Phật thuyết Thanh Tịnh
Tâm Kinh
Giảng Kư (1)
Lăo Pháp Sư Tịnh Không chủ giảng
Năm 1992 tại Đại Giác Liên Xă, Cựu Kim Sơn, Hoa Kỳ
Tâm Tịnh ghi, Hàn Anh kiểm giảo
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Đề mục kinh này vô cùng rơ ràng, nội
dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu.
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta
phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết
đến đạo lư “tâm tịnh cơi nước tịnh”.
Do đây biết rằng: đối với việc tu học
Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu.
Người
phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người
ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời
Nam Bắc Triều.
Chánh
kinh:
Phật
Thế Tôn, nhất thời tại Xá Vệ quốc, Kỳ
Thọ Cấp Cô Độc Viên, dữ tỳ-kheo chúng câu.
(Một
thời, đức Phật Thế Tôn ở tại nước
Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ
Đà, cùng các vị tỳ-kheo câu hội)
Đoạn
kinh văn này phần đầu thiếu mất câu “như
thị ngă văn” là v́ kinh điển được
phiên dịch trong giai đoạn sơ khởi chẳng tuân
thủ thể lệ chánh quy, nhưng Lục Chủng Thành
Tựu vẫn đầy đủ [như các kinh dịch
trong các giai đoạn về sau]. Phật Thế Tôn là Chủ
Thành Tựu, “nhất thời” là Thời Thành Tựu, “tại
Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên”
là Xứ Thành Tựu, chỗ này rất quen thuộc đối
với chúng ta, kinh Di Đà cũng được tuyên giảng
tại đây. “Dữ tỳ-kheo chúng câu” là Chúng Thành Tựu.
Sáu thứ này hoàn toàn đầy đủ.
Đoạn
thứ hai thuộc về phần Chánh Tông của kinh này. Luận
về thể lệ phiên dịch kinh điển quen dùng,
phàm đầu đề mục kinh nào có đề hai chữ
“Phật Thuyết” th́ chứng tỏ kinh ấy do chính
đức Phật nói, chứ chẳng phải là người
nào khác nói. Kinh này giống hệt như kinh Di Đà, không có
ai khải thỉnh, đức Phật tự nói ra, kinh
điển Vô Vấn Tự Thuyết (không ai hỏi mà tự
nói) nhất định rất trọng yếu.
Trong nền
giáo dục Phật giáo, nói thật ra, “tâm thanh tịnh” là một
đề mục giáo dục tối trọng yếu. Chẳng
cần biết tông nào, pháp môn nào, chỉ có phương pháp
sai biệt, chứ mục tiêu tu học hoàn toàn nhất trí,
tức là phải tu sao cho tâm thanh tịnh. Tịnh Độ
Tông gọi tâm thanh tịnh là “nhất tâm bất loạn”,
cũng như nhà Thiền gọi là “thiền định”,
bên Giáo gọi là “chỉ quán”, c̣n như Mật giáo gọi
là “tam mật tương ứng”. Toàn bộ những
danh từ ấy chỉ là tên gọi khác nhau của tâm thanh
tịnh mà thôi. Bởi thế, đối với việc
giáo dục, dù chẳng ai khải thỉnh, Ngài cũng đặc
biệt nêu ra để dạy dỗ.
Chánh
kinh:
Phật
cáo chư tỳ-kheo ngôn:
(Phật
bảo các tỳ-kheo rằng)
Đây là
Phật bảo cùng đại chúng xuất gia.
Chánh
kinh:
Nhữ
đẳng đế thính!
(Các ông lắng
nghe)
“Đế
thính” là nghe thật kỹ càng, nỗ lực lắng
nghe.
Chánh kinh:
Nhược
chư Thanh Văn tu tập chánh hạnh, dục đắc
thanh tịnh tâm giả.
(Nếu các Thanh
Văn tu tập chánh hạnh, muốn đạt được
tâm thanh tịnh)
Trước
hết, Ngài nêu lên đề mục giảng dạy. Chữ
“chư Thanh Văn" chỉ các vị học pháp Tiểu
Thừa; từ Sơ Quả cho đến Tứ Quả
hoàn toàn bao gồm trong loại này.
“Tu tập chánh hạnh”: Chúng ta biết Chánh Hạnh của
người tu Tiểu Thừa là Ba Mươi Bảy Đạo
Phẩm, trung tâm là Bát Chánh Đạo. Thật ra, Ba
Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo không phải
chỉ dành riêng cho người học Tiểu Thừa,
người học Đại Thừa cũng chẳng thể
thoát ra ngoài được. Chúng ta thấy trong trước
tác của Thiên Thai đại sư, Tứ Niệm Xứ
được phân thành bốn giáo Tạng, Thông, Biệt,
Viên để giảng. Tứ Niệm Xứ của Tạng
Giáo đương nhiên là Tiểu Thừa; Thông Giáo, Biệt
Giáo, Viên Giáo thuộc về Đại Thừa. Tiểu Thừa
có Tứ Niệm Xứ; Đại Thừa cũng có Tứ
Niệm Xứ. Tiểu Thừa có Bát Chánh Đạo, Đại
Thừa có lúc nào không có Bát Chánh Đạo? Do đó biết
là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm chung cho hết thảy
Phật pháp, chẳng riêng ǵ Đại Tiểu Thừa, Tông
Môn, Giáo Hạ, Hiển, Mật thảy đều viên măn đầy
đủ. Nh́n từ góc độ này, lời Phật khai
thị vừa sâu vừa rộng, nào phải chỉ hạn
cuộc nơi Tiểu Thừa Thanh Văn; chúng ta phải
đặc biệt chú ư điều này.
“Muốn đạt
được tâm thanh tịnh” chính là trọng điểm của toàn bản kinh
này, nghĩa là làm thế nào mới ḥng đạt được
tâm thanh tịnh? Chuyện này rất quan trọng đối
với việc tu hành của chúng ta vậy.
Chánh
kinh:
Đương
đoạn ngũ pháp, tu tập thất pháp, nhi linh viên măn.
(Nên dứt
năm pháp, nên tu tập bảy pháp sao cho viên măn)
Ở
đây phải đặc biệt chú ư câu “sao cho viên măn”.
Nếu quả thật có thể tu tập đến mức
viên măn - nếu dùng Tứ Giáo để luận - th́
cũng có thể đạt tới Viên Giáo, lại càng chẳng
phải là pháp Thanh Văn thuần túy vậy. Phật dạy
chúng ta phải đoạn năm pháp, năm pháp ấy là những
pháp nào?
Chánh
kinh:
Nhất tham dục;
nhị sân khuể, tam hôn trầm thùy miên; tứ trạo hối,
ngũ nghi. Thử ngũ cái chướng ưng
đương trừ đoạn.
(Một
là tham dục; hai là nóng giận; ba là hôn trầm say ngủ;
bốn là lao chao, hối hận; năm là ngờ vực.
Năm thứ cái chướng này phải nên trừ dứt)
“Cái”
là che đậy. “Chướng” là chướng ngại.
Nói cách khác, năm thứ trên che đậy cái tâm thanh tịnh
của chúng ta, khiến tâm thanh tịnh chẳng thể hiện
tiền, hoàn toàn bị chướng ngại, chứ nào phải
chẳng có tâm thanh tịnh. Do vậy, nhất định
phải trừ khử năm thứ này. Tiếp theo
đây, chúng ta bàn về từng thứ.
Thứ
nhất là tham dục. [Khi nói] Tham th́ đại đa số
là nói về thuận cảnh. Con người gặp lúc vừa
ḷng xứng ư, chẳng cần biết là hoàn cảnh tinh thần
hay hoàn cảnh vật chất, cứ hễ cái ǵ thuận
theo ư ḿnh bèn khởi tâm tham ái. Dục là dục vọng; nhà
Phật gọi là Ngũ Dục, thế gian gọi là Thất
T́nh. Thất T́nh Ngũ Dục người đời có ai
chẳng tham ái hay chăng? Bởi tham ái Thất T́nh Ngũ
Dục nên chẳng thể thoát khỏi luân hồi, học
Phật cũng chẳng thể thành tựu, học Thiền
cũng chẳng thể “đắc Định”, niệm Phật
th́ hăy khoan nói đến “nhất tâm bất loạn”, dù
chỉ “công phu thành phiến” cũng vẫn chẳng
thể thành công, học Giáo chẳng thể “khai ngộ”,
nguyên nhân chỉ v́ chẳng thể buông Ngũ Dục Thất
T́nh xuống được.
“Tánh
Đức” là do bổn tánh hiển lộ. Bổn Tánh phát
khởi tác dụng th́ gọi là “Tánh Đức”. Bổn
Tánh viên măn, Tánh Đức cũng viên măn. Tam Học nơi
Tánh Đức là Giới, Định, Huệ. “Giới Học”
có nghĩa là điều ǵ cũng phải ǵn giữ. Bởi
thế, chúng ta cần hiểu rơ: Nói riêng về Giới
trong Tam Học Giới - Định - Huệ của Đại
Thừa Phật pháp th́ Giới tuyệt đối chẳng
phải chỉ hạn cuộc trong Ngũ Giới, Bát Giới,
Thập Giới, Tỳ Kheo Giới, Bồ Tát Giới! Giới
Học viên măn có nghĩa là hết thảy những lời
đức Phật giáo huấn chúng ta đều là Giới
Học, đều phải tuân thủ, nó cũng là từ
Tánh Đức lưu lộ.
Nói cách khác, xử thế,
đăi người, tiếp vật đúng lư đúng pháp. Nếu
như c̣n có tham dục tức là chẳng đúng lư đúng
pháp; v́ vẫn c̣n có “tư tâm” th́ Tánh Đức chẳng thể
hiện tiền. Bởi thế, đức Phật dạy
chúng ta phải đoạn trừ tham dục và tư tâm. Nói
ra rất có đạo lư, nghe dễ dàng sao, nhưng đoạn
trừ rất khó. Bởi lẽ, hễ c̣n chưa phá
được Ngă Chấp th́ khởi tâm động niệm,
điều ǵ cũng là v́ ḿnh: tôi tham, tôi si, tôi mê. Muốn
đoạn trừ dục vọng th́ trước hết
phải buông xuống, cơ sở để buông xuống
là “khán phá” (thấy rỗng toang). Cứ hễ khán phá được
th́ sẽ tự nhiên buông xuống được.
Người
học Phật có hai hạng nhất định có thành tựu:
a) Một là người
thông minh phi thường, nhà Phật thường gọi là
“thượng căn lợi trí”. Hạng người
này vừa nghe Phật pháp, giác ngộ ngay lập tức.
Sau đó bèn chân chánh y giáo phụng hành, hạng người
như vậy nhất định có thể thành tựu.
b) Hạng người
thứ hai là “thiện căn sâu dày”. Hạng người
đối với những lời giáo huấn của Phật,
Bồ Tát bèn nỗ lực vâng làm, họ chẳng cần biết
đến lư luận, cứ dựa theo lời chỉ dạy
của Phật mà làm theo. Hạng người chân thật
như thế có thể thành tựu.
Con người chân thật
chẳng phải là đơn giản đâu nhé, xét về mặt
văng sanh, người thượng căn lợi trí chẳng
theo kịp được họ. V́ sao người chân thật
có được thành tựu như thế? Chúng tôi đọc
Đại Kinh rồi mới hiểu rơ. Nguyên do là hạng
người này trong đời quá khứ, đời đời
tu tập, tích lũy vô lượng thiện căn, trong
đời này nhân duyên thành thục, bèn đối với lời
giáo hối của Phật, Bồ Tát chẳng hề so
đo cứ y giáo phụng hành, cho nên được thành tựu.
Hạng thượng căn lợi trí, trí huệ thông minh
tuyệt đỉnh ta học theo chẳng được,
nhưng học theo người chân thật chúng ta đều
có thể học được.
V́ sao người chân
thật nghe được, c̣n chúng ta nghe chẳng
được? Chúng ta nghe những điều Phật dạy
trong kinh thảy đều châm chước, cắt xén đi
rất nhiều cho nên chẳng thể thành tựu. Mọi
người hăy nên hoàn toàn y giáo phụng hành; điều này
chúng ta phải nhớ kỹ, phải tích cực tu tập!
Bởi vậy mới
nói chúng ta đời đời kiếp kiếp bị tham
dục tàn hại khổ sở thê thảm phi thường.
Nếu trong một đời này vẫn chẳng thể bỏ
ĺa nó th́ chuyện cầu sanh Tịnh Độ trong
tương lai của chúng ta nhất định gặp
chướng ngại. Người nào muốn thành tựu
thật sự th́ đối với bất cứ pháp xuất
thế hay pháp thế gian nào cũng đều phải quyết
định chẳng có tâm tham. “Thiểu dục tri túc”,
bớt đi dục vọng, thường giữ cái tâm biết
đủ. Người sống trong thế gian ăn
được no, mặc được ấm, có
được một căn nhà nhỏ để che
mưa đụt nắng là đủ quá rồi. Phật
pháp có vô lượng vô biên pháp môn, nhưng ta chỉ cần
chọn lấy một pháp môn, trong hết thảy kinh
điển ta chỉ cần học theo một bộ kinh
điển, đó gọi là “thiểu dục”. Liên Tŕ đại
sư về già, hoàn toàn buông bỏ các kinh điển, chỉ
c̣n giữ lại mỗi kinh Di Đà, một câu Phật hiệu,
các thứ khác đều chẳng cần đến nữa.
Như vậy mới là hành thiểu dục tri túc rất
viên măn. Nếu đối với rất nhiều pháp môn, kinh
điển, Đông cũng muốn học, Tây cũng toan học
th́ càng học càng khổ, lại cũng chẳng dễ ǵ
thành công!
Tôi lại thưa cùng
quư vị đồng tu để mọi người có tâm
quyết định, tôi chứng minh cho mọi người
thấy. Chúng ta thường nghe trong nhà Phật nói: “Một
kinh thông suốt, hết thảy kinh thông suốt”. Câu nói
này ngàn vạn phần đúng đắn, tuyệt đối
chẳng hư giả, măi đến năm nay tôi mới chứng
nhập được cảnh giới này. Trước
kia, chẳng cần biết giảng kinh tại đâu, tự
ḿnh phải mang theo bộ kinh, trong đó có những câu ḿnh
ghi chú. Năm nay những kinh có những lời ghi chú đó
tôi không cần dùng đến nữa. Bởi thế, quư vị
mời tôi giảng kinh, cứ tùy tiện lấy một bản
kinh nào trong Đại Tạng ra, tôi cũng đều có thể
giảng giải cho mọi người, chẳng cần phải
chuẩn bị trước. Điều này xác chứng lời
cổ nhân nói “một kinh thông suốt, hết thảy
kinh thông suốt” ngàn vạn phần xác đáng. Nếu
muốn học thật nhiều kinh điển th́ do v́ quá
phiền phức, quá hỗn tạp, chỉ e cả một
đời này một kinh cũng chẳng thể thông, sao
không tập trung tinh lực để thâm nhập một
môn vậy? Cổ Thánh Tiên Hiền nói chẳng sai chút nào: “Chẳng
nên tham dục”.
Thứ hai là “nóng giận”.
Sân khuể là nói về nghịch cảnh, tức là những
t́nh huống chẳng như ư. Việc đời cũng tốt,
hoàn cảnh cũng tốt, nhưng gặp sự chẳng
hoan hỷ, chẳng vừa ư, trong tâm bèn chẳng hứng thú.
Sân khuể chẳng những chướng ngại Từ Nhẫn
(từ bi, nhẫn nhục) trong tánh đức viên măn mà c̣n
là nghiệp nhân của đường địa ngục
đấy. Tham dục là nghiệp nhân của ngạ quỷ
đạo. Bỏ ĺa được tham dục, th́ những
sự bố thí cúng dường, tŕ giới đại viên
măn trong bản tánh đều hiện tiền. Nếu chẳng
thể bỏ được th́ chẳng những Tánh Đức
chẳng thể hiện tiền, mà c̣n phải đi làm ngạ
quỷ trong ngạ quỷ đạo nữa! Quả báo sai
khác quá lớn, không những là cách biệt như trời với
đất mà c̣n là không có cách nào để so sánh được.
Đoạn trừ tham, sân th́ Từ Bi, Nhẫn Nhục
nơi Tánh Đức đại viên măn sẽ tự nhiên
lưu lộ hiện tiền, chẳng đến nỗi lại
phải đọa trong Tam Đồ, lại phải đọa
trong ác đạo.
Thứ ba là “thùy miên”.
Thùy miên là biếng nhác. Ham ngủ th́ tinh thần không lên nổi,
ta thường nói là “ư thức hôn trầm”, tinh thần
không thể phấn chấn, tác dụng của năm
căn: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân tự nhiên suy
thoái, mắt chẳng thấy được xa, tai cũng
chẳng nghe được xa, chướng ngại sự
tinh tấn đại viên măn nơi Tánh Đức. Chúng ta
c̣n trong địa vị phàm phu, chẳng thể không ngủ
được, giấc ngủ cũng quan trọng như
ăn uống vậy. Ăn một bữa không no vẫn chẳng
quan trọng lắm, nhưng nếu ngủ một giấc
không ngon, tinh thần dă dượi, không cách nào làm việc
được. Bởi thế, phải ngủ cho ngon,
nhưng đừng có ngủ nhiều quá.
Làm thế nào để
ĺa bỏ ngủ nghỉ? Nói thật ra, người tu hành
do công phu chưa đắc lực, chưa đạt tới
pháp hỷ, bèn giải đăi, biếng nhác nên mắc phải
chướng ngại này. Người đời thường
nói: “Nhân phùng hỷ sự tinh thần sảng” (người
gặp chuyện vui, tinh thần sảng khoái). Nếu gặp
phải chuyện cao hứng, ngủ nghỉ đều
quên tuốt, chẳng phải là chuyện không thể xảy
ra. Chúng ta học Phật, niệm Phật tu hành chẳng
đạt được pháp hỷ, cảm thấy tu hành
đau khổ quá, càng tu càng khổ sở, càng cảm thấy
đau khổ, buồn phiền, sẽ nhất định
phải đọa lạc. V́ sao lại có hiện tượng
này? Tôi vừa mới nói đấy thôi: Chưa đạt
được pháp hỷ! Nguyên nhân là dùng công phu chẳng
đúng pháp, chẳng đắc lực, là do đạo lư
này!
Lấy chuyện niệm
Phật mà nói, công phu niệm Phật phải đắc lực,
càng niệm càng hoan hỷ. Nếu như đang cảm thấy
rất mệt mỏi, niệm mấy tiếng Phật hiệu,
tinh thần bèn hăng hái lên, đó là v́ có “nghĩa vị”.
Nghĩa là nghĩa lư, Vị là pháp vị. Đạt
được pháp vị, nghĩa lư chính là chất dinh
dưỡng tối cao. Khi cúng Phật, ta thường chú
nguyện “thiền duyệt vi thực” (thiền duyệt
làm thức ăn). Thiền Duyệt là pháp hỷ đạt
được trong Thiền Định, đây chính là phần
dưỡng chất tốt nhất; tâm thanh tịnh lại
là chất dinh dưỡng càng bổ hơn nữa. Đạt
được chất dinh dưỡng này sẽ chẳng
cần đến thứ ǵ khác nữa cả, tinh thần
mọi người sung măn, thể lực dồi dào.
Nói đúng ra, người
học Phật phải học sao cho mỗi năm tinh thần
một tốt hơn, mỗi năm một cường
tráng hơn. Học Phật như thế công phu vừa
đắc lực vừa đúng pháp, mới đạt
được lợi ích thù thắng nơi Phật pháp. Nếu
chẳng đạt được lợi ích trước
mắt nào, cứ mong tương lai sẽ đạt
được quả báo tốt, thật khó khiến cho
người khác tin tưởng được! Trong Phật
pháp có nói đến hoa báo và quả báo. Những điều
ta đạt được ngay trước mắt là hoa
báo, những điều đạt được trong
tương lai là quả báo. Hoa nở không tốt, làm sao kết
quả tốt cho được? Học Phật phải cầu
như lư như pháp, đấy chính là yêu cầu tối trọng
yếu trước hết.
Bộ kinh này do đức
Phật khi c̣n tại thế giảng cho những người
xuất gia. Người xuất gia ngủ bốn giờ,
nhằm lúc trung dạ. Ở Ấn Độ thời gian
được chia thành ba thời ban ngày, ba thời ban
đêm, một ngày ở Ấn Độ thời cổ là
sáu thời. Trung dạ là từ mười giờ đêm
đến hai giờ sáng, đó là thời gian để
người xuất gia ngủ nghỉ, hai giờ sáng thức
dậy tụng khóa sáng, một ngày chỉ ngủ bốn tiếng
đồng hồ. Hiện tại, chúng ta nghiệp chướng
nặng nề, người Tây Dương đề xướng
ngủ tám tiếng. Ngủ hơn tám tiếng là chẳng
như pháp! Nếu có thể giảm bớt một, hai tiếng,
tôi cho rằng ngủ sáu tiếng là được lắm
rồi. Một phần quang âm là một phần thọ mạng
đấy nhé! Thế gian thường nói: “Một tấc
quang âm, một tấc vàng”. Quang âm trọng yếu
như thế đó, cho nên phải ǵn giữ quang âm quư báu,
nỗ lực tu hành.
Thứ tư là trạo
hối (lao chao, hối hận): Nói đến Trạo và Hối
là nói đến hai sự việc. Trạo là như ta
thường nói “trạo cử”, tức là tâm chẳng yên,
trong tâm vọmg tưởng quá nhiều, giống như cái
guồng kéo nước, bảy cái gầu này đi lên th́
tám cái gầu kia đi xuống. Hai hiện tượng này
là hai chướng ngại cho việc tọa thiền. Người
niệm Phật chúng ta khi đả thất, lúc chỉ tịnh
chướng ngại sẽ phát hiện: trong lúc chỉ tịnh,
ngồi giữa đại chúng, tâm lư bảy lên tám xuống,
liền bị buồn ngủ (hôn trầm). Trong tâm không trấn
định được, vọng niệm tơi bời,
đó là “trạo cử”. Hối là “hối quá”. Hối hận
vốn là việc tốt; nếu về sau hối hận
những lầm lỗi trong quá khứ th́ là chuyện tốt,
nhưng nếu làm những việc tốt mà sau này cũng
hối hận th́ chẳng c̣n tốt nữa rồi. Huống
chi Phật dạy chúng ta chẳng nên “hậu hối” (về
sau hối hận). Bởi lẽ, chúng ta muốn tiêu trừ
tội nghiệp mà cứ mỗi lần nghĩ đến
tội nghiệp đó, ư nghiệp lại tạo thêm tội
nghiệp đó một lần nữa, làm sao tiêu sạch
được nghiệp đây?
Phàm là những bạn
đồng tu học Phật, bất luận là sơ học
hay người tu hành đă lâu, hoàn toàn chẳng có ǵ khác
ngoài việc cầu tiêu tội chướng nghiệp, tiêu
tai khỏi nạn, vấn đề này xem ra rất nghiêm
trọng. Nói chung là phải nghĩ tưởng: “Ḿnh có rất
nhiều nghiệp chướng, ḿnh phải nghĩ cách tiêu
trừ”. Nguyện vọng này rất tốt, nhưng
thường làm sai (phương pháp chưa đúng), chẳng
tiêu nghiệp chướng được! Có lúc áp dụng
lầm, chẳng những nghiệp chướng không tiêu, có
khi lại c̣n tăng thêm nghiệp chướng, nguyên nhân là
v́ “ngu si, mê hoặc”, chưa theo đúng chánh pháp. Thật ra,
hết thảy kinh pháp đều là v́ tiêu nghiệp chướng,
nhưng nếu nghiệp chướng quá nặng th́ tất
cả hết thảy kinh pháp đều mất tác dụng
chẳng thể tiêu trừ tội nghiệp, nhưng vẫn
c̣n cách riêng để tiêu trừ được.
Trong quá khứ, dưới
đời Càn Long có một vị pháp sư tên là Từ Vân
Quán Đảnh, vị pháp sư này rất nổi danh trong lịch
sử Phật giáo Trung Quốc, Ngài để lại cho
chúng ta rất nhiều thứ. Ngài từng nói: “Hết thảy
tội nghiệp chẳng thể tiêu sạch được,
tối hậu, chỉ có niệm A Di Đà Phật mới
có thể thật sự tiêu tai”. Câu này Ngài viết trong
sách Quán Kinh Trực Chỉ là sách chú giải kinh Quán Vô Lượng
Thọ. Do đây, chúng ta mới thật sự thấy là một
câu Phật hiệu công đức chẳng thể nghĩ
bàn, nhưng người biết đạo ít quá. Mấy
năm gần đây, tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ,
ngẫu nhiên cũng đọc cuốn Chú Giải của
lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, bản chú giải của
cụ rất hay, là một bộ đại từ điển
về kinh Vô Lượng Thọ, những lời giải
thích trong đó có thể nói đều là những lời của
các vị tổ sư đại đức Trung Hoa, ngoại
quốc xưa nay. Trong tác phẩm ấy, cụ cũng
trích dẫn lời các vị cao tăng đại đức
thời Tùy, Đường, quan sát toàn bộ Phật giáo,
cụ rút ra kết luận:
Trong một đời
Phật Thích Ca Mâu Ni, đem so sánh hết thảy pháp Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm th́ bộ kinh nào
bậc nhất? Mọi người công nhận kinh Hoa
Nghiêm bậc nhất. Lại nói nếu so sánh kinh Hoa Nghiêm và
kinh Vô Lượng Thọ th́ mọi người thừa nhận
kinh Vô Lượng Thọ bậc nhất, kinh Vô Lượng
Thọ vượt trỗi kinh Hoa Nghiêm. V́ sao kinh Vô Lượng
Thọ là bậc nhất? Chỗ viên măn tối hậu của
kinh Hoa Nghiêm là mười đại nguyện vương
dẫn về Cực Lạc. Nếu chẳng thể dẫn
dắt quy hướng Cực Lạc, kinh Hoa Nghiêm sẽ chẳng
viên măn. Chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm là như thế nên
mới biết kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất.
Cổ nhân chỉ so
sánh đến đó thôi, chứ nếu xét kỹ thêm, kinh
Vô Lượng Thọ có bốn mươi tám phẩm, phẩm
nào là bậc nhất? Đương nhiên phẩm thứ
sáu là bậc nhất. Phẩm thứ sáu là bốn
mươi tám nguyện, là căn bản để y cứ
của Tịnh Tông, do chính đức A Di Đà Phật nói
ra. Trong toàn bản kinh, phẩm này trọng yếu nhất.
Trong bốn mươi tám nguyện, th́ nguyện nào lại
là nguyện bậc nhất? Đối với vấn đề
này, cổ đức công khai thừa nhận nguyện thứ
mười tám là bậc nhất. Nguyện thứ mười
tám là “chấp tŕ danh hiệu”. Có so sánh như vậy mới
hiểu ra bốn chữ A Di Đà Phật vốn là bậc
nhất. Có vậy mới hiểu v́ sao có kinh luận chẳng
tiêu được tội nghiệp, diệt chẳng hết
chướng ngại! Chỉ có một câu A Di Đà mới
có thể tiêu, mới có thể diệt, đây cũng là
điều chứng thực cho câu nói của ngài Từ Vân
Quán Đảnh.
Nhất
là trong thời đại Mạt Pháp này, con người tội
chướng sâu nặng, chỉ có pháp môn Tịnh Độ
mới có thể cứu được. Một câu A Di
Đà Phật bao trùm vô lượng vô biên hết thảy
pháp môn: Tông môn, Giáo hạ, Mật Tông thảy đều bao
gồm trong ấy. Một câu Phật hiệu là pháp môn
đại viên măn, đại tổng tŕ; bởi thế, nó
thật sự có hiệu quả. Người thọ tŕ chiếu
theo pháp này, chết chặt một ḷng, quyết định
chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn,
dụng công đắc lực th́ ba tháng sẽ có thể thấy
hiệu quả. Hiệu quả ǵ vậy? Nói theo cách bây giờ
là “thể chất biến đổi”, lời lẽ,
hành vi, cử chỉ, thân thể, diện mạo thảy
đều cải biến, nhanh th́ ba tháng, chậm th́ nửa
năm ắt sẽ kiến hiệu.
Bởi
thế mới nói là có thể giảm thiểu ngủ nghỉ.
Cho rằng v́ ngủ chẳng đủ nên thân thể không
khỏe, chẳng phải là chuyện cường điệu
quá ư? Nếu thật sự v́ ngủ chẳng đủ
mà thân thể cảm thấy không khỏe th́ hăy mau đi
khám bác sĩ, để xem có phải là sức khỏe có vấn
đề hay chăng? Kinh dạy: “Hết thảy pháp từ
tâm tưởng sanh”. Con người v́ sao già? Chính là v́ ai
nấy sợ già, lại c̣n ngày ngày nghĩ đến cái
già, ngày ngày sợ bệnh nên lại nghĩ đến bệnh;
bèn thật sự đổ bệnh. Sao chẳng nghĩ
đến mạnh khỏe? Chẳng nghĩ đến cơi
ḷng thanh tịnh? Tổ sư đại đức có rất
nhiều vị ngủ rất ít nhưng tinh thần rất
sung măn. Theo như kinh nói chư Phật, Bồ Tát, chư
thiên đều chẳng cần ngủ, nhưng tinh thần
rất sung măn. Chúng ta chẳng thể học theo các Ngài
không ngủ, nhưng đừng có quá tham ngủ, chúng ta phải
thay đổi cái quan niệm đó, bởi lẽ “hết
thảy pháp đều sanh từ tâm tưởng”.
Thứ năm là Nghi:
Nghi là ngờ vực. Mối ngờ vực lớn nhất
là hoài nghi lời Phật, Bồ Tát răn dạy, chẳng
thể tin tưởng sâu xa, chẳng thể tin quyết
định, nghi hoặc có thể gây chướng ngại
cho trí huệ.
Tổng kết những
điều vừa nói trên, đức Phật nói năm thứ
chướng ngại:
a) Thứ nhất, tham
dục chướng ngại sự bố thí, tŕ giới
đại viên măn của tự tánh. Do có tâm tham dục, nhất
định chẳng có tâm bố thí; có ba độc Tham -
Sân - Si, tâm địa chẳng thanh tịnh. Tâm chẳng thể
thanh tịnh th́ c̣n nói ǵ đến tŕ giới nữa
đây?
b) Thứ hai, Sân Khuể
chướng ngại từ bi, nhẫn nhục đại
viên măn nơi tự tánh.
c) Thứ ba, ngủ
nghê chướng ngại tinh tấn đại viên măn
nơi tự tánh.
d) Thứ tư, Trạo
Hối chướng ngại thiền định đại
viên măn của tự tánh.
e) Thứ năm, Nghi
chướng ngại trí huệ đại viên măn của tự
tánh.
Chúng ta muốn viên măn
sáu Ba La Mật, nhưng nếu chẳng trừ khử
năm thứ chướng ngại này sẽ chẳng thể
làm được. Bởi thế, Phật dạy: “Phải
nên trừ đoạn”. Chúng ta tu hành cũng phải khởi
đầu từ chỗ này. Ngoài ra, c̣n có bảy điều
chúng ta phải tu tập.
Chánh kinh:
Hà đẳng thất
pháp? Nhất trạch pháp giác chi, nhị niệm giác chi, tam
tinh tấn giác chi, tứ hỷ giác chi, ngũ khinh an giác
chi, lục định giác chi, thất xả giác chi. Như
thị thất pháp ưng đương tu tập.
(Những ǵ là bảy
pháp? Một là trạch pháp giác chi, hai là niệm giác chi, ba là
tinh tấn giác chi, bốn là hỷ giác chi, năm là khinh an
giác chi, sáu là định giác chi, bảy là xả giác chi. Hăy
nên tu tập bảy pháp như thế)
“Tu” là tu học. “Tập”
là thực tập, tức là trong sanh hoạt thường
ngày phải thường tu tập. [Bảy pháp nói trên] chính
là Thất Bồ Đề Phần trong Ba Mươi Bảy
Đạo Phẩm, c̣n gọi là Thất Giác Chi. Ở
đây, [ư nghĩa của bảy pháp ấy] chẳng giống
như ư nghĩa thường được giảng trong ba
mươi bảy đạo phẩm, nên ư nghĩa của
chúng viên măn, rộng lớn phi thường.
Thứ nhất là Trạch
Pháp. Trạch là “tuyển trạch” (chọn lựa),
Pháp là pháp môn. Chúng ta học [Phật, trước hết phải
nhận biết mục tiêu học Phật. Nếu v́ mục
đích làm cho thân tâm mạnh khỏe, gia đ́nh mỹ măn
th́ phải chọn lựa pháp môn nào để đạt
được mục đích ấy. Thế nhưng, đối
với pháp môn lại cần phải chú ư, có chọn
được chánh pháp th́ mới ḥng đạt được
mục đích, nếu chọn nhằm tà pháp sẽ chẳng
thể đạt được. Đặc biệt là
trong thời kỳ Mạt Pháp, kinh Lăng Nghiêm nói rất kỹ;
trong thời đại này của chúng ta: “Tà sư thuyết
pháp nhiều như cát sông Hằng”. Người hiện
tại học Phật, quá nửa nhằm mục đích
phát tài, cầu b́nh an. Bởi thế, có rất nhiều pháp
sư, đại đức thừa cơ dạy dỗ
pháp môn phát tài, kết quả phát tài biến thành phá tài, chẳng
hề phát tài. Đấy thật sự là điên đảo.
Lời tục thường nói: “Phá tài tiêu tai”, thế
nhưng nay tài đă phá sạch rồi mà tai nạn vẫn
chẳng tiêu nổi! Bởi thế mới nói “chọn lựa
pháp môn tà hay chánh phải đặc biệt chú ư”.
Người học Phật
thông thường cầu công đức lợi ích cho chính
ḿnh, nhưng mục tiêu khác xa nhau: Người mong
được sanh lên trời, chẳng nguyện hưởng
phước báo nhân gian, muốn hưởng thọ phước
trời th́ phải chuyên tu pháp môn sanh thiên. Trời có hai
mươi tám tầng, mỗi một tầng đều có
phương pháp tu học riêng. Có người có tầm nh́n
xa hơn, nghĩ rằng dù có sanh lên trời Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng đi nữa, vẫn là chẳng thể
thoát khỏi luân hồi. Phước trời hưởng hết,
lại phải luân hồi, lại phải đọa lạc.
Bởi thế, muốn t́m được pháp môn thoát khỏi
tam giới.
Phàm hết thảy kinh
điển Đại Thừa đều là những pháp
môn dạy chúng ta siêu thoát tam giới, liễu sanh thoát tử.
Dù pháp môn quyết định b́nh đẳng, đều có
thể đạt đến mục tiêu và hiệu quả
giống như nhau; nhưng v́ căn tánh của chúng ta chẳng
tương đồng, nếu pháp môn chẳng đúng với
căn tánh, chúng ta tu học sẽ gặp khó khăn, chẳng
thể thấy thành tựu ngay trong một đời này
được. Bởi thế, phải chọn lựa pháp
môn. Ngay trong một đời này, mấu chốt để
tu hành thành hay bại là chọn lựa pháp môn thích hợp
hay không! Nếu muốn cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ th́ chọn lấy pháp môn Tịnh Độ. Trong
hiện tại, mỗi một pháp môn đều có tà -
chánh, đều có giả - thật (có pháp chỉ được
lợi ích một phần, có pháp được lợi ích
viên măn). Đây là điều phải chú ư, phải hiểu
những phương pháp ấy.
Thứ hai, Niệm chỉ
lúc dụng công, phải hiểu được cách điều
ḥa thân tâm. T́nh trạng thân tâm của mỗi cá nhân khác biệt.
Nếu gặp được thầy giáo cao minh, khác nào thầy
thuốc chẩn bệnh bệnh nhân, biết ngay phải
dùng phương pháp nào để điều dưỡng
thân tâm khiến cho chúng ta thật sự được mạnh
khỏe, cường tráng th́ mới có vốn liếng để
tu học. Nếu chúng ta chẳng có một tấm thân khỏe
mạnh, muốn niệm Phật một ngày một đêm
bèn chẳng có tinh thần, tuy bàn chuyện tu hành nhưng làm
chẳng nổi. Nói nghiêm túc, tu hành phải cậy vào lúc tuổi
trẻ, người trẻ tuổi mới có thể lực,
đó là cái vốn liếng thời gian, tuổi cao thể
lực suy, so với người trẻ tuổi khác biệt
nhiều lắm. Bởi thế, phải trân quư quang âm.
Truyền nhân của
lăo cư sĩ Hạ Liên Cư (người hội tập
năm bản dịch kinh Vô Lượng Thọ) là lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thường răn nhắc
hàng hậu học: “Hiện tại, đồng tu chân
chánh tu hành chuộng tinh, chứ không chuộng nhiều”.
Nếu chúng ta muốn thật sự thành tựu, phải
luôn nhớ kỹ lời nói đó.
Thứ ba, Tinh Tấn. Ở
đây, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng
tu phải hiểu rơ hai chữ này. Tinh là “tinh thuần”,
thuần nhưng chẳng tạp, Tấn là “tấn bộ”,
tiến chứ không lùi. Hết thảy người học
Phật chúng ta, ngày ngày cầu tiến lên, nhưng mọi
người chẳng thật sự tinh tấn mà là “tạp
tấn” bởi lẽ học rất nhiều, rất tạp,
cho nên gọi là “tạp tấn”. V́ thế, công phu chẳng
đắc lực, quang âm bị lăng phí sạch sành sanh, thật
đáng tiếc! Nào biết đạo lư đức Phật
đă giảng cho chúng ta - hai chữ “tinh tấn” - chính là bí
quyết để thành công.
Chúng ta tu học Phật
pháp, kinh luận rất nhiều, sau khi chọn lựa nhất
định rồi, th́ phải biết thâm nhập một
môn. Trong lịch sử Trung Quốc, những bậc đại
sư có thành tựu như ngài Thanh Lương đại
sư suốt đời chuyên hoằng dương kinh Hoa
Nghiêm. Cả đời Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm năm
mươi lần. Trong quá khứ tôi giảng kinh Hoa Nghiêm,
giảng cả mười mấy năm chỉ giảng
được một nửa. Nếu căn cứ theo từng
giờ mà nói, một bộ kinh Hoa Nghiêm tám mươi quyển
phải giảng ba ngàn giờ. Nếu mỗi ngày giảng
tám giờ th́ một năm có thể giảng xong bộ
kinh này. Giảng kinh như thế, thật sự mỗi
ngày phải giảng tám tiếng. Giảng kinh ở tự
viện phải theo lịch tŕnh sau: trước giờ Ngọ
giảng bốn tiếng, sau giờ Ngọ giảng bốn
tiếng nữa, một năm xong một bộ, năm
mươi năm được năm mươi bộ.
Đại sư Thanh Lương rất thọ, sống
hơn một trăm tuổi, nói chung là công đức
“chuyên hoằng” vậy.
Học tṛ của Thanh
Lương đại sư là đại sư Tông Mật,
theo ngài Thanh Lương đại sư học kinh Hoa Nghiêm;
nhưng Ngài nhận thấy bộ
kinh này không khế hợp căn tánh ḿnh, bèn đối
trước Đại Tạng Kinh rút thử một cuốn,
cầu Phật, Bồ Tát chỉ dẫn cho ḿnh. Kết quả
Ngài rút ra được cuốn kinh Viên Giác, thế là Ngài
trọn đời dốc công phu nơi kinh Viên Giác, dùng kinh
Hoa Nghiêm để phát huy kinh Viên Giác. Ngài viết năm bản
chú giải kinh Viên Giác: Viên Giác Kinh Đại Sớ, Lược
Sớ, Đại Sớ Chi Sao, Lược Sớ Chi Sao… (2).
Đến nay là cả ngàn năm sau, hậu nhân hễ nói
đến việc chú giải kinh Viên Giác đều dùng những
bản chú giải của đại sư Tông Mật. Quyền
uy chân chánh là do chuyên tinh (3), chỉ có như vậy mới
có thể thành tựu.
Lại như đại
sư Liên Tŕ về già chỉ có kinh Di Đà, một câu A Di
Đà Phật, nhưng Ngài chỉ niệm bốn chữ,
không niệm sáu chữ. Trong tập Trúc Song Tùy Bút có đoạn
chép:
Có người hỏi
đại sư Liên Tŕ:
- Ngài dạy người
niệm Phật th́ dạy niệm cách nào?
Ngài đáp:
- Tôi dạy người
đó niệm “nam mô A Di Đà Phật”.
- C̣n chính Ngài th́ niệm
như thế nào?
- Tự tôi niệm bốn
chữ A Di Đà Phật.
Người kia hỏi
Ngài nguyên nhân, Ngài nói:
- Người khác
chưa chắc chú tâm trong một đời này cầu sanh
Tịnh Độ, nên thêm chữ Nam Mô có phần khách khí.
Nam Mô là tiếng Ấn Độ, dịch sang tiếng Tàu
có nghĩa là Quy Y, Lễ Kính, là lời nói khách khí, nhưng
tôi tự ḿnh đă phát nguyện ngay trong một đời
này quyết định văng sanh, nên tất cả những lời
lẽ khách khí chẳng cần phải dùng đến nữa.
Kinh Di Đà dạy “chấp
tŕ danh hiệu”. “Danh hiệu” là bốn chữ, bởi
thế, tôi mới hiểu đại sư Liên Tŕ càng già
càng thêm tinh tấn. Bởi vậy, Ngài mới có thành tựu
thù thắng như thế.
Thứ tư, Hỷ
Giác Chi. Hỷ là pháp hỷ, là lợi ích tối sơ của
học Phật. Nó là trạng thái ḿnh nhất định cảm
thấy khinh an, tự tại. B́nh thường chúng ta v́ phiền
năo rất nặng, cho nên rơ ràng là thân thể rất nặng
nề, thế nhưng nếu công phu đắc lực thân
thể bèn khinh an (nhẹ nhàng, yên ổn). Phiền năo càng ít,
trí huệ bèn tăng trưởng, thân thể cũng nhẹ
nhàng, thong dong, đi đường chẳng ngại mệt,
đặc biệt là leo cầu thang, bước nhanh
hơn người khác.
Trong quá khứ, thầy
Lư Bỉnh
Thế nhưng, phải
nhớ kỹ, đạt được cảnh giới
đó chẳng được sanh tâm hoan hỷ, đừng
sanh tâm ngạo mạn, cho là ḿnh có chút công phu, rất là phi
thường đấy nhé. Phải đặc biệt chú
ư, phải chân chánh giác ngộ, chớ có điên đảo,
đừng v́ đó mà sanh phiền năo, kẻo lại bị
đọa lạc. Bởi vậy, điều thứ
tư Hỷ Giác Chi và điều thứ năm Khinh An Giác
Chi kết hợp với nhau.
Thứ sáu, Định
Giác Chi. Giác là giác ngộ. Đạo tràng này của chúng ta gọi
là Đại Giác đạo tràng. Kết hợp cả bảy
Giác Chi mới gọi là Đại Giác viên măn. Mỗi một
pháp môn đều gọi là Giác Chi, là một bộ phận
của giác ngộ. Định là mấu chốt của việc
tu hành. Trong Tam Học Giới - Định - Huệ, mục
đích của Giới Học là Định. Nhân Giới
đắc Định, nhân Định khai Huệ. Huệ
là mục đích, là yêu cầu chân chánh của chúng ta. Huệ
từ Định sanh ra, v́ thế bảo Định là mấu
chốt tu hành.
Nếu muốn đắc
Định th́ phải “thủ pháp”, tức là tuân thủ
quy củ của người thế gian. Người thủ
pháp tâm bèn an định, quyết định chẳng phạm
pháp, chẳng làm chuyện khiến tâm áy náy; c̣n kẻ chẳng
giữ pháp, tâm chẳng an định, ngày ngày nghĩ đến
chuyện xấu, làm cách nào để né tránh pháp luật, luật
lệ, bởi thế thân tâm bất an. Tu học Phật
pháp cũng chẳng ngoài nguyên lư này. Bởi thế mới
nói học Phật nhất định phải tu Giới Học.
Thế nhưng, có rất
nhiều người tŕ giới rất tốt, nhưng
không đạt được Định. Truy tầm
nguyên nhân, hóa ra trong Giới Học có lầm lỗi. Chẳng
hạn như: Thấy người khác chẳng tŕ giới,
bèn rất phiền năo, trong tâm chẳng vui sướng. Thấy
có người khác phá giới cũng rất phiền năo, hoặc
là tự cho ḿnh tu tŕ giỏi hơn người khác nhiều
lắm, nhân thế sanh khởi những tâm thị phi, nhân
ngă, ngạo nghễ ngă mạn, nên chẳng đắc Định.
Nói về công phu tu
Định, Lục Tổ đại sư đă giảng
rất hay, bởi lẽ trong sự tu học của nhà Thiền,
Thiền Định là mục tiêu tu hành chủ yếu. Lục
Tổ răn dạy hàng hậu học: “Nếu ai thật
tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”. Tŕ giới
như vậy mới ḥng đắc Định; bởi lẽ
chẳng thấy lỗi của người đời,
toàn thấy lỗi của chính ḿnh, th́ người tu hành
như thế mới đạt được công năng
tu Định. Nếu cho rằng ḿnh không có lầm lỗi
ǵ, chuyện ǵ cũng như pháp, toàn là y giáo phụng hành,
thấy hành vi cử chỉ nào của người khác
cũng là lầm lỗi cả; con người như vậy
làm sao đạt được công phu tu Định chân
chánh cơ chứ? Tu giới luật kiểu đó chỉ
là phước báo trời người, c̣n nếu như
nhân duyên trời người cũng chẳng tu cho tốt
th́ chỉ được phước báo trong ác đạo.
Giống như những con vật nuôi ở nước Mỹ
rất sung sướng, những con chó, mèo người ta
nuôi thật là có phước báo, không điều nhỏ nhặt
nào là chẳng được quan tâm đến, chết
đi c̣n được xây mộ, thường đến
cắm hoa trên mộ nữa đấy!
Ngoài ra, trong đường
ngạ quỷ cũng có phước báo. Hăy coi những loài
quỷ vương như sơn thần, thổ địa
thần, tại Đài Loan có Ngũ Phủ Thiên Tuế,
Vương Gia Công v.v… đều là những quỷ thần
có phước báo. Được nhiều người
đến tế lễ, cúng dường, van vái, đó chính
là phước báo trong quỷ đạo. Bởi vậy,
chúng ta phải biết tu Định như thế nào th́ mới
có thể đạt được Chánh Định.
Người niệm Phật
đắc định là Niệm Phật Tam-muội, kinh Di
Đà gọi là “nhất tâm bất loạn”. Chừng
như Niệm Phật Tam-muội được các bậc
cổ đức cùng thừa nhận là vua trong các tam-muội,
nên nghe nói vậy, chẳng thể không sanh tâm ngờ vực.
Đó là v́ chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ, phải hiểu
đây là pháp môn bậc nhất trong thời kỳ Mạt
Pháp, là pháp môn thù thắng khôn sánh. Chỉ cần nhất tâm
niệm Phật, sẽ đắc Niệm Phật Tam-muội,
đương nhiên là vua trong các tam-muội. Ngay trong kinh Vô
Lượng Thọ, đức Thế Tôn cũng tán thán A
Di Đà Phật là “quang minh tôn quư nhất, vua của
chư Phật”. Bởi vậy, Niệm Phật Tam-muội
thật sự chẳng thể nghĩ bàn.
Phải làm thế nào
để đắc Niệm Phật Tam-muội? Trong Niệm
Phật Đường, vị ḥa thượng chủ thất
thường có một câu Khẩu Đầu Thiền: “Buông
xuống vạn duyên, đề khởi chánh niệm”. “Chánh
niệm” là một câu Phật hiệu. Nói cách khác, buông
thân tâm, thế giới xuống, cái ǵ cũng chẳng
nghĩ đến nữa. Nay là thời kỳ Mạt Pháp, đối
với chúng ta chỉ có một câu A Di Đà Phật là trọng
yếu nhất. Ngoài ra, chẳng cần đến cái ǵ
khác nữa, hết thảy thị phi nhân ngă thế gian chẳng
liên can ǵ đến ta. Hết thảy phân biệt, chấp
trước, ưu lự, vướng mắc trong tâm đều
buông xuống hết, tự nhiên đạt được
Niệm Phật Tam-muội.
Thế nhưng nhất
định phải tu học th́ mới có thể đạt
được đại tự tại, đại khinh
an, đại pháp hỷ. Trừ Niệm Phật Tam-muội
ra, các thứ thiền định tam-muội đều chẳng
dễ ǵ đạt được. Chính Đàm Hư Đại
Sư trong lần khai thị tại kỳ đả Phật
thất ở Hương Cảng đă cho biết suốt
cả đời Ngài, Ngài đă từng gặp những người
học Thiền đắc định, nhưng bậc
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh,
Ngài chưa từng gặp một ai. Đạt được
Thiền Định chẳng dễ dàng ǵ, chẳng hạn
như khoanh chân ngồi nh́n vào vách nhập Định một
tuần lễ, hai tuần lễ, thậm chí cả mấy
tháng không xuất định, công phu tương
đương như thế rất sâu, nhưng
tương lai họ sẽ đi về đâu? Lăo pháp
sư nói sẽ thuộc về các cơi trời Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền thuộc Sắc
Giới.
Trời Sắc Giới
vẫn là trong tam giới, vẫn chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Trời Sơ Thiền là Sắc Giới,
chẳng phải là Dục Giới. Ở phần trên, đức
Phật đă giảng về “ngũ cái chướng”,
đó cũng chính là Ngũ Dục (tài, sắc, danh, thực,
thùy). Đối với Ngũ Dục chẳng động
niệm mới có thể sanh về trời Sắc Giới.
Nếu như có công phu Thiền Định, có thể ngồi
thiền mấy tuần lễ, mấy tháng, nhưng vẫn
c̣n có ư niệm Ngũ Dục chưa đoạn trừ sạch
th́ kết quả tương lai vẫn là trời Dục
Giới, không lên được trời Sắc Giới. Bốn
tầng trời phía trên Dục Giới đều đ̣i hỏi
phải có công phu Thiền Định. Chỉ cậy vào
Ngũ Giới, Thập Thiện th́ chỉ đến
được trời Đao Lợi (tầng thứ hai của
Dục Giới). Lên trên nữa là trời Dạ Ma, trời
Đâu Suất, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại,
bốn tầng trời này đều phải có công phu Thiền
Định. Bởi thế mới nói, dù có Thiền Định,
nhưng chưa đoạn trừ Ngũ Dục th́ vẫn
thuộc trong cảnh giới Ngũ Dục. Do đây biết
rằng: muốn đắc Thiền Định có nhiều
khó khăn như thế.
Chúng ta hăy lắng ḷng
suy nghĩ: ḿnh có năng lực để tu được
pháp môn Thiền Định hay không? Ngũ Dục bày ra
trước mắt, ḿnh có thật sự chẳng thể
động tâm hay là không? Nếu làm chưa được,
th́ phải mau quay đầu niệm A Di Đà Phật. Phải
hiểu rơ pháp môn Niệm Phật đới nghiệp văng
sanh là pháp môn ḿnh thật sự có thể tu học
được, có thể nương cậy được,
là pháp môn có thể thật sự thành tựu ngay trong một
đời này. Thời kỳ Mạt Pháp chọn lấy
pháp môn Tịnh Độ là thích đáng nhất.
Về tam-muội th́ có
vô lượng tam-muội, tam-muội tức là Thiền
Định. Đă nói có vô lượng tam-muội th́ nhất
định phải có vô lượng Thiền Định.
Tu học quư tại thâm nhập một môn, chọn lựa
lấy một môn để tinh tấn th́ mới có thể
thành tựu được.
Thứ bảy, Xả
Giác Chi. Xả là buông bỏ, Pháp thế gian phải bỏ
đă đành, mà pháp xuất thế gian cũng phải bỏ
luôn. Bản thân chúng ta tu học đạt được
cảnh giới nào cũng phải bỏ, đạt
được những pháp hỷ, khinh an đều phải
bỏ sạch hết. Nếu chẳng bỏ được,
sẽ dễ dàng sanh khởi tham ái và chấp trước.
Cũng giống như ta lên một ṭa lầu cao, lên đến
tầng thứ hai phải bỏ tầng thứ nhất,
th́ mới lên được tầng thứ ba. Lên mỗi một
tầng lầu, phải bỏ tầng lầu trước
đi th́ mới có thể tiếp tục lên cao hơn. Xả
có nghĩa như vậy đó. Nếu Đẳng Giác Bồ
Tát chẳng bỏ được những cảnh giới
Ngài đă chứng nhập sẽ chẳng thể viên măn
thành Phật. Bởi thế, đức Phật mới nói
“xả đắc”, mỗi mỗi đều bỏ hết
th́ mới có thể “đắc”.
Chúng ta niệm Phật,
niệm đến công phu thành phiến, sẽ quyết
định văng sanh. “Công phu thành phiến” là mức
độ nông cạn nhất của Niệm Phật tam-muội.
Nếu như chúng ta đem Niệm Phật tam-muội chia
thành chín phẩm để luận th́ hạ hạ phẩm
Niệm Phật tam-muội nhất định văng sanh. Công
phu tăng thêm chút nữa th́ bèn được văng sanh tự
tại, có thể liễu sanh tử, đó là điều
nhà Phật gọi là “sanh tử tự tại”.
Tây Phương Cực
Lạc thế giới có bốn cơi. Phàm Thánh Đồng
Cư Độ là cơi thấp nhất trong bốn cơi của
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Mỗi một
cơi đều có chín phẩm, ba phẩm hạ đă văng sanh
tự tại, đấy cũng là điều mỗi cá
nhân chúng ta đều có thể tu được. Nếu lại
nghĩ lên cao hơn th́ có Phương Tiện Độ, Thật
Báo Độ, Thường Tịch Quang Độ. Nói thật
ra, ba cơi này chúng ta chưa chắc có năng lực để
sanh về. Dù cho ngay trong một đời chưa chắc
có thể văng sanh thành công trong ba cơi trên được,
nhưng [sanh về] cơi Phàm Thánh Đồng Cư Độ,
tuyệt đối chúng ta có năng lực thực hiện
được.
Trước đây, thầy
Lư ở Đài Trung từng dạy học tṛ: “Sanh tử
tự tại tôi có thể làm được, các vị cũng
có thể làm được”. Ngài tự thị hiện để
thuyết pháp, chứng minh cho chúng ta thấy, chứng minh
những lời Phật dạy chúng ta trong kinh câu nào
cũng chân thật, tuyệt đối chẳng giả dối.
Nhưng vấn đề là chính chúng ta có ‘buông xuống vạn
duyên’ được hay không? Ai có thể bỏ
được, người ấy sẽ làm được.
Quyền làm được hay không làm được
hoàn toàn nằm trong tay ḿnh, chẳng phải trong tay ai khác hoặc
trong tay Phật, Bồ Tát. Càng bỏ sạch được
th́ càng hay, càng bỏ sạch sẽ càng chuyên, càng tinh, cơ
hội thành công càng lớn.
Đối với pháp
môn tu học, sau khi chọn lựa xong rồi, tuyệt
đối về sau chẳng hối hận. Chọn lựa
pháp môn Niệm Phật là quyết định chọn một
câu A Di Đà Phật, tuyệt đối chẳng cần
đến pháp môn nào khác nữa. Giả sử có ai bảo
quư vị: “C̣n có một pháp môn hay hơn pháp môn này, thành tựu
c̣n lớn lao hơn”. Ngay lúc đó, quư vị hạ quyết
tâm bảo họ: “Tôi đă quyết định chọn
pháp môn này, các pháp môn khác dù có hay hơn, tôi cũng chẳng
màng”. Phải có tín tâm và quyết tâm như thế mới
ḥng quyết định thành công.
Thông thường khi
ḿnh nói đến “tu hành”, tức là sửa đổi những
hành vi sai trái. Trong quá khứ chúng ta chẳng chọn lựa,
hiện tại chúng ta học cách chọn lựa, đó là
“trạch pháp”. Tiến hơn nữa là theo đúng giáo pháp sửa
đổi những cách nghĩ, cách nh́n, cách làm sai lầm,
đó gọi là Tu. Từ rày về sau cứ chiếu theo những
cách nghĩ, cách nh́n, cách làm chánh xác mà thực hành th́ gọi
là Hành. Đọc tụng kinh điển Đại Thừa
là yêu cầu trọng yếu đối với người
học sơ cơ; bởi lẽ chúng ta không biết những
căn bệnh nơi thân ḿnh, có đọc kinh Phật mới
phát hiện những lầm lạc của bản thân,
đó là khai ngộ, Có thể hiểu ra những chứng bệnh,
những lầm lỗi nơi thân ḿnh mới gọi là “chân
khai ngộ”. Đó mới là Phật tử chân chánh. “Biết
sai liền sửa”, “sửa” là sửa đổi hành vi
cho đúng. Sau khi đă sửa đúng bèn ǵn giữ chẳng
tái phạm lầm lỗi nữa, đó gọi là “tu tập”.
“Tu tập” và “tu tŕ” ư nghĩa hoàn toàn tương đồng.
Trên đây là đức Phật đem phương pháp tu
tâm thanh tịnh dạy toàn bộ cho chúng ta.
Chánh kinh:
(Này các tỳ-kheo! Nên
biết tâm thanh tịnh vừa nói đó chính là nói tâm giải
thoát tăng trưởng, huệ giải thoát tăng
trưởng).
Trong đoạn kinh
này, đức Phật dạy chúng ta: Thế nào là “tâm thanh
tịnh”? Hai câu này dùng những lời đơn giản nhất,
thiển cận nhất để giải thích. “Thanh tịnh
tâm’” tức là tâm được giải thoát. Tâm giải
thoát th́ huệ cũng sẽ giải thoát. Vậy th́ cái tâm
này giải thoát như thế nào? Giải thoát là cách nói h́nh
dung, tỷ dụ. Chẳng hạn như một người
bị dây rợ trói chặt, chẳng tự tại, chẳng
tự do, giờ đây có ai tháo gỡ cho, ngay lập tức
bèn tự tại. Hiện thời tâm chúng ta chẳng tự
tại, rất giống như người bị dây thừng
trói chặt. Những dây thừng đó chính là vọng
tưởng, phiền năo, ưu lự, vướng mắc,
trói buộc tâm ta chẳng được tự tại, mà
Huệ chính là tác dụng của Tâm. Tâm chẳng tự tại,
bèn chẳng có Huệ; tâm được tự tại, Huệ
bèn hiện tiền.
Trong kinh Đại Thừa,
đức Phật thường nói “ngũ trược
ác thế”. Đích thực, trong xă hội hiện tại,
có thể nói là trược ác đến mức cùng cực.
Kinh Vô Lượng Thọ nói “kịch ác cực khổ”
cũng là nói về t́nh cảnh của xă hội hiện tại.
Trược là “ô nhiễm”. Nói thật ra, những điều
tâm chúng ta tiếp xúc hiện tại là những thứ nhiễm
trược nghiêm trọng nhất từ xưa đến
nay. Tâm lư ô nhiễm, tinh thần ô nhiễm, tư tưởng
ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm, thậm chí thân thể,
thức ăn cũng bị ô nhiễm. Thế giới này
há c̣n lạc thú ǵ để nói nữa cơ chứ!
Hiện tại, ai
cũng nói đến chuyện bảo vệ môi trường,
nhưng nói đến môi trường là vĩnh viễn chẳng
đạt được mục tiêu. Trong kinh đức
Phật dạy: “Y báo chuyển theo chánh báo”. Hoàn cảnh
là y báo, nhân tâm là chánh báo. Nhân tâm chẳng thanh tịnh th́ hoàn
cảnh làm sao thanh tịnh được? Muốn cho hoàn cảnh
thanh tịnh th́ tâm phải cầu thanh tịnh trước
đă! Nhưng tâm con người muốn đạt thanh tịnh
th́ phương pháp tối hiệu quả duy nhất là Phật
pháp. Đích xác là Phật pháp có thể thanh tịnh thân tâm,
khiến cho tâm chúng ta được giải thoát. Tâm thanh tịnh
là tâm giải thoát, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí
huệ chân thật.
Chánh kinh:
Do tham
nhiễm ô, tâm bất thanh tịnh. Do vô minh nhiễm ô, huệ
bất thanh tịnh.
(Do tham
nhiễm ô, tâm chẳng thanh tịnh. Do vô minh nhiễm ô, huệ
chẳng thanh tịnh)
Đoạn
kinh văn này là “một lời phá rỗng toang”, nói toạc
ra căn bệnh của chúng ta. Hiện tại, chúng ta nói
đến bảo vệ môi trường, người thông
minh nên biết bắt đầu từ đâu: Làm thế
nào để những nhiễm ô tham nhiễm, vô minh trong cơi
ḷng bị trừ sạch? Muốn trừ khử những
ô nhiễm đó, nhất định phải làm theo đúng
những lời đức Phật đă dạy chúng ta ở
phần trên: “Hăy nên đoạn trừ ngũ cái, hăy nên tu
tập bảy pháp”, cụ thể vô cùng, câu nào cũng
đều xác thực cả.
Chánh
kinh:
Nhược
chư tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tức
đắc tâm giải thoát; đoạn trừ vô minh tức
đắc huệ giải thoát.
(Nếu
các tỳ-kheo đoạn trừ tham nhiễm, tâm liền
được giải thoát. Đoạn trừ vô minh, huệ
liền được giải thoát).
Trong phần
giảng về việc tu học bảy pháp ở trên, tôi
đă giới thiệu, đề cao pháp môn Niệm Phật
cùng các đồng tu, là v́ niệm một câu Phật hiệu,
không chỉ đoạn trừ năm thứ cái chướng,
mà c̣n đồng thời phá được vô minh. Lúc chuyên
tâm niệm một câu Phật hiệu, năm thứ cái
chướng đều chẳng hiện tiền, nhưng
một câu Phật hiệu rành rành rẽ rẽ, minh minh bạch
bạch, nên chẳng đọa vô minh. Bởi thế, danh
hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh
kinh:
Nhược
chư tỳ-kheo ly tham nhiễm ô đắc tâm giải
thoát giả, thị danh thân tác chứng.
(Nếu
các tỳ-kheo ĺa tham nhiễm ô, tâm được giải
thoát th́ gọi là “thân tác chứng”)
Thế
nào là “thân tác chứng”? Thân tác chứng là mạnh khỏe,
trường thọ, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng
cần phải uống thuốc, cũng chẳng phải tẩm
bổ. Những thứ thuốc bổ, đồ bổ
đó đều kèm theo nhiễm ô và tật bệnh. Chỉ
có mỗi “thanh tịnh tâm” có dinh dưỡng cao nhất, có
hiệu quả nhất. A Di Đà Phật là đồ bổ
tốt nhất. Nếu có thể chân thành niệm Phật
th́ chính là ngày dùng đồ bổ. Trong mấy bài kệ ghi
ở đầu cuốn Vô Lượng Thọ Kinh, lăo
cư sĩ Hạ Liên Cư có viết:
Phật
thuyết nan tín chân nan tín,
Ức vạn
trung nhân nhất nhị tri.
(Phật
nói khó tin, thật khó tin,
Trong ức
vạn người, một hai biết)
Đúng
là chẳng sai một điểm nào! Pháp môn tốt đẹp
như thế đó bày ra trước mặt mà không ai biết
cả, thật là đáng tiếc! Hôm nay, tôi cũng trao cho
quư vị đồ bổ, đồ dinh dưỡng tốt
nhất là “thanh tịnh tâm”. Nếu như quư vị tâm thanh
tịnh, thân thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh làm sao c̣n suy
lăo, c̣n đổ bệnh được nữa? Bởi thế,
tôi thường nói: “Pháp môn này là pháp môn không già, không bệnh,
không chết”. Nói không chết tức là v́ lúc văng sanh, thấy
A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, bèn theo chân Phật
A Di Đà, tức là theo Ngài khi đang c̣n sống, chứ chẳng
phải là chết rồi mới đi.
Năm
trước ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, [tôi
chứng kiến] chuyện văng sanh của cư sĩ Châu
Quảng Đại. Lần ấy tôi cũng đến Hoa
Thịnh Đốn, gặp đúng lúc bèn trợ niệm
cho ông ta. Những đồng tu tận mắt thấy ông
ta văng sanh bèn bảo tôi: “Châu cư sĩ mới niệm Phật
ba ngày bèn được văng sanh”. Bởi lẽ, trước
đó ông ta không tin Phật, chỉ trước khi lâm chung
ba ngày mới gặp được cư sĩ Cung Chấn
Hoa khuyên niệm Phật. Lúc đó, ông ta nghe xong bèn tiếp
nhận, kêu vợ và các con giúp ông ta niệm Phật cầu
văng sanh, chẳng cầu lành bệnh, đấy là thật
sự giác ngộ. Ngoài ra, các đồng tu ở thủ
đô cũng đến giúp ông ta niệm Phật. Niệm
đến ngày thứ ba, thấy A Di Đà Phật, Quán Thế
Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Châu cư
sĩ nói Tam Thánh từ trên mây hạ xuống đón ông ta
văng sanh. Ông ta tỉnh táo, minh bạch ra đi. Bởi thế,
mới nói văng sanh là theo đi từ khi c̣n sống, chứ
chẳng phải là chết rồi mới đi. Pháp môn bất
tử này gọi là “thân tác chứng”.
Chánh kinh:
Đoạn trừ
vô minh, đắc huệ giải thoát giả, thị danh vô
học.
(Đoạn trừ
vô minh, huệ được giải thoát th́ gọi là Vô Học).
Chữ “Vô Học” ở
đây có nghĩa là chẳng c̣n ǵ để phải học
tập nữa; trí huệ viên măn, tốt nghiệp rồi,
đây cũng là điều bên Giáo gọi là “đại
khai viên giải”. Trong pháp Tiểu Thừa, bậc Vô Học
Tiểu Thừa là A La Hán. Trong pháp Đại Thừa, bậc
Vô Học là Pháp Vân Địa Bồ Tát. Thập Địa
Bồ Tát gọi là Vô Học. Đây là nói về quả báo,
tu nhân chứng quả.
Chánh kinh:
Vĩnh ly tham ái, liễu
tri chân thật chánh tri.
(Vĩnh
viễn ĺa tham ái, hiểu rơ chánh tri chân thật).
Câu kinh
này rất trọng yếu. “Chánh tri” là Phật tri, Phật
kiến; kinh Pháp Hoa nói “nhập Phật tri kiến” th́
tri kiến đó là chánh tri chánh kiến. Chúng ta phải biết
rằng: Tham ái là căn nguyên chướng ngại chánh tri
chánh kiến; ĺa khỏi tham ái th́ chánh tri chánh kiến bèn
được hiện tiền.
Chánh
kinh:
Hiện
tiền thủ chứng tự quả, tận khổ biên tế.
(Hiện
tiền chứng lấy tự quả, hết bờ mé khổ).
“Hiện
tiền” là chẳng phải đợi đến đời
sau, chứng quả ngay trong đời này, chứng
được quả viên măn. Đây chính là điều
chúng tôi thường nói: “Phá một phần vô minh, chứng
được một phần Pháp Thân”. “Khổ biên tế”
là lục đạo luân hồi. “Tận khổ biên tế”
là vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chẳng c̣n
lưu chuyển sanh tử nữa, siêu thoát tam giới, thành
Pháp Thân đại sĩ. Cuối cùng, đức Phật lại
khuyến khích chúng ta:
Chánh
kinh:
(Này
chư tỳ-kheo! Những điều vừa nói như thế,
các ông hăy nên học).
“Như
thị sở thuyết” là những điều đă giảng
ở trên. Như lư như pháp, câu nào cũng đều chân
thật chẳng dối, toàn thể Phật pháp là giảng
về chân tướng của vũ trụ nhân sanh. “Vũ
trụ” là hoàn cảnh sanh sống của chúng ta. “Nhân sanh”
là chính ḿnh. Hết thảy kinh điển đều nói về
đạo lư chân tướng của hoàn cảnh và chính bản
thân của chúng ta. “Các ông hăy nên học” là chúng ta phải
học tập cho khéo vậy. []
Phật thuyết Thanh Tịnh Tâm Kinh
Giảng Kư hết
(Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa dịch xong ngày 04 tháng 09 năm 2004)
(1) Thanh Tịnh Tâm Kinh: Đây là kinh số
803, thuộc quyển 17 của Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng Kinh, phần Kinh Tập Bộ.
Ngài Thi Hộ (Danapala) không rơ năm sanh và
năm mất, sang Trung Quốc dịch kinh vào đời Tống,
vốn là người xứ Ưu Điền Na (Udyana), Bắc
Ấn Độ. Năm 980 đời Bắc Tống, đại
sư và Tam Tạng Thiên Tức Tai người xứ Ca Thấp
Di La (Kashmir) đến Biện Kinh (nay thuộc huyện
Khai Phong) trụ ở viện Dịch Kinh chùa Thái B́nh Hưng
Quốc, tận lực phiên dịch kinh điển. Ngài dịch
được tất cả 115 bộ kinh, gồm 255 quyển.
Trong đó đa phần là những kinh điển Mật
Giáo như Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối
Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương. Có lẽ
v́ thế, tuy dịch phẩm của Ngài rất nhiều,
nhưng tên tuổi của Ngài không được biết đến
nhiều như các vị Cưu Ma La Thập, Nghĩa Tịnh,
Huyền Trang…
(2) Đại Sớ là lối giải
thích chi tiết, có thể dẫn dụng nhiều kinh khác
nhau để minh họa, so sánh nhằm phát huy ư chỉ của
bản kinh ḿnh đang chú giải. Lược Sớ là lối
giải thích kinh ít rườm rà, ít chi tiết hơn, chỉ
chú trọng vào giải thích ư kinh là chính. Sớ là lời giải
thích kinh văn, Sao là lời giải thích ư nghĩa lời Sớ.
(3) Ư nói: Do chuyên tinh nghiên cứu, ngài Tông
Mật trở thành một tác gia có thẩm quyền nhất
trong việc diễn giải kinh Viên Giác.