do cố ư luông tuồng, chẳng những [niệm Quán Âm khi ấy] không có tội lỗi ǵ, mà lại c̣n gieo được đại thiện căn cho cả mẹ lẫn con. Nghĩa này đức Phật dạy trong kinh Dược Sư, chứ không phải là ư kiến ức đoán của tôi, chẳng qua tôi chỉ đề xướng mà thôi! (Kinh Dược Sư nói về thệ nguyện công đức Phật Dược Sư, cho nên dạy niệm Phật Dược Sư. Nhưng danh hiệu Quán Âm ai nấy đều biết cho nên bất tất phải niệm Phật Dược Sư, cứ niệm Quán Âm cũng được).
Nữ nhân
từ mười hai, mười ba tuổi cho đến
bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi đều
có kinh nguyệt. Có kẻ nói “trong lúc có kinh không được
lễ bái, tŕ tụng!” Lời ấy chẳng thông t́nh lư.
Người có kinh ngắn ngày th́ hai ba ngày là hết, có
người kéo dài đến sáu bảy ngày mới hết.
Người tu tŕ ắt phải niệm niệm không gián
đoạn, lẽ đâu v́ một tật nhỏ trời
sanh ấy để rồi bỏ bê việc tu tŕ ư? Nay
tôi nói: Trong lúc có kinh, chỉ nên lễ bái ít hơn (nên
ít lễ bái, chứ không phải là tuyệt đối chẳng
được làm lễ), niệm
Phật, tụng kinh đều theo như lệ thường.
Nên thường thay vải dơ (băng vệ sinh). Nếu
tay sờ vào vải dơ, hăy nên rửa sạch, chớ
dùng tay đă chạm đồ dơ để lật kinh
và thắp hương. Phật pháp th́ pháp nào cũng viên thông,
ngoại đạo chỉ chấp vào lư ngoài ŕa. Người
đời đa phần chỉ tin lời ngoại đạo,
chẳng biết đến chánh lư trong Phật pháp. V́ thế,
khiến cho hết thảy đồng nhân chẳng thể
được nhuần thấm lợi ích nơi pháp.
Quán Thế
Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, theo tiếng cứu
khổ. Nếu gặp phải những hoạn nạn
như đao binh, nước, lửa, đói kém, sâu rầy,
châu chấu, ôn dịch, hạn hán, lụt lội, giặc
cướp, oan gia, ác thú, rắn độc, ác quỷ, yêu mị,
bệnh tật do oán nghiệp, tiểu nhân hăm hại…. mà có
thể phát tâm sửa lỗi hướng thiện, tự lợi
lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán Thế
Âm, niệm niệm không gián đoạn, chắc chắn sẽ
được Ngài từ bi che chở, chẳng bị nguy
hiểm ǵ. Nếu vẫn giữ tấm ḷng chẳng lành, dẫu
có xưng niệm, chẳng qua chỉ tạm gieo căn lành
cho vị lai, chẳng được cảm ứng trong hiện
thời. Bởi lẽ Phật, Bồ Tát đều là thành
tựu thiện niệm cho người, trọn chẳng
thành tựu ác niệm cho người. Nếu chẳng phát
tâm sửa lỗi hướng thiện, lầm lạc muốn
niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát để mong thành tựu
ác sự cho ḿnh th́ quyết định không được
cảm ứng, chớ có dấy lên cái tâm điên đảo
ấy!
Niệm Phật
khẩn yếu nhất là giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng
thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện, giữ tấm ḷng tốt, nói lời tốt lành,
làm chuyện tốt đẹp. Có sức làm được
th́ tích cực làm, chẳng thể làm được th́
cũng phải phát thiện tâm ấy, hoặc khuyên người
có sức làm, hoặc thấy người khác làm bèn phát tâm
hoan hỷ, thốt lời khen ngợi th́ cũng là thuộc
về công đức nơi tâm và miệng. Nếu chẳng
thể tự làm được, thấy người khác
làm bèn sanh ganh ghét, liền thành ra tâm hạnh tiểu nhân gian
ác, chắc chắn bị tổn phước, giảm thọ,
chẳng được kết quả tốt lành, hăy nên thống
thiết răn dè. Chẳng được làm chuyện giả
dối để được tiếng, buôn danh chuốc
dự, tâm hạnh ấy quả thật bị thiên địa
quỷ thần đều cùng ghét. Nếu có th́ phải sửa
đổi, nếu không th́ càng thêm cố gắng.
Trong đời
có kẻ nữ, chẳng hiểu chí lư (lư tột cùng), hoặc
chẳng hiếu đối với cha mẹ chồng, lừa
dối, khinh miệt chồng, nuông chiều con cái mù quáng,
ngược đăi tôi tớ, hoặc là mẹ kế
ngược đăi con cái đời vợ trước, chẳng
biết hiếu dưỡng cha mẹ chồng, kính trọng
chồng, dạy con cái, rộng răi với tôi tớ, nuôi dạy,
chăm sóc con cái vợ trước, [chẳng biết những
điều ấy] quả thật là đạo thánh hiền
trong thế gian, mà cũng là pháp vun bồi cái gốc trong
nhà Phật. Đầy đủ công đức này, do tu tập
Tịnh nghiệp chắc chắn danh dự ngày càng cao,
phước tăng, tuổi thọ lâu dài, lâm chung
được Phật tiếp dẫn lên thẳng chín phẩm
sen. Phải biết: Có nhân chắc chắn có quả. Nếu
ḿnh đă gieo cái nhân hiếu kính từ ái, sẽ tự
hưởng cái quả hiếu kính từ ái. V́ người
chính là v́ ḿnh, hại người c̣n tệ hơn tự hại
ḿnh. V́ thế, phải tận hết chức phận của
chính ḿnh để mong Phật - trời cùng soi xét.
Trẻ nhỏ
từ lúc có sự hiểu biết, liền dạy cho chúng
đạo hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa,
liêm, sỉ, và những sự nhân quả ba đời, luân
hồi lục đạo khiến cho chúng biết tâm của
chính chúng nó trong từng hơi thở đều thông với tâm của trời, đất,
quỷ thần, Phật, Bồ Tát. Khởi lên một niệm
bất chánh, làm một chuyện bất chánh đă sớm bị
trời, đất, quỷ thần, Phật, Bồ Tát thấy
biết tường tận, như đối trước
gương sáng đều hiện ra h́nh bóng xấu không thể
trốn tránh được, ngơ hầu chúng nó biết kiêng
sợ, gắng làm người lương thiện. Bất
luận là ai, dẫu là tôi tớ, trẻ nhỏ, cũng chẳng
được phép đánh chửi. Dạy chúng tôn kính bậc
tôn trưởng, giữ phận người dưới.
Phải chú trọng dạy chúng nó kính tiếc giấy có viết
chữ, yêu tiếc ngũ cốc, y phục, đồ
đạc, thương tiếc che chở trùng kiến, cấm
ngặt ăn vặt để khỏi bị bệnh. Dạy
được như thế th́ phần đông chắc chắn
trở thành người hiền thiện. Nếu lúc nhỏ
để mặc theo thói quen, điều ǵ cũng chẳng
giáo huấn, lớn lên không thành hạng tầm thường
cũng thành phường trộm cướp. Lúc ấy có hối
cũng chẳng có ích ǵ! Cổ nhân nói: “Giáo phụ sơ lai, giáo nhi anh hài” (Dạy con từ
thuở c̣n thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới
về), bởi lẽ do huân tập sẽ trở thành bản
tánh nên phải cẩn thận ngay từ đầu. Thiên hạ
yên hay loạn đều bắt nguồn từ đây; chớ
nghĩ lăo tăng nói chuyện viễn vông, không quan hệ,
khẩn yếu chi!
Quang đă
già rồi, tinh thần ngày càng suy yếu, không có sức trả
lời thư gởi đến. Chỉ v́ đường
bưu điện thuận tiện khiến cho xa - gần
nghe lầm hư danh, thường gởi thư đến
hỏi măi. Nếu nhất loạt chẳng phúc đáp,
cũng cảm thấy phụ ḷng người hỏi đến.
Nếu phúc đáp từng thư một, thật chẳng
có đủ tinh thần [làm như vậy]. V́ thế, cho in
bức thư dài này, phàm những ǵ liên quan đến chuyện
tu tŕ và đạo lập thân, xử thế, thờ cha mẹ,
dạy con, đều nói đại lược. Sau này có ai
gởi thư đến, dùng thư này gởi lại. Nếu
có một hai chuyện chi đặc biệt liền phê vào
thư gởi đến mấy chữ để đôi
bên thấu hiểu t́nh nhau, chẳng đến nỗi nhọc
nhằn quá đáng. Nếu muốn thông hiểu sâu xa kinh
giáo, xin hăy thỉnh giáo nơi những bậc pháp sư
thông hiểu sâu xa dựng cao tràng pháp. Nên biết rằng:
Người thông hiểu sâu xa kinh giáo chưa chắc đă
liễu sanh tử ngay trong đời này. Nếu muốn liễu
sanh tử ngay trong đời này, hăy nên chú trọng nơi
tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương.
2. Thư gởi cư sĩ Quách Trang Ngộ
(năm Dân Quốc 21 - 1932)
Nhận
được thư của thầy Minh Đạo, biết
cư sĩ có chí lớn. Nếu muốn liễu sanh thoát tử
ngay trong đời này th́ Quang chẳng ngại làm cái mốc
chuẩn để nặn đất, chạm gỗ. Nếu
muốn thông hiểu sâu xa kinh giáo và triệt ngộ tự
tâm th́ [cái mốc chuẩn để] nặn đất, chạm
gỗ của Quang chẳng dùng được! Nay “đem
sai lầm đáp tạ sai lầm”, đặt pháp danh cho
cư sĩ là Huệ Trang. Trang là kính. Một pháp Kính chính là
căn bản để học đạo thế gian lẫn
xuất thế gian. Nếu chẳng trọng ḷng kính, giữ
ḷng thành, dù có sở ngộ, vẫn chẳng thể
được lợi ích thật sự. Hễ rơi vào
cuồng huệ, chắc chắn khó thể sự lư viên
dung. Thiên chấp lư tánh, chẳng trọng tu tŕ, tuy thấy
lư chẳng lầm, cũng chẳng khác ǵ tà ma, ngoại
đạo cho mấy! Huống chi đă chấp lư phế sự
th́ cái lư được ngộ cũng khó thể thích
đáng. Do vậy, nói: “Bất
quư tử kiến địa, chỉ quư tử hành lư” (Chẳng
quư chỗ kiến địa của ông, chỉ quư chỗ
ông thực hiện). Đấy chính là bẫy sập lớn
cho người thông minh trong cả cơi đời; chẳng
mắc phải bệnh này mới đáng gọi là thông
minh. Nếu không, thông minh lại bị thông minh làm cho lầm
lạc, biến thành hạng người tự lầm, lầm
người. Quang đă già rồi, chẳng nên thường
gởi thư đến nữa. Hễ gởi thư đến
chỉ dùng bức thư dài đă in để hồi
đáp, nhất loạt chẳng giải thích cho riêng ai
để khỏi mệt nhọc quá đỗi, mà cũng
chẳng có lợi ǵ cho người. Không lâu nữa, sẽ
có sách Tịnh Độ Thập Yếu bản mới in và
bức thư dài gởi đến, không cần phải viết
thư nữa. Ngoài nguyên bản sách Thập Yếu ra, c̣n có
kèm thêm mấy cuốn sách cần thiết khác, thật sự
là những sách vở quan trọng nhất cho việc tu Tịnh
nghiệp.
3. Trả lời thư cư sĩ Châu Mạnh Do hỏi
về bốn câu “Sắc bất dị Không” trong Tâm Kinh
(Năm Dân Quốc 26 - 1937)
Mấy
câu này chính là Đại Sĩ đem tướng của
Ngũ Uẩn Đều Không do chính Ngài đă thấy thấu
suốt (chiếu kiến) để dạy người. Sắc
đứng đầu Ngũ Uẩn, v́ thế giảng
tường tận trước. Nói “Sắc bất dị Không” (Sắc chẳng khác
Không) là v́ Sắc tuy có h́nh tướng có thể thấy
được, nhưng đó là tướng huyễn vọng.
Dùng trí Bát Nhă sâu xa để quán chiếu th́ bản thể
của Sắc là “bất khả đắc” (trọn chẳng
thể được), tuy có mà giống như hư không. Chẳng
riêng ǵ bản thể của Sắc là “trọn chẳng thể
được”, mà Không cũng “trọn chẳng thể
được!” Do vậy, lại nói “Không bất dị Sắc” (Không chẳng khác Sắc).
Ở đây, lại sợ người ta hiểu lầm Thế
Gian Không chính là tướng của Sắc Không nên nói: “Không
cũng chẳng có thực tế để được,
cũng như Sắc trọn chẳng thể được!”
Ấy là v́ Không cũng là pháp thế gian, tuy không có h́nh
tướng, rỗng rang, trống lỗng, nhưng vẫn
có tướng Không. Trong Ngũ Uẩn, cái Không của Sắc
Uẩn chẳng phải là cái Không của hư không. Do vậy,
liền nói tiếp: “Không bất
dị Sắc” (Không chẳng khác Sắc). V́ ĺa trọn vẹn
cái Không của tướng Không nên nói: “Không bất dị Sắc” (Không chẳng khác Sắc).
Nói đến cái Không của Không này cũng giống như
Sắc “trọn chẳng thể được”, chẳng
thể hiểu là cái Không trống lỗng, rỗng rang.
Vẫn sợ
chưa hiểu nên lại nói: “Sắc
tức thị Không, Không tức thị Sắc” (Sắc
tức là Không, Không tức là Sắc), nghĩa là: “Sắc tức thị Không” chẳng
thể được, “Không tức
thị Sắc” chẳng thể được! Sắc -
Không này tịch chiếu cùng hiển lộ, cùng diệt mất.
Sắc - Không “cùng chính là” và “cùng ĺa” Sắc Không. Nếu thấy
được điều này sẽ đích thân chứng
được Chân Như Phật Tánh. Sắc Uẩn đă
như thế th́ bốn uẩn Thọ, Tưởng, Hành,
Thức cứ theo đó mà biết; cho nên không cần nói nữa,
chỉ nói “diệc phục
như thị” (cũng giống như thế). Ngũ Uẩn
đă như thế th́ hết thảy pháp cũng như thế.
Cho nên lại nói: Năm Uẩn này đều là tướng
Không, là tướng Không của hết thảy các pháp, chẳng
sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng
tăng, chẳng giảm, bản thể của chúng là
như thế, chẳng cần phải ước theo thánh -
phàm, chúng sanh - Phật để nói nữa! Do nó vốn chẳng
sanh, do đâu mà có diệt, cũng như có nhơ, sạch,
tăng, giảm nữa ư? V́ thế, trong tướng
Không của các pháp, không có năm uẩn Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, không có sáu căn mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư, không có sáu trần Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp, không có sáu thức là Nhăn giới
(dưới chữ Nhăn lược bỏ chữ Thức), cho đến không có Ư Thức giới. Đấy
là không có lục phàm pháp giới.
“Vô vô minh, năi chí vô lăo tử” (Không vô minh cho đến không lăo tử)
là mười hai nhân duyên thuộc Lưu Chuyển Môn. “Diệc vô vô minh tận, năi chí diệc
vô lăo tử tận” (cũng không có hết vô minh cho đến
không có hết già chết): Đấy chính là mười hai
nhân duyên thuộc Hoàn Diệt Môn. Đây là không có Duyên Giác
pháp giới. “Vô Khổ, Tập,
Diệt, Đạo”, là không có Thanh Văn pháp giới. “Vô Trí”: Trí là độ cuối
cùng trong Lục Độ, cho nên [Vô Trí] là không có Bồ Tát
pháp giới. “Diệc vô đắc”
(Cũng không có đắc): “Đắc”
chính là Bồ Đề, Niết Bàn, [tức là] không có Phật
pháp giới. Có kẻ hiểu cái Không trong câu “Sắc bất dị Không” là
thật tướng của Chân Không. Thoạt nh́n có vẻ
hợp lư, nhưng xét kỹ h́nh như không trọn vẹn.
V́ sao vậy? Đă là không có Ngũ Uẩn, Lục Nhập,
Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, tức lục
phàm pháp giới của thế gian; lại không có Tứ
Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Trí, Đắc, đó
chính là bốn thánh pháp giới xuất thế gian. Hết
thảy các pháp thánh - phàm đều không, lẽ đâu cái Không
của thế gian lại chẳng không? Do phàm t́nh lẫn
thánh kiến đều không, cho nên có thể viên măn Bồ
Đề, trở về cái “không có ǵ để
được” (vô sở đắc). Do “không có ǵ để được” nên “tâm vô quái ngại, khủng bố,
viễn ly điên đảo, mộng tưởng, cứu
cánh Niết Bàn” (tâm không vướng mắc, sợ hăi,
xa ĺa điên đảo, mộng tưởng, rốt ráo Niết
Bàn).
Pháp này chính
là pháp rốt ráo thành Phật của tam thế chư Phật,
do trong tướng Không của các pháp chẳng có những
pháp thánh - phàm, chúng sanh - Phật v.v… cho nên có thể từ
phàm đến thánh tu nhân chứng quả, chứng trọn
vẹn pháp này. Ví như dựng nhà phải có chỗ trống
th́ người mới ở được. Nếu nhà chẳng
có chỗ trống, người ta làm sao ở được?
Do Không, nên mới có thể chân tu thực chứng. Nếu
chẳng Không, sẽ chẳng có tác dụng này. Do trong trí Bát
Nhă sâu chẳng thấy tướng của những thứ
t́nh kiến này nên là Vô, chớ hiểu lầm chẳng tu là
Vô. Nếu hiểu chẳng tu là Vô sẽ phá hoại chánh
pháp của chư Phật, chắc chắn bị đọa
măi trong A Tỳ địa ngục, hăy nên suy nghĩ cặn
kẽ! Thuyết này của Quang có chỗ chẳng phù hợp
cách giải thích của người xưa, nhưng ư
nghĩa chánh yếu chẳng trái nghịch kinh Phật,
cũng có thể nói là một loại kiến giải “thấy rặng, thấy đảnh,
thấy nhân, thấy trí”[11] vậy.
4. Thư răn nhắc những người mới
phát tâm học Phật ở quê tôi
Tôi
thường nói: “Muốn
được lợi ích thật sự nơi Phật pháp,
phải cầu nơi cung kính. Có một phần cung kính liền
tiêu được một phần tội nghiệp,
tăng một phần phước huệ. Có mười
phần cung kính, tiêu được mười phần tội
nghiệp, tăng mười phần phước huệ”.
Nếu chẳng cung kính mảy may th́ tụng kinh niệm Phật
tuy chẳng phải là không được mảy may lợi
ích nào, nhưng trước hết phải chịu cái tội
khinh nhờn, đọa lạc trong tam đồ bao nhiêu kiếp!
Tội trả hết rồi, sẽ nhờ vào nhân lành ấy
lại được nghe pháp tu đạo, ăn chay niệm
Phật, cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử.
Nếu đời này cạn ḷng thành, dốc hết ḷng
kính th́ trong đời này có thể cậy vào Phật từ
lực đới nghiệp văng sanh Tây Phương. Hễ
được văng sanh bèn siêu phàm nhập thánh, liễu sanh
thoát tử, vĩnh viễn ĺa các khổ, chỉ hưởng
những sự vui vậy!
Con
người tu phước hay tạo nghiệp nói chung chẳng
ngoài sáu căn, ba nghiệp. Sáu căn chính là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư. Năm căn trước thuộc
thân nghiệp, ư căn sau cùng thuộc về tâm, tức ư
nghiệp. Ba nghiệp là:
1) Một
là thân nghiệp gồm ba thứ, tức sát sanh, trộm cắp,
tà dâm. Ba sự này tội nghiệp cực nặng.
a. Người
học Phật nên ăn chay, yêu tiếc sanh mạng. Phàm là
động vật đều biết đau đớn,
đều tham sống, sợ chết, chẳng nên sát hại.
Nếu giết để ăn sẽ kết thành một sát
nghiệp. Đời kế, đời sau ắt phải bị
chúng giết lại.
b. Hai là trộm
cắp, phàm những vật của người khác, chớ nên “không cho mà lấy”. Trộm vật
rẻ tiền là đánh mất nhân cách của chính ḿnh. Trộm
vật đáng giá chính là hại thân mạng người ta.
Trộm cắp vật của người khác tợ hồ
chiếm được tiện nghi, [nhưng thật ra] tổn
phước thọ của chính ḿnh, đánh mất những
thứ trong mạng ḿnh lẽ ra phải có so với những
thứ ăn trộm c̣n nhiều gấp bội lần. Nếu
dùng mưu chiếm đoạt, hoặc dùng oai thế hiếp
đáp cướp lấy, hoặc trông coi [tài sản] cho
người khác rồi giở thói xấu chiếm lấy
đều gọi là “trộm cắp”. Kẻ trộm cắp
ắt sanh ra con cái phóng đăng, người liêm khiết ắt
sanh con hiền thiện. Đấy chính là thiên lư nhân quả
nhất định!
c. Ba là tà
dâm. Phàm với những kẻ chẳng phải là thê thiếp
của chính ta, bất luận kẻ ấy hiền
lương hay hạ tiện, đều chẳng
được cùng họ hành dâm. Hành tà dâm là hoại loạn
nhân luân, tức là dùng thân người làm chuyện súc sanh.
Đời hiện tại đă thành súc sanh th́ đời kế
tiếp phải làm súc sanh. Người đời coi chuyện
con gái lén lút cùng người khác là nhục, chẳng biết
con trai tà dâm th́ cũng [đáng nhục] giống hệt
như con gái. Kẻ tà dâm ắt sanh ra con cái chẳng trinh
khiết, ai muốn con cái của chính ḿnh chẳng trinh khiết?
Tự ḿnh đă làm chuyện ấy trước, con cái bẩm
thụ khí phận của chính ḿnh, quyết khó thể
đoan chánh chẳng tà! Không những chẳng được
tà dâm với bóng sắc bên ngoài, mà ngay cả trong sự
chánh dâm giữa vợ chồng cũng nên có giới hạn.
Nếu không, chẳng chết sớm th́ cũng tàn phế.
Kẻ tham ăn nằm khó có con cái, dù có sanh ra cũng khó
thành người. Dẫu có thành người th́ cũng yếu
đuối, chẳng thành tựu ǵ! Người đời
coi hành dâm là vui, chẳng biết chỉ sướng một
khắc, khổ suốt cả đời, khổ lây con
cái, cháu chắt!
Ba điều
này chẳng làm th́ chính là thiện nghiệp nơi thân, nếu
làm th́ chính là ác nghiệp nơi thân.
2) Khẩu
nghiệp gồm có bốn: Nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu,
nói đôi chiều.
a. Nói dối
là nói lời không chân thật. Đă không nói chân thật th́
tâm cũng chẳng chân thật, đánh mất nhân cách rất
lớn.
b. Nói thêu dệt
là nói những lời phong lưu tà vạy, khiến cho kẻ
khác khởi ư niệm dâm đăng. Kẻ thiếu niên vô tri
nghe lâu ngày ắt sẽ bị tà dâm chôn vùi nhân cách, hoặc
thủ dâm tổn hại thân mạng. Tuy kẻ ấy chẳng
tà dâm cũng sẽ đọa đại địa ngục.
Từ địa ngục ra, hoặc làm lợn nái, chó cái. Nếu
sanh trong loài người, thường làm gái ăn
sương, thoạt đầu trẻ tuổi xinh đẹp,
c̣n chưa khổ sở lắm. Lâu ngày bệnh phong t́nh phát
ra, khổ chẳng nói nổi. May có được cái miệng
này, sao lại khổ sở tự chuốc lấy họa
ương cho cả ta lẫn người, chẳng tạo
hạnh phúc cho cả ḿnh lẫn người vậy?
c. Ác khẩu
là nói lời hung bạo như đao, như kiếm, khiến
cho người ta khó chịu đựng nổi.
d. Nói
đôi chiều là đ̣n xóc hai đầu khêu gợi thị
phi, nhỏ th́ gây rối người khác, lớn th́ loạn
nước.
Bốn
điều này không làm th́ là thiện nghiệp nơi miệng,
nếu làm th́ là ác nghiệp nơi miệng.
3) Ư nghiệp
gồm ba thứ, tức tham dục, sân khuể, ngu si.
a. Tham dục
là đối với tiền tài, ruộng đất, đồ
đạc đều mong gom hết về ḿnh, càng nhiều càng hiềm rằng ít.
b. Sân khuể
là bất luận chính ḿnh đúng hay sai, nếu người
khác chẳng thuận ư ta bèn nổi cơn thạnh nộ,
chẳng chấp nhận lư lẽ của người ta.
c. Ngu si
không phải là trọn chẳng biết ǵ, mà dẫu là kẻ
đọc hết sách vở thế gian, vừa qua mắt
liền nhớ, mở miệng thành chương, nhưng
chẳng tin nhân quả ba đời, lục đạo luân
hồi, cho là con người chết đi thần hồn
diệt mất, không c̣n có đời sau v.v… đều gọi
là ngu si! Thứ tri kiến ấy rối nước hại
dân c̣n hơn nước lũ, mănh thú!
Chẳng
làm ba điều này th́ là thiện nghiệp nơi ư, làm ba
điều này th́ là ác nghiệp nơi ư. Người thân - khẩu
- ư ba nghiệp đều thiện th́ công đức do tụng
kinh niệm Phật so với người ba nghiệp đều
ác lớn gấp trăm ngàn lần.
Người
học Phật nên giữ tấm ḷng tốt lành, nói lời
tốt lành, làm chuyện tốt lành. “Giữ tấm ḷng tốt
lành” là phàm những ác niệm nghịch trời trái lư, tổn
người lợi ḿnh đều chẳng cho khởi lên.
Nếu khởi lên bèn lập tức sanh ḷng hổ thẹn,
sám hối khiến cho nó tiêu diệt ngay. Phàm những tâm hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, lợi
người, lợi vật đều thường ǵn giữ,
hễ sức làm được bèn sốt sắng làm. Chẳng
thể làm th́ tâm cũng thường nghĩ đến
điều ấy. “Nói lời tốt lành” là phải nói những
lời có ích cho người, hữu ích cho vật; chứ
không phải là muốn cho người khác nghe xong vui sướng
mà gọi là lời tốt lành! Như giáo huấn con cái và
khuyên người làm lành, khuyên người kiêng ác, khuyên
người giữ vẹn luân thường, khuyên người
tu phước v.v… “Làm việc tốt lành” là tích cực làm
những chuyện hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính
anh, ḥa thuận với họ hàng, sửa đổi phong tục
[cho tốt đẹp hơn]. Phàm tụng kinh, lễ Phật,
niệm Phật, bái sám, các Phật sự đều phải
thân tâm cung kính!
Người
học Phật ban đêm đừng ngủ trần truồng,
phải mặc áo, quần đùi, tâm thường như
đối trước Phật. Ăn cơm chớ nên quá
mức. Cơm ngon đến đâu đi nữa chỉ
ăn đến mức tám chín phần [là tối đa].
Ăn mười phần đă chẳng có ích cho người;
ăn mười mấy phần ắt tạng phủ bị
thương tổn. Thường ăn như thế nhất
định bị đoản thọ. Hễ ăn quá nhiều,
tâm hôn trầm, thân mỏi mệt, tiêu hóa chẳng kịp, ắt
phải trung tiện. Chuyện trung tiện là chuyện tệ
nhất, là chuyện gây nên tội lỗi lớn nhất. Nơi
Phật điện, tăng đường, đều phải
cung kính; như thắp hương chẳng qua để biểu
lộ tấm ḷng, chứ xét rốt ráo ra, chẳng có loại
nào đáng xem là hương cả! Nếu ăn nhiều, văi
trung tiện hết sức hôi thối, khiến cho hơi
thối ấy xông sực Tam Bảo, tương lai ắt
sanh làm loài gịi trong hầm phân.
Chẳng
ăn quá mức sẽ chẳng phóng trung tiện. Nếu
như dùng chất lạnh, cảm thấy không ổn, hễ
vô sự bèn đi ra chỗ trống xả ra, đợi
đến khi tan mùi lại quay vào trong thất. Nếu có việc
chẳng ra ngoài được, hăy nên dùng sức kềm lại,
chưa đầy một khắc nó sẽ tan mất trong bụng.
Có người nói chẳng phóng ra sẽ thành bệnh; lời
lẽ này c̣n nặng tội hơn chuyện phóng trung tiện,
vạn phần chớ nghe theo. Đức Phật chế
giới luật chưa nhắc đến sự này; có lẽ
cổ nhân thân thể khỏe mạnh, lại không tham
ăn, không có chuyện này, cho nên không nói đến. Nếu
có, ắt Phật phải nói. Chớ nói Phật không cấm
cho nên cứ việc phóng, đấy chính là tự cầu
đọa lạc, Phật cũng khó cứu!
Khổng Tử
dùng tư cách của bậc thánh nhân triều kiến bậc
quốc quân (vua một nước) phàm phu, khi sắp lên
điện, ở dưới thềm, c̣n chẳng dám thở
mạnh, huống chi lúc đă vào điện gặp mặt
vua! V́ thế, sách Luận Ngữ chép: “Nhiếp tề thăng đường, cúc cung như
dă. B́nh khí tự bất tức dă” (Nâng vạt áo lên điện,
khom ḿnh như thế đó, nín hơi như không thở) (Nhiếp攝:
Nâng. Tề 齊, đọc như Tư 咨[12],
nghĩa là vạt áo. Cúc 鞠: uốn cong. B́nh 屏:
giấu kín. Tức 息: hơi thở từ
trong mũi. Khổng Tử triều kiến vua, lúc sắp
lên điện, trước hết đi khom ḿnh. Do khom ḿnh
nên vạt áo trước dài hơn, cho nên phải nâng hai mép vạt áo lên cách mặt đất
khoảng chừng một thước mới chẳng
đến nỗi đạp lên áo, vấp té, thất lễ. Nghiêm túc đến cùng cực, cho
nên hơi thở trong mũi tựa hồ chẳng thoát ra.
Hăy thử xem Ngài kiêng dè đến mức độ nào?
Người đời nay so với Khổng Tử kém xa lắm,
vua khi ấy so với Phật lại kém thật xa nữa!
Phóng trung tiện so với thở ra lại càng khác xa lắm.
Im lặng suy nghĩ, khác ǵ đại địa chẳng
có chốn dung thân, há chẳng cực lực lưu tâm ư?) Chúng
ta là nghiệp lực phàm phu ở trong Phật điện
của bậc Thánh Trung Thánh, Thiên Trung Thiên (thánh của các
thánh, trời của các trời), nơi có đủ Tam Bảo,
sao dám chẳng kiềm chế, mặc t́nh trung tiện
ư? Tội lỗi ấy lớn nhất không ǵ sánh bằng!
Có lắm kẻ
do chẳng xem nhiều trước thuật của cổ
đức, nên tưởng là cổ đức không nói
đến. Chẳng biết cổ đức nói rất
khéo, gọi đó là “tiết hạ
khí” (hơi rỉ ra từ bên dưới). Họ
cũng chẳng hiểu câu đó có nghĩa là ǵ, chẳng
thèm để ư. Ba mươi, bốn mươi năm trước,
Quang thường nói đến chuyện này, sau thử hỏi
lại, người ta chẳng biết là chuyện ǵ! Do vậy,
tốt nhất cứ nói thẳng là “trung tiện”. Trong tuồng
hát, hễ chửi người khác nói buông tuồng bèn nói:
“Lời ngươi nói như thả rắm”. Phàm có chuyện
ǵ kinh sợ, đều chẳng dám thở mạnh, làm sao
c̣n đánh trung tiện được? Do buông tuồng không
kiêng dè, nên mới trung tiện! Chớ có nói “nhắc đến
chuyện trung tiện nghe không nhă”, thật ra, tôi v́ muốn
tạo cách cứu người khỏi bị làm gịi trong hầm
phân!
Sáng dậy
và lúc đại tiểu tiện xong, phải rửa tay.
Phàm sờ lên thân, ṃ xuống chân đều phải rửa
tay. Những tháng mùa Hạ ống quần chớ buông thùng
th́nh, phải bó lại. Tùy tiện khạc đàm hỉ
mũi là chuyện tổn phước lớn lắm! Đất
Phật thanh tịnh, chẳng những trong điện
đường chẳng được khạc nhổ, hỉ
mũi, mà ngay cả trên cuộc đất sạch phía ngoài
điện đường cũng chẳng nên khạc nhổ,
xỉ mũi. Nhổ trên đất sạch sẽ tạo
thành vẻ dơ bẩn! Có kẻ luông tuồng chẳng
kiêng dè, khạc bừa ra đất hay khạc lên vách trong
pḥng! Một gian pḥng đẹp đẽ mà khắp đất,
đầy tường toàn là đàm. Kẻ ấy khạc đàm
để
ra vẻ hống hách, lâu ngày
thành bệnh, hằng ngày thường khạc; tinh hoa của
đồ ăn thức uống đều biến thành
đàm hết. Nếu chịu nuốt đàm xuống, lâu dần
không c̣n đàm nữa. Đấy là cách hay nhất để
dùng đàm diệt đàm. Nếu chẳng thể nuốt
xuống nên bỏ một cái khăn lau đàm trong tay áo, khạc
lên đó xong lại bỏ vào trong tay áo. Cách này cũng vừa
mệt người, lại không sạch sẽ, chẳng bằng
nuốt xuống, vừa không mệt người, vừa
chẳng ô uế, lại vĩnh viễn không bị bệnh
đàm. Đây là cách hay nhất để trị bệnh
đàm.
Người
học Phật nhất cử nhất động đều
phải lưu tâm. Đối với việc niệm Phật
phải chí thành. Nếu khi nào trong tâm khởi
lên đau buồn, đấy cũng chính là tướng thiện
căn phát hiện, chớ nên
để thường xảy ra như thế. Nếu
không, sẽ bị ma bi thương dựa vào. Phàm có chuyện
ǵ thích ư, chớ nên hoan hỷ quá mức. Nếu không, ắt
bị ma hoan hỷ dựa. Lúc niệm Phật, mí mắt
nên rủ xuống, chớ nên căng thẳng tinh thần
quá mức đến nỗi tâm hỏa bốc lên, rất
có thể bị những chứng bệnh ngứa đầu,
đau đầu v.v... cần phải điều ḥa cho
thích đáng. Niệm lớn tiếng th́ chẳng được
cố sức quá mức để khỏi bị bệnh.
Lần chuỗi niệm có thể ngừa được sự
lười nhác, nhưng lúc tịnh tọa
chẳng được lần chuỗi, hễ lần chuỗi
th́ ngón tay động nên tâm chẳng định được,
lâu ngày ắt thành bệnh.
Xem kinh luận và các loại sách vở
chớ nên vội vă. Phải xem nhiều lần, xem gấp
rút sẽ chẳng thể ngưng lặng được,
khó ḷng thấu đạt ư chỉ. Kẻ hậu sinh
hơi thông minh, được một bộ kinh sách bèn quên
ăn bỏ ngủ để xem, coi một lần là xong
liền. Lần thứ hai không c̣n hứng thú xem nữa. Dù
có xem, cũng giống như vẻ mất hồn ngơ ngẩn.
Những loại người này đều chẳng thể
thành tựu, hăy nên tận lực ngăn ngừa! Tô Đông
Pha nói: “Cựu thư bất yếm
bách hồi độc. Thục độc thâm tư tử
tự tri” (Sách cũ trăm lần xem chẳng chán;
đọc kỹ, nghĩ sâu ắt tự biết).
Khổng Tử
là bậc thánh thông minh thiên phú c̣n đọc kinh Dịch đến
độ ba lần đứt lề sách. Với tư cách
của Khổng Tử, vừa qua mắt liền thuộc
ḷng, cần ǵ phải nh́n vào văn để đọc nữa?
Do vậy, ta biết: Nh́n vào văn có điểm rất tốt.
Đọc thuộc th́ phần lớn là miệng đọc
qua trơn tru, c̣n xem văn th́ mỗi chữ, mỗi câu
đều biết được chỉ thú. Chúng ta nên học
theo cách này, chớ nên tỏ vẻ chính ḿnh thông minh, chuyên
đọc thuộc ḷng. Thời Khổng Tử không có giấy.
Hễ viết th́ viết trên tấm gỗ hoặc viết
trên thẻ tre (trúc giản 竹簡, tức
là thẻ bằng tre). Sáu mươi
tư quẻ Dịch do Phục Hy[13] vạch
ra. Phần Thoán[14] mở
đầu sáu mươi bốn quẻ do Văn
Vương soạn. [Ư nghĩa của] sáu hào trong mỗi quẻ
do Châu Công định ra. Ngoài ra, phần Thoán Truyện,
Tượng Truyện của Thượng Kinh, phần
Thoán Truyện, Tượng Truyện của Hạ Kinh và phần
Văn Ngôn của hai quẻ Càn Khôn, Hệ Từ Thượng
Truyện, Hệ Từ Hạ Truyện, Thuyết Quái Truyện,
Tự Quái Truyện, Tạp Quái Truyện[15],
được gọi chung là Thập Dực đều do
Khổng Tử biên soạn. Nếu chỉ xét theo số
lượng chữ th́ phần biên soạn của Khổng
Tử gấp mười mấy lần phần trước
tác kinh Dịch của Văn Vương, Châu Công. Nhưng
Khổng Tử đọc kinh Dịch của Văn
Vương, Châu Công rốt cuộc đến nỗi dây buộc
sách bằng da thuộc bị ṃn đứt ba lần, đủ
biết số lần đọc chẳng thể tính đếm
xuể! Chúng ta hằng đọc kinh Phật, tŕ Phật
danh giống như Khổng Tử đọc kinh Dịch ắt
sẽ có thể dùng lời Phật, phẩm đức của
Phật mà un đúc cái tâm nghiệp thức của chính ḿnh
trở thành trí huệ tạng của Như Lai. Pháp tắc
để chuyên tu Tịnh Độ gồm có Tịnh Độ
ngũ kinh, Tịnh Độ Thập Yếu và các trước
thuật Tịnh Độ, ở đây không ghi đầy
đủ nữa!
5. Thư gởi thầy Minh Bổn
(năm Dân Quốc mười sáu - 1927)
Căn bệnh
chung của cả cơi đời hiện thời là nhờ
công để lợi tư, khiến cho dân cùng khốn,
nước nguy ngập, chiến tranh liên miên. Chúng ta xuất
gia làm đệ tử Phật, cố nhiên phải lấy
ḷng b́nh đẳng đại từ, đại
bi của đức Phật làm chí hướng, chẳng
nên giữ măi thói kiêu mạn tự đại của
người tại gia, coi thường hết thảy, mặc
t́nh xử sự, chẳng tuân theo lề lối cũ. Phải
nghĩ chúng ta được trời che đất chở,
được cha mẹ giáo dục, nếu chẳng bắt
chước tấm ḷng của trời đất, cha mẹ,
sẽ thành kẻ nghịch trời trái lư, gây nhục sâu xa
cho đấng sanh thành. Linh Nham[16]
là đạo tràng cổ đă một ngàn một trăm
năm, sau cơn biến loạn trở thành chốn hoang
tàn. Tuy c̣n một ít kiến trúc, nhưng không có người
chống đỡ, vẫn suy tàn như cũ. May là vào cuối
thời Quang Tự, vị đại hộ pháp họ Nghiêm nghe tiếng thầy Chân[17]
bèn nghênh thỉnh. Ấy là v́ mong Sư sẽ khôi phục
đạo tràng vậy. Thầy Chân tuy tiếp nhận, hiềm
rằng các sự ràng buộc, chẳng thể đích thân
trụ tŕ. Năm ngoái, Giới pháp sư[18] đến
đây, Sư mừng t́m được người bèn giăi
bày mọi lẽ, đích thân đưa lên núi để làm Trụ
Tŕ. Lại c̣n thỉnh vời quan viên, thân sĩ, lên tiếng
minh xác biến chùa này thành chốn thập phương
thường trụ. Thầy Giới phẩm đức, học
nghiệp, tiếng tăm đều xuất sắc, thật
đáng làm khuôn phép cho hàng hậu học. Nay thầy đă
đáp ứng lời thỉnh cầu [thuyết giảng một
khoảng thời gian tại] Ngu Sơn, ông hăy nên hết sức
gắng công thay thầy Giới lănh chúng tu tŕ, chớ nên lẩn
tránh, lười nhác, mong được an nhàn.
Phàm những ai đến
núi này ở lại đều là người phát tâm tu đạo,
ai nấy đều phải tích cực dụng công, khuyến
khích, cổ vũ lẫn nhau, ḥng được sự lợi
ích “lệ trạch”[19],
chẳng được rong chơi, chuyện gẫu,
cũng như chẳng tuân theo quy củ nhà chùa, tự làm theo
ư ḿnh. Chùa này đă là chùa thập phương, con cháu của
Tam Thánh Đường[20] sống
ở đây cũng phải tu chung với đại chúng,
đều cùng hưởng nhọc nhằn hay nhàn nhă, đều
đồng cam cộng khổ. Nếu không, sẽ trở
thành kẻ quấy loạn Thường Trụ, khinh dối
thầy Chân. Đă là đồ đệ của thầy
Chân th́ hăy nên vô cùng đúng pháp để khỏi đến
nỗi v́ chính ḿnh chẳng đúng pháp mà khiến cho người
ta nói động đến thầy Chân. Nay dạy giản
lược đại khái để làm căn cứ ḥng
duy tŕ tiền đồ vậy:
1) Thời
thế bất ổn, chỉ nên nhất tâm tu đạo,
chớ nên vọng động tính xây dựng. Nếu bất
đắc dĩ th́ chỉ nên xây dựng thêm nho nhỏ, cốt
vừa đủ dùng là được, chớ nên xây cất
nhiều, mong cho thật rộng lớn. Không những v́ tài
lực không đủ mà c̣n là để khỏi v́ lẽ
đó mà bị chuốc họa!
2) Đường
đời gian nan, cơm áo ai nấy đều nên tiết
kiệm. Chi phí cho Thường Trụ phải dựa theo thâu
nhập mà chi tiêu. Nếu chẳng tiết kiệm, sau này
khó duy tŕ được. Tất cả các khoản thâu vào
chi ra đều phải phân minh, chớ nên mua sắm những
vật phù phiếm, xa hoa: Một là phí tiền, hai là chuốc
lấy tiếng chê bai. Phải dành dụm chỗ dư ra để
bồi đắp chỗ thiếu hụt [sau này], chẳng
được nói: “Có thầy Chân tiếp tế, cứ mặc
t́nh tiêu xài phù phiếm”.
3) Khóa tụng
hằng ngày nơi Phật đường nên y theo quy củ
đă định hiện thời, tu tŕ thiết thực,
nhưng chớ nên một mực chuyên chú dụng công
nơi sự tướng, mà hăy nên tâm tâm niệm niệm
đối trị những căn bệnh tập khí của
chính ḿnh. Làm được như thế th́ mới thật
sự là người niệm Phật. Nếu không, sẽ như
bọt nước vỗ vào tảng đá, hoàn toàn chẳng
có tâm đắc chi! Chỉ nên căn cứ theo quy củ Tịnh
Độ thông thường, chớ có bày vẽ kiểu
cách hoa dạng nào khác. Nếu có kẻ muốn lập dị,
như đốt ngón tay, [dùng thân] đốt đèn, hăy thỉnh
người đó đến chùa A Dục Vương[21]
mà làm, núi này vĩnh viễn chẳng bày ra thói ấy.
4) Giới
pháp sư đă nhận lời giảng dạy một thời
gian ở Ngu Sơn, sợ rằng khó thể trở về
ngay được, nhưng danh vị Trụ Tŕ vẫn thuộc
về thầy Giới, chuyện lănh chúng tu tŕ ông tạm
thay thế. Phải nên hết sức siêng năng, cẩn
thận, khiêm cung, chẳng nên tự đại tự cao.
Ông là văn bối, thay thầy ấy trông nom mọi việc,
chẳng được nói năng dường như [chính
ḿnh là] vị Trụ Tŕ để đại chúng khâm phục
tấm ḷng rỗng rang của ông, đạo tâm càng thêm chân
thành, thiết tha.
5) Phàm xử
sự tiếp vật hăy nên khiêm ḥa công b́nh, chẳng
được cố chấp ư kiến của chính ḿnh, mạt
sát chánh lư. Cần nhất là mọi người khích lệ,
khuyên lơn lẫn nhau tu ṛng Tịnh nghiệp. Thường
giảm lỗi ḿnh, đừng bàn lỗi người, cực
lực đối trị căn bệnh tập khí. Tập
khí khử được một phần th́ đạo nghiệp
mới tăng được một phần. Chẳng
được kiêu ngạo, luông tuồng, hăy chú ư giữ
cho đúng chừng mực. Nói chung, phải chịu
thương, chịu khó, an bần thủ phận.
6) Chùa này là
chùa thập phương, dù ông mang vật ǵ đến
cũng thuộc về thập phương, nên giữ tinh
thần chí công vô tư. Phàm con cháu của Tam Thánh Đường
trụ trong núi này cũng phải đả phá t́nh cảm
riêng, đặt ḿnh vào địa vị của mười
phương Tăng chúng, chẳng được tự tiện
cậy vào ư riêng để được hưởng sự
ưu đăi, mặc sức phóng túng, hủy hoại quy củ
đă thành lập. Nếu không, sẽ trở thành tội
nhân trong Phật pháp, là oan gia của thầy Chân, hăy cho kẻ
đó ra đi để khỏi bị người khác chê
cười.
Thời sự
gian nan, tiền đồ đáng lo, nếu chẳng có cách tốt
đẹp th́ sao trở thành đạo tràng cho được?
Chỉ sợ ông có lẽ chưa nghĩ tới, cho nên mới
dài ḍng một phen. Lúc đầu vốn muốn nói chung
chung, sau lại muốn cho rơ ràng dễ xem nên chia thành sáu
điều, chẳng qua nhằm biểu thị tấm ḷng
ngu thành của Quang nhằm bảo vệ đạo tràng Linh
Nham, xin chớ v́ “vượt
chén thay thớt”[22]
mà chê cười th́ Linh Nham may mắn lắm, mà thầy
Chân cũng may mắn lắm!
6. Thư trả lời cư sĩ Giác Minh
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Hôm qua nhận được thư bà và
thư của cư sĩ Phạm Cổ Nông, biết bà đời
trước vốn có thiện căn, nhưng do tập khí
văn nhân chưa trừ được, nên gần như
chẳng được lợi ích thật sự! Nay tu tập
mà vẫn chưa biết mối tương quan rất lớn
giữa tự lợi và lợi tha. Đừng nói chi
người ngoài, ngay cả chồng, con, dâu, cháu v.v… của
chính ḿnh đều nên dạy họ thường niệm
Phật hiệu. Một là khiến cho bọn họ cùng gieo
thiện căn; đang trong khi cơi đời đại loạn
này, nếu chẳng nương tựa vào Phật th́ nguy hiểm
đáng lo lắm. Hai là nếu lúc b́nh thường chẳng
dạy bọn họ uốn nắn tập khí th́ một
mai kia lúc bà sắp mất, bọn họ sẽ thuận
theo tri kiến thế tục, tính chuyện phô trương,
khóc lóc mù quáng, dẫu bà có công phu Tịnh nghiệp có thể
tương ứng với Phật, được Phật
tiếp dẫn, nhưng gặp phải những hành động
đó phá hoại tịnh niệm, chắc chắn vẫn ở
lại trong cơi Sa Bà, từ trần sa kiếp này cho đến
trần sa kiếp khác vẫn bị luân hồi trong sáu nẻo.
Do vậy, khuyên quyến thuộc niệm Phật chính là một
đại sự khẩn yếu nhất.
Quang là một
ông Tăng tầm thường chỉ biết đến
cơm cháo, chẳng thể làm cho bà được hưởng
lợi ích nơi diệu lư của kinh giáo, chỉ có mỗi
một việc này do từng trải mấy mươi
năm là có thể làm cho bà đích thân được lợi
ích trong đời này. Nếu bà làm theo được, sẽ
chẳng khác ǵ cầu Phật tiếp dẫn bà và quyến
thuộc cùng con cháu đời sau. Nay tôi đặt pháp danh
cho bà là Triều Giác, có nghĩa là chính bà, quyến thuộc
và những người quen biết đều cùng quy hướng
A Di Đà Phật Đại Giác Thế Tôn vậy. Hiện
thời, phạm vi [hoạt động] của nữ giới
được nới lỏng, nếu chẳng dùng Phật
pháp để duy tŕ th́ sau này chẳng biết biến đổi
thành ra t́nh cảnh như thế nào nữa! Bà xưa đă
có huệ căn, há chẳng dùng chuyện tự lợi lợi
tha này để Tịnh nghiệp của chính ḿnh được
thuần thục, cao đăng thượng phẩm hay
sao?
Nay tôi gởi
cho bà một bộ Tịnh Độ Thập Yếu,
đây là loại nguyên bản chứ không phải là loại
trích yếu giản lược đang được
lưu hành, một bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục,
một bộ Cứu Kiếp Biên[23], một
bộ Quán Âm Tụng in theo lối mộc bản (Quán
Âm Tụng do một đệ tử bỏ tiền in, nhờ một vị Tăng ở
Nam Kinh giảo chánh. Vị này có học thức, giảo
chánh khá tốt. Cho đem khắc tại Dương Châu, nhưng
do v́ chiến tranh, đường bưu điện
thường chẳng thông suốt. Đến khi khắc
xong, do đường bưu điện không thông nên phải
đ́nh lại lâu ngày, sắp đem bản khắc gởi
đi th́ am của vị
Tăng đó bị kẻ có thế lực đoạt mất.
Tâm t́nh đă loạn, nên chẳng thể xét duyệt,
thẩm định được nữa. Về sau,
đem in ra bốn trăm bộ. In xong xem lại, mới
biết sai ngoa khá nhiều. Do vậy, phải in riêng một
bản đính chánh ghép vào. Xin hăy chú ư dựa theo bản
đó mà sửa cho đúng), một bộ
Lịch Sử Thống Kỷ[24] in
bằng lối mộc bản (hai bộ này không có người
lưu thông v́ phí tổn lớn quá)
và các thứ khác xếp cho đầy bưu kiện, đều
có liên quan đến nhân tâm thế đạo. Lại kèm
thêm một lá thư gởi cho khắp mọi người,
đúng là của báu truyền đời của mọi
người, văn tự tuy nông cạn, hời hợt,
nhưng chẳng có một chữ nào vô dụng. Năm
ngoái, Phật Quang phân xă ở Vụ Nguyên được thành
lập, một đệ tử xin Quang viết lời tựa.
Quang một mực không giữ lại bản thảo,
nhưng với bài ấy đặc biệt sao lại đem
gởi đi, muốn gởi cho Phật Học Đặc
San Xă, nhưng chần chừ chưa gởi. Nay đem gởi
tới cho bà, xem xong xin chuyển cho cư sĩ Phạm Cổ
Nông, bảo với ông ta tôi đă đặt pháp danh cho bà
để Quang khỏi phải viết thư cho ông ta nữa.
Quang già rồi, do sức túc nghiệp, sanh ra mới
được sáu tháng liền bị bệnh mắt, suốt
sáu tháng không mở được mắt, không ngớt tiếng
khóc. Nay đă hơn bảy mươi tuổi rồi, gần
đây mục lực rất yếu, từ mùa Đông
năm ngoái hễ có thư từ ǵ gởi đến đều
dặn sau này đừng gởi thư nữa, thư gởi
đến quyết không phúc đáp, để khỏi bị
ôm nỗi đau Tây Hà[25].
7. Thư trả lời Huyễn Tu đại sư
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Tông chỉ
niệm Phật là sanh ḷng tin chân thật (tức Tín), phát nguyện thiết tha (tức
Nguyện), chuyên tŕ Phật hiệu (tức
Hạnh. Tín - Nguyện - Hạnh là tông chỉ của Niệm
Phật). Phương pháp dụng
công niệm Phật hay nhất chính là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối”. “Nhiếp trọn sáu căn” chính là cái tâm niệm
Phật chuyên chú nơi danh hiệu Phật, tức là thâu
nhiếp ư căn. Miệng phải niệm cho rơ ràng, rành rẽ,
tức là thâu nhiếp thiệt căn. Tai phải nghe cho rơ
ràng, rành rẽ, tức là thâu nhiếp nhĩ căn. Gom ba
căn này vào Phật hiệu th́ chắc chắn mắt chẳng
thể nh́n loạn. Lúc niệm Phật, mắt phải khép
hờ, tức là rủ mí mắt xuống, đừng có mở
to mắt. Mắt đă nhiếp th́ mũi cũng chẳng
ngửi loạn, tức là mũi cũng được nhiếp.
Thân phải cung kính, tức là thân cũng được nhiếp.
Sáu căn đă nhiếp chẳng tán loạn th́ tâm không vọng
niệm, chỉ nghĩ đến Phật th́ mới là tịnh
niệm. Sáu căn chẳng nhiếp th́ dù có niệm Phật,
vọng niệm trong tâm vẫn tưng bừng, khó
được lợi ích thật sự! Nếu có thể
thường nhiếp trọn sáu căn để niệm
th́ gọi là “tịnh niệm tiếp nối”. Thường
giữ được tịnh niệm tiếp nối chính
là nhất tâm bất loạn, dần dần sẽ đạt
được Niệm Phật tam-muội.
8. Trả lời thư cư sĩ Vương Đức
Châu ở Vân
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
1) Thư
tuyên ngôn của Cư Sĩ Lâm ngôn từ lẫn lư lẽ
châu đáo, rất hay. Chương tŕnh hoạt động
đại lược cũng hết sức nghiêm chỉnh,
châu đáo, trọn vẹn. Đủ thấy được
t́nh trạng giáo hóa Phật pháp hưng thạnh ở Vân
Chánh nghĩa của Phật
giáo hoàn toàn khế hợp luân thường đạo lư.
Trong đời có kẻ ngoại đạo thường
hay xén trộm những danh từ Phật giáo để thực
hành đạo vận khí, luyện đan, rồi gọi
hoa mỹ là Tam Giáo Đồng Nguyên (Nho, Thích, Đạo
cùng nguồn). Nguồn cố nhiên là đồng, nhưng
ngành nhánh th́ khác! Nếu chấp nhận kiểu “đồng
nguyên” ngoài miệng của bọn dị kiến là nguồn
cội của Tam Giáo sẽ đắc tội lớn với
thánh nhân Tam Giáo. Nay dốc sức nơi luân thường và
pháp môn Tịnh Độ th́ tương lai ở bất cứ
nơi đâu cũng sẽ gặp được nguồn.
Nếu bỏ điều này, coi pháp bí mật truyền dạy
cách luyện đan là nguồn cội, sẽ trở thành
vĩnh viễn mê mất nguồn cội chân thật,
đi măi trong nẻo tà! Hăy nên đem điều này nói với
những tín sĩ có túc căn nhưng chưa biết cội
nguồn của Phật pháp th́ lợi ích lớn lao lắm.
Cảnh Kỳ
Xương pháp danh là Đức Xương, Hàn Thọ
Sơn pháp danh là Đức Sùng. Phải biết: Vốn có
tánh đức rất sáng suốt, lại cực cao quư, chỉ
v́ chẳng biết nên đâm ra tối tăm, hèn kém. Nếu
chịu kiểm điểm hết thảy khởi tâm
động niệm sẽ tự có thể khôi phục gốc,
trở về nguồn, đích thân được thụ dụng,
nhưng không thể không tận lực chuyên chú giữ vẹn
luân thường và niệm Phật. Dùng cách này để tự
hành, lại c̣n để dạy người, th́ gọi là
Phật Tử. Đối với tất cả các sách của
Hoằng Hóa Xă hăy nên bảo họ gởi cho một hai phần
để những lâm hữu (thành viên của Cư Sĩ
Lâm) xem đọc, cũng như bảo họ gởi kèm
theo thư mục để tiện việc muốn thỉnh
sách nào có lợi cho người th́ cứ theo danh sách đó
mà thỉnh.
Hiện nay có
bộ Tăng Tu Lịch Sử
Thống Kỷ đă in xong, chẳng bao lâu giảo đính
hoàn thành, tôi sẽ gởi một hai bộ để kết
duyên. Phổ Đà Sơn Chí có thể xuất bản vào cuối
Thu hoặc đầu Đông. Bộ Chánh Tín Lục của ông La Lưỡng Phong cũng
có thể được xuất bản vào đầu Thu. Nguyên
văn bộ Tịnh Độ Thập Yếu sẽ
được xuất bản vào mùa Hạ hay mùa Thu năm
sau. Bộ sách này rất hữu ích cho Tịnh nghiệp hành
nhân. Do có những việc như vậy nên Quang chưa thể
cự tuyệt hết thảy, tuy mang tiếng bế quan
nhưng vẫn bận bịu đủ chuyện. Đợi
đến khi những việc ấy xong xuôi, ắt sẽ
cự tuyệt hết thảy để mong đến
ngày Ba Mươi tháng Chạp không bị chướng ngại,
theo Phật văng sanh. Sau này, không có chuyện cần thiết
th́ chớ nên gởi thư đến, bởi tôi chẳng
đủ tinh thần, không có sức đáp ứng.
2) Nói ngày
Ba Mươi tháng Chạp nghĩa là nói chuẩn bị sẵn,
chứ không phải là biết trước lúc mất sẽ
nhằm ngày Ba Mươi tháng Chạp. Ba Mươi tháng Chạp
là ngày năm cùng tháng tận cho nên cổ nhân thường
mượn từ ngữ này để ví cho lúc chết. Nếu
b́nh thường chẳng sớm chuẩn bị sẵn,
đến lúc ấy chắc chắn tay chân cuống quít.
Nhóm bảy người các ông Trần Chánh Am v.v... đă muốn
quy y th́ hăy nên dựa theo Văn Sao, Gia Ngôn Lục để
tu tŕ th́ mới chẳng phụ cái tâm ấy. Hiện nay các
nơi ngoại đạo rất nhiều, bọn họ
đều coi “luyện đan, vận khí, cầu thành tiên, sanh lên trời” là chuyện tột bậc.
Đă quy y Phật pháp th́ chớ nên kiêm tu những pháp ấy
nữa! Tà - chánh xen tạp th́ chánh cũng thành tà. Lại nữa,
ai nấy đều nên giữ vẹn luân thường, tận
hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều lành, ắt phải
lấy nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi làm nhiệm
vụ trọng yếu để vun đắp quốc gia
khiến cho ai nấy đều hành theo những điều
này th́ lẽ đâu thiên hạ chẳng tự được
thái b́nh! Nay thiên hạ loạn lạc, cội nguồn đều
do chẳng bàn đến sự giáo dục trong gia đ́nh,
chẳng nhắc đến nhân quả báo ứng, nên mới
ươm thành [mối họa] vậy.
Nay tôi gởi bảy bộ
Tăng Tu Lịch Sử Thống Kỷ mới được
in, bốn bộ Chánh Tín Lục, nhận
được xin hăy châm chước mà phân phối. Chánh Tín Lục phá được thiên kiến hẹp
ḥi, câu nệ bậc nhất. Thiện căn của người
đọc sách bị những vị tiên sinh bên Lư Học
đoạn dứt, nhưng các tiên sinh bên Lư Học đều
trộm lấy những nghĩa lư của Phật pháp để
tự xưng hùng, lại sợ người đời sau
học [Phật] bèn ra sức bài xích ḥng ngăn lấp hàng
hậu học để họ chẳng biết đến
Phật pháp; nhưng làm sao ngăn trở được người
có chút túc căn! Chẳng qua là dùng mánh khóe ấy để
người căn tánh trung hạ không cách nào đích thân
được gội nhuần pháp trạch vậy!
Nay tôi đặt
pháp danh cho mỗi người trong bọn họ, xin hăy chia
thư ra giao cho họ, hoặc đem những ư chánh yếu
trong thư này [viết lại gởi đi] để mỗi
người tự sao lấy. Không có h́nh [gởi kèm theo], chỉ
mong lễ Phật niệm Phật, dùng h́nh tôi nào có ích chi?
Cơi đời hiện thời đă loạn đến cùng
cực, thiên tai nhân họa không lúc nào nhiều hơn lúc này.
Trong thời thế này, mọi người đều phải
phát tâm cảm kích, ai nấy phải nỗ lực tu đạo
làm người trong luân thường và ứng xử hằng
ngày, kiêm tu pháp môn Tịnh Độ. Đấy gọi là “tu chân ngay trong cơi tục, sống
trong cơi trần học đạo, Phật pháp lẫn thế
pháp đều cùng hành”. Nếu trong những kiếp
xưa chẳng gieo căn lành, danh hiệu Phật c̣n khó
được nghe! Nếu chẳng tích cực tu tŕ sẽ
trở thành lên núi báu trở về tay không, cô phụ ân Phật
và tánh linh của chính ḿnh quá lắm!
9. Trả lời thư cư sĩ Châu Tụng Nghiêu
(đính kèm nguyên văn thư hỏi, năm Dân Quốc 20 - 1931)
Nay con có một nghi vấn, thỉnh
cầu lăo pháp sư từ bi khai thị. Đệ tử
ăn chay niệm Phật đă nhiều năm. Nhân v́
người tin Phật được mười
phương tam thế chư Phật hộ niệm, thiên
long bát bộ, đại lực thần vương thường
theo ủng hộ, ác nghiệp những đời trước
cũng dần dần được tiêu diệt, dù có oán
đối cũng chẳng thể hại được.
Đấy chính là điều kinh Phật đă nói, quyết
chẳng phải là lời nói dối. Vậy mà trong tháng Ba,
con nhận được tin từ mẹ con ở Thượng
Hải gởi đến, cho biết có bà Trương hết
sức tin Phật, ăn chay đă hơn hai mươi
năm, thường đến Cư Sĩ Lâm nghe kinh, gặp
ai cũng khuyên niệm Phật ăn chay, tâm hết sức
từ bi làm lành. Nào ngờ một bữa kia, mang đồ
chay đến cho một vị sư huynh nọ, đi
đường bị xe hơi tông chết. Sau đó, sở
cảnh sát giao thông đem xác về, đến ba bữa
sau con cháu trong nhà mới biết chuyện, đến lănh về
tẫn liệm. Con nghe chuyện này xong, trong tâm hết sức
kinh hăi, đến nay ngờ vực không giải quyết
được! Hơn nữa, những người trong Phật
hội nghe như vậy cũng đều bất an. V́ thế,
con mới đặc biệt dâng thư này, khẩn cầu
lăo pháp sư chỉ bày nguyên do v́ sao bà ta lâm chung lại khổ
sở đến thế? Rốt cuộc bà ta có được
văng sanh Tây Phương hay chăng? Xin hăy giảng minh bạch
điều này khiến cho mọi người an tâm niệm
Phật, cảm tạ ân đức khôn cùng.
Nhận
được thư, biết các hạ đối với
đạo lư Phật pháp c̣n chưa thật sự hiểu
rơ. Chúng ta từ vô thủy đến nay đă tạo ác
nghiệp vô lượng vô biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Giả sử ác nghiệp hữu
thể tướng giả, thập phương hư không
bất năng dung thọ” (Giả sử ác nghiệp có
thể tướng th́ mười phương hư không
cũng chẳng thể chứa đựng được).
Phải biết: Người tu tŕ nếu chân thành, không dối
trá th́ có thể chuyển được nghiệp, chuyển
quả báo nặng nề ở đời sau thành quả
báo nhẹ trong đời này. Phàm phu mắt thịt chỉ
thấy được những sự thực cát - hung hiện
thời, chẳng thể biết nhân quả quá khứ và vị
lai như thế nào! Như bà cụ ấy tu tập tinh
ṛng nhiều năm, một bữa kia chết thảm, có thể
là do khổ báo ấy sẽ tiêu diệt được quả
báo trong tam đồ ác đạo đă tạo, được
sanh trong thiện đạo. Nếu lúc sống có tín nguyện
chân thật th́ cũng có thể văng sanh Tây Phương.
Nhưng chúng ta đă không có Tha Tâm đạo nhăn, chẳng
dám ức đoán là quyết định văng sanh hoặc quyết
định chẳng văng sanh. Chỉ có thể nói quyết
định: “Làm lành ắt
được báo lành, làm ác quyết mắc báo ác”.
Làm lành mà mắc
ác báo th́ chính là quả báo của ác nghiệp đời
trước, chứ không phải là quả báo của thiện
nghiệp trong đời hiện tại. Các ông trông thấy
cụ già đó bị quả báo ấy, trong ḷng chắc là có
tà kiến “làm lành vô phước, điều thiện chẳng
đáng làm”, cho nên mới kinh hoảng ngờ vực. Tri kiến
như vậy th́ có khác ǵ người chưa được
nghe Phật pháp đâu? Nếu tin sâu lời Phật, quyết
chẳng v́ chuyện này mà có thái độ kinh hoảng ngờ
vực ấy; bởi lẽ chuyện nhân quả trùng
điệp vô tận. Nhân này chưa [kết thành] quả báo,
quả kia đă chín trước. Giống như trồng
lúa vậy, thứ lúa chín sớm thâu hoạch trước;
giống như thiếu nợ, kẻ có sức mạnh lôi
đi trước.
Thời
xưa có kẻ suốt đời làm lành, khi lâm chung chết
thảm để tiêu túc nghiệp, đời sau lại
được phú quư tôn vinh. Như một vị Tăng ở
chùa Dục Vương (chùa A Dục Vương) đời
Tống, muốn tu bổ điện thờ xá-lợi,
nghĩ Nghi Thân Vương có thế lực, bèn đến
quyên mộ, quyên chẳng được mấy, phát phẫn
quá mức, bèn dùng búa chặt tay trước điện thờ
xá-lợi, chảy máu đến chết. Ngay khi đó,
vương gia sanh được một đứa con cứ
khóc măi không ngừng. Vú em bồng đi chơi, đến
bên chỗ có treo h́nh tháp xá-lợi liền nín, đi khỏi
lại khóc, [bà vú] bèn lấy bức h́nh ấy xuống. Bà
vú thường cầm bức h́nh ấy giơ ra trước
mặt th́ vĩnh viễn không khóc. Vương nghe vậy, lấy
làm lạ, bèn sai người qua chùa Dục Vương hỏi
tin vị Tăng ấy th́ ngày sanh của đứa con đó
đúng vào ngày [ông Sư ấy] chặt tay chảy máu đến
chết. Vương bèn một ḿnh tu bổ điện xá-lợi.
Đến năm [đứa con ấy tṛn] hai mươi
tuổi, Ninh Tông băng, không có con, bèn cho chàng trai ấy nối
ngôi, làm hoàng đế bốn mươi mốt năm, tức
là Tống Lư Tông (1225-1265) vậy! Cái chết của ông Tăng
ấy cũng là thảm tử. Nếu chẳng thường
khóc không ngừng, thấy bức vẽ xá-lợi bèn nín, ai
biết được đứa bé ấy chính là hậu
thân của vị Tăng đă chặt tay chết thảm?
Chuyện này chép trong A Dục Vương Sơn Chí. Năm
Quang Tự 21 (1895), Quang đến lễ xá-lợi mấy chục
ngày, đọc được [chuyện này].
Người
hiểu lư gặp bất cứ hoàn cảnh như thế
nào, quyết chẳng nghi nhân quả có sai lầm, hoặc lời
Phật có dối! Người không rơ lư chấp chết cứng
vào quy củ, chẳng biết nhân quả phức tạp
đến nỗi lầm lạc nẩy sanh nghi ngờ, bàn
bạc; nói chung là do tâm không có chánh kiến. Như nói người
niệm Phật có Tam Bảo gia bị, long thiên che chở,
đấy là lư nhất định, hoàn toàn chẳng hư
vọng. Chỉ v́ chưa hiểu rơ lư “chuyển báo nặng đời sau thành báo nhẹ
đời này” nên chẳng khỏi bàn bạc nghi ngờ
không hợp lẽ như thế. Xưa kia, Giới Hiền
luận sư[26] ở
Tây Vực, đức cao khắp đời, đạo lẫy
lừng Tứ Trúc (bốn xứ Thiên Trúc[27]). Do túc nghiệp nên thân mắc ác bệnh,
khổ sở cùng cực, chẳng thể chịu đựng
nổi, muốn tự tử, chợt thấy ba vị Bồ
Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng xuống, bảo:
“Ông trong kiếp xa xưa kia,
nhiều lần làm quốc vương năo hại chúng sanh,
đáng lẽ đọa ác đạo từ lâu. Do ông hoằng
dương Phật pháp nên phải chịu nỗi đau khổ
nhỏ này trong cơi người để tiêu diệt nỗi
khổ địa ngục cả kiếp dài lâu. Ông nên gắng
chịu đựng, xứ Đại Đường có một
vị Tăng tên là Huyền Trang, ba năm nữa sẽ
đến đây học pháp”. Giới Hiền luận
sư nghe xong, ráng chịu đau sám hối, lâu ngày lành bệnh.
Đến ba năm sau, ngài Huyền Trang đến đó,
ngài Giới Hiền bảo đệ tử thuật lại
t́nh trạng đau khổ của căn bệnh. Người
kể lại nỗi khổ nghẹn ngào, ứa lệ,
đủ thấy sự khổ ấy rất lớn. Nếu
chẳng hiểu rơ nhân trong đời trước, người
ta sẽ nói Giới Hiền chẳng phải là vị cao
tăng đắc đạo, hoặc sẽ nói bậc
đại tu hành như vậy mà vẫn bị bệnh thảm
như thế, Phật pháp linh cảm lợi ích ở chỗ
nào? Những ǵ trong tâm các ông biết nhỏ nhoi quá, nên thấy
chút tướng lạ liền sanh kinh nghi. Người
không có thiện căn bèn thoái thất đạo tâm. Nếu
[thấy] người tạo ác hiện tại được
phước báo th́ cũng sẽ khởi tâm tà kiến như
thế; chẳng biết đều là tiền nhân hậu quả
và chuyển quả báo nặng nề trong đời sau thành
quả báo nhẹ nhàng trong hiện đời, cũng
như chuyển quả báo nhẹ nhàng trong hiện đời
thành quả báo nặng nề trong đời sau v.v… đủ
mọi lẽ phức tạp khác nhau.
10. Thư trả lời cư sĩ Đức Sướng
(năm Dân Quốc 23 - 1934)
Nhận
được thư ông và thư thầy Minh Đạo,
biết đứa con thứ ba mới hai mươi tuổi
chợt bị chết yểu, khôn ngăn than thở. Huống
chi ông nuôi dạy bấy nhiêu năm, phí ngần ấy tinh
thần, tiền của, trong ḷng sao khỏi cảm
thương! Tuy nhiên, chớ nghĩ chính ḿnh một ḷng sốt
sắng làm chuyện công ích, quy y Phật pháp, sao chẳng
được Phật che chở, rồi đâm ra oán hận!
Phải biết: Chúng ta từ vô lượng kiếp đến
nay, đời đời kiếp kiếp đă tạo ác
nghiệp vô lượng vô biên, hoặc ta thiếu nợ
người, hoặc người thiếu nợ ta, hoặc
ta thiếu mạng người, hoặc người thiếu
mạng ta. Do đôi bên thiếu nợ nhau nên sanh ra đủ
loại con cái khác nhau. Có đứa trả nợ, có đứa
đ̣i nợ, có đứa báo đức, có đứa báo
oán. Trong đời này, tuy ông khởi tâm xử sự mọi
chuyện rất tốt, há lẽ nào nhiều đời
nhiều kiếp đều hoàn toàn không có tội nghiệp
ǵ ư? V́ thế, gặp cảnh ngộ bất như ư, con
người chỉ nên phát tâm sám hối tội nghiệp,
chẳng nên sanh ư tưởng oán trời trách người.
Nếu có thể phát tâm sám hối, chẳng sanh oán hờn,
đó là “gặp nghịch cảnh
vâng chịu, phước về sau khó thể suy lường
được”. Đứa con này của ông đại
khái là do đ̣i nợ mà đến. Đ̣i đủ nợ
rồi bèn ĺa đời. Chủ nợ đă đi rồi,
sao ông không sanh ư tưởng giải thoát nghiệp lụy,
lại nẩy sanh ḷng oán trời trách Phật, trở thành
điên đảo vậy ư?
Năm Dân
Quốc thứ tám (1919), ông Vương Chi Tường ở
Bắc Thông Châu, tên tự là Thiết San, có một đứa
con rất thông minh, rất hiếu thuận. Đứa lớn
mắc bệnh thần kinh, tâm ông Thiết San mong mỏi
đứa nhỏ này sẽ kế thừa tiếng tăm
gia đ́nh. Năm nó hai mươi mốt, hai mươi hai
tuổi, đă cưới vợ, sanh được một
gái, một ngày nọ bệnh nặng sắp chết. Thiết
San đau khổ cùng cực, gào lên: “X… ơi! Ngươi
đă đến làm con ta, sao lại muốn bỏ đi trong
khoảnh khắc này?” Đứa con ấy trừng mắt,
nói giọng Quảng Tây: “Tao nào phải là con nhà mày, tao là
người thứ mười bốn!” Nói xong, chết liền.
Trước kia, lúc ông Thiết San giữ việc binh bị
ở Quảng Tây, lập kế giết mười ba tên
đầu lĩnh giặc cướp ra hàng, trước hết
dùng cách đối đăi thật chiều chuộng, nồng
hậu để xoa dịu, mời chúng ăn cơm. Lại
c̣n mời những người có danh vọng lớn đến
bồi tiếp, thưởng cho mỗi tên hai mươi bốn
đồng, bảo chúng: “Ban ngày bận lắm, không thể
chuyện tṛ cặn kẽ cùng các ngươi được,
tới tối hăy đến, sẽ xếp đặt chức
vụ cho mỗi người trong bọn ngươi!”
Mười ba người đó chẳng biết ông muốn
giết họ, lại kéo một người bạn thân
cùng đi, cho rằng [ông Thiết San] sẽ nể t́nh, cũng
xin cho người ấy được một chức vụ
tốt. Tối hôm ấy họ đến, cứ qua một
cửa liền khóa ngay cửa ấy lại, đặt phục
binh trong hoa sảnh. Bọn họ đến nơi, Thiết
San rút đao đang đeo ra chém, phục binh cùng ùa ra giết,
chặt được mười bốn cái đầu lâu,
cũng chẳng biết tên họ là ǵ. Nào biết người
ấy chính là đứa con này. Uổng công hơn hai
mươi năm nuôi dạy nhọc nhằn, đến
lúc chết lại trừng mắt quát tháo, chẳng nhận
Thiết San là cha!
Nói chung, cái
nhân trở thành con cái trong cơi đời chẳng ngoài bốn
nghĩa “đ̣i nợ, trả nợ, báo ân, báo oán”. Đứa
con này do đời trước ông đă thiếu nợ nó,
sạch nợ liền đi. Nếu là trả nợ và báo
ân th́ sẽ được nó hiếu dưỡng. Hơn nữa,
ông đă quy y Phật pháp, phải hiểu thế gian mọi
sự vô thường. Nếu chẳng cực lực niệm
Phật cầu sanh Tây Phương, sẽ theo nghiệp luân
hồi trong tam đồ lục đạo làm sao ngưng
ngớt cho được! Với cái chết của đứa
con này, càng phải biết hết thảy mọi sự
đều không nương cậy được, chỉ
có Tây Phương A Di Đà Phật chính là chỗ
nương tựa lớn lao cho hết thảy chúng sanh bọn
ta. Từ đấy phát tâm cảm kích, phát tâm tinh tấn,
đem những công đức ta đă làm và công đức
niệm Phật đều cùng hồi hướng văng sanh
Tây Phương. Ông làm được như thế th́ cái
chết của đứa con này chính là lời nhắc nhở,
thúc đẩy ông, tránh cho ông khỏi bị mê muội bởi
phước báo quyến thuộc thế gian [đến nỗi]
chẳng sanh ḷng nhàm ĺa Sa Bà, cũng như không sanh ḷng
ưa muốn Cực Lạc. V́ thế, giáng cho ông một gậy
vào đầu đau buốt, hóa ra ông chẳng quán sát nhận
hiểu nơi bản thân, lại sanh khởi đủ mọi
ngu kiến oán trời oán Phật, trở thành “mê gốc chạy
theo ngọn”, chẳng biết tự phản tỉnh!
Người
đời thường hay khoe khoang, kiêu căng bởi những
công đức chính ḿnh đă tạo, dễ dăi đối với
những tội lỗi chính ḿnh đă gây. Con người ai
không tội? Đừng nói chi quá khứ, nếu chỉ nói
trong đời này th́ đă giết đủ loại chúng
sanh cho sướng miệng bụng! Chúng nó nào phải gỗ,
đá, chẳng biết đau khổ, chẳng muốn sống,
chỉ mong người ta giết ăn ư? Ông đă giết
ăn nó, tương lai nó nhất định cũng muốn
giết ăn ông. Suốt một đời, con người
không biết đă ăn bao nhiêu sanh linh, có nên lớn lối
bảo “ta vô tội, bị trời phạt lầm” hay
chăng? Do vậy, nói chung thường nhân chẳng thấy
được bản thân có lỗi, nói chung thánh nhân chẳng
thấy chính ḿnh có đức. Chẳng thấy có lỗi
th́ tội chất như núi. Chẳng thấy có đức
th́ đức cao tầy trời. Ông chớ có nói như kẻ
ngu si, hăy cực lực làm lành, nỗ lực niệm Phật,
tất cả hết thảy công đức thiện sự
lợi người đều nên hồi hướng văng
sanh Tây Phương th́ tâm hạnh trong đời hiện tại
sẽ khế hợp với tâm hạnh của thánh hiền,
đến khi lâm chung, chắc chắn được A Di
Đà Phật tiếp dẫn văng sanh. Đấy chính là lúc gặt
hái công lao, kết quả vậy. Nếu chẳng sanh Tây
Phương th́ chuyện lành đă làm sớm hay muộn
đều hưởng quả báo, nhưng quả báo do giết
ăn chúng sanh cũng khó khỏi phải trả, đáng sợ
lắm thay!
11. Thư trả lời cư sĩ Hứa Hy
Đường
(Năm Dân Quốc 20 - 1931)
Lạc
Huệ Bân đến cầm theo thư ông và danh sách những
người khác xin quy y. Biết cư sĩ niên kỷ
đă sáu mươi lăm, một con một cháu đều
bị chết yểu. Luận theo nhân t́nh thế gian, thật
đáng đau ḷng. Nếu luận theo pháp môn Tịnh Độ
liễu sanh tử th́ thật là nhân duyên tối thắng
để siêu phàm nhập thánh! Người thế gian sanh
ra chẳng biết từ đâu đến, chết đi
không biết sẽ về đâu, thật là một đại
sự trọng yếu trong đời người; chỉ
v́ tâm niệm coi trọng con cháu nên đâm ra coi thường,
bỏ qua đại sự sanh tử của chính ḿnh. Nếu
con cháu của cư sĩ trường thọ, làm quan, chắc
sẽ bị phú quư phước lộc làm mê, sợ rằng
khó phát được cái tâm “quy y Tam Bảo, xin thọ
Ngũ Giới” này, bất quá chỉ mong “phước, thọ,
chết tốt lành” là cùng, đối với Pháp Thân huệ
mạng vẫn không nghe không tin! Nếu như chuyện ǵ
cũng vừa ư, há có thể nào vượt ra ngoài chuyện
sống uổng chết phí được hay chăng?
Cảnh ngộ hiện
thời chẳng tốt đẹp, biết đời
người không ǵ chẳng phải là khổ, lại
được đọc tường tận các sách Tịnh
Độ, biết chúng ta vốn sẵn có chốn quê
cũ An Lạc để yên thân lập mạng, suốt
ngày chỉ nghĩ đến Phật, chỉ cầu Tịnh
Độ, măi cho đến khi lâm chung, được Phật
tiếp dẫn văng sanh Tây Phương siêu phàm nhập thánh,
liễu sanh thoát tử đến tột cùng đời vị
lai hưởng diệu lạc thù thắng. Do vậy, mới
nói “con ấy, cháu ấy quả thật đă thành tựu
đại sự liễu sanh tử cho ông nên mới mất
trước!” Hăy nên sanh tâm cảm kích lớn lao, nguyện
dùng công đức niệm Phật của chính ḿnh để
tiêu trừ tội nghiệp, tăng trưởng thiện
căn cho họ, ngơ hầu họ cũng được
nương theo Phật từ lực văng sanh Tây
Phương khiến cho người con, người cháu ấy
chẳng uổng công chết sớm! Người khéo đạt
lợi ích th́ không chuyện ǵ chẳng phải là chuyện lợi
ích; người cam ḷng chịu bị tổn hại th́
không chuyện ǵ chẳng phải là chuyện tổn hại,
tùy theo kiến giải của mỗi người như thế
nào!
Ông đă phát tâm quy y,
nay tôi đặt pháp danh cho ông là Đức Hy. Nghĩa là: Dùng
đại Bồ Đề tâm mong cho dù ta hay người
đều được gội từ quang của Phật,
sanh về Tịnh Độ của Phật. Tất cả
những nghĩa lư Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
đă giải thích đại lược trong bộ Văn
Sao, nên không ghi lại nữa. Đối với việc tự
thệ thọ giới, nơi thư gởi cho bà Từ trong
bộ Văn Sao[28] cũng đă có nói qua, nên cũng
không cần phải nhắc lại. Điều đáng nói
là phải chăm chú, coi trọng thật hành. Nếu
người học Phật chẳng chú trọng tận tụy
thực hành th́ có khác ǵ kép hát trong cơi đời đâu! Trên
sân khấu khổ - sướng, buồn - vui diễn cho thật
giống như đúc, nhưng thật ra cũng chẳng
có mảy may ǵ liên quan đến ta. Như vậy th́ sẽ
trở thành gă si ham danh ghét thật, tâm muốn lừa
người dối Phật, thật sự chỉ tạo
thành cái lỗi lừa người dối Phật. Người
c̣n chẳng nên lừa, huống ǵ là Phật? Phải chú trọng
thật sự thực hiện th́ mới nên.
Đối với việc
tu tŕ, hăy nên chuyên chú Tịnh Độ, bởi ông đă gần
đến tuổi cổ hy (bảy mươi tuổi),
ngày tháng không c̣n được mấy. Nếu muốn
đọc rộng răi các kinh luận Đại Thừa sẽ
không đủ tinh thần, không đủ tri thức, mà lại
chẳng có đủ thời gian! Chỉ một pháp sanh
ḷng tin phát nguyện tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây
Phương là pháp môn vô thượng thắng diệu bậc
nhất. Hăy nên chết sạch cái tâm mong ngóng, một vai
gánh vác, quyết định ngay trong đời này giă biệt
ngũ trược, cao đăng chín phẩm. Lại nên
phát tâm đại từ bi v́ hết thảy những
người quen biết nói lợi ích của pháp môn này, khiến
cho bọn họ đều cùng tu tập th́ công đức
của chính ḿnh càng thêm rộng lớn. Đối với
người ngoài c̣n như thế, huống ǵ đối với
vợ, con dâu, cháu dâu của chính ḿnh, nỡ
để họ chẳng được hưởng ích lợi
nơi pháp ư? Một là để an ủi vợ ông trong
cảnh già, hai là để an ủi nỗi thê lương
của con dâu, cháu dâu, khiến họ cũng do pháp này
được siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử
th́ thật là có công hiệu lợi người.
Thêm nữa, người
niệm Phật nếu đă chứng đạo th́ lúc lâm
chung mặc cho dao cắt, hương bôi, trọn chẳng
hề có chuyện động niệm, nên không có những
cái được gọi là tổn hại hay lợi ích. Nếu
chỉ có sức tu tŕ, chưa đạt đến địa
vị nghiệp tận t́nh không, khi lâm chung được
người khác trợ niệm sẽ quyết định
được văng sanh. Nếu gặp phải quyến thuộc
vô tri, ngay trước khi chưa chết đă tắm rửa,
thay quần áo sẵn khiến cho [người sắp mất]
bị dời động, chịu khổ. Dù chẳng bị
khổ, nhưng vừa bị dời động th́ tâm chẳng
thể quy nhất nơi Phật (do thân thể bị
động, tâm liền chẳng thể triệt để
thanh tịnh thuần nhất). Nếu
lại c̣n đối trước [người sắp mất]
khóc lóc th́ chính người [sắp mất] ấy cũng
sanh ái luyến, nên chẳng tương ứng cùng Phật,
muốn được văng sanh chẳng có cách nào! Do vậy,
lúc thường ngày phải làm cho họ biết lợi - hại,
phải thường bảo với họ để đến
khi chính ḿnh lâm chung, bọn họ chính là người trợ
đạo, không chỉ có ích cho ta mà đối với bọn
họ đều có lợi ích lớn lao. Nếu chỉ biết
tự ḿnh tu tŕ, trọn chẳng thuật lẽ lợi - hại
cùng bọn họ, lúc ông lâm chung, chắc chắn bọn họ
sẽ là kẻ phá hoại chánh niệm, chắc chắn chẳng
giúp cho ông tịnh tâm để được văng sanh.
Ông đă tin Quang, Quang chẳng
thể không v́ ông tính kế. Do Quang từng trải năm
mươi hai năm, biết rất kỹ lẽ lợi -
hại tại đâu. Nếu chẳng nói với ông sẽ
chẳng trọn hết phận ḿnh! Em trai ông là Tiếp
Khanh cũng đă sáu mươi rồi, cũng nên
đưa thư này cho xem. Phải biết trong Phật pháp,
pháp môn vô lượng; nếu muốn cho phàm phu nghiệp lực
đầy thân được liễu sanh thoát tử ngay trong đời này mà ĺa pháp tín
nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương này th́
đức Phật cũng chẳng nói được
pháp môn thứ hai nào khác! Hết thảy các pháp môn khác đều
phải tu đến mức nghiệp tận t́nh không mới
có phần liễu sanh tử. Nếu như c̣n mảy may
nào chưa tận th́ sanh tử vẫn y như cũ, chẳng
giải quyết xong! Nếu luận về
“nghiệp tận, t́nh không” th́ hiện thời sợ
rằng cả cơi đời cũng khó kiếm được
một hai kẻ. Nếu do tín nguyện niệm Phật cầu
sanh th́ vạn người chẳng sót một ai!
Đă niệm Phật
cầu sanh Tây Phương th́ phải giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm
các điều thiện, thương xót hết thảy, yêu
tiếc sanh mạng loài vật, kiêng giết, ăn chay, rộng
hành phương tiện, ngơ hầu tâm này thường
tương ứng với tâm Phật th́ mới nên! Nếu
bề ngoài làm ra vẻ tu tŕ, bên trong không có tâm chân thật,
đó là người giả thiện. Kẻ giả thiện
làm sao đạt được lợi ích chân thật? Thêm
nữa, bà Đàm nhà họ Lạc (là thúc tổ mẫu
(bà thím) của ông Bân Chương)
tám mươi mốt tuổi, Bàng Tài Phương, sống ở
ngơ Ải Nhăn, cửa Đông, hai người này cũng đều
cầu thọ Tam Quy Ngũ Giới, xin hăy đem ư này bảo
lại cho họ. Những điều khác đă nói cặn
kẽ trong bộ Văn Sao, ở đây không nhắc lại
nữa.
Nay cơi đời hiện
thời đă loạn đến cùng cực, thiên lư nhân luân
gần như bị phế bỏ hoàn toàn để trở
về cái thời con người chẳng khác ǵ cầm thú!
Xét đến nguồn cội gây ra nông nỗi này đều
là do chẳng xem nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi
là những lư thực, sự thực. Do vậy, điều
thiện không được khuyến khích, điều ác
không bị trừng phạt, khiến cho tâm không có chỗ
nương tựa, nên bị một trận gió Âu Tây thổi
qua, từ đấy cái gốc bèn bị biến đổi
dữ dội, rốt cuộc trở thành hiện tượng
như hiện thời. Nay muốn đẩy lùi con sóng cuồng
loạn, nếu chẳng lấy việc đề xướng
nhân quả báo ứng làm tiêu chuẩn th́ dù có phương
cách hay ho cũng chẳng có hiệu quả thật sự
ǵ!
12. Thư trả lời ḥa thượng Quảng Diệu
(năm Dân Quốc hai mươi - 1931)
H́nh Tam Thánh do [Trương] Miện Đường vẽ tuyệt khéo, tiếc là vẽ bằng móng tay, nên có những chỗ tỉ mỉ chẳng thể vẽ được. Nếu dùng bút [để vẽ] sẽ trang nghiêm hơn. C̣n lời tán tụng như đă nói, tính soạn hơn một trăm chữ, nhưng v́ chẳng hề luyện chữ nên viết không được. Do vậy, chỉ chép lại bản thảo, xin tọa hạ hăy viết, rồi hoặc ghi tên của tọa hạ, hoặc dùng tên của Ấn Quang, như thế nào cũng được. Núi mây xa cách, may được chuyện tṛ; nay gởi Văn Sao, Gia Ngôn Lục, An Sĩ Toàn Thư, Quán Âm Tụng, Tăng Tu Lịch Sử Thống Kỷ, mỗi thứ hai phần, một phần xin Ngài tự giữ, một phần chuyển cho ông Trương [Miện Đường]. Quang đă già rồi, tinh thần chẳng đủ, từ đây về sau xin đừng đem chuyện bút mực nhờ cậy, ngay cả hỏi về những chuyện trong pháp môn cũng xin t́m hỏi với những bậc dựng cao tràng pháp khác, ngơ hầu mỗi chuyện đều được hợp lẽ (bài ca tụng hạnh đẹp của ông Trương xin xem trong chương Tán Tụng).
13. Thư trả lời cư sĩ Dương Đức
Quán
(năm Dân Quốc hai mươi - 1931)
Hiện
tượng Hoàng Hậu Giác khá có ích lớn lao cho người
học Phật. Bất luận là rốt cuộc ông ta văng
sanh hay đọa lạc, thôi đừng bàn đến! Nếu
người niệm Phật biết được hiện
tượng khi lâm chung của ông ta chắc chắn chẳng
dám theo đuổi pháp liễu sanh tử một cách hời
hợt nữa! Xem hành vi, cử chỉ của ông ta dường
như rất chí thành, nhưng coi những cảnh tượng
được biểu hiện khi ông ta lâm chung th́ trong lúc thường
nhật, ông ta chưa hề nỗ lực dụng công
nơi tâm địa, cũng như có lẽ trước
kia ông ta có những nghiệp như keo tiếc tiền của
khiến cho người khác bị mất mạng, hoặc
keo tiếc lời nói khiến cho người khác táng mạng
v.v…mà thành ra như vậy (“Keo
tiếc lời nói khiến cho người khác mất mạng”
là như ta biết chỗ có giặc cướp và biết
chỗ có thể trốn tránh được, nhưng v́ tâm
không từ bi, thích thấy người khác mắc họa
cho nên chẳng chịu nói. Chuyện ấy, tâm ấy khiến
cho thiên địa quỷ thần rất phẫn nộ. Do
vậy, lúc lâm chung chẳng nói được, cũng
như có chuyện như ghét nghe tiếng niệm Phật
v.v…) Hiện
ra t́nh cảnh không chết trong khi ấy (tức không chết
trong khi đang có người niệm Phật để trợ
niệm) và khi người trợ niệm đi rồi th́
không lâu sau liền chết; điều này hoàn toàn
tương đồng với chuyện keo kiệt tiền
của, keo kiệt lời nói khiến cho người khác bị
tổn mạng. Tuy không đọa làm ngạ quỷ,
nhưng tánh khí ấy là tánh khí của ngạ quỷ.
Có người nói ông ta
được văng sanh là nhờ vào chú lực của ông Dịch
Tử Tuấn. Chú lực cố nhiên chẳng thể
nghĩ bàn, nhưng với người nghiệp lực nặng
nề th́ cũng chẳng dễ ǵ được hưởng
lợi ích! Do vậy, nếu biết [chắc chắn ông
ta] đă được văng sanh Tây Phương th́ may ra mới
có chuyện đó. Đă không có chứng cứ, chớ nên
đoán ṃ. Có người nói: [Ông ta] đă đọa vào ngạ
quỷ đạo; căn cứ vào những ǵ đă nói và
những biểu hiện th́ tựa hồ [lời đoán ấy]
có căn cứ. Nhưng không chừng do ông ta trong tâm sám hối,
hoặc do mọi người và con cái thành khẩn nên được
giảm nhẹ, chẳng đến nỗi đọa thẳng
vào ngạ quỷ. Phương kế hiện thời là con
cái và các quyến thuộc ai nấy đều hăy nghĩ
đến nỗi khổ của ông ta, cùng phát tâm tự lợi
lợi tha niệm Phật cho ông ta, cầu Phật rủ
ḷng từ tiếp dẫn văng sanh. Nếu thật sự thành
khẩn th́ [ông ta được] văng sanh là điều có thể
dự đoán được. Do cha con có mối
tương quan tự nhiên, tâm Phật hễ cảm bèn ứng.
Nếu quyến thuộc thực hiện hờ hững,
lơ là th́ khó thể tiêu nghiệp chướng để
được Phật tiếp dẫn vậy! Ngàn cân treo sợi
tóc, quan hệ cực nặng!
Phàm là người niệm
Phật ai nấy hăy chuyên chú thật sự đối trị
tập khí của chính ḿnh, tạo thuận tiện cho
người khác. Chuyện ǵ nên nói, dù người ta có thù với
ḿnh cũng phải nói, khiến cho người ta hướng
lành, lánh dữ, ĺa khổ được vui. Thường
luôn nói thẳng thắn, rành rọt với người khác
những chuyện nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi
và đạo niệm Phật liễu sanh thoát tử, dạy
dỗ con cái lập nền tảng thái b́nh, tâm như sợi
dây đàn thẳng tắp, lời nói chẳng lấp lửng,
tâm niệm có thể phô bày thẳng thắn cùng quỷ thần,
quyết chẳng làm chuyện trái nghịch thiên lư th́ đến
lúc lâm chung, chắc chắn chẳng có những hiện
tượng đáng thương đáng xót ấy. Như vậy,
Hoàng Hậu Giác chính là tiếp dẫn đạo sư của
mọi người; nhờ ông ta mọi người sẽ
được lợi ích lớn lao trong tương lai. Ông
ta cũng sẽ nhờ vào tâm lực của mọi người
mà diệt tội, văng sanh. Lời Quang nói đây chẳng phải
là lời nói huề vốn[29]
mà chính là lời bàn luận quyết định chẳng
khi dối vậy. Nếu chẳng nghĩ là đúng, xin hăy
thỉnh vấn nơi bậc pháp sư cao minh và những bậc
thánh nhân đại thần thông!
14. Thư trả lời cư sĩ Ngô Huệ Tế
(năm Dân Quốc hai mươi - 1931)
Không ai chẳng
mong sanh ra con cái tốt lành, nhưng mười người
hết tám chín người dạy con cái ngoan thành hư, về
sau bại hoại tiếng tăm gia đ́nh, phá tan tổ
nghiệp, trở thành hạng tầm thường, bướng
bỉnh, hoặc thành phường giặc cướp, tệ
hại. Đặt sai căn bản, nói chung là do chẳng
biết cách yêu thương con. Từ nhỏ mặc kệ
cho nó quen thói th́ lớn lên chuyện ǵ cũng tự tung tự
tác, chẳng nghe răn dạy, đa phần cặp kè, gần
gũi bọn xấu xa, gây hại cho xă hội. Thiên tai nhân
họa hiện thời phần nhiều là do những
người chẳng biết cách làm cha mẹ ươm
thành! Nếu như những kẻ không được dạy
dỗ đó, từ thuở ban đầu được
cha mẹ hiền khéo dạy th́ những kẻ làm hại
[cho xă hội] đều là những người tạo lợi
ích [cho nước nhà], những kẻ chỉ vẽ điều
ác đều thành những người khuyến thiện hết,
cơi đời chẳng mong thái b́nh mà tự thái b́nh. Đấy
chính là đạo căn bản trọng yếu để
thất phu, thất phụ dự vào việc bồi đắp
cho cơi đời b́nh yên vậy. Lúc ông đề xướng
Phật pháp, hăy nên v́ hết thảy những người hữu
duyên nói kèm thêm nghĩa này cho tường tận, khiến
cho bọn họ ai nấy đều tự trọn hết
đạo làm cha mẹ th́ lợi ích lớn lao lắm! Con
gái càng quan hệ lớn hơn nữa, trọn chẳng
được nuôi mà không dạy khiến cho hiện thời
nó gây trở ngại cho gia đ́nh nó (“không dạy” là
để cho anh em, chị em đều chẳng tuân theo quy
củ, mặc ḷng phóng túng),
tương lai quấy rối nhà chồng. Về sau, dạy
hư con cái, khiến cho con cháu nhiễm phải thói xấu
ấy. Nghĩa lư này nhiều người coi thường
chẳng xét đến. Muốn gia đạo tốt lành,
con cháu tốt lành, đều phải t́m ở chỗ khéo dạy
con cái!
15. Thư trả lời cư sĩ Lư Trọng Ḥa
(năm Dân Quốc hai mươi - 1931)
Con gái xuất
giá, giảm nhẹ gánh nặng rất nhiều. Xin hăy khuyên
nó: “Nên trọn hết đạo làm vợ, hiếu với
bố mẹ chồng, kính trọng chồng, ḥa thuận với
chị em dâu, rộng răi với tôi tớ, vẫn giữ
đạo niệm Phật, chớ lấy chồng rồi
bỏ luôn [không niệm]. Lại phải mềm mỏng
khuyên chồng niệm Phật và Quán Thế Âm để làm
chỗ nương tựa cho tương lai. Làm được
như thế th́ người tôn kính, thần che chở, chẳng
gặp tai chướng, điều phước chuyện
lành đều cùng tụ họp. Chẳng những chính
ngươi được vẻ vang mà người ta
cũng v́ ngươi mà kính trọng lây cả cha mẹ sanh
ra ngươi; cho là nhà ấy có gia giáo, cho nên cô gái ấy từ
nhỏ đă quy y Phật pháp, ăn chay, niệm Phật, nay
được tốt lành như thế. Nào phải chỉ
cha mẹ được nở mày nở mặt, mà vị
thầy [ngươi] quy y cũng được vẻ vang!
Nếu chẳng hiền hiếu, ắt ngươi bị
người ta ghét; đấy vẫn c̣n là chuyện nhỏ!
Ắt người ta sẽ nói cha mẹ ngươi không có
đức hạnh nên mới sanh ra đứa con gái chẳng
hiền chẳng hiếu ấy, ắt cha mẹ
ngươi thường bị người khác nhục mạ,
vị thầy ngươi quy y cũng bị người
ta chê trách là chẳng thể giáo hóa ngươi hành hiếu
kính”. Mong cho bọn họ hiện tại làm con gái hiền,
xuất giá làm vợ hiền của người ta, sau này trở
thành hiền mẫu của người khác th́ may mắn
nào hơn! Xin hăy sáng suốt suy xét, bảo tường tận
cùng bọn họ: Kinh Địa Mẫu[30],
kinh Thái Dương, kinh Thái Âm, kinh Táo Vương, kinh Nhăn
Quang, kinh Thọ Sanh, kinh Huyết Bồn, kinh Diệu Sa,
kinh Phân Châu v.v… đều là ngụy tạo. Hiềm rằng
nữ nhân hiểu biết nông cạn nên thường tín phụng,
chỉ nên dạy họ niệm Phật. Nếu muốn niệm
kinh, nên niệm Tâm Kinh, văn ít, nghĩa lư phong phú, công
đức vô lượng vô biên. Những thứ kinh ngụy
tạo kia, xét theo lư, tụng chúng c̣n bị mắc tội;
chẳng qua bọn họ dùng tâm chí thành niệm nên cũng
chẳng thể nói là hoàn toàn không có công đức, chỉ
được công đức do thành tâm nhưng rất nhỏ
nhoi; sao bằng niệm Phật, niệm Tâm Kinh thù thắng
hơn! Niệm Phật, niệm Tâm Kinh công đức
như biển cả. Niệm kinh ngụy tạo chỉ
được một giọt, hoặc chưa được
một giọt!
16. Thư trả lời cư sĩ Vương Thọ
Bành (hai lá thư)
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
1) Tất cả những người xin quy y,
đều viết pháp danh trên đơn gởi lại. Do
nhiều người quá nên cũng chẳng nói nguyên do [của
mỗi pháp danh] cho từng người được. Chỉ
mong ông bảo với họ nên chú trọng giữ vẹn
luân thường, tận hết bổn phận, dứt
ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng
làm các điều thiện, quyết định niệm Phật
cầu sanh Tây Phương th́ mới chẳng thẹn làm
đệ tử Phật. Hiện nay thủy tai không xứ
nào chẳng có, hoặc nếu không bị tai nạn này lại
bị tai nạn kia, nói chung là do nhân tâm quá hèn kém mà ra. Chúng
ta là đệ tử Phật, nên lấy việc sửa
sang cho đúng những thói tệ hiện thời làm nhiệm
vụ, chớ nên thuận theo trào lưu, khiến cho [cơi đời]
càng bị suy hăm không có mức cùng tột!
Ba người con của ông đều thông
minh, nếu khéo dạy sẽ thành chánh khí (hạng người
có căn tánh tốt đẹp, chánh trực). Nếu không,
càng thông minh càng dễ tự lầm, làm cho người khác
lầm lạc. Do vậy, tôi đặt pháp danh cho Kiến
Quốc là Huệ Lập, nghĩa là: Lập được
thân th́ hết thảy mọi sự đều có thể kiến
lập được. Thân chính là căn bản của
thiên hạ quốc gia và đạo Bồ Đề. Chẳng
lập được thân th́ trong đạo nghĩa chẳng
thành được một sự nào! Đứa con thứ
là Huệ Tuyền, thiên tư thông minh, dĩnh
ngộ, đáng mừng mà cũng đáng lo. Do vậy, đặt
pháp danh là Huệ Thao. Nếu có thể giữ kín tài
năng, nhũn nhặn, chẳng phô phang tài hoa, th́ có thể
thành chánh khí, có thành tựu lớn. Nếu thiếu hàm
dưỡng, cứ ra vẻ ngạo nghễ, khoe khoang, ắt
chẳng hưởng phước, chẳng đạt thành
tựu lớn lao được! Cô con út là Thúy Na cũng rất
có túc căn, đặt pháp danh là Huệ
Diệu. Diệu nghĩa là hợp lẽ, thích
đáng. Nếu sử dụng trí thông minh vào chuyện vô ích
tổn hại th́ trở thành trí huệ hèn
tệ, chẳng gọi là Diệu Huệ. Nếu áp dụng
trí ấy hợp lẽ th́ mới gọi
là Diệu Huệ. Những người thông minh hiện
thời thường đem trí thông minh của chính ḿnh sử
dụng trong [việc viết ra] những chuyện tiểu
thuyết khêu gợi trộm cắp, dâm dật, vượt
lư, khinh miệt luân thường để khoe khoang văn
tài, chẳng biết: Một hơi thở ra không hít vào
được, thân sau trải qua bao nhiêu kiếp chẳng
biết có được nghe những danh từ “thiên địa
phụ mẫu” hay không? Nếu những kẻ đó không có
cái trí huệ hèn tệ ấy, sao lại đến nỗi
khổ sở cùng cực như thế? V́ vậy, hăy nên vun
quén sao cho cô ta nhất cử, nhất động đều
hợp với chánh đạo, đối với địa
vị mẫu nghi chốn khuê các hay bậc thầy nêu
gương cho nữ giới trong tương lai đều
có thể dự đoán được từ nơi đây.
Huệ Diệu có nghĩa là như vậy đó.
Quang đă già rồi, chẳng kịp thấy
chúng thành tựu, nhưng hy vọng chúng sẽ được
như thế ấy. Ông cũng nên thường bảo với
chúng những lời ấy ngơ hầu chúng nó nh́n vào cái tên
nghĩ đến ư nghĩa, đều đáp ứng
được ḷng mong mỏi vậy!
2) Phan Mậu
Xuân đă muốn quy y tự viết thư xin, sao chẳng
có lấy một lời khẩn cầu, mà cũng chẳng
có chữ nào tỏ vẻ nhún nhường? Nếu bảo
là ông ta không biết th́ ông cũng không biết hay sao? Trong thế
gian, đi đường muốn hỏi đường người
ta, c̣n phải chắp tay tỏ vẻ cung kính, huống ǵ
quy y Tam Bảo, muốn nhờ vào đó để liễu
sanh thoát tử, rốt cuộc lại xem như chuyện
đối xử với người b́nh thường th́
thật là không thông hiểu sự việc quá sức! Quang
nói lời này không phải là mong được người
khác cung kính, mà là về lư th́ phải nên như thế. Nếu
không nói, suốt cả đời ông ta cũng chỉ là một
người không hiểu chuyện vậy.
Hoàng đế Thuận
Trị nhà Thanh lễ Ngọc Lâm thiền sư làm thầy,
được đặt pháp danh là Hành Si. Vua viết
thư cho đồ đệ của ngài Ngọc Lâm là Hành
Sâm, c̣n kư tên là “pháp đệ
Hành Si ḥa-nam”. Ḥa-nam (vandana) là
rập đầu vậy. Hoàng đế đối với
đồng môn c̣n như thế, huống là đối với
thầy ư? Quy củ thơm thảo ấy há nên chẳng
biết ư? Cổ nhân nói: “Hạ
nhân bất thâm, bất đắc kỳ chân” (Chẳng hạ
ḿnh trước người thật sâu, chẳng đạt
được lẽ thật); chứ không nói: “Thâm hạ ư nhân, nhân tắc tận
tâm giáo đạo” (Hạ ḿnh trước người
thật sâu, người sẽ tận tâm dạy dỗ). Bởi
lẽ chính ḿnh chẳng thể sanh tâm cung kính, dù người
ta có chịu dạy, nhưng trong tâm chính ḿnh có những điều
ngạo mạn gây chướng, chẳng được lợi
ích! Ví như trên đỉnh núi cao chẳng đọng một
giọt nước, nên [cây cối] chẳng thể sum xuê
được! Không riêng ǵ học Phật phải như
thế, mà ngay cả học lấy một tài một nghề
trong thế gian cũng phải như thế. [Nghề nghiệp]
trong thế gian chỉ là cách kiếm sống bằng thân
hay bằng miệng, c̣n Phật pháp chính là nguồn cội
của Tánh đạo. Mối quan hệ nặng - nhẹ cố
nhiên khác biệt vời vợi một trời một vực.
Xin hăy đem lời này đưa cho ông ta xem.
Nhưng tôi nay chỉ
quan tâm đến cái tâm, chẳng quản đến vẻ
ngoài, đặt pháp danh cho ông ta là Huệ Mậu. Nghĩa
là dùng trí huệ để ḿnh tự cố gắng, khuyến
khích người khác, khiến cho ai nấy đều giữ
vẹn luân thường, tận hết bổn phận, dứt
ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng
làm các điều lành, sanh tín phát nguyện, niệm thánh hiệu
của Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Làm được như thế th́ chính là
chân Phật tử. Nếu không, chỉ có cái tên, chẳng
được lợi ích thật sự. Những điều
khác đă nói tường tận trong bộ Gia Ngôn Lục, ở
đây không viết cặn kẽ. Xin hăy nói với ông ta
để luôn tận hết bổn phận vậy.
17. Thư trả lời cư sĩ Du Huệ Úc
(năm Dân Quốc 20 -1931)
Như nói “gặp phải đại họa, do công hạnh cạn
mỏng, không có ǵ để nắm níu, rất có thể hoảng
sợ quẫn trí, đánh mất chánh niệm” th́ chỉ
nên tin tưởng sâu xa rằng Phật lực, pháp lực,
tự tánh công đức lực, sức tŕ tụng chí thành
đều chẳng thể nghĩ bàn. Đừng nói là
không có tai họa, dẫu gặp đại họa cũng
chẳng đến nỗi quẫn trí, v́ có những lực
ấy gia bị! Phàm là con người hăy nên hành xử
đúng theo địa vị th́ chẳng đến nỗi
do cảnh ngộ không tốt đẹp mà bị quẫn
trí. Phàm những kẻ quẫn trí v́ gặp cảnh ngộ
không tốt đẹp phần lớn là do không có tín lực
sâu xa, lại kèm thêm có ư niệm tiếc nuối cảnh
trước, chẳng chịu buông xuống mà ra. Như lúc
gặp nạn, chỉ nghĩ cách tránh né, những chuyện
khác đều chẳng lo liệu tới, nhất loạt
chẳng bận ḷng nghĩ đến. Do bận tâm vương
vấn chẳng cởi gỡ được nên bị tổn
hại vô ích. Do vậy, nói: “Tố
hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập
nhi bất tự đắc yên” (Gặp cảnh hoạn
nạn sống theo hoạn nạn; không trong hoàn cảnh
nào, người quân tử chẳng được tự tại)
(Chữ Nhập (入) nên
đọc là Như (如), có
nghĩa là “đă qua”. Sách Trung Dung ghi “nhập”
nên vẫn ghi theo đúng như sách ấy, chứ thật
ra là chữ Như). Chúng ta nương
dựa một câu Phật hiệu, càng khổ càng tích cực
niệm, quyết chẳng đến nỗi lo “bị quẫn
trí không làm ǵ được!” Nếu thường ôm giữ
nỗi sợ ấy, lâu ngày sẽ thành bệnh (tâm bệnh
khó trị nhất), chẳng thể
không biết [điều này]!
18. Thư trả lời cư sĩ Tống Huệ
Trạm ở Dịch Huyện
(năm Dân Quốc 22 - 1933)
Phật
giáo lấy Hiếu làm gốc, kinh Đại Thừa tỏ
rơ [điều này] rất nhiều. Những kinh nói tường
tận, rơ ràng nhất là kinh Phật Báo Ân[31],
kinh Địa Tạng, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật, kinh Phạm Vơng. Một chữ
Hiếu [hiểu] theo nghĩa hạn hẹp là thờ cha mẹ;
luận theo nghĩa rộng th́ phàm những ǵ thuộc về
Lư, về Tâm mà chẳng trái nghịch th́ đều gọi
là Hiếu. Nếu không, đều là bất hiếu. Người
học phải tu [đạo hiếu] hạn hẹp lẫn
rộng răi th́ mới có thể gọi là “tận hiếu”.
Chúng sanh nhập đạo đều phải xem túc nhân
như thế nào. Không riêng ǵ kẻ si độn khó thể
giáo hóa, ngay cả người đại thông minh, đại
học vấn nhưng lắm khi không bằng kẻ si
độn [v́ kẻ si độn] c̣n gieo được
chút thiện căn, chẳng sanh hủy báng! Chúng ta chỉ
tùy phận tùy lực khuyên dạy họ. Nếu muốn tất
cả mọi người đều tuân theo sự giáo hóa của
Phật th́ tuyệt đối chẳng có nhân duyên tốt đẹp
như vậy đâu! Chỉ có thể tùy duyên tận tâm mà
thôi! Giới là căn bản của hết thảy thiện
pháp, hăy nên xem Tại Gia Luật Yếu[32],
nhưng kinh văn của giới luật khá nhiều, e khó
thể đọc tường tận, nhớ cặn kẽ
được! Chỉ cần trong tâm thường giữ
tấm ḷng “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện”. Phàm khởi
tâm động niệm chẳng để cho một niệm
bất thiện nẩy mầm, như thế th́ các giới
đều giữ trọn vẹn được. Nếu
chỉ t́m ṭi, suy xét trên mặt sự tướng, dù chẳng
phạm một giới nào nhưng vẫn chưa thể gọi
là người tŕ tịnh giới được, bởi
trong tâm vẫn có tướng phạm giới, khó khăn
như thế đó!
Ông
Cừ Bá Ngọc đến năm 20 tuổi biết 19
năm trước là sai, đến năm 50 tuổi, biết
49 năm trước sai trái, muốn giảm bớt lỗi
nhưng vẫn chưa thể được! Khổng Tử
tuổi đă bảy mươi c̣n mong trời cho sống
thêm vài năm để học kinh Dịch ḥng tránh khỏi
lỗi lớn. Những vị này đều là v́ tâm
chưa thể hoàn toàn phù hợp khít khao với lẽ trời
nên coi là lỗi, chứ không phải việc làm, hành vi của
họ c̣n phạm lỗi. “Đừng
làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” là
nghĩa trọng yếu trong giới kinh của Phật
pháp. Người độn căn đời sau phải
nên dốc sức nơi đây th́ mới có thể khế
lư khế cơ. Lúc lễ Phật nên tưởng như đích
thân đối trước Phật làm lễ sẽ tiêu diệt
được vô lượng tội, tăng vô lượng
phước. Ở mức cao hơn th́ nên y theo bài kệ lễ
Phật trong sách [Tịnh Độ] Thập Yếu để
quán tưởng, lại càng hay hơn! Tâm Bồ Đề
là tâm tự lợi, lợi tha. Nguyện sanh Tây
Phương phải lấy tâm Bồ Đề làm gốc
th́ mới mong cao đăng thượng phẩm. Nếu
chỉ có tâm nguyện cầu sanh mà không có tâm Bồ Đề
th́ công đức hèn nhỏ, khó lên được thượng
phẩm!
19. Trả lời thư cư sĩ Trần Trọng
Vi
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Chỉ
có cung kính, chí thành mới hoàn toàn đạt được
lợi ích thật sự nơi Phật pháp. Ngoài ra, tùy theo
ḷng thành lớn hay nhỏ mà được lợi ích lớn
hay nhỏ. Nếu chỉ phô trương, màu mè giả dối
hầu sướng mắt khoái tai người khác th́ rất
có thể lại mắc tội khinh nhờn. Ông muốn làm
việc công đức để cầu siêu cho cha mẹ,
thật là có ḷng hiếu, sao c̣n phải hỏi việc ấy
có công hiệu hay chăng? Hỏi như vậy cho thấy
tín tâm của ông chưa chân thật, thiết tha! Chí thành khẩn
thiết niệm Phật, niệm đến cùng cực th́
có thể liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh, cho
đến rốt ráo thành Phật. Huống chi ông dùng cái tâm
hiếu v́ cha mẹ đă khuất mà niệm lại chẳng
có công hiệu ư? Chỉ sợ tâm ông chẳng hết sức
chân thành th́ cha mẹ ông đạt được lợi
ích cũng chẳng cao trỗi lớn lao cho lắm. Thấy
ông v́ làm công đức để cầu siêu cho cha mẹ,
viết thư hỏi tôi, mà vẫn chưa chịu nhún ḿnh,
chỉ kính một cái rồi thôi th́ biết tâm v́ cha mẹ
của ông cũng hời hợt mà thôi! Hăy nên phát tâm chân thật
th́ mới có thể quyết định cậy vào Phật
từ lực văng sanh Tây Phương!
20. Thư trả lời cư sĩ Trần Dật
Hiên
(năm Dân Quốc 20 - 1931)
Xưa
nay rất nhiều vị đại anh hùng hào kiệt,
cũng có người gánh vác Phật pháp, dốc chí tu tŕ,
mà cũng có người học rộng nghe nhiều
nhưng cả đời chẳng biết đến Phật
pháp nghĩa lư như thế nào, cũng có người hoàn
toàn chẳng thông hiểu, nhưng cũng chẳng tán
dương mà cũng không hủy báng. Có kẻ tuyệt
đối chẳng biết ǵ về Phật pháp, nhưng tùy
tiện dựa theo ư ḿnh chê bai xằng bậy. Lại có kẻ
trong tâm bội phục Phật pháp sâu xa, đă trộm lấy
[Phật pháp] để lập môn đ́nh xưng hùng,
nhưng lại cố ư phỉ báng ḥng ngăn lấp hết
thảy mọi người học Phật pháp. Tri kiến
của chúng sanh biến huyễn lạ lùng! Cứ hễ
nghĩ đến, khôn ngăn người ta thở dài
đau đớn. Các ông hăy lấy chuyện gặp khổ
để làm hướng dẫn nhập pháp. Nếu chuyện
ǵ cũng như ư, chỉ sợ suốt đời làm kẻ
đứng ngoài cửa, lại c̣n tưởng ḿnh thấu
đạt cùng cực, không ai hơn được! Họa
- phước trong thế gian dấy lên hay ẩn lấp chỉ
là do đương nhân có khéo dụng tâm hay không?
Vợ ông có thể nói
là đời trước có thiện căn, cô ta chỉ
khuyên ông niệm tam thánh kinh[33],
chẳng khuyên ông niệm Phật, niệm Quán Thế Âm, tức
là chưa biết Phật pháp. Nếu thật sự biết,
há lại chịu trong lúc sanh tử không đảm bảo này
mà quy y nơi tam thánh kinh ư? Tam thánh kinh cố nhiên có sự
cảm ứng lớn lao, nhưng so với việc niệm
Phật, niệm Quán Âm bảo là giống nhau sao được?
Lúc cô ta lâm chung, cũng dường như tu Tịnh nghiệp
đă lâu, biết trước lúc mất. Nếu không phải
là bịa chuyện th́ chính là do thiện căn tịnh nghiệp
đời trước chín muồi mà ra. Trong ngục dặn
ḍ ông, lúc lâm chung dặn ḍ người nhà, nhưng từ
đầu đến cuối chưa hề dặn ḍ niệm
Phật, có lẽ sẽ do “từ, thiện, nhân, hiếu” mà
được sanh lên cơi trời. Nếu văng sanh Tây
Phương, quyết chẳng đến nỗi lúc lâm
chung không tự niệm và không khuyên người nhà niệm.
Nay tốt nhất là nên niệm Phật giùm cho cô ta, cầu
mong cô ta chưa được văng sanh bèn văng sanh, đă văng
sanh sẽ nâng cao phẩm vị.
Ông gởi thư đến
lời lẽ khá khẩn thiết, nhưng vẫn c̣n có tập
khí khinh Tăng mạn pháp. Tập khí ấy thật sự
chướng ngại cho việc học đạo. Nếu
đích thân đến quy y, [pháp sư truyền giới]
thăng ṭa [thuyết giới] th́ phải dập đầu
chừng hai mươi, ba mươi lượt trở
lên; dẫu nói dễ dăi th́ cũng phải dập đầu
mấy lượt. Ông gởi thư xin quy y, chỉ nói “chắp
tay khải thỉnh” rồi thôi. Chắp tay vái chào là nghi thức
giữ lễ của người đi đường hỏi
thăm đường. Ông muốn quy y Tam Bảo để
giúp cho chuyện liễu sanh thoát tử, lại muốn báo
đáp ân đức của hiền thê và độ thoát hết
thảy chúng sanh. Kỳ vọng rất lớn, nhưng lại
khuất ḿnh rất ít, hơi mắc cái tệ nhân quả
chẳng phù hợp! Xưa kia, hoàng đế Thuận Trị
viết thư cho môn nhân của Ngọc Lâm quốc sư c̣n
dùng [từ ngữ] “pháp đệ
Hành Si ḥa-nam” (Hành Si là pháp danh của Thuận Trị). Đem đây - kia so sánh nhau, chẳng
khác biệt như trời với đất ư? Quang hoàn
toàn chẳng phải v́ cầu người khác cung kính mà nói
như vậy.
Nếu dựa theo lư
tánh th́ cố nhiên không có tướng nhân - ngă để
được, huống chi từ vô thủy đến
nay, lần lượt làm cha mẹ, anh em v.v… của nhau,
tương lai đều cùng thành Phật để độ
chúng sanh! Do vậy, nói: “Hết
thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, là
chư Phật trong vị lai”, cung kính c̣n không xuể, sao
c̣n dám trách móc những thiếu sót của người ta
ư? Nhưng duy tŕ Phật pháp mà không lập ra nghi lễ
nghiêm túc th́ không sao khiến cho người khác sanh ḷng kính
ngưỡng, tận lực tu tŕ được! Do vậy,
trong Luật [quy định] “hễ
thỉnh pháp mà thiếu nghi thức cung kính th́ chẳng nói!”
Ngài Thường Bất Khinh thấy người khác liền
lễ bái, người ta dùng roi, gậy, ngói, đá đánh
ném, vẫn chạy tránh ra xa lễ bái, đấy chính là
căn cứ trực tiếp trên bản thể để gieo
chủng tử, chứ không phải là lề lối duy tŕ
pháp đạo của kẻ phàm phu. Chỉ sợ ông chấp
vào danh nghĩa ấy, cho là cái nh́n của Quang hẹp ḥi,
nên mới tŕnh bày đại lược cùng ông, đó
cũng là một cách để trừ khử phiền năo vậy!
Mạn là căn bản phiền năo, học Phật dùng cách
này đối trị phiền năo hữu ích lắm, cho nên
không thể không bảo cùng ông.
Nay đem lầm lạc
đáp tạ lầm lạc, đặt pháp danh cho ông là
Đức Khiêm. Khiêm có nghĩa là chẳng tự thỏa
măn, cho là đủ. Kinh Kim Cang nói: “Phát độ tận nhất thiết chúng sanh tâm, linh
kỳ nhập Vô Dư Niết Bàn, nhi bất kiến nhất
chúng sanh đắc diệt độ giả” (phát tâm
độ trọn hết thảy chúng sanh khiến cho họ
đều nhập Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng thấy
một chúng sanh nào được diệt độ). Ví
như trời che đất chở, chỉ tận hết
bổn phận sanh thành, chẳng hề cậy ḿnh có công
lao sanh thành. Đây thật sự đúng là “không có các tướng
ta, người, chúng sanh, thọ giả”. Đấy gọi
là bậc quân tử khiêm nhường, được kết
cuộc tốt lành. Khiêm tốn th́ sẽ gánh vác được
hết thảy những ǵ nên gánh vác. Dẫu đạt
đến địa vị thánh hiền vẫn luôn biết
người khác đều hơn ḿnh, như biển dung nạp
các sông, như hư không chứa đựng mọi h́nh
tượng, trọn không cự tuyệt một vật nào
chẳng dung nạp, chẳng bao gồm. Ông khéo hiểu
được nghĩa này th́ dù thân mệt nhọc nhưng
tâm vẫn thường nhàn nhă, lợi ích ấy ông sẽ tự
biết. Những điều khác nên xem trong bộ Văn
Sao và các sách Tịnh Độ, ở đây không ghi đầy
đủ.
Văn Sao, nhất là
đối với người mới phát tâm, là một quyển
sách không thể không đọc, bởi lẽ ngôn từ
nông cạn, gần gũi, tường tận, lại c̣n
có nhiều chỗ phát huy sự - lư “sống trong cơi trần
học đạo, tu chân trong cơi tục”. Do học Phật
cho nên căn bản của chí thành, chánh tâm thành ư, tu tề
trị b́nh đều nắm được! Phật pháp
thật tích cực, bác ái, kẻ không biết lại ngược
ngạo cho là tiêu cực, tự tư, tự lợi, coi pháp
rốt ráo độ người thoát khổ của Phật
là pháp ngu xuẩn, mê hoặc kẻ ngu tục. Do đó, dần
dần tích tập đến nay, trở thành những thảm
kịch như phế bỏ kinh điển, phế bỏ
luân thường v.v… chẳng nỡ thấy nghe! Nếu
như ai nấy đều biết nhân quả báo ứng,
biết chết đi thần thức bất diệt, tùy theo
tội phước mà thăng trầm, lẽ nào đến
nỗi có t́nh trạng như vậy?
21. Trả lời thư các cư sĩ Viên Hiếu Cốc
và Tào Tung Kiều
(năm Dân Quốc hai mươi - 1931)
Thư [các
ông] gởi đến chẳng nỡ đọc hết, v́
sao đồng bào chúng ta lại gặp phải đại kiếp này! Nước lụt vừa
rút, đê đập chưa sửa, nước lại trào
dâng, càng thêm thảm khốc. Huống chi nạn giặc
cướp chưa dẹp yên, tai vạ chiến tranh lại
dấy lên, khiến cho dân đen không c̣n lẽ sống! Gần
đây nghe nói những thứ tiền cứu trợ, quần
áo đă được liên tục chở đến tặng,
nhưng ai chịu bỏ những thứ trang sức phù phiếm
để làm công đức? Gần đây, có những phụ
nữ tuy có những chiếc nhẫn đeo tay hay xuyến
vàng đă chê là lỗi thời, nhưng bảo họ đem
đóng góp cứu trợ, nh́n vào t́nh h́nh th́ [thấy họ]
vẫn không chịu bỏ ra. Ngày hôm qua, Đương Gia
chùa Linh Nham là thầy Diệu Chân đến nơi, toàn thể
đại chúng trong chùa giảm bớt tiền chi dụng,
góp lại được hai trăm hai mươi tám đồng,
hôm nay đă gởi đến Tào Phủ để cứu
trợ miền Giang Bắc.
Lần trước,
sau khi Hán Khẩu mắc nạn lụt, Linh Nham đă
đóng góp hơn một trăm hai mươi đồng,
gởi lên Thượng Hải giao cho hội Cứu Trợ
Thiên Tai Hán Khẩu. Sự bố thí của các sư có thể
nói là trọn hết tấm ḷng không thiếu sót vậy. Những
người có tiền trong cơi đời vẫn chẳng
chịu nghĩ thương những người dân bị
tai nạn, đáng gọi là những kẻ si, uổng công
tích cóp tiền tài cho con cháu tiêu xài phí phạm! Đấy gọi là “vứt bỏ công đức
để chuốc lấy tội lỗi”, khiến người
mắt sáng xót thương. Sợ rằng người
ấy đời sau nếu gặp phải tai nạn sẽ
trọn chẳng gặp được người khác cứu
giúp, chẳng đáng buồn ư? Chẳng đáng xót
ư? Chỉ mong chư vị được Phật gia bị,
thân tâm nhẫn nại nhọc nhằn, ngơ hầu dân chúng
đang bị tai ương được chở che, chẳng
đến nỗi không được cứu giúp, không
nơi nương nhờ. Mười ngày trước
đây, do đê vỡ, viện mồ côi cũng bị
nước tràn vào, c̣n độ hơn hai mươi gian
pḥng chưa ngập. Về sau, nước lại dâng cao
hơn, chỉ c̣n hơn mười gian. Tường trong
viện bị sụp đổ rất nhiều, những
bông vải, hoa quả, rau cỏ đă trồng đều
bị nước nhận ch́m. Tổn thất lần này
cũng chẳng ít, biết làm sao bây giờ? Nỗi khổ
của người dân bị tai ương có thể nói là
đến mức cùng cực, hăy nên dạy họ niệm
Phật và niệm Quán Âm. Do nhân duyên ấy mà gieo thiện
căn, cũng là một cách cứu tế từ căn bản
vậy! Trong cơn đau khổ lớn lao
này, thấy quư vị chẳng tiếc tinh thần lo cứu
tế, dạy họ niệm Phật sẽ khiến họ
tin nhận dễ dàng.
Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên
Quyển
1
Phần
1 hết
[1] Tăng Đính Bản về sau
được bổ sung thêm một số bài nữa nên gọi
là Tăng Quảng Chánh Biên, hay Ấn Quang Văn Sao Sơ
Biên. “Lưu bản” là giữ lại bản in. Thuở ấy,
thường in theo lối mộc bản, bản gỗ khắc
chữ để in rất cồng kềnh nên nếu không
yêu cầu, nhà in sẽ không giữ lại mộc bản.
[2] Đương Gia theo nghĩa gốc là
vị quản gia của một dinh thự hoặc một
phủ viện. Nhà chùa cũng dùng chữ Đương
Gia để chỉ vị Tăng quản trị một
ngôi chùa. Sư Diệu Chân làm Đương Gia từ khi
ḥa thượng Chân Đạt trụ tŕ Linh Nham.
[3] Tông: Tông ở đây là ư nghĩa chủ
yếu của một bộ kinh, hay chủ trương,
giáo nghĩa chánh yếu được xiển dương
bởi một bộ kinh. Hiểu theo nghĩa rộng, Tông
là giáo nghĩa căn bản, chủ đạo của một
pháp môn. Theo Thiên Thai Tông, Tông chính là nội dung nhất quán của
một bộ kinh hay một pháp môn.
[4] Do chữ Nam Mô 南無 nếu đọc theo giọng Quan Thoại
thông thường sẽ thành Nán-wú nên ở đây Tổ ghi
âm bằng chữ Nạp-mạc納 莫 (âm Quan Thoại là Nà-mó) để chỉ
cách đọc mô phỏng âm Namo trong tiếng Phạn.
[5] Khóa tŕnh: Thời gian tu tập nhất
định trong một ngày, thường dùng để chỉ
một thời tụng kinh, niệm Phật hay tọa thiền.
[6] Đồng nhân: Những người có
cùng căn cơ với ta.
[7] Đây là một quan điểm mê tín của
người dân Trung Hoa thời xưa. Họ tin rằng khi
sanh làm người, ai nấy đều bị thiếu nợ
một khoản tiền dưới âm phủ, nếu không
đốt tiền giấy van vái trả nợ dần dần
sẽ bị tổn phước giảm thọ, gặp
nhiều tai nạn, ác mộng, ba hồn bảy phách bị
suy bại nên chết yểu. Khoản tiền giấy vàng
bạc đốt để trả nợ gọi là Hoàn Thọ
Sanh (quan điểm này được đề cao qua ngụy
kinh Thọ Sanh). “Gởi kho” là đốt tiền giấy,
vàng bạc để tích trữ sẵn dưới âm ty
như một h́nh thức gởi tiền tiết kiệm
để dùng sau khi chết.
[8] Thọ Sanh Kinh là một kinh do Đạo giáo ngụy tạo. Nội dung kinh nói năm Trinh Quán thứ 13 đời Đường, ngài Huyền Trang duyệt Đại Tạng Kinh, thấy nói rơ mỗi người khi được đầu thai làm người đều thiếu một khoản nợ lớn tại âm phủ, vị quan chủ mạng của âm phủ sẽ truy t́m người ấy trong nhân gian để đ̣i nợ. Người nào không chịu trả khoản nợ ấy bằng cách đốt tiền giấy, vàng mă trả nợ cho âm phủ, đêm ngủ sẽ gặp nhiều ác mộng, ba hồn bảy phách vất vưởng, suy bại, sẽ bị mười tám thứ tai ương như đi đường bị trộm cắp, sanh nở khó khăn, chết bất đắc kỳ tử, bị trúng phong mà chết, bị chết v́ dịch tật, tai nạn xe cộ, bị vu cáo, bắt bớ, giam cầm, tàn tật v.v… Nếu người nào siêng năng trả tiền nợ thọ sanh sẽ được đủ mọi sung sướng, không tai dịch, không bị sao xấu chiếu, ba đời giàu sang, không bao giờ bị nghèo khổ, khẩu thiệt v.v…
Kinh Huyết Bồn (tên gọi đầy
đủ là Phật Thuyết Đại Tạng Chánh Giáo
Huyết Bồn Kinh) nói ngài Mục Kiền Liên đến
huyện Truy Dương ở Vũ Châu thấy một
địa ngục có h́nh dáng một cái chậu máu lớn rộng
đến tám vạn bốn ngàn do-tuần, đủ mọi
khí cụ hành h́nh. Trong ngục có nhiều nữ nhân tóc tai
rũ rượi, bị ngục tốt bắt uống máu
mỗi ngày ba lần. Nếu không chịu uống sẽ bị
quỷ sứ dùng gậy sắt đánh đập tàn nhẫn.
Hỏi đến nguyên cớ, quỷ sứ đáp: “Do
người nữ lúc sanh nở hoặc khi có kinh, máu dơ
thấm đất, xúc phạm thần đất. Hoặc
tắm gội khiến nước sông, nước suối
bị nhiễm máu dơ. Người khác không biết dùng
nước ấy đem nấu trà cúng thánh hiền, Thiên
đại tướng quân bèn ghi tội kẻ ấy. Sau
khi chết bèn đọa ngục này. Muốn cứu giúp
vong linh của mẹ th́ phải tụng kinh này ba năm, lập
Huyết Bồn thắng hội, thỉnh Tăng chúng tụng
kinh này, hồn mẹ sẽ được giải thoát!”
Kinh Thái Dương (tên gọi đầy
đủ là Thái Dương Tinh Quân Bảo Cáo), có nội
dung tán tụng thần mặt trời, xin trích một
đoạn như: “Đỗng
dương chí thánh, viêm minh thượng chân, chủ Nam cực
chi dương khuyết, chưởng nhân thân chi hồn
phách, quang huy thạnh đại, hành vi vạn tượng
chi tôn đức cao minh, chủ thế chiếu chúng sanh chi
mạng, chiếu hồi thiên địa thần quang trú dạ
tuần hành, khu nữu âm dương, viêm phách oai thí hách liệt,
phàm mông quang chiếu, thực lại sanh thành, đại
bi, đại nguyện, đại
thánh, đại từ Nhật Cung Thái Dương Ân
Quang Phổ Chiếu Thiên Tôn” (tạm dịch: Đức
Nhật Cung Thái Dương Ân Quang Phổ Chiếu Thiên Tôn
đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại
từ, là bậc chí thánh, dương khí thông suốt, là bậc
chân thật tột bậc về mặt nóng sáng, làm chủ
cửa Dương nơi mặt cực Nam, nắm giữ
hồn phách của con người, rực rỡ vô cùng, có
đức cao vời hơn mọi vật, chủ tŕ việc
chiếu soi sanh mạng của chúng sanh, ngày đêm đi tuần
hành chiếu soi trời đất, duy tŕ âm dương.
Ngài có bản chất ấm nóng, oai dũng ban bố sự
chói ngời, phàm những ǵ được chiếu soi
đều nhờ Ngài mà sanh thành). Tiếp đó là bài kệ
thần Thái Dương tự khoe công đức: “Trên trời không ta không ngày
đêm, dưới đất không ta chẳng tăng
trưởng, thần nào cũng có người tôn kính, chẳng
ai kính ta thần Thái Dương! Mười chín tháng Giêng
Thái Dương sanh. Nhà nhà niệm Phật thắp đèn hồng,
ai truyền được kinh Thái Dương này, cả
nhà già trẻ không bị sao hạn. Ai không truyền tụng
kinh Thái Dương, địa ngục cửa mở ngay
trước mắt….”
Kinh
Thái Âm có tên gọi đầy đủ là Thái Âm Tinh Quân
Thánh Kinh, câu cú lủng củng, lộn xộn, có toàn văn
như sau: “Thái Âm Bồ Tát
đi về phương Đông, mười tầng địa
ngục chín tầng mở, mười vạn tám ngàn
chư Bồ Tát, chư Phật, Bồ Tát xếp hàng hai
bên, chư tôn Phật kính trọng, đất không mây, hoa
sen vọt khỏi mặt nước nở đầy
đất, đầu đội tháp châu báu bảy tầng,
Sa Bà thế giới nhăn quang minh, một Phật báo trọn
ân thiên địa, hai Phật báo đáp ân phụ mẫu,
cha mẹ c̣n sống tăng phước thọ, cha mẹ
đă mất sớm siêu thăng. Nam-ma Phật, nam-ma Pháp,
nam-ma A Di Đà Phật, thiên la thần, địa la thần,
người ĺa nạn, nạn ĺa thân, hết thảy tai
ương hóa thành bụi. Có ai niệm được bảy
biến kinh Thái Âm, sống chết chẳng đến cửa
địa ngục”.
Kinh Nhăn Quang rất ngắn, chỉ gồm mấy câu như sau: “Phật nói kinh Nhăn Quang, mắt sáng là đèn tâm, hai bên tháp xá-lợi, hằng sa hậu thế Đại Tạng kinh. Ngàn mắt ngàn tay tỏ rơ trong đời. Đại Trí Bồ Tát phóng hào quang, Văn Thù Bồ Tát cưỡi sư tử, Phổ Hiền cưỡi voi chúa. La Hán đầy khắp hư không đại địa, sương mù che phủ mắt bị quét sạch ngay!”
Nội dung kinh Táo Vương (dân gian
thường gọi là kinh Ông Táo) như sau: Kinh này do chính
đức Phật nói ra ở Ấn Độ, được
các vị Tam Tạng pháp sư truyền qua Trung Hoa (sic!), ông
Táo có danh xưng là Đông Trù Tư Mạng, theo dơi hành vi của
mọi người trong gia đ́nh, ngày Ba Mươi mỗi
tháng tấu lên thiên đ́nh, tùy theo hành vi thiện ác, trời
sẽ giáng phước hay ban họa. Sinh nhật của
ông Táo là ngày mồng Ba tháng Tám, gia chủ phải thắp
hương, đốt đèn cúng tế mới được
phước thọ, tụng niệm kinh này th́ học tṛ sẽ
đỗ đạt, người buôn bán hưng vượng
v.v… Cầu đảo ông Táo chí thành sẽ thọ đến
chín mươi tuổi. Kinh cũng khuyên phải giữ bếp
cho sạch sẽ, không được khua khoắng nồi
xoong trong bếp, không được cởi trần trước
bếp, không được khạc nhổ, không được
mắng chửi trong bếp, không đem dép dính phân súc vật
vào bếp, không đem vỏ tỏi, lông xương gà vịt
vào bếp v.v…
Thai Cốt Kinh là kinh nói về sự h́nh
thành con người trong thai mẹ, bắt chước thô
thiển vụng về kinh Báo Ân nhà Phật. Xin trích một
đoạn: “Tháng thứ
tư, thai tăng trưởng, tứ chi đă định,
sanh chân trước, sau sanh tay, thu hạ xuân đông, sanh hai
tay, khi sanh hai tay, rút rỉa huyết mạch của mẹ.
Khi sanh hai chân, thấu đến huyệt Huyền Quan, mạch
máu nhảy mạnh, [người mẹ] đi trên đất
bằng như trèo núi cao, đầu gối đau nhức”…
Kinh Diệu Sa rất ngắn, kinh văn
lộn xộn, câu cú không hoàn chỉnh, nội dung như
sau: “Diệu Sa Quán Thế Âm ngồi
thuyền qua biển cả, thuyền chở ngập sâu
năm trăm (không rơ năm trăm cái ǵ? Năm trăm
tấc chăng?), biển cả
dậy sóng gió, thỉnh được kinh Diệu Sa. Phật,
Phật, Phật, ba mươi sáu vạn ức Phật,
hai mươi chín ngàn vô số Phật, năm trăm tạng
hằng hà sa số Phật, tám vạn thông minh trí huệ Phật,
niệm đức Đương Lai Di Lặc Phật, hết
thảy các Phật trong Tinh Tú thiên cung, Phật nhiều
như những hạt bụi nhỏ nhặt trên mặt
đất, Phật nhiều như những hạt mưa
li ti trong bảy ngày bảy đêm, Phật nhiều như
số cát đọng hai bên bờ sông, Phật nhiều
như số lá trong vườn thiên hạ, cành cành lá lá
quang minh Phật, đức Phật Thế Tôn trong pháp hội
Linh Sơn, ông bà cha mẹ bảy đời Phật, hết
thảy Phật trong ba đời, có ai tŕ niệm kinh Diệu
Sa, hiềm rằng trên cầu thấy phân minh! Bốn quyển
Diệu Sa là một tạng, thiên hạ quỷ thần chẳng
dám xâm phạm, Di Đà đồng tử cầm chuông vàng,
lắc liền mấy tiếng địa ngục trống
rỗng, Diêm La thiên tử được thành Phật, hết
thảy chúng sanh ĺa địa ngục”. Chúng tôi không t́m
được tài liệu về bản kinh Phân Châu.
[9] Phá địa ngục, phá huyết hồ
là những lễ lạc do tà sư Trung Hoa bày ra. Họ làm
những mô h́nh địa ngục, hồ máu bằng giấy,
rồi tăng chúng đọc kinh, vẽ bùa, đốt
bùa, chạy quanh đàn tràng, hô hoán điều động
quỷ thần, dùng tích trượng đục thủng
địa ngục, hồ máu, cho rằng làm như thế
sẽ cứu được vong linh ra khỏi địa
ngục.
[10] Sức Chung Tân Lương (những hướng dẫn trong việc lo liệu cho người lâm chung) là một tác phẩm do ông Lư Viên Tịnh soạn với nội dung hướng dẫn cách thức chuẩn bị cho thời khắc lâm chung và phương pháp trợ niệm nhằm đảm bảo người tu Tịnh nghiệp lúc lâm chung không bị phá hoại chánh niệm. Sách này chia làm bốn phần:
1. Sức Chung Chương Tŕnh: người tu Tịnh Độ phải dặn ḍ gia đ́nh, bạn bè cách xử trí như thế nào khi người ấy lâm chung, cách thức trợ niệm, an táng sao cho người chết giữ được chánh niệm.
2. Sức Chung Ngôn Luận: Tập hợp những lời dạy về chuẩn bị lâm chung của các cổ đức.
3. Dự Tri Lợi Hại: những phân tích về lẽ lợi hại khi lâm chung như không nên khóc lóc, sát sanh, không bày vẽ phô trương như buộc người chết ngồi xếp bằng, thay áo, tắm rửa trong khi người sắp chết c̣n đang thở hắt ra.
4. Sức Chung Thật Hiệu: Những bằng chứng văng sanh do dự bị chu đáo cho phút lâm chung.
[11] Câu này dựa theo thành ngữ: “Một dăy Lô sơn nh́n ngang là rặng,
nh́n dọc thấy đảnh” và câu “người
nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”, cùng ngụ
ư: Bản thể là một, nhưng tùy theo sự hiểu biết
của mỗi người mà lănh hội khác biệt.
[12] Âm Quan Thoại cùng đọc hai chữ
này gần giống nhau.
[13] Phục Hy: C̣n được gọi là
Bào Hy, hoặc Thái Hạo, theo truyền thuyết sống
vào khoảng 8.000 hoặc 7.500 trước Công Nguyên, là một
trong ba vị thánh vương (Tam Hoàng, tức Phục Hy,
Hoàng Đế, Thần Nông) của Cổ Trung Hoa. Ông và bà Nữ
Oa (có thuyết nói họ là anh em, nhưng thường
được hiểu là vợ chồng) được
coi là thủy tổ của nhân loại trong văn hóa Hoa Hạ.
Theo đó, cả ông và Nữ Oa đều có nửa thân
dưới là rắn. Ông ta đóng đô tại Uyển
Khưu (nay là huyện Hoài Dương, tỉnh Hà
[14] Trong Kinh Dịch, mỗi quẻ có một
lời giảng tổng quát ư nghĩa của quẻ ấy
gọi là Thoán. Lời giải thích ư nghĩa mỗi một
Hào (tức một vạch liền hoặc đứt) trong
một quẻ gọi là Hào Từ (tương truyền do
Châu Công soạn).
[15] Kinh Dịch được chia thành hai
phần: Thượng Kinh gồm 30 quẻ đầu, Hạ
Kinh gồm 34 quẻ sau. Thập Dực có nghĩa là mười
cái cánh. Đa phần các nhà chú giải cho rằng: Phần
Thoán và phần Hào giống như con chim đă trọn vẹn
h́nh rồi, thêm Thập Dực như chắp cánh thêm lông
cho con chim được thêm toàn vẹn. Thời cổ, chữ
Truyện có nghĩa là lời giải thích kinh điển.
Thoán Truyện là lời giải thích cho rơ ư nghĩa phần
Thoán Từ. Tượng Truyện là phần giải thích ư
nghĩa của Tượng được biểu thị
bởi mỗi quẻ (Đại Tượng), phần giải
thích tượng của mỗi hào gọi là Tiểu Tượng.
Theo cụ Nguyễn Hiến Lê, Tượng có nghĩa là
h́nh thái, như câu “tại thiên
thành tượng, tại địa thành h́nh” (trên trời
thành tượng, dưới đất thành h́nh); nó c̣n có ư
nghĩa là biểu tượng như câu “Thiên thùy tượng, kiến cát, hung; thánh nhân tượng
chi” (Trời hiện ra h́nh tượng, thấy điềm
lành, điềm dữ, thánh nhân phỏng theo đó lập
nên biểu tượng). Hệ Từ truyện thường
được hiểu là phần giải thích chung cho mỗi
quẻ và hào. Văn Ngôn Truyện là phần giảng về
lời kinh văn, nhưng chỉ chú trọng vào ư nghĩa
hai quả Thuần Càn và Thuần Khôn. Thuyết Quái Truyện
giảng về ư nghĩa tám quẻ đơn (Càn, Khảm,
Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Tự Quái Truyện
giải thích về thứ tự các quẻ (lư do tại sao
lại sắp các quẻ theo thứ tự đó). Tạp
Quái Truyện giải thích linh tinh về một số quẻ.
[16] Chùa Linh Nham tên gọi đầy đủ
là Linh Nham Sơn Tự, thuộc Ngô Huyện, Tô Châu. Khởi
đầu từ Tư Không Lục Ngoạn biến nhà
riêng thành chùa, nhưng rất nhỏ. Đến niên hiệu
Thiên Giám (502-519) thời Lương Vũ
Đế, chùa mới được mở rộng
và mang tên là Tú Phong Tự. Theo kinh Đại Ai (ngài Trúc Pháp Hộ
dịch), đây chính là đạo tràng ứng hóa của Trí
Tích Bồ Tát. Vào thời Thiên Bảo (742-755) đời
Đường Huyền Tông, tổ trung hưng tông Thiên
Thai là ngài Đạo Tuân từng tu Pháp Hoa tam-muội tại
chùa này. Đầu đời Tống, chùa trở thành học
viện giới luật của Luật Tông. Vào thời
Nguyên Phong (1078-1085), chùa trở thành thiền viện. Chùa bị
cháy rụi chỉ c̣n sót lại một cái tháp đá vào
năm Vạn Lịch 18 (1600) đời Minh Thần Tông.
Sau khi được trùng tu, chùa lại bị loạn quân
Thái B́nh Thiên Quốc đốt phá một lần nữa.
Măi đến năm Tuyên Thống thứ ba (1911), ḥa thượng
Chân Đạt mới đứng ra dựng lại chùa
như hiện nay.
[17] Thầy Chân (Chân sư) ở đây chính
là ḥa thượng Chân Đạt, vị trụ tŕ có công
đứng ra trùng tu Linh Nham vào năm Tuyên Thống thứ
ba (1911).
[18] Pháp sư Giới Trần (1878-1948) là
người xứ Hán Xuyên, tỉnh Hồ Bắc, họ
Khưu, tự là Địch Ngô, xuất gia năm mười
chín tuổi, chuyên tu khổ hạnh, sống trong núi Chung
Nam, toàn tâm toàn ư tu Thiền. Sau Sư chuyên tu niệm Phật.
Dưới thời Quang Tự, Sư vào núi Kê Túc ở Vân
Nam chuyên tu pháp Ban Châu Niệm Phật. Năm Dân Quốc thứ
ba (1914), Sư đến mở Hoa Nghiêm Đại Học
tại Hàng Châu. Về sau, Sư bế quan tại chùa Phật
Thản ở Thường Thục, ngầm tu Tịnh nghiệp.
Năm Dân Quốc thứ chín (1920), cùng với các vị Liễu
Trần, Từ Châu v.v… lập Hoa Nghiêm Đại Học tại
chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Sư từng đảm
nhiệm Trụ Tŕ chùa Linh Nham một thời gian. Sư thị
tịch vào năm Dân Quốc 37 (1948) tại chùa Cùng Trúc ở
Côn Minh, thọ 71 tuổi, pháp lạp 53 năm. Trước
tác gồm Hoa Nghiêm Nhất Trích, Hoa Nghiêm Thất Xứ Cửu
Hội Đồ, Liên Xă Minh Huấn, Tịnh Tông Yếu Ngữ
v.v…
[19] Kinh Dịch có câu “Lệ Trạch Đoài, quân tử dữ bằng hữu
giảng tập” (Lệ Trạch Đoài: quân tử cùng
bè bạn nghiên cứu, tu tập) nên chữ “lệ trạch”
thường dùng để chỉ bạn bè thân thiết, tốt
lành cùng nhau học hỏi, nghiên cứu.
[20] Tam Thánh Đường tức Tây
Phương Tam Thánh Đường, chỉ Niệm Phật
Đường. “Con cháu Tam Thánh Đường” là những
vị Tăng chuyên tu Tịnh nghiệp.
[21] Chùa A Dục Vương ở trên núi A Dục Vương thuộc huyện Cận tỉnh Chiết Giang. Theo truyền thuyết, vào năm Thái Khang thứ hai (281) đời Tấn Vũ Đế, có người tên là Lưu Tát Ha xứ Tinh Châu bị hôn mê trên núi, mộng thấy một vị tăng người Ấn Độ, cho biết tội ông ta sẽ đọa địa ngục, rồi khuyên ông ta nên đến đảnh lễ tháp của A Dục Vương (tháp thờ xá-lợi đức Phật do vua A Dục kiến tạo, sai quỷ thần đem chôn trong các nơi khắp Nam Thiệm Bộ Châu, khi nào Phật giáo hưng thạnh nơi ấy, tháp sẽ tự động trồi lên) để sám hối các tội. Ông này thức dậy bèn xuất gia, đổi tên là Huệ Đạt. Sư đi t́m tháp khắp nơi, nhưng không thấy, đau ḷng than khóc. Một đêm, bỗng nghe dưới đất có tiếng chuông vẳng lên. Ba hôm sau, bảo tháp và xá-lợi từ dưới đất cùng vọt lên. Huệ Đạt bèn dựng chùa miếu phụng thờ tháp. Đó là căn nguyên của chùa A Dục Vương. Những người phỏng theo phẩm Dược Vương Bổn Sự trong kinh Pháp Hoa thường đến trước tháp xá-lợi lễ bái đốt ngón tay hay đốt cánh tay để cúng dường.
[22] “Việt tôn
đại trở” (vượt chén rượu, thay
đổi thớt) là một thành ngữ, thường dùng
dưới dạng thông dụng hơn là “việt bào đại trở”
(vượt quyền đầu bếp mà thay cái thớt).
Tổ dùng thành ngữ này với ư tự khiêm, đối với
Linh Nham, Ngài chỉ là một vị trưởng lăo danh dự,
không phải là Đương Gia hay Trụ Tŕ, không có
tư cách ǵ lên mặt chỉ dạy vị quyền Trụ
Tŕ là thầy Minh Bổn. Ngài khuyên dạy những lời
này th́ cũng giống như kẻ tự tiện vượt
quyền, dạy dỗ người khác, cắt đặt
quy củ theo ư ḿnh, nên mới nói là “việt tôn đại
trở”.
[23] Cứu Kiếp Biên tên gọi đầy
đủ là Phật Học Cứu Kiếp Biên, do ông Hứa
Chỉ Tịnh biên soạn. Nội dung tập hợp những
giáo huấn trọng yếu để khuyến thiện tu
Tịnh Độ, bao gồm các huấn thị về Tam
Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, cải ác hướng
thiện, tín nguyện niệm Phật, Phổ Hiền Hạnh
Nguyện v.v…
Quán Âm Tụng tên gọi đầy đủ
là Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng,
cũng do ông Hứa Chỉ Tịnh biên soạn. Nội dung
trích thuật kinh luận nêu rơ những duyên khởi, sự
phát tâm, thị hiện cảm ứng của Bồ Tát Quán
Thế Âm. Ông Hứa Chỉ Tịnh soạn cuốn này theo
yêu cầu của Tổ Ấn Quang.
[24] Tên gọi đầy đủ là Lịch
Sử Cảm Ứng Thống Kỷ do ông Nhiếp Vân
Đài biên soạn, Hứa Chỉ Tịnh ghi lời bàn
định. Nội dung thâu thập những câu chuyện
trong lịch sử, trích từ các bộ sử nổi tiếng
của Trung Hoa từ Sử Kư cho đến Minh Sử, khởi
đầu bằng chuyện vua Thuấn, kết thúc bằng
chuyện Cáp Lập Ma (tức Karmapa của Phật giáo Tây
Tạng) thời Vĩnh Lạc nhà Minh.
[25] Tử Hạ, tên thật là Bốc Thương, người xứ Ôn nước Tấn (nay là huyện Ôn, tỉnh Hà Nam) thời Xuân Thu, là một đệ tử nổi tiếng của Khổng Tử, được thờ phối hưởng trong Văn Miếu. Ông không thích làm quan, nhưng vâng lời thầy ra làm quan ở nước Cử (nay là huyện Cử tỉnh Sơn Đông). Sau khi Khổng Tử mất, ông bèn từ quan, sang sống tại Tây Hà, huyện Đào, mở trường dạy học. Học tṛ ông thành đạt rất đông, có nhiều người rất nổi tiếng như Can Mộc, Ngụy Văn Hầu, Ngô Khởi v.v… Tuổi già, người con trai duy nhất đột nhiên lăn ra chết, ông thương tâm khóc đến nỗi mù mắt, do đó mới có thành ngữ “Ôm nỗi đau Tây Hà”. Tổ mượn thành ngữ này với ngụ ư: Tránh viết lách quá nhiều đến nỗi mắt bị mù.
[26]
Giới Hiền (Śīlabhadra) sống khoảng thế
kỷ thứ 6, hay thứ 7, là một vị Luận Sư
nổi tiếng của Đại Thừa Phật Giáo Du
Già Hạnh (Duy Thức), trụ tŕ chùa Na Lan Đà ở tại
nước Ma Kiệt Đà, Ấn Độ. Sư thuộc
ḍng dơi hoàng gia Samatata ở Đông Ấn, hiếu học từ
thuở nhỏ, tham học với khắp các bậc minh
triết. Khi đến Na Lan Đà, Sư gặp được
Hộ Pháp Bồ Tát, nghe ngài giảng pháp, tin tưởng,
giác ngộ, bèn theo xuất gia. Năm 30 tuổi, Sư từng
viết luận khiến các sư trưởng ngoại
đạo khắp cả một giải
[27] Thiên Trúc chính là Ấn Độ. Do thời
cổ, các âm Trúc, Độc đọc giống nhau. V́ vậy,
cổ thư c̣n phiên Thiên Trúc là Thiên Độc, Thiên Đốc,
Thân Độc. Theo các nhà nghiên cứu, đây đều là
những âm đọc sai của chữ
[28] Tức là lá thư gởi cho bà Từ
Phước Hiền, đánh số 33 trong bộ Ấn
Quang Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên, tập 1.
[29] Nguyên văn là “thủ thử lưỡng
phụ” là một thành ngữ hàm nghĩa do dự, không quyết
định, đón gió xuôi chiều, nói cách nào cũng
được. Chúng tôi tạm dịch là “nói huề vốn”.
[30] Kinh Địa Mẫu có tên gọi đầy
đủ là Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu
Huyền Hóa Dưỡng Sanh Bảo Mạng Chân Kinh, có nội
dung ca ngợi Mẹ Đất, kêu gọi người
đời phải kính trọng Địa Mẫu v́ Địa
Mẫu sanh thành muôn vật, muôn h́nh tượng, ngay cả
kim thân của chư Phật cũng do Địa Mẫu tạo
ra (sic!). Địa Mẫu rất được sùng bái tại
Trung Hoa. Hỗn Độn Cổ Phụng Cung (miếu thờ
Địa Mẫu ở trấn Ngọc Lư, huyện Hoa
Liên, Đài Loan) thậm chí c̣n coi Địa Mẫu
tương ứng với Thượng Đế sáng tạo
trong thần thoại phương Tây, và xem những danh hiệu
Hồng Mông Lăo Tổ, Hỗn Độn Lăo Tổ, Vô Cực
Chí Tôn, Vô Cực Lăo Mẫu đều là những biệt
danh của Địa Mẫu Nương Nương.
[31] Phật Báo Ân Kinh có tên gọi đầy
đủ là Đại Phương Tiện Phật Báo Ân
Kinh, được dịch vào thời Hậu Hán, mất
tên người dịch. Bản kinh này được
đánh số 156 và xếp vào phần Bổn Duyên, thuộc
tập 3 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh. Kinh này chủ yếu trần thuật những chuyện
xả thân báo hiếu khi đức Phật c̣n tu hạnh Bồ
Tát, như chuyện thái tử Tu Đạt Noa cắt thịt
dâng cho cha mẹ trong khi bôn đào, cũng như giảng giải
một số vấn đề về giới luật. Kinh
này đă được Ḥa Thượng Quảng Độ
dịch ra Việt Văn vào trước năm 1975.
[32] Tại Gia Luật Yếu có tên đầy
đủ là Tại Gia Luật Yếu Quảng Tập, do ngài
Ngẫu Ích soạn, Nghi Nhuận và Trần Hy Nguyện
tăng đính. Đây là một tổng tập các kinh luận liên quan đến giới luật của hàng Phật tử tại gia. Sách này bao gồm một phần trích lục bộ Tứ Phần Luật, Ưu Bà Tắc
Thọ Tam Quy Ngũ Giới Pháp Hội
Thích (tổng hợp các lời
giải thích về cách thọ Tam Quy Ngũ Giới), Tam Quy Ngũ Giới Từ Tâm Yểm Ly Công Đức kinh, Quán Đảnh Tam Quy Ngũ Giới Đới Bội Hộ Thân Chú Kinh, Sa Mạt Nẵng Pháp Thiên Tử Thọ Tam Quy Hoạch Miễn Ác Đạo Kinh, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh, Phật Thuyết Giới Tiêu Tai Kinh, Phật Thuyết Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Tướng Kinh Thiển Yếu, Phật Thuyết Trai Kinh Chú (chú giải kinh Phật nói về
trai giới), phẩm Quán Tâm và phẩm Phát Bồ
Đề Tâm của
Đại
Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán Kinh, Ngoại Đạo Vấn Thánh Đại Thừa Pháp Vô Ngă Nghĩa Kinh, Ưu Bà Tắc
Giới Kinh Thọ Giới Phẩm Thiển Yếu (giải thích sơ lược về những điều quan trọng trong phẩm Thọ Giới của kinh Ưu Bà Tắc Giới), Bồ Tát Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Oai Nghi Kinh, trích yếu phần sớ giải Phật Thuyết Phạm Vơng Kinh Tâm Địa Phẩm Bồ Tát Giới, Phạm Vơng Kinh Sám Hối Hành Pháp v.v…
[33] Tam thánh kinh là những thiện thư
được coi trọng nhất tại Trung Hoa từ thời
Minh - Thanh trở đi, gồm Thái Thượng Cảm Ứng
Thiên, Âm Chất Văn và Giác Thế Kinh (theo tiến sĩ
Du Tử An thuộc đại học Hương Cảng).
Giác Thế Kinh chính là Quan Thánh Đế Quân Giác Thế Chân
Kinh (tương truyền do Quan Công giáng cơ) có nội
dung khuyến thiện, nêu tỏ lẽ nhân quả nên
cũng rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng.