Thọ Khang Bảo Giám
壽康寶鑒
Phần 3
Ấn Quang
đại sư tăng đính
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in
của Giai Phương Ấn Loát Hữu Hạn Công Ty,
năm 1991)
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
Đồng
thiện dưỡng sanh
* Tạ Hán Vân ở Vân Gian mắc
bệnh trầm kha từ bé. Do vậy nghĩ: Trong các ác
nghiệp, chỉ có sắc là dễ phạm nhất, bèn
trùng đính bộ Bất Khả Lục do Phùng thái sử ở
Phồn Dương biên tập rồi đem khắc in
để lưu truyền rộng răi. Khi bản in vừa
được khắc xong, bệnh đă hết sạch.
Về sau, con cháu đều nổi danh một thời,
như Tinh Môn, Hà Hiên, Thể Tam v.v… nối tiếp nhau đỗ
đạt. Đúng là nếp nhà thư hương chẳng
bị đoạn dứt.
* Từ Tín Thiện và
Dương Hoằng là bạn thân, đi thi, cùng ở trọ
một chỗ, gặp một vị cao tăng xem tướng
bảo: “Ông Dương sẽ hết sức vinh hiển,
ông Từ sẽ nghèo nàn”. Ban đêm, ông Dương ngẫu
nhiên thấy trong chỗ trọ có một cô gái chưa chồng
xinh đẹp, mưu tính dùng quà cáp hậu hĩnh để
mong thỏa dâm, ông Từ dùng lời lẽ nghiêm khắc tận
lực ngăn trở. Hôm sau, vị Tăng gặp lại
ông Từ, hết sức kinh hăi nói: “Mới qua một
đêm bèn có dấu vết Âm Chất nổi lên, đổi
từ hèn thành quư, sẽ hết sức vinh hiển”. Lại
xem tướng ông Dương, Sư bảo: “Khí sắc khác
hẳn, chẳng bằng hôm qua. V́ thế, sẽ cùng với
ông Từ vinh hiển, nhưng thứ tự [đỗ đạt]
hơi kém hơn ông Từ”. Yết bảng đúng như vậy.
* Vào đời Tống, tiến
sĩ Vương Hành Am ở Giản Châu kiềm chế
hành vi chẳng cẩu thả, là hàng xóm với người
em họ bên ngoại là Trầm X… Họ
Trầm một mực chuộng dâm. Ông Vương thường
khuyên lơn, nhưng họ Trầm không nghe. [Lại c̣n] ngấm
ngầm sai một chị ở dụ dỗ ông Vương;
ông nghiêm khắc cự tuyệt. Hắn lại tiếp tục
sai một đứa tớ gái xinh đẹp ráng dụ dỗ
ông, ông cũng nghiêm khắc cự tuyệt. Họ Trầm
cố ư khiến cho ông phá giới để cười nhạo.
Một ngày nọ, ông và họ Trầm ra ngoài, gặp bọn
trộm cướp. Họ Trầm do thuyền nhỏ bèn
trốn thoát. Thuyền của ông Vương bị bọn
cướp chặn bắt được. Bỗng nhiên sấm
chớp giáng xuống vang rền, bọn cướp kinh sợ
bỏ đi. Ông b́nh an quay về, chẳng bị tổn thất
ǵ. Về sau, họ Trầm ra ngoài, trở về nhà, thấy
vợ và kẻ khác đang gian dâm, toan dùng vơ khí đánh họ,
tay bỗng dưng chẳng thể giở lên được!
Trợn mắt, giậm chân, gào to một tiếng, chết
ngắc! Lúc ông Vương năm mươi tuổi, bị
bệnh ngặt nghèo, đạo sĩ [đánh đồng
thiếp đi] dâng sớ, quỳ phục xuống rất
lâu sau, [mới tỉnh lại] nói: “Tra duyệt đại hạn
của Ngài, chỉ thọ năm mươi tuổi. Thiên
tào do thấy Ngài hai lần chẳng dâm, lại c̣n có thể
thật tâm khuyên lơn kẻ khác, tăng thọ cho Ngài ba kỷ
(ba mươi sáu năm) nữa”. Ông nghe nói run sợ. Về
sau, quả nhiên thọ tám mươi sáu tuổi, tận mắt
thấy con cháu phú quư.
Nhận định: Vị
này và ông Từ Tín Thiện đă có thể giữ ḿnh nghiêm
ngặt, lại có đức hạnh yêu thương
người khác. Nếu người ấy nghe theo lời
khuyên răn, ắt là người ấy sẽ được
hưởng ân trạch. Dẫu kẻ ấy chẳng nghe,
nhưng do nhiệt tâm khuyến hóa, đă đủ để
cảm động ḷng trời, được phước.
Người ta cũng sợ ǵ mà chẳng làm vậy thay?
* Phủ Gia Hưng có thư
sinh nọ tánh thích ẩn giấu điều ác, phô bày
điều thiện. Hễ gặp con em hoặc bạn bè
bàn tới chuyện buồng the, liền nghiêm mặt, lộ
vẻ giận, khuyên răn. Do vậy, soạn bài Khẩu
Nghiệt Giới Văn (口孽戒文, bài văn răn
đừng tạo mầm mống tội lỗi nơi miệng)
để răn dạy hàng hậu học. Về sau, ông ta
đi thi. Đêm hôm trước ngày yết bảng, mộng
thấy cha ḿnh bảo: “Con đời trước đă
đỗ Tiến Sĩ từ tuổi thiếu niên. Do cậy
tài, khinh rẻ kẻ khác, Thượng Đế phạt con
thi cử lận đận, trọn chẳng đỗ
đạt. Tháng trước, có gă học tṛ đáng lẽ
thi đậu khoa này, v́ gian dâm gái chưa chồng mà bị
xóa tên. Văn Xương Đế Quân tâu bày: Con đă soạn
bài Khẩu Nghiệt Giới Văn để khuyên người
khác, âm công rất lớn. Xin hăy điền tên con vào đó.
Ắt con sẽ đỗ đạt, hăy nên càng thêm tu đức
để báo đáp thiên thần”. Thư sinh ấy kinh hăi lẫn
mừng vui. Sau khi thi đỗ, thư sinh càng thêm cẩn trọng
bội phần, làm quan tới chức Ngự Sử.
* Tịch Khuông
dĩnh ngộ từ bé. Gặp một thầy bói bảo:
“Ông có nếp nhăn dọc hướng vào miệng, sẽ
bị chết đói. Ắt là sang năm [sẽ bị]”.
Khuông rất lo lắng. Một bữa, gặp người
bàn chuyện buồng the, hết sức liên quan đến
danh tiết [của người khác], Khuông hầm hầm
giận dữ, khiến cho người nói chuyện đó
hổ thẹn, không nói nữa. Chuyện ấy bèn lắng
đi! Đă hơn cả năm mà ông Khuông vẫn chẳng
hề hấn ǵ. Sau đấy, gặp lại thầy bói,
ông ta ngạc nhiên hỏi: “Ông có âm công to lớn ǵ mà khiến
cho tướng mạo biến đổi nhanh chóng như vậy?”
Về sau, ông Khuông có địa vị cao quư.
* Vào thời Tống Đoan
Tông[1],
quân Nguyên tấn công Thai Châu, vợ một người dân ở
Lâm Hải[2] là Vương thị
rất đẹp, bị bọn giặc bắt đem vào
trong quân. Gă thiên phu trưởng[3] giết
bố mẹ chồng và chồng cô ta, muốn ăn nằm
với cô. Cô ta thà chết chẳng thuận theo, giả vờ
nói: “Xin cho tôi để tang bố mẹ chồng và chồng
một tháng rồi mới có thể hầu hạ bậc
quân tử”. Thiên phu trưởng thấy cô không đ̣i chết
nữa, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu, nhưng
vẫn sai nữ tù nhân canh giữ cô ta. Hôm quân Nguyên rút lui, hắn
mang theo cô ta. Khi đi qua rặng Thanh Phong ở huyện
Sơ, Vương thị ngửa mặt lên trời than:
“Hôm nay, ta đă có chỗ để chết rồi”. Liền
cắn ngón tay, [lấy máu] viết thơ lên đá, gieo ḿnh
vào vách đá mà chết. Chuyện đă cách nay tám, chín
mươi năm, máu trên đá vẫn rơ nét như mới,
chẳng bị mưa gió xóa nḥa. Một Nho sĩ đă làm
thơ chê bai rằng: “Khiết
chỉ đề thi tự khả ai, ban ban bác bác thượng
thanh đài, đương sơ nhược hữu thi
trung ư, khẳng trục tướng quân mă thượng lai”
(Cắn ngón đề thơ buồn gớm nhỉ? Đá
rêu loang lổ phủ xanh ŕ. Thoạt đầu, nếu
đúng như thơ tả, chắc sẽ theo chàng ruổi
ngựa đi). Kẻ đề thơ ấy về sau
không có con cái. Đời Nguyên, Dương Liêm Phu cũng làm
thơ vịnh rằng: “Giáp mă
ngự đà bách lư tŕnh. Thanh phong hậu dạ huyết
thư hành. Chỉ ưng Lưu Nguyễn đào hoa thủy,
bất tự Ba Lăng Hán thủy thanh” (Cặp kè bên ngựa
đường trăm dặm, đêm cuối trăng thanh
viết huyết thư, chỉ nên tận hưởng Thiên
Thai thú, Nhạc Dương sông Hán chẳng trong bằng)[4]. Về
sau, Liêm Phu không có con! Một đêm, mộng thấy một
người đàn bà nói: “Ngươi có nhớ bài thơ
đề vịnh Vương tiết phụ hay không? Tuy
không thể tổn hại thanh danh của tiết phụ,
nhưng đă hủy báng tiết nghĩa, tội ấy rất
nặng! V́ thế, trời dứt đường con cái của
ngươi!” Liêm Phu hối hận, tỉnh ngộ, lại
đề thơ rằng: “Thiên
tùy địa lăo, thiếp tùy binh. Thiên địa vô t́nh, thiếp
hữu t́nh. Chỉ huyết khiết khai hà kiều xích.
Đài ngân hóa tác tuyết giang thanh. Nguyện tùy tương
sắt thanh trung tử. Bất trục hồ già phách lư
sanh. Tam nguyệt tử quy đề đoạn huyết.
Thu phong vô lệ tả ai minh” (Trời già theo đất,
thiếp theo quân. Trời đất vô t́nh, thiếp hữu
t́nh. Máu cắn ngón tay như ráng đỏ, sông trinh xanh ngắt
vết rêu in, nguyện chết theo chồng cho trọn
nghĩa, chẳng ham sống nhục với quân Hồ.
Tháng Ba chim cuốc[5]
kêu tan huyết, gió thu khôn cảm nỗi buồn
thương). Sau đấy, lại mộng thấy người
đàn bà đến cảm tạ, không lâu sau bèn sanh
được một đứa con.
* Quảng Tử Nguyên bị
bệnh tim, suốt ngày mơ màng như đang nằm mộng.
Nghe nói có vị lăo tăng có thể chữa lành, bèn đến
cầu xin. Vị tăng bảo: “Chứng bệnh này là do dâm
dục quá độ, thủy hỏa chẳng thể giao hội.
Phàm những kẻ đắm đuối mỹ sắc,
hoang đàng sắc dục [sẽ mắc bệnh này], gọi
là ‘ḷng dục do bị cảm nhiễm từ bên ngoài’.
Đêm sâu nằm ngủ, tưởng nhớ mỹ sắc,
hoặc mơ thấy giao hoan trong giấc mộng. Đó gọi
là ‘dục vọng sanh từ bên trong’. Hai thứ ấy dây
dưa nhiễm đắm, đều hao tổn nguyên tinh,
tăng thêm bệnh tật, tổn hại tánh mạng, ắt
sẽ trở thành chứng bệnh chẳng trị
được. Trước hết, hăy gấp nên đoạn
trừ hết sạch ư niệm về sắc trong tâm, sau
đấy lại điều dưỡng thân thể, chẳng
để cho nguyên tinh ṛ rỉ, ắt thận thủy sẽ
không đến nỗi tràn xuống dưới mà bị khô
cạn, khiến cho can hỏa chẳng đến nỗi bốc
lên trên. Thủy hỏa điều ḥa, sẽ dần dần
lành bệnh”. V́ thế nói: “Biển
khổ vô biên, quay đầu là bờ”.
* Đời Tống, Bao Hoằng
Trai lúc tám mươi tám tuổi c̣n được cử
làm Xu Mật Sứ. Tinh thần ông ta mạnh mẽ. Giả
Tự Đạo cho rằng ông ta ắt có thuật dưỡng
sanh bèn hỏi ông Bao. Ông Bao đáp: “Tôi có một loại thuốc
viên để uống, nhưng chẳng truyền toa thuốc
bí mật”. Tự Đạo vui vẻ xin thuốc. Ông Bao
thong thả nói: “Loại thuốc viên do lăo hủ đă uống
chính là suốt năm mươi năm ngủ một ḿnh!”
Mọi người hiện diện đều cười
to.
* Bồ Đắc Chánh làm
tri phủ Hàng Châu. Có cụ già trong vùng là Lư Giác đến yết
kiến. Tuổi cụ đă hơn trăm, sắc mặt
tươi tắn. Ông Bồ hỏi về thuật dưỡng
sinh, cụ đáp: “Thuật của tôi rất hết sức
giản dị, chỉ là đă sớm tuyệt dục
đó thôi”.
* Trương Thúy ở Thái
Thương đă ngoài chín mươi, tai tinh, mắt sáng, vẫn
c̣n có thể vẽ vời. Có người hỏi [cụ có
bí quyết ǵ, cụ Trương] đáp: “Chỉ là cái tâm
tham dục nhạt mỏng, tiết chế dục sự”.
Phát thệ tŕ
giới
* Xưa kia Châu Dụ thường
tụ tập thiện hữu, dùng phuơng thức in những
tờ truyền đơn răn dâm để phát cho các xă
hữu. Mỗi người nhận một tờ, chia nhau
khuyên lơn mười người khác. Mỗi người
đều kính cẩn ghi rơ quê quán, tuổi tác, tự kư tên
họ, đem đốt để bẩm cáo trước
Văn Vơ nhị đế[6]. Từ
đấy về sau, dấy lên ư niệm, thốt ra lời
lẽ, đều chú ư thận trọng, nghiêm ngặt
răn nhắc chính ḿnh chẳng dính dáng chút tà dâm nào! Kẻ
chẳng may đă phạm lỗi ấy, ư niệm hổ thẹn,
hối hận vừa nẩy sanh, đă đủ để
tiêu trừ lỗi lớn tầy trời! Kẻ may mắn
chưa phạm lỗi ấy, từ nay, kiên quyết khống
chế [chính ḿnh], chẳng đến nỗi để ngọc
trắng có vết rạn nhỏ nhoi! Người này kẻ
nọ răn nhắc lẫn nhau, từ đầu tới
cuối không thay đổi, lần lượt khuyên bảo
rộng răi, ngơ hầu người đời vĩnh viễn
đoạn trừ căn cội oan nghiệt ấy, đều
trở về đường ngay, ắt sẽ công đức
tràn trề, mà phước cũng vô lượng.
* Ông Lạc Quư Ḥa bảo:
- Cổ nhân nói ‘muôn điều ác, dâm đứng
đầu. Trăm hạnh, hiếu đứng đầu’.
Tôi thường suy xét hai câu nói ấy, mong hiểu thấu
rốt ráo ư chỉ của chúng, bèn biết hai câu ấy [thoạt
nh́n dường như] tương phản, nhưng chúng vừa
khéo thành tựu lẫn nhau! Lư trong hai câu ấy có thể luận
định như thế này. Đă coi dâm đứng đầu
muôn điều ác, ắt có thể suy ra để biết:
“Không dâm đứng đầu trăm hạnh”. Đă coi hiếu
đứng đầu trăm hạnh, ắt có thể suy
ra mà biết: “Bất hiếu chính là cội nguồn của
muôn điều ác”. So đi tính lại, chỉ một lời
đă đủ, nhưng tách ra thành hai [điều để
nói]. V́ sao? Bởi lẽ, hễ ham dâm, sẽ chẳng thể
trọn hiếu. Muốn tṛn đạo hiếu, ắt phải
bắt đầu bằng chẳng dâm!
Bậc thánh nhân thời cổ
chế định hôn nhân chính v́ lẽ ấy. Bày ra mai mối,
lập ra sáu lễ. [Hiểu theo phương diện] nhỏ
[th́ hôn nhân] cốt yếu là để nối tiếp ḍng
dơi, có người cúng tế tổ tiên, sáng tỏ luân
thường, giúp cho đức hạnh. [Hiểu theo
phương diện] to lớn th́ đó chính là cội rễ
để trị quốc, b́nh thiên hạ. Không ǵ chẳng
nhằm khiến cho con người được tṛn vẹn
đạo hiếu từ đầu đến cuối. V́
thế, nói: “Đạo của
bậc quân tử bắt nguồn từ vợ chồng”.
Cơi đời lẫn đạo nghĩa đều suy vi,
chẳng hành theo giáo huấn của bậc thánh triết, ư
nghĩa cao quư của cổ nhân mất sạch. Lễ
nghĩa trở thành nói suông, coi chuyện vợ chồng
như phương tiện để hưởng dục lạc.
Bọn thiếu niên đức nghiệp chưa thành, đă
biết hâm mộ sắc đẹp của lũ gái tơ
mơn mởn. Kẻ làm cha mẹ cũng hư vọng chiều
theo ư con, để nhờ vào chuyện đó khiến cho
con đẹp ḷng. Do vậy, công khai coi chuyện háo sắc
là chuyện chánh đáng trong đời người; lại
c̣n nói khoa trương là “kế
tục huyết thống, nối tiếp ḍng dơi”. Bởi
đó, t́nh vợ chồng càng thêm sâu nặng, sự phụng
dưỡng cha mẹ [ngày càng] thiếu sót. Dốc sức
đẹp ḷng vợ, coi cha mẹ như người ngoài,
mắc tội đại bất hiếu. Chẳng cần
nói tới những kẻ nghèo hèn, [ngay như những kẻ
có học thức, sang cả], con trai [v́ mê vợ] mà trở
mặt với mẹ, [con dâu] chửi mẹ chồng,
đă thành thói thường từ lâu! T́nh người khó bề
hướng lành, dễ quen theo thói ác, chính là v́ đă coi chuyện
vợ chồng là phương tiện để hưởng
dục lạc. Ắt sẽ khiến cho quan niệm t́nh kiến
khác biệt về nam nữ ngày càng sâu, ư niệm ham ái tham
dâm này càng hừng hực! Có mới chán cũ, hễ tiếp
xúc bèn nẩy sanh t́nh, coi nam nữ trong thiên hạ chẳng
qua là công cụ để thỏa măn dục lạc cho ta,
thói tà dâm dấy động. Ganh ghét nhau, giết chóc lẫn
nhau, tổn hại thân thể, điếm nhục cha mẹ,
muôn điều ác ồ ạt dấy lên, trăm hạnh
đều phế sạch! Cái tội bất hiếu không
ǵ nặng hơn!
Xét đến cội nguồn,
há chẳng phải là bắt nguồn từ ư niệm dâm dục
của vợ chồng ư? V́ thế, tôi nói “hai câu ấy
tuy tương phản mà thật ra là khéo bổ trợ lẫn
nhau”. Kẻ chẳng biết [lẽ này], vẫn cứ muốn
gượng ép phân định chữ Dâm thành tà và chánh. [Làm
như vậy], há có thể nói là đă lănh hội sâu xa ư chỉ
của cổ nhân ư? Kinh [Viên Giác] dạy: “Hết thảy chúng sanh đều
do dâm dục mà có tánh mạng. Dục do ái mà sanh, mạng do
dục mà có. Chúng sanh yêu mến tánh mạng, vẫn là do dục
làm gốc. Hăy biết luân hồi có căn bản là Ái”.
Kinh c̣n dạy: “Do v́ dục cảnh,
dấy lên sự nghịch thuận. Cảnh trái nghịch
cái tâm yêu mến, bèn sanh lên ganh ghét, tạo các thứ nghiệp.
V́ vậy, lại sanh vào địa ngục, ngạ quỷ”.
Do những điều ấy,
biết dâm chính là mối họa lớn trong đời
người, thoạt ban đầu, chẳng phân ra tà hay
chánh vậy! Nhưng chúng ta kể từ vô thỉ cho tới
nay, do ái dục mà có thân này đă lâu. Tù ngục gia đ́nh
đă h́nh thành, nghiệp căn khó dẹp trừ! Đức
Như Lai thương xót, vẫn mở ra phương tiện,
chấp thuận kẻ chẳng ham tà dâm vẫn được
gởi thân nơi hoa sen (kinh Giới Đức Hương
dạy: “Chẳng xâm phạm vợ
người khác, sẽ được hóa sanh trong hoa sen”).
Ở đây, tôi nói những điều này, chẳng phải
là muốn ép buộc mọi người phải làm chuyện
khó thể làm là “tuân theo chủ nghĩa tuyệt dục
nghiêm ngặt”, mà thật sự là v́ mong những người
cùng chí hướng biết rơ: Những kẻ tham cầu dục
lạc trong chốn khuê pḥng, chẳng đoái hoài đại
nghĩa luân thường th́ đă là trái nghịch lư, huống
hồ những kẻ mặc t́nh rong ruổi [thú vui xác thịt]
bên ngoài, coi như là chuyện thường t́nh! Do vậy,
suy ra bèn biết: Tuy tận lực kiêng tà dâm, bất quá vẫn
là [vâng giữ] một giới trong năm giới của
Nhân Thừa. Nếu vẫn mặc t́nh săn đuổi
[xác thịt], ắt khó tránh ch́m đắm trong tam đồ
ác đạo. Do vậy, phát khởi cảm động [ai
nấy dấy ḷng] tận sức phấn chấn tinh thần,
trong là giữ vững cội gốc tề gia, ngoài là
đoạn dứt cái tâm tranh giành, theo đuổi [dục
vọng], truy t́m căn cội, dốc sức tu hành để
mong có ngày đạt được Nê Hoàn (kinh Phật Bát
Nê Hoàn có nói: “Kiêng tà dâm,
được tăng trưởng năm thứ phước,
nhập đạo Nê Hoàn”), nhanh chóng thoát khỏi mười
tội (sách Pháp Uyển Châu Lâm nói: “Do tà dâm bèn phạm mười tội”). Đức
Phật nói lời thành thật, chẳng lừa dối ta. V́
thế, hăy quyết định đối trước trời
Phật phát thệ, ước hẹn kiên quyết, dùng lời
nguyện ấy để ǵn giữ [bản thân chẳng
sanh tà niệm, lời nguyện ấy được] viết
rơ ràng ở đây. Những vị Phật tử đang hiện
diện tại đây, ắt sẽ có người đồng
tâm, cho nên [trước lời nguyện] tôi viết dông dài
mấy câu ngơ hầu khơi gợi.
Lời thệ
nguyện
Nước…. năm… tháng…
ngày, đệ tử lập nguyện kiêng tà dâm trai giới
tắm gội, xông hương.
Thắp hương, dâng sớ.
Kính cẩn tuyên thệ trước ṭa[7]… rằng:
Trăm điều thiện, hiếu trước tiên; muôn
điều ác, dâm làm đầu. Người khác cầm thú
v́ biết nghĩ suy. Nhạn sống thành bầy trong đầm,
c̣n chẳng cặp đôi bừa băi. Ta là Phật tử, há
chẳng bằng chim? Kể từ hôm nay, thề kiêng tà dâm,
cho đến lúc chết, vĩnh viễn chẳng đổi
ḷng. Nếu có trái phạm, ắt thân chuốc họa. Nếu
không sửa lỗi, hại đến cháu con, nhuốm bẩn
đại giáo, tội thật chẳng nhẹ! Xin hăy giết
chết để khuyên răn, các vị thần minh hộ
pháp từ bi xót thương, xét soi tấm ḷng quy hướng,
hộ tŕ, ngấm ngầm che chở, đời đời
vĩnh viễn bảo vệ.
Đệ tử… kính cẩn
kư tên
Một là giữ vững giới
lực. Tâm tưởng của con người hễ chẳng
thiện th́ là ác. Sự hưởng thụ của con
người nếu chẳng phải là phước, sẽ
là họa. Đạo trời giáng họa cho kẻ dâm, chẳng
giáng tội cho người biết hối cải. Đúng
là thoạt đầu mê, đến cuối cùng ngộ, tai
ương sẽ ĺa, phước đưa tới. Nhưng
sau khi sám hối, thọ giới, phải dè dặt, cẩn
trọng như vào rừng sâu, như bước trên băng
mỏng, măi cho đến khi mạng chung[8],
sau đó mới có thể thưa với thần minh chính
ḿnh vô tội. Nếu sau khi thọ giới, lại phạm
giới, ắt lời thề ở trước, oai linh của
thần ở sau, chắc chắn sẽ mắc họa, chẳng
có thuốc chữa. Như mắc bệnh thương hàn vừa
đỡ, bèn ăn đồ huyết nhục, hễ bệnh
cũ phát ra, chắc chắn chẳng thể sống
được! Chỉ mong những người có cùng chí
hướng, hăy chí tâm quy y, luôn luôn [dè dặt, cẩn trọng
như đang] đối trước thần minh, phút giây
nào cũng thường nghĩ đến nỗi họa hoạn.
Người xưa nói: “Một
lần [phạm lỗi] là đă quá đáng rồi, há c̣n tái
phạm ư?” Huống hồ ta đă phát thệ, há giống
như tṛ đùa bỡn của trẻ con ư?
Hai là kiên tŕ tín tâm. Phàm là những
người thọ giới, cần nên biết vận mạng
của mỗi người khác nhau. Như đất có chất
màu, trời đổ mưa, sương, vốn chẳng
khác biệt, do người trồng trọt vun quén, mà có cây
nghiêng lệch, ngả bóng. Quyền vun bồi, che chở là
do trời, nhưng vun quén, nghiêng lệch thật sự là
do ta. Những kẻ ác mà hưởng phước phi
thường, chưa chắc đă là phước thật
sự! Có thể là nhờ vào điều ấy để
khiến cho tai ương càng nặng nề hơn. Nếu
không, là do tổ đức hoặc căn lành sâu dầy
đời trước. Người lành vô cớ mắc họa,
chưa chắc đă là nỗi họa thật sự, có thể
là nhờ đó để khiến cho sự thành tựu của
quư vị càng đẹp đẽ hơn. Nếu không, [những
ương họa ấy] là do túc nghiệp, oan khiên đời
trước mà ra. Chỉ mong người đời nếu
gặp thuận cảnh, hăy càng thêm tinh tấn. Nếu gặp
phải nghịch cảnh, hăy càng nên dũng mănh, kết cục
[tốt đẹp hay xấu ác] đều do chính ḿnh
đó thôi!
Bảo thân lập
mạng giới kỳ cập thiên địa nhân kỵ
(Những ngày
nên kiêng kỵ hành dâm ḥng bảo vệ thân mạng)
Lư “làm
lành được thiện, do dâm mắc họa” đă
nói tường tận. Ngay như trong ṿng vợ chồng,
con người dễ sơ sót nhất. Chẳng biết
trong một năm có những ngày nên đoạn dâm, trai giới.
Như trong Nguyệt Lệnh đă nói: Ba ngày trước
khi có sấm (ba ngày trước tiết Xuân Phân), [quan phủ]
sai người đánh mơ gỗ tuyên cáo dân chúng: “Sắp có sấm động, kẻ
chẳng kiêng ăn nằm, sẽ sanh con chẳng lành lặn,
ắt gặp tai ương hung hiểm” chính là v́ lẽ
ấy. Huống hồ khí huyết lưu hành trong thân
người vốn tương ứng với tiết khí
trong trời đất. Nếu hành dâm chẳng đúng thời,
ắt chẳng phù hợp thời tiết, sẽ bị
thương tinh tổn khí gấp trăm lần những
khi khác. C̣n như nhằm dịp thần minh giáng hạ soi
xét, nếu dâm ô, mạo muội khinh nhờn, có kẻ bị
khiển trách ngấm ngầm mà chẳng biết. V́ thế,
trong cơi đời có những kẻ do thiếu cẩn trọng,
gặp phải [ương họa] rành rành là mắc bệnh,
chết yểu, hoặc gặp họa ngấm ngầm, tức
là bị giảm mất tước lộc, giảm thọ,
thường đều là v́ lẽ này. Tới lúc ấy, dẫu
hối hận, cũng chẳng thể cứu văn được.
Sao bằng vâng theo kiêng giữ để hối lỗi
[ngay từ bây giờ]? Kính cẩn sao lục những ngày
tháng cần phải kiêng dè và những ngày kỵ liên quan
đến trời, đất, hoặc con người. Kẻ
đă biết tự yêu thương chính ḿnh, sẽ đều
tuân thủ vậy!
|
Tháng |
Ngày kiêng |
Nguyên do |
Sự báo ứng do chẳng kiêng dâm |
|
Tháng Giêng |
Mồng
Một |
Tết
Nguyên Đán, Ngọc Đế xem xét thần, khí, tài lộc,
thọ mạng của con người. Nguyệt Sóc[9] |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Vạn
thần nhóm hội - Đẩu giáng[10] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Năm |
Ngũ
Hư kỵ[11] |
|
|
|
Mồng
Sáu |
Giảm
thọ mười hai năm |
||
|
Mồng
Bảy |
Ngày
Thượng Hội[14] |
Tổn
thọ |
|
|
Mồng
Tám |
Vía
Ngũ Điện Diêm La Thiên Tử - Tứ Thiên
Vương tuần hành (mỗi tháng giống nhau) |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Chín |
Vía
Ngọc Hoàng Thượng Đế |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Ba |
Ngày
kỵ Dương Công[15]
|
|
|
|
Mười
Bốn |
Tam
Nguyên Giáng[16] - Tứ Thiên
Vương tuần hành (mỗi tháng giống nhau) |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Lăm |
Tam
Nguyên Giáng - Thượng Nguyên Thần Hội[17]
– Ngày Rằm (mỗi tháng giống nhau) – Tứ Thiên
Vương tuần hành (mỗi tháng giống nhau) |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Sáu |
Tam
Nguyên Giáng |
Giảm
thọ |
|
|
Mười
Chín |
Vía
Trường Xuân Chân Nhân[18]
|
|
|
|
Hai
Mươi Ba |
Thần
Tam Thi báo cáo - Tứ Thiên Vương tuần hành (mỗi
tháng giống nhau) |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Nguyệt Hối[19]
(mỗi tháng giống nhau). Ngày mở kho trời đất[20] |
Giảm
thọ, tổn thọ, con cái bị bệnh tật. |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng (mỗi tháng giống nhau) |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Các
vị nhân thần ngự trong cơi âm (hăy nên kiêng ăn nằm
trước một ngày) |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành (mỗi tháng giống nhau) |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng[21]
báo cáo (mỗi tháng giống nhau) - Tứ Thiên Vương
tuần hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi
Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Hai |
Mồng
Một |
Nguyệt
Sóc – Vía Nhất Điện Tần Quảng Vương |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Hai |
Vạn
thần nhóm họp, vía Phước Đức Thổ
Địa Chánh Thần |
Giảm
thọ mười hai năm, mắc họa |
|
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng, vía Văn Xương Đế Quân |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm. |
|
|
Mồng
Sáu |
Lôi
Trai Nhật, vía Đông Nhạc Đế Quân |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Tám |
Thích
Ca Mâu Ni Phật xuất gia, vía Tống Đế
Vương[22],
vía Trương Đại Đế[23],
Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm. |
|
|
Mười
Một |
Dương
công kỵ |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Thích
Ca Mâu Ni Phật bát Niết Bàn, Nguyệt Vọng[24],
vía Thái Thượng Lăo Quân, Tứ Thiên Vương tuần
hành |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm. |
|
|
Mười
Bảy |
Vía
Đông Phương Đỗ Tướng Quân[25] |
|
|
|
Mười
Tám |
Vía
Tứ Điện Ngũ Quan Vương, sinh nhật của
Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Chín |
Khánh
đản Quán Âm Đại Sĩ |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Mốt |
Khánh
đản Phổ Hiền Bồ Tát |
|
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Nguyệt Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Mắc
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Ba |
Mồng
Một |
Nguyệt
sóc – Vía Nhị Điện Sở Giang Vương |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
Giáng – Vía Huyền Thiên Thượng Đế[26] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Sáu |
Lôi
Trai Nhật |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Tám |
Vía
Lục Điện Biện Thành Vương - Tứ Thiên
Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Chín |
Ngưu
quỷ thần xuất – Dương công kỵ |
Sanh
ác thai |
|
|
Mười
Hai |
Vía
Trung Ương Ngũ Đạo |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng - vía Huyền Đàn, vía Hạo Thiên Thượng
Đế[27], Tứ Thiên
Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Sáu |
Khánh
đản Chuẩn Đề Bồ Tát |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Tám |
Vía
Trung Nhạc Đại Đế, vía Hậu Thổ
Nương Nương[28],
Tam Mao giáng hạ[29] |
|
|
|
Hai
Mươi |
Ngày
mở kho trời đất, vía Tử Tôn Nương
Nương[30]
|
Tổn
thọ |
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Nguyệt Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng, vía Thất Điện Thái Sơn Vương |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm, vía Thương Hiệt[31]
Chí Thánh tiên sư |
Bị
bệnh, giảm tài lộc, giảm thọ mười
hai năm |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Tư |
Mồng
Một |
Nguyệt
Sóc, vía Bát Điện Đô Thị Vương |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Bốn |
Vạn
thần thiện hóa, khánh đản Văn Thù Bồ Tát |
xảy
thai, thai chết yểu |
|
|
Mồng
Sáu |
Lôi
Trai Nhật |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Bảy |
Nam
Đẩu, Bắc Đẩu, Tây Đẩu cùng giáng hạ.
Dương công kỵ. |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Tám |
Khánh
đản Thích Ca Mâu Ni Phật, Vạn thần thiện
hóa. Thiện Ác đồng tử giáng hạ. Vía Cửu
Điện B́nh Đẳng Vương, Tứ Thiên
Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm, thai chết yểu, bị bệnh
về máu mà chết |
|
|
Mười
Bốn |
Vía
Thuần Dương tổ sư[32],
Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ |
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, vía Chung Ly tổ sư[33],
Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ |
|
|
Mười
Sáu |
Ngày
trời đất mở kho |
Tổn
thọ |
|
|
Mười
Bảy |
Vía
Thập Điện Chuyển Luân Vương |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Tám |
Ngày
trời đất mở kho, vía Tử Vi Đại Đế[34] |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi |
Vía
Nhăn Quang Thánh Mẫu[35] |
|
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Nguyệt
Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối, Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (gặp tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín)
|
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Năm |
Mồng
Một |
Nguyệt
sóc, vía Nam Cực Trường Sanh Đại Đế[36] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Năm |
Địa
lạp[37], Ngũ Đế
giảo định quan tước của con người,
ngày Cửu Độc[38],
Dương Công kỵ |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm, chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Mồng
Sáu |
Ngày
Cửu Độc, Lôi trai nhật |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Mồng
Bảy |
Ngày
Cửu Độc |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Mồng
Tám |
Vía
Nam Phương Ngũ Đạo, Tứ Thiên Vương
tuần hành |
Tổn
thọ |
|
|
Mười
Một |
Ngày
mở kho trời đất, vía Đô Thành Hoàng trong thiên hạ |
Tổn
thọ |
|
|
Mười
Hai |
Vía
Bính Linh Công[39] |
Tổn
thọ |
|
|
Mười
Ba |
Quan
Thánh giáng thần |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành, giờ Tư nửa đêm là lúc
trời đất giao ḥa |
Trong
ṿng ba năm vợ chồng đều chết |
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, ngày Cửu Độc, Tứ Thiên Vương tuần
hành |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Mười
Sáu |
Ngày
Cửu Độc, ngày nguyên khí tạo hóa vạn vật
trong trời đất |
Trong
ṿng ba năm vợ chồng đều chết |
|
|
Mười
Bảy |
Ngày
Cửu Độc |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Mười
Tám |
Vía
Trương thiên sư[40] |
|
|
|
Hai
Mươi Hai |
Vía
Hiếu Nga thần |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Cửu Độc, ngày Nguyệt Hối |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Hai
Mươi Sáu |
Ngày
Cửu Độc |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Ngày
Cửu Độc, Đẩu giáng |
Chết
yểu, tai họa bất ngờ |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) * Xét ra,
tháng này kiêng [sắc dục] trọn tháng th́ hơn |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Sáu |
Mồng
Một |
Nguyệt
Sóc |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng, Dương công kỵ |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Bốn |
Nam
Thiệm Bộ Châu chuyển đại pháp luân |
Tổn
thọ |
|
|
Mồng
Sáu |
Ngày
mở kho trời đất, Lôi trai nhật |
Tổn
thọ |
|
|
Mồng
Tám |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mồng
Mười |
Khánh
đản Kim Túc Như Lai[41]
|
|
|
|
Mười
Ba |
Vía
Tỉnh Tuyền Long Vương[42] |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Chín |
Quán
Âm Đại Sĩ Niết Bàn (ngày thành đạo) |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Ba |
Vía
Nam Phương Hỏa Thần, Tứ Thiên Vương tuần
hành |
Bị
trùng tang |
|
|
Hai
Mươi Bốn |
Vía
Lôi Tổ[43], vía Quan Đế |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Nguyệt Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Bảy |
Mồng
Một |
Nguyệt
sóc, Dương công kỵ |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Năm |
Ngày
Trung Hội (có khi coi là ngày mồng Bảy) |
Tổn
thọ |
|
|
Mồng
Sáu |
Lôi
trai nhật |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Bảy |
Đạo
Đức Lạp[44],
Ngũ Đế so sánh thiện ác của con người,
vía Khôi Tinh[45] |
Giảm
lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Tám |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mồng
Mười |
Ngày
âm độc, đại kỵ |
|
|
|
Mười
Hai |
Vía
Trường Chân Đàm chân nhân[46]
|
|
|
|
Mười
Ba |
Khánh
đản Đại Thế Chí Bồ Tát |
Giảm
thọ |
|
|
Mười
Bốn |
Tam
Nguyên giáng, Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ |
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Tam Nguyên giáng, Địa quan tra sổ, Tứ
Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Sáu |
Tam
Nguyên Giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Tám |
Vía
Tây Vương Mẫu[47] |
Giảm thọ mười hai
năm |
|
|
Mười
Chín |
Vía
Thái Tuế[48] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Hai |
Vía
Tăng Phước Tài Thần[49]
|
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Nguyệt
Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Dương
công kỵ, Tứ Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Khánh
đản Địa Tạng Bồ Tát, Nguyệt Hối
– Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Tháng Tám |
Mồng
Một |
Nguyệt
Sóc, vía Hứa Chân Quân[50] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng, vía Bắc Đẩu, vía Tư Mạng Táo Quân |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm, bị hỏa
hoạn |
|
|
Mồng
Năm |
Vía
Lôi Thanh Đại Đế[51] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Sáu |
Lôi
trai |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Tám |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mồng
Mười |
Vía
Bắc Đẩu Đại Đế |
|
|
|
Mười
Hai |
Vía
Tây Phương Ngũ Đạo |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Thái Âm triều nguyên (hăy nên thắp hương,
thức đêm), Tứ Thiên Vương tuần hành |
Chết
đột ngột |
|
|
Mười
Sáu |
Thiên
Tào Lược Loát Chân Quân[52]
giáng hạ |
Nghèo
nàn, chết yểu |
|
|
Mười
Tám |
Ngày
trời người tăng phước (hăy nên trai giới,
nghĩ tới chuyện tốt lành) |
|
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành, vía Hán Hoàn Hầu
Trương Hiển Vương[53] |
|
|
|
Hai
Mươi Bốn |
Vía
Táo Quân phu nhân |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Nguyệt Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng, vía Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử, Dương công
kỵ |
Giảm
tài lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm, tứ thiên họp mặt nghị
sự |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành, chư thần tra xét (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai
Mươi Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Chín |
Mồng
Một |
Nguyệt
sóc, vía Nam Đẩu[54],
từ mồng Một đến mồng Chín, chín vị
tinh quân thuộc Bắc Đẩu giáng hạ (trong chín
ngày này đều nên kiêng hành dâm) |
Giảm
lộc, giảm thọ mười hai năm. |
|
Mồng
Ba |
Vía
Ngũ Ôn Thần[55] |
|
|
|
Mồng
Tám |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mồng
Chín |
Vía
Đẩu Mẫu[56],
vía Phong Đô Đại Đế[57],
Huyền Thiên Thượng Đế phi thăng |
Giảm
lộc, giảm thọ mười hai năm. |
|
|
Mồng
Mười |
Đẩu
Mẫu giáng hạ |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Một |
Nên
kiêng cử |
|
|
|
Mười
Ba |
Vía
Mạnh Bà tôn thần [58] |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Bảy |
Vía
Kim Long tứ đại vương |
Bị
tai nạn về nước |
|
|
Mười
Chín |
Nhật
Cung Nguyệt Cung hội hợp, Quán Thế Âm Bồ Tát xuất
gia |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Ba |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Nguyệt
Hối, Dương công kỵ |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Khánh
đản Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) |
Bệnh
nguy ngập, giảm thọ |
|
|
Tháng Mười |
Mồng
Một |
Nguyệt
Hối, Dân Tuế lạp, Tứ Thiên Vương giáng hạ |
Giảm
thọ, chết trong ṿng một năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng, vía Tam Mao |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Năm |
Ngày
Hạ Hội, khánh đản tổ sư Đạt Ma |
Tổn
thọ |
|
|
Mồng
Sáu |
Thiên
tào khảo sát |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Tám |
Ngày
Phật nhập Niết Bàn, đại kỵ sắc dục,
Tứ Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mồng
Mười |
Tứ
Thiên Vương giáng hạ |
Trong
ṿng một năm sẽ chết |
|
|
Mười
Một |
Nên
kiêng sắc dục |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tam
Nguyên giáng, Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ |
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Tam Nguyên giáng, Hạ Nguyên Thủy Phủ kiểm
sổ sách, Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Sáu |
Tam
Nguyên giáng |
|
|
|
Hai
Mươi Ba |
Dương
công kỵ, Tứ Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Ngày
Nguyệt Hối |
Giảm
thọ |
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế giáng hạ |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Mười
Một |
Mồng
Một |
Nguyệt
Sóc |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Bốn |
Vía
Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử |
Giảm
lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Sáu |
Vía
Tây Nhạc Đại Đế |
Giảm
lộc, giảm thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Tám |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Một |
Ngày
trời đất mở kho, vía Thái Ất Cứu Khổ
Thiên Tôn[59] |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Tứ Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Phạm
dâm vào nửa đầu đêm |
Nam
chết |
||
|
Phạm
dâm vào nửa cuối đêm |
Nữ
chết |
||
|
Mười
Bảy |
Khánh
đản A Di Đà Phật |
|
|
|
Mười
Chín |
Vía
Thái Dương Nhật Cung |
Tai
họa oái ăm |
|
|
Hai
Mươi Mốt |
Dương
công kỵ |
Tuyệt
tự |
|
|
Hai
Mươi Ba |
Vía
Trương Tiên[60],
Tứ Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Lược
Loát Đại Phu giáng hạ, ngày Nguyệt Hối |
Đại
hung |
|
|
Hai
Mươi Sáu |
Vía
Bắc Phương Ngũ Đạo |
|
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Nguyệt
Hối – Tư Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương tuần
hành (tháng thiếu th́ kiêng vào ngày Hai Mươi Chín) |
Giảm
thọ |
|
|
Tháng Chạp |
Mồng
Một |
Nguyệt
Sóc |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
Mồng
Ba |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mồng
Sáu |
Ngày
mở kho trời đất, Lôi trai nhật |
Giảm
thọ |
|
|
Mồng
Bảy |
Lược
Loát Đại Phu giáng hạ |
Bệnh
ngặt |
|
|
Mồng
Tám |
Vương
hầu lạp, ngày Thích Ca Như Lai thành Phật, Tứ
Thiên Vương tuần hành, ngày Mậu trong mười
ngày đầu tiên |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Hai |
Thái
Tố Tam Nguyên Quân[61]
triều chân |
|
|
|
Mười
Bốn |
Tứ
Thiên Vương tuần hành |
|
|
|
Mười
Lăm |
Nguyệt
vọng, Tứ Thiên Vương tuần hành |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Mười
Sáu |
Vía
Nam Nhạc Đại Đế |
|
|
|
Mười
Chín |
Dương
công kỵ |
|
|
|
Hai
Mươi |
Thiên
địa giao đạo |
Rút
ngắn tuổi thọ |
|
|
Hai
Mươi Mốt |
Ngày
vía Thiên Do Thượng Đế[62] |
|
|
|
Hai
Mươi Ba |
Thần
ngũ nhạc giáng hạ, Tứ Thiên Vương tuần
hành |
|
|
|
Hai
Mươi Bốn |
Táo
Quân chầu trời tâu điều thiện lẽ ác của
nhân gian |
Đại
họa |
|
|
Hai
Mươi Lăm |
Tam
Thanh[63],
Ngọc Đế cùng giáng hạ khảo sát thiện ác. |
|
|
|
Hai
Mươi Bảy |
Đẩu
giáng |
Giảm
thọ mười hai năm |
|
|
Hai
Mươi Tám |
Nhân
thần nhóm họp cơi âm |
Bị
bệnh |
|
|
Hai
Mươi Chín |
Khánh
đản Hoa Nghiêm Bồ Tát, Tứ Thiên Vương tuần
hành |
|
|
|
Ba
Mươi |
Chư
thần giáng hạ xem xét thiện ác |
Phạm
lỗi hành dâm th́ nam lẫn nữ đều chết |
Nhận định: Trong Giới
Kỳ trên đây, mỗi năm có tất cả hai trăm
hai mươi lăm ngày, tháng Nhuận tính theo tháng trước
đó, đều là những ngày nhất định trong một
tháng.
* Tháng có Xuân
Phân và Thu Phân
a. Tiết Xuân Phân: Sắp có tiếng sấm. Kẻ phạm
dâm sẽ sanh con chẳng đầy đủ ngũ quan, tứ
chi chẳng toàn vẹn. Cha mẹ gặp tai nạn. Hăy nên
kiêng dục kể từ tiết Kinh Trập. Kiêng hơn một
tháng.
b. Tiết Thu Phân: Sát khí[64] rất
thịnh, dương khí ngày một suy. Hăy nên kiêng dục kể
từ tiết Bạch Lộ, kiêng hơn một tháng.
Ba ngày
trước và ba ngày sau hai tiết khí ấy, cộng thành bảy
ngày. Phạm hành dâm trong những ngày ấy, ắt mắc bệnh
ngặt nghèo, càng phải nên kiêng dè nghiêm ngặt.
* Tháng có
Đông Chí và Hạ Chí
a. Hạ Chí: Âm Dương
tranh chấp nhau, là lúc tử sanh tách rời, hăy nên kiêng dục
kể từ tiết Mang Chủng, kiêng hơn một tháng.
b. Đông Chí: Là lúc Âm Dương
tranh nhau, sanh tử tách ĺa. Hăy nên kiêng dục kể từ
tiết Đại Tuyết, kiêng hơn một tháng.
Hai tiết khí này là lúc Âm Dương
dứt nối chuyển tiếp, cấm kỵ dâm sự nhất.
Ba ngày trước và ba ngày sau hai tiết ấy, tổng cộng
là bảy ngày, hễ phạm dục sự, nhất định
sẽ bị bệnh nguy kịch, hăy càng nên răn dè.
- Vào tiết Đông Chí, lúc nửa
đêm, sau ngày Canh Tân, nhằm ngày Tuất thứ ba, nếu
phạm dâm đều sẽ chết trong ṿng một năm!
- Ngày Tam Nguyên (Rằm tháng
Giêng, Rằm tháng Bảy, Rằm tháng Mười), phạm
dâm sẽ bị giảm thọ năm năm.
- Vào ngày Tứ Lập (Lập
Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông), Tứ Ly (Đông
Chí, Hạ Chí, Xuân Phân, Thu Phân), Tứ Tuyệt
(ngày trước những ngày thuộc Tứ Lập), Nhị
Xă[65],
hễ phạm dâm đều giảm thọ năm
năm.
- Thọ thai trong ngày Xă Nhật,
râu tóc bạc trắng.
- Vào ngày tam phục[66],
ngày trăng thượng huyền và hạ huyền, ngày không
trăng, ba ngày Tân mỗi tháng, nếu phạm dâm sẽ
đều giảm thọ một năm.
- Vào ngày Giáp Tư, ngày Canh Thân, ngày
Thái Tuế, hăy nên dâng hương, giữ trai giới, cúng tạ
Phật. Phạm dâm sẽ đều bị giảm thọ
một năm.
- Vào ngày giỗ tổ tiên,
sinh nhật hoặc ngày giỗ của cha mẹ, hễ phạm
dâm sẽ đều giảm thọ một năm.
- Vào sinh nhật của chính
ḿnh, của vợ hoặc chồng, nếu phạm dâm sẽ
đều giảm thọ.
- Vào ngày Bính Đinh, ngày trời
đất mở kho, hễ phạm dâm sẽ đều nhiễm
bệnh.
- Nhằm ngày hủy bại,
tức là ngày Mười Tám tháng đủ, hoặc ngày Mười
Bảy tháng thiếu, hễ phạm dâm sẽ nhiễm bệnh.
- Nhằm ngày Thập Ác đại
bại, tức là vào năm Giáp hay Kỷ, nhằm ngày Mậu
Tuất trong tháng Ba, ngày Quư Hợi trong tháng Bảy, ngày Bính
Thân trong tháng Mười, ngày Đinh Hợi tháng Mười
Một. Năm Ất hoặc Canh th́ là ngày Nhâm Thân trong tháng
Tư, ngày Ất Tỵ trong tháng Chín. Năm Bính hoặc Tân
th́ là ngày Tân Tỵ tháng Ba, ngày Canh Th́n của tháng Chín, ngày Giáp
Th́n của tháng Mười. Năm Đinh hoặc Nhâm không
có ngày kỵ. Năm Mậu hay Quư th́ là ngày Kỷ Sửu tháng
Sáu. Những ngày ấy đều rất xấu, hăy nên kiêng
dâm!
- Ngày Âm Thác, tức ngày Canh Tuất
tháng Giêng, ngày Tân Dậu tháng Hai, ngày Canh Thân tháng Ba, ngày
Đinh Mùi tháng Tư, ngày Bính Ngọ trong tháng Năm, ngày Đinh
Tỵ tháng Sáu, ngày Giáp Th́n tháng Bảy, ngày Ất Măo tháng Tám,
ngày Giáp Dần tháng Chín, ngày Quư Sửu tháng Mười, ngày
Nhâm Tư tháng Mười Một, ngày Quư Hợi tháng Chạp,
những ngày ấy khí Âm không đủ, đều nên kiêng
dâm.
- Ngày Dương Thác, tức
là ngày Thân và Dần trong tháng Giêng, ngày Ất Măo trong tháng Hai,
ngày Giáp Th́n trong tháng Ba, ngày Đinh Tỵ trong tháng Tư, ngày
Bính Ngọ trong tháng Năm, ngày Đinh Mùi trong tháng Sáu, ngày
Canh Thân trong tháng Bảy, ngày Tân Dậu trong tháng Tám, ngày Canh Tuất
trong tháng Chín, ngày Quư Hợi trong tháng Mười, ngày Nhâm Tư
trong tháng Mười Một, ngày Quư Sửu trong tháng Chạp.
Những ngày ấy, khí Dương không đủ, đều
nên kiêng dâm.
Nhận định: Những
giới kỳ đă nêu trên đây, mỗi năm đều
dựa theo Thời Hiến Thư để dựa theo từng
tháng mà chép rơ ra, kẹp vào sách này ḥng tuân theo cấm giới.
* Vào lúc thiên kỵ nên kiêng
dâm:
- Khi nắng gắt, hoặc
lúc giá buốt. Hễ phạm phải sẽ mắc bệnh
ngặt, chẳng chữa được.
- Khi gió băo, giông tố, trời
đất tối tăm, lúc nhật thực, nguyệt thực,
lúc cầu vồng hiện ra, lúc mặt đất rúng
động, phạm dâm sẽ sanh ra quái vật, mất mạng.
- Vào lúc ban ngày, hoặc dưới
trăng sao, trước ánh đèn mà phạm dâm sẽ đều
bị giảm thọ.
* Chỗ địa kỵ
hăy nên kiêng dâm:
- Trong phạm vị của
miếu, đền, chùa, quán, điện thờ. Phạm
dâm [ở nơi ấy] sẽ bị giảm lộc và thọ
rất lớn.
- Bên cạnh giếng, bếp,
nhà vệ sinh, vườn hoang, mồ mả, xác chết,
quan tài. Phạm dâm nơi đó sẽ có ác thần nhập
thai, sanh ra quái vật, mất mạng!
* Đối với chuyện
nhân kỵ, nên kiêng hành dâm:
- Khi uất hận, giận
dữ khiến gan bị tổn thương. Phạm dâm ắt
bị bệnh.
- Khi đi xa, ân ái rồi
đi xa trăm dặm sẽ bị bệnh. Khi vượt
trăm dặm rồi ân ái sẽ chết.
- Khi uống say, ăn no mà ân
ái, ngũ tạng sẽ bị đảo lộn.
- Khi đói bụng mà ân ái sẽ
tổn thương nguyên thần.
- Sau khi bệnh, phạm dâm
th́ biến chứng sẽ trở lại.
- Khi có thai mà hành dâm sẽ tổn
thương thai nhi. V́ thế, sau khi biết có thai, hăy nên ngủ
riêng, tuyệt dục. Một là nghiêm ngặt tuân thủ giáo
huấn về thai sản, không lo bị đọa thai, cũng
như trẻ nhỏ bị nhiễm các bệnh độc
từ trong thai, sanh ra các chứng bệnh đậu nguy hiểm,
kinh phong, cam tẩu mă v.v… Hai là đứa con sanh ra, con trai ắt
đoan nghiêm, chững chạc, gái ắt trinh lương,
nhỏ nhẹ, hiền dịu, tự nhiên chẳng phạm
lỗi dâm dật.
- Trong ṿng mười ngày sau
khi sanh mà ân ái, ắt vợ phải chết. Trong ṿng một
trăm ngày mà ăn nằm, ắt vợ mắc bệnh.
- Khi có kinh nguyệt, hành dâm sẽ
trở thành chứng bần huyết, nam nữ đều
bị bệnh.
- Chiếu tre: Tánh của trúc
là lạnh mát. Hành dâm trên chiếu tre dễ bị cảm
nhiễm khí lạnh.
- Mền mỏng: Hành dâm sẽ
bị hơi lạnh thấu xương.
- Nên tránh để cửa sổ
có gió lọt qua khe, thức khuya nên kiêng hành dâm. - Vừa giao hợp xong, con thơ
khóc nỉ non bên cạnh, chớ cho nó bú.
- Giao hợp xong, chớ quạt
ngay, và uống nước trà lạnh, v́ nếu bị lạnh,
có thể bị chết ngay.
- Một đêm chớ giao hợp
hai lần.
- Đừng uống những
thứ thuốc kích dục.
- Đừng kềm hăm không
xuất tinh.
- Khi ngă bệnh, nổi ghẻ
chốc, lở loét, lên đậu, trừ phi đă b́nh phục
hoàn toàn, vàn muôn phần đừng hành dâm. Nếu trái phạm,
quá nửa sẽ bị chết!
- Khi bị bệnh mắt chưa
khỏi, hoặc vừa mới lành, phạm dâm ắt sẽ
bị mù.
- Khi bị bệnh hư lao,
tuy đă dưỡng bệnh lành mạnh, vẫn nên đoạn
dục một năm. Nếu nghĩ là đă lành bệnh bèn
phạm dâm, quá nửa ắt phải chết.
- Thương tổn gân cốt:
Sau khi đă lành, vẫn phải kiêng dâm một trăm bảy
mươi hoặc một trăm tám mươi ngày. Nếu
chưa quá trăm ngày, phạm phải pḥng sự, ắt sẽ
chết. Dẫu sống sót, ắt cũng đến nỗi
tàn phế.
- Quá vất vả, quá lo lắng,
quá nóng, quá sợ hăi, quá ưu sầu, đều chớ nên
phạm dâm. Hễ phạm dâm, ắt sẽ thành bệnh dây
dưa. Nặng th́ sẽ chết ngay.
Xét những kỳ hạn kiêng
hành dâm theo từng tháng cũng như những ngày kiêng kỵ
về khí trời hoặc con người đă nêu trên đây
ra, mỗi tháng c̣n có sáu bảy ngày chẳng có mảy may nào
vi phạm. Nếu nói theo người biết giữ ǵn thân
thể, mỗi tháng chỉ nên ân ái tối đa ba bốn lần,
sẽ có thể chẳng bị bệnh tật, tinh thần
mạnh mẽ, vững vàng. Hơn nữa, kẻ ít dục
sẽ có nhiều con trai. Về sau, thân thể của người
ấy cũng mạnh mẽ. Những kẻ trẻ tuổi
vừa mới lấy vợ, thường buông lung dục
vọng hại thân, khiến cho niềm ḥa hợp trăm năm
trong nhất thời bị diệt sạch sành sanh, rất
đáng đau buồn! Sao bằng kính cẩn vâng giữ giới
kỳ (những kỳ hạn nên kiêng hành dâm), giữ thân lập
mạng, ngơ hầu mai sau được hưởng niềm
vui tề mi giai lăo, may mắn lắm cháu đông con, sung
sướng chi bằng?
Bảo thân quảng
tự yếu nghĩa
(nghĩa lư chánh yếu để giữ
ǵn thân thể, đông con cháu)
Chử Thượng Thư
luận về chuyện đông con lắm cháu như sau:
- Người xưa nam tử
ba mươi tuổi lấy vợ, nữ nhân hai mươi
tuổi lấy chồng, v́ muốn cho Âm Dương đă
hoàn thiện, đầy đủ. V́ thế, hễ ăn
nằm bèn có thai, có thai bèn sanh con, con sanh ra sống lâu. Đời
sau chẳng thể tuân theo lệ ấy, nam chưa đầy
mười sáu tuổi, nữ chưa tṛn mười bốn,
đă sớm lơi đời! Do ngũ tạng có chỗ chưa
vẹn đầy, mai sau ắt sẽ mắc bệnh quái lạ!
V́ lẽ này, có kẻ sanh nhiều lần mà con không nuôi
được, nhân dân phần nhiều chết yểu! Nói
chung là v́ chẳng biết đạo làm cha mẹ của kẻ
khác. Đạo này có mối quan hệ chẳng nhỏ, thế
nhưng kẻ làm cha chẳng tiện dạy con, người
làm thầy chẳng tiện truyền cho tṛ. Về sau, mới
nhận biết, hối hận th́ đă muộn mất rồi.
Tôi đặc biệt nói thô
thiển như vậy, muốn cho những kẻ trẻ
tuổi đều biết. Phàm là con gái, từ mười
bốn tuổi trở đi, mỗi tháng đều có kinh
nguyệt một lần, [kéo dài] ba ngày mới hết. Nói
chung, cứ ba mươi ngày có kinh một lần là b́nh
thường. Nếu hai mươi mấy ngày đă có kinh,
hoặc ba mươi mấy ngày mới có, tức là kinh nguyệt
chẳng điều ḥa, phần nhiều sẽ khó có con! V́
thế, cần phải uống thuốc trước để
điều ḥa kinh nguyệt. Kinh nguyệt đă đều
đặn rồi vợ chồng mới ḥa hợp. Cần
phải đợi sau khi ba ngày kinh nguyệt đă sạch
th́ mới có thể ân ái. Viên Liễu Phàm nói: “Phàm là phụ
nữ khi kinh nguyệt sắp chấm dứt [mỗi tháng],
sẽ có một ngày rạo rực, tức là ư xuân dấy
động, nhưng thẹn thùng không chịu nói. Người
làm chồng thường ngầm nói với vợ, để
đến khi ấy vợ sẽ tự cho biết, có thể
vừa ân ái bèn đậu thai”.
Trương Cảnh Nhạc[67] nói:
“Nam nữ giao cấu, kết thành thai, tinh và huyết vẫn
là vật hữu h́nh thuộc về hậu thiên, nhưng có
một điểm khí tiên thiên vô h́nh xen vào th́ sau đấy
sẽ kết thành thai. Khí tiên thiên của nam tử mạnh
hơn, phần nhiều sẽ sanh con trai. Khí tiên thiên của
nữ nhân mạnh hơn, phần nhiều sẽ sanh con gái.
Ngay trong lúc hai loại khí ấy cùng tụ hội, tinh huyết
được bẩm thụ loại khí nào, sẽ chia thành
trai hay gái. Nhưng nữ tử chẳng phải là lúc dục
t́nh đạt đến cực hạn, sẽ chẳng tiếp
nhận [hai loại khí ấy]. Hễ đạt đến
[mức cực hạn của dục t́nh], tử cung sẽ
mở ra, tiếp nhận [tinh và khí] để thụ thai.
Chỉ sợ tinh của người đàn ông yếu ớt
chẳng thể đậu thai được, cho nên dẫu
làm chuyện ân ái mà vô dụng! V́ thế, tốt nhất là
hăy giữ cho tinh sung măn vài tháng rồi mới ăn nằm”.
Cổ nhân nói: “Ít ham muốn sẽ
sanh được nhiều con” chính là ư này.
Bậc trung là đợi sau
khi người nữ đă sạch kinh nguyệt mới ăn
nằm, hoặc là trong đêm trăng sáng, không mưa gió cũng
được. Thường ngày chẳng gần nữ
thân, ngủ riêng khác pḥng, hoặc nằm khác giường,
đắp mền riêng. Không chỉ là dễ sanh con, mà c̣n có
lợi cho thân thể của chính ḿnh.
Nếu là bậc hạ th́ bất
cần thời tiết, ngày giờ, hoặc dăm ba đêm
một lần, kẻ ấy ắt sẽ thành bệnh nội
thương. Lại c̣n kẻ thấp kém hơn nữa, đêm
nào cũng làm một lần, hoặc một đêm làm hai lần.
Những gă vong mạng như thế, nhất định là
tinh loăng như nước, chẳng bao lâu sẽ mắc bạo
bệnh, chết ngắc.
Phàm là những hôm trước
và sau ngày Mồng Một và Rằm, chớ nên hành dâm. Canh năm,
nửa đêm, khí Dương trong thân mới
sanh, hành dâm một lần sẽ giống như làm trăm
lần, chớ nên làm! Thân bị bệnh nhẹ, chớ nên
ăn nằm ([nếu cứ làm bừa], bệnh nhẹ biến
thành nặng, bệnh nặng ắt sẽ chết). Sau
khi uống say, khi ngồi thuyền, đi đường,
trong ṿng đôi ba ngày, chớ nên [hành dâm]. Gió to, sấm lớn,
quá nóng, quá lạnh, lúc nhật thực, nguyệt thực,
trước chỗ thờ thần, phía sau quan tài, trong khi
trai giới để cúng bái, chỗ có mặt trời, mặt
trăng, đèn đuốc chiếu sáng, đều chớ
có nên [hành dâm]. Nhằm ngày Canh Thân, ngày Giáp Tư, nhằm sinh nhật
của chính ḿnh, ngày Hai Mươi Tám mỗi tháng (đó là
ngày các vị nhân thần nhóm họp tại cơi Âm) đều
chớ có nên!
Nếu nam nữ giao cấu,
và sau khi mộng tinh, trong dăm ba ngày, đừng xuống
chỗ nước lạnh, chớ nên ăn hết thảy
những thứ cơm canh nguội lạnh, chớ nên uống
các loại thuốc có tánh lạnh. Nếu có bệnh bắt
buộc phải uống thuốc, hăy nên nói rơ với thầy
thuốc, giống như phụ nữ có thai, không thể
hoàn toàn trông cậy vào sự chẩn mạch được,
ngơ hầu khỏi bị hỏng chuyện. Ngày nóng, chớ
nên tham chất lạnh; trời lạnh, chớ nên xông mưa
đột gió. Nếu phạm phải, ắt sẽ bị
chứng quyết âm, tức là nam bị teo dương cụ,
nữ bị teo vú, tứ chi lạnh ngắt, đau bụng
mà chết. Dẫu có đổ sâm, cũng không cứu nổi!
Khi nữ nhân có kinh, cơ thể hư nhược, những
sự cấm kỵ cũng giống như thế.
Nếu như bị sảy
thai, quá nửa là do vợ chồng không
cẩn thận. Có thai năm ba tháng mà bị sảy, người
ta dễ biết. Chứ trong ṿng một tháng hoặc nửa
tháng bị sảy thai, nhiều người không biết. Ấy
là v́ [đậu thai] một tháng, thuộc về gan, gan chủ
tŕ sự tiết dịch. Vợ chồng chẳng cẩn
thận, thường có trường hợp nửa tháng
đầu thụ thai, nửa tháng sau sảy thai mà không biết.
Thậm chí có người có thai rồi sảy thai nhiều
lần, can mạch nhiều lần bị thương tổn,
cho đến có kẻ suốt đời chẳng thể
mang thai! Phụ nữ sau khi có thai, hăy kiêng dè cẩn thận,
đừng phạm, trăm lần chẳng sai một.
Huống chi con ở trong bụng, cậy vào kinh huyết của
mẹ điều dưỡng. Cứ một lần giao cấu,
thai nguyên sẽ bị tổn thương một lần. May
mắn sanh được con, ắt nó sẽ lắm bệnh,
ắt bị bệnh đậu nguy hiểm, rất khó nuôi
khôn lớn.
Người yêu thương
con cái trong cơi đời, hăy đề pḥng, ǵn giữ nhiều
cách, cho tới lúc nó mười sáu, mười bảy tuổi,
về căn bản là chẳng bị tổn thương,
suốt đời ít bệnh. Phải biết từ lúc
trong bụng mẹ, đă sớm bị thảm thương,
khi sanh ra, sẽ chẳng thành người; đấy là lỗi
của ai? Há chẳng đau đớn ư? Có kẻ c̣n
nghiền nát dược hoàn bỏ vào tử cung để
gieo giống, há chẳng phải là trong tinh huyết càng chứa
thêm những chất cặn bă ư? Cổ nhân nói: “Gieo giống để sanh con, sẽ
chết v́ đứt gân, thấu xương. Hơn nữa,
gieo giống chưa chắc đă sanh được, sanh
được chưa chắc đă nuôi được, uổng
công tạo oan nghiệt!” Những điều ấy
đều [là những lẽ trọng yếu] trong đạo
làm cha mẹ. Xưa kia, tôi thích nói [những điều này]
cùng người khác, nay đă già rồi, không thể nói trọn
khắp được nữa. Viết thành lời này
để thay cho việc nói trực tiếp. Người
đời ai nấy đều biết dùng ḷng yêu thương
chính ḿnh để yêu thương con cái vậy.
* Tôn chân nhân nói:
- Thân người chẳng phải
do vàng sắt đúc thành, mà là cái thân do khí huyết kết
thành. Người đối với sắc dục không thể
tự tiết chế, thoạt đầu nói là “chẳng trở ngại”, đôi
khi buông thả th́ [thân thể] đă tổn thương
theo thời gian, tinh tủy thiếu hụt, khí huyết suy
bại, cái thân phải chết. Bởi lẽ, khí huyết
của con người vận chuyển theo sáu kinh (Thái Dương,
Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm, Quyết
Âm. Đó gọi là “lục kinh”),
mỗi ngày chuyển theo một kinh. Sáu ngày bèn trọn khắp
sáu kinh. V́ thế, cảm mạo bên ngoài là nhẹ nhất, ắt
là sau bảy ngày, đổ mồ hôi rồi sẽ hết
bệnh. Đấy là v́ khí huyết đă chuyển hết
một ṿng.
Khi con người dục sự
đang nồng, chẳng tránh khỏi tim đập mạnh,
toát mồ hôi, thân nóng bừng, thần trí mơ hồ. Ấy
là v́ các đốt xương mở ra, gân mạch, lỏng
lẻo. Tinh tủy đă tiết ra, khí huyết nơi một
kinh bị thương tổn. Một kinh đă tổn thương,
ắt phải đợi bảy ngày sau, khí huyết mới
lại chuyển vận đến kinh ấy th́ mới có
thể hồi phục như cũ. Kinh Dịch nói: “Thất nhật lai phục”,
có nghĩa là phải nghỉ ngơi, dưỡng sức bảy
ngày [sau khi đă hành dâm]. Người đời chưa
đến bảy ngày đă lại xuất tinh, khí huyết
nơi kinh lạc chẳng thể phục hồi như cũ.
Đă bị thương tổn, lại bị thương
tổn thêm, đến nỗi ngoài là cảm nhiễm, trong
th́ thiếu hụt, trăm thứ bệnh đều cùng dấy
lên. Con người luôn đổ lỗi cho thời tiết,
khí hậu, cho rằng bị bệnh là lẽ đương
nhiên, chẳng biết nguyên do không phải là một sớm
một chiều mà ra! Nguồn gốc bệnh tật là do từ
từ tạo thành v́ chẳng thể cẩn thận giữ
ǵn nghĩa lư “bảy ngày giáp
ṿng trở lại”.
Nay lập hạn chế, hăy
nghĩ tới căn bản điều độ dục
vọng, ǵn giữ thân thể. Thuở hai mươi tuổi,
lấy bảy ngày một lần làm chuẩn. Khi ba
mươi tuổi, lấy mười bốn ngày một lần
làm chuẩn. Lúc bốn mươi tuổi, hăy nên hai
mươi tám ngày một lần. Khi năm mươi tuổi,
hăy nên bốn mươi lăm ngày một lần. Tới lúc
sáu mươi tuổi, thiên quư (tinh thủy) đă tuyệt,
chẳng thể phát sanh nữa, hăy gấp nên đoạn sắc
dục, dứt bặt chuyện pḥng the, kiên cố tinh tủy.
Lấy sự thanh khiết, bế tàng làm gốc, muôn vàn chớ
nên cho nó tiết ra. Số ngày hạn chế như đă nói
trên đây là nói theo hai mùa Xuân và Thu, chứ trong hai mùa Đông
và Hạ, [hành dâm vào mùa Hè] sẽ khiến cho hỏa bốc
lên hết sức nóng, tinh tiết ra chẳng c̣n sót ǵ. Hai là
[hành dâm vào mùa Đông] khiến cho Thủy bị cực hàn.
Hăy nên bế tinh, tàng khí nghiêm ngặt.
Dẫu trong độ tuổi
thiếu niên, cũng nên lấy chuyện đoạn dục
làm chủ yếu. Nếu không, lúc hai mươi tuổi, có
thể mười bốn ngày một lần. Khi ba
mươi tuổi, có thể hai mươi tám ngày một lần.
Lúc bốn mươi tuổi, có thể bốn mươi
lăm ngày một lần. Tới khi năm mươi tuổi,
khí huyết suy giảm hết sức lớn, vào mùa Hạ
có thể là sáu mươi ngày một lần. Mùa Đông, hăy
nên cẩn thận ǵn giữ [chẳng dâm], chẳng để
xuất tinh. Bởi lẽ, khí của trời đất và
con người được phong bế hết sức kín
vào mùa Đông, chuyên để làm cội gốc phát khởi
cho mùa Xuân, càng quan trọng hơn mùa Hạ gấp mười
lần. Người tuân theo cách thức này, có thể chẳng
có bệnh, tăng thọ. Kẻ trái nghịch điều
này, ắt sẽ lắm bệnh, giảm thọ.
* Vương Liên Hàng nói:
- Xưa kia, Liên Tŕ đại
sư bảo Vương Đại Khế; “Công khai bỏ thuốc độc
vào thức ăn dở tệ chính nỗi thê thảm của
sự giết hại. Ngấm ngầm bỏ thuốc
độc vào thức ăn ngon lành chính là nỗi thảm của
ḷng dục”. Ôi chao! Từ xưa tới nay, bậc tài năng,
người đầy chí hướng có chí nguyện đẹp
đẽ, phần nhiều chẳng thọ là v́ đa dục
mà nên nỗi! Trước đó, những người ấy
cũng biết tự yêu thương chính ḿnh; sau khi xảy
ra chuyện, họ cũng biết hối tiếc. Nhưng
đến khi dục tâm vừa hừng, chí khí mạnh mẽ
mất sạch! Cứ ngỡ làm một lần cũng chẳng
sao; sau này, sẽ chẳng làm nữa. Đến nỗi nhiều
lần đều nghĩ như thế, dục vọng
buông lung càng thịnh, đến nỗi chẳng thể tự
khống chế, chẳng biết làm sao được nữa?
V́ thế, tinh cạn kiệt, thân thể yếu đuối,
bệnh tật, chết mất. Chuyện biết tự thương
ḿnh thuở trước đă thành vô dụng, mà chuyện đă
xảy ra rồi, dẫu tiếc nuối cũng chẳng kịp!
Hăy nên ngăn dứt ân ái, tận lực suy nghĩ chuyện
ấy có ǵ thật sự là vui thú? Xong chuyện, sẽ có ương
hại ǵ? Khôn ngăn cười khan, ủ rũ, uể oải.
Ngăn dứt dục vọng một chốc, ḥng mở rộng
cái chí một đời. Bậc tài năng chí sĩ sẽ
vui vẻ thuận theo. C̣n những kẻ cam ḷng làm phường
hạ lưu, sẽ tự rút ngắn mạng sống, tôi
chẳng biết làm như thế nào? Kính cẩn noi theo lời
dạy của Liên Tŕ đại sư, rơ ràng là nhằm dạy
những kẻ đă giữ Tam Quy, Ngũ Giới. Ngài răn
nhắc tiết dục, tức là chẳng v́ những kẻ
tà dâm, [ư nghĩa ấy] cũng rơ lắm thay! Nói chung, phóng túng
ḷng dục sẽ gây thành họa hoạn. Đối với
vợ của chính ḿnh mà c̣n như thế, vậy th́ những
phường phóng đăng, săn đuổi sắc đẹp,
ắt càng tự chuốc lấy nỗi diệt vong, cam tâm
luân lạc trong loài súc sanh, chẳng đáng buồn ư?
Tích tự do kết
hôn tà thuyết văn
(bài văn đả phá tà thuyết tự
do kết hôn)
Con người bẩm thọ
khí Âm Dương của trời đất, bẩm thọ
chất liệu tinh huyết của cha mẹ mà sanh. Từ
lúc mới sanh ra cho đến ba, bốn tuổi, nhất cử
nhất động đều cần phải do cha mẹ
dưỡng dục. Sau đấy, tuy có thể tự hành
động, nhưng đối với các sự lư, đều
cần phải nhờ cha mẹ sắp đặt, dạy
bảo. Nếu không, sẽ chẳng thể sống sót trong
cơi đời. Tới khi khôn lớn, được cha mẹ
chọn người phối ngẫu, ngơ hầu hưởng
niềm hạnh phúc gia đ́nh, những mong trong ngoài giúp đỡ
lẫn nhau, có thể phụng dưỡng cha mẹ ḥng tṛn
hết phận làm con, nối tiếp ḍng giống, pḥng khi
già, chết. Đấy chính là đạo đương
nhiên trong trời đất, là lễ nghi do thánh nhân vâng theo
lẽ trời chế định, những mong ai nấy vâng
giữ lẽ thường, trọn hết đạo làm người
và đạo làm con. Nếu chẳng thuận theo lễ pháp
của thánh nhân và mạng lệnh của cha mẹ, chỉ
v́ t́nh cảm mê luyến giữa đôi bên mà kết thành vợ
chồng, ắt chẳng khác ǵ cầm thú! Những kẻ
chẳng biết tốt xấu, chuyên bắt chước
thói xấu ác của Âu châu, nồng nhiệt đề
xướng tự do kết hôn, sao không xướng xuất
lúc mới sanh chẳng cần cha mẹ dưỡng dục,
dạy bảo, cứ để cho con tự do trưởng
thành làm người? Nếu họ vừa sanh ra trong cơi
đời, đă có thể tự do trưởng thành, trọn
chẳng cần cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, ắt
cứ tự do kết hôn, đúng là sự lư hết sức
thích đáng vậy! Nếu chẳng thể như thế, chỉ
có khi trưởng thành là có thể tự lực dốc sức
lấy t́nh yêu nam nữ làm tiêu chuẩn, tức là kẻ có
tội cực nặng, nghịch trời, trái lư, khinh miệt
thánh nhân, coi rẻ luân thường vậy! Tâm hạnh ấy
giống như cầm thú! Thật ra, chẳng bằng cầm
thú, v́ sao? Do cầm thú chẳng biết luân lư, con người
biết luân lư. Con người biết luân lư mà phế trừ
luân lư, sẽ phải ở dưới loài cầm thú. Cư
sĩ Chương Phủ Dương Chung Ngọc ở Vô Tích
muốn cứu văn phong tục suy đồi, bèn viết bài
văn đả phá thói tự do kết hôn; do vậy, tôi viết
lời tựa dẫn nhập, ḥng phát khởi những kẻ
chưa phát khởi cái tâm, mong sao những người đề
xướng thuyết ấy đều giác ngộ.
Triệu Thiệu Y ở Cổ Tân đề
tựa.
Thế tục bừng bừng
đề xướng tự do kết hôn, đấy là
hành vi của phường phóng đăng, dâm nữ, là
phương cách để xói ṃn lễ nghĩa, rối loạn
sự khu biệt trong ngoài giữa nam và nữ, chính là cái
thói “khoét vách, vượt tường”
từng bị Mạnh Tử quở trách. Dân ca nước
Trịnh chê trách chuyện hái lan, tặng hoa thược
dược. Chưa hề có bậc đoan chánh, cẩn trọng,
cũng như hạng nữ nhân hiền thục, trinh
tĩnh đề xướng tự do kết hôn. Xin luận
định rộng hơn. Khúc Lễ nói: “Nam nữ bất tạp tọa, bất thân thọ,
ngoại ngôn bất nhập ư khổn, nội ngôn bất
xuất ư khổn. Nam nữ phi hữu hành môi, bất
tương tri danh. Phi thọ tệ, bất giao, bất thân”
(Nam nữ chẳng ngồi lẫn lộn, chẳng nắm
tay. Lời bên ngoài chẳng lọt vào chỗ khuê các. Lời
trong buồng thêu chẳng lọt ra ngoài[68].
Nam nữ nếu không qua mai mối, chẳng biết tên
nhau. Chưa nhận sính lễ, sẽ chẳng giao du, thân
thiết). V́ thế, đối trước nhật, nguyệt
để thưa tŕnh, trai giới tâu bày cùng quỷ thần,
bày tiệc rượu mời mọc láng giềng, bè bạn
[để tổ chức hôn lễ], ḥng nhấn mạnh sự
khác biệt giữa nam và nữ. Như thế th́ nam nữ
cách biệt tỵ hiềm đă càng rơ ràng! Chuyện phi lễ
chớ nên thấy, nghe, nói, nghĩ! Há có chuyện tự do
kết hôn?
Khổng Tử dạy: “Phóng Trịnh thanh, Trịnh thanh
dâm” (Bỏ dân ca nước Trịnh v́ dân ca nước
Trịnh dâm đăng), v́ Ngài ghét người nước Trịnh
chẳng tách biệt nam nữ. Mạnh Tử nói: “Trượng phu sanh nhi nguyện
vi chi hữu thất. Nữ tử sanh nhi nguyện vi chi hữu
gia. Bất đăi phụ mẫu chi mạng, môi chước
chi ngôn, tắc phụ mẫu quốc nhân giai tiện chi” (Nam
tử sanh ra mong cho có vợ, con gái sanh ra mong cho có chồng,
chẳng đợi lệnh cha mẹ, chẳng thông qua lời
mai mối [mà tự tiện chung chạ],
ắt cha mẹ, người dân trong nước đều
coi thường), [vậy th́] những kẻ kém hèn, [tự
do chung chạ], quên bẵng cha mẹ, ắt liêm sỉ càng
hiếm hoi hơn! Lại nói: “Nhân sở dĩ dị ư cầm thú giả cơ
hy!” (Con người chẳng khác cầm thú cho mấy). Bởi
lẽ, cầm thú đều là tự do luyến ái. Do con người
là “vạn vật chi linh”, nên
thánh nhân lập ra lễ nghĩa, ḥng khác xa cầm thú, sao lại
phế bỏ? Chương Hôn Lễ [trong sách Lễ Kư] nói:
“Phụ thân tiếu tử, nhi
mạng chi thân nghênh. Ấp nhượng thăng đường,
tái bái điện nhạn” (Cha v́ con dâng rượu cáo tế
quỷ thần, tổ tiên, sai con đi rước dâu.
[Đến nhà gái], vái chào, nhường nhau bước lên
thềm vào nhà, rồi lại dâng sính lễ). Ấy là v́ [kết
hôn] là đích thân vâng theo lời cha mẹ dạy vậy.
Nam nữ có phận sự khác biệt, cho nên sau đấy
mới có nghĩa vợ t́nh chồng. Chương Giao Đặc
Sanh [của sách Lễ Kư] chép: “Phụ
nhân tùng nhân giả dă, ấu tùng phụ huynh” (Phụ nữ
phải nương tựa người khác, thuở trẻ
bèn nương cậy cha, anh). Vậy th́ nam lẫn nữ
đều nghe lệnh cha, anh, há có chuyện tự do kết
hôn? Phần Nội Tắc [trong Lễ Kư] chép: “Thất niên nam nữ bất
đồng tịch, bất cộng thực” (Nam nữ
từ bảy tuổi trở lên không ngồi cùng chiếu,
không ăn chung). Lại nói: “Lễ
thỉ ư cẩn nội ngoại. Nam tử cư ngoại.
Nữ tử cư nội. Thâm cung, cố môn, hôn tự thủ
chi” (Lễ bắt nguồn từ sự cẩn trọng
phân biệt trong ngoài. Nam ở bên ngoài, nữ
ở bên trong. Trong cung cấm, cửa nẻo nghiêm ngặt,
có các hoạn quan canh giữ). Lại nói: “Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại. Nam
tử nhập nội,
bất khiếu bất chỉ. Nữ tử xuất môn, tất
ủng tế kỳ diện, đạo lộ nam tử do
tả, phụ nhân do hữu” (Nam chẳng nói đến
chuyện trong khuê pḥng, nữ chẳng nói đến chuyện
bên ngoài. Đàn ông [có chuyện cần phải] vào trong khu vực
của phụ nữ, không gây ồn náo, không chỉ trỏ.
Nữ nhân ra khỏi cửa, ắt phải che mặt. Trên
đường sá, nam đi bên trái, nữ đi bên phải). Sự tách biệt nam nữ
bắt nguồn từ gia đ́nh cho đến ngoài
đường phố, giữ nghiêm cẩn trong ngoài như
thế, há có chuyện tự do kết hôn?
Hơn nữa, cưới vợ
nhằm phụng dưỡng cha mẹ. Bài thơ Thường
Lệ trong kinh Thi có câu: “Thê tử
hảo hợp, như cổ sắt cầm” (Vợ chồng
ḥa hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm). Khổng
Tử nói: “Phụ mẫu kỳ
thuận hỹ hồ!” (Cha mẹ ắt chẳng vui ḷng
ư?) Thiên Nội Tắc [trong sách Lễ Kư] nói: “Tử thậm nghi kỳ thê, phụ
mẫu bất duyệt xuất, tử bất nghi kỳ
thê. Phụ mẫu viết: Thử thiện sự ngă, tử
hành phu thê chi lễ yên” (Con rất yêu thích muốn lấy
một người nữ, nhưng cha mẹ lộ vẻ
không vui th́ con chẳng nên lấy cô vợ ấy. Cha mẹ
bảo: ‘Đứa con gái này khéo phụng sự ta”, con sẽ
làm lễ kết hôn với cô gái ấy), dẫu đến
chết, hôn nhân chẳng suy bại! Bậc tiên triết có dạy: “Tử chi hiếu, bất
như suất phụ dĩ vi hiếu. Phụ năng
dưỡng thân giả dă” (Con trai hiếu thuận, chẳng
bằng d́u dắt vợ cũng hiếu thuận, v́ vợ
có thể phụng dưỡng cha mẹ). Cổ nhân đều
do cha mẹ chủ hôn; v́ thế, có thể khiến cho cha mẹ
vui ḷng, phô trọn ḷng hiếu dưỡng. Kẻ chẳng
thuận thảo cha mẹ, chẳng xứng làm con. Hôn nhân là
cội gốc to lớn của lễ, kẻ làm con phải
có hiếu tâm, hăy nên lấy tâm cha mẹ làm tâm của chính
ḿnh. Nếu [cưới hỏi] chẳng do cha mẹ, chẳng
cần biết đến xuất thân, phẩm đức
[của người phối ngẫu], cứ nói tự do
luyến ái, ắt có khác ǵ gái làng chơi đón khách? Tôi chưa
thấy gái làng chơi đón khách mà có thể hiếu dưỡng
cha mẹ, bố mẹ chồng!
Tà thuyết tự do trong hiện
thời, trước hết là đạp đổ hôn lễ;
do vậy, trái nghịch luân thường trong trời đất!
Vứt bỏ mạng lệnh của cha mẹ, đă bất
hiếu, lại c̣n đèo thêm bất tín, bất nghĩa. Ngàn
lời vạn lẽ, đủ mọi lư do, bất quá là tự
do luyến ái đó thôi! Thử hỏi loài đội lông,
mang vảy, có loài nào chẳng phải là tự do luyến
ái? Há chúng biết đến lễ nghĩa, há biết hiếu
thảo cha mẹ, kính trọng bậc trưởng thượng
ư? Há có nên giống như lũ mang lông, khoác vảy ư?
Hơn nữa, vợ chồng do nghĩa mà kết hợp,
chủ yếu nhằm tôn trọng cha mẹ, coi trọng sự
ước hẹn, mở rộng thành sáu lễ. V́ thế,
một khi đă kết vầy loan phụng, sẽ có thể
suốt đời chẳng thay đổi, cùng chịu hoạn
nạn, cùng hưởng an lạc, hiếu thảo với
cha mẹ, thuận ḥa với họ hàng, nuôi nấng con cháu
nên người. Nay những kẻ do tự do luyến ái mà
trở thành vợ chồng, v́ trái nghịch sự tôn kính
cha mẹ, khinh miệt lễ nghĩa, ắt sẽ “tiền
hết, t́nh cũng thôi”, nhan sắc tàn phai, t́nh yêu sẽ nhạt
nḥa! Do từ ban đầu là tự do kết hợp, rốt
cuộc sẽ là tự do ly tán. Danh tiết vùi tận đất,
xóm làng xem thường. Bọn họ ngỡ tự do sẽ
là hạnh phúc suốt đời, tôi sợ rằng do tự
do chẳng chánh đáng, phần lớn sẽ là hy sinh niềm
hạnh phúc suốt đời của nam nữ, điếm
nhục gia phong, cắt đứt ân trạch nhiều
đời! V́ thế nói: “Chẳng có người nam đoan
chánh, cẩn trọng, hoặc người nữ hiền
thục, trinh tĩnh nào nỡ ḷng xướng suất tự
do kết hôn!” Phần Đại Truyện của kinh Lễ
có nói: “Nam nữ hữu biệt,
bất khả dữ dân biến cách” (Đối với
sự khác biệt của nam nữ, chẳng thể để
cho dân chúng thay đổi được). Phần Giao Đặc
Tánh [của Lễ Kư] chép: “Nam nữ
hữu biệt, nhiên hậu phụ tử thân” (Do nam nữ
khác biệt mà sau đó mới có t́nh thân cha con). Bởi lẽ,
có vợ chồng rồi sau đó mới có cha con, anh em. Nam
nữ chẳng khác biệt, ắt giềng mối vợ
chồng mất sạch, phế hết luân thường,
con người lẫn lộn cùng cầm thú. Tự do kết
hôn để lại nỗi độc hại dường
ấy, há chẳng thận trọng ư?
Nếu viện cớ Đông
Tây mỗi nước khác biệt, há có biết Âu Mỹ đặc
biệt chuộng “xem nhẹ tiền tài, coi trọng đạo
nghĩa”? Những điều hay đẹp của mỗi
nước có thể chọn lấy cũng nhiều lắm,
sao lại riêng học theo thói không nghiêm ngặt phân biệt
nam nữ, đến nỗi kẻ chửa hoang, phá thai ngày
càng lắm, h́nh luật chẳng thể cấm cản, hết
sức trái nghịch chủ nghĩa nhân đạo. Những
năm gần đây, do dân cư nước Pháp giảm ít,
[chánh quyền] cưỡng bách hôn nhân. V́ nữ sinh sa đọa,
Nhật Bản bèn chú trọng phong hóa, kỷ cương. Xét
đến nguyên nhân, đều là do dâm dật. Nước
ta, coi giáo hóa quan trọng nhất, danh tiết của phụ
nữ há có nước nào sánh bằng? Nay hăy nên chọn lấy
sở trường của mỗi nước, gạt bỏ
sở đoản. Chẳng nên vứt bỏ sở trường
của ta để học đ̣i thói dâm dật, phong tục
tệ bạc của bọn họ! Mạnh Tử nói: “Tường tự học hiệu,
giai dĩ minh luân” (Các loại trường học đều
nhằm giảng rơ luân thường). Quản Tử nói: “Lễ nghĩa liêm sỉ, quốc
chi tứ duy” (Lễ, nghĩa, liêm, sĩ là bốn giềng
mối của đất nước). Trộm mong giới
học thuật toàn quốc, hăy thi hành sự giáo hóa của
Khổng Mạnh để giáo hóa toàn cầu, ḥng đả
phá những thuyết tà vạy, dâm dật, khiến cho muôn
nước được hưởng phong hóa tốt lành,
cùng hướng đến sự thịnh trị đại
đồng. Chuyện này ắt phải bắt nguồn từ
ai nấy đều nói rơ luân lư, tận lực tôn sùng lễ
nghĩa, liêm sỉ.
Bất Khả
Lục kỷ nghiệm
(Ghi chép những chuyện linh nghiệm của
bộ Bất Khả Lục)
* [Tôi có] người bạn
là Quư Bang Thái, là người nổi tiếng ở Ngô Hưng,
sống tại trấn Nam Tầm. Tôi vừa mới in xong
bộ Bất Khả Lục, nhằm lúc ông Quư trông coi việc
giáo dục tại huyện Trấn Hải, bèn viết thư,
gởi kèm cho ông ta hai trăm quyển, dặn hăy phân phát cho
các học sinh. Sau đấy nhận được thư
của ông ta trách tôi hủ bại, viễn vông, c̣n nói đă
đem những sách ấy xếp xó. Chưa đầy hai
ngày sau, sai người đến nói: “Nguyện in năm trăm
quyển”. Tôi vin vào lời ông ta đă nói trước đó
để khước từ. Sau đấy, ông ta lại
sai người cầm thư tay khẩn khoản [cậy
in], mới biết ông ta mộng thấy cha tha thiết dặn
ḍ: “Mày không in tặng Bất Khả Lục,
con mày làm sao có thể vào trường huyện cho được?”
Do vậy, nhờ tôi in một ngàn quyển để
truyền bá rộng răi. Theo như ông ta nói, hôm nhận
được thư báo tin con được nhập học
chính là ngày ông ta phát nguyện in sách, linh nghiệm dường
ấy!
* Tại Tân Kiều thuộc
thành Hàng Châu, vị tăng Tĩnh Duyên thuộc Tích Thúy Am thích
làm lành. Một ngày, trời đổ tuyết lớn, sư
đến gơ cửa. Tôi tưởng là sư đến quyên
mộ, thưa: “Nhà tôi nghèo hèn, không có sức giúp đỡ!”
Sư bảo: “Tôi xin mượn ván in sách Bất Khả Lục
để in ra mấy ngàn quyển ḥng thí tặng”. Tôi vui vẻ
nhận lời, gạn hỏi: “Do v́ lẽ nào mà thầy
đột nhiên dấy lên ư niệm này đội tuyết
đến đây?” Sư bảo: “Đêm qua, tôi mộng thấy
thổ thần bảo: ‘In tặng Bất Khả Lục có
thể tránh khỏi tai nạn lớn’. Sáng nay hỏi thăm
thí chủ khắp nơi, mới biết [sách ấy] vốn
là bản được tàng trữ tại Đàm Phủ nên
đặc biệt đến mượn”. Sau khi sư đă
in tặng, năm sau, nơi sư ở bị hỏa hoạn,
chung quanh đều cháy rụi, chỉ riêng am của sư
không sao, càng tin thần minh khuyến thiện rành rành chẳng
sai. (Trần Hải Thự ghi).
* Đầu mùa Hạ năm
Canh Ngọ, đêm mộng thấy hai đồng
tử đến bảo tôi: “Văn Xương Đế
Quân có lời mời ông”. Do vậy, cùng đi. Họ dẫn
tới một ṭa nhà thuộc Trung Thúy Đ́nh, thấy
biển đề là Đại Động Các. Tôi theo đồng
tử tới đại điện, thấy Đế
Quân ngồi chính giữa, tôi khấu đầu rồi
đứng hầu. Đế Quân bảo: “Thế gian tặng
thiện thư rất nhiều, chỉ có Bất Khả Lục
là từ lâu chưa được lưu hành. Ông hăy v́ ta lưu
thông rộng răi”. Ngài liền sai hai đồng tử khiêng
ra một cái rương, trong ấy đều là những
trang giấy rách nát. Kiểm xem th́ ra là những bản tàn
khuyết của Bất Khả Lục. Trong khi tôi đang
suy nghĩ, chưa từng thấy sách này, làm sao thực hiện
được? Đế Quân lại khuyên dụ rằng:
“Kỳ thi Hương đă gần kề, hăy nên làm cho gấp”.
Ngài truyền hai đồng tử đưa tôi ra về, bèn
tỉnh giấc. Hôm sau, truy t́m tại các xưởng in, họ
đều nói không biết. Mất hơn một tháng, chợt
có người đem bản in Bất Khả Lục đến
bán. Trang đầu tiên ghi lời tựa đă mất, coi
trang cuối, biết đó là bản in của tiên sinh Vạn
Cửu Sa, hết sức vui mừng, mua lấy, liền in
ra ba ngàn quyển. Sáng mồng Một tháng Bảy, kiền
thành đem sách đến viện Thúy Đ́nh. Vừa mới
đến cổng, một vị tăng liền mau mắn
hỏi: “Có phải là Trần cư sĩ đến tặng
Bất Khả Lục hay không?” Tôi thưa vâng, hết sức
ngạc nhiên. Tiến vào đại điện dâng hương,
khấu tŕnh dưới ṭa của Đế Quân. Vị Tăng
mời vào khách đường dùng trà. Hỏi pháp danh th́ ra
là Nguyên Bổn. Hỏi v́ sao biết tôi đem sách đến
tặng, lại c̣n biết tên sách? Tăng bảo: “Đêm
qua nằm mộng thấy Đế Quân dặn tôi chờ ở
cửa nhận sách, nên đă dậy từ sớm để
chờ”. Tôi càng thêm tôn kính. Có thể biết là thiện thư
lưu hành trong cơi đời, trên là có thể cảm thấu
trời cao, mà người tận lực dùng thân thực hiện
những điều chỉ dạy trong sách, công đức
ấy chẳng thể lường được! Kính mong
[mọi người] hăy cùng thấu hiểu nỗi khổ
tâm cứu đời của Đế Quân ḥng cùng lên bè báu.
Ngưỡng mong hăy lưu truyền rộng răi, ngơ hầu
khắp cơi đời tận lực kiêng tránh những điều
chớ nên, tận lực thực hiện những điều
nên làm, ḥng chẳng phụ sự phó thác của thần minh
vậy.
Tháng Sáu năm Canh Ngọ (1810)
niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, cổ diêm quan Trần Hải Thự
tự ghi
* Năm Bính Tuất, em gái tôi
sau khi về nhà chồng, bỗng mắc chứng đàm giản[69],
thường khóc lóc, chẳng ăn uống được.
Có người nói là do phạm phải Hoa Phấn Sát[70] mà
ra, cầu cạnh thầy đồng cầu cúng, hóa giải
trăm cách đều chẳng có công hiệu ǵ. Cô ta lại
chẳng chịu uống thuốc. Cả mấy người
dốc hết sức, rốt cuộc cô ta khó nuốt trôi một
giọt thuốc. Cho đến sau nửa năm, thân gầy
như que củi, bố mẹ hết sức lo lắng, muôn
phần lo nghĩ. Do vậy, tôi đối trước
tượng Phong Đô Đại Đế và thần Thành
Hoàng, dâng sớ hứa in tặng năm ngàn quyển Bất
Khả Lục. Sau khi đă hứa nguyện, rốt cuộc
có chuyển biến, cô ta bèn chịu uống thuốc. V́ thế,
uống liên tục thuốc tiêu đàm, một tháng sau, b́nh
phục như thường. Nghiệp đă tiêu trừ. Sau
một năm nữa, cảm thấy thân thể khỏe mạnh
như trước. V́ thế, tôi dùng bản in theo lối
chữ rời, sắp chữ đúng số lượng đem
in để đáp tạ sự gia hộ của thần.
Kính cẩn ghi sự linh nghiệm vào đây.
Tháng Ba năm Mậu Tư (1888)
niên hiệu Quang Tự đời Thanh, kẻ học tṛ hối
lỗi ở hạ quận Lâu Đông kính ghi.
Tích tự cận
chứng
(Chứng cứ gần đây về quả
báo do tiếc chữ)
Để khắc in sách vở,
thời cổ dùng hăn giản[71],
về sau biến thành dùng gỗ cây dó [làm giấy] và mực.
Lại biến đổi thành khắc ván, khiến cho [việc
ấn loát] khá thuận tiện, văn tự được
lưu thông càng rộng răi hơn. Phương pháp khắc ván
là trước hết dùng giấy để viết lại
[văn bản muốn in], dán lên tấm gỗ, sau đó chà
sát mặt sau giấy, khiến cho chữ dính vào ván [rồi
thợ sẽ khắc chữ theo những chữ ấy].
Giấy bị chà bỏ ấy vẫn c̣n h́nh dạng chữ
viết, chớ nên khinh nhờn, làm bẩn.
Vào mùa Thu năm Ất Sửu
(1805) đời Gia Khánh, tại cầu Bảo Hựu thành Hàng
Châu, có người thợ khắc họ Kim, trong khi bị
bệnh, thấy hai con quỷ bắt đi, dẫn đến
bái yết một vị thần trong đại điện.
Thấy thần giống như một vị quan sang trọng.
Thần bảo: “Ngươi làm ô uế giấy có chữ,
theo pháp, phải trách phạt nặng nề”. Họ Kim thưa:
“Con do nghề nghiệp, chẳng thể không làm như vậy”.
Thần dạy: “Nếu chẳng phải là như vậy
th́ trong khi ngươi chà giấy, những mảnh giấy
rớt xuống hăy nên thu nhặt, đặt ở chỗ
sạch, khi nào có dịp sẽ đốt đi. Chứ ngươi
vẫn quăng lung tung nơi bậc thềm, thậm chí quăng
vào đống rác, không chỗ nào chẳng có, chẳng phải
là ô uế, khinh nhờn th́ là ǵ?” Họ Kim không nói ǵ
được nữa, đành chịu phạt. Đến
khi tỉnh giấc, mông và đùi đau đớn quá mức.
Ôi! Thần răn nhắc thiết tha, lại v́ người
làm nghề ấy, mở ra một pháp môn nhằm tiêu trừ
đầu mối gây nên tội, người ta c̣n sợ ǵ
mà chẳng phụng hành ư? Do vậy, chép lại chuyện
này, xếp vào trang cuối của [bộ Bất Khả Lục],
nguyện những người làm nghề khắc chữ,
thấy chuyện này như vết xe đổ trước
để răn dè, kính cẩn tuân theo lời thần dạy
th́ may mắn lắm thay.
Trần Hải Thự ghi.
Thọ
Khang Bảo Giám chung
[1] Tống Đoan Tông (Triệu Thị) là
vị vua thứ tám và là áp chót của nhà Nam Tống. Ông là
con của Tống Độ Tông (Triệu Mạnh Khải).
Ông được tôn lên làm vua tại Phước Châu khi
kinh thành Lâm An lọt vào tay quân Nguyên, vua Tống Cung Tông bị
bắt, hoàng thân quốc thích bị cầm tù gần hết.
Quân Nguyên lần lượt nuốt dần giang sơn nhà Tống.
Năm 1278, quân Nguyên tấn công Tuyền Châu, Chương
Châu, thẳng đường tấn công Triều Châu,
đánh chiếm Quảng Châu. Tướng nhà Tống là
Trương Thế Kiệt phải pḥ
vua sang tỵ nạn tại Tú Sơn, rồi lùi về
Tỉnh Áo. Khi tới Tỉnh Áo, sóng lớn khiến thuyền
bị lật, Tống Đoan Tông rớt xuống nước,
bị bệnh nặng. Ngày Tám tháng Năm năm 1278, ông qua
đời ở Cương Châu, mới tṛn mười một
tuổi. Triều thần tôn Vệ Vương Bính lên ngôi
vua, năm sau, thế cùng lực kiệt, trong trận Nhai
Sơn, quân Tống đại bại, bị tiêu vong gần
hết. Lục Tú Phu bèn cơng Đế Bính nhảy xuống
biển tự vẫn. Nhà Tống bị diệt vong!
[2] Lâm Hải là một thị xă thuộc về
Thai Châu, tỉnh Chiết Giang.
[3] Theo cách tổ
chức của quân Mông Cổ thuở ấy, cứ mười
người lính có một người cầm đầu, gọi
là thập phu trưởng. Một trăm người có một
người cầm đầu gọi là bách phu trưởng,
một ngàn người có người cầm đầu gọi
là thiên phu trưởng.
[4] Bài thơ này
mang ư nghĩa hủy nhục, khinh bạc rất lớn,
chê trách Vương Thị đă chịu để cho viên
tướng Mông Cổ kèm cặp trên ngựa dẫn đi
cả trăm dặm, đến cuối cùng mới viết
huyết thư liều thân, sao không tiếp tục sống
để hưởng lạc thú giống như Lưu Nguyễn
vào chốn thiên thai. Dẫu có liều thân th́ thân đă
nhơ uế, đâu có trong sạch như nước ḍng
Hán Thủy ở Ba Lăng (Ba Lăng là tên gọi cũ của
Nhạc Dương).
[5] Chim cuốc c̣n
gọi là Đỗ Quyên hoặc Tử Quy hoặc Thôi Quy,
là một loài chim nhỏ, thân đen pha xám, đuôi có vằn trắng, thường hay
kêu ra rả vào tháng Sáu, tháng Bảy. Tiếng kêu nghe buồn
nẫu ruột. Theo Thục Vương Bản Kỷ, sau
khi Vọng Đế bị ép buộc, phải nhường
ngôi, đă hóa thành chim Đỗ Quyên, do nhớ nước
cứ kêu năo nuột. Người ta tin là chim cuốc sẽ
kêu cho đến khi nứt họng trào hết máu mà chết,
cho nên mới có thành ngữ “tử
quy đề huyết”
(chim cuốc kêu khóc cho đến khi cạn máu).
[6] Văn Vơ Nhị
Đế chính là Văn Đế (tức Văn
Xương Đế Quân) và Vơ Đế (Quan Công).
[7] Tùy theo phát thệ
trước tượng Phật, Bồ Tát, thần minh nào
mà xưng danh vị ấy.
[8] Nguyên văn “trực chí khải thủ khải
túc chi hậu” (măi chi đến sau khi có thể mở
tay, mở chân ra coi). Thành ngữ này phát xuất từ
chương Thái Bá trong sách Luận Ngữ: “Tăng tử hữu tật, triệu môn đệ
viết: Khải dư túc, khải dư thủ”
(Tăng Sâm mắc bệnh, gọi các đệ tử bảo:
“Mở áo coi chân ta, mở áo coi tay ta”). Theo các bản chú giải,
Tăng Tử luôn rất cẩn trọng giữ ǵn thân thể,
không dám tổn thương nhằm giữ trọn đạo
hiếu. Khi sắp mất, ông bảo học tṛ coi tay và
chân ḿnh để chứng tỏ tay chân không bị tổn
thương, không tổn hại đến cái thân do cha mẹ
đă ban cho. Từ đó, chữ “khải thủ khải túc” được dùng với
ư nghĩa “chết tốt lành”.
[9] Nguyệt Sóc (月朔): ngày mồng Một
đầu tháng.
[10] “Đẩu
giáng” (斗降) là thuật ngữ
của Đạo giáo, chỉ Bắc Đẩu Tinh Quân
giáng trần, tra xét thiện ác.
[11] Ngũ Hư là năm thứ bệnh trạng
nơi thân thể, tức là mạch nhảy yếu ớt,
da lạnh, tiêu chảy và tiểu nhiều, ăn uống
không tiêu, chân khí chẳng đủ.
[12] Lục Hao (六耗) là ngày có thể
bị cảm nhiễm bởi sáu thứ bệnh do các yếu
tố âm, dương, sáng, tối, gió, mưa theo Đông Y.
[13] Đây là một
ngày trai giới theo Đạo giáo. Theo họ, vào ngày mồng
Sáu mỗi tháng, Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa
Thiên Tôn sẽ giáng tra xét thiện ác, nên tín chúng phải trai
giới trong ngày ấy, gọi tắt là Lôi Trai Nhật (雷齋日).
[14] Ngày Hội ở
đây bắt nguồn từ thời Trương Lăng lập
ra Ngũ Đấu Mễ Đạo, “hội nhật” là ngày Trương Lăng truyền
đạo, trao chứng thư công nhận một người
là tín đồ nhập đạo. Do vậy, về sau,
Đạo Giáo quy định mỗi năm có ba ngày hội
là Thượng Hội, Trung Hội và Hạ Hội. Trong
ngày hôm ấy, các đạo quán sẽ cúng tế, đọc
kinh, cũng như cử hành lễ truyền đạo, hoặc
phong cấp cho các đạo sĩ.
[15] Có nhiều cách
giải thích về ngày này. Phổ biến nhất là truyền
thuyết cho rằng Dương công ở đây là
Dương Kế Nghiệp, người lănh đạo
ḍng họ Dương Gia Tướng lừng danh thời Bắc
Tống. Trong trận chiến tại băi Kim Sa (thuộc vùng
núi Lưỡng Lang), Dương Kế Nghiệp cho rằng
tên gọi này có nghĩa là hai con sói, trong khi họ
Dương (杨) của ông trùng
âm với chữ Dương (羊, con dê), rất bất lợi,
dặn con em phải đề pḥng cẩn thận. Kết
quả, trong trận chiến ấy, Dương Gia Tướng
bị mai phục thất lợi. Con trai cả, con trai thứ
hai, và con trai thứ bảy của Dương Kế Nghiệp
đều bỏ mạng, con trai thứ tư lưu lạc
sang phiên bang, con trai thứ năm bỏ đi tu. Dân gian lấy
ngày Mười Ba tháng Giêng để làm lễ kỷ niệm
sự hy sinh của cha con họ Dương, dần dần
h́nh thành ngày kiêng kỵ.
[16] Tam Nguyên là
Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Đạo giáo
tin rằng trong một năm có ba ngày Rằm lớn (tháng
Giêng, tháng Bảy, tháng Mười), tương ứng với
ngày chủ tŕ của ba vị đại đế chủ
quản là Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Những
ngày các Ngài giáng xuống trần gian tra xét thiện ác sẽ
gọi là Tam Nguyên Giáng.
[17] Tức là lễ
Thượng Nguyên, thường gọi là Rằm Tháng Giêng.
[18] Trường
Xuân Chân Nhân chính là Khưu Xứ Cơ (1148-1227), đệ tử
thứ hai của Vương Trùng Dương (tức
Vương Triết, sáng tổ của Toàn Chân giáo) trong nhóm
Toàn Chân Thất Tử, và là tổ sư của chi phái Long
Môn trong Toàn Chân giáo. Ông rất được các vua nhà Kim
kính trọng, cũng như từng được Thành Cát
Tư Hăn mời sang Mông Cổ để hỏi đạo.
Ông có ghi lại cuộc hành tŕnh ấy bằng tác phẩm
mang tên Tây Du Kư (ghi chép về những nơi ông đă đi
qua, đặc biệt là những địa danh nổi tiếng
của Mông Cổ như hồ Buyur, UlanBator, Arkhangai v.v..).
Tên gọi này đă khiến nhiều người hiểu lầm
ông là tác giả của bộ tiểu thuyết Tây Du Kư kể
chuyện Tề Thiên (bộ tiểu thuyết Tây Du Kư do Ngô
Thừa Ân viết vào đời Minh).
[19] Ngày Nguyệt Hối
(月晦) là ngày trăng
mờ, tức là do vị trí của địa cầu và mặt
trăng, trong những ngày ấy, hầu như không thể
thấy mặt trăng được. Hiểu thông thường,
ngày Ba Mươi mỗi tháng sẽ gọi là Đại
Nguyệt Hối v́ hoàn toàn không có trăng.
[20] Đây là một
tập tục cổ của người Hoa. Ngày Thiên Địa
Thương Khai (天地倉開, kho trời
đất mở) c̣n gọi là Điền Thương (chứa
đầy kho). Vào ngày hôm ấy, nông dân tụ tập
nơi công cộng trong thôn xóm trước khi mặt trời
mọc, dùng tro cỏ cây vẽ mấy ṿng tṛn to, chính giữa
ṿng lần lượt bỏ các thứ thóc lúa, lương
thực, làm ra vẻ như vừa mới gặt hái về,
rồi đốt pháo, reo ḥ, với ư nghĩa cầu mùa
màng bội thu. Đặc biệt là trong tháng Giêng, ngày này
c̣n là ngày chính thức trở lại công tác đồng áng.
[21] Tư Mạng
là gọi tắt của Tư Mạng Táo Quân.
[22] Vị này chính là vị Diêm Vương
cai quản điện thứ ba, cai quản Hắc Thằng
đại địa ngục và mười sáu địa
ngục nhỏ như địa ngục Xuyên Hiếp
(đâm lủng hông), địa ngục Quát Chỉ (nạo
mỡ) v.v…
[23] Trương
Đại Đế là một vị thần dân gian
được thiền gia Trung Hoa thờ như thần bảo
hộ đất đai và nhà chùa. Ông húy là Trương Bột,
tự Bá Cơ, quê ở Long Dương, Vũ Lăng, sanh
vào đời Tây Hán. Theo truyền thuyết, ông từng vận
dụng quân lính cơi âm để đào đường sông tại
làng Thuận Lănh, huyện Trường An, thuộc quận
Ngô Hưng. Sau đó ẩn cư tại Hoành Sơn. Dân
cư nhớ ơn lập miếu thờ sau khi ông mất.
Ông được sắc phong tước vương vào
đời Tống. Tống Độ Tông đă truy tặng
tước hiệu Chánh Hựu Thánh Liệt Chiêu Đức
Xương Phước Chân Quân.
[24] Nguyệt Vọng là ngày Rằm.
[25] Đây là một
vị trong các thuộc hạ của Đông Nhạc Đại
Đế, thường gọi là Ngũ Đạo Tướng
Quân, chưởng quản sanh tử. Đỗ Tướng
Quân chính là Đỗ B́nh.
[26] Đây là một
vị thần trong Đạo giáo, vốn có tên là Huyền
Vũ Đại Đế, chưởng quản
phương Bắc, hàng yêu, phục ma, được tôn
xưng là vị thần bảo hộ đất nước,
cũng như là một vị chiến thần bảo hộ
vương triều, nên thường được lập
điện thờ ở phía Bắc kinh đô. Do
phương Bắc thuộc Thủy (trong ngũ hành, Thủy
được coi là màu đen), nên ông c̣n được gọi
là Hắc Đế. Phương Bắc c̣n được
gọi là Huyền Vũ theo kinh Dịch, nên ông c̣n có các danh
xưng là Bắc Đế, Chân Vũ (v́ nhà Tống kiêng húy
chữ Huyền), Bắc Cực Đăng Ma Thiên Tôn v.v…
[27] Hạo Thiên
Thượng Đế là danh xưng khác của Ngọc
Hoàng Đại Đế.
[28] Hậu Thổ
Nương Nương chính là nữ thần chưởng
quản đất đai trong Đạo giáo, c̣n gọi là
Địa Mẫu nương nương, Địa Mẫu
Nguyên Quân, Hậu Thổ Phu Nhân, Cửu U Tố Nữ v.v…
[29] Tam Mao Chân Quân
theo truyền thuyết là ba anh em ở Hàm Dương, tức
Mao Doanh, Mao Cố, Mao Trung đắc đạo vào đời
Hán, ẩn cư tại Mao Sơn ở Vân Nam. Họ
được coi là tổ sư của phái Mao Sơn trong
Đạo giáo.
[30] Tử Tôn
Nương Nương là vị thần được coi
là có thể ban con cháu cho người thờ phụng. Tùy
theo từng vùng tại Trung Hoa mà có đến hai
mươi vị nữ thần được coi là Tử
Tôn Nương Nương như Bảo Đậu Phu Nhân,
Kim Hoa Phu Nhân v.v…
[31] Theo truyền
thuyết, Thương Hiệt (蒼頡) là người đă chế
ra chữ Hán.
[32] Thuần Dương
tổ sư chính là Lữ Động Tân (Lữ Nham), thầy
dạy đạo của Vương Trùng Dương (sáng
tổ Toàn Chân giáo).
[33] Chung Ly tổ
sư, tức là Chung Ly Quyền, tức một vị trong
Bát Tiên. Lữ Động Tân học đạo từ vị
này.
[34] Tử Vi Đại
Đế có tên gọi đầy đủ là Trung Thiên Tử
Vi Bắc Cực Thái Hoàng Đại Đế, là con trai thứ
của Đẩu Mẫu Nguyên Quân, chưởng quản
các tinh tú, phước họa của hoàng gia. Vị này
được coi là một trong Tứ Ngự Tôn Thần của
Đạo giáo (Hạo Thiên Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng
Đế, Trung Thiên Tử Vi Bắc Cực, Câu Trần Thượng
Cung Thiên Hoàng Đại Đế, Thừa Thiên Hiệu Pháp
Hậu Thổ Địa Kỳ. Vị sau cùng chính là Địa
Mẫu). Tông Thiên Thai và Thiền Tông Trung Hoa cũng xếp vị
này vào trong hai mươi bốn vị hộ pháp của Phật
môn.
[35] Đây là một
vị nữ thần trong Đạo giáo chuyên trị bệnh
về mắt, được coi là hóa thân của Bảo
Sanh Chân Nhân Hoằng Đức Bích Hà Nguyên Quân (gọi tắt
là Thái Sơn Nương Nương, tức nữ thần
núi Đông Nhạc). Nhăn Quang Thánh Mẫu c̣n gọi là Nhăn Mục
Nguyên Quân, Nhăn Vương Năi Năi, Nhăn Quang Thánh Mẫu Huệ
Chiếu Minh Mục Nguyên Quân v.v…
[36] C̣n gọi là Nam
Cực Tiên Ông, Nam Cực Lăo Nhân, Thọ Tinh, hoặc Thọ
Lăo Nhân, là một vị thần chủ tŕ sự trường
thọ. Vị này chính là ông Thọ trong bộ Tam Đa
Phước Lộc Thọ.
[37] Địa Lạp
chính là ngày lễ Đoan Ngọ, tức lễ Mồng
Năm tháng Năm.
[38] Ngày Cửu
Độc: Dựa theo truyền thuyết dân gian, tháng
Năm được coi là tháng độc hại. Trong
tháng ấy, sẽ có chín ngày độc hại nhất, khởi
đầu từ ngày Đoan Ngọ. Để trừ
độc, dân chúng uống rượu hùng hoàng, hái cỏ
ngải v.v… Đây chính là lúc chuyển mùa từ Xuân sang Hạ,
sâu bọ sanh sôi nhiều, rất dễ bị nhiễm
trùng. Khí trời oi bức, con người dễ bị bệnh
nhất.
[39] Bính Linh Công c̣n gọi
là Bính Linh Đế Quân hoặc Bính Linh Nhân Huệ
Vương, hoặc Lôi Hỏa Đô Nguyên Soái Thống Nhiếp
Tam Sơn Bính Linh Nhân Huệ Đế Quân. Theo truyền
thuyết, ông là con thứ ba của Đông Nhạc Đại
Đế. Ông là thần sấm, thần núi và thần hộ
pháp trong Đạo giáo.
[40] Trương
thiên sư chính là Trương Lăng (34-156), người sống
vào thời Đông Hán, thuộc huyện Phong (nay là thành phố
Từ Châu, tỉnh Giang Tô), sáng tổ của Đạo giáo.
Phái Đạo giáo của ông được gọi là Chánh
Nhất, hoặc Thiên Sư Đạo. Con cháu ông vẫn tiếp
tục giữ ngôi vị thiên sư cho đến hiện
thời. Đời thứ sáu mươi bốn là
Trương Nguyên Tiên (1931-2008). Ngôi vị thiên sư hiện
đang bỏ trống v́ con cháu họ Trương ở
Đại Lục và Đài Loan đang tranh giành ráo riết
ngôi vị này.
[41] Cư sĩ Duy
Ma Cật là hóa thân của Kim Túc Như Lai.
[42] Tỉnh Tuyền
Long Vương: Người Hoa và người Ấn tin mỗi
chỗ có nước đều có long vương cai quản.
Sông, rạch, hồ, suối, ao, đầm, chằm, khe,
ng̣i, giếng v.v… đều có long vương cai quản. Ở
đây chỉ nói là Tỉnh Tuyền Long Vương (long
vương cai quản giếng, suối) để phiếm
chỉ các vị long vương.
[43] Lôi Tổ tức
là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn. Vị
này là con trai thứ chín của Nguyên Thỉ Thiên Tôn, và
cũng là Hiên Viên Hoàng Đế sau khi xả thân hóa thành. Ông
chủ quản Lôi Bộ trông coi về sấm sét của
Thiên Đ́nh, thường xuống nhân gian vào mồng Sáu mỗi
tháng để tra xét thiện ác, ngày hôm đó được
gọi là Lôi Trai Nhật.
[44] Đạo
Đức Lạp là một trong năm ngày trai giới cúng
tế của Đạo giáo (thiên lạp, địa lạp,
đạo đức lạp, dân tuế lạp và vương
hầu lạp), được quy định vào ngày mồng
Bảy tháng Bảy. Họ tin vào ngày này Ngũ Đế sẽ
hội tụ bảy loại khí ở phương Tây để
tra xét thiện ác của nhân gian. Tín chúng nên trai giới, mở
trai đàn cầu phước, siêu tiến tổ tiên.
Ngũ Đế ở đây chính là Ngũ Nhạc Đại
Đế tức năm vị thần chưởng quản
năm ngọn núi lớn của Trung Hoa, quản sự sanh
tử, thiện ác của toàn thể Trung Hoa, gồm
Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Nhân Thánh đại
đế, Tây Nhạc Hoa Sơn Kim Thiên Nguyện Thánh đại
đế, Nam Nhạc Hành Sơn Tư Thiên Chiêu Thánh đại
đế, Bắc Nhạc Hằng Sơn Anh Thiên Huyền
Thánh đại đế và Trung Nhạc Tung Sơn Trung
Thiên Sùng Thánh đại đế.
[45] Khôi Tinh chính là
sao Khuê. Ngôi sao này được thần cách hóa thành Đại
Khôi Tinh Quân, trông coi về mạng vận, văn tài trong thi cử và văn bút nói chung của Nho
sĩ. Trong thiên văn, Khuê Tinh (Khôi Tinh) gồm bốn vị
sao trong ṭa sao Bắc Đẩu, tức sao Thiên Xu
(Dubhe), Thiên Toàn (Merak), Thiên Cơ (Phecda) và Thiên Quyền
(Megrez). Đôi khi người ta lầm lẫn sao Khuê với
sao Văn Xương (v́ Văn Xương Đế Quân
cũng chủ tŕ khoa cử). Thật ra, sao Văn
Xương thuộc chùm sao Tử Vi. Tinh ṭa Tử Vi có rất
nhiều nhóm sao, chẳng hạn Bắc Cực, Tứ Phụ,
Thiên Ất, Thái Ất, Âm Đức, Nữ Sử v.v… Nói
cách khác, Văn Xương chính là cḥm sao Đại Hùng (Ursa
Major).
[46] Đàm Chân Nhân
chính là Đàm Xứ Đoan, là một trong bảy vị
đại đệ tử (Toàn Chân Thất Tử) của
Vương Trùng Dương. Ông tên thật là Đàm Ngọc,
tự Bá Ngọc, quê ở Ninh Hải, tỉnh Sơn
Đông. Khi ông bị bệnh, nghe danh Trùng Dương bèn
đến xin chữa trị. Vương Trùng Dương
đóng cửa không tiếp, ông kiên tŕ cầu thỉnh ngoài
cửa suốt đêm, cửa bỗng dưng mở ra.
Vương Trùng Dương cho là ông có duyên với đạo,
gọi vào tṛ chuyện, bàn lẽ huyền nhiệm trong
Đạo giáo. Tới sáng, bệnh của Đàm Ngọc tự
dưng khỏi hẳn. Ông bèn xin theo hầu, Vương
Trùng Dương bèn đặt đạo hiệu là Xứ
Đoan, đạo tự là Thông Chánh, biệt tự là
Trường Chân. Ông đảm nhiệm chức chưởng
môn đời thứ ba của Toàn Chân. Môn đệ của
ông thành lập chi phái Nam Vô của Toàn Chân giáo. Sau khi ông mất,
đồ chúng tôn xưng ông là Huyền Đức Ôn Đức
Chân Quân, Nguyên Thế Tổ sắc phong là Trường Chân
Vân Thủy Ôn Đức Chân Nhân.
[47] Tây Vương
Mẫu có thể coi như là chúa của tất cả các vị
tiên. Bà có tên gọi đầy đủ là Bạch Ngọc
Quy Đài Cửu Phụng Thái Chân Tây Vương Mẫu, hoặc
gọi gọn là Kim Mẫu Nguyên Quân, Diêu Tŕ Kim Mẫu (các
phái Đạo giáo về sau, nhất là Minh Sư Đạo,
thường gọi bà là Diêu Tŕ Phật Mẫu). Bà
được coi là vị nữ thần do khí hỗn
độn ban sơ kết thành. Theo Cát Hồng, khi vũ trụ
c̣n hỗn độn, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (tức Bàn Cổ
Chân Nhân) tách rời trời đất, ngự ở trung
tâm trời đất gọi là Ngọc Kinh Sơn. Đạo
khí kết thành một vị tôn thần tên là Thái Nguyên Thánh
Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn lấy Thái Nguyên Thánh Mẫu
sanh ra Thiên Hoàng Phù Tang Đại Đế và Tây
Vương Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn cho bà ngự tại
núi Côn Luân, chưởng quản vạn linh, chưởng quản
chư vị tiên nữ. Có những sách như Phong Thần
Diễn Nghĩa, Thần Tiên Truyện, Vạn Thế Chân
Tiên Thể Đạo Thông Giám lại coi bà là vợ của
Hạo Thiên Thượng Đế, sanh ra hai mươi bốn
công chúa.
[48] Theo Đạo
giáo, có tất cả sáu mươi vị thần lần
lượt chưởng quản nhân gian mỗi năm. Sáu
mươi vị thần ấy tương ứng với
chu kỳ sáu mươi năm của một Hoa Giáp (tức
là mười Thiên Can phối hợp với mười hai
Địa Chi thành sáu mươi năm). Tùy theo vũ khí hoặc
dụng cụ cầm trong tay của mỗi vị thần
ấy (thường gọi là Trị Niên Thái Tuế hoặc
Tuế Quân) mà người ta có thể dự đoán t́nh
h́nh trong năm ấy. Chẳng hạn như năm Mậu
Th́n, Thái Tuế là Triệu Đạt đại tướng
quân, mang h́nh rồng, hai tay cầm rồng, năm Quư Dậu,
Thái Tuế là Khang Chí đại tướng quân, có h́nh gà,
tay cầm cờ lệnh v.v…
[49] Vị thần
này chủ quản về tiền tài, tài sản, có tên gọi
đầy đủ là Tăng Phước Chí Thiện B́nh
Thí Chân Quân, hoặc gọi gọn là Tăng Phước
Tướng Công. Theo truyền thuyết, ông tên thật là Lư
Quỷ Tổ, người huyện Truy Xuyên thời Bắc
Ngụy. Từng làm huyện lệnh huyện Khúc
Lương dưới thời Bắc Ngụy Hiếu
Văn Đế, nổi tiếng liêm khiết, chánh trực,
yêu dân như con, thường đem hết bổng lộc
của chính ḿnh thí cho dân nghèo. Do vậy, sau khi mất, ông
được dân chúng lập miếu thờ. Nói về chức
trách của ông, có hai thuyết: Một, ông là thuộc hạ
của Đông Nhạc Đế Quân chuyên phán đoán công và
tội của người vừa mất, hai là tính toán công
đức của người đă chết để quyết
định phước báo đời sau của người
đó. Nhưng ông thường được thờ
như là một vị Văn Tài Thần trong số các tài
thần.
[50] Hứa Chân Quân
tên thật là Hứa Tôn (239-374), tự là Kính Chi, là một
đạo sĩ nổi danh đời Tấn. Ông quê ở
huyện Nam Xương, được tôn xưng là tổ
sư của phái Lư Sơn và Tịnh Minh Đạo của
Đạo giáo. Thuở trẻ ông thích săn bắn. Có lần
đuổi nai, thấy nai mẹ lấy thân ḿnh che cho con
khi hai mẹ con rơi xuống núi, bèn cảm ngộ, bỏ
săn bắn, theo Ngô Mănh học đạo. Ông từng làm
huyện lệnh huyện Thắng Dương (do vậy,
Đạo giáo đôi khi gọi ông là Thắng Dương Tổ
Sư). Sau khi tám vương gia dấy loạn, ông từ
quan, chuyên tâm truyền đạo, hướng dẫn dân chúng sửa sang đê điều, nắn
ḍng sông để ngừa lũ lụt, nhất là tại
vùng Dự Chương, Hồ Quảng, Phước Kiến
v.v… Ông cũng được coi là người có công trấn
tà, trừ các loài thủy quái như giao long giúp dân.
[51] Vị
này chính là Lôi Tổ đă được đề cập
trong phần chú thích trước.
[52] Đây là một
vị thần trong Đạo giáo chuyên đảm bảo
tài sản của con người
đúng với vận mạng đă định. Nếu ai có
tài sản vượt quá số lượng đă định
sẵn trong mạng, vị thần này sẽ tước
đoạt bớt. V́ thế gọi là Lược Loát (掠刷, đoạt lấy, giảm
trừ). Vị này c̣n gọi là Lượt Loát Sứ hoặc
Lược Loát Đại Phu.
[53] Vị này chính
là Trương Phi (người kết nghĩa với
Lưu Bị và Quan Vân Trường), ông được
phong là Hán Hoàn Hầu.
[54] Nam Đẩu là tinh ṭa sáu ngôi thuộc
tinh hệ Nhân Mă (Sagittarius). Nam Đẩu gồm có Thiên Sát
(Polis), Thiên Tướng (Kaus Borealis), Thiên Đồng (Nanto),
Thiên Cơ (Nunki), Thiên Lương (Hecatebolus), và Thiên Phủ
(Ascella). Đạo giáo coi sáu ngôi sao này là hóa thân của Nam
Đẩu Tinh Quân, và cho là Bắc Đẩu chủ tử,
Nam Đẩu chủ sinh. Bắc Đẩu cũng có h́nh
giống cái gáo gồm bảy ngôi sao (Thiên Cơ, Thiên Tuyền,
Thiên Quyền, Thiên Xu, Ngọc Xung, Khai Dương và Dao
Quang).
[55] C̣n gọi là
Ngũ Ôn Sứ Giả, là những vị thần chuyên giáng
ôn dịch, bao gồm Xuân Ôn Trương Nguyên Bá, Hạ Ôn
Lưu Nguyên Đạt, Thu Ôn Triệu Công Minh, Đông Ôn
Chung Sĩ Quư, và Tổng Quản Trung Ôn Sử Văn Nghiệp.
Ôn dịch tức là bệnh truyền nhiễm cấp thời,
đặc biệt là khi chuyển mùa.
[56] Đẩu Mẫu
Nguyên Quân là một vị nữ thần được coi
là mẹ của các vị tinh quân thuộc sao Bắc Đẩu.
Theo các nhà nghiên cứu, vị này chính là biến thể trong
Đạo giáo của Ma Lợi Chi Thiên từ Phật giáo.
Về sau, bà c̣n được coi là mẹ của Bắc Cực
Tử Vi Đại Đế và Câu Trần Đại
Đế, nên thường gọi là Cửu Hoàng Đại
Đế Chi Mẫu.
[57] Phong Đô Đại
Đế c̣n gọi là Phong Đô Gia, cai quản Thập
Điện Diêm Quân và Ngũ Phương Quỷ Đế,
tức là người thống trị địa ngục
trong Đạo giáo, có chức trách bảo toàn sự thuận
lợi cho người sống, duy tŕ trật tự trong
cơi âm. Vai tṛ của vị này hẹp hơn Đông Nhạc
Đại Đế, đóng vai tṛ phụ tá cho Đông Nhạc
Đại Đế chuyên quản trị địa phủ,
trong khi Đông Nhạc chưởng quản mọi chuyện
trong cơi âm.
[58] Mạnh Bà là vị
thần theo Đạo giáo chuyên đảm nhiệm công việc
khiến cho người ta quên hết chuyện đời
trước khi đi đầu thai. Bà ở bên cầu Nại
Hà, chế thuốc, thêm vào nước sông Vong Xuyên, tạo
thành một thứ canh có đủ năm vị, gọi là
Mạnh Bà Thang (canh của Mạnh Bà, ta quen gọi là “cháo
lú”). Khi quỷ hồn được Thập Điện
Chuyển Luân Vương cho đi đầu thai, quỷ sứ
sẽ dẫn hồn đến cầu Nại Hà để
Mạnh Bà cho uống cháo lú rồi mới đi đầu
thai.
[59] C̣n gọi là Thái Ất Thiên Tôn, Thanh Huyền
Thượng Đế, Thanh Hoa Đại Đế, Tầm
Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn, hoặc Thập Lực Cứu
Khổ Thiên Tôn v.v… Ông ngự trong Diệu Nghiêm Cung thuộc
thế giới Trường Lạc ở phương
Đông, tiếp độ vong hồn chịu khổ. Do vậy,
ông thường được cầu đảo trong các dịp
Thanh Minh, Rằm tháng Bảy, Trùng Dương v.v…
[60] Trương Tiên c̣n gọi là Tống Tử
Trương Tiên, là một vị nam thần trong Đạo
giáo có thể ban cho người cầu đảo con cái giống
như Tống Tử Nương Nương, Kim Hoa Phu Nhân
v.v… Ông thường được biết đến
như một vị thần bảo hộ trẻ nhỏ.
[61] Thái Tố Tam Nguyên Quân là một nữ
thần trong Đạo giáo, là mẹ của Tam Tố Nguyên
Quân (Tử Tố, Hoàng Tố và Bạch Tố). Đạo
giáo nói bà từ hư không kết thành h́nh, sanh trên hoa trong
cơi trời Cao Thượng Thượng Thanh Bảo Tố
Cửu Huyền Ngọc Hoàng Thiên.
[62] Thiên Do Thượng Đế là một
trong Bắc Cực Tứ Thánh của Đạo giáo, tức
là bốn vị chân quân ở phương Bắc. Bắc Cực
Tứ Thánh bao gồm Thiên Bồng Đại Nguyên Soái Chân Quân, Thiên Do Phó Nguyên Soái Chân Quân,
Dực Thánh Bảo Đức Trừ Khánh Chân Quân và Chân
Vũ Linh Ứng Hựu Thánh Chân Quân. Bốn vị này là thuộc
hạ của Bắc Đế.
[63] Tam Thanh (三清) là ba cơi trời
cao nhất trong Đạo giáo, tức Thượng Thanh,
Thái Thanh và Ngọc Thanh. Nhưng khi nói đến Tam Thanh, ta
thường hiểu là ba vị thánh nhân (Thượng Thanh
Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn
(Lăo Tử) và Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn) của ba cơi
trời ấy, đồng thời là đấng sáng tạo
vũ trụ. Đứng đầu trong ba vị ấy
chính là Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn. Có thể hiểu
đơn giản như sau: Vũ trụ là một khí, từ
một khí tách thành ba nguyên tố chánh yếu, được
thần cách hóa thành Tam Thanh.
[64] Trời bắt đầu vào thu, cây cối
rụng lá, tiêu điều, nên gọi là Sát Khí.
[65] Nhị Xă: Hai
ngày Xă, tức là ngày Mậu thứ năm sau tiết Lập
Xuân, Lập Thu sẽ được gọi là Xuân/Thu Xă Nhật.
[66] Tam Phục là ba thời kỳ được
coi là nóng nhất trong năm. Theo Âm lịch, từ sau tiết
Hạ Chí cho đến ngày Canh thứ
ba sẽ là Sơ Phục; ngày Canh thứ tư gọi là
Trung Phục, từ sau Lập Thu cho đến ngày Canh thứ
nhất là Hạ Phục.
[67] Trương Cảnh Nhạc (1563-1642)
tên thật là Giới Tân, tự là Cảnh Nhạc, biệt
hiệu là Hội Khanh, là người thuộc xứ
Sơn Âm, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiệu
Hưng, tỉnh Chiết Giang) là một y gia lỗi lạc
đời Minh. Ông vốn quê quán ở Miên Trúc, Tứ Xuyên,
nhưng do tổ tiên có quân công, đời đời
được làm Chỉ Huy Sứ huyện Thiệu
Hưng, nên tổ phụ dời sang Thiệu Hưng sinh sống.
Từ nhỏ, ông đă học Hoàng Đế Nội Kinh từ
cha, bái danh y Kim Mộng Thạch làm thầy. Ông cũng rất
ưa thích binh nghiệp và kiếm thuật, từng đầu
quân trong chiến dịch đánh Triều Tiên của nhà
Minh. Sau khi thất bại trên đường binh nghiệp,
ông mới chuyên tâm nghiên cứu y học. Điểm đặc
sắc nhất trong luận thuyết y học của ông là
dùng kinh Dịch để nghiên cứu và giải thích y học.
Tác phẩm y học nổi tiếng nhất là bộ Loại
Kinh.
[68] Trịnh Huyền chú giải câu này có
nghĩa là nam nữ có trách nhiệm khác biệt, vợ không
can thiệp vào con đường sự nghiệp của
chồng, chồng phải coi trọng quyết định
nuôi dạy con cái, chăm sóc gia đ́nh của vợ.
[69] Đàm giản là một chứng bệnh
kinh phong, co giật, do bệnh nhân có nhiều đàm, hay co
giật, nên gọi là đàm giản.
[70] Hoa Phấn Sát (花粉煞) là một thuật ngữ trong Đạo
giáo. Các nhà Phong Thủy cho rằng nếu pḥng ở có kèo cột
chạm trổ, sơn vẽ quá nhiều, quá rườm
rà, người sống ở trong đó sẽ bị xui xẻo,
bệnh tật quái lạ.
[71] Hăn giản (汗簡) là những thanh tre tươi, hơ
nóng qua lửa cho chảy nhựa, rồi dùng dao khắc chữ
lên. Thuở trước khi chưa phát minh ra giấy, cổ
nhân dùng phương pháp này để ghi chép sử sách.