Phật
Học Vấn Đáp Loại Biên
佛學問答類編
Phần 4
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
(theo bản in của Lư Bỉnh Nam Lăo
Cư Sĩ Toàn Tập Biên Tập Ủy Viên Hội, Đài
Loan, 2007)
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
* Hỏi: Do nguyên nhân ǵ
mà Phật giáo phải chia ra nhiều tông phái? Từ xưa
tới nay đă chia thành mấy tông phái? (Trang Khánh Hiền hỏi)
Đáp:
Phật pháp vô lượng, môn loại rất nhiều,
như trên trời có mặt trời, mặt trăng, gió,
mây, giống như đất có núi, biển, cỏ cây. Con
người không có thiên tư tuyệt thế, làm sao có
thể học khắp, thông hiểu trọn khắp; cho nên
bất đắc dĩ phải có hành động chọn
theo một loại ḥng chuyên nhất, giống như
học vấn thế gian phải lập ra chuyên khoa. V́
thế, tông phái xuất hiện. Đây là phương
tiện cầu học, chứ thật sự chẳng
phải là tạo lập môn hộ, kéo bè phái những
người có cùng ư kiến với ḿnh để chèn ép
kẻ khác chí hướng! Thời kỳ Mạt Pháp,
đấu tranh kiên cố, có lắm thiên kiến[1], thật đáng cảm khái! Thiên Trúc,
Trung Hoa, Nhật Bản, Phật pháp đều thịnh,
các tông phái khác nhau, ngay tại Trung Hoa xưa và nay cũng
khác biệt. Trước kia, c̣n có nhiều danh xưng [tông
phái] như Niết Bàn, Địa Luận v.v... nay chỉ
thường nghe nói tới mười tông, nhưng
thật ra [hai tông] Câu Xá và Thành Thật cũng ít ai hoằng
dương!
*
Hỏi: “Pháp Thân của
Phật trọn khắp hư không” là nói về Pháp Thân
của đức Thế Tôn, hay là Pháp Thân của mỗi
vị trong vô lượng vô biên chư Phật đều
là trọn khắp hư không? Nếu đều trọn khắp
hư không th́ chẳng biết xếp đặt theo cách
nào? Người thuộc tŕnh độ nào sẽ có thể
thấy được? (Dư
B́nh hỏi)
Đáp:
Phật Phật đạo đồng, Pháp Thân đều
trọn khắp. Nếu hoài nghi, tôi nêu một thí dụ
của cổ nhân. Ánh sáng của một ngọn đèn, soi
sáng cả pḥng; ánh sáng của hai ngọn, ba ngọn đèn,
hoặc nhiều hơn nữa, cùng chiếu khắp pḥng,
chẳng trở ngại nhau. Lại thêm trăm ngàn ngọn
đèn, cũng đều giống như thế! Hiểu
rơ thí dụ này, mối nghi sẽ có thể cởi gỡ!
Pháp Thân vốn vô tướng, người minh tâm kiến
tánh sẽ có thể trông thấy.
*
Hỏi: Sau khi đức Phật diệt độ,
[Phật pháp] chia ra ba thời kỳ Chánh Pháp, Tượng
Pháp, Mạt Pháp, vậy th́ trước khi đức
Phật giáng sanh thuộc vào thời kỳ nào, trong khi
ấy có Phật pháp hay chăng? (Dư
B́nh hỏi)
Đáp:
Sau thời Mạt Pháp là Diệt Pháp. Luận về
thời kỳ, sẽ có Chánh, Mạt, Diệt, hết
một ṿng lại quay về từ đầu. Luận
về phía Phật th́ quá khứ có vô lượng chư
Phật, lại c̣n có vị lai vô lượng chư
Phật, phối hợp với từng thời kỳ mà
xuất hiện hay diệt độ, liên tục không
ngớt. Đức Phật được nói tới trong
lời hỏi chính là Thích Ca Thế Tôn. Trước khi
đức Thích Tôn giáng sanh, th́ là Ca Diếp Như Lai, [lúc
ấy] thuộc vào thời kỳ Diệt Pháp của Ca
Diếp Phật.
*
Hỏi: Mọi sự đều là rỗng không, từ
xưa đă là như vậy, nếu nói toạc ra, há
chẳng phải là con người sẽ đánh mất chí
tiến thủ, thế giới c̣n mong chi phồn vinh?
Phật giáo chuyên đề xướng Không, giống
như chủ nghĩa tiêu cực, sợ chẳng hợp
điều kiện sanh tồn của quốc gia hiện
đại, có nên thay đổi hay không? (Ngô Tài Thầm hỏi)
Đáp:
“Muôn sự rỗng không” là lời nói thông tục lưu hành
trong làng quê, chẳng phải là Không theo giáo nghĩa nhà
Phật. Cố nhiên Phật học nghiên cứu Không,
nhưng nào biết [nhà Phật] c̣n nói Có. Nghĩa của
Không như [nhà Phật] đă nói khác xa cách hiểu sai
lầm về Có và Không của thế tục, xin chớ
hiểu lầm! C̣n như tích cực hay tiêu cực,
tiến thủ hay suy đồi, sẽ phụ thuộc trí
huệ, thiện ác của con người. Kẻ trí
gặp được [giáo nghĩa] Ngă Không và Pháp Không,
sẽ chịu tích cực hy sinh v́ đại chúng, chẳng
tiếc đầu, mắt, năo, tủy, biết có nhân
sẽ có quả, chịu v́ đạo mà tinh tấn tu tŕ,
chẳng hạn cuộc bởi không gian hay thời gian,
thế giới nhờ vào đấy càng trang nghiêm. Kẻ
ngu lầm tưởng Ngoan Không, nên đối với
sự tấn đức, tu nghiệp, ngỡ là viễn
vông, luôn giữ lấy sự tiêu cực. Do mê nơi
giả hữu, nên đối với tiếng nói, sắc
tướng, vật chất, lợi lộc, chết ch́m
trong ấy, đành ḷng phế bỏ, cho nên phong tục
điên đảo. Nghĩa Có và Không giống như mưa
dầm, người trí [nghe hiểu nghĩa ấy]
giống như cây cối xum xuê, kẻ ngu như gỗ
mục! Cùng một trận mưa dầm, cây xum xuê gặp
mưa càng thêm xum xuê, gỗ mục gặp mưa càng thêm
mục nát, cơ duyên tốt hay xấu vẫn tùy thuộc
từng người! Thay đổi tốt lành chính là thay
đổi ḷng người mê thành ngộ; đại
đạo mà có thể sửa đổi, sẽ chẳng
phải là đạo!
*
Hỏi: Cố nhiên Thiên Chúa giáo không phải là tôn giáo
của Trung Quốc, Phật giáo cũng từ Ấn
Độ truyền vào, sao chẳng đề xướng
tôn giáo của chính Trung Quốc, há chẳng tránh khỏi
nhiều điều tranh luận ư? (Ngô Tài Thầm hỏi)
Đáp:
Đối với một chữ Giáo, cần phải nói rơ
giới tuyến. Có giáo thuộc về lễ giáo, có giáo
thuộc về tôn giáo, Phật giáo thuộc phạm vi
thứ hai. Hăy nên biết: Giáo là biểu hiện của
đạo. Đạo bao trùm trời đất, há có trong
hay ngoài! Vào thời thượng cổ, đất đai
mới mở mang, cương vực nhỏ hẹp.
Dẫu là Kinh, Sở, Ngô, Việt[2], vẫn chê là Di
(mọi rợ). Cho đến về sau vẫn c̣n nói: “Vua Thuấn sanh ở đất
Chư Phùng, là người Đông Di. Văn Vương sanh ở Kỳ Châu,
là người Tây Di”[3] v.v... Thuở ấy, chẳng thấy
điều ấy là lạ. Đến nay giao thông và văn
hóa [phát triển, cả thế giới] như ở ngay
trong sân, trong cửa, tầm mắt phải rộng mở,
sao lại câu nệ để tự giam ḿnh trong giới
hạn cổ lỗ. Hơn nữa, Phật lấy một
đại thiên (tam thiên đại thiên thế gian) làm khu
vực giáo hóa, giống như ánh nắng mặt trời
soi chiếu khắp đại địa, chúng ta há nên
tự lui về chỗ chẳng có ánh sáng mặt trời
chiếu tới ư? Dẫu muốn tự vạch
giới hạn, hăy thử nghĩ: Trong các tôn giáo ở Trung
Quốc, [một tôn giáo] có người sáng lập, có kinh
điển, tụ tập tín đồ truyền thụ
kinh điển, chẳng dựa dẫm [tôn giáo khác],
chẳng xen tạp; khảo sát lịch sử, giảo
duyệt điển tịch, [đều thấy là] chánh
đáng chứ chẳng phải là quỷ quyệt, chân
chứ chẳng ngụy, thật sự là giáo nào vậy?
*
Hỏi: Kẻ ngu này các giáo đều tin, trọn chẳng
có ác ư, gia đ́nh lại nhiều đời tin Phật
giáo, bất quá thấy các giáo công kích lẫn nhau, lại bàn
đến Thiên Đường xa xôi, chẳng nói về
hiện thực, cảm thấy tất yếu là phải
thay đổi cho tốt đẹp hơn. Nếu không, lâu
ngày chầy tháng, ắt sẽ bị xă hội đào
thải! (Ngô Tài Thầm
hỏi)
Đáp:
Tiên sinh có ư tốt lành, nhưng đối với nội
dung Phật giáo c̣n thiếu hiểu biết. Nay tôi kính
cẩn tŕnh bày đại lược cùng Ngài, xin hăy
rộng ḷng chú ư. Giáo nghĩa Phật giáo chuộng nhẫn
nhục, chuộng không tranh chấp. Hiện thời tuy có
đôi chút tranh biện, nhưng cũng là phản ứng
bất đắc dĩ nhằm hộ tŕ giáo pháp, trọn
chẳng phải là hành vi tự động công kích
người khác. Hơn nữa, Phật giáo nói tới Thiên
Đường chính là lời phương tiện trong giáo
pháp Tiểu Thừa. Nghĩa rốt ráo là Vô Trụ Niết
Bàn, chớ nên hiểu lầm! Muốn mong đạt cái
quả trong Phật giáo, trước hết phải chú
trọng nhân địa. Lục độ, vạn hạnh
đều là hiện thực. Chuyện sửa đổi
[giáo nghĩa] cho tốt đẹp hơn chỉ có thể
áp dụng cho những học giả hoặc những
kẻ chẳng y giáo phụng hành. Hăy tự nên sửa
đổi tác phong của mỗi cá nhân, [điều này] có cùng
một ư nghĩa với lời đáp trong phần
trước.
*
Hỏi: V́ tổ tiên làm Phật sự, nếu [tổ tiên
đọa] trong quỷ đạo, sẽ có thể ĺa
khổ được vui, kinh Phật chẳng nói là sau khi
chết trong ṿng bốn mươi chín ngày con người
sẽ đầu thai vào nơi khác ư? Nếu [tổ tiên
đă] được sanh lên trời hay sanh trong nhân
đạo th́ siêu độ có tác dụng ǵ? (Cố Phượng Anh hỏi)
Đáp:
Các cơi trời thuộc Dục Giới có chiến tranh
với Tu La, ngũ suy, tam tai, loài người có tám khổ,
các nạn. V́ quyến thuộc đời trước làm
Phật sự th́ những điều ấy (chiến tranh
với Tu La, ngũ suy, tam tai v.v...) đều có thể tiêu
giảm, lại c̣n tăng thêm phước báo.
*
Hỏi: Đệ tử Phật sống trong gia đ́nh
theo đa thần giáo, vâng lệnh cha mẹ, làm những
chuyện trái với giáo lư, như được cha mẹ
sai đến lễ bái thần thánh ngoại đạo,
hoặc đốt giấy vàng bạc, dâng cúng [thần
thánh] bằng các con vật. Đă khuyên dụ, nhưng cha
mẹ không tiếp nhận th́ phải nên đối xử
như thế nào? (Trần
Hiệp Ḥa hỏi)
Đáp:
Đối với điều này, ắt phải luôn chú tâm,
dùng thân hành, miệng khuyên cha mẹ, nước chảy
đá ṃn, sẽ tự có cơ duyên chín muồi, chẳng
thể dùng cách thúc ép cứng rắn mà ḥng thành công
được! Hiện thời, cha mẹ chưa có chánh
tín, không ngại dùng phương tiện thiện xảo,
thuận theo tâm họ, đừng nên chống đối,
hăy coi những thần thánh tạp nhạp ấy như
bạn bè của cha mẹ, hướng về họ cúng
lễ, coi như giữ thể diện cho cha mẹ mà kính
trọng khách, cũng chẳng phải là không
được. Chỉ có điều chớ nên tín
phụng [quỷ thần] v́ trái nghịch lời răn
dạy về quy y!
*
Hỏi: Chư Phật, Bồ Tát thương xót chúng sanh,
ứng hóa trong thế gian, xiển dương giáo pháp
lợi sanh, nhưng v́ sao chẳng trường thọ măi
măi để làm nhiều chuyện hoằng hóa hơn?
Lại nữa, chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trong nhân
gian, v́ sao thường thiên vị tại Á Đông, mà
chẳng đến các nước Âu Mỹ, khiến cho
trong suốt hai ngàn năm qua, tôn giáo, tín ngưỡng
của dân chúng các nước Âu Tây đều thuộc trong
ṿng vây của đạo Gia Tô hay Hồi Giáo? (Trần Hiệp Ḥa hỏi)
Đáp: “Nhân t́nh trọng nan nhi khinh
dị, yếm cố nhi hỷ tân” (Con người quen
thói coi trọng những điều khó khăn, khinh
thường những ǵ dễ dàng, chán cái cũ, chuộng
cái mới). Ngạn ngữ cũng nói: “Học Phật nhất niên, Phật tại nhăn
tiền, nhị niên Phật tại thanh thiên, tam niên
Phật hóa vân yên” (Học Phật một năm,
Phật ở ngay trước mặt, học hai năm,
Phật ở giữa trời, học ba năm, Phật
thành mây khói). Nếu Phật trụ măi nơi đời,
chúng sanh đâm ra càng thêm biếng nhác, một trăm năm
và tám mươi năm chẳng sai khác lắm, cũng
chẳng thể gọi là “thọ vĩnh viễn”, đây
là điều thứ nhất. Trên địa cầu này,
dùng kiếp này để luận th́ phương Đông
được khai hóa sớm nhất. Lại do khu vực
địa lư cùng nằm ở Đông Á nên tự nhiên
sẽ tiếp thu trước hết. Đó gọi là “cận thủy lâu đài tiên
đắc nguyệt” (lâu đài gần nước
được trăng soi trước). Lại c̣n do
mỗi chuyện đều có nhân duyên, chiêu cảm, như
bao nhiêu người trong thành Xá Vệ, có người kính
phụng, có kẻ nghe Phật pháp, mà cũng có kẻ
chẳng hề thấy nghe. Đấy là điều
thứ hai.
*
Hỏi: Văn tự chính là cội nguồn văn minh; v́
thế, hễ người nào dùng đến văn tự,
đều phải nên kính tiếc giấy có viết [hay in]
chữ, nhằm báo đáp ân đức của văn
tự th́ mới là đúng. Nhưng gần đây cũng có
kẻ học Phật chẳng chịu kính tiếc giấy
chữ, sử dụng giấy có chữ bừa băi, làm ô
uế lung tung, vứt bỏ bừa băi, chẳng biết
đối với sự học Phật tu dưỡng có
bị trở ngại hay không? (Lâm
Đắc Mô hỏi)
Đáp:
Văn tự mở mang trí huệ, tăng đạo
đức, mọi chuyện nhờ vào nó mà tiến hóa, công
ấy hết sức to lớn. Gom lại thành từ
ngữ, có thể biểu thị danh tự của thánh
hiền, hoặc giáo huấn, khuôn mẫu của các Ngài;
tách ra th́ cũng có thể coi như một phần danh
hiệu và giáo huấn của thánh hiền. Cổ tục
Trung Quốc chủ trương kính trọng, nên
đối với giấy có chữ chẳng nỡ giẫm
đạp, làm bẩn, nay phong tục ấy nhạt
dần, ḷng kính trọng đối với giấy chữ
suy giảm, đối với cổ thánh tiên hiền c̣n
mang ḷng miệt thị, huống là giấy có chữ ư!
Hiện thời, phong khí [cả xă hội] đă là như
vậy, chẳng phải chỉ riêng người học
Phật là như thế!
*
Hỏi: Hai giáo Nho và Đạo là tôn giáo và văn hóa cố
hữu của Trung Quốc, là căn nguyên tinh thần dân
tộc và đạo đức của quốc dân. V́
thế, ở Trung Quốc, Nho giáo như Tiểu Học,
Đạo giáo như Trung Học, Phật giáo như
Đại Học. Người có tư cách thượng
đẳng sẽ có thể tiến nhập Trung Học;
nếu chỉ là kẻ tư cách hạ đẳng, sẽ
chỉ tiến nhập Tiểu Học. Nhưng dù lạy
tiên, hay lạy thần, mà nếu đối với
đạo làm người vẫn chẳng trái nghịch
đạo đức, chẳng vi phạm pháp luật,
sẽ có thể dưỡng thành người có nhân cách
đạo đức cao thượng, cũng là một
quốc dân cao quư. Nếu trái nghịch đạo
đức, vi phạm pháp luật, bị pháp luật
trừng phạt, đến nỗi phá hoại quy cách
của nhân loại, bèn thuộc vào loại mê tín, tà tín,
đáng nên bài xích. Gần đây, đối với
những kẻ thờ thần, thờ tiên, có lắm
Phật giáo đồ bài xích họ là bàng môn ngoại
đạo, tà môn ngoại giáo, chẳng biết có trái
nghịch tinh thần dân tộc và căn bản đạo
đức của quốc dân hay chăng? Điều này có
quan hệ trọng đại đối với tinh
thần dân tộc và đạo đức quốc dân
vậy! (Lâm Đắc Mô
hỏi)
Đáp:
Có hai cách giải thích chữ “ngoại”:
1. Một là trong
Phật pháp, giả danh tâm pháp là nội, chẳng phải
tâm pháp là ngoại. Phàm những ai chẳng tu tâm pháp
đều nhất loại gọi là ngoại đạo, ư
nói: Chỉ biết đến ngoại pháp.
2. Hai là đạo ở ngoài bổn giáo. Đây là đối với các giáo ở ngoài giáo của chính ḿnh, đều có thể gọi là ngoại đạo, chứ thật sự chẳng phải là lời lẽ chửi người. Bàng và tà khác nhau. Bàng là chẳng chánh, tà là chẳng đoan nghiêm. Ví dụ như mê tín rêu rao “Thích Ca thoái vị, Di Lặc thay thế nắm quyền chưởng quản thiên bàn, Ngọc Hoàng đă đổi thành Quan Đế, vị Phật nào đó giáng lâm” v.v... Thậm chí cắt xén kinh Phật, xen tạp lời lẽ tà ngụy, lừa ḿnh, dối người, vờ vĩnh xưng là “Tam Giáo hợp nhất”. Phàm những thứ giống như vậy, phần lớn đều là chi phái của các môn Hoàng Cân[4], Bạch Liên[5], Thiên Lư, Bát Quái[6] v.v... vô tri làm càn, hại huệ mạng của người khác, chẳng dứt tà, đề cao đạo chánh, cho nên bài xích [những thứ tà vạy ấy]! Nếu là Nho giáo thuần chánh, có bao giờ tín đồ nhà Phật chẳng hoàn toàn tôn trọng. C̣n như Đạo giáo, nay đă thành Thiên Sư Giáo của Trương Đạo Lăng, chẳng c̣n là Hoàng Lăo thời Hán. Nghe nói tiên sinh là người có học, khảo sát lịch sử tường tận, ắt sẽ tự biết nguyên do. Nếu nói tới tinh thần và đạo đức dân tộc, chỉ Nho giáo là có. Những đạo khác đều là tạp giáo rối tung, rối mù, làm sao có thể nói là [tinh thần và đạo đức dân tộc] cho được!
*
Hỏi: Gạo, thóc, cháo, cơm là căn bản để
nuôi dưỡng tánh mạng con người. Người
học Phật do chẳng nuôi dưỡng gia súc, chẳng
chịu đem nước vo gạo, cháo ăn thừa cho
người khác nuôi dưỡng gia súc, sợ giúp cho kẻ
khác nuôi gia súc mập mạnh, đến nỗi chúng mau bị
giết, nên đổ bừa nước vo gạo, vứt
bừa cơm cháo [thừa]. Chẳng biết có phạm
tội lỗi khinh rẻ ngũ cốc, vong ân phụ
nghĩa hay không? (Lâm Đắc
Mô hỏi)
Đáp:
Cơm thừa chẳng thí cho súc sanh th́ cũng là có phân
biệt. Nếu nhà hàng xóm không có sức nuôi lợn, nhưng
v́ ta hằng ngày vứt bỏ cơm thừa, họ bèn
thừa dịp ấy nuôi một con lợn. Như vậy
là có lỗi. Nếu có cơm thừa, chẳng một
mực để một chỗ nuôi lợn, có thể chia
ra cho chó ăn, há lẽ nào mắc phải điều
tiếng giúp kẻ khác giết chóc! Nếu khinh rẻ
ngũ cốc, sẽ bị tổn phước.
*
Hỏi: Có hai người họ Trương và Lư, trong quá
khứ là bạn rất thân thiết, đă sớm có ư
nguyện hiến thân v́ giáo pháp. Có lần, họ
Trương được Trụ Tŕ chùa nọ mời
đến giảng diễn Phật pháp. Khi ấy, nhân
sĩ nơi đó bận bịu kiếm sống, không
rảnh rang để tham cứu. Họ Trương bèn
thương lượng với vị Trụ Tŕ, hăy v́
chúng sanh, chiêu sinh miễn phí, nhằm thuận tiện
diễn thuyết Phật pháp, vị Trụ Tŕ chấp
thuận. Sau khi mở trường, học tṛ có
đến tám mươi mấy người. Họ
Trương chẳng thể đủ sức đảm
trách, bèn thương lượng với vị Trụ Tŕ,
mời ông Lư đến dạy giúp. Hai tháng sau, chiếu theo
lời nguyện, chẳng thâu tiền học, nhưng
vị Trụ Tŕ ḷng c̣n ham lợi, bảo ông Trương
và ông Lư phải thâu tiền học. Ông Trương và ông Lư
cự tuyệt. Trụ Tŕ bèn ép Trương và Lư phải ra
đi. Rốt cuộc vị Trụ Tŕ chẳng giữ
lời thệ nguyện, hay là ông Trương và ông Lư có ư
kiến thất kính đối với vị Trụ Tŕ? (Ông Minh Đạo hỏi)
Đáp:
Điều này thuộc về vấn đề thị phi,
nhân ngă, chẳng dính líu đến giáo lư, nên tôi tránh né,
chẳng đáp!
Hỏi:
Sau đấy, ông Trương và ông Lư phát hiện Trụ
Tŕ là người keo tham kiên cố, tăng chẳng ra
tăng, tục chẳng ra tục, nói lời ác khẩu,
thường đổi trắng thay đen, hành vi c̣n thua
kẻ tục gia, người xuất gia kiểu đó có
được coi là Tăng Bảo trong Tam Bảo hay không? (Ông Minh Đạo hỏi)
Đáp:
Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, ai nấy đều
biết; cư sĩ đă nói “chẳng tăng, chẳng
tục” rồi! Kẻ hèn này chưa biết rơ t́nh h́nh, làm
sao dám tùy tiện luận đoán.
*
Hỏi: Ông Lư phát hiện vị Trụ Tŕ quỷ kế
đa đoan, thường làm những chuyện trái
lẽ, bèn đối với ông Trương cáu kỉnh, nói
ông Trương chưa mở mắt. Có lúc hai ông
Trương và Lư căi cọ, thậm chí muốn ăn thua
đủ với nhau, chứ không phải hễ căi nhau xong
lại ḥa hảo như xưa. Do nhân duyên nào mà thành nông
nỗi nực cười đến thế? (Ông Minh Đạo hỏi)
Đáp:
Thiên Nhăn chưa khai, làm sao có thể nói được nhân
duyên trong đời trước? Nhưng hai người
ấy đời này công phu nhất định là không
tốt đẹp, cho nên mới chẳng thể nhẫn
nại. Đă sớm mang ư nguyện hiến thân cho Phật
giáo, nếu chẳng hối cải chuyện này, sợ
họ cũng chẳng thể đảm đương
chuyện lớn được!
*
Hỏi: Phật giáo sùng bái thuyết “toàn thể vũ trụ pháp giới thân bất sanh,
bất diệt, bất tăng, bất giảm”. V́
vậy, Hoạt Phật chuyển thế được
giáo lư Phật giáo chấp nhận. Hai chữ “chấp nhận” có mâu
thuẫn tồn tại trong ấy, hay là nói viên dung? (Trương Minh Thanh hỏi)
Đáp:
Pháp Thân bất động, tùy theo từng loài mà chuyển
thế là Ứng Thân. Pháp Thân giống như nước,
Ứng Thân giống như bọt sóng, hoặc các loại
sóng v.v... Tuy hiện các tướng như bọt nước
v.v... nhưng nước vẫn là bất sanh, bất
diệt, bất tăng, bất giảm. Lư ấy há có mâu
thuẫn ǵ?
*
Hỏi: Nếu có người vẽ h́nh tướng
Bồ Tát, tặng cho người tin tưởng và kẻ
chưa tin tưởng để thờ phụng, chính ḿnh
ngấm ngầm hồi hướng “vẽ h́nh Phật, nhằm kết thiện duyên,
nguyện sanh về cơi sen, lại nguyện kết duyên
với bậc đại đức để làm thầy
hóa độ lẫn nhau trong tương lai”. Bất
Huệ sợ trong tương lai mê mất bổn tánh nên
hồi hướng như thế, chẳng biết có
hợp lư hay không? Hay là vẫn c̣n mầm mống tham
dục trong đó? Xin hăy khai thị. (Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Hành vi ấy tuy chẳng trái Lư, nhưng rốt cuộc
vẫn là bỏ gốc chạy theo ngọn, chẳng trông
cậy và nương tựa bốn mươi tám
nguyện vương [của A Di Đà Phật], lại
ngược ngạo nương theo những kẻ khác
để [mong mỏi họ sẽ] làm thầy độ
ta, há chẳng phải là [trèo lên] cây cao, [ṃ xuống] hang sâu,
có những chỗ chẳng thể thực hiện
được ư?
*
Hỏi: Áo ca-sa dùng trong Tăng đoàn có ngũ y, thất y,
cửu y, nhập ngũ y (y năm điều, bảy
điều, chín điều, hai mươi lăm
điều) sai khác. Trong mấy loại này, loại nào
chỉ dành cho tỳ-kheo mặc? Lại nữa, y hai
mươi lăm điều ắt phải dành riêng cho
tỳ-kheo đă thọ Cụ Túc Giới đắp, hay là
sa-di chưa thọ Cụ Túc Giới cũng có thể
đắp? Tại gia cư sĩ trong khi làm Phật
sự, có thể đắp hay không? (Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Tại gia cư sĩ thọ măn phần Ngũ Giới
chỉ được phép đắp mạn y (y trơn,
không có điều), những loại khác đều dành cho
người xuất gia dùng.
*
Hỏi: Mạt học hiện đang ở tệ tự,
vào lễ Tắm Phật nhằm ngày Mười Chín tháng Ba
Âm Lịch (ngày tháng theo lệ ở nơi ấy), thấy
có tại gia cư sĩ cũng đắp y hai mươi
lăm điều làm chủ lễ, cùng các tỳ-kheo-ni làm
Phật sự. Vị cư sĩ ấy c̣n cắt tóc theo
kiểu Tây phương, xin luận định chuyện
này có hợp với quy củ nhà Phật hay không (Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Kẻ hèn này lê gót mấy chục tỉnh, thấy các
tượng trong miếu thờ Thổ Địa
đều là khăn vuông[7], khoác áo dài, chưa hề thấy
tượng thần Thổ Địa nào đội mũ
miện có tua, thêu thùa rực rỡ[8] như Ngọc Hoàng Đại
Đế. Chuẩn theo đó, dường như [cư
sĩ đắp y hai mươi lăm điều làm
chủ lễ] không thỏa đáng; nhưng vẫn xin
hỏi một vị tỳ-kheo xuất gia chuyên nghiên
cứu giới luật khác th́ mới có được
kiến giải xác đáng!
Hỏi:
Đối với chuyện thâu nhận đồ
đệ, người xuất gia chưa thọ Cụ Túc
Giới (tức Sa Di) cũng có thể thâu nhận
đồ chúng hay chăng? Người xuất gia nào
cũng có thể thâu nhận kẻ khác xuất gia, hay
chỉ hạn cuộc trong số những vị
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni đă thọ Cụ Túc Giới th́
mới có năng lực ấy?
(Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Kẻ hèn này là tại gia cận sự nam, chỉ biết
tầm chương trích cú, xem mấy quyển kinh, c̣n
đối với khuôn phép trong tùng lâm, chùa miếu v.v...
quả thật chẳng biết ǵ cả!
*
Hỏi: Đă là Phật giáo đồ tại gia hay
xuất gia mà làm chuyện cầu thần, coi bói, lại c̣n
hướng về thần minh cầu luyện đơn,
thảo dược, làm những hành vi mê tín ấy, có
phải là tà kiến hay không? Đối với đạo
nghiệp, có phương hại ǵ? (Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Mê tín tức là tà kiến. Do tà kiến có sâu hay cạn, nên
đạo nghiệp bị tổn hại lớn hay
nhỏ cũng chẳng thể biết trước
chắc chắn được!
*
Hỏi: Ni sư Đạt Không, trụ tŕ Cổ Nguyệt
Am ở Bắc Thế Nội Hồ tại Đài Bắc
đă viên tịch hơn một tháng
trước, có đệ tử quy y của Ngài mời
đồng cốt coi thử người mất đă
về Tây Phương hay chưa? Theo lời bà đồng
nói, ni sư đă ngồi xếp bằng trong hoa sen nơi
ao bảy báu, phải ngồi suốt bốn mươi
chín ngày mới ĺa liên hoa bảo tọa. Lạ thay!
Đối với Tây Phương Phật quốc, một
kẻ phàm phu làm sao có thể tùy tiện đến cơi
Phật như vậy. Chuyện như thế sợ
chỉ là một thứ vọng kiến, vọng ngôn, hay là
có chuyện này? Mong đại đức phá trừ hư
vọng! (Nhan Khoan Văn
hỏi)
Đáp:
Đồng cốt vô tri, lời lẽ yêu mị dối
gạt đại chúng, chỗ nào cũng có. Há rảnh
rỗi để hướng về bọn chúng luận
định hay dở!
*
Hỏi: Đối với lời giải đáp gồm ba
đoạn của đại đức dành cho cư
sĩ Hoàng Thiên Tống ở Đào Viên, câu cuối cùng trong
đoạn giải đáp thứ nhất là: “Nếu sát sanh chẳng phải
là tội ác th́ phóng sanh bèn là tội ác vậy”. Câu ấy
tợ hồ điên đảo diệu nghĩa, mong
đại đức hăy phân tích rành rẽ ḥng tháo gỡ
vướng mắc! (Nhan Khoan
Văn hỏi)
Đáp:
Sát sanh và phóng sanh tánh chất tương phản cùng
cực, thiện và ác cũng tương phản cùng
cực. Con người coi phóng sanh là thiện, sẽ cho sát
sanh là ác. Nếu thấy sát sanh là thiện, sẽ tự cho
phóng sanh là ác. Sự Lư hiển nhiên, chẳng có diệu
nghĩa ǵ cả!
*
Hỏi: Thế gian chẳng ĺa Phật pháp, Phật pháp
chẳng ĺa thế gian, nhưng đao binh, loạn lạc,
tà ác mỗi ngày một nặng hơn, đạo
đức ngày càng giảm sút, đủ mọi chuyện
chẳng chánh đáng. Phật pháp có thể tồn tại
trong tà ác hay chăng? (Nhan Khoan
Văn hỏi)
Đáp:
Bồ Đề là Phật pháp, phiền năo cũng là
Phật pháp, không có phiền năo làm sao có Bồ Đề;
không có Bồ Đề, làm sao hiển lộ phiền năo?
*
Hỏi: Ba năm trước, hội Phật Giáo phái pháp
sư Viên Minh sang Nhật Bản nghiên cứu, khảo sát.
Gần đây, báo chí đăng tin pháp sư Viên Minh hoàn
tục, chẳng biết có thật không hay là có
người báng bổ. Pháp sư Viên Minh chẳng hiểu
“phải thoát khỏi nhà lửa” th́ mới là đúng! (Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Kẻ hèn này chẳng hề trao đổi tin tức
với Nhật Bản, nhất loạt chẳng biết.
* Hỏi:
Lúc mới phát tâm học Phật, tôi có viết những tác
phẩm khuyến thiện liên quan đến Phật giáo
như nhân quả v.v... do học vấn sâu hay cạn,
sợ có chỗ hư cấu, chẳng thật, hoặc là
tự tiện đặt ra tên họ của những
người đóng vai chính và thời đại, cũng
như h́nh dáng của họ v.v... Có thể nói chuyện này
là tội vọng ngữ hay chăng? (Nhan Khoan Văn hỏi)
Đáp:
Nếu có chuyện ấy, hăy nên viết đúng theo sự
thật. Nếu là giả định th́ có thể coi
như phương tiện, chẳng bị câu thúc ǵ!
*
Hỏi: Học nhân làm thợ trên núi, thường xuyên phát
hiện rết, rắn độc, có nhiều đồng
nghiệp muốn đập chết, nhưng học nhân
đều thả chúng đi, có người nói: “Chẳng
đánh chết chúng nó, ngươi sẽ bị tội!” (Niếp Vân hỏi)
Đáp:
Lập trường mỗi người mỗi khác, cho nên
quan điểm khác biệt. Những người có ư
định như Tôn Thúc Ngao[9], coi con người là trọng, nên ḷng
nhân từ có phạm vi hẹp nhỏ. Cư sĩ vâng lănh
lời dạy của đức Thích Tôn, thấy chúng sanh
b́nh đẳng, nên phạm vi của ḷng nhân từ rộng
lớn. Đây là nói theo mặt Sự; nếu dùng Lư
để luận, đối với kẻ chưa tạo
tội, sẽ chẳng thể trừng phạt
được! Nếu cứ dựa theo năng lực có
thể gây hại cho con người để ghép tội
th́ tất cả nam tử trên cơi đời đều nên
đem thiến hết bởi họ có cơ quan ấy
sẽ có khả năng hành dâm!
*
Hỏi: Đề Bà Đạt Đa là phản đồ
của đức Phật, nhưng kinh Pháp Hoa có phẩm
Đề Bà Đạt Đa, [trong phẩm kinh ấy]
đức Phật coi ông ta là thiện tri thức, sẽ
được thành Phật, hiệu là Thiên Vương
Như Lai. Vị thiện tri thức Đề Bà
Đạt Đa [được nói trong kinh Pháp Hoa ấy]
có phải là phản đồ Đề Bà Đạt
Đa hay không? Hay là lúc đức Phật nói kinh Pháp Hoa,
Đề Bà Đạt Đa chưa có dấu vết
phản bội? Cớ sao diễn dịch tên những
vị tiên hiền một thiện, một ác lại có cùng
tên, trọn chẳng có thông tin ǵ để phân biệt? (Hoàng Bảo Thật hỏi)
Đáp:
Đề Bà Đạt Đa [được nhắc
tới] trong các kinh chỉ là một người. Kinh Pháp
Hoa chép về Bổn Sự, Ngài đă từng truyền cho
đức Thế Tôn kinh Pháp Hoa. Các kinh khác chép ông ta đă
nhiều lượt thị hiện dấu tích năo hại,
phản bội. Xét ra, ngài Đề Bà vốn là bậc
đại Bồ Tát quyền hiện, truyền dạy kinh
là thuận nhiếp, năo hại là nghịch chiết,
đều nhằm thành tựu cực quả cho
đức Thích Tôn, cho nên gọi là thiện tri thức.
* Hỏi: Nghe nói
hết thảy các loài hàm linh ngọ ngoạy đều có
Phật Tánh, ví như các loài trùng trong thân chúng ta đều
có Phật Tánh, há chẳng phải một thân toàn là
Phật? Tôi chẳng hiểu, xin hăy chỉ giáo! (Trương Khải Minh hỏi)
Đáp:
Chỉ có thể nói một thân toàn là Phật tử, do
[chúng nó] c̣n chưa tu, nên hiện thời chưa phải là
Phật, giống như vàng trong quặng cần phải
tinh luyện.
* Hỏi: Trong Thiền
Môn Nhật Tụng, nơi trang mười hai, những bài
tán gia đ́nh, Táo Quân, kho gạo, nhà kho, ruộng
vườn, vườn rau, kho hàng hóa v.v... do đâu mà có? (Trương Khải Minh hỏi)
Đáp:
Các bài tán do người đời sau soạn ra, bất quá
chẳng ngoài dụng ư ca tụng, khen ngợi. Luận theo
phía người làm kinh sám th́ rơ ràng là các bài tán hoa dạng vô
cùng. Nếu luận theo phía trai chủ th́ cốt sao náo
nhiệt, êm tai mà thôi!
*
Hỏi: Bỉ nhân có lúc v́ đạo hữu thỉnh
cầu mà tham gia siêu độ trong đám tang của kẻ
khác, tụng kinh sám, hoặc niệm Phật, nhưng lúc
muốn hồi hướng cho người đă khuất
th́ nên dùng loại văn hồi hướng nào? Xin hăy
chỉ dạy, có mấy thứ [văn hồi
hướng]? (Vương
Bỉnh Nhân hỏi)
Đáp:
Hồi hướng cho người đă khuất, một
bài “nguyện sanh Tây
Phương Tịnh Độ trung” là được
rồi. Nhưng cư sĩ trợ niệm siêu độ
đạo hữu, hoặc những người quen
biết, bạn bè th́ không ǵ là chẳng được; nếu
một mực làm kinh sám ngoài xă hội, sẽ tổn
đạo, tổn danh.
*
Hỏi: Sau khi niệm kinh hoặc niệm chú để
cầu tiêu tai giùm đạo hữu th́ nên dùng loại
văn hồi hướng nào? (Vương
Bỉnh Nhân hỏi)
Đáp:
Niệm bài kệ “nguyện
tiêu tam chướng chư phiền năo” là
được rồi.
*
Hỏi: Cư sĩ gặp tỳ-kheo-ni nên hành lễ
như thế nào? (Vương
Bỉnh Nhân hỏi)
Đáp:
Nói thông thường, cư sĩ thấy hai chúng xuất gia,
đều đảnh lễ. Để hợp nghi quy,
cần phải hỏi tường tận nơi các vị
chuyên gia về giới luật th́ mới có căn cứ.
Kẻ hèn này cho rằng tỳ-kheo-ni đă đắp y
năm điều, đó là tướng phước
điền, hăy nên hướng về họ đảnh
lễ, sẽ có ích cho ta.
*
Hỏi: Phật giáo chia thành mười tông. Trong đó,
Tịnh Độ Tông và Thiền Tông khá phổ biến.
Tịnh Độ Tông dạy người ta niệm
Phật ḥng đắc nhất tâm bất loạn, chứng
Phật quả. Lại c̣n nói niệm Phật có thể
được Phật, Bồ Tát gia hộ, nên dốc
hết tánh mạng quỳ lạy, lạy một chập
có thể tiêu tai, tiêu nghiệp chướng, nhưng so ra
Thiền Tông chẳng có một tí sắc thái mê tín nào!
Như trong kinh Lăng Nghiêm có câu: “Nhược dĩ sắc kiến ngă, dĩ âm thanh
cầu ngă, thị nhân hành tà đạo, bất năng
kiến Như Lai” (nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm
thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà,
chẳng thể thấy Như Lai). Đương nhiên,
đức Phật dạy đủ mọi phương
pháp (tức năm thời Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương
Đẳng, Bát Nhă, Pháp Hoa, Niết Bàn) đều là nói
về một chữ Tâm, tức là “Phật thuyết nhất thiết pháp, tức phi
nhất thiết pháp, thị danh nhất thiết pháp”
(đức Phật nói hết thảy các pháp chẳng
phải là hết thảy các pháp, nên gọi là hết
thảy các pháp), nhưng những ǵ đức Phật nói
đều là chân thật, cớ sao về một
phương diện, Ngài nói có Phật tồn tại,
đồng thời lại nói đừng nên mê tín? Rốt
cuộc là như thế nào, tôi chẳng ṃ được
đầu mối! (Tạ Bích
Ngọc hỏi)
Đáp:
Vọng niệm của chúng sanh giống như bệnh,
pháp môn của Phật Đà như thuốc. Lời
Phật nói có nguyên do, chẳng phải là mê tín. Nói Không
cũng chẳng phải là chân thật, do khế cơ mà
nói, trọn chẳng nhất định. Như loại
thuốc Nhiệt có thể trị bệnh Hàn, thuốc mát
có thể giải bệnh nóng, thuốc gây đi tả
để trừ chứng đầy chướng,
thuốc bổ để bù đắp hư nhược.
Lương y vận dụng [các vị thuốc khéo léo], tài
trị bệnh lẫy lừng. Gă thầy thuốc tầm thường,
chẳng hiểu y lư, cắt thuốc lung tung cho
người bệnh th́ thuốc có thể giết
người! Há có phải chỉ chẳng nắm
được đầu mối mà thôi!
*
Hỏi: Theo phẩm Quy Y Tam Bảo trong kinh Phật đă
giảng, quy y Tăng là quy y Đệ Nhất Nghĩa
Tăng, v́ sao những vị như pháp sư X.... nói là quy y
bọn họ, lại c̣n tự xưng là đại
diện cho Tăng đoàn. Họ là đệ tam nghĩa
Tăng, là những vị tăng c̣n đang tu hành chưa
chứng quả, làm sao có thể khiến cho chúng sanh quy y?
Đời này họ là pháp sư X.... th́ đời sau
vẫn là pháp sư X... ư? Về căn bản là
chẳng thể nào làm chỗ nương tựa cho chúng
sanh, họ có vi phạm giáo lư trong phẩm Quy Y Tam Bảo
hay chăng? (Tạ Bích Ngọc
hỏi)
Đáp:
Tăng đoàn là nói về Sự, chính là vấn đề
thuộc về chế độ nghi thức, Đệ
Nhất Nghĩa Tăng là nói về Lư, là vấn đề
thuộc về tu tŕ tâm tánh; hai đằng chẳng thể phế bỏ một bên nào!
Không có Sự sẽ chẳng hợp nghi quy, không có Lư sẽ
là chỉ có bề ngoài; [do vậy] hăy nên đối với
chuyện nhập môn th́ tuân theo nghi thức, c̣n tu tŕ th́
nương theo tâm tánh. Nói “quy
y” là quy y mười phương Tam Bảo, trọn
chẳng phải là đệ tử của riêng một
người nào! Một người nào đó tuy có luân
hồi, nhưng Tam Bảo thường trụ. Nếu
đối với một người nào đó, tâm
chẳng hoan hỷ, hăy nên t́m người khác có thể
đại diện Tăng đoàn để xin quy y, cũng
chưa hề chẳng được! Chớ nên v́
nghẹn mà bỏ luôn không ăn!
*
Hỏi: Kinh Khởi Thế[10], quyển mười, chép: “Chư tỳ-kheo! Thử
đại châu trung, hữu Diêm Phù thụ, nhân thử
thụ cố, danh Diêm Phù Châu. Kỳ thụ cao đại,
ảnh hiện nguyệt luân, dĩ thử nhân duyên, hữu
chư ảnh hiện” (Này các tỳ-kheo! Trong đại
châu này có cây Diêm Phù, do có cây ấy nên gọi là châu Diêm Phù.
Cây ấy cao lớn, hiện bóng trong mặt trăng. Do nhân
duyên đó, [mặt trăng] có các thứ hiện bóng);
nhưng Đại Đường Tây Vực Kư (bản in
của Đài Loan Ấn Kinh Xứ), trang chín mươi sáu
ghi: “Thố viết: ‘Cảm
dĩ vi cung, sung thử nhất thực’. Từ tất
nhập hỏa, tầm tức trí tử, nguyệt trung chi
thố, tự tư nhi hữu” (Con thỏ nói: “Dám
đem cái thân nhỏ nhoi này làm bữa đỡ ḷng”, nói
xong, nhảy vào lửa, liền bị chết ngay. Từ
đó mới có con thỏ trong mặt trăng) (đây là
chuyện thỏ (tiền thân của Phật Thích Ca) dùng
thân để cúng dường Đế Thích hóa làm
người [nghèo đó đến thử ḷng thỏ]). Hai
thuyết giải thích những vệt đen trắng trong
mặt trăng trên đây, rốt cuộc thuyết nào là
đúng? (Chân Tàm Quư hỏi)
Đáp:
Kinh nói về cây, Kư nói về thỏ, vốn là hai
chuyện, như trong một sân, có bóng hoa mà cũng có bóng
trúc, nói tới hoa hay nói tới trúc, là nói riêng một
thứ, chẳng phải là nói tới hoa, chẳng cho phép
nói tới trúc, nói tới trúc chẳng được phép
nói tới hoa. Nếu nói thuyết nào là đúng, ắt nên
tuân theo kinh, bởi lẽ Kư đă ghi rơ ràng: “Cố bỉ cảm ngôn nguyệt trung chi thố”
(V́ thế, họ dám nói đến con thỏ trong mặt
trăng), chữ Bỉ chỉ người dân nước
Ba La Ni Tư (Baranasi, Varanasi, Benares), bất quá là lời
truyền tụng mà thôi, cũng giống như ở Trung
Quốc thường truyền tụng trong mặt trăng
có Thường Nga[11]. C̣n như đọc kinh th́ cũng
phải nên biết các cách nói tùy thuận quyền hay
thật th́ mới chẳng hiểu lầm ư nghĩa.
* Hỏi: Những
kẻ như Đề Bà Đạt Đa, tỳ-kheo Cù Già
Lê[12], Chiến Giá Bà-la-môn nữ[13]... do hại Phật, báng Phật mà
đọa địa ngục ngay trong khi c̣n sống (theo
Đại Đường Tây Vực Kư, trang bảy
mươi chín); nhưng bọn ma vương, quyến
thuộc ma v.v... cũng là chúng sanh trong tam giới, v́ cớ
ǵ họ nhiễu loạn Phật, ganh ghét Phật, đe
dọa Phật, mà rốt cuộc vẫn an nhiên chẳng
bị hăm trong địa ngục? (Chân Tàm Quư hỏi)
Đáp:
Ba Tuần nhiễu loạn trước khi đức Thích
Tôn thành Chánh Giác, nên có thể coi như nhiễu loạn
Bồ Tát. Đạt Đa hăm hại sau khi đức Thích
Tôn đă thành Chánh Giác, đó là sát Phật, [so ra hai tội
ấy] thuộc loại nặng nhẹ khác nhau. Lại
nữa, đối với nhân quả, phải nên luận
ba đời sớm hay trễ, tiêu trừ, tăng
trưởng, nhân, chia, Sự Lư hết sức phức
tạp, chẳng thể chấp một bề
được!
*
Hỏi: Khi ngài Đại Ca Diếp[14] đến quy y đức Thích Tôn,
cũng đă từng để đức Phật ngủ
trong hang đá có rồng độc, chuyện ấy
cũng chẳng khác ǵ hại Phật, cớ sao cũng
chẳng hề bị hăm trong địa ngục? (Chân Tàm Quư hỏi)
Đáp:
Trong lúc ấy, ngài Đại Ca Diếp đă nói
trước: “Trong hang có rồng độc”, tức là không
cố ư hăm hại, chẳng giống kẻ ôm ḷng hăm
hại.
*
Hỏi: Đức Phật lại chế định có
thể ăn tam tịnh nhục, tức là “không thấy
giết, chẳng nghe nó bị giết, chẳng v́ ta mà
giết”; nhưng tệ xá ở gần ḷ mổ, mỗi
sáng nghe tiếng lợn rú thê thảm, mà chỗ tôi ở
lại ăn uống tập thể, không thể tránh
được đồ mặn tanh hôi, không biết
đấy có phải là loại thịt nghe giết hay
chăng? (Nhan Văn Bộc
hỏi)
Đáp:
Nghe tiếng ai oán nơi ấy, chẳng ăn thịt
của nó th́ là tâm đại từ bi. Nghe tiếng ai oán
nơi ấy, mà ăn thịt từ nơi khác th́ cũng
tạm chấp nhận được. Nghe tiếng ai oán
nơi ấy, mà vẫn ăn thịt từ nơi ấy
th́ thịt đó là bất tịnh.
*
Hỏi: Đối với công đức đọc kinh,
trong kinh Kim Cang có kinh văn nói rơ ràng, nhưng kinh Di Đà,
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, Tâm Kinh v.v...
chỉ nói tới lợi ích do tŕ danh và tŕ thần chú,
trọn chẳng nói tới chuyện đọc kinh,
vậy th́ người hiện thời mỗi ngày
đọc những kinh ấy là do dựa vào đâu? (Triệu Trạch Vũ hỏi)
Đáp:
Thọ tŕ kinh có đọc, tụng, biên chép, giảng
giải, tu tŕ, các thứ sai khác, chớ nên câu nệ
một phương diện. Nếu cứ chấp
trước phải đọc tụng th́ cũng không
hề chẳng được! Di Đà, phẩm Phổ
Môn, Tâm Kinh v.v... cũng đều nói tới công đức
tŕ tụng, sao lại bảo là [những kinh ấy]
chẳng nói? “Văn thị
kinh, thọ tŕ giả, cập văn chư Phật danh
giả, giai vi nhất thiết chư Phật chi sở
hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (kẻ
nghe kinh này, thọ tŕ và nghe danh hiệu chư Phật
đều được hết thảy chư Phật
hộ niệm, đều được chẳng lui
sụt nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác) là
khen ngợi công đức tŕ kinh Di Đà. “Nhược hữu nhân thọ tŕ lục thập
nhị ức Hằng hà sa Bồ Tát danh tự...
Nhược phục hữu nhân thọ tŕ Quán Thế Âm
Bồ Tát danh hiệu, năi chí nhất thời lễ bái, cúng
dường. Thị nhị nhân phước chánh
đẳng vô dị, ư bách thiên vạn ức kiếp,
bất khả cùng tận” (Nếu lại có
người thọ tŕ danh tự của sáu mươi hai
ức Hằng hà sa Bồ Tát... Nếu lại có
người thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát,
cho đến lễ bái, cúng dường trong chốc lát,
th́ phước của hai người ấy giống
hệt như nhau, chẳng khác, trong trăm ngàn vạn
ức kiếp chẳng thể cùng tận). Đó là khen
ngợi công đức tŕ thánh hiệu Phổ Môn. “Năng trừ nhất thiết
khổ, chân thật bất hư” (Có thể trừ
hết thảy khổ, chân thật, chẳng dối) là tán
thán công đức tŕ Tâm Kinh Bát Nhă. Do những điều
đă nêu trên đây, kinh văn đă nói rơ rành rành, cớ sao
bảo là chẳng nói?
*
Hỏi: Ngữ âm các nơi bất đồng (như
những chữ A, chữ Phật v.v...), hoặc dịch
tên mỗi chỗ mỗi khác (như Quán Thế Âm, Quán
Tự Tại v.v...), nếu chúng sanh tŕ niệm khác nhau mà
đều có thể đạt được cảm
ứng, th́ cái quả của tŕ danh là do tâm chứ không do
danh! Lại nữa, thánh hiệu Phật, Bồ Tát có các
cách dịch âm hoặc dịch nghĩa đủ mọi
thứ sai khác, nhưng đều có thể cảm ứng;
điều này do đức Phật dạy, hay là do
người đời sau đặt ra, lấy ǵ làm
chứng cứ? (Triệu
Trạch Vũ hỏi)
Đáp:
Tuy nói là tại tâm, chẳng do tại danh, nhưng phải
nhờ vào ḷng tin nơi danh hiệu th́ mới có thể
chuyển biến cái tâm. Càng phải nên biết thần
thông và năng lực của Phật chẳng giống
như chúng ta. Phật có thể dùng một âm thanh
để thuyết pháp, khiến cho vô lượng loài chúng
sanh ngôn ngữ bất đồng đều có thể
hiểu. Đức Phật nghe ngôn ngữ bất
đồng của vô lượng loài, cũng đều
hiểu rơ. Niệm kinh, tŕ danh, chỉ trọng tín tâm,
nương vào tiếng trong tâm, sẽ có thể cảm
ứng. Nếu cứ cầu âm thanh phải đích xác,
không chỉ ngoài trăm dặm đă có khác biệt, dẫu
ở trong cùng một khu, từ xưa tới nay cũng
chẳng biết đă chuyển biến mấy trăm hay
mấy ngàn lượt! Đối với vấn
đề này, nếu v́ ḷng kính trọng mà dấy lên
[chuyện cầu âm đọc đích xác], hăy nên cầu
hỏi nơi người có thật học nơi kinh
Phật, ḥng được người ấy đích thân
khẩu truyền, rồi nương theo đó để
tụng niệm th́ hơn!
*
Hỏi: Xưa kia, Phật, Tổ do căn cơ của con
người mà thí giáo, cho nên Ngài dễ dẫn dắt
đệ tử nhập đạo, chúng sanh trong
đời nay làm thế nào để có thể liễu
ngộ tánh t́nh của chính ḿnh gần gũi với pháp nào?
Nếu chẳng khế cơ sẽ khó nhập đạo,
đúng không? (Triệu Trạch
Vũ hỏi)
Đáp:
Đây là do người thí giáo có thể quan sát căn khí của
chúng sanh, do [thuận theo] căn cơ mà thuyết pháp,
chẳng phải là chúng sanh tự biết chính ḿnh khế
hợp pháp môn nào mà tự chọn lựa pháp môn. Nhưng
nếu chúng sanh hiểu được đường
lối của các pháp môn, cũng có một pháp môn phù hợp
tâm lư [của người ấy], lúc đó, cũng có
thể tự chọn lựa!
*
Hỏi: Có năm loại người được
gọi là “Phật khó thể độ”, huống hồ
Bồ Tát? Trong ấy có một loại là hành giả
hứng chịu quả báo bần cùng, chưa thể
tạo lợi ích cho chúng sanh, mà c̣n ngược lại! V́
sao Tài Bố Thí nghiêm trọng như thế? Nó có thể
chướng ngại Niết Bàn đến nỗi như
vậy, Pháp Bố Thí chẳng thể thay thế ư? Hay
là do keo kiệt, tham lam khó thể đoạn diệt? Lư do
ở chỗ nào? (La Đức
Chương hỏi)
Đáp: Có của
cải mà chẳng bố thí th́ mới gọi là keo
kiệt. Keo kiệt là phiền năo, tự chướng
Niết Bàn. Nếu thật sự nghèo nàn, thiếu
thốn, chẳng có của cải để bố thí,
chẳng phải là tánh keo kiệt th́ trọn chẳng
nẩy sanh lầm lỗi. Pháp Bố Thí được
gọi là tối thượng trong các pháp, nếu chịu
tinh tấn, siêng năng, công đức sẽ to lớn.
Kinh đă dạy ư nghĩa: “Bố thí bảy báu trọn
khắp tam thiên đại thiên thế giới vẫn
chẳng bằng nói một bài kệ”, há c̣n có thể coi
rẻ Pháp Thí ư?
* Hỏi: Nếu nhân
loại trên thế giới, ai nấy đều tu hành thành
đạo, sau này thế giới sẽ giống như
thế nào? Có phải là như thánh giáo nói, [thế giới
Sa Bà] sẽ biến thành Cực Lạc hay chăng? (Đàm Hồng Bân hỏi)
Đáp:
Lời hỏi của cư sĩ bất quá là giả
thiết nói như vậy mà thôi, thuộc loại hỏi
chơi, đáp chơi! Cần biết rằng: Vạn pháp
do tâm tạo, nếu chúng sanh trên cả thế giới
đều chứng Phật đạo, cơi này chính là cơi
Phật thanh tịnh, nhưng vẫn khác cơi
Cực Lạc. Bởi lẽ, cơi ấy do Phật Di Đà
khi tu nhân đă phát ra bốn mươi tám hoằng
nguyện tạo thành, đủ mọi thứ thù thắng
đều ứng hợp với lời nguyện. Nếu
nguyện của mọi người tu trong cơi này
hợp với nguyện Di Đà th́ cũng có thể
hiển hiện giống như Tây Phương.
* Hỏi: Học tṛ
vốn mang ḷng từ bi phương tiện để
xử thế, nghĩ sẽ được người
đời hoan nghênh. Nếu gặp một số ít chẳng
rộng dung, chê bai là từ bi giả dối th́ nên giữ
thái độ đối đăi như thế nào? (Đàm Hồng Bân hỏi)
Đáp:
Người đời chê cười, từ xưa
đến nay chẳng thể tránh khỏi, ai nấy hành
theo điều ḿnh cho là đúng, đừng màng tới
họ!
*
Hỏi: Ngẫu Ích đại sư nói: “Pháp sư thị vương bát, luật sư
thị ô quy” (pháp sư là ba ba, luật sư là rùa
đen)[15], có phải là tạo khẩu nghiệp
hay chăng? Hay là có dụng ư? Ngài lại nói: “Y văn giải nghĩa, tam
thế Phật oan. Ly kinh nhất cú, tức đồng ma
thuyết” (Hiểu nghĩa theo văn tự, ba
đời chư Phật oan uổng. Ĺa khỏi kinh
một câu, sẽ giống như ma nói), vậy th́ giảng
kinh như thế nào mới là đúng? (Thí Vô Úy hỏi)
Đáp:
Theo như kẻ hèn này biết th́ Ngài nói pháp sư và
thiện tri thức, chẳng phải là pháp sư và
luật sư, hay là cư sĩ xem ấn bản khác ư?
Nhưng đối với mục vấn đáp này, từ
đầu đă thưa rơ: Nếu hỏi tới sách
vở th́ phải chỉ rơ phát xuất từ tác phẩm
nào, đoạn nào, bởi sách vở thế gian và xuất
thế gian mênh mang như hơi khói trên mặt biển,
chẳng chỉ rơ, sẽ không biết phải thưa
thốt từ chỗ nào! Nay tôi dùng những điều
ḿnh biết để thưa. Khi tổ sư nói lời
ấy, chính là đáp lời hỏi của người
cậu, chú trọng ở một câu “chỉ cần khôi phục bổn lai diện
mục”, câu nói [được ông dẫn ra trong lời
hỏi] trên đây nhằm quét sạch những
phường ham danh chuộng lợi trong thế gian mà
thốt ra lời thống thiết ấy. Nếu “y văn giải nghĩa”
sẽ giống như mua rương trả châu[16], “ly kinh
nhất tự” là chẳng tuân theo thánh giáo, nên
đều là sai lầm. Cư sĩ đă nói là
người mới tin, đối với giáo tướng
vẫn chưa thể hiểu rơ, đối với
chuyện giảng kinh xin hăy đợi sau này, “giảng kinh như thế nào
mới đúng” xin dành lại để sau này thảo
luận cũng chẳng muộn!
*
Hỏi: Tôi có một đồng nghiệp là tín đồ
Phật giáo, đọc sách Phật rất nhiều. Ông ta
nói: “Đức Phật tu đạo dưới một
vách đá, con trai của chú đức Phật, tức là em
họ của Phật, dẫn năm trăm tên lính đến
giết Phật, t́m kiếm Phật dưới vách đá,
thấy trên đầu đức Phật chim làm tổ
mấy tầng, em họ Ngài bèn quy y Phật, năm trăm
tên lính ấy trở thành những người truyền
giáo căn bản”. (Trương
Vi Thụ hỏi).
Đáp:
Đức Phật đă tu hành từ nhiều kiếp
trước, có chuyện chim làm tổ trên đầu, c̣n
những chuyện khác [được nhắc tới trong
lời hỏi] đều là sai lầm, rối lung tung xèng,
chẳng cần phải bàn luận nữa!
*
Hỏi: V́ sao A La Hán chẳng thể tới mười
phương thế giới lợi ích quần sanh? Là do tâm
vị ấy chẳng nguyện, hay do chẳng đủ
sức? (Lư Minh Dương
hỏi)
Đáp:
Định tánh Thanh Văn ưa thích Niết Bàn, chán sanh
tử, nên chẳng nguyện [độ sanh]. Chưa phá
Trần Sa, sở học hạn cuộc, thiên lệch,
nhỏ nhoi, và cũng do chẳng đủ sức.
*
Hỏi: Trong đời quá khứ, Đề Bà Đạt
Đa từng làm thầy đức Phật (theo kinh Pháp
Hoa). Cớ sao đời này lại ngược ngạo
trở thành đệ tử Phật (theo kinh Nhân Duyên).
Lại c̣n chuyên muốn hại Phật, chẳng khác kẻ
thù, [điều này] chẳng hợp nhân quả! Nguyên do là
đâu? (Triệu Đàm Thuyên
hỏi)
Đáp:
Thường nghe hạnh chứng được chia thành
năm loại. Một là Thánh Hạnh, tức hạnh
của Nhị Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác. Hai là Phạm
Hạnh, là hạnh của Đại Thừa Bồ Tát. Ba
là Đệ Nhất Nghĩa Hạnh là hạnh của
Phật Thừa. Bốn là Anh Nhi Hạnh, đă chứng
Phật quả, là hạnh nương theo nguyện thả
chiếc bè Từ, ứng hiện đến. Năm là
Bệnh Hạnh, hành hạnh “hiện thân làm ác” để
nêu bày khổ báo. Hai hạnh sau cùng đều thuộc về
đại từ đại bi thiện xảo độ
chúng, phương tiện làm như vậy. Đức
Thế Tôn đến cơi này, thị hiện Anh Nhi Hạnh,
c̣n những việc Đề Bà Đạt Đa đă làm
nhằm thị hiện Bệnh Hạnh.
*
Hỏi: Đạo nào gọi là ngoại đạo?
Thường nghe người giảng kinh nói những pháp
do ngoại đạo tu nhọc nhằn vô ích. Ngoại
đạo cũng tụng kinh, lạy thần, làm những
việc thiện, có ǵ khác chúng ta đâu? (Diệp Liễu hỏi)
Đáp:
Ngoại đạo là giáo ở ngoài Phật giáo, Phật
pháp thấu hiểu chân tâm sâu xa, nên gọi là “nội
đạo”. Bọn họ chẳng hiểu tâm pháp, nên
gọi là “ngoại đạo”. Các kinh đọc tụng
bởi ngoại đạo Lư nông cạn, hời hợt,
phần nhiều hiểu sai chân tướng vạn pháp, là
những lời lẽ chẳng liễu nghĩa! Họ
thờ phụng các vị thần luân chuyển trong sáu
đường, là phàm phu sanh tử chưa kiến
đạo. Những điều lành họ làm đều
thuộc hữu lậu thiện, chẳng phải là chân
thuần. Kết quả là nếu đi theo
đường chánh, chẳng qua là phước báo nhân
thiên, chẳng liễu sanh tử; nếu theo
đường tà, ắt chịu báo trong ba
đường ác, khổ ách vô cùng, nên nói là “nhọc
nhằn vô ích”. Ở trong nhà Phật chẳng giống
những điều như vừa nói trên đây, suy nghĩ
cặn kẽ, sẽ có thể liễu giải vậy!
*
Hỏi: Trong nội địa Trung Hoa có chùa Thiếu Lâm,
trong chùa tự nhiên thờ phụng Phật, Bồ Tát
đại từ đại bi; v́ sao trong chùa lập vơ quán,
dạy luyện quyền thuật, kiếm thuật, danh
chấn thiên hạ. Nếu luận theo [sự kiện],
Phật, Bồ Tát dạy về từ bi, nhưng lại
dạy đánh người khác, trong kinh Phật có
chuyện ấy hay không? Đúng là khiến cho người
ta khó hiểu! (Vương
Phương hỏi)
Đáp:
Trong kinh Phật, trọn chẳng có lời nào dạy
người khác luyện vơ! Nếu có thần thông, vơ
thuật cũng thành vô dụng. Tuy chẳng có kinh văn nói
về chuyện ấy, nhưng nhà Phật thật sự
văn lẫn vơ đều siêu quần. Phật môn
chẳng bỏ một pháp, nên cũng không nhất thiết
bác bỏ [vơ thuật]. Xét ra người tập vơ
thuật, ắt tự có thân thể khỏe mạnh,
nội công sử dụng hai pháp Dịch Cân và Tẩy
Tủy. Sách ấy có tựa đề là Dịch Cân Kinh và
Tẩy Tủy Kinh, tương truyền do Đạt Ma
tổ sư trước tác. Tổ sư từng ngồi
nh́n vào vách chín năm tại Thiếu Lâm. Có lẽ tăng
chúng trong chùa ban đầu tập môn ấy để
trừ bệnh tật, chẳng phải để đánh
ai khác. Lại nói: Bồ Tát độ chúng sanh, lợi hành,
đồng sự, nhiều môn phương tiện,
chỗ vui chơi, cờ bạc, kỹ viện, quán
rượu, c̣n đặt chân đến. Quyền xảo
nhiếp hóa, huống hồ người luyện vơ
thuật, tánh t́nh phần nhiều nghĩa hiệp, nhờ
vào hạnh Đồng Sự ấy để nhiếp hóa
chính là b́nh đẳng từ bi.
* Hỏi: “Tứ Đại độc xà,
Ngũ Ấm oán tặc, Lục Nhập không tụ”
(Tứ Đại là rắn độc, Ngũ Ấm là oán
tặc, Lục Nhập là xóm rỗng không). Tứ
Đại và Ngũ Ấm đều thuộc về
tự thân, chẳng phải từ bên ngoài đến, v́ sao
gọi là rắn độc, oán tặc; Lục Nhập
đă là Không, Không th́ làm sao có tụ tập được?
(Cố Phượng Anh
hỏi)
Đáp:
Thân vốn là huyễn hóa, trọn chẳng phải tự
có. Tứ Đại tưng bừng tranh chấp, chẳng
hề ḥa hợp, giống như rắn độc. Ngũ
Ấm lừng lẫy, cướp đoạt các công
đức, giống như oán tặc. Bốn con rắn
tranh chấp tưng bừng, thân sẽ bị bệnh.
Năm tên giặc hung hăng, ngang ngược, ắt tâm mê
lầm. V́ thế, trước khi sanh ra, sau khi chết
đi đều là cảnh khổ, bị rắn và
giặc ấy làm hại. Thân vốn chẳng có, có thể
nói là Không Thân (thân trống rỗng). Căn cũng chẳng
thật, có thể nói là Không Căn; nhưng Căn có huyễn
tướng, nên có thể nói là Tụ.
*
Hỏi: Bác gái tôi tuổi gần bảy mươi,
thường dùng hiền hiếu để duy tŕ nếp
nhà, xóm giềng già trẻ không ai chẳng đồng thanh
ca ngợi. Nhất là lúc tôi từ thuở ẵm ngửa
cho đến nay, được bác gái thương yêu
chăm nom từng ly từng tí, coi như con đẻ, ân
đức giống như mặt trời, mặt trăng,
bác gái cũng như mẹ tôi. Tôi tuy ngu, cũng chẳng dám
có ngày nào quên lăng đôi chút. Do tôi vẫn c̣n trẻ, tốt
nghiệp Trung Học chưa lâu, vào đời chưa sâu,
trừ mỗi lúc đến thăm hỏi bác gái ra, ngoài
chuyện biếu tặng quà cáp nhằm bày tỏ tấc
ḷng, chẳng biết báo ân muôn một ra sao? Tôi vẫn
sợ chính ḿnh chết non, chịu ân mà chẳng báo
đền được, ắt sẽ ngậm nỗi
thẹn thùng nơi chín suối. Sáng tối nghĩ
đến, tinh thần chẳng khỏi ủ ê, tôi
nguyện dốc ḷng báo đền, kính xin lăo cư sĩ
ban lời chỉ dạy th́ may mắn lắm thay! (Lữ Tiểu Ngu hỏi)
Đáp:
Mang ḷng báo ân, hết sức tốt lành! Chỉ có
điều báo đáp lớn nhỏ khác biệt. Biếu
xén mùa nào thức nấy là báo ân nhỏ nhặt, chẳng
qua chỉ khiến cho [người được biếu]
tinh thần vui vẻ mà thôi! Lệnh bá mẫu tuổi
đă bảy mươi, trong tương lai hết
tuổi thọ, sẽ đi về đâu là một vấn
đề lớn! Kẻ thật sự biết báo ân
sẽ dùng điều to lớn để báo đáp,
tức là dùng Phật pháp để dạy, dự bị
cho người ấy văng sanh Cực Lạc, chứng thành Phật
quả, bất sanh, bất diệt. Có thể nói [cách báo ân
ấy] là triệt để nhất! Không chỉ như
vậy, dạy người khác niệm Phật cũng
tăng trưởng công đức của chính ḿnh;
đấy là tự lợi, lợi tha. C̣n như ông nói
sợ sẽ chết non, là dựa vào đâu mà nói?
Chuyện ấy chớ nên chấp tướng, chỉ
cần dốc hết sức làm lành th́ không điều ǵ
chẳng xui xẻo, trắc trở hóa thành hanh thông vậy!
*
Hỏi: Phật môn thường xưng niệm thánh
hiệu “Nam-mô Tam Châu Cảm
Ứng Hộ Pháp Vi Đà Thiên Tôn Bồ Tát”. V́ sao Hộ
Pháp Vi Đà Thiên Tôn Bồ Tát chỉ cảm ứng ba châu
Đông, Tây, Nam, chẳng cảm ứng trong Bắc Câu Lô
Châu? Lại nữa, vị thánh hiền [nào sẽ cảm
ứng] ở Bắc Câu Lô Châu? Chúng sanh trong cơi ấy tu
hạnh ǵ mà đến nỗi sức của Vi Đà
Bồ Tát chẳng thể cảm hóa nơi ấy
được? (Lư Thâm hỏi)
Đáp:
Bắc Câu Lô Châu đầy đủ trăm phước,
nghĩ đến áo bèn có áo, nghĩ ăn bèn có ăn,
hết thảy hưởng lạc, chẳng có ǵ chẳng
vừa ư, nên chẳng biết nỗi khổ trong thế
gian, chẳng biết niềm vui Niết Bàn, ch́m đắm
trong vui sướng tràn ngập, chẳng biết cầu
giác ngộ. V́ thế, Phật pháp không có cách nào giáo hóa
được, rốt cuộc họ sẽ bị
đọa lạc. Kinh răn dạy: Sanh vào châu ấy chính
là gặp nạn, giống như mù, ḷa, câm, ngọng,
[hoặc sanh trong các đường] súc sanh, ngạ
quỷ, địa ngục, đều chẳng thể nghe
Phật pháp ḥng được giải thoát. Điều
ấy chẳng có ǵ là lạ! Hăy nh́n vào Nam Thiệm Bộ
Châu, phàm những kẻ hưởng phú quư, chẳng
phải lo lắng vật chất, có mấy kẻ nghĩ
đến chuyện cầu giải thoát; đó gọi là “kẻ phú quư khó học
đạo”. Ngũ Dục là cội rễ địa
ngục. Ôi! Đáng thương, đáng xót lắm thay!
* Hỏi: Thuở
Phật tại thế, tám ngàn con cá nghe danh hiệu Phật
Thích Ca đều hóa thành thiên tử, đó là chuyện
thật ư? Chép trong kinh nào? (Vương
Kim Đà hỏi)
Đáp: Đối
với lời ông hỏi, chỉ cần chép trong kinh
Phật th́ là chuyện thật, lời Phật chẳng
dối, cần ǵ phải sanh nghi?[17]
Hỏi: Trong Phật
pháp, đối với hàng cư sĩ tại gia, có
điều luật nào quy định rơ rệt: Chỉ
được phép quy y một vị pháp sư? (Trương Quốc Tuyển
hỏi)
Đáp:
Quy y một thầy hay nhiều thầy, trọn chẳng
có văn bản quy định rơ ràng; nhưng xét theo ư
nghĩa quy y Tam Bảo th́ [quy y Tam Bảo] là [quy y]
mười phương ba đời hết thảy
chư Phật, Tam Tạng mười hai bộ hết
thảy các pháp, và hết thảy các vị tăng chẳng
hạn cuộc không gian và thời gian. Do vậy, quy y
một pháp sư chính là quy y các vị pháp sư, thật
sự chẳng phải là quyến thuộc của riêng
một người nào. Bất quá theo tập tục
hiện nay, kính ngưỡng đạo đức, học
vấn của một vị pháp sư nào đó, muốn
thân cận [bèn xin quy y]. Lại có thuyết “kết duyên quy
y”, và cũng có trường hợp chẳng quy y, mà bái
vị ấy làm nghiệp sư. Những điều nêu
trong phần trước là nguyên tắc quy y, những
điều nói trong phần sau chính là tùy thuận nhằm
thông đạt quyền biến!
*
Hỏi: Đức Phật lúc tám mươi tuổi lên
trời Đao Lợi giảng kinh Địa Tạng,
[nội dung kinh ấy] thảy đều nói đến
chuyện lạy Địa Tạng Bồ Tát, niệm kinh
Địa Tạng ḥng thoát ĺa nỗi khổ trong tam ác
đạo, sanh vào nhân đạo, thiên đạo. Nhân thiên
há chẳng phải là tiểu quả, lại luân hồi
đầu thai, v́ sao khi ấy ở thiên cung, đức
Phật chẳng trực tiếp giới thiệu với
đại chúng pháp môn Tịnh Độ th́ mới là
rốt ráo? (Châu Ấu hỏi)
Đáp:
Thuyết pháp quư ở chỗ khế cơ. Pháp môn Tịnh
Độ nhằm tiếp dẫn từ chỗ ĺa khổ
được vui. Thử xét những kẻ phú quư trong nhân
gian [nghe giảng pháp môn Tịnh Độ] c̣n chẳng nghe
lọt tai, chẳng cảm thấy có khổ, huống
hồ cơi trời quá sung sướng, làm sao có thể tin
tưởng ngay cho được? Kinh dạy “thân người khó
được”, khá nên
suy nghĩ sâu xa vậy!
*
Hỏi: Tôi thấy tập san Bồ Đề Thụ
số ra ngày mồng Tám tháng Hai năm Dân Quốc 48 (1959),
nơi trang mười có chữ ()[18], đó là chữ ǵ vậy? Trang báo
ấy nói chữ đó thuộc về ngoại đạo,
xin hăy giảng nó thuộc loại ngoại đạo nào?
Phái ngoại đạo nào dùng chữ ấy? Dùng nó
để biểu thị điều ǵ? Tiên Thiên
Đạo có phải là Nho giáo hay không? Sách Nho giáo có ghi chép
hay không? Chép trong sách nào? Người đầu tiên sáng
lập Tiên Thiên Đạo là vị nào? Tên là ǵ? Sáng lập
như thế nào? Bắt đầu vào thời nào? Bắt
đầu vào năm, tháng, ngày nào? Tôi hết sức
muốn biết. Trước đây, tôi đă nghe lời
giảng qua máy thâu âm, trong cuốn hạ bộ Tam Bảo
Thái Giám, truyện Tây Dương có nói trưởng lăo Kim Tư
và Hỏa Mẫu Thần đấu pháp. Hỏa Mẫu
Thần sang Lê Sơn, thỉnh Lăo Mẫu xuống giúp.
Vị Lăo Mẫu ấy là đàn ông hay đàn bà? Có phải
là vị khai sáng Tiên Thiên Đạo hay không? Lại có
vị gọi là Diêu Tŕ Kim Mẫu[19], có phải là vị Lăo Mẫu đó hay
chăng? Hay là có một vị Lăo Mẫu khác nữa? (Lâm Tú Diễm ở Nam
Dương hỏi)
Đáp:
Đối với lời Ngài hỏi, phải tách ra
để đáp.
1. Chữ
() là phù hiệu bí mật do tà giáo tự tạo ra, chỉ
có bọn họ biết. Cư sĩ Phương Luân
từng thử giải thích, chẳng biết họ có nói
như thế hay không, cũng chẳng nhất định;
nhưng đó là chuyện vô giá trị, chẳng đáng
để quan tâm tới!
2.
Đối với câu hỏi “sách Nho giáo có chép về Tiên
Thiên Đạo hay không?” Nho giáo tôn sùng Khổng Tử, Ngài
là bậc thánh nhân được toàn cầu công nhận,
sách của Ngài chánh đại quang minh, há có những
chuyện tà ma như thế. Quư cư sĩ lầm
tưởng bọn Tiên Thiên Đạo là Nho giáo, có thể
nói là lăng nhục Nho giáo quá đáng!
3.
“Người đầu tiên sáng lập Tiên Thiên Đạo[20] là vị nào v.v...” Đây là do kẻ
thiếu hiểu biết nhưng sẵn dă tâm, dùng lời
lẽ yêu mị mê hoặc đại chúng sáng lập ra,
tụ tán vô thường, danh tự biến đổi theo
từng thời. Đại khái xa xôi tận thời Hán,
bọn giặc Hoàng Cân Trương Giác v.v... rồi
đến bọn Bạch Liên Giáo Hàn Sơn Đồng
đời Nguyên, cho đến Nghĩa Ḥa Đoàn Hồng
Đăng Chiếu đời Thanh, đều là dư
đảng của bọn chúng. Lúc b́nh thường,
bất quá là dối gạt tiền của, đến lúc
đầy đủ thế lực bèn làm phản, lịch
sử đă thấy mấy lần chẳng ít. Nay tôi
tặng ông cuốn Ám Lộ Minh Đăng (đèn sáng trong
đường tối), trong ấy đă nói rất rơ
rệt.
4.
“Trưởng lăo Kim Tư, Hỏa Mẫu Thần, Lê Sơn Lăo
Mẫu” đều là chuyện tiểu thuyết quê
kệch ở làng quê, toàn là đơm đặt, bịa
chuyện, giống như Tôn Ngộ Không, Trư Bát
Giới, há đáng tin là thật? Người c̣n chưa có,
lấy đâu ra là đàn ông hay đàn bà?
Phụ chú: Cư sĩ từ
xa gởi thư đến hỏi, đáng kể là có ḷng
thành, phát tâm học Phật, cần nhận biết
đường chánh. Nếu không, sai chỉ hào ly, lạc đường
ngàn dặm, nên tặng riêng một gói sách nông cạn, mong
ông hăy đọc, tin tưởng, sẽ có thể vào
được cửa Phật thật sự.
* Hỏi: Ngoại
đạo báng bổ Đại Thừa chẳng do
đức Phật nói, chưa biết nên dùng lời lẽ
nào để phá trừ? (Thái
Thế Phương hỏi)
Đáp:
Ngoại đạo là đạo ở ngoài Phật giáo,
thường gọi thông tục là “môn ngoại hán” (gă
ở ngoài ŕa). Loại người này về căn bản
chẳng hiểu Phật pháp. Nếu cứ cố biện
luận với họ, khác nào đàn gảy tai trâu, đâm
ra ta cũng chẳng biết sẽ dẫn đến
đâu. Khổng Tử có nói: “Bất
khả dữ ngôn, nhi dữ chi ngôn, vị chi thất ngôn”
(đối với kẻ chẳng thể nói
được mà cứ nói th́ gọi là phí lời). Vấn
đề lớn như thế này, há dăm ba câu có
thể giải quyết được ư! Mà cũng
chẳng phải là căn khí hạ đẳng vừa nghe
liền có thể liễu ngộ được! Cư
sĩ gặp hạng người như vậy, chỉ nên
hỏi họ học vấn so với tổ sư Vĩnh
Gia là như thế nào? Liền nêu ngay câu trong Chứng
Đạo Ca của tổ sư: “Dục đắc bất chiêu Vô Gián nghiệp,
mạc báng Như Lai chánh pháp luân” (muốn khỏi
chuốc lấy nghiệp Vô Gián, đừng báng chánh pháp
của Như Lai) để khuyên lơn, đó là chẳng
phá mà phá vậy!
*
Hỏi: Tượng Phật, Bồ Tát tôn quư nhất, do lâu
ngày bị hư hoại, không thể dùng được,
phải đổi tượng Phật mới, nhưng
tượng Phật hư cũ phải xử trí như
thế nào th́ mới nên? Tôi sợ mắc phải tội
lỗi, cầu đại đức chỉ dạy! (Tôn Diệu Tùng hỏi)
Đáp: Đối
với chuyện này, cổ đức từng chủ
trương: Một là có thể sửa chữa cho
đẹp đẽ. Hai là nếu không thể tu bổ, hăy
nên chôn nơi đất sạch, nhưng phải chọn
chỗ không có người đổ bỏ thứ ô uế
để chôn, đó là cách tốt đẹp. Những
tượng gỗ hư nát đến cùng cực, cũng
chẳng ngại chọn chỗ để thiêu đi. Sau
đấy, chôn tro nơi đất sạch, hoặc
đổ trong ḍng nước sạch. Nói chung, chẳng
mất ḷng cung kính, cốt sao an ḷng là được
rồi!
* Hỏi: Xưa kia,
Nhị Tổ Huệ Khả hướng về Đạt
Ma tổ sư cầu pháp, v́ sao phải chặt tay? Đang
trong lúc chặt cánh tay ấy, há chẳng phải là máu tuôn
không ngừng, thân người làm sao có thể chịu
đựng nổi? Người mất máu há chẳng
bị hôn mê ư? Cầu pháp nhiệt tâm là được
rồi, cần ǵ phải chặt tay? Tôi có nghi vấn
như vậy. (Trương
Khoan Tâm hỏi)
Đáp: “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bách thiên
vạn kiếp nan tao ngộ”, người thật
sự biết quư trọng pháp, biết cơ duyên khó
gặp, há có thể coi thường bỏ lỡ. Hăy nên
biết cánh tay ấy, nếu chẳng phải là Nhị Tổ
sẽ chẳng thể chặt được, chẳng
gặp tổ Đạt Ma sẽ chẳng thể chặt!
Công phu của Nhị Tổ đă sắp đạt
đến cực đỉnh, chỉ c̣n kém một
cấp; ngài Đạt Ma vốn ở chót đỉnh,
chỉ cần ch́a tay ra. Sát-na, vạn kiếp, dẫu
đầu, mắt, năo, tủy, vẫn chẳng đáng
tiếc, huống ǵ một cánh tay! Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch
tử khả hỹ” (Sáng nghe đạo, tối
chết cũng được). Nếu sáng đắc
đạo, dẫu chết ngay trong buổi sáng ấy
cũng chẳng có ǵ là không được, há c̣n yêu mến
cái đăy da này? Nếu chưa đạt đến công phu
như Nhị Tổ, dẫu gặp ngài Đạt Ma,
chặt tay có ích ǵ? Đă đạt đến công phu
như Nhị Tổ, nhưng nếu chẳng gặp
được ngài Đạt Ma, chặt tay có ích ǵ? Do
vậy, cánh tay ấy chẳng thể không chặt vậy!
*
Hỏi: Chiếu theo chế định của đức
Phật, đệ tử tại gia và xuất gia (hoặc
thầy truyền giới, hoặc thầy xuống tóc)
đối với vị thầy quy y có phân chia vai vế,
tức là xưng hô sư phụ, sư thúc, sư công,
tổ... hay chăng? (Lưu
Bảo Quốc hỏi)
Đáp:
Nếu bản thân vị thầy truyền tam quy, truyền
giới, có quan hệ vai vế đă thuộc hàng trên, th́
đối với họ gọi là sư tổ, sư bá,
sư thúc, chẳng có ǵ là không được, v́ mang ư
nghĩa tôn kính, thân thiết. Nếu như vị thầy
truyền tam quy, truyền giới có vai vế thấp
hơn [hay ngang thế hệ với] ta, trọn chẳng
thể gọi là anh, em, cháu, văn bối v.v... v́ người
xuất gia đă dự vào Tăng đoàn, là một ngôi
trong Tam Bảo, được xếp vào hàng thầy
của trời người, chẳng thể dựa theo
lễ nghi trong cơi tục để luận định vai
vế.
*
Hỏi: Phật giáo là một trong tam giáo, nhưng sao trong
văn tự phổ thông chỉ nói “Nho, Thích, Đạo tam giáo”; Thích giáo có phải là
danh tự của Phật giáo hay chăng? V́ sao chẳng
viết là chữ Phật mà lại viết là Thích? Xin
giải thích lư ấy? (Diệp
Di Dung hỏi)
Đáp:
Tiên sinh nói “văn tự phổ thông”, tôi chẳng rơ là nói
đến loại văn tự nào! Kẻ hèn này hiểu
“phổ thông” th́ không ǵ bằng báo chí, kế đến là
những bộ văn tập. Có thể nói hai loại này
dùng chữ “Phật giáo” để ghi chép rất nhiều.
C̣n như Phật giáo thường được viết
là Thích giáo, v́ đấng giáo chủ nhà Phật có họ là
Thích Ca; do vậy, cơi đời thường gọi là Thích
giáo.
*
Hỏi: Thần trong hai giáo Nho và Đạo có phải là
thần hộ pháp trong Phật giáo? V́ sao trong danh xưng tam
giáo “Nho, Đạo, Thích”, Thích giáo lại được
xếp cuối cùng, do người nào xếp đặt mà
thành ra như vậy? Xin hăy giải đáp? (Diệp Di Dung hỏi)
Đáp: Phật giáo
trọn chẳng công khai xếp thần của Nho và
Đạo thành thần hộ pháp. Theo kinh Phật ghi chép,
vô lượng chư thiên, thiên long bát bộ đều là
thần hộ pháp, chắc là cũng có những vị
[thần của Nho và Đạo] thuộc trong số ấy
mà thôi! Đối với chuyện sắp đặt
thứ tự là do người đời rảnh rang [nên
bày ra đó thôi], chứ thật ra ai đi đường
nấy, há có thứ tự ǵ để nói ai trước,
ai sau, chỉ tùy tiện mà nói, chẳng đáng để
bàn tới!
*
Hỏi: Liên quan tới các danh từ chuyên môn trong Phật
học hoặc kinh Phật, Trung Quốc có thư tịch
hoặc từ điển để giải thích hay không,
ḥng những kẻ mới tu tập Phật học tham
khảo, ngơ hầu do đọc những chữ Phạn
chẳng dễ hiểu đă được dịch sang
tiếng Hán sẽ hiểu được ư nghĩa? (Lê Cẩm Huy, Lư Hán Ba, và Thiệu
Ích Thanh hỏi)
Đáp:
Sách Phật học vô số[21], há lẽ nào chẳng có từ
điển? Đă được xuất bản th́ có
Phật Học Tiểu Từ Điển, Phật Học
Đại Từ Điển, Phật Học Thực
Dụng Từ Điển, Pháp Tướng Từ
Điển v.v.... Người học sử dụng
Phật Học Thực Dụng Từ Điển là
đủ rồi!
*
Hỏi: Người ta căn cứ trên truyền thuyết
có thể biết đại lược về Tế Công
Hoạt Phật[22], nhưng xét theo quả vị chánh tông
trong nhà Phật, Ngài thuộc tầng cấp nào? T́nh h́nh tu
học lúc ban đầu và thành Phật sau này như thế
nào? Xin hăy chỉ dạy cặn kẽ? (Lê Cẩm Huy, Lư Hán Ba, và Thiệu Ích Thanh hỏi)
Đáp:
Trong Cao Tăng Truyện, Tế Công thật sự chỉ
có một vị mà thôi. C̣n hết thảy những lời
tuyên truyền trong đàn cầu cơ, phim ảnh và
tiểu thuyết đều là “ngóng gió, bắt bóng”,
đồn thổi, đơm đặt.
*
Hỏi: Trong Phật học, bộ phận liên quan
đến thần học rốt cuộc có phân tích ǵ liên
quan đến Phật giáo hay không? (Lê Cẩm Huy, Lư Hán Ba, và Thiệu Ích Thanh hỏi)
Đáp:
Phật giáo có kinh điển phong phú, nên có thể gọi
là Phật học. C̣n như hỏi về thần học
th́ chưa rơ là nói đến vị thần như thế
nào? Sách vở nào? Không có cách nào giải đáp
được!
*
Hỏi: Do Sự Lục Độ tấn tu cảnh
giới Lư Lục Độ, Lư Lục Độ chỉ
điều ǵ? Giải thích như thế nào? Lại
nữa, xin hăy nói về đại ư và nội dung của
Thập Tụng Luật trong Luật Học? (Lê Cẩm Huy, Lư Hán Ba, và Thiệu
Ích Thanh hỏi)
Đáp:
Sơ cơ chẳng thể hiểu Sự Lục
Độ và Lư Lục Độ; nếu đáp, sẽ càng
khiến cho [người hỏi] càng thêm mờ mịt.
Trước hết, cư sĩ có thể thỉnh một
cuốn Từ Điển để nghiên cứu, sau
một thời gian, sẽ tự nhiên hiểu rơ hai chữ
Sự và Lư. Kẻ hèn này chẳng mong do bớt việc mà
trả lời, rất sợ sẽ nẩy sanh hiểu
lầm, đâm ra khiến [người nghe bị] mắc
hại. Lục Độ là sáu thứ pháp môn, hành theo đó
có thể vượt đến bờ kia. Sáu pháp ấy là
bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ. Thập Tụng Luật[23] là một bản kinh, đại khái nói
tới những chuyện trong giới luật; nhưng
nếu chưa đọc sách ấy, dẫu có nói nội
dung [th́ người nghe] cũng ngơ ngác.
*
Hỏi: Sám hối chia thành hai loại Lư Sám và Sự Sám, sao
gọi là Lư Sám? Nếu muốn sám hối, ngồi ngay
ngắn nghĩ đến Thật Tướng (Thật
Tướng chính là vô tướng, vô bất tướng)
th́ cách niệm ra sao? (Lâm Khoan Tu
hỏi)
Đáp:
Sự Sám là đối trước Phật, hoặc
thỉnh cao tăng đại diện cho Phật, hoặc
tự ḿnh chiếu theo các thứ sám pháp, như Đại
Bi Sám, Tịnh Độ Sám, Lương Hoàng Sám, Thủy Sám
v.v... cung kính tự sám hối. Nếu chẳng thể,
nhưng trọn đủ ḷng chân thành, hướng về
Tam Bảo bày tỏ lỗi ḿnh, lập thệ sau này
chẳng làm nữa, [làm như vậy] cũng chẳng
phải là không được! Đó gọi là Sự Sám. Lư
Sám hướng đến cái tâm để quan sát, do
tội từ tâm khởi. Khi quán thấy vọng niệm
đều Không, Thật Tướng sẽ hiện
tiền, tâm và tội đều Không, đó gọi là Lư Sám.
Niệm Thật Tướng là quán chiếu Thật
Tướng, chứ không phải là dùng miệng để
niệm tụng.
*
Hỏi: Trong Liên Hữu Thông Tín có chép chuyện ông Hoàng Hàm
Chi sáng tối thay mẹ sám hối khiến mẹ có
thể ăn chay. Do chồng của học tṛ không chỉ
chẳng tin Phật, mà c̣n ngược ngạo oán trách nói
tôi do tin Phật, chẳng ngó ngàng tới gia đ́nh. Anh ta
c̣n muốn sát sanh, học tṛ tính v́ anh ta sám hối, mong cho
anh ta sẽ tin Phật, kiêng giết, cách sám hối thay cho
người khác là như thế nào? (Lâm Khoan Tu hỏi)
Đáp:
Sám hối thay cho người khác, ắt phải cậy vào
chỗ đôi bên đều có ḷng tin, cảm ứng sẽ
nhanh hơn. Hai người chí hướng khác nhau, cảm ứng
khá chậm. Cách sám hối cũng giống như trên.
Trừ điều đó ra, lại càng phải nên trong nhà
trọn hết luân thường, toàn vẹn bổn
phận, làm khuôn mẫu cho cơi đời, khiến cho
mỗi người trong nhà sanh ḷng thân thiết, kính
trọng ḿnh. Đấy cũng là một cách để
nhiếp thọ, khuyến hóa. Hành cả đôi đàng, lâu
ngày chầy tháng, sẽ có thể chuyển biến tâm anh
ta.
*
Hỏi: Nghe nói Quán Thế Âm Bồ Tát là hậu bổ
Phật của A Di Đà Phật, đợi đến khi
A Di Đà Phật nhập Niết Bàn sẽ nối ngôi làm
Phật. Do đệ tử ngu muội, chẳng hiểu
Lư, trở về nhà, suy nghĩ khá lâu: Phật đă
chứng đắc bất sanh, bất tử, vĩnh
viễn chẳng thoái chuyển, đă đạt
đến cực quả; cớ sao vẫn phải
nhập Niết Bàn? Đấy có phải là ư nghĩa thoái
vị hay chăng? Con lại không biết trạng huống
nhập Niết Bàn ở Tây Phương như thế nào? (Giang Khoan Ngọc hỏi)
Đáp:
Phật có ba thân, há đức Di Đà lại riêng là
ngoại lệ!
1. Tự Tánh Thân là Pháp
Thân, không khởi đầu, không kết thúc, là
tướng vô sanh diệt.
2. Thụ Dụng Thân,
thân này chia thành hai: Một là Tự Thụ Dụng Thân,
tức Báo Thân, cũng chẳng có tướng sanh diệt.
Hai là Tha Thụ Dụng, tức Thắng Ứng Thân.
3. Biến Hóa Thân,
tức Liệt Ứng Thân, đều tùy duyên mà hiện hay
ẩn. Nói “Di Đà nhập Niết Bàn” là nói tới
Thắng Ứng Thân tức Tha Thụ Dụng Thân của
Ngài.
* Hỏi: Theo sự
tích thuở đức Thế Tôn trụ thế, Đề
Bà Đạt Đa là kẻ tử thù của Phật.
Chiếu theo kinh luận để nói, ông ta là một đại
tội nhân đă làm thân Phật chảy máu, tội đáng
đọa địa ngục A Tỳ, v́ sao đức
Phật vẫn gọi ông ta là thiện tri thức? Có
phải là có đối tượng thiện ác th́ mới
có thể hiển lộ sức thần thông của
Phật hay chăng? (Giang Khoan
Ngọc hỏi)
Đáp:
Trong thời đức Phật trụ thế, Đề
Bà Đạt Đa từng tạo tội nghịch,
đọa địa ngục trong khi c̣n sống; nhưng
khi nghiệp ấy hết, sẽ nương theo công đức
tu tập từ trước mà thành Phật, hiệu là Thiên
Vương Như Lai. Theo như kinh Pháp Hoa chép, trong
nhiều kiếp trước, đức Thế Tôn v́
cầu đại kinh Pháp Hoa, gặp A Tư tiên nhân,
mới được trao truyền. Vị A Tư tiên nhân
thuở ấy chính là Đề Bà Đạt Đa hiện
thời; v́ thế, đức Phật gọi ông ta là
thiện tri thức.
*
Hỏi: Như kinh Địa Tạng đă nói, lúc tĩnh
tọa và mạng chung, cũng có trăm ngàn quỷ thần
trong ác đạo biến thành cha mẹ, dẫn dắt
người ấy đi vào ác đạo. Tới lúc đó,
chẳng phân biệt chân ngụy. Lại c̣n có Phật,
Bồ Tát hiện tiền, nếu ngỡ là Phật, sợ
lầm lỡ tương lai, nếu nghĩ là ngụy,
lại sợ bỏ mất cơ hội lớn, rốt
cuộc phải dùng phương pháp nào để ứng
phó, xin hăy chỉ dạy! (Hoàng
Hàm hỏi)
Đáp:
Chuyện tiếp dẫn lúc mạng chung chẳng phải
chỉ có một. Có trường hợp tiếp dẫn
về cơi Phật, người đến tiếp dẫn
là Phật và Bồ Tát. Có trường hợp tiếp
dẫn sanh vào thiên đạo, người đến
tiếp dẫn là thiên chúng. Có trường hợp tiếp
dẫn vào thần quỷ đạo nhậm chức,
người đến tiếp dẫn nhất định
thuộc loại thần quỷ. Cha mẹ mỗi
người đến tiếp dẫn, trước
hết, cần phải biết cha mẹ hiện đang
thuộc trong đường nào th́ mới có thể phán
định là thăng hay đọa. Nhưng cha mẹ
đến tiếp dẫn, có thể đoan quyết
chẳng phải là về cơi Phật. Đă là như
thế, cần ǵ phải hỏi là chân hay ngụy, v́ chân
hay ngụy th́ cũng đều là đọa lạc.
Đối với câu hỏi trong đoạn sau,
người tu Tịnh nghiệp là “nhân như thế nào,
quả như thế nấy”, nên chân thật sẽ là
mười trường hợp hết tám chín phần,
ngụy th́ ngẫu nhiên có một hai trường hợp mà
thôi! Người tu các phương pháp khác, nếu quả
chẳng giống nhân th́ cần phải biện
định chân ngụy thật rành rẽ!
*
Hỏi: Theo nghi thức trước kia, hỷ sự là
“hạ nghi” hoặc “phỉ nghi”, đối với sư
trưởng là “chí nghi”[24], nhưng sau khi quy y pháp sư, nên
viết “nghi” ǵ? Xin hăy dạy cách thức để tôi kính
vâng làm theo! (Hoàng Hàm hỏi)
Đáp:
Đối với điều này chưa hề nghe nói có quy
định thành văn, chỉ nên thuận theo thói tục nói
sao cho suông tai là được rồi! Đối với
chuyện quy y, kính dâng lễ vật, cũng cần
phải xét theo chuyện để gọi tên th́ mới
thật phù hợp. Nếu chỉ biếu tặng lễ
vật thông thường, chỉ nói là “cúng dường” hoặc “quả nghi” (菓儀) dường như cũng ổn thỏa.
*
Hỏi: Mấy năm qua, đệ tử chuyên tu Tịnh
nghiệp, lần trước chợt muốn xin bỏ
Tịnh để học Thiền, nguyên nhân là do
đọc sách Truyền Tâm Pháp Yếu, trang hai mươi
bảy nói: “Đó là Bồ Tát
hữu ư sanh thân, chợt giống như chưa thấu
hiểu vô tâm, chấp tướng mà làm, đều
thuộc về ma nghiệp, thậm chí làm những Phật
sự Tịnh Độ đều trở thành nghiệp,
đó gọi là Phật chướng. Do chướng
ngại cái tâm của ông, nên bị nhân quả ràng buộc,
chẳng được tự do. V́ thế, các pháp như
Bồ Đề v.v... vốn chẳng phải là có.
Những lời Như Lai đă nói đều nhằm dạy con người. Ví như
lấy lá úa vàng, bảo là vàng, để tạm dỗ
trẻ nhỏ nín khóc, chứ thật sự chẳng có pháp
ấy, nên gọi là A Nậu Bồ Đề”. Lại
nữa: “V́ thế, kinh nói ‘Các
cơi nước của chư Phật cũng đều là
Không’. Nếu nói Phật đạo là do tu học mà
đạt được th́ hoàn toàn chẳng dính dáng ǵ
đến kiến giải như thế”. Lại nói: “Chỉ có đạo Nhất
Thừa, những thứ khác đều chẳng thật.
Như Lai thị hiện trên cơi đời, muốn nói pháp
Nhất Thừa, nhưng chúng sanh chẳng tin, báng bổ,
ch́m đắm trong biển khổ, nên lập ra
phương tiện nói có ba thừa. Thừa có lớn hay
nhỏ, chứng đắc có cạn hay sâu, đều
chẳng phải là pháp này!” Lại như kinh Kim Cang Bát
Nhă dạy: “Phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng. Nếu
thấy các tướng chẳng phải là tướng,
tức là thấy Như Lai”. Lại nữa, Lục
Tổ Đàn Kinh có câu: “Nếu
nói quy y Phật, Phật ở chỗ nào?” Lục Tổ
giảng giải cặn kẽ: “Quy
y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh, chớ nên dùng lầm cái tâm”.
Ngoài ra c̣n có rất nhiều chỗ đáng chú ư, quả
thật là không có thầy chỉ dạy, tôi đọc
những câu văn như trên đây, chẳng hiểu ư
nghĩa rốt ráo ra sao, kính xin chỉ dạy. (Trịnh Quân Hải hỏi)
Đáp:
Căn cơ chúng sanh có lợi căn và độn căn,
nên Phật pháp nói có Quyền và Thật. V́ thế, cách tu
chia ra thành Tiệm và Đốn, chứng đắc chia
thành Đại và Tiểu. Sự đă phức tạp như
thế, nên phải giáo hóa lắm cách. Bất đắc
dĩ nên mới giáo diễn thành năm thời, chia thành tám
vạn bốn ngàn pháp môn, quả thật môn nào cũng
tương thông, pháp nào cũng nhất quán, nhất
quyết chẳng lẽ nào mâu thuẫn lẫn nhau. Càng
chẳng có sai khác, pháp này cao, pháp kia thấp. Những
lời cư sĩ đă dẫn phần nhiều thuộc
về giáo pháp thời thứ tư, tức thời Bát Nhă,
nhằm nói với người lợi căn thượng
thừa. Nếu nói với kẻ chẳng hiểu rơ giáo
tướng hoặc nói với kẻ sơ học chưa
được khai tâm vỡ ḷng, chắc chắn họ sẽ
chẳng hiểu, hoặc do dựa theo văn tự suy
đoán ư nghĩa, sợ rằng Lư lẫn Cơ đều
chẳng khế hợp. Nếu cư sĩ vẫn ưa
thích những thứ đó, ắt phải cầu danh sư
trực tiếp dạy bảo. Nếu không, sai chừng hào
ly, lạc xa ngàn dặm, chuốc lấy ương họa
vậy!
*
Hỏi: Gần đây, sư phụ Sám Vân đă đến
tinh xá ở nơi đây làm lễ phổ Phật[25] một ngày, cũng như truyền quy
y, ngũ giới. Lúc ấy, tôi vốn muốn thọ
giới, nhưng Tứ Đại chẳng điều ḥa,
thường bị hen suyễn, bệnh tật đă lâu
chẳng lành, chẳng thể ăn chay trường.
Nếu thọ giới chẳng sát sanh th́ phải ăn chay
trường. Do vậy, tạm thời chưa thọ
giới. Hiện thời, mỗi tháng tôi ăn chay
mười ngày, và tụng kinh Địa Tạng. Lại
do mắc bệnh hen suyễn, suốt mấy chục
năm qua, chỉ dốc hết tiền bạc vào
thuốc men chữa chạy, rốt cuộc chẳng
thấy công hiệu ǵ. Tôi c̣n thường đối
trước Phật khẩn thiết sám hối túc
nghiệp, bệnh cũng chẳng bớt. Nay đă sơn
cùng thủy tận (hết c̣n cách nào), nếu đại
đức có phương pháp tốt lành nào để
chỉ dạy th́ may mắn lắm thay! Kế nữa, tôi
đọc cuốn Bệnh Hoạn Chỉ Nam do pháp sư
Chử Vân biên soạn, có nói nước Đại Bi do phu
nhân Châu Bang Đạo ở Đài Trung trị bệnh
rất linh nghiệm, nhưng tôi chẳng quen biết Châu
Thái Thái, xin ngài Bỉnh Nam hăy thay tôi thỉnh cầu bà ta
gởi cho tôi nước Đại Bi để uống
thử xem. Nếu uống nước Đại Bi
được lành bệnh, tôi sẽ liền phát tâm
thọ giới để báo ân Phật. (Trịnh Quân Hải hỏi)
Đáp:
Thọ giới quư ở chỗ đắc giới.
Chuyện này do phát khởi chân tâm sám hối, chân tâm mới
có thể chuyển cảnh. Tâm nghi sẽ thường
bị cảnh chuyển. Theo kẻ hèn này biết, muốn
cầu quả, ắt phải gieo nhân. Trong kiến giải
của cư sĩ, muốn được quả
trước rồi mới gieo nhân sau. Quan điểm
như thế, chẳng biết như thế nào mới là
đúng, vẫn phải xin ông hăy suy xét. C̣n như chuyện
xin nước Đại Bi của Châu cư sĩ, tôi
sẽ tuân mạng, chuyển lời.
* Hỏi:
Sau khi đức Thích Tôn diệt độ, có phải là
vẫn trụ trong một tầng trời của thế
giới Sa Bà, mà tầng trời ấy có phải là Tịnh
Độ hay không? Đệ tử Phật có nên cầu
sanh lên tầng trời ấy hay không? (Thái Thế Phương hỏi)
Đáp:
Pháp Thân của Thích Tôn vô tướng, tận hư không,
khắp pháp giới, không đâu chẳng tồn tại,
chẳng thể chỉ nhất định một tầng
trời nào. Nếu nói phương tiện, Sa Bà là uế
độ, chúng sanh nghiệp nặng, chướng sâu
tự nhiên sanh vào đấy. Bậc thánh triết thời
xưa đă nói: “Ái chẳng
nặng chẳng sanh Sa Bà”, c̣n quư báu nỗi ǵ mà sanh vào
cơi này? Nhưng người tu Tịnh nghiệp thành
thục, văng sanh Tây Phương đắc quả rất
đông, đa số phát nguyện trở lại, cũng
chuyên v́ ḷng từ bi độ chúng sanh mà thôi!
* Hỏi: Tương
lai khi Phật Di Lặc hạ sanh trong thế giới Sa Bà,
có thể đồng thời gọi thế giới này là
Thích Ca Mâu Ni Phật quốc và Di Lặc Phật quốc
được không? (Thái
Thế Phương hỏi)
Đáp:
Vị Phật nào đang xuất hiện, sẽ gọi là
cơi nước của vị Phật ấy. Giống
như cơi nước của đế vương trong
thế gian, đổi thành một vị đế
vương mới th́ tên của triều đại
cũng sửa đổi theo.
*
Hỏi: Trong tháng Bảy nên tŕ tụng kinh Địa
Tạng, nhưng do việc nhà bề
bộn, kinh văn lại dài, chẳng thể tụng xong
một lúc được, hiện thời có thể
sửa thành tụng niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát để hồi hướng cho lịch
đại tổ tiên và kẻ oán, người thân
được siêu thăng hay chăng? (Trần Vỹ Anh hỏi)
Đáp:
Thánh nhân thế gian c̣n răn dạy con người “kính
thờ, tin tưởng”; đối với Phật pháp,
càng phải nên cung kính. Kinh phải tụng cho hết th́
mới nên. Nếu nẩy sanh chướng ngại,
chẳng thể tụng hoàn tất, hăy đợi có
dịp để tụng bù cũng được. Nếu
chẳng thể th́ đổi thành tŕ thánh hiệu
Địa Tạng cũng chưa hề chẳng phải
là phương tiện, nhưng chớ nên thường theo
lệ ấy. Đối với việc báo đáp ân tổ
tiên, hết thảy công đức đều có thể
hồi hướng, tụng kinh, niệm thánh hiệu, không
có ǵ chẳng được!
*
Hỏi: Nói “tùy hỷ công đức” th́ có phải là nói
về công đức niệm Phật hay không? Giả
sử người khác ưa thích thứ ǵ đó, chúng ta có
nên thuận theo ḷng họ, để thỏa ḷng họ. Ví
dụ như đối với những sự vật
họ ưa chuộng, tôi thật sự cảm thấy
rất chán ghét, nhưng vẫn phải tùy hỷ khen
ngợi y như cũ ư? Bởi lẽ, có lúc tôi cũng
thường bị người ta chỉ trích vô lư: “Ngôn
hạnh của những kẻ tin Phật các ngươi
toàn là theo kiểu đó!” v́ chúng tôi chẳng thuận theo
họ mà đến nỗi ấy. Nghe những lời
lẽ kiểu đó, trong tâm tôi chưa hề bực
bội, nhưng lại thiếu năng lực biện
luận, mà cũng chẳng muốn tạo khẩu
nghiệp sâu đậm. Trong t́nh huống như vậy, nên
xử lư như thế nào? (Trần
Vỹ Anh hỏi)
Đáp:
Tùy hỷ công đức, nói “tùy hỷ” th́ ắt phải
thuộc vào chuyện công đức, nhưng điều
này lại chia thành hai loại: Một là pháp thế gian,
trọn hết luân thường, vẹn hết bổn
phận, và các thứ từ thiện đều thuộc
về loại này. Hai là pháp xuất thế gian, phàm
hoằng pháp, hộ pháp, lễ Phật, cúng Phật, tự
hành, hóa tha v.v... đều thuộc về loại này.
Chuyện người khác, bất luận là điều
thiện thế gian hay xuất thế gian, đều nên
tùy hỷ công đức, đó gọi là “vâng làm các điều thiện”, là điều
chư Phật dạy. Cũng chớ nên ôm ḷng chán ghét, càng
chẳng nên ḍ xét lời lẽ và sắc mặt kẻ khác
[để nói hùa theo cho họ vui ḷng]; nếu là như
vậy sẽ là ác hay thiện đều tùy hỷ
tuốt! [Làm đúng như những điều trên đây]
sẽ gọi là “tùy hỷ công đức”, chẳng
phải là tùy hỷ tràn lan những điều chẳng thiện
mà có công đức đâu nhé!
*
Hỏi: Lần đầu nghe kinh, gặp đại
thiện tri thức diễn giảng Phật lư mười
phần tuyệt diệu viên măn, thấu triệt, nhất
thời sanh ḷng tin sâu xa, dần dần xem đọc kinh
Phật, bèn cảm thấy trong Phật giáo vẫn c̣n
giữ không ít những sắc thái mê tín. Tuy vậy, Phật
lư hoàn mỹ, trọn chẳng phải v́ lẽ đó mà
bị giảm tổn, như người ăn gạo,
bỏ những hạt cỏ dại, cám, cát, đá,
trọn chẳng giảm thiểu giá trị dinh
dưỡng của gạo; nhưng những sắc thái mê
tín ấy [giống như] hạt cỏ dại, cám, cát,
đá, toàn là những thứ thừa thăi đối với
tác dụng của sự vật. Chẳng hạn như nói
Phật Thích Ca sanh từ hông mẹ, đi bảy
bước, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ
đất v.v... Thời gian qua đi như nước
chảy, hơn hai ngàn năm trăm năm chưa thể
coi như quá lâu xa. Đối với thuở ấy, kỳ
tích c̣n chấp nhận được, nhưng đối
với ḷng người hiện thời sẽ thành vấn
đề. Đức Phật thị hiện làm
người trong thế gian, dùng cái thân Tứ Đại,
từ trong b́nh phàm để hành, chứng đạo lư
chẳng b́nh phàm. Đấy là lư do v́ sao Phật là Phật.
Nếu bàn đến những điều lạ lùng khi
Phật ra đời, hoặc nói tới những chuyện
kỳ lạ do Ngài hiển hóa, cố nhiên chẳng có
ảnh hưởng tăng hay giảm đức năng
của Phật, nên cũng chẳng so đo! Hiện
thời, tín đồ Phật giáo thường thích dẫn
những điều huyền kỳ dị tích của
đức Phật ḥng tuyên truyền cho đắc lực,
trong các chúng sanh, kẻ khá có thiện căn sẽ tự có
thể ăn gạo, gạt bỏ cám, hạt cỏ.
Nếu là kẻ chấp vọng thức sẽ liền do
cám, hạt cỏ mà chán ngán, chẳng muốn ăn gạo;
như vậy th́ sắc tín mê thái ấy sẽ giống
như ḥn đá buộc chân Phật! Bản thân tôi học
cạn, nghe ít, chẳng thể hiểu rành rẽ [v́ sao
Phật giáo] tiếp tục sử dụng sắc thái [mê
tín], cũng mong sẽ được giải thích thích
đáng! (Quách Như Nam
hỏi).
Đáp:
Tiên sinh do thấy sử truyện chép Thích Tôn giáng sanh
từ hông mẹ, bảo đó là sắc thái mê tín, vấn
đề này khá phức tạp, chẳng thể nói
đơn giản vài câu mà trọn hết được,
nêu đại lược vài đầu mối như sau:
1. Kinh điển
Đại Thừa thường là không như vậy,
[nhưng nhận xét như vậy đối với] kinh
điển Tiểu Thừa th́ hăy c̣n những chỗ quá
đáng. Nguyên cớ là v́ đức Phật thuyết pháp,
có lúc nói với hàng Bồ Tát, có khi nói với hàng Thanh
Văn, Duyên Giác, có lúc nói với trời,
người, có lúc nói với kẻ lợi căn hay
độn căn, có lúc nói với hàng ngu phu ngu phụ, chúng
sanh vạn loại, nên Phật pháp nhiều môn, giống
như một món thuốc trị được một
chứng bệnh. Nếu chấp vào một món thuốc,
chỉ coi món thuốc ấy là trân quư; giống như nhân
sâm trong Trung Y, bất luận bệnh nào đều
nhất loạt cho uống nhân sâm, chẳng giết
chết người cũng hiếm hoi lắm!
2. Những
sự tích huyền bí, lạ lùng, chẳng khiến cho
Phật đức bị tăng hay giảm, cao luận
của Ngài cũng là đường đường chính
chính, nhưng cũng có những chỗ quyền biến.
Nếu người thuyết pháp chẳng quan sát
đối tượng, nói thuần chánh hoặc thuần
quyền, sẽ đều chẳng khế cơ; phàm
những cách nói như vậy đều trở thành
những lời lẽ thừa thăi vậy! Chúng sanh ngàn muôn
sai khác, có người thích chuyện này, có kẻ ưa điều
nọ, pháp tắc chẳng
thể nêu lên một, bỏ cả trăm. Hơn nữa,
Ngũ Dục tuy là cội rễ sanh tử, bị Phật
quở trách, nhưng có lúc vẫn phải dùng nó để
nhiếp thọ chúng sanh. Đó gọi là “tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật
trí” (trước hết dùng dục để lôi kéo, sau
đấy khiến cho họ nhập Phật trí), có
thể thấy mọi mặt đều chu đáo vậy!
3. Sắc thái mê tín
vốn mang tánh chất thời gian, có những điều
trước đây chẳng nghĩ là mê tín, gần đây
lại coi là mê tín; không chừng sau này lại biến thành
chẳng mê tín. Nói theo hiện thời, nếu [những
điều mà ông] tự coi là mê tín, hăy tránh né chẳng bàn
tới, cũng chẳng phải là không được!
4. Thiên Ngũ Hành Chí
trong Minh Sử có chép: “Long Khánh
ngũ niên nhị nguyệt, Đường Sơn dân
phụ, sanh nhi tùng tả hiếp xuất” (Tháng Hai
năm Long Khánh thứ năm (1571), một phụ nữ
thường dân ở Đường Sơn sanh con từ
hông trái). Kỳ lạ hơn nữa, thiên Ngũ Hành Chí
của Minh Sử chép: “Gia
Tĩnh tứ niên, Hoành Kính nông Khổng Phương,
hiếp hạ sản nhũ khối, phẫu thị chi,
nhất nhi uyển nhiên” (Năm Gia Tĩnh thứ tư
(1525), một nông dân ở Hoành Kính là Khổng Phương,
dưới hông sanh ra một khối thịt, mổ ra xem,
rành rành là một đứa trẻ ở trong đó).
Những điều này đều được chép trong
chánh sử. Nếu không có chuyện ấy, sao lại
được chép vào sử. Bảo là kỳ dị th́
được, chứ bảo là mê tín th́ kinh sử
đều bị phủ nhận hết!
* Hỏi: Ngũ Tổ
trao truyền y bát, nửa đêm truyền tâm, Lục Tổ
đắc pháp bỏ trốn ngay trong đêm khuya. Y bát có
thể quyết định tư cách tổ sư, rơ ràng là
vật chứng minh thuộc về danh tướng. Do
thuở ấy, những vị đại pháp sư
đạo hạnh như Thần Tú v.v... trọn chẳng
tiếc nuối, liều mạng dấy lên tranh chấp
trong nội bộ, không chỉ là đạo tâm chưa
tịnh, mà c̣n là trái nghịch sâu xa gia pháp của Ngũ
Tổ. C̣n như Lục Tổ có căn cơ thiên phú
như thế, dẫu mất y bát cũng trở thành
Lục Tổ đâu bị trở ngại ǵ, thế mà
biết khó khăn vẫn chẳng lùi, nguyện dấn ḿnh
vào cuộc tranh đoạt tưng bừng. Nho gia Trung
Quốc giáo hóa t́m kiếm lẽ thật ở ngay nơi
cảnh, nhường nước cho người hiền,
xả thân thành nhân, đời nào cũng thấy. Lục
Tổ là bậc Bồ Tát đă vượt thoát tam
giới, sao lại thấy biết nhỏ nhặt nơi
h́nh tướng để rồi tranh giành y bát, thân là
đồ đệ đời sau của Phật, lật
đổ khuôn phép ngàn năm của cổ đức,
quả thật đă phạm tội lỗi! Nhưng chân lư
đại đạo quả thật chẳng lật
đổ được, chẳng ngại t́m hiểu
cặn kẽ. Tự biết chính ḿnh có chỗ hiểu
biết chẳng tường tận, mong bậc
đại thiện trưởng giả phân tích. (Quách Như Nam hỏi)
Đáp: Y bát đích xác
thuộc về danh tướng, nhưng Tam Tạng
mười hai bộ há chẳng phải là danh tướng
ư? Đây quả thật là v́ nghĩ đến lợi
ích chúng sanh, thuận theo thói đời, lấy những
vật ấy làm chứng ḥng dễ nhiếp thọ,
nhưng thật sự chẳng dính dáng ǵ đến Tánh
Thể của chính ḿnh. Sự việc lâu ngày trở thành
thói tệ, v́ thế, sau đấy chẳng tiếp
tục truyền nữa. Tâm Lục Tổ chỉ nhằm
truyền đăng lợi ích chúng sanh, gặp việc nhân
chẳng nhường, chẳng phải là chuyên tranh
đoạt địa vị Tổ. Trong trí cảnh
của Lục Tổ, Phật c̣n chưa thể
được, há c̣n hí hửng đối với
địa vị Tổ ư? C̣n hành vi của những
người như Huệ Minh v.v... cũng chẳng
phải do Thần Tú đại sư sai bảo, chớ nên
hiểu lầm! Như cuộc tranh chấp giữa họ
Vương và họ Lục[26] [đối với Châu Hy] trong các nhà Lư
Học cũng là do người thuộc hai trường
phái tu dưỡng chẳng đủ, khuấy đảo
mà thành đó thôi!
* Hỏi: Tánh tôi
vốn mềm mỏng, nhưng tôi chẳng ưa thấy
những động vật nhỏ bé bay chạy trông
rất kinh hoảng, nên thường vô ư tổn hại
chúng nó. Từ bé, tôi rất sợ gián. Ở Đài Loan
khổ nhất, giống này đặc biệt nhiều.
Chỗ tôi ở, chúng thường bay vù vù trong không khí,
giống như bom nguyên tử chặn đầu, khiến
cho tôi sợ hồn phi phách tán, tạo thành sức uy
hiếp khôn sánh, tự nhiên vung tay đập chết.
Người nhà biết sát nghiệp đáng sợ, hễ
thấy gián liền tranh nhau đuổi chúng đi, nhưng
mỗi lúc hoàng hôn, chủ nhân chưa nâng đũa, loài
động vật nhỏ ấy đă vội vàng,
chẳng đợi đến lúc tàn bữa ăn,
những cái chân lông lá đă ḅ lên bàn ăn. T́nh h́nh bị
quấy nhiễu ấy khiến cho người ta ăn
ngủ khó yên. Có người nói trong nhà quét dọn sạch
sẽ, các loài trùng bọ sẽ ít đi, nhưng áp dụng
cách ấy, chỉ có riêng đối với loài gián là
chẳng thấy hiệu quả ǵ. Túc thế oán nghiệp
đường hẹp gặp gỡ, chẳng biết c̣n
có phương pháp nào để giải trừ hay chăng?
(Quách Như Nam hỏi)
Đáp:
Loài gián vốn sợ người. Trong nhà sạch sẽ,
chẳng trữ đồ ăn, loài trùng ấy sẽ
tự tránh xa. Nếu thấy nó đâm sợ, dùng chổi
phủi nhẹ, chúng nó sẽ tự tránh đi; quả
thật chúng nó chẳng có oai lực [đe dọa kinh
khủng] như ông đă nói. Tư tưởng của tiên
sinh đă tiến rất xa, hễ chẳng chấp
tướng, sẽ dần dần trừ được
tập khí sợ hăi. Cầu cách giải trừ bên ngoài, sao
bằng cầu giải trừ trong tâm?
*
Hỏi: Các giáo dùng pháp nào để chứng minh con
người có linh hồn? Đối với linh hồn, v́
sao lại có những cách nói khác nhau? (Hoàng Thánh Hống hỏi)
Đáp:
Giáo có tà, chánh, Lư có sâu, cạn. Lư sâu, giáo chánh th́ c̣n có
mấy phần tương tự, c̣n Lư cạn, giáo tà,
đa phần là kẻ ḷa bàn luận các ngôi sao, gă
điếc giảng giải âm nhạc, bất quá hư
luận mà thôi, đâu có thời gian rảnh rỗi
để tranh căi với họ! Trong sách Nho, kinh Dịch có
câu: “Du hồn vi biến”,
Phật học chỉ nói “thần thức”, chẳng nói
“linh hồn”; nhưng thần thức và linh hồn nói
về cùng một thứ, chỉ là gọi tên khác nhau. Nhà
Phật truy cầu cội gốc, nên gọi là Tánh. Tánh
ấy lúc mê th́ là thần thức, tức là cái
được gọi là “linh hồn” trong các giáo khác.
Hồn đă bị mê, nên sanh tử đầu thai, luân
chuyển lục đạo. Tánh là trí, cho nên bất sanh,
bất diệt, muôn kiếp thường tịnh.
*
Hỏi: Các giáo đối với con người sau khi
đă chết có cách nh́n khác nhau như thế nào? (Hoàng Thánh Hống hỏi)
Đáp:
Có giáo nói con người chết đi thành quỷ; có giáo
nói làm lành sẽ thành thần; có giáo nói làm lành sẽ sanh lên
trời, có giáo nói làm lành sẽ thành tiên. Lại c̣n nói
quỷ, thần, thiên, tiên v.v... đều tồn tại
vĩnh hằng. Có kẻ nói người chết lại làm
người, loài vật chết lại biến thành loài
vật. Trong Phật pháp, những ngôn thuyết giống
như vậy được gọi là Thường
Kiến. Những kẻ chẳng tin tôn giáo, chẳng tin có
linh hồn, được gọi là Đoạn Kiến,
nói chung là “găi ngứa ngoài giày”. Phật pháp tuy cũng nói
kẻ làm lành sẽ chuyển sanh trong nhân thiên, kẻ làm ác
chuyển sanh trong tam đồ, nhưng đều có
thời gian, chắc chắn chẳng vĩnh hằng.
Chỉ có kẻ tu vô lậu pháp, chuyển thức thành trí
(tức là chuyển hồn trở thành bổn tánh) mới
đạt được bất sanh bất diệt.
*
Hỏi: Trên thế giới có phải chỉ là có mấy
tôn giáo trước mắt hay chăng? Trong tương lai,
có thể là lại có người sáng lập một tôn giáo
mới hay chăng? (Hoàng Thánh
Hống hỏi)
Đáp: Há phải
chỉ trong tương lai sẽ sáng lập tôn giáo mới,
ngay trong hiện tại, đă bí mật có ngàn kỳ
trăm quái, chẳng biết là bao nhiêu. Chẳng qua chính phủ
cấm đoán, nên họ chẳng dám công khai lộ
diện. Lại nói đến chuyện cống hiến th́
tôn giáo ắt phải thật sự triệt để
dứt khổ ban vui cho chúng sanh th́ mới tất yếu
được sùng phụng. Nếu nghĩa lư lệch
lạc, tà vạy, khiến ḷng người bị mê
hoặc, ngu xuẩn, nhiễu loạn xă hội, phá hoại
quốc gia v.v... th́ có ích ǵ?
* Hỏi: Có
người được mời đến làm việc
ở chỗ khác, ngồi xe được nửa
đường bị hư, người ấy tự
biết không lành, nhưng hiềm rằng bị ép đi
tiếp, khi đến được nơi công tác, bị
dao chém đến tận xương, hối chẳng
kịp. Kiểu chỉ dạy ngấm ngầm không lời
ấy, đối với Phật pháp, thuộc về
Mật Tông hay là Thiền Tông. (Ông
Huệ Hân hỏi).
Đáp: Sao chổi
hiện, đất nước loạn lạc, Hoàng Hà
trong, thánh nhân sanh, đó gọi là: “Sắp hưng vượng, ắt có điềm
tốt lành. Sắp tiêu vong, ắt có yêu nghiệt”.
Sử sách thế gian có ghi chép những chuyện giống
như vậy. Hai tông Thiền và Mật trong Phật giáo
đều nói đến pháp tu tŕ, chẳng bàn đến
những điềm báo tốt xấu.
Những chuyện giống như thế chẳng dính dáng
ǵ tới Thiền, mà cũng chẳng liên quan đến
Mật.
* Hỏi: Trong Phật
học gọi không gian là “mười phương”, coi
thế giới Sa Bà là cốt lơi, giả gọi những
thế giới chung quanh là “trên, dưới, bốn
phương, bốn góc”. Nhưng học tṛ cho rằng
chỉ nói mười phương, dường như hiềm
rằng chẳng nói trọn hết hư không. Thử dùng
vật thể ba chiều trong không gian phẳng th́ tợ
hồ chẳng có bốn góc, bởi trên, dưới và
bốn phương đều có thể hợp thành
một góc cạnh. V́ thế, giả thiết là c̣n có
nhiều phương hướng để nói. Nếu thêm
h́nh nón có ba mặt, hoặc vật thể h́nh cầu
để luận th́ phương hướng càng biến
hóa khôn lường. Chẳng rơ là cách thấy hẹp ḥi
ấy có đúng hay là không? (Quách
Gia Ninh hỏi)
Đáp: Kinh văn nhà
Phật chia ra thành tổng tướng và biệt
tướng để nói. Nói “mười phương”
chính là nói đến tổng tướng, nhưng [nói]
“phương” th́ cũng là chưa tính đến hạn
độ. Trong kinh có nói “hư
không vô tận”. Đă là vô tận há c̣n có “chẳng
trọn” hay chăng? Lại nói “vi
trần sát” (cơi nước nhiều như vi trần),
đó là biệt tướng. “Sát”
là thế giới, vi trần chẳng thể đếm
được, nên thế giới là vô lượng. Trong
kinh có nói: “Thế giới vô
tận”, đă là vô tận, há c̣n có thể nói là “chẳng
trọn” hay chăng? Xin hăy thử so sánh giữa những
điều cư sĩ lo nghĩ và hai câu trên đây,
lời nào to lớn? Lời nào nhỏ bé? Sẽ hiểu rơ
ngay!
* Hỏi: Phật Ca
Diếp ứng thế, cũng ở trên địa cầu
này hay không? Nếu là như vậy, sẽ chẳng xứng
hợp với khảo chứng lịch sử, v́ lúc ấy
vẫn chưa có nhân loại tồn tại? (Quách Gia Ninh hỏi)
Đáp:
Các nhà khảo cổ học phát hiện xương
động vật, hoặc những khoáng chất và các
thứ đồ đựng ở dưới mặt
đất, suy đoán những thứ ấy đều là
vật thuộc mấy chục vạn năm trước;
sao dám nói là trước đó không có nhân loại! Lịch
sử như cư sĩ nói là lịch sử trong thời
đại nào? Sử ấy chép những chuyện trong bao
nhiêu năm? Quốc gia có thịnh, suy, tồn, vong, thế
giới có thành, trụ, hoại, không, Ca Diếp Phật là chuyện thuộc về thời viễn
cổ bao nhiêu vạn năm trước, đến nay
đă trải qua bao lượt dâu bể, ông tra cứu
[sử sách] chép chuyện trong hơn bốn ngàn năm th́
làm sao có sách nào ghi chép cho được? Ví như
đời Đường có Thiên Thu Tiết[27], nhưng ông lại tra nhật lịch
của năm Dân Quốc 49 (1960), tự nhiên chẳng
thấy ghi chép [tiết ấy].
*
Hỏi: Xin hỏi tam bộ nhất bái, có phải là đi
ba bước, chắp hai tay vái lạy, hay là đi ba
bước liền quỳ xuống đất dập
đầu một lần, đứng lên lại vái? (Lâm Tú Diễm hỏi)
Đáp:
Đây là lễ nghi trong Phật môn, chưa nghe nói có quy
định cố định. Nếu muốn phát
nguyện thực hiện th́ ba bước một lạy,
thậm chí mỗi bước một lạy, cũng
đều được cả! Nhưng đối
với cách lạy ấy cũng nên lượng sức,
chắp tay khom ḿnh cũng được, quỳ xuống
dập đầu cũng được!
* Hỏi: Đối
với thỉ tổ của tam giáo Nho, Thích, Đạo, tôi
biết đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đạo Giáo là Thái Thượng Lăo Quân[28], nhưng Nho giáo chẳng biết là ai?
Xin hăy dạy cho biết! (Lâm Tú
Diễm hỏi)
Đáp: Nho giáo tôn sùng
Khổng Tử, Ngài tên là Khâu, tự là Trọng Ni, là
người nước Lỗ dưới đời Châu.
* Hỏi: “Tam giáo
đồng tông” có phải là cùng một thỉ tổ,
thỉ tổ tên là ǵ? (Lâm Tú
Diễm hỏi)
Đáp: Có nhiều cách
giải thích chữ Tông. “Đồng
tông” nghĩa là tổ tông cùng nguồn. Để đáp
lời hỏi của cư sĩ có hai cách nói. Nho, Thích,
Đạo mỗi giáo có tông chỉ chánh yếu riêng
biệt, xét trên mặt Sự sẽ chẳng “đồng
tông”; nhưng khởi điểm để đề
xướng mỗi giáo đều phát xuất từ tánh
thuần thiện, nên xét theo Lư là đồng tông. Nếu
biết Lư này, tam giáo có cùng một thỉ tổ, tức
tánh thuần thiện. Tánh thuần thiện ấy
được gọi là Phật Tánh.
* Hỏi: Bất
luận chỗ nào, người tại gia niệm Phật,
ăn chay cũng đều gọi là đạo hữu? (Lâm Tú Diễm hỏi).
Đáp: Đại
đạo chẳng chia nơi chốn. Phàm là đạo
giống nhau th́ đều là bạn. Chỉ niệm
Phật, ăn chay th́ trong hiện thời có chân, giả,
tà, chánh khác biệt, chớ nên chẳng cẩn thận. V́
có rất nhiều kẻ xấu hoặc mưu đồ
bất chánh, hoặc dối gạt để đoạt
của, bịa ra một tổ chức, khéo léo che
đậy, thường mạo danh Phật giáo, mắt cá
lẫn với bảo châu, làm những chuyện quỷ
quái. Nhưng bọn họ cũng thờ Phật, niệm
Phật, ăn chay, nói chung là Đông kéo Tây lôi, khớp
lừa chẳng vừa với miệng ngựa. Như
niệm Thiên Nguyên Thái Bảo Thập Tự Phật[29], nào là Di Lặc chưởng quản
thiên bàn, điểm khiếu[30], điểm truyền v.v... ma ngữ, ma
hạnh chẳng ra thể thống ǵ. Người tu hành
đă lâu vừa nh́n liền biết ngay, chứ kẻ
sơ cơ chẳng dễ ǵ biện định. Phàm
những kẻ thuộc loại ấy chính là quyến thuộc
ma, chẳng phải là đạo hữu.
* Hỏi: Sản
phụ nên ăn những thứ ǵ? Tôi nghe nói có tín
đồ Phật giáo ăn chay, do sanh nở bèn ăn
mặn. Do không đủ sữa, rốt cuộc bèn ăn
mặn để tăng thêm sữa. Lư ấy nên hiểu ra
sao? Hay là tín đồ Phật giáo ắt phải do sanh
nở mà ăn mặn? (Trần
Kim Tuyền hỏi)
Đáp: Phụ nữ
tŕ giới sanh nở, chẳng thể nói ai nấy
đều thiếu sữa. Dẫu v́ thân thể yếu
đuối mà thiếu sữa, nhưng trọn chẳng
phải là ai nấy đều ăn mặn. Điều
này chẳng thể khẳng định hoàn toàn.
[Đối với chuyện] kẻ thiếu sữa do
ăn thịt nên có thêm sữa, đó là do có liên quan
đến chất béo, trọn chẳng phải là thần
bí, kỳ lạ, đặc biệt ǵ. Nếu chẳng
ăn thịt mà uống sữa ḅ, sữa dê, hoặc ăn
bơ, cũng có thể tăng thêm sữa rất nhiều.
Câu hỏi cuối cùng tợ hồ có ư nói ăn mặn là
chánh đáng, ăn chay là sai lầm, lời lẽ không rơ
ràng, nên chưa thể cẩu thả trả lời
được!
* Hỏi: Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm nói “hằng thuận chúng sanh”, nhưng chúng sanh
nhiễm ác dễ, học theo thiện khó khăn, nếu
một mực thuận theo chúng sanh sẽ dễ trở nên
thấp kém hơn, lại c̣n lo xuôi theo mà bị nhơ bẩn.
Chẳng biết là trong nguyên tắc “hằng thuận chúng sanh”, làm thế nào
để giáo hóa chúng sanh dẫn nhập Phật môn? (Trần Kim Tuyền hỏi)
Đáp:
Xuôi theo nên bị ô uế chính là phàm phu. Nếu là Bồ Tát
sẽ ḥa nhưng chẳng xuôi theo. Tùy thuận là ḥa
đồng, “chẳng xuôi theo” là chuyển biến họ.
Đọc kinh cần phải hiểu nghĩa, như
Tứ Nhiếp Pháp cũng có hai thứ là Lợi Hành và
Đồng Sự, há có phải là xuôi theo rồi bị ô
uế ư? Sách vở thế gian có câu: “Tương thuận kỳ mỹ, khuông cứu
kỳ ác” (thuận theo điều tốt lành, nhưng
cứu vớt điều ác). Kinh Phật dạy: “Tiên dĩ dục câu khiên, hậu
linh nhập Phật trí” (trước dùng dục
để lôi kéo, sau đấy sẽ làm cho họ nhập
đạo). Hiểu nghĩa này, sẽ biết chẳng
phải là giúp vua Trụ làm điều bạo
ngược!
* Hỏi: Nước
Ba La Nại (Vārānasī) ở nơi nào? (Thành Dương hỏi)
Đáp: Ở Trung
Ấn Độ, tức là nước có Lộc Dă
Uyển, nơi đức Phật thuyết Tứ
Đế.
* Hỏi: Tuổi
thọ của con người có phải là nói về
thọ mạng b́nh quân của toàn bộ nhân loại trong
lúc đó hay không? (Thành
Dương hỏi)
Đáp: Trong một
thời kiếp, nhân loại có một loại tuổi
thọ. Nhân loại trong mỗi thế giới có một
tuổi thọ, nhưng không gian và thời gian đều
có khác biệt. [Để hiểu] tuổi thọ con
người như kinh đă nói, phải dựa theo
những điều trên đây để phân biệt
* Hỏi: “Sa Bà thế giới” bao quát
những chỗ nào? (Thành
Dương hỏi)
Đáp:
Thế giới Sa Bà bao gồm cả tam thiên đại
thiên thế giới, những thế giới nổi
tiếng trong ấy, kẻ hèn này chỉ biết có bốn.
C̣n nơi thực sự thông hiểu, chỉ có một,
tức quả địa cầu này.
* Hỏi: Từ vô thỉ đến nay, do
tham, sân, si, sanh khởi thân, khẩu, ư nghiệp, đă
tạo các tội chướng, nay ngồi ngay ngắn
niệm Thật Tướng Sám Hối, đó là chân sám
hối. Nếu lúc niệm Phật th́ vừa niệm
Phật vừa phát khởi sám hối như thế nào?
Dấy lên ư niệm ấy, có phải là vọng
tưởng, vọng niệm hay không? Có ảnh hưởng
hay chăng? (Trần Táo
hỏi)
Đáp:
Sám hối có Sự sám và Lư sám sai khác. Ngồi niệm
Thật Tướng, thuộc loại Lư sám, bởi lẽ,
vọng tâm diệt mất, tội tánh cũng không có
chỗ nào để trụ. V́ vậy, cách sám hối này thật
sự hữu lực. Khi niệm Phật, nếu có thể
tập trung tam nghiệp, sẽ là bất loạn, vọng
tâm cũng chẳng đến nỗi dấy lên, đó
cũng là Lư sám. Niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật, khi ấy, tội nghiệp c̣n có chỗ
nào để đặt chân! Nếu lại dấy lên ư
niệm sám hối, sẽ là trên đầu chồng thêm
đầu, ngược ngạo trở thành nhị tâm!
*
Hỏi: Cụ X... nhân lễ thọ bảy mươi
đă mở tiệc. Loại sát sanh đăi đằng khách
khứa ấy, nói theo phía cụ X... là nhằm tỏ ḷng
cảm tạ thân hữu đă biếu quà, chúc mừng. Nói
theo phía thân hữu, nhằm biểu đạt ḷng sùng kính cụ
X... tuổi cao, đức trọng. Tội lỗi sát sanh
rốt cuộc nên do ông X... gánh chịu, hay là quy tội
về thân hữu? Hoặc là đôi bên đều gánh
lấy tội lỗi? (nếu ăn chay sẽ chẳng bàn
tới). (Quế Hướng
Nguyên hỏi)
Đáp:
Đối với hành vi phạm tội, chia ra chánh
phạm, ṭng phạm và cộng phạm v.v... Phàm những
kẻ tham dự chuyện ấy đều phải
chịu trách nhiệm. Luận theo Phật pháp sẽ càng
tỉ mỉ hơn, trừ kẻ chủ chốt và
những kẻ tiếp tay ra, kẻ tùy hỷ, tán thán,
đều chia sớt lỗi ấy. Huống chi cụ X...
là chủ động, thân hữu là kẻ xúi giục!
*
Hỏi: Vọng ngữ là chẳng thành thật, dối
gạt, hoặc lời lẽ bịa đặt, nhưng
trong xă hội hiện thời, mỗi lần gặp
hội nghị, do mối quan hệ ǵ đó khống
chế, thường phải thốt ra những lời
chẳng thật ḷng, cố nhiên người đó
(người được khen ngợi một cách giả
dối) bị lừa gạt, các nhân viên hiện diện
cũng biết rơ là chuyện bịa đặt, nhưng
đôi bên đều hiểu rơ ḷng nhau, chẳng nói! Nếu
không như vậy th́ trên ghi chép, nếu không có ǵ để
biểu thị, diễn đạt công lao, cấp trên
cũng mong cầu loại “đánh nhau trên giấy” ấy
để làm căn cứ ḥng tuyên dương công
đức của người lănh đạo. Người
ăn nói như thế do t́nh thế bất đắc
dĩ thúc ép mà phải vọng ngữ, dường như
đối với bản thân trọn chẳng có tội
lỗi lớn lắm, nhưng tội lỗi ấy
rốt cuộc thuộc về ai? Do vạn sự hưng
khởi đều có nguồn gốc, nói chung phải có
một người chịu trách nhiệm. Nếu không, làm
sai sẽ trọn chẳng thể trừng phạt. Nếu
chỉ đau đáu hận rằng ḷng người
chẳng bằng thuở xưa th́ quá mịt mờ, không
biết cậy vào đâu? (Quế Hướng Nguyên hỏi
)
Đáp:
Luận định về đạo và luận
định thời thượng, rành rành là hai
đường lối khác nhau. Đạo chủ yếu
là bất biến, c̣n thời
thượng th́ quyền nghi. Nếu vọng ngữ có ích
cho xă hội, quốc gia th́ chẳng ngại tùng quyền.
Trần Tư Bại hỏi Lỗ Chiêu Công có biết
lễ hay chăng? Khổng Tử đáp: “Biết lễ”[31] là nhằm nói về ư này! Vô ích
đối với xă hội, quốc gia th́ chẳng
chịu oan khuất, như Nhạc Chánh Tử chẳng
chấp nhận cái đỉnh giả mạo là Sàm
Đỉnh[32] chính là v́ lẽ này! Vọng ngữ là
chính ḿnh chịu lỗi nhằm làm lợi người khác,
đó là lợi ích chung. Đấy chính là bỏ ḿnh
để theo người khác. Nếu dối gạt
người khác, để chính ḿnh được lợi,
quả thật đă tổn hại người khác mà
cũng tổn hại chính ḿnh. Lại nữa, một
người ăn một người no, mọi
người ăn mọi người no. Suy nghĩ
điều ấy th́ há c̣n có ǵ mờ mịt nữa ư?
Phật Học Vấn Đáp
Loại Biên
Phần 4
hết
[1] Nguyên văn “thị
đan phi tố”. Đây là một thành ngữ, nếu
hiểu theo nghĩa đen là chuộng sắc đỏ
thắm, ghét những ǵ trắng nhợt, hiểu theo
nghĩa rộng th́ đây là một thành ngữ chê bai
kẻ lắm thiên kiến, cái tâm phân biệt, yêu ghét quá
mạnh!
[2] Kinh Sở c̣n gọi là Kinh Châu, tức
là một trong chín châu của cổ Trung Hoa. Chữ Kinh
Sở thường dùng để chỉ nước
Sở thời Xuân Thu. Vùng Kinh Sở thuộc địa bàn
các tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam hiện thời.
Thời cực thịnh, nước Sở bao gồm các
vùng Hồ Bắc, Trùng Khánh, An Huy, Giang Tô, Giang Tây, Chiết
Giang, Quư Châu, và một phần Quảng Đông; nhưng
hễ nói tới Kinh Sở th́ chỉ là vùng Hồ Bắc
và Hồ Nam.
Ngô chỉ vùng Giang Tô hiện thời do vùng này
thuộc địa phận nước Ngô thời Xuân Thu.
Theo truyền thuyết, Tây Bá Châu Thái Vương (Cơ
Đàn Phụ) có ba người con trai là Thái Bá, Trọng
Ung, Quư Lịch. Do Châu Thái Vương thấy con Quư Lịch
là Cơ Xương (Châu Văn Vương) tài giỏi, nên
có ư truyền ngôi cho Quư Lịch để sau này Cơ
Xương sẽ được làm vua. Thấy vậy,
hai người anh bèn bỏ xuống phía Nam sông
Trường Giang, tự cắt tóc, xăm ḿnh giống
như người bản địa, tự xưng là Câu
Ngô. Theo Sử Kư, có hơn một ngàn hộ dân đi theo hai
ông, nên họ trở thành tổ tiên hoàng tộc nước
Ngô. Đến đời vua cuối cùng là Phù Sai,
nước Ngô bị Câu Tiễn (vua nước Việt)
diệt quốc.
Chữ Việt (越) chỉ tỉnh Chiết Giang (khác
với chữ Việt (粵) chỉ
tỉnh Quảng Đông). Lănh thổ nước Việt
thời Xuân Thu bao gồm các huyện thị Chư Kỵ,
Đông Dương, Nghĩa Ô và Thiệu Hưng hiện
thời. Chỉ biết tổ tiên của hoàng thất
nước Việt là họ Tự, nhưng không rơ lập
quốc năm nào. Sử Kư chỉ chép vị vua đầu
tiên là Vô Dư vốn là con thứ của vua Thiếu Khang
nhà Hạ. Nước Việt trở nên quật
cường sau khi Câu Tiễn diệt nước Ngô,
nhưng truyền đến đời vua thứ bốn
mươi ba là Vô Cương th́ bị nước Sở
diệt quốc. Con thứ hai của Vô Cương là Minh
Di được vua Sở cho cai quản vùng Ngô Thành ở
phía Nam núi Âu Dương nên có hiệu là Âu Dương
Đ́nh. Do đó, những người mang họ Âu, Âu
Dương, Âu Hầu tại Trung Hoa đều là hậu
duệ của hoàng thất nước Việt.
Do các vùng này không thuộc Trung Nguyên, đều
nằm về phía Nam Trường Giang, nên sử sách
vẫn coi là vùng biên địa.
[3] Chư Phùng là một địa danh
cổ, chưa biết đích xác ở nơi đâu. Câu “Thuấn sanh ư Chư Phùng”
trích từ sách Mạnh Tử, thiên Ly Lâu Hạ. Dương
Bá Tuấn chú giải: “Chư
Phùng theo truyền thuyết cách huyện Hà Trạch tỉnh
Sơn Đông năm mươi dặm về phía Nam”, có
thuyết nói Chư Phùng thuộc tỉnh Sơn Tây.
Kỳ Châu nay thuộc huyện Kỳ Sơn, tỉnh
Thiểm Tây. Nói là Tây Di hay Đông Di là v́ họ không
thuộc dân tộc Hoa Hạ sống tại Trung Nguyên.
[4] Hoàng Cân là giáo phái do Trương Giác sáng
lập, âm mưu lật đổ nhà Hán, giáo đồ
đầu quấn khăn vàng nên gọi là Hoàng Cân (khăn
vàng).
[5] Bạch Liên Giáo là một tà phái xuất
hiện dưới thời Nguyên. Thoạt đầu Mâu
Tử Nguyên hâm mộ tông phong của tổ Huệ
Viễn, nên lập liên xă cho tại gia cư sĩ với
mục đích kết xă niệm Phật; nhưng dần
dần bị biến chất, pha tạp, mang cơ cấu
tổ chức thành giáo đoàn, phát sanh rất nhiều
tệ đoan. Sau khi Mâu Tử Nguyên chết, Tiểu Mâu Xà
Lê kế thừa, càng bành trướng mạnh mẽ ở
phương Nam, thậm chí có những hành vi phạm pháp
luật. Đồng thời pha trộn rất nhiều phù
chú, đề xướng Tam Giáo Hợp Nhất, nhấn
mạnh đến sự ra đời của Phật Di
Lặc trong một tương lai rất gần, thậm
chí, có những lănh tụ tự xưng là hóa thân của Di
Lặc Phật. Đến nỗi có những lănh tụ
Bạch Liên tự xưng là Hoạt Phật, gọi vợ
ḿnh là Phật Mẫu Đại Sĩ. Từ tín
ngưỡng A Di Đà Phật ban đầu, họ
đổi sang Đương Lai Hạ Sanh Sa Bà Giáo Chủ
(Di Lặc Phật), vay mượn rất nhiều h́nh thức
kỳ bí của Minh Giáo (hậu thân của Bái Hỏa Giáo Ba
Tư), nên lấy biểu tượng hoa sen trắng trong
lửa làm đối tượng thờ phụng chính. Do
thế lực mạnh họ đă làm nhiều lần
khởi nghĩa làm loạn, chẳng hạn như năm
Chí Nguyên 17 (1280) đời Nguyên Thế Tổ, Đỗ
Vạn Nhất xưng là Đỗ Thánh Nhân, lấy
hiệu là Thiên Vương, nhưng nhanh chóng bị dẹp
tan. Năm Thái Định thứ hai (1325), Triệu Sửu
Tư và Quách Bồ Tát tuyên truyền “Di Lặc Phật
sẽ lấy cả thiên hạ” để dấy loạn,
loạn Hồng Cân do Bạch Liên Giáo khởi xướng
vào năm Chí Chánh 11 (1351), Châu Nguyên Chương đă
dựa vào thế lực của Hàn Sơn Đồng lănh
tụ Bạch Liên Giáo để khởi sự lật
đổ nhà Nguyên, lập ra nhà Minh.
[6] Dưới thời Khang Hy, Lưu Tá
Thần sáng lập Bát Quái Giáo (hoặc Ngũ Huân
Đạo, Thâu Nguyên Giáo, Thanh Thủy Giáo). Tuy gọi là
đạo mới, đây cũng chỉ là một chi
lưu của Bạch Liên Giáo. Lưu Tá Thần từng theo
Bạch Liên Giáo và Hoàng Thiên Đạo rồi tách ra, tự
lập giáo. Tên ban đầu là Thâu Nguyên Giáo, nhưng do
dựa theo Bát Quái để chia giáo đồ thành tám khu
vực, nên gọi là Bát Quái Giáo. Tà phái này thịnh hành
tại Trực Lệ, Sơn Tây, Hà Nam v.v... hết sức
cường điệu Tam Giáo Hợp Nhất, nhưng
lấy tu luyện nội đan làm chính để mê
hoặc tín đồ. Đến năm Càn Long 16 (1751),
Vương Luân nhập giáo, bắt đầu truyền bá
một chi phái mới là Thanh Thủy Giáo, tự xưng là
hoàng đế, nên bị nhà Thanh đàn áp. Tới niên
hiệu Gia Khánh, Lư Văn Thành và Lâm Thanh lại đề
xướng một chi phái gọi là Thiên Lư Giáo (từ
đây lại tách ra các chi phái mới như Thiên Địa
Giáo, Bạch Dương Giáo, Vinh Hoa Hội). Họ tự
xưng thông đạt thiên văn, biết trước
mọi chuyện trong cơi đời, âm mưu phản Thanh
phục Minh, cấu kết với bọn thái giám, hẹn
ngày khởi sự tấn công vào Tử Cấm Thành. Sự
việc bại lộ, Lâm Thanh bị giam, Lư Văn Thành
bị đốt chết. Sau khi Ngô Đắc Vinh, giáo
chủ Bát Quái Giáo bị bắt, xử tử, Mă Vạn
Lương kế nhiệm làm giáo chủ, đến
đời con là Mă Tiến Trung lại đổi tên thành
Minh Thiên Giáo. Dù tên gọi như thế nào đi nữa,
vẫn chỉ là nhập nhằng mượn danh Tam Giáo
để thu hút tín đồ, chẳng hạn họ
bịa ra những nhân vật như Vô Vi Lăo Tổ, Vô Sanh
Lăo Mẫu, bảo đó là đấng sanh thành trời
đất, vũ trụ, chư Phật, Bồ Tát, chư
vị thần thánh v.v...
[7] Thật ra, “phương cân” ở
đây là một loại măo mềm, không có tai, dành cho văn
nhân vào thời Minh.
[8] Nguyên văn “miện
lưu phủ phất”. Miện (冕) là măo b́nh thiên của vua (h́nh giống
như cái ống, trên đỉnh có tấm đậy
nằm ngang, h́nh chữ nhật, trước mặt
thả nhiều chuỗi châu, thông thường là chín
chuỗi châu). Lưu (旒) là cái
tua của mũ miện. Phủ (黼) là thêu thùa xen kẽ hoa văn giống
như h́nh lưỡi búa, cán đen, nhằm tượng
trưng cho uy quyền. Có thuyết nói phương Tây
sắc trắng, phương Bắc là Thủy, sắc
đen, thêu xen lẫn đen trắng, ngụ ư kiên
cường, nhưng vẫn uyển chuyển mềm
dẻo, ân uy cùng vận dụng. Phất (黻) là lối thêu hoa
văn xanh và đen xen kẽ, giống như h́nh hai chữ Dĩ (已) đâu lưng với nhau. Loại hoa
văn này ta thường gọi là “chạy triện” nhằm viền quanh mép áo mũ
cho đẹp.
[9] Tôn Thúc Ngao (c̣n gọi là Vi Ngao, Vi
Ngải Liệp, hoặc Vi Nhiêu), thuộc gia tộc
Mỵ, họ Vi, tên Ngao, tự là Tôn Thúc. Do người
thời Tiên Tần hay gọi tên tự trước tên riêng
nên ông được gọi là Tôn Thúc Ngao. Tôn Thúc Ngao làm
tướng quốc (lệnh doăn) dưới thời
Sở Trang Tương, đă cống hiến rất
lớn cho sự cường thịnh của nước
Sở bằng tài năng quân sự và nông nghiệp của
ḿnh. Ông cũng được coi là một kỹ sư
thủy lực tiên phong của Trung Hoa cổ đại.
Ông từng vâng lệnh đắp một cái đập
ở tỉnh An Huy dài sáu mươi hai dặm, cũng
như xây dựng hệ thống kinh đào. Hệ
thống hồ chứa nước do ông xây dựng
đến nay vẫn c̣n di tích tại An Huy. Thuở bé, Tôn
Thúc Ngao ra đồng chơi thấy một con rắn hai
đầu. Người thời ấy tin ai thấy
rắn hai đầu sẽ chết, Tôn Thúc Ngao nghĩ ta
chết cũng đành, chẳng nỡ để
người khác cũng chết, nên đập chết
rắn (có thuyết nói chém chết), đem chôn đi. Tuy làm
quan to, uy quyền cực đỉnh, ông vô cùng liêm khiết
đến nỗi khi mất, con cháu không có tiền
để mua ḥm liệm.
[10] Kinh Khởi Thế, c̣n gọi là
Khởi Thế Nhân Bổn Kinh, gồm có mười
quyển, chia thành mười hai phẩm, do ngài Tam Tạng
Xà Na Quật Đa người xứ Thiên Trúc dịch vào
đời Tùy. Nội dung kinh này giải thích sự h́nh
thành, phát triển, tổ chức và diệt vong của
vũ trụ. Những bản dịch khác của kinh này là
Đại Lâu Thán Kinh do ngài Pháp Cự và Pháp Lập dịch
vào thời Tây Tấn, kinh Khởi Thế trong bộ
Trường A Hàm do ngài Phật Đà Da Xá và Trúc Phật
Niệm cùng dịch, Khởi Thế Nhân Bổn Kinh do ngài
Đạt Ma Cấp Đa dịch vào đời Tùy. Bộ
luận Phật Thuyết Lập Thế A Tỳ Đàm
Luận (do ngài Chân Đế dịch) cũng chứa
đựng những ư nghĩa liên quan đến bộ kinh
này.
[11] Thường Nga (嫦娥) c̣n gọi là Hằng Nga (姮娥)
là một nhân vật
thần thoại, rất xinh đẹp, vợ của
Hậu Nghệ. Do uống trộm thuốc tiên do Hậu
Nghệ xin từ chỗ Tây Vương Mẫu nên bất
tử, sợ chồng hành hung nên trốn lên cung trăng. Có
thuyết nói Thường Nga sau khi lên mặt trăng
liền biến h́nh thành con cóc (thiềm thừ) để
Hậu Nghệ khỏi bắt được. V́ thế,
mặt trăng c̣n gọi là Thiềm Cung. Có thuyết nói
Thường Nga ở trong cung Quảng Hàn, có thỏ
ngọc và Ngô Cang bầu bạn. Cũng giống như nhân
vật thằng Cuội trong truyện cổ Việt Nam,
Ngô Cang người huyện Tây Hà, là tiều phu; nhưng
“chàng Cuội” của Trung Hoa say mê tu tiên. Tuy vậy,
chẳng chuyên tâm học tập, Thiên Đế nổi
giận, đày lên cung trăng bắt đốn cây quế
để tu tập đạo tiên. Cứ mỗi lần
Ngô Cang đốn được một nửa, cây quế
lại mọc lên tươi tốt như cũ, nên cứ
phải cặm cụi đốn măi.
[12] Theo kinh Biệt Dịch Tạp A Hàm,
quyển năm, tỳ-kheo Cù Già Lê (Kokālika) thân với
tỳ-kheo Đề Bà Đạt Đa, thường
hủy báng tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên. Đại Phạm Vương liền hiện thân
khuyên bảo, nhưng Cù Già Lê cậy ḿnh thông minh bèn châm
chọc: “Ông đă đắc A Na Hàm phải không?” “Đúng
thế!” “A Na Hàm là Bất Lai, cớ sao nay ông vẫn
đến đây làm Đại Phạm Thiên Vương vậy?”
Đại Phạm Vương biết cảm hóa không
được, cảm thán nói kệ xong biến mất.
Cùng với Ca Lưu Lô Đề Xá, Cù Già Lê là trợ
thủ đắc lực cho Đề Bà Đạt Đa phá Tăng. Ông này bị
đọa địa ngục A Tỳ do vu cáo ngài Mục
Kiền Liên hoang dâm.
[13] Chiến Giá (Cinca Manavika), c̣n dịch là
Chiên Xà, hoặc Giá Ma Na bị bọn ngoại đạo
mua chuộc, độn bụng, vu cáo Phật đă ăn
nằm với cô ta đến nỗi bụng mang dạ chửa,
đến trước Phật khóc lóc, chê trách Phật
trốn tránh trách nhiệm, toan làm dữ. Đức
Phật thản nhiên: “Chuyện này ta biết, ngươi
biết”. Tăng chúng xôn xao,
kẻ thiếu tin tâm vội vă đứng dậy, toan
bỏ Phật, do đám đông chen lấn, khúc gỗ
độn bụng cô ta tuột ra, khiến sự thật
được vạch trần. Sách Tây Vực Kư quyển
sáu ghi rơ: “Cách cái hầm nơi
Cù Già Lê bị đọa hơn tám trăm bước
về phía Nam là nơi cô gái Bà La Môn Chiến Giá hủy báng
Như Lai nên đọa địa ngục ngay trong khi c̣n
sống”.
[14] Ở đây người hỏi đă
lầm lẫn giữa hai vị Ca Diếp. Đại Ca
Diếp là Sơ Tổ thứ nhất của Thiền Tông,
là vị chủ tŕ kết tập kinh điển sau khi
Phật nhập diệt, chính là vị có hạnh
Đầu Đà bậc nhất. Vị Ca Diếp cho
Phật ngủ trong hang có rồng độc chính là Ưu
Lâu Tần Loa Ca Diếp. Trước khi theo Phật, Ngài
thờ thần lửa, tự nghĩ ḿnh đă chứng A
La Hán, nên Phật mới đến hóa độ.
[15] Hiểu theo nghĩa
rộng, “vương bát” và “ô quy” đều là rùa, nhưng
nếu nói tỉ mỉ, “vương bát” là loài rùa mai
cứng, gồ lên (các loài ba ba, đồi mồi, vích v.v...
đều có thể gọi chung là “vương bát”), c̣n “ô
quy” là rùa đen, mai dẹp.
[16] Nguyên văn “măi
độc hoàn châu” (買櫝還珠) là một từ ngữ châm biếm
kẻ chẳng biết giá trị, giống như thấy
cái rương đẹp đẽ bèn chỉ mua cái
rương ấy, không màng đến châu báu chứa trong
đó.
[17] Câu chuyện này được chép trong
kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương quyển
bốn, phẩm Lưu Thủy Trưởng Giả Tử.
Đúng ra là mười ngàn con cá.
[18] Đây là phù hiệu của Tiên Thiên
Đạo và Nhất Quán Đạo, gồm một h́nh
tṛn, có vạch thẳng chính giữa chia thành hai nửa
bằng nhau, giữa hai nửa lại có hai chấm tṛn
nhỏ. Họ giải thích đây là chữ Mẫu (母) trong tiếng Hán xoay ngang 90 độ,
tượng trưng cho vị thần chủ chốt
của họ, tức Vô Cực Lăo Mẫu, nửa
trước của phù hiệu này là mẹ linh tánh, nữa
sau là mẹ của cái thân huyết nhục.
[19] Diêu Tŕ Kim Mẫu chính là Tây Vương
Mẫu. Đạo giáo đă phong tặng bà một danh
hiệu rất dài là Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Linh
Thái Chân Kim Mẫu Nguyên Quân, và coi bà là một nữ thần
cao nhất trong Đạo Giáo. Nhất Quán Đạo coi bà
chính là Vô Cực Lăo Mẫu. Thông thường, để
giải thích nguồn gốc của vị nữ thần
này th́ người ta thường dẫn thuyết bà cùng
Đông Vương Công (Đông Hoa Đế Quân) cùng sanh ra
một lúc do khí Âm Dương trong thiên địa hợp
thành, sanh thành trời đất. Người tu tiên
đắc đạo, phải bái yết Đông
Vương Công, rồi bái yết bà mới được
gặp Tam Thanh. Trong Dậu Dương Tạp Trở,
Đoàn Thành Thức lại bảo Tây Vương Mẫu
họ Dương, tên Hồi, tự là Uyển Cấm,
sống ở phía Tây núi Côn Luân.
[20] Tiên Thiên Đạo vốn bắt
nguồn từ La Tổ Giáo, dư đảng của
Bạch Liên Giáo, do Hoàng Đức Huy (1624-1690) sáng lập,
thường được gọi là Thanh Liên Giáo, Kim
Đan Đạo, hoặc Trai Phỉ trong các văn thư
đời Thanh. Họ chủ trương ăn chay,
nhưng luyện nội đan của Đạo gia,
kể cả tôn thờ những vị thần thánh dân gian,
đặc biệt thờ Minh Minh Thượng Đế
(Vô Cực Lăo Mẫu, Vô Sanh Lăo Mẫu). Họ c̣n dám bịa
đặt là đạo chân truyền do tổ Đạt
Ma truyền qua, sau khi Lục Tổ Huệ Năng loạn
truyền, Thiền đạo suy bại, Thiền pháp chân
truyền được bảo lưu bởi tại gia
cư sĩ, nhất là các vị như Bạch Ngọc Thiềm,
Mă Đơn Dương (các đạo sĩ của Toàn
Chân Giáo), tổ thứ tám là La Úy Quần (La Tổ), tổ
thứ chín là Hoàng Đức Huy, về sau phân ra làm nhiều
chi phái nhỏ nữa. Nhất Quán Đạo bắt
nguồn từ đạo này.
[21] Nguyên văn “hăn
ngưu sung đống”, ư nói sách nhiều đến
chất đầy nhà đến tận kèo, trâu kéo xe
chở sách toát cả mồ hôi!
[22] Tế Công (1133-1209) c̣n được
gọi là Tế Điên Ḥa Thượng, tục danh Lư Tu Duyên
(có nơi ghi là Lư Tâm Viễn), người xứ Thai Châu,
tỉnh Chiết Giang, sống vào thời Nam Tống. Sau
khi, cha mẹ đều khuất núi, Sư xuất gia
tại chùa Linh Ẩn với pháp sư Hạt
Đường Huệ Viễn (Phật Hải Huệ
Viễn), được ban pháp hiệu Đạo Tế,
nhưng Sư chẳng thích tọa thiền, chẳng kiêng
rượu thịt, ưa ăn tỏi và thịt chó, nói
năng điên điên khùng khùng, nhưng chứa đầy huyền cơ. Quần áo xộc
xệch, bẩn thỉu, rách rưới, tay hay cầm
chiếc quạt rách. Mỗi khi tăng chúng bực bội,
xin ngài Huệ Viễn đuổi Đạo Tế đi,
ḥa thượng đều nói: “Cửa
Phật to như thế, chẳng dung nổi một ông
tăng điên khùng ư?” nên người ta gọi
Đạo Tế là Tế Điên từ đó. Sau khi ngài
Huệ Viễn viên tịch, tăng chúng đuổi
Đạo Tế sang chùa Tịnh Từ. Do y thuật tinh
thông, cứu sống rất nhiều người nên
được dân chúng tôn là Tế Công Hoạt Phật.
Trước lúc lâm chung, Sư đọc kệ: “Lục thập niên lai lang
tạ, đông bích đả đáo tây bích, như kim thâu
thập quy lai, y cựu thủy liên thiên bích” (Sáu
mươi năm nhếch nhác, vách đông lăn vách tây, nay
thâu thập trở về, nước chảy tận trời
y như cũ). Sau khi Sư viên tịch, hổ đến
phủ phục trước mộ, nên người ta bèn
dựng tháp thờ.
[23] Thập Tụng Luật, gọi
đầy đủ là Tát Bà Đa Bộ Thập Tụng
Luật là một bộ giới luật dành cho tăng chúng
theo truyền thống Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ (Sarvāstivādin, c̣n phiên âm là Tát Bà Đa Bộ), do
Phất Nhă Đa La và Cưu Ma La Thập dịch sang
tiếng Hán, gồm sáu mươi mốt quyển.
Tương truyền, bộ luật này vốn có tên là Bát
Thập Tụng Luật v́ lúc tôn giả Ưu Ba Ly kết
tập Luận Tạng sau khi đức Phật nhập
diệt, trong thời gian ba tháng kết hạ, Ngài đă
chia thành tám mươi lượt tụng ra. Về sau, do
truyền thừa, Sơ Tổ Đại Ca Diếp cho
đến vị tổ thứ năm đă gạn bớt
những chỗ rườm rà chỉ c̣n lại
mười lần tụng cho nên gọi là Thập Tụng
Luật. Thập Tụng Luật cùng với Tứ Phần
Luật, Ngũ Phần Luật, Ma Ha Tăng Kỳ Luật
được gọi là Tứ Đại Luật
Điển. Do số lượng giới điều
nhiều, cũng như các pháp sự Yết Ma, định
tội, sám hối, oai nghi v.v... rất phức tạp, hàng
cư sĩ tại gia dẫu nghiên cứu th́ cũng
chẳng có ích ǵ, nên cụ Lư mới nói “nếu chưa đọc sách ấy, dẫu nói
nội dung [th́ người nghe] cũng ngơ ngác”.
[24] Đây là những cách viết văn
vẻ của Trung Hoa thời ấy khi tặng lễ vật, “hạ nghi” (賀儀, hạ là chúc mừng) hay “phỉ nghi” (菲儀, phỉ là đơn bạc, kém cỏi)
được dùng khi gởi tặng lễ vật
mừng đám cưới. “Chí nghi” (贄儀) dùng khi biếu tặng lễ vật
lên sư trưởng, cấp trên, hoặc người có
danh vọng. “Chí” vốn có
nghĩa là lễ vật dùng để tương kiến,
tỏ vẻ kính trọng. Thậm chí, học tṛ xin
học, dâng phong bao (hồng bao) chứa một ít tiền
biếu thầy cũng gọi là “chí nghi”; biếu tặng
bề trên như cha mẹ, thầy học vào các dịp
lễ Đoan Ngọ, Thất Tịch, Trung Thu, Trùng
Dương v.v... cũng gọi là “chí nghi”.
[25] “Phổ
Phật” là danh từ gọi chung những nghi thức
tán dương và xưng danh, đảnh lễ một
vị Phật hoặc Bồ Tát nào đó trong Phật môn
Trung Hoa. Thông thường, một nghi thức như
vậy luôn khởi đầu bằng tán hương, sám
hối tam nghiệp, kế đó là trước mỗi danh
hiệu thường có một bài tán, tiếp đó là
xướng danh hiệu, rồi lạy. Phổ Phật
phổ biến nhất là nghi thức lễ Tam Thiên
Phật.
[26] Đây là một
phái trong Lư Học do Vương Dương Minh và Lục
Cửu Uyên chủ xướng. Phái này thường
được gọi là Vương Lục Tâm Học,
đối kháng quan điểm Lư Học của Châu Hy (c̣n
gọi là Tŕnh Châu Lư Học, hoặc Lạc Học, do
đa số các lănh tụ chủ xướng phái này
sống ở Lạc Dương).
[27] Thiên Thu Tiết chính là sinh nhật
của hoàng đế. Lệ này khởi xướng
từ thời Đường Huyền Tông. Sách Hội
Yếu, phần Tiết Nhật chép: “Ngày mồng Năm tháng Năm năm Khai Nguyên 17 (729),
bọn Tả Thừa Tướng Nguyên Càn Diệu, Hữu
Thừa Tướng Trương Thuyết v.v... dâng biểu xin lấy ngày ấy làm
Thiên Thu Tiết. Đến ngày mồng Một tháng Tám
năm Thiên Bảo thứ hai (743), H́nh Bộ Thượng
Thư kiêm Kinh Triệu Doăn Tiêu Cập và trăm quan xin
đổi Thiên Thu Tiết thành Thiên Trường Tiết”.
[28] Thái Thượng Lăo Quân chính là Lăo
Tử. Bản thân Lăo Tử không hề lập ra
Đạo Giáo, chỉ là Đạo Giáo tự tôn xưng
Ngài là giáo chủ của Đạo Giáo. Để phân
biệt triết thuyết của Ngài với Đạo
Giáo, người ta nói Lăo Giáo hoặc Hoàng Lăo. Đạo
giáo do Trương Lăng sáng lập và chỉ “thấy
người sang bắt quàng làm họ” bằng cách bịa
đặt chuyện Lăo Tử trao thiên thư, dạy
đạo cho Trương Lăng, cũng như tôn xưng
Ngài bằng một danh hiệu cực dài và cũng hết
sức lủng củng là Nhất Khí Hóa Tam Thanh Thái Thanh
Cư Hỏa Xích Thiên Tiên Đăng Thái Thanh Cảnh
Huyền Khí Sở Thành Nhật Thần Bảo Quân
Đạo Đức Thiên Tôn Hỗn Nguyên Thượng
Đế. Thông thường, họ chỉ gọi Lăo
Tử là Đạo Đức Thiên Tôn (v́ Ngài viết
Đạo Đức Kinh), Hỗn Nguyên Lăo Quân, Giáng Sanh
Thiên Tôn, Thái Thanh Đại Đế v.v...
[29] Đây là một thứ tà thuyết
chủ yếu do bọn Nhất Quán Đạo bịa ra,
nói niệm Nam-mô A Di Đà Phật sẽ không thể thành
tựu, phải niệm đủ mười chữ “Nam-mô Thiên Nguyên Thái Bảo A Di
Đà Phật” mới có thể đạt đến
cảnh giới tối cao. Chúng rêu rao điều này do
đích thân Di Lặc Phật truyền dạy và những
lời dạy ấy được chép thành một
cuốn kinh gọi là Di Lặc Chân Kinh. Ngoài ra, chúng c̣n
giải thích xằng bậy như thế này: “Nam giả, nguyên lai bổn
thị thiên, Mô tự hậu diện khẩn tương
liên, Thiên giả giáo nhân quy thiên khứ, Nguyên tự ngũ
khí khí triều nguyên, Thái giả giáo nhân đắc thái pháp,
Bảo tự linh nhân bao châu toàn, A giả tạo thuyền
du khổ hải, Di tự sảo thư bả tín
truyền, Đà giả siêu sanh Tây Phương khứ, Phật
tự quy gia hoàn bổn nguyên” (Chữ Nam vốn có
nghĩa là trời, chữ Mô ở ngay sau đó, liên kết
chặt chẽ, Thiên là dạy con người quay về cơi
trời, chữ Nguyên là năm thứ khí cùng chầu về
cùng một nguồn, Thái là dạy con người
đắc pháp rất cao quư, chữ Bảo là nhằm làm
cho con người được trọn vẹn, A là
tạo chiếc thuyền vượt biển khổ,
chữ Di là gởi sách để truyền bá niềm tin,
Đà là siêu sanh về Tây Phương, chữ Phật là
trở về nhà, trở về với nguồn cội)!
[30] Đây là một h́nh thức bịa
đặt bí truyền của tà giáo, “minh sư” sẽ
điểm đạo cho tṛ “đủ tư cách nhập
thất” một thầy một tṛ trong pḥng kín, tṛ cởi
sạch quần áo để thày bấm hay truyền chân khí
(chân linh, tâm ấn hoặc trăm thứ danh từ hổ
lốn khác do họ bịa đặt hoặc cóp nhặt)
lên những huyệt trọng yếu trong thân thể, c̣n
gọi bằng những danh từ mỹ miều như
“khai luân xa”, “đả huyền quan”, “điểm
truyền” v.v...
[31] Đây là một đoạn trích trong Luận Ngữ, thiên Thuật Nhi: “Trần Tư Bại vấn: ‘Chiêu công tri lễ hồ?’ Khổng Tử viết: ‘Tri lễ’. Khổng Tử thoái, ấp Vu Mă Kỳ nhi tấn chi, viết: ‘Ngô văn quân tử bất đảng, quân tử diệc đảng hồ? Quân thủ ư ngô, vi đồng tánh, vị chi Ngô Mạnh Tử. Quân nhi tri lễ, thục bất tri lễ? Vu Mă Kỳ dĩ cáo. Tử viết: “Khâu dă hạnh, cẩu hữu quá, nhân tất tri chi” (Quan chưởng quản tư pháp của nước Lỗ là Trần Tư Bại hỏi: “Lỗ Chiêu Công có biết lễ hay chăng?” Khổng Tử đáp: “Biết lễ”. Khổng Tử lui ra, Trần Tư Bại liền chắp tay hướng về Vu Mă Kỳ (học tṛ Khổng Tử) hỏi: “Ta nghe nói quân tử chẳng thiên vị, nào ngờ quân tử cũng bợ đỡ? Vua lấy một người con gái ở đất Ngô làm vợ, do có cùng họ [mà luật nước Lỗ cấm cùng họ lấy nhau] nên vua bèn đổi tên cô ta thành Ngô Mạnh Tử. Nhà vua mà biết lễ th́ có ai mà chẳng biết lễ”. Vu Mă Kỳ thưa lại với thầy, Khổng Tử nói: “Ta thật là may mắn, nếu có lỗi là người khác biết ngay!”). Các nhà b́nh chú cho rằng v́ tránh cảnh bề tôi tự tiện công kích vua, gây rối trật tự xă hội, nên Khổng Tử phải nói như vậy; rồi khi bị chỉ trích bèn nhận đó là lỗi ḿnh để dứt hiềm nghi.
[32] Sàm Đỉnh (讒鼎) là một cái
đỉnh nổi danh thời Chiến Quốc,
được coi là quốc bảo của nước
Lỗ, các nước chư hầu đều thèm
muốn. Tề đánh Lỗ, đ̣i giao nộp Sàm
Đỉnh. Vua Lỗ giấu đỉnh thật đi,
giao một cái đỉnh giả (Nhạn Đỉnh) cho
Tề. Vua quan nước Tề vây quanh xem xét, bán tín bán
nghi, hỏi: “Thật hay giả?” Sứ giả thưa:
“Thật”, vua Tề bảo: “Hăy mời Nhạc Chánh Tử
đến đây, [nếu ông ta nói là đúng] th́ ta mới
tin”. Vua Lỗ bèn mời Nhạc Chánh Tử (người
hiền nổi tiếng trung tín thời ấy) đến
thương lượng. Nhạc Chánh Tử hỏi: “Sao
không đem đồ thật đưa cho họ?” Vua
Lỗ nói: “Ta quư cái đỉnh ấy quá, làm sao giao
được?” Nhạc Chánh Tử đáp: “Tôi cũng quư
sự trung tín của tôi”.