Trung Phong Tam Thời Hệ
Niệm
Pháp Sự Toàn Tập Giảng
Kư
phần 19
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học
Viện Úc Châu
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Xin xem tiếp phần Tăng Bảo Tán
trong thời thứ ba của Hệ Niệm Pháp Sự,
chúng tôi đọc kinh văn một lượt:
Tăng Bảo bất tư nghị,
Thân phi tam sự vân y,
Phù bôi quá hải sát-na thời,
Phó cảm ứng quần cơ,
Kham tác nhân thiên công đức chủ,
Kiên tŕ giới hạnh vô vi,
Ngă kim khể thủ nguyện dao tri,
Chấn tích trượng đề huề.
僧寶不思議。
身披三事雲衣。
浮盃過海剎那時。
赴感應群機。
堪作人天功德主。
堅持戒行無違。
我今稽首願遙知。
振錫杖提攜。
(Tăng
Bảo chẳng nghĩ bàn,
Chén
nổi vượt biển trong khoảnh khắc,
Cảm
ứng mọi căn cơ,
Đáng làm
trời người công đức chủ,
Giới
hạnh giữ vững chẳng trái nghịch,
Con nay
đảnh lễ nguyện xa hay,
Rung tích
trượng đề huề).
Đoạn tán tụng gây ấn
tượng sâu đậm nhất cho chúng ta. Bởi lẽ,
hiện nay về mặt h́nh tướng mà nói th́ chúng ta
ở vào địa vị Tăng Bảo, nhưng chúng ta có
đáng gọi là Tăng Bảo hay chăng? Chúng ta có
thường phản tỉnh như thế hay không? Cổ
nhân nói rất hay:
Thí chủ
nhất lạp mễ,
Đại
như Tu Di Sơn,
Kim sanh
bất liễu đạo,
Phi mao,
đới giác hoàn.
(Một hạt gạo thí chủ,
To như núi Tu Di,
Đời này không liễu đạo,
Đeo lông, đội sừng
đền).
Chúng ta có thực sự nghĩ
đến điều này hay không? Đă phát tâm xuất gia,
phải khéo lo liệu sự nghiệp xuất gia. Sự
nghiệp của người xuất gia là ǵ? Bài tán
tụng này đă nói rơ ràng. Chúng ta phải tự vấn,
chúng ta đă làm được hay chưa?
Trong buổi giảng trước,
tôi đă thưa cùng quư vị đại ư của chữ Tăng
rồi, Tăng là một đoàn thể ḥa hợp. Từ
bốn người trở lên gọi là Tăng, tức Tăng
đoàn. Lúc chúng ta quy y Tam Bảo, đọc lời thệ
nguyện “quy y Tăng, chúng
trung tôn”. “Chúng” (眾) là đoàn thể, Tăng cũng là đoàn
thể, trong thế gian, đoàn thể ấy đáng được
mọi người tôn kính nhất trong tất cả các đoàn
thể trên thế gian. Tôn (尊) nghĩa là tôn kính. V́ sao đáng
được người khác tôn kính? V́ là một đoàn
thể ḥa hợp, tuân thủ giáo huấn Lục Ḥa Kính
của Thích Ca Mâu Ni Phật. “Kiến
ḥa đồng giải” trong Lục Ḥa Kính tôi đă tŕnh
bày rồi. “Giới ḥa
đồng tu”: Giới Luật quan trọng lắm!
Mức độ thấp nhất phải thực hiện
là Sa Di Luật Nghi: Mười giới, hai mươi
bốn oai nghi. Chúng ta cùng ở với nhau một chỗ
phải nương theo đại chúng, dựa vào đại
chúng, khích lệ lẫn nhau, cảnh tỉnh và sách tấn
lẫn nhau. Thấy đồng học không đúng pháp, tiêu
chuẩn đúng pháp hay không đúng pháp chính là mười
giới, hai mươi bốn oai nghi.
Trong thực tại, cũng có
chỗ không làm được v́ hoàn cảnh và h́nh thức
thực tiễn bức bách nên không có cách ǵ làm được.
Chẳng hạn như giới điều “bất tŕ kim tiền” (không được
giữ vàng, tiền), trong hoàn cảnh hiện thời không thể
giữ được. Quư vị ra khỏi cửa,
người hiện thời ra khỏi cửa chẳng mang
tiền theo là không xong; nếu ở trong quốc gia
Phật giáo th́ được. Như ở Thái Lan, Miến
Điện, Tư Lư Lan Kha (Sri Lanka, Tích Lan) là những
quốc gia Phật giáo, người xuất gia không cần
mang theo một đồng tiền nào, v́ sao? Quư vị gặp
khó khăn ǵ, người chung quanh đều giúp
đỡ, đều cúng dường, không cần phải
bận tâm. Trừ những quốc gia đó ra, đại
chúng trong xă hội không bằng ḷng cúng dường quư
vị. Quư vị đi xe phải mua vé, không có tiền,
chẳng ai đem một tấm vé nào cúng dường quư
vị cả, bắt buộc quư vị không mang theo tiền
cũng chẳng được. Nếu muốn thực
sự thực hiện rất thanh tịnh, rất viên măn
th́ bất đắc dĩ cũng có biện pháp này: Khi quư
vị ra khỏi cửa có tại gia cư sĩ tháp tùng.
Trên thân quư vị quả thật không mang tiền, lúc
cần phải dùng tiền, người ấy sẽ giúp
đỡ quư vị, như vậy là được. Vào
thời cổ, Giới kinh cũng cho phép [làm như
vậy]. Làm được rất thanh tịnh như
vậy th́ cũng là chuyện nên làm. Người xuất
gia tốt nhất không nên hành động một ḿnh, hành
động nhất định phải là từ hai hay ba
người trở lên. Như vậy mới là đúng pháp,
tránh được điều tiếng, đức Phật
nghĩ rất chu đáo!
Do vậy, chúng ta trông thấy
hai chữ Tăng Bảo bèn sanh tâm hổ thẹn. Hổ
thẹn có ích ǵ đâu? Khẩn yếu nhất là sửa
lỗi, đổi mới, phải nỗ lực thực
hiện tiêu chuẩn ấy. Ta hy vọng sớm có ngày làm
được, tu hành trong thế gian hiện nay chẳng phải
là chuyện dễ dàng. V́ nguyên nhân nào? Ngoại duyên bất
hảo! Phật pháp nhân duyên sanh, đạo tràng thời
cổ đều là thập phương
đạo tràng, không có vấn đề ǵ! Chỉ cần
quư vị là người xuất gia, bất cứ
đạo tràng ở nơi đâu cũng có thể
quải đơn[1]
được, đều có thể ở cùng tu hành, sinh
hoạt với đại chúng. Hiện nay rất nhiều
đạo tràng là tử tôn miếu[2],
quư vị không dính dáng ǵ với họ, họ sẽ không
tiếp đăi quư vị, c̣n không đăi được quư
vị một bữa cơm nữa kia! Quư vị phải
rất thân thuộc với chúng thường trụ, là bè
bạn mới được, nhân t́nh Phật sự[3]
mà! Đạo tràng thực sự tu hành đúng lư đúng
pháp rất hiếm! Tại Trung Quốc hay ở ngoại
quốc đều như thế cả! Do vậy, đúng
pháp không thấy th́ tự nhiên “không đúng pháp” biến
thành “đúng pháp”, chuyện này hết sức rất đáng
buồn!
Do vậy, trước kia, lăo cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ thường nói: Thời cổ,
trong Phật môn tu hành thành tựu theo thứ tự
thuận, tỳ-kheo là số một, tu hành, khai ngộ,
chứng quả, văng sanh đông nhất. Kế đến
là tỳ-kheo-ni, rồi đến tại gia
Ưu-bà-tắc, cuối cùng là Ưu-bà-di. Hiện nay là thời
Mạt Pháp, điên đảo hết! Đúng là điên
đảo, nay tu hành khai ngộ, chứng quả không có.
Người thực sự niệm Phật văng sanh, Ngũ
Giới, Thập Thiện tu hành vẫn c̣n khá, người
niệm Phật văng sanh đông nhất là tại gia
Ưu-bà-di, kế đó là tại gia Ưu-bà-tắc,
rồi đến nữ chúng xuất gia, cuối cùng
mới là nam chúng xuất gia. Nay chúng ta thấy chúng xuất
gia nam nữ gần như không dễ ǵ thành tựu.
Trong mấy chục năm nay, chúng tôi
không bị những tập tục ấy ô nhiễm,
vẫn có thể tu hành nơi đạo y như cũ là do
nguyên nhân nào? Tôi đă thưa cùng các đồng học
rồi đó, do có quan hệ sư thừa, được
đắc lực nhờ thầy dạy dỗ. Sau khi
rời khỏi thầy, được đắc lực
nơi kinh giáo, không có ngày nào tách ĺa kinh giáo, kinh giáo là nơi
quy y chân chánh. Tôi học Phật năm mươi hai
năm, giảng kinh bốn mươi lăm năm. Trong
mấy chục năm ấy trải qua rất nhiều
sóng gió, tai nạn mà không bị ảnh hưởng là v́
nguyên nhân nào? Quư vị phải biết: Thực sự
muốn thành tựu th́ phải học tập. Những ǵ
tôi đă trải qua ai biết tôi đă lâu th́ đều
biết: Mỗi lần khốn đốn, mỗi lần
bị đả kích là tiêu nghiệp chướng, tăng
phước huệ, nâng cao cảnh giới, quyết
định chẳng thuận theo phiền năo, quyết
định chẳng oán hận người khác. Nếu có
những ư niệm ấy dấy lên th́ sẽ bị
phiền phức rất lớn, oan oan tương báo
chẳng xong! Thánh hiền thế gian hay xuất thế gian
đều dạy chúng ta “oan
gia nghi giải, bất nghi kết” (oan gia nên cởi,
chớ nên buộc).
Cởi gỡ oán kết chẳng ở
nơi đối phương mà ở nơi tâm ḿnh. Trong
tâm ḿnh có oán kết th́ phải hóa giải; dùng chân thành, cung
kính, thanh tịnh, b́nh đẳng đăi người th́
tự ḿnh mới có tiến bộ, mới có thể thành
tựu đạo nghiệp, quyết định chớ nên
oán trời hận người, vĩnh viễn ghi nhớ
lời Ngẫu Ích đại sư răn dạy: “Cảnh duyên phi hảo xú, hảo
xú tại ư tâm” (cảnh duyên không tốt xấu;
tốt xấu tại nơi tâm). “Cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự
(quan hệ giữa con người với nhau). Trong hoàn
cảnh vật chất lẫn hoàn cảnh nhân sự không
có thiện hay ác, không có đúng hay sai, mà là b́nh đẳng,
thanh tịnh. Đúng - sai, thiện - ác từ đâu có?
Từ trong tâm của chính ḿnh. Do vậy, phải hóa
giải đúng - sai, thiện - ác ở ngay trong tâm ḿnh,
đấy mới thực sự là người tu
đạo, thực sự thành tựu Tăng Bảo.
Người khác không tŕ giới, nhưng chính ḿnh phải
tŕ. Tŕ giới cũng không phải là chuyện dễ dàng,
thấp nhất là Thập Thiện, Ngũ Giới. Hàng tại
gia lẫn chúng xuất gia đều có thể học
tập Sa Di Luật Nghi.
Tŕ giới tu định, thọ tŕ kinh
giáo Đại Thừa, đức Phật dạy chúng ta: “Thọ tŕ đọc tụng, v́
người khác diễn nói”. “Diễn”
là làm, thực hiện được mọi thứ chúng ta
đă học. Làm cho đại chúng trong xă hội trông
thấy th́ gọi là Diễn, tức diễn tuồng,
biểu diễn. Ngoài việc thực hiện ra, có ai
đến hỏi th́ phải giải thích cho người
ta nghe, đó là “nói”. Đây
chính là bổn phận sự nghiệp của người
xuất gia, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương cho
chúng ta thấy. Suốt một đời, sau khi thị
hiện đại triệt đại ngộ, lăo nhân gia
bắt đầu giáo hóa chúng sanh, giảng kinh hơn ba
trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm.
Hơn ba trăm hội ấy, trước kia gọi là Hội,
nay gọi là “hoạt động”; nói cách khác, Thích Ca Mâu Ni
Phật thực hiện những hoạt động quy mô
lớn, quy mô nhỏ (hoạt động dạy học),
thực hiện hơn ba trăm lần.
Nay học viện của chúng ta ở
nơi đây, một năm tổ chức bốn lần
hoạt động, mỗi lần là mười thất,
tức bảy mươi ngày, Xuân, Hạ, Thu, Đông,
mỗi một quư làm một lần. Thuật ngữ
trước kia gọi là Hội, nay chúng ta gọi là
“hoạt động”. Những hoạt động của
chúng ta ở đây là mở Phật học giảng ṭa,
giải - hạnh cùng tiến. Về mặt tu hành, chúng ta
niệm Phật, chấp tŕ danh hiệu. Về giải môn
(học hiểu giáo lư, giáo nghĩa), chúng ta mở những lớp
chuyên tu, chuyên hoằng, thâm nhập một môn, thành tựu
Giới - Định - Huệ của chính ḿnh. Không tạp
tu, nhất định chẳng ham cao chuộng xa! Thật
thà, chất phác, công đức ấy thực sự
chẳng thể nghĩ bàn! Ảnh hưởng càng
rộng, thời gian càng dài, càng chẳng thể nghĩ bàn.
V́ thế, nói chung phải phát tâm, nêu gương tốt cho
những người tu học Phật pháp.
Hiện tại, trong xă hội có rất
nhiều người hiểu lầm Phật pháp nghiêm
trọng, do nguyên nhân nào? Do [Phật giáo đồ] không nêu
gương tốt, chứ không phải là Phật pháp chẳng
tốt. Họ không tu mà giương chiêu bài Phật pháp,
tư tưởng và ngôn hạnh hoàn toàn trái nghịch
Phật pháp. Người không thâm nhập nghiên cứu
Phật pháp, trông thấy những h́nh tướng ấy
sẽ hủy báng toàn bộ Phật pháp, tội quư vị
nặng lắm! Nếu tu tập tốt đẹp,
khiến cho đại chúng trong xă hội trông thấy bèn hoan
hỷ tán thán. Họ khen ngợi quư vị bèn khen ngợi
toàn thể Phật pháp th́ công đức của quư vị
lớn lắm! V́ thế, “Tăng
Bảo bất tư nghị” (Tăng Bảo chẳng
thể nghĩ bàn). Nay ta có thể hiểu sự chẳng
thể nghĩ bàn ấy theo nghĩa kép: Làm đúng pháp, công
đức chẳng thể nghĩ bàn; làm không đúng pháp,
tội báo chẳng thể nghĩ bàn!
“Thân phi tam
sự vân y” (Thân khoác áo mây
tam sự): Câu này nói đến áo Ca Sa, tượng trưng
cho người xuất gia. “Tam
y” là y năm điều[4], y
bảy điều và y từ chín điều cho đến
hai mươi lăm điều th́ gọi là Đại Y
(y Tăng Già Lê), tức là đại lễ phục của
nhà Phật. Y bảy điều là lễ phục
thường, phổ thông. Y năm điều là y mặc
để làm việc. Lúc đức Thế Tôn c̣n tại
thế, toàn bộ tài sản ngoài ba y một bát c̣n có
một cái ngọa cụ[5].
Ngọa cụ dùng để làm ǵ? Đêm ngủ trải
phía dưới. C̣n cái để đắp là ba y. Do
đức Phật xuất hiện tại Ấn
Độ, Ấn Độ thuộc vùng nhiệt
đới, ba y là đủ rồi. Phật pháp sau khi
truyền đến Trung Quốc, Trung Quốc là ôn
đới, càng đi về phương Bắc càng gần
với hàn đới, nên có Xuân, Hạ, Thu, Đông, ba y
ở Trung Quốc không có cách ǵ giữ ấm
được. Phật pháp quả thật trọng
thực chất chứ không trọng h́nh thức, vĩnh
viễn là “hằng thuận
chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Do vậy, Phật
pháp truyền đến Trung Quốc, người Trung
Quốc vẫn mặc y phục của chính ḿnh, c̣n ba y
khoác ra ngoài y phục.
Quư vị thấy cái áo chúng ta đang
mặc gọi là Hải Thanh[6],
Hải Thanh là y phục của Trung Quốc. Y phục
người xuất gia hiện đang mặc là trang phục
của bá tánh thường mặc thời Minh. Chúng ta ăn
mặc giống đời Minh. Hải Thanh là lễ
phục, áo thụng, tay rộng, đấy chính là lễ
phục thời Hán. Phật giáo truyền vào Trung Quốc
vào thời Hán, người xuất gia khác với tại
gia ở chỗ nào? Cổ áo và cổ tay áo của lễ
phục người tại gia thêu hoa. Quư vị thấy
trên sân khấu biểu diễn như khi hát B́nh Kịch[7] hoặc
Côn Khúc[8]
của Trung Quốc, họ ăn mặc ḷe loẹt, diêm
dúa, những thứ lễ phục ấy chính là hải
thanh, nhưng có thêu hoa văn. Nếu làm quan, áo của họ
có thêu hoa văn để làm ǵ? Thể hiện thứ
bậc: Màu sắc của hoa văn thể hiện thân
phận của họ. Người xuất gia để
trơn hoàn toàn không có hoa văn, sai biệt ở chỗ
này. Dân chúng bá tánh cổ áo cũng thêu một chút hoa văn,
nhưng hoa văn rất đơn giản, người
xuất gia thứ ǵ cũng đều không thêu.
V́ thế, ba y của chúng ta đắp
trên thân có màu cà phê. Chỉ khi nào làm lễ hoặc lúc tham gia
các hoạt động (pháp hội), hoạt động là
giảng kinh th́ phải mặc, phải đắp y. Nghe
kinh cũng phải đắp y nhằm biểu thị
sự cung kính. Tại gia cư sĩ nếu thọ Bồ
Tát giới cũng phải đắp y. [Người thọ]
Bồ Tát giới đắp mạn y. Mạn y (y trơn)
không có điều nào, tại gia cư sĩ Bồ Tát chúng
[đắp y như vậy]. “Vân”
(mây) là tỷ dụ, y ấy quả thật là một
miếng vải, không giống như y phục của Trung
Quốc có cổ, có tay, y không có ǵ hết, chỉ là một
miếng vải, mở ra quả thật giống một áng
mây. “Thân phi tam sự[9] vân
y” (thân khoác áo mây tam sự) chính là tướng xuất
gia.
“Phù bôi quá
hải sát-na thời” (Chén
nổi vượt biển trong khoảnh khắc): Đây
là một câu chuyện xưa. Vào thời đại Nam
Bắc Triều, có một vị xuất gia sống nhằm
thời Đông Tấn, tức ḥa thượng Bôi
Độ, trong Cao Tăng Truyện có chép, mà Thần
Tăng Truyện cũng chép [tiểu truyện của vị
này]. Ngài quả thật hiển hiện thần thông, vượt
biển không ngồi thuyền mà dùng một cái chén,
đạp lên chén vượt biển. Giống như
Đạt Ma Tổ Sư dùng một cành lau để
vượt sông, đều là thị hiện Thần Túc Thông.
Chúng ta biết người có Thần Túc Thông, trong Tiểu
Thừa tối thiểu phải từ Tam Quả trở
lên. A Na Hàm, A La Hán mới có năng lực ấy. Quư vị
muốn tra khảo tư liệu th́ trong Cao Tăng
Truyện và Thần Tăng Truyện đều có, có
những loại Sơn Chí cũng có chép. Ngài viên tịch vào
thời Đông Tấn, cũng tức là thời
đại Nam Bắc Triều, nhằm năm 426 sau Tây
lịch, tôi không nhớ niên hiệu vua nào[10].
Tôi chỉ nhớ năm Tây lịch, theo Tây lịch [Sư
viên tịch] nhằm tháng Chín năm 426, Sư qua đời.
Nay ở Nam Kinh, có một chỗ gọi là Phúc Châu Sơn (núi
lật thuyền) thuộc Nam Kinh, Ngài được chôn
ở nơi đó. Ngài từng qua lại rất nhiều
tỉnh của Trung Quốc, du hóa khắp nơi hơn
bốn mươi năm, người theo học rất
đông, là một vị cao tăng bất phàm thời
ấy.
Chúng ta thấy hành tŕ của Ngài như
thế, biết Ngài giới hạnh thanh cao; do vậy, trong
phần tán Tăng Bảo lấy Ngài làm thí dụ. Tại
Thanh Sơn thuộc Cửu Long, Hương Cảng có ngôi chùa
Thanh Sơn, ḥa thượng Bôi Độ đă từng
sống ở đó. Câu “phù bôi
quá hải sát-na thời” phải chăng là nói Ngài hiện
thần thông nơi ấy? Bởi lẽ Cửu Long
đối diện núi Đại Dự, đến
Hương Cảng phải vượt biển[11],
Ngài hiển lộ thần thông nơi đấy hay không,
chúng ta không biết; nhưng quả thật có chuyện
ấy. Lúc chúng tôi đến thăm Thanh Sơn Tự,
cổ tích vẫn c̣n, đó là lần thứ nhất tôi
đến Hương Cảng giảng kinh vào năm 1977,
đến viếng đạo tràng cũ của ḥa
thượng Bôi Độ. Hiện tại, trong mấy năm
qua, Hương Cảng phát triển hết sức nhanh;
năm 1977 chỗ ấy c̣n hoang sơ, làng quê, không ai
đến. Chúng tôi nhớ phải đi rất xa mới
đến được. Nay đă xây xa lộ cao tốc,
trước kia đến đó phải mất chừng
hai tiếng rưỡi, nay h́nh như nửa giờ đă
tới nơi, xa lộ cao tốc mà! Nêu tên Ngài ở đây
để làm gương về Tăng Bảo cho chúng ta.
“Phó
cảm ứng quần cơ”: “Cảm” (感)
là tín đồ lễ thỉnh, tín đồ thỉnh pháp
sư giảng kinh thuyết pháp, Ngài không cự tuyệt.
Bổn phận của người xuất gia là ở chỗ
này. Thích Ca Mâu Ni Phật cả một đời giảng
kinh, thuyết pháp, “phó cảm
ứng quần cơ”. Đức Thế Tôn làm như
thế, dấu chân in khắp Ấn Độ, nơi nào thỉnh
Ngài bèn đến nơi đó, du hóa nhân gian; nhưng
tại Trung Quốc có rất nhiều tổ sư
đại đức không ra khỏi cửa, trụ trong
núi, hễ trụ rồi bèn mấy chục năm không
xuống núi, không giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đă
thị hiện, có trái nghịch lời đức Thế
Tôn giáo huấn hay không? Thưa cùng quư vị, không trái
nghịch! Đây chính là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ
công đức. Người Trung Quốc, xă hội Trung
Quốc đối với sư đạo (đạo tôn
kính thầy) hết sức tôn trọng: “Chỉ văn lai học, vị văn văng giáo” (Chỉ
nghe có chuyện học tṛ tới chỗ thầy xin
học, chưa nghe có chuyện thầy phải đến
chỗ học tṛ để dạy). Không giống như
Đại Thừa Bồ Tát trong Phật pháp làm bạn
không thỉnh (bất thỉnh chi hữu), quư vị không
thỉnh tôi vẫn đến. Người Hoa đối
với sư đạo hết sức tôn trọng, v́
thế người xuất gia nếu muốn thành tựu [người
khác] th́ trước hết [chính ḿnh] phải ở yên.
Ở Trung Quốc có hai hạng
người du hóa: Một là đạo nghiệp của chính
ḿnh chưa thành tựu, bèn đi tham học nhằm thành
tựu Định - Huệ cho chính ḿnh. Sau đấy
mới có thể giáo hóa chúng sanh, giống như năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài
đồng tử vậy. Tham học xong, trở về, sẽ
chọn lấy một nơi hữu duyên để ở
lại, ở nơi ấy rồi có thể cả
đời không ra khỏi cửa. Giống như Sơ
Tổ Huệ Viễn đại sư của Tịnh
Độ Tông, lúc xuất gia theo học với pháp sư Đạo
An. Ngài Đạo An là thầy thế độ cho Tổ,
cũng là thầy truyền pháp. Pháp sư Đạo An viên
tịch rồi, Tổ bèn chọn Lô Sơn ở Giang Tây,
dựng Niệm Phật Đường tại Lô Sơn,
chiêu tập những người chí đồng đạo
hợp đều là những người thích niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, đều buông
xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật chuyên
cầu văng sanh, gồm một trăm hai mươi ba
người, lấy Hổ Khê làm giới hạn, chẳng
ra khỏi giới hạn ấy. Suốt đời không xuống
núi, tâm định, chẳng tiếp xúc với bên ngoài. Có
tín đồ đến nơi ấy triều bái th́
được, thỉnh giáo cũng được,
nhưng không thỉnh được pháp sư ra khỏi
cửa, không hề có!
Sau này, tổ sư đại
đức các tông phái ở Trung Quốc hầu như
đều giống như vậy. Các Ngài trụ trong một
đạo tràng, tâm định, dạy học tại nơi
đó. Quư vị muốn học theo ai th́ đến
đạo tràng của vị ấy mà học, h́nh thành
tổ đ́nh của các tông phái. Như các Ngài Đỗ
Thuận, Vân Hoa, Hiền Thủ, Thanh Lương thuộc
tông Hoa Nghiêm. Ngài Thanh Lương trụ tại núi Ngũ
Đài, chuyên môn học tập kinh Hoa Nghiêm, giảng
giải Hoa Nghiêm, chú giải Hoa Nghiêm, y theo kinh Hoa Nghiêm mà tu
hành. Trong thiên hạ, ai thích học Hoa Nghiêm th́ đến
núi Ngũ Đài để học. Ngũ Đài Sơn
giống như đại học Hoa Nghiêm, biến thành
một tông phái chuyên biệt. Muốn học Pháp Hoa th́
đến núi Thiên Thai thuộc tỉnh Chiết Giang; Trí
Giả đại sư giáo hóa nơi đó. Muốn
học Pháp Tướng Duy Thức th́ đến chùa Đại
Từ Ân ở Trường An gặp pháp sư Khuy Cơ.
Muốn học Giới Luật, hăy đến chỗ
Đạo Tuyên Luật Sư ở Chung Nam Sơn. Những
vị ấy trụ tại những đạo tràng đó,
ở trong núi sâu, không ra ngoài.
Dường như ḥa
thượng Bôi Độ không có đạo tràng nhất
định, chỗ nào lễ thỉnh, Ngài bèn đến
nơi đó, trụ ở đó mấy năm, suốt
đời du hóa. V́ thế, Ngài không thể trở thành
một vị tổ sư; nhưng hành tŕ rất giống
với Thích Ca Mâu Ni Phật, kết pháp duyên rộng răi cùng
chúng sanh. Tuy vậy, tổ đ́nh là một nét đặc
sắc của Trung Quốc, là một nét đặc sắc
của Phật giáo Trung Quốc, có cái hay là người thực
sự có thể tự thành tựu th́ cũng có thể thành
tựu người khác. V́ sao? Tâm người ấy
định. Tam Học Giới - Định - Huệ
đồng thời thành tựu, đúng là “Tam Học đẳng vận” (sử dụng Tam
Học b́nh đẳng), dễ thành tựu. Nếu du hóa bên
ngoài mà chính ḿnh không có Định - Huệ rất sâu sẽ
không dễ dàng, v́ sao? Du hóa tiếp xúc rất nhiều, mà
những chuyện tiếp xúc ấy là ǵ? Là dụ hoặc
(dụ dỗ, mê hoặc). Quư vị có vượt qua
được dụ hoặc hay không? Sáu căn tiếp xúc
ngũ dục lục trần có thể chẳng
động tâm hay không? Nếu vẫn c̣n động tâm th́
rất nguy hiểm!
Phật pháp truyền
đến Trung Quốc sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt
độ một ngàn năm, một ngàn năm Chánh Pháp
đă hết, bước vào thời Tượng Pháp! Do
vậy, những tổ sư đại đức
biết sức dụ hoặc của thời Mạt Pháp
càng lớn hơn nữa. Sức dụ hoặc hiện thời
so với thời Tấn (ḥa thượng Bôi Độ là
người đời nhà Tấn) lớn gấp cả
mấy trăm lần, thậm chí hơn cả ngàn lần,
sức dụ hoặc quá lớn. V́ thế, người tu
hành trước kia, đừng nói chi là người tu hành,
người chỉ đọc sách không thôi tâm họ đều
định, người nào nghề nấy; không như
hiện tại, tâm người hiện tại bồng
bột, bộp chộp, có thể nói là một tí
định lực cũng không có. Một trận sóng gió bé
tẹo cũng không chống đỡ nổi, mừng, giận,
buồn, vui nổi lên đùng đùng. Quư vị muốn
thường đến mọi nơi giảng kinh,
tiếp xúc người, sự, vật khác nhau th́ phải
có công phu kha khá. Nếu ứng phó không được,
sẽ chẳng thể không đọa lạc. Giảng kinh
có công đức hay không? Không có! Trước kia thầy Lư
dạy chúng tôi như thế này: “Kết quả giảng
kinh là ǵ? Là phước đức, là phước báo
hữu lậu trong tam giới”; thế nhưng quư vị
phải giảng rất đúng pháp. Nếu như quư
vị giảng không đúng pháp, miệng nói thao thao,
giảng theo tri kiến của chính ḿnh th́ lại là tạo
nghiệp! Đúng như câu nói: “Thác
hạ nhất cá tự chuyển ngữ, đọa ngũ
bách thế dă hồ thân” (Chuyển ngữ trót giảng lầm
một chữ, đọa làm thân cáo năm trăm năm).
Làm cho đại chúng lầm lạc, tội lỗi chẳng
nhẹ!
Đúng quy củ th́ nay chúng ta
giảng kinh, chính ḿnh không có bản lănh. V́ sao? Quư vị
chưa ngộ (ngộ nhập), chưa khai ngộ,
đại triệt đại ngộ rồi mới có
thể giảng được. Đại triệt là ǵ?
Minh tâm kiến tánh! Chư Phật Như Lai, Bồ Tát, Thanh
Văn, Duyên Giác giảng kinh, thuyết pháp đều là
tự tánh lưu lộ. Chúng ta chưa kiến tánh bèn
lưu lộ những ǵ? Tuôn ra những phiền năo, tuôn ra
những tập khí. Giảng bằng cách nào đây? Xưa
kia, các vị đại đức không khai ngộ
chẳng thể giảng kinh, không kiến tánh chẳng
thể soạn chú giải. V́ thế, những bản chú
giải cổ đều là chánh tri chánh kiến, không sai
lầm. Họ không minh tâm kiến tánh sẽ không thể
soạn chú giải; không giống như hiện thời,
hiện tại dân chủ mở rộng, ngôn luận
tự do, xuất bản tự do, nhiễu loạn sự
thấy nghe [của người học Phật].
V́ thế, lúc thầy c̣n sống đă
dạy chúng tôi: “Chúng ta đọc kinh, xem chú giải
của cổ nhân, nhất định lấy chú giải cổ
làm chủ. Chú giải cổ không hiểu th́ xem chú giải
của người hiện tại để bổ
trợ. Nhất định phải lấy chú giải
của cổ nhân làm căn bản, từ bản chú
giải cổ mà ngộ nhập”. Chúng ta chưa thể
đại triệt đại ngộ th́ có tiểu
ngộ, tích tụ tiểu ngộ thành đại ngộ.
Có được mấy lần đại ngộ, tuy
chưa triệt ngộ, nhưng chúng ta có thể dùng ngôn
ngữ hiện đại để diễn đạt chú
giải của cổ nhân. Làm như vậy sẽ không sai,
đấy là điều hiện nay chúng ta có thể làm
được. Khi c̣n tại thế, thầy dạy chúng
tôi phát tâm giảng kinh phải tuân theo phương châm và
nguyên tắc này, mấy chục năm qua chúng tôi luôn tuân
thủ.
Nói cách khác, giảng chú giải
của cổ nhân, đem tâm đắc tu hành của chính
ḿnh dâng cho mọi người tham khảo. Chính ḿnh thực
sự kiến tánh, khế nhập cảnh giới th́
được, lúc ấy quư vị có thể giảng;
chưa khế nhập cảnh giới th́ không
được. Do vậy, “phó
cảm ứng quần cơ” không phải là chuyện
người b́nh thường có thể làm được,
mà phải là Pháp Thân Bồ Tát. Mức độ thấp
nhất cũng phải như thầy Lư đă nói
trước kia là Tam Quả La Hán, tức A Na Hàm, phải có
bản lănh ấy! Tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc đoạn hết, tám mươi mốt phẩm
Tư Hoặc gần như đoạn được
một nửa, thực sự có thể giữ cho chính ḿnh
không bị lui sụt, như vậy th́ mới có thể làm
được. Nếu không, nhất định phải
theo thiện tri thức ở trong núi, nhất định
phải theo một vị thầy giỏi.
Phật giáo Nhật Bản do
Trung Quốc truyền qua, Nhật Bản cũng có một
tổ đ́nh Phật giáo rất nổi tiếng là núi
Tỷ Duệ[12],
người Nhật gọi núi này là “mẹ của Phật
giáo”. Gần như tất cả những vị sáng
lập các tông phái của Nhật Bản, những vị
cao tăng đại đức đều xuất thân
từ núi này. Chúng tôi đến đó thăm, hỏi
chuyện mấy vị trụ tŕ nơi đó, trong quá
khứ những tổ sư đại đức tu hành ở
trên núi này bao lâu? Họ bảo tôi: “Tối thiểu là
mười sáu năm, không có ai ít hơn mười sáu
năm!” Người tu hành ở đó lâu hơn
mười sáu năm rất nhiều. Mười sáu
năm không xuống núi, chẳng thể không có thành tựu.
Thường chạy rong bên ngoài, chẳng thể thành
tựu được. Trước kia, thầy Lư cũng
khuyên chúng tôi ở lại một chỗ, tôi bị hoàn
cảnh bức bách, chính ḿnh không có đạo tràng, bèn
phải “phó cảm ứng quần cơ”. Nơi nào
thỉnh bèn đến nơi đó, cho nên cũng phải
sống cuộc đời “chu du liệt quốc”. Đúng
là đến tuổi già mới có được chút
phước báo, kiến lập đạo tràng ở
nơi này. Dựng đạo tràng ở đây, tôi không
muốn xuống núi, lấy Đồ Văn Ba (Toowoomba) làm
giới hạn, hoàn toàn định lại.
Thế nhưng thời cuộc
hiện thời không cho phép, thế giới này tai nạn
quá nhiều, chúng sanh quá khổ. Nếu là những
chuyện đa nguyên văn hóa, đoàn kết các sắc
dân, đoàn kết tôn giáo, ḥa b́nh thế giới, v́
những chuyện ấy tôi vẫn phải bỏ chút
sức yếu mỏng. Nếu không phải v́ những
chuyện ấy, tôi không xuống núi. Những chuyện
ấy nay vẫn không có người thay thế; nếu có
ai thay thế, tôi hoan hỷ vô lượng, tôi sẽ
chẳng xuống núi, tối thiểu là phải nêu
gương [ở yên tu học trên núi] mấy năm cho
người khác thấy. V́ thế, chúng tôi đọc
đến câu “phó cảm
ứng quần cơ” này, thấy quả thật
chẳng phải là chuyện rất dễ dàng.
Thế nhưng hiện thời
là thời đại động loạn, muốn giúp
đỡ thế giới khôi phục lại trật
tự b́nh thường khó khăn quá! Nay chúng tôi biết là
chuyện không thể làm mà vẫn cứ làm, dâng hiến
một chút tâm lực của ḿnh, bất luận
đến nơi đâu cũng là v́ chuyện này. Nay chúng ta
có viễn tŕnh giáo học (telecourse), có Internet, có truyền
h́nh vệ tinh; tuy thế, ngẫu nhiên có những lúc chính
ḿnh phải đến nơi mới tạo ra hiệu
quả ảnh hưởng, giúp cho bọn họ kiến
lập tín tâm, giúp bọn họ tỉnh ngộ. A! Bây
giờ đến giờ rồi!
*
Xin xem tiếp bài Tăng Bảo
Tán:
Kham tác nhân thiên công đức
chủ,
Kiên tŕ giới hạnh vô vi.
堪作人天功德主。
堅持戒行無違。
(Đáng
làm trời người công đức chủ,
Giới
hạnh giữ vững chẳng trái nghịch).
Hai câu này tiêu chuẩn rất cao! “Kham” (堪) là
thực sự xứng đáng, chúng ta hăy suy nghĩ chính ḿnh
đă có thể là “nhân thiên công
đức chủ” hay chưa? Câu này tiếp ư câu trên “phó cảm ứng quần cơ,
kham tác nhân thiên công đức chủ”. Thiền sư Bôi
Độ không có vấn đề ǵ, tối thiểu Ngài
đă chứng A La Hán, tuyệt đối chẳng phải
là người phàm. Hăy nghĩ xem chúng ta có được như
vậy hay không? Tôi thường nói, nhất là trong mấy
năm qua, giảng kinh ở mọi nơi, tôi dùng một
câu để nói tổng quát: “Học
vi nhân sư, hạnh vi thế phạm” (Học làm
thầy người, hạnh là khuôn mẫu cho đời),
hy vọng chúng ta trở thành một tấm gương
tốt trong nhân gian. Tiêu chuẩn ở đây so với hai
câu của tôi cao hơn nhiều lắm.
Nhân gian, cơi trời bao gồm Dục
Giới Thiên, Sắc Giới Thiên; Vô Sắc Giới Thiên
chúng ta không bàn đến. Bởi lẽ, họ không có h́nh
tướng, là Trường Thọ Thiên; quư vị có
giảng kinh, thuyết pháp, họ cũng không đến
nghe. Sắc Giới Thiên thích nghe kinh, nghe pháp, chúng ta có
tư cách hay chăng? Có đảm nhiệm nổi
chăng? Đối với trời, người, ta không
phải là phước đức chủ mà là công
đức chủ! Công đức khác với phước
đức rất nhiều. Người thế gian
đến cửa Phật thắp hương, lễ bái,
bố thí cúng dường, cầu điều ǵ? Cầu
phước. Phước điền! Người xuất
gia là “phước điền
tăng”. Quư vị trông thấy nơi tấm y này có
từng miếng vải một, mọi người
gọi nó là “phước
điền y”; đến nơi đó gieo phước
điền. Thực sự có phước để trao cho
người ta hay không? Chúng ta tu hành đúng pháp th́ họ
được phước báo, chúng ta thực sự tu hành
chứng quả. Nếu chúng ta tu hành không đúng pháp,
tương lai đọa tam đồ, họ c̣n có
phước hay chăng? Phước báo mà đă khó khăn
như thế ấy th́ công đức càng chẳng cần phải
nói nữa!
Công đức là ǵ? Không
những chúng ta tự ḿnh thành tựu, mà c̣n phải giúp cho
người khác thành tựu. Ǵ là công đức? Giới - Định
- Huệ là công đức. Tŕ giới có công;
được thanh tịnh, b́nh đẳng là đức.
Thanh tịnh, b́nh đẳng là Định. Tu Định
hữu công, trí huệ mở mang là Đức. Câu này có
nghĩa là quư vị có thể thực sự làm một
vị thầy giỏi trong nhân gian lẫn cơi trời, giúp
cho đại chúng nhân thiên thành tựu Tam Học Giới - Định
- Huệ th́ mới gọi là Công Đức Chủ. Tam
Học Giới - Định - Huệ của chính ḿnh không có
thành tựu, làm sao có thể thành tựu Tam Học Giới -
Định - Huệ cho đại chúng trong cơi trời, cơi
người cho được? “Nhân
thiên công đức chủ”, chúng ta hăy suy nghĩ, mức
độ, tiêu chuẩn thấp nhất cũng phải
như kinh Kim Cang đă giảng: “Phá bốn tướng!” Quả
thật vô ngă, không [mang tâm niệm sở hữu] riêng tư,
thực sự buông danh văn lợi dưỡng xuống,
buông hưởng thụ ngũ dục, lục trần
xuống, triệt để đoạn trừ tham - sân -
si - mạn - nghi th́ mới là “kham
tác nhân thiên công đức chủ”. Đức hạnh,
trí huệ, phương tiện thiện xảo chẳng
đạt đến mức độ ấy, làm sao là nhân
thiên công đức chủ cho được?
Câu tiếp đó nói đức
hạnh của chính ḿnh là quan trọng nhất, đây chính
là một điều kiện căn bản nhất của
nhân thiên công đức chủ: “Kiên
tŕ giới hạnh vô vi”. Quư vị hiểu v́ sao hiện
nay chúng tôi phải nhấn mạnh, phải yêu cầu
thực hiện Sa Di Luật Nghi đến mức như
thế? Mười điều đầu là giới, hai
mươi bốn điều sau đấy (tức hai mươi
bốn oai nghi) là hạnh. Những điều khác chúng tôi
không dám nói, v́ sao? Tỳ-kheo giới, Bồ Tát giới quá
cao! Chúng ta làm người chưa được th́ c̣n bàn [những
giới cao xa] làm ǵ? Học Phật th́ trước hết
phải học làm người. Ấn Quang đại
sư xuất hiện trong thời cận đại,
hiểu rơ xă hội hiện đại, hiểu rơ những
diễn biến trong xă hội: Luân thường đạo
đức, giáo huấn của thánh hiền hoàn toàn bị
băng hoại, con người phải chịu đại
khổ nạn. Ấn Quang đại sư không nhấn
mạnh giới hạnh mà nhấn mạnh điều ǵ?
Liễu Phàm Tứ Huấn! Liễu Phàm Tứ Huấn
giảng điều ǵ? Tin sâu nhân quả. Thiện có
thiện báo, ác có ác báo, chẳng phải là không báo, chưa
đến lúc đó thôi! Nội dung của Liễu Phàm
Tứ Huấn là giảng về điều này. Quư vị thực
sự hiểu và tin tưởng nhân quả báo ứng th́
mới phát tâm đoạn ác tu thiện, hy vọng chính ḿnh trong
tương lai sẽ được quả báo tốt đẹp.
Do vậy, Tổ Sư dạy
chúng ta tu Cảm Ứng Thiên, học Văn Xương
Đế Quân Âm Chất Văn; dùng Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên và Văn Xương Đế Quân Âm
Chất Văn thay cho Giới Luật. Cách này hay lắm,
những sách ấy không phải là kinh điển, không
từ ngoại quốc truyền vào, mà do chính người Hoa
soạn ra, tự ḿnh viết ra. Do vậy, tổ Ấn
Quang suốt đời đề xướng ba tác
phẩm Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên
Vựng Biên, An Sĩ Toàn Thư. Trong An Sĩ Toàn Thư có bốn
thứ, thứ nhất là Văn Xương Đế Quân
Âm Chất Văn, chiếm hết nửa bộ toàn thư.
Ba thiên sau là Vạn Thiện Tiên Tư giới sát, Dục
Hải Hồi Cuồng giới dâm, cuối cùng là Tây Quy
Trực Chỉ khuyên niệm Phật. Quư vị thấy
Ấn Quang đại sư lăo nhân gia khổ tâm. Nếu
nh́n từ thực tế th́ là “tŕ giới niệm Phật,
tin sâu nhân quả”. Tŕ giới niệm Phật chính là
điều Ngài suốt đời đề xướng
đến tột bậc, là pháp môn Bất Nhị thực
sự cứu văn kiếp vận trước mắt,
tổ Ấn Quang dùng phương pháp này để thực
hiện, “kiên tŕ giới
hạnh vô vi”, phải chú trọng, quyết định
chẳng được trái nghịch.
Nếu trái nghịch, từ
đây về sau quư vị sống khó khăn, vị lai
chẳng thể nghĩ tưởng nổi, tương lai
là ác báo tam đồ. Tam đồ rất dễ vào,
chẳng dễ ǵ thoát ra. Quư vị phải có tâm cảnh
giác cao độ, nếu không, đến lúc đọa
lạc, khi ấy có hối cũng không kịp nữa. V́
thế, tu hành thực sự ngay trong lúc nào? Tôi
thường khuyên lơn các đồng học phải
thực hiện ngay trong hiện tại, phải bắt
đầu từ hiện tại, hạ quyết tâm thực
sự làm, đă chậm lắm rồi, không thể
chần chừ được nữa! Tất cả
hết thảy pháp trong thế gian đều không thật,
kinh Kim Cang nói hay lắm: “Phàm sở
hữu tướng giai thị hư vọng” (Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng),
“nhất thiết hữu vi
pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh” (hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng). Không có ǵ là thật, chỉ có tin sâu nhân quả, tŕ
giới niệm Phật là thật. V́ sao? Cái quư vị mang
theo được chắc chắn là thiện nhân,
thiện quả, nhân tốt, quả tốt, v́ sao không
chịu làm? Cả một đời người thực
sự hạnh phúc, thực sự sung sướng,
chẳng ĺa hiền thánh. Không ĺa hiền thánh bằng cách
nào? Không tách ĺa giáo huấn của hiền thánh.
Về sách thế gian,
trước kia, tôi đến Đài Trung tiếp nhận
sự giáo huấn của thầy Lư, thầy Lư dạy cho
tôi ba loại: Thứ nhất là Tứ Thư, thứ hai là
Ngũ Chủng Di Quy[13],
ngoài ra là Cổ Văn Quán Chỉ. Học Cổ Văn Quán
Chỉ để học văn tự, học văn
chương. Hai thứ đầu là đức hạnh, là
học vấn. Đủ rồi! Cả đời dùng
không hết! Kinh Phật cũng không cần nhiều, có
mấy thứ thôi mà cả đời dùng không hết.
Ấn Quang đại sư bảo [chúng ta phải học]
ba tác phẩm Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên, An Sĩ Toàn Thư. Chúng tôi thường
học tập pháp môn Tịnh Độ, năm kinh một
luận của Tịnh Độ. Trước kia, thầy
Lư c̣n dạy thêm cho chúng tôi kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo, kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung, kinh Kim
Cang, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, kinh
Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm. Đủ rồi, không
cần học thêm nữa! Chúng tôi cả đời chuyên tu,
chuyên hoằng, tâm định lại, một môn thông
rồi mới học sang môn khác.
Suốt đời lấy
một môn làm chủ, chủ tu một môn, có thể học
những môn khác để phụ trợ cho môn mà quư vị
chủ tu, ḥng làm rạng rỡ một môn ấy, chúng ta
quyết định không cần nhiều hơn nữa.
Nhiều sẽ không thể tiêu hóa nổi, tiếp nhận không
nổi. Vâng giữ được như thế th́ gọi
là “giới hạnh”.
Giới là quy củ, Giới là tịnh giới, ta chỉ
tuân thủ trong phạm vi ấy, khéo học tập, ngàn
kinh muôn luận khác đến thế giới Cực
Lạc sẽ học sau, không trễ đâu! Đến thế
giới Cực Lạc, chúng ta chứng được vô
lượng thọ, có thọ mạng như thế, có
thời gian như thế, huống chi nơi đó có
thầy giỏi, có đồng học tốt, hoàn cảnh
tu học tốt, lẽ đâu chẳng thành tựu?
Chẳng thể tham nhiều mà phải chuyên tinh.
Dùng kinh luận sửa
đổi cho đúng tư tưởng, kiến giải
của chính ḿnh. Cách nghĩ và cách nh́n của chúng ta không trái
nghịch kinh luận. Ngôn ngữ, hành động không trái
nghịch Giới Luật, lấy giới luật làm tiêu
chuẩn, sửa đổi hành vi. Dùng kinh luận làm tiêu
chuẩn để sửa đổi tư tưởng,
kiến giải của chính ḿnh cho đúng. Chúng ta tu hành có
tiêu chuẩn; nếu trái nghịch những tiêu chuẩn
ấy th́ là sai lầm. “Kiên tŕ”
là quyết định không trái nghịch. Trong kinh, đức
Phật dạy chúng ta làm ǵ th́ phải thực sự làm,
dạy chúng ta không được làm những ǵ th́
quyết định chẳng trái nghịch, đó là “kiên
tŕ” (giữ vững). Người khác kiên tŕ hay không
chẳng dính dáng ǵ đến ḿnh, chúng ta quyết chớ nên
nh́n vào người khác. Người khác có làm th́ ḿnh cũng
làm, người khác không làm, ḿnh làm để làm chi? Nghĩ
như vậy là sai! Người khác đi theo con
đường tam đồ, quư vị cũng theo họ
đi luôn! Người ta đọa A Tỳ địa
ngục, quư vị cũng theo họ đi vào. Vậy là
lầm lạc quá đỗi rồi! Người ta tốt
đẹp th́ có thể học theo, tự ḿnh phải có trí
huệ, có năng lực phân biệt đúng - sai, thiện -
ác, phân biệt nhân - quả, tà - chánh, quư vị phải có
năng lực ấy. Không có năng lực đó, nhất
định phải theo thầy; khi không có thiện tri
thức, nhất định phải nương theo kinh
giáo: Học lấy một bộ kinh giáo, nhất
định phải tuân thủ những điều được
giáo huấn trong bộ kinh luận ấy.
Hiện tại, các đồng học
đều lấy kinh Vô Lượng Thọ làm tiêu
chuẩn tu hành cho ḿnh, rất tốt! Kinh Vô Lượng
Thọ nội dung hết sức phong phú, toàn kinh từ
đầu đến cuối, mỗi một phẩm
đều nói đến Giới Luật. Nói nhiều
nhất là từ phẩm ba mươi hai đến
phẩm ba mươi bảy, nếu quư vị chú tâm quán sát
đoạn kinh văn lớn ấy, sẽ thấy kinh
thuyết minh tỉ mỉ về Ngũ Giới, Thập
Thiện, có những điểm chánh yếu để
học tập và mặt phụ là nhân quả. V́ thế,
chúng tôi lấy ra, soạn thành kinh văn để
đọc tụng trong khóa tối, với mục đích
hy vọng mỗi ngày y theo kinh giáo để tu hành pháp sám hối.
Đọc đến đoạn này bèn theo văn nhập
quán, vừa niệm vừa nghĩ đến bản thân,
Phật dạy ḿnh làm ǵ, ḿnh làm được hay chưa?
Phật dạy ḿnh không được làm ǵ, ḿnh có trái
nghịch hay không? Phản tỉnh, sửa lỗi,
đổi mới th́ gọi là chân chánh tu hành. Thực
hiện khóa tối như thế sẽ có công đức. “Miệng
có, tâm không” là chẳng được. Lại xem tiếp
hai câu cuối của bài tán tụng:
Ngă kim khể thủ
nguyện dao tri,
Chấn tích
trượng đề huề.
我今稽首願遙知。
振錫杖提攜。
(Con nay cúi
lạy nguyện xa hay,
Rung
tích trượng đề huề).
“Khể thủ” là
đảnh lễ tam bái. Ở đây, chúng ta đảnh
lễ ba lạy, hy vọng dù Ngài ở phương xa,
cũng trông thấy, cũng nghe biết. Ngài biết
được ư tứ trong ḷng con, chân thật không giả
dối tí nào. Nhất là bậc Pháp Thân Bồ Tát, phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, trong
cảnh giới ấy, không gian không c̣n, xa - gần không có,
thời gian không có, trước - sau không có, Pháp Thân Bồ
Tát ở trong cảnh giới ấy, làm sao không biết cho
được? Dẫu ở trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn ức
cơi nước Phật, vẫn thấy chúng ta rơ ràng, rành
rẽ. Nay chúng ta ở đây khẽ tiếng nói th́
thầm, Ngài cũng nghe rơ ràng, thông suốt; chúng ta khởi
tâm động niệm ǵ Ngài đều biết cả. Kinh
Vô Lượng Thọ nói rất hay: Người văng sanh
Phàm Thánh Đồng Cư độ của Tây Phương
Cực Lạc thế giới, “Thiên Nhăn đỗng
thị, Thiên Nhĩ triệt thính, Tha Tâm biến tri” (Thiên
Nhăn nh́n thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thông
suốt cùng tột, Tha Tâm biết khắp cả). Chúng ta khởi
tâm động niệm họ đều biết ngay, chẳng
thể che mắt ai được!
Muôn vàn phần chớ nên lừa dối
người khác. Lừa dối phàm phu dễ, chứ
đối với hàng Bồ Tát từ Sơ Trụ trở
lên, không có cách ǵ dối gạt được. Họ
hiểu quư vị quá rành, quá rơ rệt, những hành vi quư
vị đă làm trong đời đời kiếp kiếp
họ biết hết. Thanh Văn, Duyên Giác, thiên thần,
quỷ thần cũng có tiểu thần thông, họ
chưa chắc biết được chuyện trong
đời đời kiếp kiếp của quư vị,
nhưng mọi hành vi trong hiện đời sẽ không
thể che mắt họ được. V́ thế, cổ
nhân thường nói: “Cử đầu tam xích hữu
thần minh” (Trên đầu tính lên ba thước có
thần minh), làm sao người ta không biết
được? Do vậy, quư vị chánh tâm, chánh hạnh,
chư Phật bèn hộ niệm, thiện thần bảo vệ,
ban phước, ác thần cũng tôn kính! Cớ sao không làm?
Quư vị học Phật tâm địa ngày càng thanh
tịnh, công phu càng tốt, cảm ứng cảnh giới
càng rơ rệt. Cảnh giới ấy chắc chắn
tăng trưởng tín tâm, kiên định nguyện
hạnh cho quư vị, v́ sao? Hoàn toàn hiểu rơ rồi, là
thật, chứ không giả, trên con đường Bồ
Đề không cô đơn, chư Phật hộ niệm,
long thiên thiện thần ủng hộ.
“Chấn tích trượng đề
huề”: Chúng ta là phàm phu,
cần phải có người đề bạt. Tăng
Bảo gần gũi chúng ta nhất. Người xuất
gia “tích trượng” chẳng rời tay, dùng để làm
ǵ? Dùng khi ra khỏi cửa khất thực. Đi khất
thực, cổng nhà người ta đều đóng, ḿnh
gơ cửa nhà người ta là thiếu lịch sự,
chẳng thể gơ cửa nhà người ta, làm như thế
nào đây? Chúng ta ôm bát đứng bên ngoài họ không biết.
Rung tích trượng, tích trượng vừa rung, trên tích
trượng thường gắn những cái ṿng
đồng, hoặc ṿng sắt, rung lên sẽ phát ra
tiếng. Người trong nhà nghe bên ngoài có người rung
tích trượng, biết có người xuất gia
đến khất thực, họ tự nhiên mở
cửa cúng dường. Nếu hôm nay người ta không có
ǵ để cúng dường ḿnh, họ không mở cửa.
Rung tích trượng ba lần, cửa không mở, phải đi
ngay, chẳng được lần chần tại đó,
qua khất thực nhà thứ hai.
Đức Phật quy định không
được khất thực quá bảy nhà. Bảy nhà đều
không xin được th́ phải quay về niệm
Phật; nhưng vẫn c̣n có cái để ăn, v́ không
phải là khất thực vừa xin được bèn
ăn liền, không phải như vậy! Nếu không, sẽ
là phạm oai nghi. Xin xong phải trở về đạo
tràng, ăn cùng đại chúng. Người xin
được nhiều chia cho người xin
được ít. Không xin được ǵ th́ cũng
được người khác chia sớt. “Chấn tích trượng đề huề”: Nay ta
khất thực, không xin được th́ những
người xin được nhiều sẽ sớt cho
ḿnh một chút. Đây là Sự, từ chuyện này mở
rộng ra: Chúng ta tu hành gặp khó khăn, gặp phải
thử thách, gặp phải mê hoặc, gặp phải
chướng nạn, phải nhờ vào thiện tri
thức nâng dắt, phải nhờ thiện hữu giúp
đỡ, đó là bạn lành, Tăng Bảo đấy!
Giảng đến đây có thể coi là xong một
đoạn, nhưng trong đây lại c̣n một tầng ư
nghĩa sâu hơn, người tại gia cũng là Tăng
Bảo.
Nên giải thích như thế
nào? Do ư nghĩa của chữ Tăng không phân biệt là
tại gia hay xuất gia, chỉ cần tu Lục Ḥa Kính,
nghiêm tŕ Giới Luật, bốn người ở cùng
một chỗ, người tại gia bốn người
ở cùng một chỗ cũng là Tăng Bảo, cũng là
Tăng Đoàn. Quư vị nhất định phải thực
sự tu hành. Trong nhà Phật có bốn hạng xuất gia,
điều này nhất định phải biết.
1) Loại thứ nhất là thân
xuất gia, tâm không xuất gia. Về h́nh tướng là
người xuất gia, nhưng tư tưởng,
kiến giải, hành vi là người tại gia, không
phải là Tăng Bảo. Cổ đại đức
bảo hạng người xuất gia này là: “Thí chủ nhất lạp mễ,
đại như Tu Di sơn, kim sanh bất liễu đạo,
phi mao, đới giác hoàn” (Một hạt cơm thí
chủ, to bằng núi Tu Di, đời này không liễu
đạo, đeo lông, đội sừng đền). Trong
tương lai, bọn họ phải trả nợ, họ
không tu hành đúng pháp.
2) Loại thứ hai là tâm
xuất gia nhưng thân không xuất. Đây là người
tại gia chân chánh tu hành, họ là Tăng Bảo. Dù h́nh
tướng là người tại gia, nhưng chân tu nên
giống như người xuất gia, không khác ǵ. Họ
thuộc về Tăng Bảo.
3) Loại thứ ba là thân tâm
đều xuất. Đương nhiên là đạt tiêu
chuẩn xuất gia cao nhất. Thân xuất gia tâm cũng
xuất gia, thực sự ở trong trần thế (“trần” (塵) là bụi đất) không nhiễm
mảy trần, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm
mảy trần. Phải hiểu Tăng Bảo
được tán dương ở đây là hạng tâm
xuất gia và “thân xuất gia, tâm cũng xuất gia”.
Đấy mới là Tăng Bảo chân chánh.
4) Loại thứ tư là thân
tâm đều chẳng xuất: Thân lẫn tâm không xuất
chẳng phải là mọi người b́nh thường
trong thế gian, không phải vậy! Ở đây nói
đến kẻ tại gia học Phật, tại gia
học Phật th́ thân không xuất, nhưng tâm như
thế nào? Tâm cũng không xuất! Thân lẫn tâm
đều không xuất, mang danh là cư sĩ tại gia, nhưng
tâm không hướng về đạo. Trong cuộc sống
thường ngày vẫn tùy thuận phiền năo tập khí,
chẳng tùy thuận những giáo huấn trong kinh luận,
thân lẫn tâm đều không xuất!
Như vậy, bốn loại
này đều nói về tứ chúng đệ tử trong nhà
Phật, không dự vào cửa Phật th́ chẳng tính
đến. Chúng ta phải hiểu điều này. Do
vậy, tại gia hay xuất gia đều phải thực
sự tu tập th́ mới được kể là Tăng
Bảo. Nếu không thực sự tu tập sẽ
chẳng có phần trong Tăng Bảo. Không có phần th́ có
tạo tội nghiệp hay không? Đương nhiên
tạo nghiệp! Tạo nghiệp như thế nào? Tôi nói
ra mọi người hiểu ngay: “Phá hoại h́nh ảnh
Phật giáo, tội ấy không nhẹ!” Quư vị
đều biết: Trong Ngũ Nghịch, Thập Ác có
tội phá ḥa hợp Tăng, có điều này. Tội phá
ḥa hợp Tăng đọa A Tỳ địa ngục,
rất nặng! Quư vị phá hoại h́nh ảnh của
Phật giáo, nghĩ xem: Tội ấy khác nào tội phá ḥa hợp
Tăng? Ta là người xuất gia, làm chuyện rất
không đúng pháp, khiến cho đại chúng trong xă hội
trông thấy bèn chửi rủa Phật giáo, chửi cá nhân
ḿnh không sao, toàn thể Phật giáo bị kẻ ấy chửi
lây. Quư vị nghĩ coi: Cái tội ấy nặng lắm!
Cư sĩ tại gia học Phật, học không đúng pháp,
khiến cho xă hội đại chúng nghĩ: “Gă đó là
người học Phật mà lại như thế đó!”
Quư vị có phạm tội lỗi hay không? Liên lụy toàn
thể những người học Phật, liên lụy
toàn bộ Phật pháp, chuyện này thật nghiêm trọng!
V́ sao trong lịch sử chúng ta
thấy thời cổ những người xuất gia
được quốc vương, đại thần,
sĩ đại phu (nay ta gọi [sĩ đại phu] là “những
người có chức vị”) tôn kính đến như
vậy? V́ đạo lư nào? Những vị xuất gia
ấy thực sự là tịnh quang của Phật, có
đạo đức, có học vấn, nghiêm tŕ Giới
Luật, thuyết pháp lợi sanh, biện tài vô ngại, đối
với pháp thế gian hay xuất thế gian đều không
cầu điều ǵ, không lấy điều ǵ, ai mà chẳng
tôn kính? Bởi thế, họ đúng là “kham tác nhân thiên công đức chủ”. Đế
vương, quan lại cam tâm quy y, tôn quư vị làm thầy!
V́ sao trong xă hội những kẻ xuất gia chúng ta ngày nay
bị người ta coi thường? Tự ḿnh phải
quay đầu nghiêm túc suy nghĩ, là công hay là tội, là họa
hay là phước, quư vị phải hiểu cho rơ ràng, minh
bạch!
Nếu quư vị không thực
sự tu, làm sao xứng với Phật, Bồ Tát cho được?
Làm sao xứng với tổ sư đại đức
đời đời truyền thừa cho được?
Làm sao xứng với mười phương thiện tín
xuất tiền bỏ sức cúng dường quư vị?
Người ta nhọc nhằn, vất vả kiếm
tiền đến cúng dường quư vị, v́ lẽ nào?
Quư vị dựa vào đâu để hưởng cho tiêu [của
cúng dường ấy] được? Do vậy, trong
phần Tam Bảo Tán, đọc đến phần
Tăng Bảo Tán, cảm khái muôn vàn! Phải tự
phản tỉnh, kiểm điểm sâu xa, chẳng thể
không biết, chẳng thể không quay đầu, chẳng
thể không sửa lỗi! Chúng ta xem tiếp đoạn
khai thị kế đó, là lời của thiền sư Trung
Phong:
35. Khai thị:
Niệm Phật kư tùng tâm
xuất, kết nghiệp khởi thuộc ngoại lai. Tu
du bối niệm Phật chi tâm, sát-na tức kết
nghiệp chi sở.
念佛既從心出。結業豈屬外來。須臾背念佛之心。剎那即結業之所。
(Niệm Phật đă từ
tâm mà có, kết nghiệp há thuộc bên ngoài? Tâm nghịch
với niệm Phật trong khoảnh khắc bèn kết
nghiệp ngay trong một sát-na).
Trong phần khai thị, quan
trọng nhất là bốn câu này. Bốn câu ấy này đối
với người học Phật chúng ta, bất luận
xuất gia hay tại gia cũng đều là “đương
đầu bổng hát”[14]: “Niệm Phật kư tùng tâm
xuất, kết nghiệp khởi thuộc ngoại lai” (Niệm
Phật đă từ tâm mà có, kết nghiệp há thuộc
bên ngoài?) Câu này thuyết minh làm lành hay tạo ác đều
do một cái tâm. Cái tâm ấy không làm lành sẽ tạo ác,
chắc chắn là như thế! Niệm Phật là
điều lành nhất trong mọi điều lành, không có
ǵ lành hơn được. Trong tâm quư vị bất
luận nghĩ đến thiện pháp nào, tương lai
nhất định có thiện quả, thiện quả
không ngoài cơi trời người. Trong tâm quư vị nghĩ
đến hết thảy ác pháp, quả báo chẳng ngoài
tam đồ. Do đây biết rằng: Khởi tâm
động niệm không ǵ chẳng phải là nghiệp,
nghiệp nếu không phải là thiện nghiệp th́ sẽ
là ác nghiệp. Trong xă hội hiện thời phiền
phức lắm, v́ sao? Giáo huấn của thánh hiền không
c̣n nữa, không ai nói nữa. Những sách vở ghi chép giáo
huấn của hiền thánh được lưu
truyền rất ít, không ai đọc.
Trước kia, tôi ở Đài Loan,
Thương Vụ Ấn Thư Quán in bộ Tứ Khố
Toàn Thư; lúc ấy tôi muốn mua, tâm có thừa mà sức
không đủ, không có tiền. Về sau, Thế Giới
Thư Cục lại xuất bản bộ Tứ Khố
Hội Yếu, lúc ấy tôi rất hoan hỷ. Tôi nghĩ
Tứ Khố nay vẫn c̣n có mấy bộ được
lưu truyền. Trước kia, những người già
cả bảo tôi: Vào thời hoàng đế Càn Long, nguyên
bản Tứ Khố Toàn Thư được chép tay, chép
thành bảy bộ. Đă nhiều năm trôi qua, qua bao
chiến tranh loạn lạc, thay đổi triều
đại, tổn thất hết, bị hủy hoại
hết, thất lạc hết, đáng tiếc thay! Đại
khái ở Trung Quốc Đại Lục c̣n được
hai bộ, Đài Loan có một bộ là ba bộ. Những
bản dở dang, không hoàn toàn cũng c̣n được vài
bộ, nhưng Tứ Khố Hội Yếu không có.
Đương thời chỉ có hai bản Tứ Khố
Hội Yếu, một bản để ở Si Tảo
Đường[15],
tức là thư pḥng của vua Càn Long trong hoàng cung. Bộ
kia để tại vườn Viên Minh, trong vườn
Viên Minh có một bộ Toàn Thư và một bộ Hội
Yếu. Lúc bát quốc liên quân[16]
thiêu hủy vườn Viên Minh, hai bộ ấy bị
hủy cả. Do vậy, [Tứ Khố] Hội Yếu
chỉ c̣n lại một bộ.
Một bản độc nhất trên
đời này! Thế Giới Thư Cục in ra, tôi
hết sức hoan hỷ. Do vậy, lúc ấy có những
đồng tu giúp đỡ tôi, tôi mua được
một bộ. Mua được một bộ, tôi không
đủ sức đọc, tôi nghĩ phải gởi
về Trung Quốc Đại Lục, v́ Trung Quốc
Đại Lục không có, rất nhiều người c̣n
chưa được nghe đến. Tôi bèn phát tâm, sau này
tận hết sức mua được năm bộ.
Năm bộ ấy, lần thứ nhất gởi về
Trung Quốc Đại Lục, gởi về đại
học Bắc Kinh một bộ; gởi một bộ
về đại học sư phạm Nam Kinh, gởi
về đại học Phúc Đán ở Thượng
Hải một bộ; An Huy là quê cũ, cũng là nơi phát
nguyên của Đồng Thành phái[17],
gởi tặng một bộ về đại học An
Huy. C̣n một bộ gởi về quê hương Càn Long
thuộc miền Đông Bắc, tức là gởi về
đại học Trường Xuân thuộc quê hương
của Càn Long.
Sau này từ
từ có tiền bèn mua, tổng cộng mua đến ba
mươi bốn bộ, cả
Trung Quốc mỗi một tỉnh, thành phố đặc
biệt, khu tự trị mỗi nơi đều tặng
một bộ; mỗi nơi chọn lấy một
đại học tốt nhất, hy vọng những sách
này sẽ được lưu truyền dài lâu. Sau rốt,
có một vị cư sĩ đến bảo tôi ông ta phát
tâm tặng tôi một bộ Tứ Khố Toàn Thư, tôi
hết sức vui vẻ. Tôi hỏi mua một bộ nơi
Thương Vụ Ấn Thư Quán, bản cuối cùng
của Thương Vụ Ấn Thư Quán được
bán cho tôi. Tổng kinh lư (General Manager) [của Thương
Vụ Ấn Quán] bảo tôi: “Bộ sách này nếu một
người mới đẻ ra đă biết đọc,
mỗi ngày đọc tám tiếng, đọc đến
một trăm hai mươi tuổi vẫn đọc
chưa xong”. Tôi mua một bộ hiện được đặt
tại nhà giảng mới của chúng ta. Tôi hỏi ông ta
sách này in với số lượng bao nhiêu, tôi ước
tính chừng ba trăm bản. Ông ta bảo không sai, chỉ
in ba trăm bản. Lúc ấy tôi ước tính Hội
Yếu chỉ in năm trăm bản.
Năm ngoái, tôi qua Đài Loan
giảng kinh, gặp được tổng kinh lư của
Thế Giới Thư Cục tôi mới biết họ
chỉ in hai trăm bản, v́ sao? Sách ấy không có ai
đọc. In nhiều không bán được. In hai trăm
bản mà hiện nay họ vẫn c̣n tám bộ. Như
vậy th́ quư vị mới biết khó khăn như
thế nào, những thứ của cổ thánh tiên hiền hiện
nay không có người đọc. Người hiện
tại đọc những thứ ǵ? Không đọc sách mà
chơi computer, coi Internet. Nội dung Internet tôi không biết,
tôi chỉ nghe nói đủ màu đủ vẻ, đại
khái là bảy mươi, tám mươi phần trăm là
tài liệu dạy dỗ, cũng được đi!
Dạy toàn giết - trộm - dâm - dối; nói cách khác,
mỗi ngày quư vị tiếp xúc những thứ đó, tâm
chắc chắn bị các ác pháp ô nhiễm, khởi tâm
động niệm bất thiện, quả báo chẳng
thể tưởng tượng được nổi.
Hiện thời người
học Phật đông đảo, nhưng người chân
chánh học Phật được mấy ai? Nếu quư
vị đào thải từng tầng một, đào
thải đến tối hậu th́ toàn thế giới, e
rằng chưa t́m được một trăm
người. Tôi ước lượng như vậy là c̣n
lớn lắm. Người chân chánh học Phật trên toàn
thế giới t́m không được một trăm
người th́ c̣n nói ǵ được nữa? Đều
là do ư niệm. Làm lành cũng do nó, làm ác cũng do nó. Chúng ta
phải hiểu, phải cảnh giác. Tự ḿnh phải
khéo suy nghĩ: Ḿnh đang theo con đường Phật,
hay đi trên đường địa ngục, phải
nghiêm túc suy tưởng, nghĩ ngợi đi! Nay đă
hết giờ rồi!
Tập
56
Xin xem đoạn Khai Thị sau phần
Tán Tăng Bảo, chúng ta đọc đoạn này một
lượt:
Niệm Phật kư tùng tâm
xuất, kết nghiệp khởi thuộc ngoại lai, tu
du bối niệm Phật chi tâm, sát-na tức kết
nghiệp chi sở.
念佛既從心出。結業豈屬外來。須臾背念佛之心。剎那即結業之所。
(Niệm Phật đă do tâm mà
có, kết nghiệp há thuộc ngoài tâm. Tâm nghịch với
niệm Phật trong khoảnh khắc bèn kết nghiệp
ngay trong một sát-na).
Đây là một đoạn.
Trong phần trên tôi đă nói rồi, trong đoạn này
thiền sư bảo chúng ta: Làm lành hay làm ác đều
trong một tâm niệm, hoàn toàn giống như lời đức
Phật dạy trong các bộ kinh Đại Thừa. Trong
kinh Hoa Nghiêm, nói chung, đức Thế Tôn bảo chúng ta:
Hư không, pháp giới, sát-độ, chúng sanh, hết
thảy vạn sự vạn vật trong vũ trụ “duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. Đó là nói đến cùng tận. Đức
Phật lại c̣n thường dạy chúng ta: “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng
sanh” (hết thảy pháp từ tâm tưởng mà sanh).
Câu thứ nhất [trong phần Khai Thị trên đây] nói
về niệm Phật: Quư vị nghĩ tưởng
Phật, nghĩ tưởng Phật bèn thành Phật. Câu
tiếp đó là “kết
nghiệp”: Trong tâm nghĩ đến những nghiệp
thiện hay ác, quư vị nghĩ đến điều
thiện bèn hưởng phước báo trong nhân thiên
tức ba đường lành; nghĩ đến
điều ác bèn có ác báo trong tam đồ địa
ngục. Toàn là do một tâm, tùy thuộc cách nghĩ của
quư vị ra sao; mối quan hệ này rất lớn lao.
Trong kinh Lăng Nghiêm,
đức Phật cũng bảo rơ ràng cùng chúng ta: “Chư pháp sở sanh, duy tâm sở
hiện, nhất thiết nhân quả” (các pháp
được sanh ra chỉ do tâm hiện, hết thảy
nhân quả); từ ngữ “nhất thiết nhân quả”
ở đây bao gồm nhân quả của y báo và chánh báo
trong mười pháp giới, gồm cả nhân quả
xuất thế Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa.
Khởi tâm động niệm là tạo nhân, nhân gặp
được duyên, quả báo nhất định hiện
tiền, đúng như ngạn ngữ có câu: “Bất thị bất báo,
thời thần vị đáo” (Chẳng phải không báo,
thời giờ chưa đến). “Thời thần” là ǵ vậy? Duyên! Duyên chưa
đủ. Hễ duyên đầy đủ th́ quả báo
hiện tiền ngay lập tức. Chúng ta chẳng thể
không hiểu đạo lư này!
Đức Phật lại
thường nói: “Y báo tùy trước
chánh báo chuyển” (Y báo chuyển theo chánh báo). Chánh báo là
khởi tâm động niệm; c̣n về y báo th́ y báo thân
thiết nhất là thân thể của chúng ta. Chúng ta khởi tâm động niệm chẳng
thể không có thân thể này. Y báo và chánh báo là một, không
hai. Đă có thân thể này th́ không thể chẳng có hoàn
cảnh sinh sống. Quư vị chú tâm tư duy, quán sát toàn
thể vũ trụ, nay chúng ta gọi [chánh báo] là tinh
thần, vật chất và tinh thần quyết định
chẳng thể chia ĺa, chúng là một thể: Tinh thần
là tinh thần của vật chất. Vật chất là
vật chất nơi tinh thần, là một, không hai,
đều là “tâm hiện,
thức biến”. Trong Phật pháp gọi [tinh thần và
vật chất] là Tâm Pháp và Sắc Pháp. Sắc và Tâm cùng
một nguồn, trong Phật pháp gọi cái nguồn ấy
là Pháp Tánh hoặc là Chân Tánh.
Do đây biết rằng:
Khởi tâm động niệm chẳng thể không cẩn
thận, chớ tưởng động một ác niệm
không sao, không ăn nhằm ǵ, nghĩ như vậy là hoàn
toàn nghĩ sai rồi! Bất luận ư niệm nào,
người hiện tại gọi là “ba động” (dao động, fluctuation), trong
Phật pháp cũng gọi là “ba
động”. Vô minh là ba động, phạm vi của ba
động trọn khắp hư không giới, khắp pháp
giới, tốc độ nhanh chóng! Làn sóng tư
tưởng không phải là làn sóng vật chất. Tốc
độ của sóng vật chất không nhanh; trong
những hiện tượng vật lư, con người
hiện tại đều biết: Tốc độ lan
truyền nhanh nhất là sóng điện từ (electromagnetic
wave) và sóng ánh sáng. Các khoa học gia cũng phát hiện: Trong
vũ trụ c̣n có những tốc độ nhanh hơn
thế nữa, nhưng tốc độ nhanh nhất chính
là sóng tư tưởng, khởi tâm động niệm
trong khoảnh khắc bèn trọn khắp hư không pháp
giới.
Do vậy, chẳng những
trong mỗi niệm làn sóng điện từ ấy
tương ứng với chư Phật Như Lai mà
thậm chí c̣n tương ứng với hết thảy
chúng sanh trong tam đồ, với vô t́nh chúng sanh, “t́nh và vô t́nh, cùng viên măn Chủng
Trí”. Những sóng ấy giống như một cái
lưới, kín mít dày đặc hợp thành một Thể.
Dẫu là một Thể, nhưng có trật tự, không
hỗn loạn tí ti nào. Giống như trong lớp học
của chúng ta, chúng tôi dùng cái pḥng học này để
tỷ dụ vũ trụ, để sánh ví hư không pháp
giới. Chúng ta lấy những ánh đèn trong giảng đường
để tỷ dụ mười pháp giới, hữu t́nh
chúng sanh trong mười pháp giới. Dùng sóng ánh sáng
để tỷ dụ làn sóng tư tưởng khi quư
vị khởi tâm động niệm. Đèn vừa
bật lên, ánh sáng lập tức tỏa khắp giảng
đường. Ánh sáng của mấy chục ngọn
đèn ở nơi đây dung hợp thành một thể, thoạt
nh́n không thể tách rời nhau, nhưng không hỗn loạn
chút nào. V́ sao? Quư vị tắt ngọn đèn nào đi, ánh
sáng của ngọn ấy không c̣n nữa, trọn chẳng
khuấy nhiễu ánh sáng của những ngọn khác.
Sóng tư tưởng vĩnh
viễn chẳng gián đoạn, không giống như những
ngọn đèn của chúng ta, ngọn đèn tắt đi
quả thật không c̣n nữa. Tư tưởng của
hết thảy chúng sanh vĩnh viễn không đoạn, v́
sao? Đây là bản năng của tự tánh, chỉ có
chuyển biến, chứ không thể đoạn. Thiện
biến thành ác, ác biến thành thiện, tịnh biến
thành nhiễm, nhiễm biến thành tịnh; trong ấy có
biến hóa, chứ không bị đoạn, vĩnh viễn
chẳng bị gián đoạn giữa chừng. Tịnh
thiện th́ quả báo thù thắng, nhiễm ác th́ quả báo
rất khổ, lục đạo tam đồ! Hai câu này nêu
rơ ư nghĩa sau đây: Niệm Phật đă từ tâm mà ra
th́ kết nghiệp cũng do tâm mà có. Nghiệp ấy bao
gồm y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp
giới, bao gồm cả Nhất Chân pháp giới, trọn
chẳng tách ĺa nhân quả báo ứng.
Tiếp đó, thiền sư
bảo chúng ta: “Tu du bối
niệm Phật chi tâm, sát na tức kết nghiệp chi
sở” (Tâm nghịch với niệm Phật trong
khoảnh khắc bèn kết nghiệp ngay trong một
sát-na), hai câu này nếu dùng văn Bạch Thoại hiện thời
để nói th́ là: “Quư vị không niệm Phật bèn
tạo nghiệp, Phật hiệu vừa ngưng bèn
lập tức tạo nghiệp mà quư vị chẳng hay chẳng
biết!” Nếu biết, nếu giác ngộ th́ quư vị chính
là người thấu hiểu, khai ngộ. Phàm phu khởi
tâm động niệm nhưng chẳng hay chẳng biết,
chưa hề giác ngộ. Người tu hành thông qua
huấn luyện, dẫu chúng ta ở nhà đọc kinh một
ḿnh th́ đọc kinh cũng là thông qua huấn luyện,
học tập từ kinh điển. Quư vị học
được điều ǵ? Thực sự học
được th́ sẽ giác ngộ! Điều giác
ngộ đầu tiên: Ta không niệm Phật sẽ
tạo nghiệp! V́ sao? Không niệm Phật th́ những
chủng tử tập khí trong A Lại Da Thức sẽ
hiện hành, chúng ta thường gọi là “khởi vọng
tưởng”. Quư vị không niệm Phật ắt khởi
vọng tưởng, khởi vọng tưởng là
kết nghiệp, tạo nghiệp.
Đây là lư do tại sao các
vị Bồ Tát, tổ sư, đại đức đau
ḷng rát miệng khuyên dạy chúng ta “tịnh niệm tiếp nối”. Giác Minh Diệu
Hạnh Bồ Tát dạy chúng ta: “Không
hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, v́ sao không
gián đoạn? Vừa gián đoạn bèn tạo
nghiệp, vừa gián đoạn bèn suy nghĩ lung tung. Những
ǵ quư vị tưởng nghĩ đến chắc chắn
là luân hồi, cái “tưởng” ấy là tâm luân hồi. Tâm
luân hồi tạo nghiệp luân hồi, luân hồi kiên
cố, quyết định không ra khỏi luân hồi,
phiền phức là đây! Nếu chúng ta muốn thoát
khỏi luân hồi ngay trong một đời này, văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ quư vị chẳng
thể không tôn trọng những giáo huấn ấy của
cổ đức, chẳng thể không phụng hành!
Đấy chính là tịnh niệm tiếp nối!
Chỉ có tịnh niệm tiếp
nối, trong một đời này quư vị mới ngóc
đầu lên được. Ai nấy đều luân
hồi lục đạo, quư vị vượt thoát ra,
về Tây Phương Cực Lạc thế giới làm
Phật. C̣n ǵ thù thắng bằng? Quư vị phải
biết điều thù thắng bậc nhất khôn sánh này!
Hai câu này hết sức trọng yếu, hăy nên chép thành
một tấm giấy nhỏ, dán trước chỗ ḿnh
ngồi. Ở đây, thiền sư Trung Phong không những
lay tỉnh chúng ta, mà c̣n lay tỉnh cả pháp giới chúng
sanh, do pháp tu này cả âm giới lẫn dương gian
đều được lợi. Ai có thể giác ngộ,
người ấy thành công. Lại xem đoạn khai
thị tiếp theo:
Kim tắc chúng đẳng, y
bằng giáo pháp, tác Tam Thời Hệ Niệm Phật
Sự, sở tập thắng nhân, chuyên vị vong linh
quyết sanh Tịnh Độ.
今則眾等。依憑教法。作三時繫念佛事。所集勝因。專為亡靈決生淨土。
(Nay đại chúng
nương nhờ giáo pháp, làm Tam Thời Hệ Niệm
Phật Sự, tích tập cái nhân thù thắng, chuyên v́ vong
linh quyết định sanh về Tịnh Độ).
Đây là câu nói trở lại,
trở về pháp sự đạo tràng hiện tiền.
Pháp sự này không giống những pháp sự khác, pháp
sự này là tứ chúng đồng tu cùng tham gia. V́ thế,
thường có hơn cả trăm người, thậm
chí có cả mấy trăm người tham gia, quy mô rất
lớn, hết sức trang nghiêm, sức mạnh chẳng
thể nghĩ bàn. Nhóm họp đại chúng chân thành, cung
kính cầu đảo, phát nguyện, sức mạnh ấy
rất lớn. “Y bằng giáo
pháp” (nương nhờ giáo pháp): Giáo pháp là những ǵ
đức Phật đă nói, là giáo huấn của tổ
sư đại đức, thiền sư Trung Phong biên
tập lại, rồi c̣n thêm vào những khai thị
rất tinh vi, đẹp đẽ, chúng ta đều
đă đọc qua. Nay chúng ta cùng nhau làm Phật Sự Tam
Thời Hệ Niệm, “sở
tập thắng nhân” (cái nhân thù thắng được
tụ tập), “thắng” (勝) là thù thắng (殊勝), nói thật ra là nhân duyên thù thắng khôn sánh. “Chuyên v́ vong linh quyết sanh
Tịnh Độ”: Giọng điệu hết sức
khẳng định, không có tí hoài nghi nào. Đây là cầu
nguyện, chúng ta làm Phật sự này v́ lư do sau đây:
Người đă khuất sanh về Tịnh Độ,
chúng ta gởi họ về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, đưa một phàm phu đi thành
Phật.
Quư vị nghĩ xem: Trong
thế gian này công đức nào có thể sánh bằng!
Đại Từ Bồ Tát nói: Trong một đời, nếu
quư vị có thể giúp cho hai người văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới th́ công
đức ấy c̣n trội hơn công đức do chính
ḿnh suốt đời tu hành. Lời Bồ Tát dạy là thật,
không giả đâu, toàn là sự thật. Nay qua pháp sự
Hệ Niệm, chúng ta đưa một người văng
sanh thành Phật, nhiều người cùng làm th́ ta cũng
được một phần! Đấy chính là nguyện
“tùy hỷ công đức”
trong mười nguyện Phổ Hiền. Tùy hỷ công
đức chẳng thể nghĩ bàn, b́nh đẳng
với công đức của người chủ tu pháp
sự, không hai, không khác.
Giống như buổi tối chúng ta
đốt đèn, thắp nến, những cây nến to
như nhau. Người chủ tu pháp sự thắp sáng nến
rồi, chúng ta là người tùy hỷ chưa đốt
nến, nhưng nến của người ta đă
đốt sáng rồi, đem cây nến của ḿnh châm vào
đó, cũng được hưởng ánh sáng, đó là
tùy hỷ. Giống hệt như chính ḿnh tự đốt
nến, ánh sáng của ḿnh và ánh sáng của người giống
như nhau, quyết chẳng khác biệt. Ánh sáng của
người ta rất sáng, ánh sáng của ḿnh kém hơn
một chút ư? Không có chuyện đó! B́nh đẳng! Nêu
lên tỷ dụ này, ắt quư vị sẽ hiểu công
đức tùy hỷ và công đức của người chủ
tu b́nh đẳng, nhưng công đức của
người chủ tu ấy chẳng bị giảm
thiểu mảy may nào. Người tùy hỷ càng nhiều,
công đức của người chủ tu càng lớn. “Lớn”
là ǵ? Quang minh càng chiếu sáng rực rỡ. Mấy trăm
ngọn nến, mấy ngàn ngọn nến cùng thắp lên,
giảng đường này sáng choang! Ánh sáng chiếu
lẫn nhau, đan dệt vào nhau như lưới ánh sáng!
Quư vị hiểu ư nghĩa này bèn
hiểu những làn sóng tư tưởng do tất cả
hết thảy hữu t́nh chúng sanh phát ra trong khắp pháp
giới, hư không giới sẽ đan xen lẫn nhau thành
mạng lưới. Những tư tưởng nào thanh
tịnh, thuần thiện sẽ tương ứng
với chư Phật, Bồ Tát, những tư tưởng
nào bất tịnh bất thiện sẽ ứng với tam
đồ lục đạo, nhưng đều cùng đan
xen với nhau. Chúng ta phải tự hiểu, phải
tự cứu lấy ḿnh, nhất định phải
tương ứng với Phật, Bồ Tát. Chúng ta
muốn giúp người khác cũng phải tương
ứng với Phật, Bồ Tát. Phải cố h́nh thành
một mạng lưới quang minh thuần thiện
thuần tịnh th́ mới có thể giúp đỡ
những chúng sanh đang ở trong mạng lưới ánh
sáng mà “mê chứ không giác, tà chứ không chánh, nhiễm
chứ không tịnh”, dần dần giúp cho họ giác
ngộ, giúp họ quay đầu lại.
Dẫu cho hiện tại đang mê
rất sâu, mê rất nặng cũng không sao, chúng ta phải
tự ḿnh nghiêm túc nỗ lực thực hiện, tu
thuần tịnh, thuần thiện, nhất định
phải có thành tích tốt, làm gương tốt cho
người khác nh́n vào. Họ tạo tác chuyện bất
thiện, phải gánh chịu quả báo bất thiện, hứng
chịu mọi nỗi khổ xong, sẽ dần dần
giác ngộ. V́ sao người nọ suốt đời
khổ như thế, v́ sao người kia cả
đời sung sướng như thế, đối
với những điều ấy họ sẽ dần
dần giác ngộ. Trong quá khứ, tôi sống ở Cựu
Kim Sơn (San Francisco), Hoa Kỳ, chúng tôi cũng sống
tại một thành phố nhỏ, sống ở đó chừng
hơn nửa năm, dần dần quen biết những
người sống quanh đó. Trong ngôi nhà tôi ở có
mấy người xuất gia trẻ tuổi, những
người ấy gặp rồi bèn hỏi han: “Quư vị
từ đâu tới? Quư vị làm nghề ǵ? V́ sao quư
vị sung sướng như vậy?” Họ đều
thấy rơ: Bất luận gặp chúng tôi ở đâu,
mặt mũi chúng tôi đều vui cười, đều
hoan hỷ, đều sung sướng, họ hết
sức ngưỡng mộ, hỏi chúng ta làm nghề ǵ?
Do vậy, người học Phật
bất luận xuất gia hay tại gia, chỉ cần
chiếu theo kinh giáo mà tu hành, sửa đổi những
tư tưởng, kiến giải, hành vi sai lầm sẽ
được pháp hỷ sung măn. Bất kể làm việc
ǵ, không ai chẳng tự tại, tâm địa thuần
tịnh, thuần thiện, tịnh sanh trí huệ, thiện
sanh phước đức, quả báo là đại trí,
đại phước, đều là trong một ư niệm
của chính ḿnh, chẳng từ bên ngoài, chẳng cầu
từ bên ngoài được! Nhà Phật dạy mong
cầu th́ phải hướng vào bên trong mà cầu. Hướng
vào bên trong mà cầu chính là sửa tâm, sửa đổi ư
niệm, sửa đổi hành vi, quả báo thù thắng
chẳng thể không hiện tiền! Chỉ có bậc
đại đức trong Phật môn th́ giọng
điệu mới kiên định như thế: “Chuyên
v́ vong linh cầu sanh Tịnh Độ!”
Tự kim giới
hương phức úc, huệ cự huỳnh hoàng, mê vân
khai nhi tánh thiên độc lăng, vọng trần tận nhi
tâm địa khuếch thông.
自今戒香馥郁。慧炬熒煌。迷雲開而性天獨朗。妄塵盡而心地廓通。
(Từ nay giới hương ngào
ngạt, đuốc huệ chói ḷa, tan mây mê, bầu
trời tánh đức riêng rạng ngời, sạch hết
bụi vọng tưởng, cơi ḷng thông suốt).
Đến đây là một
đoạn nữa. Từ ngữ “phức úc” diễn
tả khói hương xông khắp, h́nh dung mây hương
cuồn cuộn, mùi hương bủa khắp.
Hương ǵ vậy? Giới hương! Phật pháp nói “ngũ
phận Pháp Thân hương”; ở đây gọi là “mùi
hương”, người hiện tại gọi là Từ
Trường, người Hoa gọi là Khí Phận, hoàn toàn không
phải là đốt hương thực sự. Khí
chất, khí phận tự nhiên có thể cảm
động con người, tŕ giới tu định có trí
huệ.
Ngũ phận Pháp Thân: “Ngũ phận” (năm phần)
là Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, và Giải
Thoát Tri Kiến. Nói như cách bây giờ th́ “giải thoát” là
“tự tại”, Giải Thoát Tri Kiến là kiến giải
tự tại, tư duy tự tại. Kiến giải và
tư duy của người ấy hết sức tự
tại. Quư vị nghĩ xem: Trong ấy c̣n có phiền năo,
ưu lự hay chăng? Chẳng những không có mà cội
rễ của phiền năo ưu lự, cái cội rễ
chung của chúng chính là vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước cũng không có! Không có vọng
tưởng, không có phân biệt, không có chấp
trước; dùng phương pháp nào để đạt
đến cảnh giới ấy? Niệm Phật. “Tịnh
niệm tiếp nối”, dùng phương pháp ấy
để làm. Chúng ta phải nhớ kỹ, chúng ta phải
học. Hợp ư nghĩa này với ư nghĩa trong phần
trước th́ có nghĩa là tŕ giới niệm Phật.
“Huệ cự huỳnh hoàng”
(đuốc huệ chói ḷa), chữ “huỳnh hoàng” (熒煌) có nghĩa là tỏa sáng. Đây là nói
về trí huệ, ánh sáng trí huệ hiển hiện nơi
sáu căn phóng quang động cơi đất, dẫu kẻ
ngu cũng cảm nhận được, họ cảm nhận
được từ nơi thân quư vị. Họ cảm
nhận điều ǵ? Ḷng từ bi và nhân từ của quư
vị. Tuy họ không nói ra, nhưng họ cảm nhận sự
nhân từ, cảm thấy rất an toàn, rất hoan hỷ,
họ cảm nhận được những điều đó.
Có một năm, tôi giảng kinh tại
- Ông nghe không hiểu, v́ sao mỗi buổi
đều đến?
Họ nói:
- Từ trường nơi đây
rất tốt, tôi thích từ trường nơi này.
Họ nói trong hai tiếng đồng
hồ ấy, từ trường đặc biệt
thư thả, thoải mái nên họ đến
hưởng thụ! Lúc không giảng kinh, từ trường
nơi giảng đường ấy khác hẳn, khác
nhiều lắm. Những người ấy thường
tu tịnh tọa, tâm địa thanh tịnh, cảm
ứng phải linh mẫn hơn những người
thường. Những người b́nh thường, do tâm
ư thô tháp, hời hợt nên chẳng dễ ǵ cảm
nhận được, chứ họ cảm nhận
được.
Trí huệ quang minh! Hai câu tám
chữ này giảng về công phu tu hành đắc lực.
Công phu đắc lực không có ǵ khác cả, trường thời
huân tu! Phải huân tu bao lâu? Tôi thường bảo các
đồng học: “Nếu thực sự làm, ba tháng bèn
thấy hiệu quả!” Quư vị tu đă lâu như
thế mà vẫn phí uổng thời gian, [là v́] từ
trước đến nay chưa từng vận dụng công
phu tu ba tháng này! Nếu quả thật có thể trong ba tháng,
thực hiện được chuyện “tịnh
niệm tiếp nối”, ngoại trừ những lúc
ngủ nghê ra, c̣n những lúc tỉnh thức trong tâm luôn có
Phật hiệu, nhớ Phật, niệm Phật, chẳng
xen tạp, chẳng gián đoạn, đương nhiên
cũng không thể hoài nghi. Quư vị miên miên mật mật
như thế nhưng không trở ngại công việc, pháp
môn này thù thắng ở chỗ này! Hết sức thích
hợp cho con người hiện thời, hiện tại
công việc bề bộn, pháp môn này chẳng trở
ngại công việc. Nếu công việc của quư vị
đ̣i hỏi phải suy nghĩ th́ có trở ngại. Công việc
không phải dùng đến trí óc th́ không có chút trở
ngại nào cả.
Quư vị hăy nghĩ đến
pháp sư Tu Vô văng sanh ở chùa Cực Lạc tại Cáp
Nhĩ Tân (
V́ sao? “Tu du bối niệm Phật chi
tâm, sát-na tức kết nghiệp chi sở” (Tâm trái nghịch với niệm
Phật trong khoảnh khắc, trong khoảng sát-na
nghiệp bèn kết). Phật hiệu chẳng
được gián đoạn. Vừa mới gián
đoạn th́ vọng tưởng, tạp niệm
khởi lên ngay, tạo nghiệp rồi! Do vậy, công
việc vừa buông xuống, Phật hiệu phải
khởi lên ngay. Một ngày từ sáng đến tối miên
miên mật mật công phu như thế th́ công phu mới
đắc lực. Hiệu quả sẽ hiện tiền
trong ba tháng, sáu tháng bèn sanh tâm hoan hỷ; chỉ cần
giữ được măi như thế, sẽ quyết
định sanh về Tịnh Độ. Điều này
hoàn toàn giống với những ǵ Từ Vân đại
sư đă nói: “Lâm mạng chung thời, dự tri thời
chí, thân vô bệnh khổ, như nhập Thiền Định”
(lúc mạng sắp
hết, biết trước lúc mất, thân không bệnh
khổ, như nhập Thiền Định). Công phu
như vậy không cần người khác trợ niệm,
tự ḿnh hoàn toàn làm chủ. Trong đoạn khai thị
cuối cùng này, Ngài đặc biệt cảnh tỉnh chúng
ta phải tŕ giới niệm Phật. Người thực
sự giác ngộ, thực sự có trí huệ, có
phước báo sẽ tu năm phần Pháp Thân hương
cho chính ḿnh, phải thực sự tu tập ngay trong lúc này!
“Mê vân khai nhi tánh thiên
độc lăng” (Tan mây mê, bầu trời tánh đức
riêng rạng ngời): Thành tựu rồi, phá mê khai ngộ;
câu này nghĩa là phá mê khai ngộ. “Vọng trần
tận nhi tâm địa khuếch thông” (hết sạch bụi trần,
tâm địa thông suốt): Ư nghĩa của hai câu này
là phá mê khai ngộ. “Mê vân” là vô minh phiền năo, “mê
vân khai” là phá vô minh, chỉ phá một phẩm cũng
được. Phá một phẩm vô minh thấy
được một phần Chân Tánh, v́ thế, “tánh
thiên độc lăng” (bầu
trời tánh đức riêng rạng ngời). Lúc
ấy, quư vị và hết thảy chư Phật Như Lai
là Đồng Sanh Tánh, quư vị thực sự thành
Phật. Trong Lục Tức Phật như Thiên Thai
đại sư đă giảng, quư vị thuộc địa
vị Phần Chứng Tức Phật. Quư vị sanh
về đâu? Quư vị có ước
nguyện văng sanh Tịnh Độ bèn sanh vào cơi Thật Báo
Trang Nghiêm của Tịnh Độ, không phải
Đồng Cư Độ, không phải Phương
Tiện Độ, mà sanh vào Thật Báo Trang Nghiêm Độ.
Nếu quư vị không niệm Phật văng sanh thế
giới Cực Lạc bèn sanh vào thế giới Hoa
Tạng, v́ sao? Phá một phẩm vô minh chính là Sơ Trụ
Bồ Tát trong Viên Giáo, quư vị đă là Pháp Thân Bồ Tát,
đă vượt khỏi mười pháp giới.
“Vọng trần tận”:
Vọng trần là Kiến Tư phiền năo, Trần Sa
phiền năo, Vô minh phiền năo, đoạn sạch hết
cả th́ “tâm địa
khuếch thông” (tâm địa mở rộng, thông
suốt), “khuếch” (廓) có nghĩa là mở lớn, thông
suốt. Trong Phật môn gọi là đại triệt
đại ngộ. Câu trước là minh tâm kiến tánh, câu
sau là đại triệt đại ngộ. Dù kiến tánh,
triệt ngộ, nhưng vẫn là tánh đức của
quư vị sẵn có, vẫn là đức năng vốn
sẵn đủ trong trí huệ, chẳng do bên ngoài mà có.
Nói cách khác, khôi phục trí huệ và đức năng
nơi tự tánh mà thôi! Phải biết chân tướng
sự thật này. Trong những bộ kinh lớn,
đức Phật gọi là quy vô sở đắc: “Viên
măn Bồ Đề, quy vô sở đắc” (Viên măn
Bồ Đề, trở về chỗ không có ǵ để đạt
được). Toàn là những thứ vốn sẵn có
trong tự tánh, trước kia bị mây mê hoặc che
phủ, bị vọng trần chướng ngại, nay xé
toạc mây mê, vọng trần hết sạch (vọng
trần là phiền năo, tập khí), thảy đều
đoạn hết, phá mê khai ngộ.
Cảnh giới ấy là
cảnh giới của Pháp Thân Bồ Tát. Nói thật ra,
chúng ta suốt đời này nỗ lực tu, chưa
chắc đă đạt được; nhưng chúng ta
chẳng cần bận tâm trong đời này ḿnh có thể
đạt đến mức độ ấy hay không, tu là
phải thực sự thực hiện, dẫu không
đạt cũng phải thực sự thực hiện. Cách thực hiện như thế nào? Tŕ
giới niệm Phật! Đạt chưa được
tiêu chuẩn trên đây (tức “minh tâm kiến tánh,
đại triệt đại ngộ”) th́ Phàm Thánh
Đồng Cư Độ là chuyện khẳng
định, không hoài nghi chút nào. Thật Báo Trang Nghiêm Độ
là bậc thượng: Thượng Thượng Phẩm
văng sanh. Chúng ta phải nỗ lực, phải biến
việc này thành đại sự bậc nhất mà suốt
cuộc đời này ta phải lo liệu, những
chuyện khác đều là chuyện nhỏ nhặt! Nay
chúng ta tự ḿnh giác ngộ, hiểu rơ rồi, chúng ta khuyên
bảo người khác, trước hết là chính ḿnh. Khuyên
người khác, người ta làm được, tự
ḿnh không làm được, mất mặt lắm! Tự
ḿnh phải hết sức nghiêm cẩn nỗ lực hành tŕ,
trọn chẳng thể rớt lại sau người khác!
Tŕ giới niệm Phật
khởi đầu từ đâu? Tôi thường nhắc
nhở các đồng học, v́ sao cứ phải
thường nhắc nhở? V́ quư vị chưa làm
được, chưa giác ngộ. Dù có làm được,
giác ngộ rồi th́ cũng phải thường xuyên
nhắc nhở, v́ sao? Quư vị có thể bị thoái
chuyển. Quư vị gặp phải nghịch duyên,
đụng phải nghịch cảnh bèn thoái chuyển, trí
huệ không mở mang được, định lực
không thành tựu. Hằng ngày phải nhắc nhở! Do
vậy, mọi người cùng ở một chỗ tu hành
cũng có cái lợi, đó gọi là “nương theo
chúng, dựa vào chúng”, hằng ngày nhắc nhở lẫn
nhau. Quư vị tách rời đoàn thể ấy, một
tuần sau quư vị sẽ khôi phục [những phiền
năo, tập khí] giống hệt như trước [khi quư vị
tu tập], bảo đảm là lui sụt, có người
bị lui sụt với một mức độ khá
lớn. V́ sao những kẻ sơ học chúng ta chẳng
dám ĺa thầy, đạo lư là này! Chỗ đặt chân
chưa ổn!
Khi xưa, tôi cầu học
với thầy Lư mười năm. Không có thời gian
cầu học lâu dài ấy, bản thân tôi phiền năo
tập khí rất nặng, sức dụ hoặc bên ngoài
mạnh mẽ, lớn lao, chẳng dễ ǵ chống
cự nổi. Chỉ có một phương pháp là thân
cận thầy, chẳng rời khỏi thầy, ngày ngày
được thầy răn dạy. Nay chúng ta
được thừa hưởng khoa học kỹ
thuật cao, rất nhiều đồng học xa xôi dù
không thể tụ tập cùng một chỗ, nhưng
mỗi ngày qua làn sóng truyền thông, mọi người có
thể gặp gỡ nhau qua máy truyền h́nh, qua mạng
Internet, mỗi ngày chúng ta đều có bốn tiếng
đồng hồ cùng nhau học tập. Bốn tiếng
đồng hồ không nhiều nhặn ǵ, nhưng nếu thực
sự tận dụng, hằng ngày chẳng khuyết, chúng
tôi tin là có lợi rất lớn cho người tu hành.
Điều này cũng cho thấy v́ sao học sinh không
thể vắng mặt một buổi học nào,
đạo lư là ở chỗ này. Vắng một buổi học
sẽ bị đào thải, không theo kịp; cũng
phải có trí huệ và phước đức th́ mới
nhận thức rơ ràng cơ hội. Cơ hội đúng là
“thiên tải nan phùng” (ngàn
năm khó gặp).
Nói thật ra, “thiên tải”
thời gian đâu có lâu, một ngàn năm thôi! Nhà Phật
thường nói là “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”
(trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ). Ông Bành Tế
Thanh nói là “Một ngày khó
được gặp từ vô lượng kiếp
đến nay”, mấy ai hiểu được câu nói
này? Nếu thực sự hiểu được, há có buông
bỏ cơ hội này hay chăng? Chắc chắn không chịu
buông bỏ. Có được một cơ hội tốt
như thế để un đúc, mọi người ở
cùng một chỗ tu hành, khuyến khích lẫn nhau, nhắc
nhở, cảnh tỉnh lẫn nhau, chiếu cố lẫn
nhau, đúng là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng trong
thời Mạt Pháp thành tựu được pháp môn
Bất Nhị trong một đời!
Những ǵ Ấn Quang
đại sư dạy, chúng ta phải nghiêm túc học
tập, lời giáo huấn của Ngài quả thật
nhắm vào thời đại Mạt Pháp, có thể giữ
cho chúng ta không bị ô nhiễm, không bị ảnh
hưởng, thành tựu tịnh nghiệp ổn thỏa
thích đáng, văng sanh Tịnh Độ. Quư vị không tuân
thủ giáo huấn của Ngài, cho là vẫn có
đường lối khác, th́ là lầm mất rồi.
Vẫn phải từ tổng nguyên tắc và tổng
cương lănh do Ngài đă dạy mà thực hiện. Lăo
nhân gia dạy cho chúng ta tổng cương lănh, tổng
nguyên tắc, tổng phương hướng, tổng
mục tiêu: “Đôn luân, tận
phận, nhàn tà, tồn thành, tín nguyện tŕ danh, cầu sanh
Tịnh Độ” (Giữ vẹn luân thường, tận
hết trách nhiệm, ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, tín nguyện
tŕ danh, cầu sanh Tịnh Độ). Đấy là
tổng cương lănh, tổng nguyên tắc. “Đôn luân, tận phận” là
tŕ giới, “nhàn tà, tồn thành”
là Định, Huệ. Lấy Giới - Định - Huệ
làm cơ sở, tín nguyện tŕ danh, đấy chính là tín
nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ
vậy. A! Nay đă hết giờ rồi.
*
Xin xem tiếp phần khai
thị tiếp theo của ngài Trung Phong:
Chư căn viên tịnh,
quần nghiệp đốn không. Nhất cử niệm,
nhất hoa khai, ấp lộ nghênh phong, hương phù
ngọc chiểu. Nhất tŕ t́nh, nhất quả thục,
hàm yên đối nhật, ảnh lạc kim viên.
諸根圓淨。群業頓空。一舉念。一華開。挹露迎風。香浮玉沼。一馳情。一果熟。含煙對日。影落金園。
(Các
căn thanh tịnh trọn vẹn, các nghiệp nhanh chóng
rỗng rang. Một niệm khởi lên, một đóa hoa
bèn nở, nhấp sương, đón gió, hương vây ao
ngọc. Một ḷng tŕ
danh, một quả chín muồi, ngậm khói đối
trời, bóng rọi vườn vàng).
Chúng ta xem đến
đoạn này. Đoạn này luận trên mặt Sự,
nói về t́nh h́nh cuộc sống hằng ngày của các
thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Chúng ta thường nói thế
giới ấy tên là Cực Lạc, v́ sao gọi là Cực
Lạc? Kinh Phật đă giảng cặn kẽ cho chúng ta:
Chúng sanh trong thế giới ấy “vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc,
cố danh Cực Lạc” (không có các sự khổ,
chỉ hưởng những sự vui, nên gọi là Cực
Lạc). Chúng ta nghe xong không dễ ǵ hiểu nổi. Hy
hữu thay! Ở đây thiền sư Trung Phong v́ chúng ta
miêu tả cặn kẽ. Trước hết, Ngài bảo
chúng ta: “
Như trong những phần trên
đă nói: Hoặc Chướng, Nghiệp Chướng, Báo
Chướng; Nghiệp Chướng nhanh chóng rỗng không,
đương nhiên Hoặc Chướng và Báo
Chướng đều rỗng không. Nói cách khác, không
những nghiệp báo trong lục đạo tam đồ
trống không, mà nghiệp báo trong bốn thánh pháp giới
cũng trống không. Nghiệp trong lục đạo
mười pháp giới đều không có, đều tiêu.
Tiêu bằng cách nào chúng ta phải biết! Tŕ giới
niệm Phật, “đô nhiếp
lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Dùng
phương pháp ấy để tiêu, dùng phương pháp
ấy để thành tựu năm phần Pháp Thân, thành
tựu phá mê khai ngộ. “Chư
căn viên tịnh, quần nghiệp đốn không” (các
căn thanh tịnh trọn vẹn, các nghiệp nhanh chóng
rỗng rang), câu này đă hiển thị một cách viên măn
quả báo do sự tu học của quư vị.
Tiếp đó, chúng ta hăy xem
đến t́nh trạng tu học và sinh hoạt trong thế
giới Cực Lạc: “Nhất
cử niệm, nhất hoa khai” (Một niệm khởi
lên, một đóa hoa bèn nở). Hoa và quả tượng trưng
cho hoàn cảnh y báo tốt đẹp nơi Tây
Phương Cực Lạc thế giới, người
thế gian chúng ta luôn hướng về chân thiện
mỹ huệ. Nói thật ra, trong thế gian này, bốn
chữ ấy chỉ hữu danh vô thực, Tây Phương
Cực Lạc thế giới là “chân thiện mỹ
huệ” danh phù hợp với thực. “Nhất cử niệm, nhất hoa khai” là sao? Hoa
sen trong ao bảy báu là do người trong mười
phương thế giới phát nguyện văng sanh, từ tín
nguyện phát sanh, biến hiện ra. Quư vị thấy chúng
không phải là duy thức sở biến, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến” đó
sao? Quư vị có ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha th́ hoa
nở rất tươi đẹp! Nay trong mỗi
tiếng Phật hiệu của chúng ta đều có
đủ “ḷng tin chân thành, nguyện thiết tha” th́ chúng ta
biết trong ao bảy báu nơi Tây Phương thế
giới có một đóa sen, hoa ấy do Thức của chính
ḿnh biến ra. V́ thế, “nhất
cử niệm, nhất hoa khai”.
“Ấp
lộ nghênh phong” (nhấp sương, đón gió): Nghĩa
là hoa nở chứa đầy sương đọng, lay
động theo cơn gió nhẹ. Quư vị nghĩ
đến ư cảnh ấy, hồn thơ lai láng. Hoa ấy
chính là chỗ sanh về, là trụ xứ, là chỗ
để tu hành trong tương lai của
người niệm Phật. Hoa nở thấy Phật th́
không phải là cơi Đồng Cư nữa, cũng không
phải là cơi Phương Tiện, mà là Thật Báo Trang
Nghiêm Độ! Nói đến Đồng Cư Độ
hay Phương Tiện Độ đều là ở trong
hoa sen. Trong hoa có thế giới, chẳng thể nghĩ
bàn! Nay tôi thuật cùng các đồng học, tin
rằng mọi người hiểu được rất
dễ dàng, v́ sao? Hoa sen to dường ấy, trong hoa sen có
đại thế giới, c̣n có vấn đề ǵ hay chăng?
Kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần có thế giới, vi trần
quá nhỏ, chúng ta mắt thịt không thể nh́n thấy.
Thế giới trong vi trần to bằng thế giới bên
ngoài, thế giới bên ngoài không rút nhỏ, thế giới
trong vi trần trọn chẳng phóng đại, hoàn toàn
giống nhau. Đạo lư ǵ vậy? Đức năng
của Pháp Tánh vốn dĩ là như vậy. Trong Pháp Tánh
không có lớn hay nhỏ. Nói gọn một câu: Vĩnh
viễn không có đối lập. Pháp Tánh là như vậy
đó!
Nay chúng ta mê, mê rồi th́ sao? Chỗ
nào cũng là đối lập. Hễ đối lập
bèn trở thành chướng ngại, quư vị nh́n không ra.
V́ thế chúng ta muốn hồi phục tự tánh – tự
tánh là pháp giới không chướng ngại – th́
trước hết phải bắt đầu từ trong
tâm: Phải đoạn trừ mọi quan niệm
đối lập mà ta đang có đối với tất
cả hết thảy người, sự, vật. Không
đoạn những ư niệm ấy, sẽ vĩnh
viễn sanh ra chướng ngại, chướng ngại
hết sức nghiêm trọng. Thế giới trong hoa sen và
thế giới trọn khắp pháp giới, hư không
giới to như nhau; bản thân quư vị thực sự
sanh trong hoa sen, nhưng không biết ḿnh đang ở trong
hoa sen! Kinh Hoa Nghiêm gọi cảnh giới ấy là “bất khả tư nghị giải
thoát cảnh giới” (cảnh giới giải thoát
chẳng thể nghĩ bàn)!
Ngày nào đó hoa nở,
đến lúc nào hoa sẽ nở? Khi quư vị phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, hoa bèn
nở. Hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh, thành Vô Sanh
Pháp Nhẫn Bồ Tát. Vô Sanh Pháp Nhẫn thực sự là A Duy
Việt Trí – A Duy Việt Trí do chính quư vị tự tu thành, chứ
không phải do bổn nguyện và oai thần của A Di
Đà Phật gia tŕ! Được bổn nguyện và oai
thần gia tŕ th́ quư vị rất giống với A Duy
Việt Trí, nhưng hoa sen chưa nở. Dù hoa chưa
nở, quư vị vẫn có thể đến hết
thảy các cơi Phật trong mười phương thế
giới để cúng Phật, nghe pháp, trên cầu Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh, quyết
định chẳng bị chướng ngại. Thật
ra, vẫn có chướng ngại, chướng ngại
ở chỗ nào? Không vào được thế giới
trong vi trần!
Đọc kinh Hoa Nghiêm, chúng ta
thấy đến lúc nào mới có thể khế nhập
thế giới trong vi trần? (Đấy là nói đối
với pháp giới trùng trùng vô tận biến huyễn
từ tự tánh, một mảy chướng ngại quư
vị cũng không có ). Phổ Hiền Bồ Tát nhập
được! Vị Phổ Hiền ấy là “đương
vị Phổ Hiền”[18],
tức là bậc Đẳng Giác. Đạt đến
địa vị Đẳng Giác Phổ Hiền Bồ Tát,
đúng là hết thảy chướng ngại không c̣n
nữa! Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Đây
chính là phương hướng và mục tiêu nỗ lực
của chúng ta, những ǵ khác đều là giả, chẳng
thật. Đừng nói chi nhân gian, cơi trời cũng chẳng
thật. Đừng nói ǵ lục đạo, ngay cả
bốn pháp giới cũng không thật. Phật gọi
những nơi ấy là “hóa
thành” (cái thành được biến hóa ra)[19],
là trạm nghỉ dọc đường cho người
tu hành. Mục tiêu của chúng ta phải là Nhất Chân pháp
giới, phải đặt mục tiêu nơi Tây
Phương Tịnh Độ. Do vậy, “nhất cử niệm, nhất hoa khai” (một
niệm vừa khởi, một đóa hoa bèn nở).
Cảnh giới ấy hết sức rộng lớn.
“Ấp lộ
nghênh phong” (nếm sương,
đón gió), Ấp (挹) có nghĩa là chuốc chén. Văn nhân,
thi nhân bên hoa dưới trăng mấy kẻ chí
đồng đạo hợp thưởng trăng,
tiểu chước (小酌: nhâm nhi).
Người thế gian chúng ta “tiểu
chước” thường không phải bằng
rượu mà là trà. Quư vị thấy người ta không
nhấp trà mà nếm sương móc, nhấp cam lộ hóng
gió. “Hương phù ngọc
chiểu” (Ao ngọc tỏa hương): Ao ngọc
chỉ ao sen bảy báu. Dùng ngọc [để tả cái ao]
v́ ngọc là chất báu, ao báu nước tám công đức
mà! Đấy chính là cuộc sống thường nhật
của cư dân Tây Phương Cực Lạc thế
giới, quư vị nghĩ xem tốt đẹp đến như
vậy, bọn họ thanh nhàn như thế đấy, rất
tự tại, phước báo lớn lắm! Không cần làm
lụng, không cần phải ngày ngày kiếm sống, ăn
mặc hết thảy đều thọ dụng tự
nhiên. Nghĩ đến thứ ǵ, thứ ấy đều
hiện hữu; như trong kinh điển đă nói: Nghĩ
đến ăn, [người ấy tự nhủ] dường
như đă lâu ta chưa ăn ǵ, vừa động niệm
th́ đầy bàn những món ăn ngon lành bầy ra trước
mặt, tự nhiên hiện ra. Biến hóa cả
đấy! Chẳng cần phải tốn sức nấu
nướng. Chén bát đều bằng bảy báu, bày ra
trước mặt. Vừa nghĩ ta nay đă là
người của Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chẳng phải là lục đạo phàm phu, c̣n
ăn uống ǵ nữa! Ư niệm ấy vừa
động, tất cả hết thảy cỗ bàn không c̣n
nữa, không cần phải thu dọn, cũng không phải
rửa chén đũa, không có điều ǵ chẳng
thuận ḷng mong muốn, biến hóa thọ dụng. Quư
vị nói có phải là rất tự tại hay chăng?
Nhà cửa của họ
sạch sẽ chẳng nhiễm mảy trần, chẳng
cần đến nhà kho. Ư niệm vừa nghĩ
đến y phục, y phục đă mặc trên thân,
chẳng cần phải may cắt, chẳng cần
phải thâu thập. Bất luận du hành đến
nơi nào trong mười phương, cúng Phật, nghe
pháp, chẳng cần phải mang theo thứ ǵ cả. Nay
chúng ta du hành vẫn phải mang theo hành lư, rất cồng
kềnh, rất mệt người, người ta không
cần. Đến chỗ nào, nghĩ muốn cúng Phật,
những vật cúng đều thuận theo ư niệm mà hiện
tiền. Nếu không hiểu rơ cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn này, chúng ta không có cách ǵ tưởng
tượng được nổi. V́ thế, nếu nói
chuyện này với hàng sơ học hoặc những
kẻ không học Phật, họ bèn nói: “Bọn ngươi
đang nằm mộng, thế gian lẽ nào có chuyện
ấy, các ngươi đều bị Thích Ca Mâu Ni
Phật lường gạt rồi!” Họ bảo chúng ta
ngu si, chê chúng ta mê tín, c̣n họ thông minh. Chúng ta tin
tưởng những chuyện ấy là thật, chẳng
giả một chút nào. Luận trên mặt lư luận rất
thông suốt, quả thật hết thảy mọi pháp
đều do tâm hiện thức biến.
Các nhà khoa học hiện thời đă
chứng minh: Hết thảy vạn vật đều có
linh tánh như kinh Phật đă dạy “nhân tâm mà thành Thể”, tâm là Pháp Tánh. Đức
năng của Pháp Tánh, bản năng của Pháp Tánh là
thấy - nghe - hay - biết; nó có thể thấy, có thể
nghe, có thể cảm nhận, có thể biết.
Động vật như thế, thực vật cũng
vậy, khoáng vật cũng chẳng ngoại lệ. “Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch
điểm đầu” (Ngài Đạo Sanh thuyết
pháp, đá cũng gật đầu). Câu này cho thấy
đá có linh tánh, “nhân tâm mà thành
Thể”, những điều nói trong kinh Phật đă
được chứng minh.
Cảm ứng đạo giao
chẳng thể nghĩ bàn. Nay chúng ta đánh mất năng
lực này, đánh mất đă quá lâu. V́ vậy, nghe nói
những chuyện ấy cảm thấy rất quái lạ,
chẳng thể nghĩ bàn! Qua một thời gian
được huân tu bằng kinh giáo, chúng ta sẽ dần
dần lănh ngộ, biết những chuyện này không
giả, có thể thí nghiệm trong cuộc sống
thường nhật của chính ḿnh. Dùng những
đạo lư và phương pháp đă được giảng
và nói trong kinh luận để làm thí nghiệm. Thí
nghiệm hiển nhiên nhất là đau bệnh có thể
không cần dùng đến thuốc men mà tự nhiên tật
bệnh tiêu trừ, khiến cho những khí quan, tế bào
trên thân thể khôi phục hoạt động b́nh
thường, đấy mới là mạnh khỏe nhất!
Dùng phương pháp nào? Ư niệm! Hết thảy pháp
từ tâm tưởng mà sanh, đây chính là tổng nguyên lư,
nguyên tắc, chớ quên! Hết thảy pháp từ tâm
tưởng mà sanh! Vậy th́ hằng ngày chúng ta có nên
nghĩ đến những khí quan, nghĩ đến
những tế bào hay không? Không cần! Nghĩ như
vậy phiền quá, nhọc nhằn, thừa thăi quá!
Nghĩ đến ǵ? Nghĩ đến thuần thiện,
thuần tịnh, nói cụ thể hơn là “nghĩ đến A Di Đà Phật”. A Di Đà
Phật là thuần thiện thuần tịnh, đừng
nghĩ đến ǵ khác. Có như vậy th́ mới có
thể thành tựu!
Trong kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo, đức Thế Tôn dạy chúng ta: “Thường niệm thiện pháp,
tư duy thiện pháp, quán sát thiện pháp, bất dung hào phân
bất thiện hiệp tạp” (Thường nghĩ tới
thiện pháp, tư duy thiện pháp, quan sát thiện pháp,
chẳng để mảy may bất thiện xen tạp).
Chúng tôi thêm vào “thanh tịnh”. “Tâm
địa thanh tịnh, hành vi thuần thiện,
thường niệm tịnh thiện, tư duy tịnh
thiện, quan sát tịnh thiện, bất dung hào phân bất
tịnh, bất thiện hiệp tạp” (Tâm địa
thanh tịnh, hành vi thuần thiện, thường nghĩ
tới tịnh thiện, tư duy tịnh thiện, quan sát tịnh
thiện, chẳng để mảy may bất tịnh bất
thiện xen tạp), như vậy là đúng. Từ nơi
thân thể và dung mạo, quư vị sẽ được
vẻ mặt tươi sáng, mạnh khỏe, sống lâu!
Chẳng cầu trường thọ mà tự nhiên
được! Cuộc sống đơn giản, ăn
uống đều ít, đấy mới là thực sự
giữ ǵn thanh tịnh, thiện lương, bảo vệ
sức khỏe.
Câu tiếp theo: “Nhất tŕ t́nh, nhất quả thục (Vừa dốc ḷng tŕ danh, quả
đă chín). Nên hiểu “tŕ t́nh” như thế nào?
Chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm nhất ư cầu sanh
Tịnh Độ, đó là “tŕ t́nh”. Chúng ta không có tâm
nguyện nào khác, chỉ là hy vọng văng sanh thế
giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật.
Nếu tâm nguyện ấy chín muồi, quả sẽ là văng
sanh bất thoái thành Phật, một đời thành
tựu! Trong Phật pháp, pháp môn này được gọi
là “pháp môn thành tựu ngay trong một đời” , chẳng
cần đợi đến đời sau, chẳng
cần phải mất nhiều đời nhiều
kiếp, là Phật pháp thành tựu ngay trong đời này.
“Hàm yên đối nhật, ảnh lạc
kim viên” (Ngậm
khói đối trời, ảnh rọi vườn vàng):
Vườn vàng chính là thế giới Cực Lạc, v́ sao
gọi là vườn vàng? Do vàng ṛng làm đất. Hoàn
cảnh cư trụ nơi thế giới Cực Lạc là
hoa viên, như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Tạp hoa trang nghiêm”
(nhiều loại hoa trang nghiêm). “Tạp hoa” nghĩa là
chủng loại nào cũng có, đẹp đẽ khôn
ngằn. Trong hoa viên ấy, chỗ nào cũng là ao báu đựng
nước tám công đức. Đấy chính là hoàn
cảnh sống và hoàn cảnh tu hành của người ta,
là hoàn cảnh thân cận Phật, Bồ Tát.
Qua kinh điển,
đức Thế Tôn giới thiệu cho chúng ta biết:
Người trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới hết sức tự tại, ai thích nghe kinh bèn nghe
kinh, ai thích niệm Phật bèn niệm Phật, thích tham Thiền
bèn tham Thiền, thích học Giáo bèn học Giáo, khoa mục
ǵ cũng có, mặc sức quư vị chọn lựa. Quư
vị thích pháp nào, ngồi nơi đó nghe, ngồi nghe
cũng được, đứng nghe cũng xong, kinh hành,
vừa đi vừa nghe cũng không sao. Nay trong thế gian
này, gần như chúng ta cũng có thể làm
được như thế: Ngồi, đứng, đi
mà nghe. Dùng một cái máy thâu âm hoặc cassette nhỏ, chúng ta
vẫn phải nhờ vào máy móc. Ở Tây Phương
Cực Lạc thế giới không cần! Những ǵ quư
vị nghe được, ví dụ như ta muốn nghe
kinh Hoa Nghiêm, bèn nghe thấy đức Phật đang
giảng kinh Hoa Nghiêm. Ngồi cách vách, hoặc chúng ta
nắm tay nhau đi kinh hành, tôi thích nghe kinh Hoa Nghiêm, tôi bèn
nghe thấy kinh Hoa Nghiêm; quư vị thích nghe kinh Pháp Hoa bèn nghe
thấy kinh Pháp Hoa, không ai phiền nhiễu ai, chẳng
cần phải nhờ đến máy móc nào, tự nhiên!
V́
thế, nếu đem khoa học kỹ thuật hiện
tại so với Tây Phương Cực Lạc thế giới
sẽ thấy cách biệt rất lớn. Trong thế gian
này, đâu đâu cũng phải do sức người;
ở Tây Phương Cực Lạc thế giới là
tự nhiên, Pháp Tánh biến hiện, duy tâm sở hiện
mà! Trong thế gian này của chúng ta, dù khoa học kỹ
thuật phát triển đến đâu đi nữa,
vẫn không phải là tự nhiên, mà là từ đâu? Từ
trong ư thức biến hiện, chẳng phải là Pháp Tánh.
Ư thức biến hiện dẫu xảo diệu, vẫn
thua Pháp Tánh, thua quá xa. Do vậy, khôi phục tánh đức
là chính là mục tiêu duy nhất của người tu hành.
Kinh hành, tọa, ngọa
tại kỳ trung, du hư, tiêu dao phi phận ngoại.
Đắc Phật thọ dụng, triệt pháp nguyên
để.
經行坐臥在其中。遊戲逍遙非分外。得佛受用。徹法源底。
(Kinh hành, ngồi, nằm đều
ở trong ấy, du hư, tiêu dao, chẳng vượt ra ngoài.
Thọ dụng như Phật, thấu triệt cội
nguồn pháp).
Đây
chính là sự tu học của họ, tu hành đều được
thực hiện trong cuộc sống, trong vui chơi,
tợ hồ chẳng thấy họ có vẻ ǵ tu hành, không
giống như chúng ta chấp vào tướng. Thật
đấy, đây chính là điều các vị đại
đức đă nói: “Phật pháp trọng thực
chất, chứ không trọng h́nh thức!” Dường
như Tây Phương Cực Lạc thế giới không
quan tâm đến h́nh thức, dùng công phu bên trong! Thấy
sắc, nghe tiếng đều là tu hành! Thấy sắc
không chấp vào sắc tướng; nghe tiếng không
chấp vào thanh tướng, tu hành nơi đâu? “Phàm sở
hữu tướng, giai thị hư vọng” (Phàm
những ǵ có tướng đều là hư vọng), thành
tựu trí huệ Bát Nhă chân thật. “Nhất thiết pháp
vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”
(hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng
thể được). Dẫu là “du hư tiêu dao”,
nhưng buông xuống vạn duyên, chẳng nhiễm mảy
trần! Bởi thế, bọn họ thực sự tu
hành, thực sự dụng công! Đấy là người
công phu Đại Thừa đắc lực, phải nên
học theo. Như trong kinh Hoa Nghiêm, nh́n vào năm mươi
ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử,
năm mươi ba vị thiện tri thức ấy
đều là Pháp Thân Bồ Tát. Pháp Thân Bồ Tát là nh́n
từ h́nh thức, chứ hầu như trên thực tế
họ đều là chư Phật Như Lai thị hiện
dạy dỗ chúng ta: Bất luận theo đuổi
nghề nghiệp nào cũng đều đại tự
tại!
Trong
thế gian này, chúng ta thường nói kẻ làm nghề
đồ tể, như trong hiện tại mở tiệm
ăn hải sản tươi sống, sát nghiệp
rất nặng, kết oán cừu với chúng sanh, oán
cừu chẳng thể hóa giải được! Oan oan
tương báo chẳng xong. Nếu chúng ta hỏi: Phật,
Bồ Tát có mở quán bán hải sản tươi sống
hay chăng? Có chứ! Ngày ngày giết heo, mổ dê,
Phật, Bồ Tát có tạo tội nghiệp hay chăng?
Không! Những con súc sanh bị giết xong, các Ngài
đều dạy chúng sanh lên trời, dạy chúng nó văng
sanh làm Phật, khác hẳn! Các Ngài dùng cách thức này để
độ chúng sanh. V́ thế, trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta
thấy ai làm những chuyện như vậy? Cam Lộ
Hỏa Vương! Sát sanh không chớp mắt, nhưng giết
một kẻ là độ một kẻ! Đấy là
cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, phàm phu chúng ta
chẳng thể học theo. V́ sao? Chúng ta không có công phu
ấy, không có năng lực ấy. Súc sanh biến vào súc
sanh đạo đều do ác nghiệp chiêu cảm, các Ngài
giết chúng để tiêu nghiệp chướng cho chúng,
đúng là dạy chúng văng sanh thành Phật. Các Ngài thực
sự có bản lănh ấy, phàm phu chúng ta làm không
được.
Thời
cổ cũng có những vị xuất gia như pháp sư
Bảo Hương ở Tứ Xuyên. Ngài sống vào
thời Nam Bắc Triều, cùng một thời với ngài
Bảo Chí Công. Qua truyện kư, chúng ta thấy Ngài cùng
những kẻ tại gia cá to, thịt lớn ǵ cũng
ăn tuốt, chẳng kiêng kỵ tí nào! Ăn xong, Sư đứng
bên ao phóng sanh, há to miệng mửa ra cá sống, thú
sống! Người ta có bản lănh như vậy, không
phải là phàm nhân. Đấy đều là v́ người
khác diễn nói, khuyên con người phải có đức
hiếu sanh. Ăn nó th́ phải cứu nó, chẳng cứu
được th́ chớ có hại nó. Phật pháp xác
thực, quyết định chẳng được trái
nghịch “từ bi làm gốc, phương tiện làm
cửa”, không ǵ chẳng nhằm thành tựu chúng sanh,
quyết định chẳng tổn hại chúng sanh,
quyết định chẳng có chuyện ấy.
Người
học Phật chúng ta phải hiểu ư nghĩa này, càng
phải nên hiểu cách chuyển họa thành phước,
chuyển tai nạn thành cát tường. Chuyển bằng
cách nào? Chuyển nơi ư niệm! Chuyển thành thiện
niệm! Vĩnh viễn không có ác niệm. Gặp phải
kẻ ác hoặc là người ác ư hủy báng ḿnh, hoặc
là hăm hại ḿnh, nhục mạ ḿnh, gặp phải
những trường hợp như thế phải dùng trí
huệ quán sát, đây là ǵ? Đây chính là nghiệp báo
của ḿnh. Trong đời quá khứ ḿnh coi thường
người ta, tổn hại người ta, nay duyên
xảy đến, họ trở lại báo thù ḿnh, oan oan
tương báo! Ta gặp phải [những chuyện ấy]
th́ phải tiếp nhận, hoan hỷ tiếp nhận, tâm không
có chút nóng giận nào, tâm không có chút oán hận nào, tâm không có
chút báo thù nào th́ oán kết ấy sẽ hóa giải, tính
sổ xong, đời sau gặp lại nhau sẽ thành
hảo bằng hữu!
Tâm chẳng
được có mảy may oán hận. Nếu tâm có mảy
may oán hận, có chút tâm báo thù, đời sau phải gặp
lại, vĩnh viễn không thanh toán xong, đôi bên
đều đau khổ! Cớ ǵ cứ phải như
thế? Do vậy, chuyển oán thành thân, hóa địch thành
bạn, đều là trong một ư niệm của chính ḿnh.
Ta lẫn người đều được
phước, ta lẫn người đều mở mang trí
huệ, tốt hơn nhiều lắm! Quư vị nghĩ
xem: Nếu thánh hiền không chỉ dạy chúng ta, làm sao
chúng ta hiểu được đạo lư này? Há có
được trí huệ này? Làm sao có thể giải
quyết vấn đề? Cách này thực sự giải
quyết vấn đề. Do vậy, đối với người
học Phật, quan trọng nhất là hóa giải những
mâu thuẫn trong nội tâm, nhất định hóa giải
những đối lập đối với hết
thảy người, sự vật, vĩnh viễn không có
oán đối, tâm chúng ta sẽ rất ḥa b́nh, rất
tự tại như thế đó! Không phiền năo, không âu
lo, không vướng mắc, không có oan gia đối
đầu!
Chúng ta
không thể khống chế cảnh giới bên ngoài,
nhưng nội tâm của ḿnh th́ khống chế
được. Khống chế nội tâm cho tốt th́ bên
ngoài hoàn toàn bị hóa giải. Giải quyết vấn
đề cũng từ nội tâm, chứ không ở bên
ngoài. Bên ngoài là “cảnh duyên vô hảo xú, hảo xú tại
ư tâm” (cảnh duyên không tốt - xấu, tốt -
xấu bởi nơi tâm). Chúng ta phải chuyển xấu
thành tốt, chuyển ác thành thiện, đều từ
trong nội tâm của chính ḿnh, dốc công phu nơi
khởi tâm động niệm. Sau đấy mới có
thể chân chánh thực hiện được, hiện
tại là có thể đạt đến “kinh hành,
ngồi, nằm” tu tập trong “du hư, tiêu dao”.
Hiện tại đă có thể đạt được,
huống chi là quả báo tương lai? Đương
nhiên quả báo ấy chân thật.
“Đắc
Phật thọ dụng, triệt pháp nguyên để” (Được
thọ dụng như Phật, thấu triệt nguồn
đáy pháp): Nhập cảnh giới Phật, nơi Tây
Phương Cực Lạc thế giới, họ
được thọ dụng cảnh giới của
chư Phật Như Lai, cảnh giới của Pháp Thân
Bồ Tát. Nói cách khác, sống cuộc đời của
chư Phật Như Lai, không sống đời phàm phu.
Cuộc sống tốt đẹp! Quan trọng hơn
nữa, chúng ta làm thế nào để cầu đắc vô
thượng Bồ Đề? Mục tiêu cuối cùng
của chúng ta là phải chứng đắc Phật
quả viên măn rốt ráo, “triệt pháp nguyên để” (thấu
triệt nguồn đáy pháp) há chẳng phải là chứng
đắc hay sao? “Pháp” là hết thảy các pháp; cội
nguồn của hết thảy các pháp, rốt ráo của
hết thảy các pháp. “Triệt” (徹) là chứng
đắc, “triệt chứng” chính là rốt ráo viên
măn Bồ Đề. Địa vị này thấp nhất
là Đẳng Giác Bồ Tát, chứ không phải là
người tầm thường, phải là Đẳng
Giác Phổ Hiền.
Thường Tịch Quang
xứ xứ hiện tiền.
常寂光處處現前。
(Thường Tịch Quang
hiện hữu nơi nơi).
Đây
chính là tánh đức nơi tự tánh hiển lộ viên
măn. Trí huệ viên măn, đức năng viên măn,
tướng hảo viên măn. Thường Tịch Quang bao
gồm cả Tự Tánh Quả Đức! Tự tánh
hiện tiền viên măn, hiện tiền nơi đâu? “Xứ
xứ hiện tiền” (hiện tiền nơi nơi).
Trọn pháp giới, hư không giới, khắp vi trần
cơi nước, chúng ta thường gọi là “nhập
cảnh giới Hoa Nghiêm”.
Đại
nguyện vương trần trần khế hội.
大願王塵塵契會。
(Đại
nguyện vương từng mảy trần khế
hội).
“Đại
nguyện vương” là bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật, điều này hết sức quan
trọng. Chúng ta phải nhớ kỹ: Bốn mươi
tám nguyện, đây là chuyện hàng đầu, phải
nhớ kỹ bốn mươi tám nguyện. Nhớ rồi
phải lư giải; lư luận, sự tướng, cảnh
giới của mỗi nguyện đều phải
hiểu rơ, phân minh, rành mạch. Sau đấy làm thế nào
để áp dụng vào cuộc sống thực tiễn:
“Trần trần khế hội” (khế hội trong
từng mảy trần). Trong hết thảy thời,
hết thảy nơi, sinh hoạt cũng thế, làm
việc cũng thế, giao tiếp cũng thế,
đều có thể thực hiện được. Lúc
ấy, quư vị khế nhập cảnh giới. Sau
đấy quư vị mới hiểu rơ như trong phần
trên thiền sư Trung Phong đă khai thị: “A Di Đà
Phật tức thị ngă tâm, ngă tâm tức thị A Di
Đà Phật” (A Di Đà Phật chính là tâm ta, tâm ta chính
là A Di Đà Phật), “thử phương tức
Tịnh Độ, Tịnh Độ tức thử
phương” (phương này chính là Tịnh Độ,
Tịnh Độ chính là phương này). Thế giới Cực
Lạc ở đâu? Trọn pháp giới, hư không
giới, không chỗ nào chẳng phải là thế giới
Cực Lạc! Trọn pháp giới, hư không giới,
không đâu chẳng là thế giới Hoa Tạng, quư vị
khế nhập “một chính là hết thảy, hết
thảy chính là một”. Cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn bèn hiện tiền.
Lúc
ấy, quư vị lại khởi nghi vấn: Vậy th́
rốt cuộc chúng ta có cần văng sanh về thế
giới Cực Lạc cách đây mười vạn ức
cơi Phật hay không? Cần chứ! Tây Phương Cực
Lạc thế giới ở ngoài mười vạn ức
cơi Phật và thế giới này của chúng ta chẳng
hề xa cách! Hiện tại v́ sao nói đến khoảng
cách? V́ hiện thời quư vị chưa đoạn
phiền năo, vô minh chưa phá! Nói cách khác, chưa buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống
được; do vậy, không gian bèn có khoảng cách,
thời gian bèn có trước - sau. Lúc nào vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước quư vị
đều buông xuống được hết th́ lúc
ấy sẽ nhận thấy không gian chẳng có khoảng
cách, không có xa - gần, thời gian không có trước - sau,
đó là Nhất Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp
giới không có thời gian, không có không gian.
Hiện
thời các khoa học gia phát hiện thời gian và không gian
không xác định: Dưới một t́nh huống nào
đó, thời gian lẫn không gian đều bằng zéro,
cũng có nghĩa là thời gian không có trước - sau,
không gian chẳng có xa - gần, dưới một
điều kiện nào đó! Phật pháp nói rất rơ ràng,
dưới điều kiện nào? Phá vô minh, phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, khi hội
đủ điều kiện này [thời gian và không gian sẽ
bằng không]. Khoa học gia vẫn chưa biết
dưới điều kiện nào? Họ vẫn chưa
hiểu rơ; Phật pháp đă sớm ứng dụng. Do
vậy, quư vị tŕ giới niệm Phật, khéo niệm,
niệm đến công phu thành phiến, quư vị bèn
rất hoan hỷ, v́ sao? Chắc chắn văng sanh. Chắc chắn
văng sanh th́ tốt nhất là đừng nôn nóng, v́ sao? Càng thêm
gia công dụng hạnh, hy vọng từ công phu thành
phiến, [cảnh giới] nâng lên thành Sự nhất tâm
bất loạn. Đạt Sự nhất tâm bất
loạn, lại hy vọng nâng lên thành Lư nhất tâm bất
loạn. Lư nhất tâm bất loạn th́ hoa nở thấy
Phật, Lư nhất tâm bèn phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân.
Nói cách
khác, bản thân quư vị tự biết là thời gian
lẫn không gian chẳng có, người khác không biết!
Quư vị ngồi ở chỗ này, muốn thấy A Di
Đà Phật, A Di Đà Phật bèn hiện tiền.
Muốn thấy quá khứ, vị lai; quá khứ, vị lai
cũng hiện ra trước mặt. Quư vị nhập
cảnh giới ấy, tự ḿnh hiểu rơ ràng, thông
suốt, nói chung, quư vị chẳng bảo cho người
khác biết. V́ sao? Không phải là cảnh giới của
người khác! Quư vị cũng chẳng thể tiết
lậu thiên cơ, dẫu có thấy tai nạn trong
tương lai hay chuyện ǵ trong tương lai cũng
chẳng thể báo cho người khác biết. V́ sao?
Hết thảy chư Phật, Bồ Tát như thế, quư
vị cũng như thế, cũng chẳng thể là
ngoại lệ. Đó là chuyện sau này, nay chúng ta tŕ
giới niệm Phật, dụng công yếu khẩn
hơn! Bây giờ đă hết giờ rồi.
Tập 57
Xin xem
tiếp câu cuối cùng trong phần khai thị của
thiền sư Trung Phong:
Cánh vị
vong linh, chí tâm sám hối phát nguyện.
更為亡靈。至心懺悔發願。
(Lại v́ vong linh, chí tâm sám
hối phát nguyện).
Trong
Pháp Sự này, “sám hối phát nguyện” nhiều
lần, thời gian không dài. Mỗi một thời Pháp
Sự đại khái là hai tiếng, ba thời (thời
thứ nhất, thời thứ hai, thời thứ ba) là sáu
tiếng đồng hồ. Trong sáu tiếng đồng
hồ ấy có tán thán (chúng tôi gọi là lễ kính), cúng
dường, tụng kinh, niệm chú, phát nguyện, sám
hối, khai thị, niệm Phật, hồi hướng
đều là trùng lập không ngừng. Điều này phù
hợp với điều tổ tổ đă truyền: “Thâm
nhập một môn, trường thời huân tu”.
Đoạn sám hối cuối cùng này vẫn dùng bài kệ
Sám Hối của Phổ Hiền Bồ Tát y như cũ.
Chúng tôi đọc bài kệ tụng này, câu cuối cùng không
giống:
36. Sám hối phát nguyện
Văng tích
sở tạo chư ác nghiệp.
Giai
do vô thỉ tham - sân - si,
Tùng
thân ngữ ư chi sở sanh,
Nhất
thiết tội căn giai sám hối.
往昔所造諸惡業。
皆由無始貪瞋痴。
從身語意之所生。
一切罪根皆懺悔。
(Xưa kia trót tạo bao ác
nghiệp,
Đều
do vô thỉ tham - sân - si,
Từ
thân - miệng - ư phát sanh ra,
Hết
thảy tội căn đều sám hối).
Quư
vị thấy trong lần thứ nhất thuộc thời
thứ nhất, câu này là “kim đối Phật tiền cầu
sám hối”. C̣n trong thời thứ ba là “nhất thiết tội căn
giai sám hối”. Từ câu cuối này trong thời thứ ba, ta
thấy rất rơ lần sám hối này càng sâu đậm,
càng chân thành hơn những lần trước. Chúng ta
phải nên học tập điều này. Công phu,
đạo nghiệp phải cầu tinh tấn, chẳng
những tiến bộ mà c̣n phải tinh thuần không
tạp, tiến về phía trước. Trong những
phần trên, tôi đă thưa cùng quư vị: Thiện căn
duy nhất của Bồ Tát là tinh tấn dũng mănh. Trong
bài kệ này, văn tự của câu này có chút biến hóa,
ngụ ư rất sâu, chúng ta chẳng được hàm
hồ niệm lướt qua, như vậy là không
được rồi.
Phát
nguyện cũng khác, trong những phần trên là “chúng
sanh vô biện thệ nguyện độ, phiền năo vô
tận thệ nguyện đoạn”, đến đây
– tức đến thời thứ ba là “tự tánh” –
hết thảy đều quy về tự tánh.
Tự tánh
chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự
tánh phiền năo thệ nguyện đoạn.
Tự
tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự
tánh Phật đạo thệ nguyện thành.
自性眾生誓願度。
自性煩惱誓願斷。
自性法門誓願學。
自性佛道誓願成。
Mối
liên quan giữa hết thảy chúng sanh và chính ḿnh
đến chỗ này mới hoàn toàn tỏ lộ. Trọn
pháp giới, hư không giới, chúng sanh trong vô lượng
vô biên cơi nước đều do tự tánh hiện,
tự tánh biến, chứ không phải do người ngoài.
Ư nghĩa này quá sâu xa! Hiểu được đạo lư
này, Bồ Tát mới dũng mănh tinh tấn, cũng
chẳng bị thoái chuyển nữa. V́ sao? Thấy chúng
sanh trong sáu nẻo, chín pháp giới đang hứng khổ,
chịu nạn chính là chúng sanh nơi tự tánh, chẳng
phải là ngoài tâm, có quan hệ hết sức mật
thiết đối với chính ḿnh, giống như một
vài nơi trên thân thể của chính ḿnh đang bị tê
cứng, đau đớn, hoàn toàn nghĩ tưởng
phương cách để gấp gáp trị liệu ḥng
khôi phục b́nh thường, chẳng cần đợi
người khác khuyến thỉnh mới t́m cách chữa
trị! Nếu biết pháp giới chúng sanh và chính ḿnh là
một Thể th́ “vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi” sẽ tự nhiên xuất hiện.
Trong kinh Phật thường nói “pháp vốn là như
thế” (pháp nhĩ như thị), không có lư do,
điều kiện ǵ để bàn bạc cả!
Chúng ta
mê, mê mất tự tánh, không biết là một thể, phân
biệt ta - người, niệm niệm đều
đối lập. Gặp phải khổ nạn lớn,
thân có bệnh tật, tâm trí đờ đẫn, nay chúng
ta trở thành trạng thái ấy. Chư Phật, Bồ Tát
tâm trí sáng suốt, minh bạch, các Ngài biết chúng ta tâm trí
đờ đẫn, Phật, Bồ Tát giúp chúng ta khôi
phục tâm trí. Chúng ta có thể hiểu rơ được
trí huệ đức năng nơi tự tánh của chính
ḿnh, đấy gọi là đại triệt đại ngộ.
Triệt ngộ rồi, lẽ nào c̣n chờ Phật, Bồ
Tát dạy, mà sẽ tự nhiên thị hiện “thọ
tŕ, đọc tụng, v́ người khác diễn nói”, vĩnh viễn
giống như Phổ Hiền Bồ Tát, chẳng mệt
mỏi, nhọc nhằn. Phiền năo là “tự tánh
phiền năo” phải đoạn! Pháp môn là “tự tánh
pháp môn”, Phật đạo là “tự tánh Phật
đạo”, không có ǵ ĺa khỏi tự tánh. Tự tánh là
chân tâm, tâm hiện, thức biến, ở đây hoàn toàn giăi
bày ra hết. Tiếp theo niệm ba lần:
南無普賢王菩薩摩訶薩。
Phổ
Hiền Bồ Tát đại diện cho hết thảy
Bồ Tát, tượng trưng cho việc tu hạnh Bồ
Tát một cách viên măn. Trong thời thứ nhất, chúng ta
đọc mười đại nguyện vương
của Phổ Hiền Bồ Tát: Một
là lễ kính chư Phật, hai là xưng tán Như Lai,
ba là rộng tu cúng dường, cho đến nguyện
thứ mười là hồi hướng khắp tất
cả. Niệm danh hiệu Bồ Tát phải nghĩ
đến mười đại nguyện vương, tức
tổng cương lănh, tổng nguyên tắc tu hành của hết
thảy Bồ Tát Ma Ha Tát. Tịnh Tông thực sự thù
thắng khôn sánh, thù thắng ở chỗ nào? Vừa
mở đầu chúng ta bèn “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền
Đại Sĩ chi đức” (đều cùng tuân tu đức của Phổ
Hiền đại sĩ). Quư
vị nói xem, chẳng thù thắng lắm ư? Như
vậy, Tịnh tông tu điều ǵ? Tu hạnh Phổ
Hiền.
Phổ
Hiền Hạnh chẳng thể ĺa khỏi mười
cương lănh này. Do không làm được mười
cương lănh nên chúng ta chẳng thể thành tựu tịnh
nghiệp. Quư vị phải chiếu theo mười
cương lănh ấy mà tu hành, lẽ nào tịnh nghiệp
chẳng thành tựu? Phiền năo, tập khí từ vô thỉ
kiếp sẽ tự nhiên hóa giải hết, hóa giải
từ chỗ nào? Dùng bốn nguyện đầu để
hóa giải: Lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám
hối là hóa giải. Mấy nguyện sau đó là v́
người khác diễn nói, nhằm rộng độ chúng
sanh. Những điều Phổ Hiền Bồ Tát tu hoàn toàn
là tánh đức, mười nguyện ấy đều
quy về tự tánh nên những nguyện ấy viên măn.
Lại xem tiếp phần Khai Thị kế đó. Đây
là đoạn khai thị sau cùng:
27. Khai thị
Thượng
lai tam thời hệ niệm A Di Đà Phật vạn
đức hồng danh, khuyến đạo vong linh sám
trừ kết nghiệp, phát nguyện văng sanh, hạnh
nguyện kư thâm, công vô hư khí.
上來三時繫念。阿彌陀佛。萬德洪名。勸導亡靈懺除結業。發願往生。行願既深。功無虛棄。
(Từ trên tới đây, ba
thời hệ niệm vạn đức hồng danh A Di
Đà Phật, khuyên dạy vong linh sám trừ nghiệp
chướng đă kết tụ, phát nguyện văng sanh.
Hạnh nguyện đă sâu, công không luống uổng).
Đến
đây là một đoạn, Pháp Sự thực hiện
đến đây, thời thứ ba sắp kết thúc, viên
măn. Pháp sự này chủ yếu nhất là hệ niệm A
Di Đà Phật. Do đây biết rằng: Thiền sư Trung
Phong soạn ra nghi quỹ tu hành này hoàn toàn nhằm thực
hiện những giáo huấn của kinh Di Đà. Khai
thị trọng yếu nhất trong kinh Di Đà là “nhất
tâm hệ niệm”. Đây là chữ dùng trong bản
dịch của Huyền Trang đại sư, bản
dịch của ngài La Thập ghi là “chấp tŕ danh
hiệu, nhất tâm bất loạn, tâm bất điên
đảo”. Huyền Trang đại sư dịch là “chấp
tŕ danh hiệu, nhất tâm hệ niệm”. “Bất
loạn” không dễ, “hệ niệm” th́ có thể
làm được. Hệ niệm là trong tâm quư vị thực
sự có A Di Đà Phật, chứ không nhất định
là miệng phải niệm, trong tâm thực sự có th́
gọi là “hệ niệm”. Miệng niệm nhưng
tâm không có, chẳng tương ứng! Trong tâm thực
sự có, nhưng miệng không có th́ vẫn là tương
ứng. Điều quan trọng là trong tâm quư vị có A Di
Đà Phật hay không!
Nếu
quư vị hỏi: Thầy nói trong tâm có A Di Đà Phật, có
A Di Đà Phật là ǵ? Quan trọng nhất không ǵ hơn
đại nguyện của A Di Đà Phật. Nói cách khác,
trong tâm, niệm niệm đều có bốn mươi tám
nguyện th́ đúng là tâm quư vị “hệ niệm A Di
Đà Phật”. A Di Đà Phật là bốn mươi
tám nguyện, bốn mươi tám nguyện là A Di Đà
Phật. Ai phát được bốn mươi tám
nguyện, ai có thể thực hiện viên măn bốn
mươi tám nguyện ấy trong công việc, trong
cuộc sống, trong xử sự đăi người
tiếp vật, người ấy chính là hóa thân của A
Di Đà Phật. Quư vị nghĩ xem: Nếu quư vị không
phải là A Di Đà Phật th́ c̣n ai là A Di Đà Phật nữa
đây? Tâm, nguyện đă tương ứng th́
đương nhiên giải, hạnh chẳng khác ǵ A Di
Đà Phật. Quư vị nghĩ xem: Người như
vậy sao chẳng thể không sanh Tịnh Độ?
Đấy gọi là thực sự niệm Phật.
Nay
chúng ta tu hành đă nhiều năm ngần ấy, không
tương ứng, nguyên nhân không tương ứng là ở
chỗ nào? Chẳng thực hiện bốn mươi tám
nguyện! Chẳng những không thực hiện, mà
suốt ngày từ sáng đến tối khởi tâm
động niệm luôn nghĩ đến danh văn,
lợi dưỡng, luôn nghĩ đến tự tư
tự lợi, có lúc nào nghĩ đến bốn
mươi tám nguyện của A Di Đà Phật hay
chăng? Tịnh Tông Học Hội thành lập, chúng tôi
soạn cuốn Triêu Mộ Khóa Tụng (khóa tụng sáng
tối), v́ sao lấy bốn mươi tám nguyện
để vào khóa sáng? Quư vị phải hiểu: Khóa sáng
chúng ta không niệm chú Lăng Nghiêm, không niệm Thập Chú,
không niệm chú Đại Bi, mà niệm bốn mươi
tám nguyện. V́ lư do nào? Hệ niệm A Di Đà Phật, thực
hiện giáo huấn của kinh A Di Đà! Nếu quư vị
quả thật tu theo cách ấy th́ sẽ thực sự
thành tựu như kinh đă nói: Hoặc một ngày,
hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày. Trong thời gian
bảy ngày, ngày đêm không gián đoạn, không xen tạp,
đúng là “không hoài nghi, không xen tạp, không gián
đoạn”. Đây chính là như Đại Thế Chí
Bồ Tát đă dạy: “Đô nhiếp lục căn, tịnh
niệm tương kế” (nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối), sao không thành tựu? Chúng
tôi mong rằng những đồng tu thực sự tu
Tịnh Độ, thực sự cầu văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể
không biết những ư nghĩa này.
Hành môn
chính là chấp tŕ danh hiệu, A Di Đà Phật “vạn
đức hồng danh”, danh hiệu ấy bao quát
hết thảy vô lượng đại pháp giáo hóa chúng
sanh của chư Phật, công đức của danh
hiệu chẳng thể nghĩ bàn! Khi chúng tôi giảng kinh
Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà đă nói rất
nhiều lần: Trong một câu danh hiệu này, viên măn
bốn mươi tám nguyện, trong danh hiệu này
chẳng khuyết nguyện nào. Nhưng nay trong danh hiệu
chúng ta đang niệm có những nguyện ấy hay không?
Không có! V́ sao ngày nay chúng ta niệm Phật không tương
ứng? V́ sao công phu niệm Phật không thành phiến? Do
không có những nguyện ấy! Pháp môn này được
gọi là Tín - Nguyện - Hạnh. Tín - Nguyện - Hạnh
đồng thời, như trong phần trên đă bảo là
“như đảnh chi tam túc, khuyết nhất đô
bất khả” (như ba chân của cái đảnh, không
thể khuyết một). Trong Tín có Nguyện, có Hạnh,
trong Hạnh có Tín, có Nguyện; v́ thế, quư vị niệm
một câu A Di Đà Phật có Tín và Nguyện và trong ấy.
Tín viên măn, Nguyện viên măn th́ một câu Phật hiệu
tương ứng! Một niệm tương ứng
một niệm Phật, niệm niệm tương
ứng niệm niệm Phật, chẳng phải là chỉ
có một câu danh hiệu xuông không hề có Tín - Nguyện
trong ấy. Nếu như vậy, câu Phật hiệu
ấy không tương ứng.
Ḷng tin
chân thành, nguyện thiết tha th́ mới gọi là Hệ
Niệm! Hai chữ Hệ Niệm hay lắm! Chúng ta tự ḿnh
niệm tự thành tựu, đồng thời “khuyến
đạo vong linh” (khuyên
dạy vong linh) chính là lợi tha, tự lợi,
lợi tha. Bởi lẽ, kinh Địa Tạng dạy: Trong
bảy phần công đức, chính ḿnh được sáu
phần, vong linh được một phần. Thế c̣n
Hệ Niệm Pháp Sự này th́ sao? Người tham gia
đông đảo. Nếu có một trăm người,
hai trăm người, ba trăm người, mỗi
một cá nhân đem một phần công đức ban cho
vong linh, vong linh cũng sẽ có công đức chẳng
thể nghĩ bàn. Công đức của người tham
dự pháp hội cũng chẳng thể nghĩ bàn! V́ sao?
Tự ḿnh được sáu phần công đức, ngoài ra
một phần công đức gia tŕ trao cho mọi
người đồng tu. Mỗi một đồng tu gia
tŕ lẫn nhau, có phải là đạo tràng thù thắng
lắm hay không? Mỗi một cá nhân giống như một
ngọn đèn, một ngọn đèn chiếu sáng hữu
hạn; mấy trăm ngọn đèn cùng thắp, trang
nghiêm lắm! Quang minh lớn trội, ánh sáng dung nhiếp
lẫn nhau! Quư vị đồng tu hăy từ tỷ dụ
này mà lănh hội!
Trong
Pháp Sự này, công đức của mỗi cá nhân dệt
thành một tấm lưới nguyện, thành lưới
ánh sáng ba tư lương Tín - Nguyện - Hạnh. V́
thế, đối với vong linh, Pháp Sự này lợi ích
thù thắng chẳng thể nghĩ bàn! Người tu Pháp
Sự tâm càng thanh tịnh, càng thiện lương, càng chân
thành, công đức ấy càng hết sức thù thắng.
Tự lợi, lợi tha đấy! Mỗi một phen Khai
Thị, mỗi một phen phát nguyện, mỗi một phen
sám hối, khuyên chính ḿnh, khuyên đồng tu, khuyên vong linh “sám trừ
kết nghiệp, phát nguyện văng sanh” (sám trừ nghiệp chướng đă
kết, phát nguyện văng sanh).
Tuy pháp môn này là đới nghiệp văng sanh, nhưng vẫn
phải coi trọng sám hối. V́ sao? Sám trừ nghiệp
chướng một phần, khi quư vị sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới phẩm vị
sẽ cao hơn một phần, đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới tu hành, sớm có ngày chứng
quả, thành Phật. Do vậy, phải sám hối, phải
phát nguyện, phát nguyện quan trọng nhất là cầu
sanh Tịnh Độ, thân cận Phật Di Đà.
“Hạnh
nguyện kư thâm, công vô hư khí” (hạnh nguyện đă
sâu, công không luống uổng): Nguyện sâu, Tín sâu, Hạnh
sâu, Tín - Nguyện - Hạnh đều sâu, công tu hành ấy
đúng là cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn, cảm
ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật, cảm ứng
đạo giao cùng chư thượng thiện nhân trong
hải hội đại chúng tại Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Chúng ta niệm niệm
chẳng quên mong được gia nhập pháp hội này,
trở thành một thành viên trong pháp hội. Cố nhiên quan
trọng nhất là A Di Đà Phật, nhưng chẳng
thể không quan tâm đến hải hội đại
chúng. Từ hội Hoa Nghiêm, qua phẩm Thế Chủ Diệu
Nghiêm[20],
chúng ta đọc thấy đại biểu của
từng nhóm người, mỗi khi tán Phật, đều
phải ngoái nh́n những đồng nhân[21]
trong nhóm của họ, không sót một ai, họ nêu khuôn
mẫu, gương tốt cho chúng ta. Nay chúng ta mong sanh về
thế giới Cực Lạc, các thượng thiện nhân
trong thế giới Cực Lạc số lượng
nhiều đến nỗi không có cách ǵ tính
được, chỉ có thể dùng chữ A-tăng-kỳ
để diễn tả.
B́nh
thường, lúc chúng ta niệm Phật không nghĩ
đến, niệm niệm cũng phải kết pháp duyên
với các thượng thiện nhân, tương lai khi chúng
ta văng sanh, quang cảnh sẽ lớn lao. Sau lưng Tây
Phương Tam Thánh là các thượng thiện nhân
thuộc Liên Tŕ Hải Hội, số đến vô
lượng vô biên, rầm rộ như thế, nghênh
tiếp quư vị về Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Quư vị kết duyên cùng họ, những
chuyện này đều là sự thật! Tâm lượng
không lớn sẽ chẳng thể thường quán
tưởng như thế. Lúc quư vị văng sanh, A Di Đà
Phật hiện đến, quư vị thấy những
người theo chân Phật không nhiều, v́ sao? Quư vị
không kết duyên với mọi người. Rộng
kết pháp duyên, niệm niệm chẳng xả hết
thảy chúng sanh, hết thảy Bồ Tát, hết thảy
Thanh Văn, hết thảy thần thánh trọn khắp
pháp giới, hư không giới. Có như vậy th́ công phu
Tín - Nguyện - Hạnh của quư vị mới sâu, sâu
rộng không bờ bến, công đức thành tựu,
quyết định chẳng dối, công đức chân thật,
thành tựu chính ḿnh, mà cũng thành tựu người khác,
vong nhân thực sự được hưởng lợi
ích.
Như
xưa kia, trong hội [giảng kinh] Lăng Nghiêm, chúng tôi
đă nhắc đến một câu chuyện của lăo pháp
sư Đàm Hư. Lúc lăo pháp sư chưa xuất gia
học Phật, là cư sĩ tại gia, cùng mấy
người bạn mở một tiệm thuốc Bắc.
Trong số bạn bè ấy, có một vị cư sĩ
họ Lưu, đọc kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm.
Tám năm đóng cửa đọc kinh Lăng Nghiêm,
chắc phải có chút công phu, tâm định rồi.
Đọc lâu ngày, mỗi lần đọc bèn theo văn
nhập quán, bèn có lợi ích, chứ không phải là đọc
xuông. Lúc quư vị đọc mà chú tâm theo kinh th́ tâm quư
vị tương ứng, nhập vào cảnh giới
ấy. Do vậy, oán thân trái chủ của ông ta đến
cầu xin ông ta siêu độ.
Cách siêu độ
rất đơn giản! Những ai trong quá khứ ông ta
có lỗi với họ, vốn là oan gia đối
đầu của ông ta, thấy ông ta nay tu hành có
được công phu tốt đẹp như thế
muốn hưởng ké một chút. Họ đến
trước mặt, quỳ gối xuống đất,
Lưu cư sĩ hỏi những kẻ ấy:
- Các vị
có chuyện ǵ t́m đến tôi?
-
Cầu siêu độ.
Lưu
cư sĩ yên tâm, không phải là đến báo cừu,
không phải là đến trả thù mà là cầu siêu
độ, bảo:
-
Được! Các vị muốn tôi siêu độ cho các vị
như thế nào?
Họ
nói:
-
Chỉ cần ông đáp ứng là được!
-
Được, tôi bằng ḷng!
Ông ta trông
thấy hồn ma bám vào đầu gối ông, trèo lên
đến vai bèn sanh lên trời. Độ hai lượt
như vậy, qua một lúc lại có hai kẻ đến
nữa, chính là bà vợ và đứa con nhỏ đă
mất của ông ta, đều đến trước
mặt, quỳ dưới đất cầu siêu
độ. Tự ḿnh thực sự có công hạnh sẽ có
khả năng giúp đỡ người khác. Chúng ta thực
sự học Pháp Sự này, sức của một
người không đủ, tập hợp sức lực
của toàn thể tứ chúng đồng tu th́ sức mạnh
ấy lớn lắm.
Duy
nguyện vong linh, văn tư pháp yếu, tín thọ
phụng hành.
惟願亡靈。聞斯法要信受奉行。
(Xin nguyện vong linh nghe pháp yếu
này hăy tin nhận, phụng hành).
Đây
là chúc nguyện, mong mỏi người đă khuất:
Lần tu pháp sự này chủ yếu chuyên v́ vong linh. Quư
vị nghe những pháp yếu đă tu trong ba thời này,
Phật pháp mênh mang như khói tỏa trên mặt biển,
những điều được tu trong ba thời này là
tinh yếu, trọng yếu nhất, hy vọng quư vị
nghe xong sẽ “tín thọ phụng hành” (tin nhận vâng
làm).
Tùng
thị thác chất liên thai.
從是托質蓮胎。
(Từ
đây gá thân nơi thai sen).
Từ
nay trở đi, quư vị giống như chúng tôi, phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ. “Thác chất liên
thai”: Chất (質) chính là thân. Thân này
của chúng ta là thân vật chất, hóa sanh trong hoa sen chính
là “thác chất liên thai” (gá thân trong thai sen). Trong hết
thảy các cơi Phật, hết thảy những chúng sanh
chỉ cần có một niệm phát tâm cầu sanh Tịnh
Độ, muốn cầu sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, ư niệm ấy vừa động
sẽ khiến cho ao sen bảy báu nơi Tây Phương
Cực Lạc thế giới nẩy sanh một đóa hoa
sen, thấy có búp sen nhưng hoa chưa nở. Trên búp sen ghi
tên tuổi ở trong ao bảy báu. Do vậy, tất cả
hết thảy vật chất của Tây Phương
Cực Lạc thế giới đều thường
trụ bất diệt, hữu t́nh chúng sanh không có sanh - già -
bệnh - chết, vô t́nh chúng sanh không có sanh - trụ - dị
- diệt, không có thành - trụ - hoại - không, Nhất Chân
pháp giới mà! Chỉ có một hiện tượng,
tức là hoa sen trong ao bảy báu có tươi tốt hay héo
khô. Tinh tấn niệm Phật chẳng lui sụt, hoa
ấy càng lớn càng đẹp, càng lớn càng to, có
hiện tượng ấy. Nếu ngă ḷng hay đổi
sang tu pháp môn khác, hoa sen ấy dần dần héo khô, tiêu
mất. Do vậy, hoa sen trong ao bảy báu có tươi
tốt, có khô héo. Do hoa ấy không do A Di Đà Phật
biến hiện mà do ư niệm của hữu t́nh chúng sanh
trong mười phương thế giới biến
hiện ra, duy thức sở biến. Do vậy, có
tướng trạng sanh - diệt, tươi - khô. Trừ
hoa ấy ra, trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng t́m đâu ra hiện tượng ấy.
Đấy là nói về “thác chất liên thai”.
Vĩnh ly
nghiệp hải.
永離業海。
(Vĩnh
viễn rời khỏi biển nghiệp).
“Nghiệp
hải” chỉ cho lục đạo, mười pháp
giới. Chẳng những vĩnh viễn thoát khỏi
lục đạo luân hồi, mà c̣n vượt thoát
mười pháp giới, cảnh giới thù thắng khôn
sánh, chẳng thể nghĩ bàn. Trong lục đạo thực
sự có không ít những chúng sanh giác ngộ khá cao mong
cầu thoát khỏi luân hồi lục đạo, nhưng
không có duyên phận, chẳng gặp được pháp môn
này. Hoặc là gặp được nhưng chẳng
thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng,
vẫn phải tu pháp môn của chính ḿnh, tu cũng khá lắm,
tu lên đến Vô Sắc Giới thiên. Vô Sắc Giới
thiên không có sắc tướng, chúng trời cơi ấy
tưởng Vô Sắc Giới là Đại Niết Bàn, ai
nấy đều tự cho ḿnh đă chứng đắc
Vô Thượng Niết Bàn, Niết Bàn rốt ráo. Thọ
mạng cũng thật là dài! Đức Thế Tôn dạy
chúng ta: “Thọ mạng của cơi trời Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng là tám vạn đại kiếp!” Tám
vạn đại kiếp chúng ta không có khái niệm, chúng ta
nghe xong vẫn cứ mơ mơ màng màng, tám vạn
đại kiếp ư? Thế nào là một đại
kiếp? Nếu quư vị thực sự hiểu rơ, quư
vị mới cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn!
Phật
dạy chúng ta: Thế giới có thành - trụ - hoại - không.
Thành - trụ - hoại - không là bốn trung kiếp. Bốn
trung kiếp ấy hợp thành một đại kiếp.
Đây là nói về tinh hệ trong vũ trụ, chứ không
nói về địa cầu của chúng ta. Một Thái
Dương Hệ hăy c̣n nhỏ lắm, một đại
tinh hệ kia! Ta thường bảo Ngân Hà là một tinh
hệ, nhưng nói thật ra, th́ như lăo cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ nói: “Mỗi một Ngân Hà Hệ là một
đơn vị thế giới”. Thành Trụ Hoại Không
mà đức Phật nói đó chính là Thành Trụ Hoại
Không của một cơi Phật, tức là Thành Trụ
Hoại Không của một tam thiên đại thiên thế
giới. Thời gian năm tháng chúng ta không có cách ǵ
tưởng tượng được nổi, đó là
con số thiên văn. Mỗi lần Thành Trụ Hoại
Không là một đại kiếp. Tám vạn đại
kiếp chính là đại tinh hệ thành - trụ - hoại
- không tám vạn lần. May là bọn họ không có sắc
thân, không có thân thể, thế giới thành - trụ - hoại
- không chẳng gây trở ngại ǵ cho họ, họ không
bị ảnh hưởng. Quư vị nghĩ xem thọ
mạng họ quá dài đi!
Thế
nhưng đến lúc hết tám vạn đại
kiếp, công phu định lực của họ bị lui
sụt, lại bèn đọa lạc trong luân hồi.
Lần đọa lạc này, đọa thật thảm,
có thể nói là “càng trèo cao, càng té đau!” Họ từ Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng thiên đọa xuống
địa ngục. Quư vị có thể đọc những
điều này từ kinh điển. Nếu muốn thuận
tiện, hăy xem bộ Pháp Uyển Châu Lâm hoặc Kinh
Luật Dị Tướng[22]
sẽ thấy. Hai bộ sách này là do cổ nhân phân loại
hết thảy kinh luận trong Đại Tạng Kinh mà
soạn thành. Lấy Sự làm cương mục, chia thành
một trăm cương mục, những cương
mục trong kinh luận đều chép vô đó. Quư vị
muốn xem về Kiếp, Thời Kiếp th́ những ǵ
được hết thảy kinh luận giảng [về
Kiếp] đều được chép vào một chỗ,
t́m thấy là coi được hết.
Một
đại kiếp là [thời gian] thành - trụ - hoại -
không của một đại thế giới. Thành - trụ
- hoại - không tám vạn lần, phi thường quá! Chúng
ta không nhận biết v́ thọ mạng quá ngắn,
nhưng đối với thời gian và không gian vô hạn
th́ tám vạn đại kiếp không dài, rất ngắn!
Không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Đấy
là người hết sức thông minh trong thế gian, không
có duyên gặp được Phật pháp, không có duyên
gặp gỡ Tịnh Độ. Nói thật ra, gặp
được Tịnh Độ đảm bảo sẽ
siêu xuất. Gặp những pháp môn khác th́ không dám chắc,
phải tùy thuộc vào duyên phận, tức là cũng
như chúng ta thường nói: Quư vị phải đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh
mới siêu thoát. Không kiến tánh chẳng siêu thoát!
Người
tu hành muốn đạt đến công phu minh tâm kiến
tánh như vậy chẳng phải là chuyện đơn
giản. Quư vị thấy đó: Đoạn hết
Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo cũng
phải đoạn hết. Vô minh phiền năo cũng
phải phá được mấy phẩm, như vậy
mới có thể vượt thoát. Chỉ đoạn
Kiến Tư, Trần Sa, nhưng Vô Minh chưa đoạn
th́ cũng có thể coi là khá lắm, vượt thoát
lục đạo, nhưng chẳng thể vượt
thoát mười pháp giới, chứng được
quả vị Tương Tự, chứ không phải là chân
thật. Do vậy, pháp môn Tịnh Độ thù thắng,
được hết thảy chư Phật Như Lai tán
thán chẳng phải là không có lư do. “Vĩnh ly nghiệp hải”
(vĩnh viễn ĺa khỏi biển nghiệp) phải
nhờ vào Tín - Nguyện - Hạnh.
Trực chứng A Bệ
Bạt Trí, viên măn vô thượng Bồ Đề.
直證阿鞞跋致。圓滿無上菩提。
(Chứng thẳng vào Bất Thoái
Chuyển, viên măn Bồ Đề vô thượng).
Thành tựu ấy quá lớn! Quư
vị thấy ở đây tổ sư giảng rất
khẩn thiết, khẳng định dường ấy,
không do dự mảy may ǵ! “Trực
chứng” là thẳng thừng, thỏa đáng, quư vị
chứng ngay vào A Duy Việt Trí! A Duy Việt Trí (Avaivartika) là
tiếng Phạn, phiên dịch sang tiếng Hán là Bất
Thoái Chuyển Bồ Tát. Kinh luận thường nói viên
chứng ba thứ Bất Thoái. Trong phần giảng về
kinh A Di Đà trong những phần trước, tôi đă
tŕnh bày về ba thứ Bất Thoái: Vị Bất Thoái,
Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái, đó là Tam
Bất Thoái. Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo bắt đầu
chứng ba thứ Bất Thoái, nhưng Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo chứng đắc chưa viên măn. Từ
Sơ Trụ Bồ Tát lên đến Thất Địa
Bồ Tát, Thất Địa Bồ Tát c̣n bị thoái
chuyển, nhưng thoái chuyển có hạn mực, hạn
mực là Sơ Trụ Bồ Tát, chứ tuyệt
đối không thể lui sụt kém hơn Sơ Trụ. Nói
chung là tiến tiến lùi lùi, hoàn toàn phụ thuộc bản
thân quư vị dụng công siêng năng hay lười nhác. Quư
vị mạnh mẽ, dũng mănh, tinh tấn th́ nâng cao không
ngừng. Nếu quư vị giải đăi, không chịu tu
tập, bèn bị thoái chuyển.
Quư vị phải hiểu trong
thế giới Hoa Tạng hay trong thế giới Cực
Lạc, nếu bàn trên mặt lư luận th́ đều có
hiện tượng ấy, đều có kẻ tiến
tiến lùi lùi; nhưng [thực ra] trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới đặc biệt, chỉ
có tiến, chứ không lùi, chỉ là tiến mau hay chậm
khác nhau: Có kẻ dũng mănh tinh tấn th́ tiến rất
nhanh; có kẻ không dụng công như thế, kẻ ấy
tiến chậm, nhưng chắc chắn không bị thoái
chuyển. Đây là một điều hay của Tây
Phương Cực Lạc thế giới; trong các cơi
Phật khác không có [chuyện này]! “Giai thị A Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều
là A Duy Việt Trí Bồ Tát), đây chính là do bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Nói
cách khác, A Duy Việt Trí là từ Thất Địa trở
lên. Trong mười phương hết thảy các cơi
Phật không có chuyện này, chỉ riêng Tây Phương Cực
Lạc thế giới là có! Chúng ta phải hiểu rơ,
phải quư tiếc!
Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích
đại sư đă giảng rất hay: Phàm phu một
phẩm phiền năo chưa đoạn, đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nghiễm nhiên
là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Do vậy, lăo nhân gia bảo:
Nếu bảo quư vị là Bồ Tát th́ quư vị không
giống với Bồ Tát, v́ sao? Vẫn c̣n mang theo phiền
năo, chưa đoạn một phẩm vô minh! Nếu
bảo quư vị là phàm phu, lại chẳng giống với
phàm phu, v́ sao? Trí huệ, đức năng giống hệt
Thất Địa Bồ Tát, chẳng thể nghĩ bàn!
Không có cách nào gọi tên quư vị được, do được
bổn nguyện và oai thần của Phật Di Đà gia
tŕ mà! Quư vị đạt đến cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn ấy, “viên măn vô thượng Bồ Đề”. Bây
giờ đă hết giờ rồi!
*
Xin xem tiếp đoạn khai
thị cuối cùng của thiền sư Trung Phong. Hai câu
cuối cùng là:
Trực chứng A Bệ
Bạt Trí, viên măn vô thượng Bồ Đề.
直證阿鞞跋致。圓滿無上菩提。
(Chứng thẳng vào Bất Thoái
Chuyển, viên măn Bồ Đề vô thượng).
Hai câu này chúng ta phải
đặc biệt lưu ư, bởi chúng quá hy hữu!
Hết thảy chư Phật xưng tán, tôn kính A Di Đà
Phật, nói thật ra, chính là v́ hai câu trên. Hai câu trên đây
chính là điểm đặc sắc của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mười
phương các cơi Phật không có, riêng ḿnh thế giới Cực
Lạc có. Chính v́ sự thật này khiến cho chúng tôi
nghĩ rằng đây chính là lư do Văn Thù và Phổ
Hiền trong thế giới Hoa Tạng muốn cầu sanh
Tịnh Độ.
Xưa kia, tôi đọc Hoa
Nghiêm, nghĩ về vấn đề này rất lâu! Văn
Thù, Phổ Hiền là tay mặt, tay trái của Tỳ Lô Giá
Na Phật trong thế giới Hoa Tạng, là những vị
đại sĩ phụ tá của Pháp Thân Như Lai, không
phải là hạng Bồ Tát tầm thường, v́ sao
lại muốn cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới? Về sau, tôi nghĩ trong kinh Phật
thường nói: Tu hành chứng quả phải mất ba
đại A-tăng-kỳ kiếp, đức Phật nói
như vậy rất nhiều lần, chứng tỏ
đấy không phải là nói tỷ dụ, mà là sự
thật. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp tính từ lúc
nào? Nguyên lai tính từ địa vị Sơ Trụ trong
Viên Giáo; nói cách khác, thời gian tu hành trước khi
chứng được địa vị Sơ Trụ
trong Viên Giáo chẳng tính đến. Nếu kể từ
khi chúng ta phát tâm, tu cho đến Bồ Tát pháp giới và
Phật pháp giới trong mười pháp giới, nếu
tính chung lại, đức Phật nói phải mất vô
lượng kiếp, chứ nào phải chỉ ba
đại A-tăng-kỳ kiếp. Chúng tôi tin tưởng
điều này, v́ sao?
Nay mỗi đồng học học
Phật chúng ta, nghe đến danh hiệu Phật bèn
chắp tay, trông thấy tượng Phật bèn lễ bái,
thiện căn như vậy không phải là ngẫu nhiên.
Phải là tu tập nhiều đời nhiều kiếp, do
chủng tử hàm tàng trong A Lại Da Thức hiện hành
nên quư vị mới có thái độ kiền thành như
thế; nhưng mà sao? Không có thành tựu. Khiến cho chúng
tôi nghĩ đến trong kinh Vô Lượng Thọ,
đức Thế Tôn có nhắc đến vương
tử A Xà Thế và đoàn thể nhỏ của ông ta. Khi
ấy, đức Thế Tôn giảng kinh Vô Lượng
Thọ, bọn họ hiện diện, nghe xong hết
sức hoan hỷ, cúng Phật, trong tâm phát nguyện hy
vọng tương lai tự ḿnh thành Phật cũng
giống như A Di Đà Phật, chứ không phát tâm
cầu được văng sanh, tức là chẳng sanh
khởi ư niệm “văng sanh
Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà
Phật”. Đức Phật dạy: Mấy vị
thuộc nhóm vương tử A Xà Thế trong đời
quá khứ đă từng cúng dường bốn trăm
ức Phật. Đừng nói chi nhiều, một
đức Phật thôi đă là ba A-tăng-kỳ kiếp,
bốn trăm ức c̣n lâu đến đâu nữa! Tu hành
trong thời gian lâu xa ngần ấy, nghe đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới sanh tâm
ngưỡng mộ, nhưng không phát tâm cầu nguyện
văng sanh!
Nay chúng ta nghe nói đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, phát tâm muốn
cầu sanh Tịnh Độ. Quư vị nghĩ xem: Công
đức ấy chắc chắn vượt hơn
vương tử A Xà Thế. Vương tử A Xà
Thế từng cúng dường bốn trăm ức
Phật, có lẽ quư vị từng cúng dường từ
bốn trăm ức trở lên, năm trăm, sáu trăm,
bảy trăm, tám trăm ức Phật nên thiện
căn, thiện niệm ấy mới sanh khởi: “Tôi
muốn cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới!” Bởi vậy, lời đức Phật
giảng là chân thật, thành tựu pháp môn này là vô
lượng kiếp. Chúng ta đừng tưởng ngày nay
ḿnh mới học Phật, không phải vậy, đời
đời kiếp kiếp kiếp trong quá khứ vô
lượng kiếp [đă học Phật], nhưng v́ sao
không được thành? Do nhân duyên không đủ,
phiền năo tập khí chưa hết, tham luyến hồng
trần.
Tôi nói như vậy quư vị
hăy nên nghĩ hiểu. V́ sao? Đây chính là sự thật
hiện tiền, đối với hết thảy
người - sự - vật trong thế gian này, quư vị
có tham luyến hay không, có buông xuống được hay
không? Chính v́ cái duyên này mà đời đời kiếp
kiếp trong quá khứ tu Tịnh Độ không đạt
thành tựu. Nếu trong một đời này vẫn c̣n mang
niềm tham luyến ấy, vẫn không chịu buông
xuống th́ vẫn chẳng thể thành. Lại phải đợi
nhân duyên lần nữa; nhân duyên lần nữa ấy chẳng
biết nhằm đời nào, kiếp nào! V́ sao?
Tương lai có thể được làm thân người
hay không, quư vị có đảm bảo hay chăng? Nếu
được làm thân người, có đảm bảo
sanh vào chỗ có Phật pháp, có cơ hội
được nghe pháp, tiếp tục tu hành hay không? Khó
lắm! Rất khó, rất ư là khó!
V́ thế, nghĩ đến chỗ này
khiến chúng tôi liên tưởng: Bắt đầu từ Sơ
Trụ Bồ Tát của Viên Giáo phải mất ba
đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể thành
Phật. Đức Phật dạy chúng ta: A-tăng-kỳ
kiếp thứ nhất, vị Bồ Tát ấy tu xong địa
vị Tam Hiền; Tam Hiền là Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng. Trong A-tăng-kỳ
thứ nhất phải tu viên măn ba mươi địa
vị ấy. Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, tu
bảy địa vị từ Sơ Địa
đến Thất Địa. A-tăng-kỳ thứ ba tu
ba địa vị: Bát Địa, Cửu Địa,
Thập Địa. Càng lên cao càng khó, tiến triển càng
chậm! Từ chỗ này, chúng tôi suy nghĩ: Tuy đức
Phật không nói nhưng chúng ta có thể tưởng
tượng được, Đẳng Giác Bồ Tát
muốn chứng đắc viên măn Bồ Đề,
Phật quả rốt ráo, cần phải mất bao nhiêu
thời gian? Cứ tính theo phần trên, A-tăng-kỳ
kiếp thứ nhất, tu ba mươi địa vị. A-tăng-kỳ
kiếp thứ hai tu bảy địa vị. A-tăng-kỳ
kiếp thứ ba tu ba địa vị. Tối thiểu
phải mất một A-tăng-kỳ kiếp th́ Đẳng
Giác Bồ Tát mới có thể chứng đắc Phật
quả viên măn rốt ráo, ở đây gọi là “viên măn vô thượng Bồ
Đề”.
Do vậy, Văn Thù và Phổ
Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát, các Ngài muốn sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới v́
chẳng phải mất một thời gian dài như
thế, về đến Cực Lạc thế giới liền
chứng đắc, lẽ nào không thích làm? Chẳng
những tự ḿnh đi nhận lấy chỗ tốt
ấy, nhận lấy lợi ích ấy, mà c̣n hướng
về tất cả bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ tuyên bố: “Các ông có
muốn đi hay không? Muốn đi th́ ta cùng nhau đi!”
Khuyên dạy bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ đều cùng cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đó là cảnh
tượng như thế nào? Nói thật ra là rất vĩ
đại, thật chẳng thể nghĩ bàn! Từ
chỗ này, chúng ta hăy chú tâm quan sát, Văn Thù, Phổ
Hiền đương nhiên cầu sanh để làm ǵ? Ḥng
rút ngắn thời gian; trong thế giới Hoa Tạng
cần phải mất một A-tăng-kỳ kiếp, qua
nơi kia chỉ mấy ngày là chứng đắc.
Chúng ta là hạng phàm phu sát
đất, nếu tu theo những pháp môn thông thường
th́ quả thật phải tu vô lượng kiếp mới
có thể thực sự đoạn Kiến Tư phiền
năo, đoạn Trần Sa phiền năo, phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân, vượt thoát
lục đạo, mười pháp giới, sanh về
thế giới Hoa Tạng, thành Sơ Trụ Bồ Tát trong
Viên Giáo. Từ lúc đó bắt đầu tu ba đại A-tăng-kỳ
kiếp mới đạt đến Thập Địa,
tức Pháp Vân Địa. Tu trọn ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, chứng đắc Đẳng Giác. Chúng ta hăy
nghĩ xem: Đẳng Giác phải tu tối thiểu
một A-tăng-kỳ kiếp, quư vị nghĩ xem
thời gian ấy dài đến đâu? Dài quá! Đúng là
chẳng thể nghĩ bàn!
Nay gặp được pháp
môn Niệm Phật này là vô thượng Pháp Bảo. Trong
hết thảy Pháp Bảo, không có ǵ sánh bằng
được pháp này. Một kẻ phàm phu, một
phẩm phiền năo c̣n chưa đoạn, hễ văng sanh
bèn siêu việt với một mức độ lớn,
vượt qua Thanh Văn, vượt qua Duyên Giác,
vượt qua Tam Hiền, vượt trỗi Thất
Địa, c̣n ǵ hơn! Bởi thế, pháp môn này gọi là
pháp khó tin, thực sự khó tin! Sanh về Tây Phương
Cực Lạc thế giới bèn bằng với Thất
Địa Bồ Tát, “trực
chứng A Bệ Bạt Trí” (chứng ngay vào A Bệ
Bạt Trí). A Bệ Bạt Trí là Thất Địa. Sự
siêu việt ấy quá sức là nhanh, bởi thế, không ai
có thể tin tưởng được, Thanh Văn
chẳng tin tưởng, Duyên Giác chẳng tin, các vị Bồ
Tát chẳng thể tin pháp môn này. Do vậy, trong kinh,
đức Phật nói: “Duy hữu
Phật dữ chư Phật, phương năng cứu cánh”
(chỉ có Phật và chư Phật mới có thể thấu
hiểu rốt ráo). Các Ngài thực sự hiểu rơ
đến cội nguồn chuyện này là như thế nào,
chỉ có Phật và chư Phật mới có thể thông hiểu
rốt ráo. Đẳng Giác Bồ Tát nếu không
được Phật lực gia tŕ th́ cũng chẳng
thể hiểu rơ!
Trong một đời này,
đương nhiên trong quá khứ chúng ta không chỉ
gặp [pháp môn này] một lần, mà là gặp gỡ
rất nhiều lần, trong một đời này lại
gặp gỡ, thiện căn, phước đức
hiện tiền, phải nắm chắc lấy cơ
hội trong một đời này, quyết định
chẳng để lỡ qua. Nắm chắc như thế
nào? Thân, tâm, thế giới hết thảy buông xuống
hết th́ chúng ta mới có thể văng sanh. Trong đời
quá khứ đă coi thường đôi chút, nói chung là có
một hai lần không buông xuống được nên không thể
thành tựu. Nay đă thấu hiểu triệt để, ngoài
việc này ra, những chuyện khác đều coi là vụn
vặt như lông gà, vỏ củ tỏi, tùy duyên làm, không
cần phải để tâm; c̣n chuyện này nhất
định cần phải để tâm, trong mười
hai thời niệm niệm tương ứng, chẳng
được lầm lạc nữa, quyết tâm trong
một đời này phải thành tựu, đấy
mới là thực sự giác ngộ!
Do vậy, trong thế gian này,
danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, hết thảy người, sự, vật,
thậm chí hết thảy pháp thế gian hay xuất
thế gian thảy đều buông xuống. Thực sự
học theo như Liên Tŕ đại sư buông bỏ triệt
để, sạch sành sanh như thế đó: “Tam Tạng thập nhị bộ,
nhượng cấp biệt nhân ngộ, bát vạn tứ
thiên hạnh, nhiêu dữ biệt nhân hành” (Tam Tạng
mười hai bộ kinh, nhường cho người khác
ngộ. Tám vạn bốn ngàn hạnh dành cho người
khác hành), ta đều không cần đến. Một câu A
Di Đà Phật, chứng thẳng vào A Duy Việt Trí, viên
măn vô thượng Bồ Đề, ta làm chuyện ấy.
Quyết định chẳng hoài nghi, không xen tạp, không
gián đoạn, chết sạch ḷng mong ngóng, so đo, khiêm
hư sát đất, không có một vọng niệm!
38. Di Đà
đại tán
Tiếp theo dùng Di Đà
Đại Tán để tổng kết pháp hội, Đại
Tán rồi hồi hướng, tam quy. Di Đà Đại
Tán là bài tán chúng ta thường niệm, ư nghĩa không khó
hiểu lắm, nhưng phải nêu ra ở đây, v́
sợ mọi người vô ư coi thường, trong bài tán
này có những ư nghĩa áo diệu.
Di Đà Phật đại
nguyện vương,
Từ bi hỷ xả nan lượng.
彌陀佛大願王。
慈悲喜捨難量。
(Di Đà
Phật đại nguyện vương,
Từ bi
hỷ xả khó lường).
Tôi tin rằng câu thứ nhất không khó
hiểu, nhưng cảnh giới rất lớn. A Di Đà
Phật bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
phổ độ chúng sanh trong hết thảy cơi
nước trọn khắp pháp giới, hư không
giới. Quả địa cầu của chúng ta quá
nhỏ, chỉ là một điểm tí ti trong hết
thảy các cơi nước. “Từ
bi hỷ xả nan lượng”: Không có cách nào đo
lường được, cũng không cách ǵ tưởng
tượng, thuyết minh được, đúng là
chẳng thể nghĩ bàn.
Mi gian thường phóng bạch hào quang,
Độ chúng sanh Cực Lạc bang.
眉間常放白毫光。
度眾生極樂邦。
(Giữa
mày thường phóng bạch hào quang,
Độ
chúng sanh về Cực Lạc).
Phật phóng quang từ trước
đến nay chưa hề gián đoạn. Từ
Đại Kinh, chúng ta thấy đức Thế Tôn
giới thiệu: “Quang trung hóa
Phật vô số ức, hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên”
(Trong quang minh hóa vô số ức Phật, hóa các Bồ Tát
cũng vô biên). Đấy chính là bạch hào giữa hai mày
phóng quang. Hóa ra vô lượng vô biên chư Phật Như
Lai, Pháp Thân Bồ Tát, rộng độ hết thảy
chúng sanh trong pháp giới, hư không giới. Đây là
nhằm thực hiện những ǵ đă tán thán ở
phần trên: “Từ bi hỷ
xả nan lượng”, hiển thị hoằng
nguyện của A Di Đà Phật được thực
hiện qua những sự tướng này. Trong vũ
trụ này, A Di Đà Phật phân thân, hóa thân vô lượng
vô biên, chỉ nhằm một chuyện: “Độ chúng sanh Cực Lạc bang” (Độ
chúng sanh về Cực Lạc). Sáu chữ này nghĩa là
tiếp dẫn chúng sanh, tiếp dẫn những loại
chúng sanh nào? Chúng sanh căn cơ chín muồi. Thế nào là
căn cơ chín muồi? Thực sự đầy
đủ ba tư lương Tín - Nguyện - Hạnh; tâm
là Di Đà tâm, nguyện là Di Đà nguyện, ngôn (lời
lẽ) là Di Đà ngôn, hạnh là Di Đà hạnh, những
người ấy đới nghiệp văng sanh. Phiền
năo tập khí đoạn hay không chẳng quan trọng, cốt
sao tâm - nguyện - ngôn - hạnh tương ứng,
Phật bèn đến độ quư vị, đến
tiếp dẫn quư vị về cơi Cực Lạc.
Bát đức tŕ trung liên cửu phẩm.
八德池中蓮九品。
(Ao bát
đức sen khoe chín phẩm).
Đây là chỗ sanh của người
niệm Phật văng sanh, trong những phần trên tôi đă
tŕnh bày cùng quư vị rồi. Quư vị sanh trong hoa sen,
đấy chính là chỗ quư vị ở, là chỗ quư
vị học tập, hoa sen to chẳng thể nghĩ bàn.
Hoa sen cũng là Pháp Bảo, là hoàn cảnh tu học tốt
nhất của quư vị. Do bổn nguyện và oai thần
của A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị chẳng cần
phải ở trong ấy ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, vô lượng kiếp, không cần phải
mất thời gian dài lâu như thế, phiền năo tập
khí từ vô thỉ kiếp đến nay ở trong ấy
đều đoạn sạch sành sanh. Nhanh chóng lắm!
Nhanh chóng đến mức độ nào? Xem những ǵ kinh
Quán Vô Lượng Thọ đă nói, quư vị sẽ
hiểu rơ, chậm nhất tức thời gian dài nhất
là mười hai kiếp.
Quư vị phải nhớ rơ, mười
hai kiếp so với vô lượng kiếp, so với A-tăng-kỳ
kiếp th́ rất ngắn; mà đây là ǵ? Là thời gian dài
nhất đối với người thuộc Hạ
Hạ Phẩm, tức văng sanh Hạ Hạ Phẩm trong
Phàm Thánh Đồng Cư độ. Trước kia tôi
đă tính rồi, đại khái như chúng ta không có
tội nghiệp rất nặng như thế, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại
khái phải mất bao lâu mới có thể viên măn vô thượng
Bồ Đề, hoa nở thấy Phật? Khoảng
chừng bốn kiếp hay ba kiếp, đại khái là
chừng đó, đúng là rất nhanh! Quư vị suy nghĩ
xem: Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát
trong thế giới Hoa Tạng, các Ngài muốn sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, những
vị ấy nói thật ra không cần đến một
kiếp (nói thông thường th́ tính bằng kiếp), không
cần lâu vậy đâu, quả thật phải tính
bằng ngày, chỉ cần mất mấy ngày bèn viên
chứng vô thượng Bồ Đề. Điều này
cho thấy v́ sao chúng ta phải văng sanh!
Thất bảo diệu thụ
thành hàng.
七寶妙樹成行。
(Cây
quư bảy báu thành hàng).
“Diệu
thụ” chính là chỗ chúng ta vui chơi, cũng là
chỗ để tu hành tiêu nghiệp thành tựu
Định - Huệ, nay chúng ta lên lớp tại giảng
đường, c̣n chỗ người ta đi học là “thất bảo diệu thụ
thành hàng”. Đi học ở đó, hết sức
nhẹ nhàng, thong dong, hết sức tự tại. Đây
chính là cái nay ta gọi là “nghệ thuật dạy học”,
Tây Phương Cực Lạc thế giới phát triển
nghệ thuật dạy học cao độ, gần
như là vui chơi, do vui chơi mà đoạn phiền năo,
đoạn Kiến Tư phiền năo, đoạn Trần
Sa phiền năo, vô minh cũng phá, tự tánh trí huệ
hiện tiền, đức năng hiện tiền,
tướng hảo hiện tiền chẳng thể
nghĩ bàn, thành tựu nơi cây báu thành hàng. Tiếp theo đó
là hai câu tán thán:
Như Lai thánh hiệu
nhược tuyên dương,
Tiếp dẫn văng Tây
Phương.
如來聖號若宣揚。
接引往西方。
(Như Lai thánh hiệu vừa
xưng tụng,
Tây
phương tiếp dẫn văng sanh ngay).
Như Lai ở đây là hết
thảy chư Phật Như Lai trong mười
phương thế giới giống như Thích Ca Mâu Ni
Phật, “Như Lai thánh
hiệu nhược tuyên dương”, bèn tiếp
dẫn! Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta giảng ba kinh
Tịnh Độ, v́ chúng ta giới thiệu Tây
Phương Cực Lạc thế giới, khuyên dạy chúng
ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Đấy chính là “Như Lai
thánh hiệu nhược tuyên dương”, tiếp
dẫn! “Tiếp dẫn văng Tây
Phương”.
Di Dà thánh hiệu nhược
tuyên dương.
彌陀聖號若稱揚。
(Di Đà thánh hiệu như
xưng tụng).
Tức là niệm A Di Đà Phật, là
chánh tu, chuyên tu Tịnh Độ! Quả báo là:
Đồng nguyện văng Tây
Phương.
同願往西方。
(Đồng
nguyện cùng về cơi Lạc Bang).
Tất cả hết thảy
người niệm Phật “đồng
nguyện văng Tây Phương” (cùng một nguyện sanh
về Tây Phương). Ở chỗ này, chúng ta phải
đặc biệt lưu ư: Chúng ta ở đây niệm
Phật, nhất tâm nhất ư cầu sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới; người ở nơi
khác cũng ở nơi đó niệm Phật cầu sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người
ấy và ta là oan gia đối đầu, ta nghe nói tới người
ấy bèn chán ghét, trông thấy người ấy cũng
chẳng thoải mái, làm cách nào đây? Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới gặp mặt
nhau như thế nào đây? Chẳng lẽ đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới vẫn c̣n căng
thẳng hay sao? Vẫn c̣n cự lộn hay sao? Nếu
như vậy th́ sẽ chẳng thể văng sanh
được. Bao nhiêu người niệm Phật v́
nguyên nhân này mà bỏ lỡ cơ hội văng sanh trong
một đời này! Do vậy, ở đây tôi phải
đặc biệt nêu lên, quư vị chẳng thể không
lưu ư! Người ta đối với ḿnh như
thế nào cũng không quan trọng, vấn đề là ta đối
với người khác [như thế nào]. Do vậy,
phải dốc sức sao cho tất cả hết thảy
oán kết trong tâm ḿnh được hóa giải, một câu
A Di Đà Phật hóa giải được tất cả!
Không có oan gia đối đầu th́ mới có thể văng
sanh Tây Phương.
Ai có đối lập, ai vẫn c̣n cảm
thấy không thoải mái, thấy người khác không vừa
mắt, th́ phải tự hiểu kẻ ấy không thể
văng sanh. Nhất định phải học sao cho thấy
ai cũng hoan hỷ, bất cứ ai hủy báng ḿnh, ḿnh
đều hoan hỷ, ḿnh quyết định chẳng
hủy báng họ. Ai lăng nhục ḿnh, người ta hăm
hại ḿnh, ḿnh cũng hoan hỷ, họ tiêu nghiệp
chướng cho ḿnh, quyết định chẳng oán
hận mảy may, quyết định chẳng có ư
niệm báo thù th́ ta mới có thể thừa nguyện văng
sanh Tây Phương! Nếu ta vẫn c̣n chán ghét kẻ
ấy th́ một niệm chẳng tương ứng
với bổn nguyện của A Di Đà Phật! Tâm,
nguyện, ngôn, hạnh khác với A Di Đà Phật, không
tương ứng, không văng sanh được! “Một niệm tương
ứng một niệm Phật; niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”. Nguyện
vương của A Di Đà Phật là “từ, bi, hỷ,
xả”, chúng ta có [những điều đó] hay không? Mấu
chốt để văng sanh được hay không là ở
chỗ này. Bài Di Đà đại tán này mang ư nghĩa:
Phải hóa giải tất cả hết thảy những
oán kết trong tâm quư vị, văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, đường lớn Bồ
Đề thông suốt không ngăn ngại! Lại xem
tiếp bài kệ Hồi Hướng:
39. Hồi
Hướng
Hệ Niệm công đức thù
thắng hạnh.
繫念功德殊勝行。
(Công
đức Hệ Niệm hạnh thù thắng).
Chữ “Hệ Niệm” chỉ pháp sự Tam Thời
Hệ Niệm được thực hiện trong ngày hôm
nay, tứ chúng đồng tu cùng nhau tu tập, công
đức thù thắng khôn sánh.
Vô biên thắng phước giai
hồi hướng.
無邊勝福皆回向。
(Bao
nhiêu phước thù thắng đều hồi
hướng)
Tất cả công đức,
phước đức chúng ta đă tu hôm nay đều
đem hồi hướng, hồi hướng cho ai?
Hồi hướng cho hết thảy chúng sanh khổ
nạn khắp pháp giới, hư không giới, đặc
biệt là những chúng sanh khổ nạn trong tam
đồ lục đạo.
Phổ nguyện trầm nịch
chư chúng sanh.
普願沈溺諸眾生。
(Nguyện
trọn khắp các chúng sanh đang ch́m đắm).
Nói đến “trầm nịch” (chết ch́m, chết
đuối) quá nửa là chỉ tam đồ, cảnh
ngộ của họ hết sức khổ sở, hy
vọng bọn họ nhờ vào công đức,
phước đức này, đều có thể tỉnh
ngộ, sẽ theo chúng ta cùng lễ bái, nhất tâm phát
nguyện, cùng sám hối, cùng cầu sanh Tịnh Độ.
Tốc văng Vô Lượng Quang
Phật sát.
速往無量光佛剎。
(Mau
sanh cơi Phật A Di Đà).
Hăy nhanh chóng, đừng do
dự, chớ có chần chừ, chúng ta nhất tâm nhất
ư hướng về thế giới Cực Lạc. Trọn
cả đời, c̣n sống được bao nhiêu
năm, ta chỉ có một mục tiêu, một phương
hướng, tức là [văng sanh] Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật.
Tiếp đó, Phật v́ chúng ta ấn chứng, cầu
Phật gia tŕ.
Thập phương tam thế
nhất thiết Phật, nhất thiết Bồ Tát Ma Ha
Tát, Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật.
十方三世一切佛。一切菩薩摩訶薩。摩訶般若波羅蜜。
(Mười
phương ba đời hết thảy Phật, hết
thảy Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật)
“Thập
phương tam thế nhất thiết Phật” là
Phật Bảo, “nhất thiết
Bồ Tát Ma Ha Tát” là Tăng Bảo, “Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật” là Pháp Bảo. Tam Bảo!
Đây là cầu nguyện Tam Bảo chứng minh cho chúng ta:
Chúng con phát nguyện, chúng con hồi hướng chân thành,
không mảy may hư ngụy, Tam Bảo chứng giám cho con.
Cuối cùng là Tam Quy Y, Tam Thời Hệ Niệm pháp sự
đến đây hoàn toàn viên măn.
40. Tam Quy Y
Tam Quy Y, chư vị hăy coi kinh
văn Tam Quy Y, chúng ta quy y mỗi ngày, đây là quy y Tự
Tánh.
Tự quy y Phật.
自歸依佛。
Quy y Tự Tánh Phật.
Đương nguyện chúng
sanh.
當願眾生。
(xin
nguyện chúng sanh).
Bản văn Hệ Niệm
Pháp Sự này của thiền sư Trung Phong nhằm “thiệu long Phật chủng”
(nối tiếp hưng thịnh ḍng giống Phật), c̣n
nay chúng ta dùng Tam Quy Y là để:
Thể giải đại
đạo.
體解大道。
(Thấu
hiểu đạo cả).
Trong thời đại hiện
thời, “thiệu long Phật
chủng” quan trọng, từ ngữ này có ư nghĩa là
tiếp nối huệ mạng của Phật. Phật pháp
quả thật đúng là đang ở vào t́nh cảnh
mất c̣n rất nguy cấp. Nếu sau này không có ai kế
tục, Phật pháp sẽ bị gián đoạn. Ai có
thể “thể giải
đại đạo”? Thiệu long Phật chủng,
đúng là khích lệ những bậc chí sĩ nhân nhân
(người có chí, có ḷng nhân) ân cần thiết tha mong mỏi
họ sẽ phát đại tâm, kế tục huệ
mạng của Phật, hy sinh bản thân ḿnh, như kinh
Lăng Nghiêm đă nói: “Tương
thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo
Phật ân” (Đem tấm ḷng sâu xa này phục vụ
trong các cơi nước nhiều như vi trần,
đấy mới là báo ân Phật). Thực sự muốn
báo ân Phật, muốn thiệu long Phật chủng,
muốn tiếp nối huệ mạng của Phật,
nhất định phải tuân theo di giáo của Ấn
Quang đại sư: “Đôn
luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành; tín nguyện
niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ”, th́ quư
vị mới có thể thực hiện được.
Đấy chính là:
Phát vô thượng tâm.
發無上心。
Do đây, chúng ta biết
được ư nghĩa sâu xa nơi nguyên văn của thiền
sư Trung Phong. Từ câu này, chúng ta mới cảm nhận
được dụng tâm của tổ sư đại
đức: Hy vọng hậu nhân có thể phát tâm tiếp
nối huệ mạng của Phật, thiệu long
Phật chủng. Hôm nay chúng ta làm pháp sự này, chiếu
theo nguyên văn là tốt, không cần phải thay
đổi. Tôi xem mấy câu này bèn xúc động. “Thể giải đại
đạo” không sai, mấy ai làm được? Thể
giải đại đạo là đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Đây là kỳ
vọng chứ không nhất định phải làm cho
được. “Thiệu long
Phật chủng”, quư vị thực sự phát tâm nghiêm
túc thực hiện th́ hết thảy chư Phật hộ
niệm, hết thảy Bồ Tát gia tŕ. Chỉ cần quư
vị thực sự chịu phát tâm th́ quư vị có thể
chấn hưng Phật pháp.
Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni
Phật ngự tại Lộc Dă Uyển, bắt
đầu từ năm tỳ-kheo. Trong bao nhiêu năm
giảng kinh, thuyết pháp, chúng tôi thường nói: “Thực
sự có năm người phát tâm thiệu long Phật
chủng th́ sẽ có thể hưng khởi Phật giáo!”
Nhưng điều kiện thấp nhất như chúng tôi
thường nói là quư vị phải buông bỏ tự
tư tự lợi, phải buông danh văn, lợi
dưỡng xuống, quyết định chẳng cầu
danh văn, lợi dưỡng, phải buông hưởng
thụ ngũ dục lục trần xuống, phải buông
tham - sân - si - mạn xuống th́ quư vị mới có tư
cách đảm đương sứ mạng thiệu long
Phật chủng, mới được Tam Bảo gia tŕ,
thiên long bát bộ thiện thần ủng hộ.
Điều thứ hai:
Tự quy y pháp, đương
nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ
như hải.
自歸依法。當願眾生。深入經藏。智慧如海。
(Tự quy y pháp, xin nguyện
chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như
biển).
Đây là quy y Tự Tánh Pháp Bảo. Tự
Tánh Pháp Bảo ở nơi đâu? Kinh Tạng là Tự Tánh
Pháp Bảo do chư Phật Như Lai chứng đắc!
Do v́ tự tánh của chư Phật Như Lai và tự tánh
của chúng ta và tự tánh của hết thảy chúng sanh
đều là một tự tánh, há chẳng nghe kinh Phật
thường nói: “Thập phương
tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân” (mười
phương ba đời Phật cùng chung một Pháp Thân). Mười
phương ba đời Phật, trong ba đời có
vị lai Phật, tất cả hết thảy chúng sanh
đều là vị lai Phật, tam thế là quá khứ,
hiện tại, vị lai. Mọi người chúng ta
đều là vị lai Phật, cùng chung một Pháp Thân. “Nhất tâm” là một tự
tánh, “nhất trí huệ” là
Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa, tức trí huệ Bát Nhă
sẵn có nơi tự tánh. “Lực
vô úy cũng thế”: Thập Lực, Tứ Vô Úy thảy
đều giống hệt như nhau.
Do vậy, kinh tạng triển
khai thành ǵ? Chính là Pháp Bảo sẵn có trong tự tánh
của chúng ta, là Giới Định, trí huệ sẵn có
nơi tự tánh nằm trong kinh tạng. Không phải
học theo người khác, không bị người khác
xỏ mũi lôi theo, mà là quay về với tự tánh,
nhất định phải hiểu đạo lư này. Ngày
nào chúng ta minh tâm kiến tánh, mở quyển kinh ra, quư
vị sẽ hiểu toàn bộ. V́ sao hiểu
được? V́ nó là tự tánh của quư vị. Mở
quyển kinh ra chính là lôi trí huệ Bát Nhă, Tam Học
Giới - Định - Huệ trong tự tánh ra. Chưa
kiến tánh th́ hăy khéo nh́n vào người đă kiến tánh,
hăy khéo học tập theo họ. Học tập mang tánh
chất giai đoạn, chứ không vĩnh cửu, hy
vọng chúng ta sau khi học xong giai đoạn này sẽ có
thể lấy Tam Học và Tam Bảo trong tự tánh
của chính ḿnh ra. Câu này có ư nghĩa như vậy, tức
là bảo chúng ta phải đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh, nhập cảnh giới
Phật. Câu cuối cùng:
Tự quy y Tăng,
đương nguyện chúng sanh, thống lư đại
chúng, nhất thiết vô ngại.
自歸依僧。當願眾生。統理大眾。一切無礙。
(Tự quy y Tăng, xin
nguyện chúng sanh, dắt d́u đại chúng, hết
thảy không ngại).
Đây
là quy y Tự Tánh Tăng Bảo. Tự
Tánh Tăng Bảo là ǵ? Lục Ḥa Kính. Thanh tịnh Pháp Thân,
sáu căn thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần là
Tự Tánh Tăng Bảo. Dùng Lục Ḥa Kính để đối
xử hết thảy đại chúng là Tự Tánh Tăng
Bảo. Trong thực tại, điều này cho thấy con
người là một động vật mang tính cách xă
hội, chẳng thể tồn tại độc lập
ngoài quần thể, không thể được! Nhất
định phải cư xử với rất nhiều
người, ḥa ḿnh vào cuộc sống của cộng đồng.
Cư xử với rất nhiều người, làm
thế nào để ḥa thuận? Cổ thánh tiên hiền
Trung Quốc dạy chúng ta: Ḥa b́nh! Đối xử ḥa
thuận với nhau là Quả, làm thế nào để
đối xử ḥa thuận? Đối đăi b́nh
đẳng. Nếu chẳng b́nh đẳng th́ lư
tưởng ḥa thuận quyết định chẳng
thể thực hiện được!
Trong thế gian này từ khi có
lịch sử đến nay, chưa bao giờ động
loạn, ô nhiễm như lúc này, v́ nguyên nhân nào? Bất b́nh
đẳng! Gia đ́nh bất ḥa, người trong một
nhà không b́nh đẳng, vợ chồng bất ḥa, vợ
chồng không b́nh đẳng. Công ty, hăng, tiệm bất
ḥa, chủ và nhân viên bất b́nh đẳng. Do vậy,
nước này bất ḥa với nước kia, tôn giáo này bất
ḥa với tôn giáo kia, dân tộc này bất ḥa với dân
tộc kia, nguyên nhân do đâu? Không biết đối
đăi b́nh đẳng, không biết Lục Ḥa Kính. Lục
Ḥa Kính là b́nh đẳng. B́nh đẳng đối đăi
được thực hiện bằng Lục Ḥa Kính,
người người đều tu Lục Ḥa Kính th́
thế gian và xă hội này chắc chắn an định,
ḥa thuận, đôi bên tôn trọng lẫn nhau, kính yêu nhau,
hợp tác với nhau, đấy chính là “cùng hưởng cơi
đại đồng”.
Trong những năm qua, chúng tôi
tổng kết những giáo huấn của kinh giáo
Đại Thừa nêu ra mười câu gồm hai
mươi chữ. “Chân thành,
thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”.
Mười chữ này nói lên cách chúng ta dụng tâm. Tâm
Phật là như vậy đó, tâm Phật là chân thành, tâm
Phật là thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi.
Chúng ta dùng những điều này để sửa
đổi tâm hạnh của chính ḿnh, tâm ḿnh giống
hệt với tâm Phật! Dùng tâm như
vậy để tu bốn mươi tám nguyện, tâm chúng
ta đồng Phật, nguyện chúng ta đồng
Phật. Trong hết thảy kinh, đức Phật
dạy chúng ta “nh́n thấu,
buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật”.
Năm hạng mục gồm mười chữ này chính là
Bồ Tát hạnh! Thấy thấu suốt là thông
đạt hiểu rơ chân tướng sự thật. Buông
xuống là buông hết thảy vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Sống trong thế gian này
tùy duyên th́ tự tại lắm, quyết định không
phan duyên, tự tại, tùy duyên. Cuối cùng, niệm
Phật rất quan trọng, chúng ta hiểu do niệm
Phật trong một đời có thể đạt
được “trực chứng
A Duy Việt Trí, khoái tốc viên măn vô thượng Bồ
Đề” (chứng thẳng vào A Duy
Việt Trí, mau chóng viên măn vô thượng Bồ Đề).
Dùng những điều này để “thống lư đại chúng, nhất thiết vô
ngại” (dắt d́u đại chúng, hết thảy vô
ngại). “Thống lư” là
hợp tác, đối xử ḥa thuận với đại
chúng, hợp tác lẫn nhau, bất cứ chướng
ngại nào cũng không có, hiểu lầm ǵ cũng không có.
Cuối cùng:
Ḥa nam thánh chúng.
和南聖眾。
(Kính
lễ thánh chúng).
“Ḥa
nam” (vadanam) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán
là “kính lễ”, hướng về hết thảy thánh chúng
kính lễ. Thời xưa, mọi người đều
biết ư nghĩa này, nhưng hiện tại dần
dần xem thường. Nếu quư vị viết “ḥa nam” chi
chi đó, mọi người xem đến cảm thấy
rất kỳ quái. Đại khái họ tưởng quư
vị viết lộn, nhất định phải là Ḥa
Thượng, quư vị viết sai Ḥa Thượng thành Ḥa
Nam, kỳ thực Ḥa Nam và Ḥa
Thượng có ư nghĩa khác nhau. Ḥa
Trung Phong Tam Thời Hệ
Niệm Pháp Sự Toàn Tập Giảng Kư
Trọn Bộ
(khởi
dịch ngày
Tăng đính ngày mồng Ba tháng Hai năm 2011.
Tái giảo duyệt ngày mồng Chín tháng Ba năm 2011)
[1] Quải đơn: Đơn là một
miếng gỗ dài và hẹp vừa đủ một
người nằm, dùng thay cho giường trong các
thiền viện hay tùng lâm. Do đó, giường của
Tăng được gọi là Đơn. Khi một
vị Tăng xin nhập chúng ở lại một tự
viện tu tập th́ gọi là Quải Đơn (treo
đơn, tức kê giường), khi xin ra khỏi chúng
đi qua chùa khác th́ gọi là Trừu Đơn (rút
đơn).
[2] Tử tôn miếu: Chùa do thầy lập ra, truyền lại như gia tài cho đồ tử, đồ tôn, người ngoài không thể nhập chúng được.
[3] Nhân t́nh Phật sự: Ư nói trong nhà chùa
vẫn xử sự theo cảm t́nh riêng tư của
thế gian, thân thích, quen thuộc th́ đối xử
nồng hậu, đối với người không quen
biết bèn lợt lạt, hờ hững.
[4] Điều (條): Khi xưa Phật và chư Tăng mặc ca sa bằng vải vứt bỏ đi. Để may y th́ đem những mảnh vải ấy rọc thành từng miếng, nhuộm cho tiệp màu, rồi khâu chằm thánh tấm lớn, mỗi miếng cắt dọc ấy được gọi là Điều. Sau này, chư Tăng ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn, Mông Cổ, Măn Châu, Tây Tạng, dùng vải rọc thành từng miếng dài, khâu chằm lại thành ca-sa. Do vậy gọi là Cát Tiệt Y hoặc Phước Điền Y. Điều được tính theo chiều dọc của tấm ca-sa. Chẳng hạn y năm điều (ngũ điều y) là do đếm theo chiều dọc có năm miếng dài may ghép lại.
[5] Ngọa cụ c̣n gọi là Phu Cụ
(sayanasana, vật dụng để trải hay lót) là
những thứ thường trải để nằm.
Theo luật Tứ Phần, Tăng ni không được
dùng ngọa cụ làm bằng tơ tằm, lông dê hoặc
những vật quư báu. Thoạt đầu, ngọa cụ
chỉ làm tấm tọa cụ (tấm Ni Sư Đàn) may
bằng y cũ rách kết lại, nhưng về sau
ngọa cụ có thể bao gồm cả chiếu, mền,
nệm. Theo luật, ngọa cụ tối thiểu
phải sử dụng hơn sáu năm rồi mới
được thay bằng cái mới.
[6]
Hải Thanh: Một loại áo tràng tay rộng, sáu vạt,
hai chúng tại gia và xuất gia Trung Quốc thường
mặc khi lễ Phật; áo hậu của chư Tăng
Việt
[7] B́nh Kịch là cách người Đài
Loan gọi Kinh Kịch (tuồng Bắc Kinh). B́nh Kịch
c̣n gọi là Quốc Kịch, là một loại hát tuồng
nghệ thuật truyền thống của Trung Hoa, dung
hợp và phát triển từ nhiều truyền thống sân
khấu đă có trước đó như Huy Kịch và Hán
Kịch, thậm chí vay mượn các xoang điệu
nổi tiếng của lối hát Côn Khúc và Tần Xoang. Kinh
Kịch h́nh thành dưới thời Càn Long nhà Thanh. Có
thể nói dễ dăi là Kinh Kịch hoặc các loại
gọi là Kịch trong sân khấu Trung Hoa giống như hát
bội của Việt
[8] Côn Khúc cũng là một loại hát
tuồng đă có trước Kinh Kịch, nó xuất
hiện từ thế kỷ 13 hay 14 (tức là vào cuối
đời Nguyên) tại Côn Sơn (thuộc Tô Châu) nên
gọi là Côn Khúc. Côn Khúc được h́nh thành dựa theo
h́nh thức hát tuồng cổ nhất Trung Hoa là Nam Hư
(đă có từ thời Tống) và biến cải cho phù
hợp với giọng phát âm Quan Thoại của vùng Tô Châu
cũng như các thể điệu dân ca, hát xướng
đă có tại vùng này, cũng như được sáng tác
thêm các làn điệu mới. Hiện thời trong Kinh Kịch
cũng sử dụng Côn Khúc. Điểm đặc
biệt của Côn Khúc là dùng địch, tiêu, sáo, kèn Tỏa
Na (người Việt thường gọi là kèn bầu),
đàn tỳ bà và đàn tam huyền làm nhạc khí chủ
yếu, không dùng quá nhiều thanh la và trống cái, tam la,
trống đơn như trong Kinh Kịch. Làn điệu
Côn Khúc du dương, âm vực của các vai nữ khi hát và
nói không quá cao đến nỗi nghe như mèo kêu trong Kinh
Kịch.
[9] Chữ Tam Sự ở đây chỉ cho
ba loại y vừa nói trên đây, y năm điều
(đắp khi làm lụng, chẳng hạn Tri Khách Sư
đắp y này để tiếp đón khách đến
viếng thăm chùa), y bảy điều (đắp khi
tụng kinh trong công khóa hằng ngày), y hai mươi lăm
điều (đắp khi làm pháp hội, giảng kinh, thuyết
pháp, hoặc đại cúng dường).
[10] Năm 426 nhằm các niên hiệu Thỉ
Quang thứ 3 (nhà Bắc Ngụy), Huyền Thỉ 15 nhà
Bắc Lương, niên hiệu Thái B́nh 18 nhà Bắc Yên,
Thừa Quang thứ 2 nhà Hạ, Kiến Hoằng thứ 7
nhà Tây Tần, Nguyên Gia thứ 3 nhà Lưu Tống.
[11] Vùng lănh thổ Hong Kong gồm có ba khu
vực chính: Cửu Long (nằm trên đất liền, ráp
gianh vùng Tân Giới), Tân Giới (bao gồm một phần
đất liền ráp gianh Cửu Long và Đại Dự)
và đảo Hương Cảng. Đại Dự Sơn
(Lantau Island, tức là đảo Lạn Đầu, khu này
có tên hành chánh là Ly Đảo Khu) đối diện với
đảo Hương Cảng. Bán đảo Cửu Long
nằm trên đất liền, c̣n Đại Dự và
Hương Cảng Đảo cùng nằm trong vịnh
Victoria. Từ Cửu Long sang Hương Cảng hay từ
Hương Cảng sang Đại Dự đều
phải vượt biển.
[12] Núi Tỷ Duệ (Hiei) gọi là Duệ
Sơn, Bắc Sầm hoặc Thiên Đài Sơn (Tendai-yama),
là một rặng núi ở Đông Bắc thành phố Kinh
Đô (Kyoto), thuộc khu vực Sakamoto (Bản Bổn)
của thành phố Đại Tân (Otsu), gồm hai dăy núi
Đại Tỷ Duệ và Tứ Minh Nhạc hợp thành.
Đây là một ngọn núi thiêng của Nhật Bàn, là tổng
bản sơn (tổ đ́nh) của Thiên Đài Tông (Tendai
shu, tức Thiên Thai Tông Nhật Bản). Ngôi chùa đầu
tiên của tông Thiên Đài là Enryaku-ji (Diên Lịch Tự) do
tổ sư Tối Trừng Truyền Giáo Đại Sư
(Saichō Dengyō Daishi). Phần lớn các
tổ sư các tông của Nhật Bản đều
xuất thân từ tông Thiên Thai như Nhật Liên (Nichiren,
sáng tổ Nhật Liên Tông), Pháp Nhiên (Honen, sáng tổ Tịnh
Độ Tông), Thân Loan (Shinran, sáng tổ Tịnh Độ
Chân Tông), Minh Am Vinh Tây (Myōan Eisai,
sáng tổ tông Lâm Tế Nhật Bản), Đạo Nguyên Hy
Huyền (Dōgen Kigen, sáng tổ tông Tào Động Nhật
Bản), Nhất Biến (Ippen, sáng tổ Tịnh
Độ Thời Tông), v.v...
[13] Ngũ Chủng Di Quy là tác phẩm do
Trần Hoằng Mưu biên soạn vào đời Thanh, là
sách để dạy trẻ nhỏ và giáo dục xă
hội. Nội dung bao gồm những giáo huấn hay
đẹp của tiền nhân về dưỡng tánh, tu
thân, trị gia, cách làm quan, xử thế, giáo dục v.v...
phân chia thành năm loại chính nên mới có tên là Ngũ
Chủng Di Quy. Năm loại chính là Dưỡng Chánh Di Quy,
Giáo Nữ Di Quy, Huấn Tục Di Quy, Tùng Chánh Di Quy và
Tại Quan Pháp Giới Lục. Trần Hoằng Mưu
(1696-1771), tự là Nhữ Tư, người huyện
Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, đỗ tiến sĩ
dưới thời Ung Chánh nhà Thanh, từng làm đến
chức Đông Các Đại Học Sĩ kiêm Công Bộ
Thượng Thư, rất được vua Càn Long coi
trọng và tín nhiệm. Ông làm quan cần mẫn, chú
trọng mở mang giáo dục cho các sắc dân thiểu
số, chăm nom công tác thủy lợi tại Thiên Tân, Hà
Nam, Giang Tây, tu bổ đê điều v.v...
[14] Đương đầu bổng hát: Bổng (棒) là cái gậy, Hát (喝) là tiếng hét. Tông Lâm Tế thường dùng gậy hay tiếng hét để khai ngộ cho hành giả. Ở đây, Ḥa Thượng mượn thuật ngữ này của Thiền Tông để nhấn mạnh ư cảnh tỉnh khai ngộ rất mạnh của bốn câu này.
[15] Si Tảo Đường (摛藻堂) nằm ở Đông Bắc của
Ngự Hoa Viên trong Cố Cung Bắc Kinh, được xây
dựng vào thời Càn Long, chủ yếu để tàng
trữ sách. Chữ Si ở đây có nghĩa là truyền bá,
hoằng dương, bày vẽ, triển khai, lấy ư
từ câu “si tảo như xuân
hoa” (vẽ vời văn chương như hoa mùa Xuân),
do vậy, “si tảo” có nghĩa là hoằng dương
văn hóa. Vườn Viên Minh cũng là hoa viên của nhà
Thanh, có quy mô rất to lớn. Đến thời Từ Hy
Thái Hậu lại mở rộng thêm, xây cất hết
sức tráng lệ.
[16] Bát quốc liên quân là lực lượng
quân đội liên kết tám đại đế quốc
thời đó là Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật, Nga, Ư
và Áo lên đến 3 vạn người (sử ngoại quốc
ghi là 45.000 người). Nguyên do là do vua Quang Tự nghe theo
kế hoạch duy tân của Khang Hữu Vi toan lật
đổ Từ Hy thái hậu. Âm mưu thất bại, các
nước ngoại quốc giúp đỡ thầy tṛ
Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi trốn sang
Nhật. Từ Hy bèn giam lỏng vua Quang Tự tại Doanh
Đài, toan phế vua, nhưng do các nước phản
đối nên chưa dám hành động. Lại thêm
thất bại trong cuộc chiến tranh Trung Nhật
năm Giáp Ngọ (1894), đây là cuộc chiến tranh giành
ảnh hưởng giữa nhà Thanh và triều đ́nh
Nhật trên bán đảo Triều Tiên. Nghe lời xúi
giục của Viên Thế Khải, Từ Hy quyết
định tận dụng sức mạnh của giáo phái
Nghĩa Ḥa Đoàn (Quyền Phỉ) để chống
lại ngoại quốc. Nghĩa Ḥa Đoàn là một giáo
phái mê tín xuất phát từ Sơn Đông, chủ
trương đánh quyền, vẽ bùa niệm chú,
luyện kim đan, khoe thân kim cang bất hoại,
đạn bắn không lủng, thề tiêu diệt giáo dân
Thiên Chúa Giáo và người ngoại quốc. Nghĩa Ḥa
Đoàn tiến vào Bắc Kinh tháng Sáu
năm 1900, tấn công khu vực ngoại quốc, khiến
họ phải ẩn nấp trong khu Đông Giao Dân Hạng
(Legation Quarter) là khu vực của ṭa lănh sự các nước
Âu Tây. Liên quân Thanh và Nghĩa Ḥa Đoàn vây hăm khu này suốt
55 ngày, nên ṭa lănh sự các nước đánh điện
cầu cứu chính phủ của họ. Bát quốc liên
quân đánh tan quân Thanh và Nghĩa Ḥa Đoàn, chiếm lănh
toàn bộ Bắc Kinh vào ngày 14 tháng Tám năm Canh Tư (1900)
khiến Từ Hy và Quang Tự phải chạy trốn
về Tây An (Thiểm Tây), phái Lư Hồng Chương
điều đ́nh. Cuối cùng, nhà Thanh buộc phải kư
ḥa ước bất b́nh đẳng Tân Sửu (tháng 7,
năm 1901). Nhà Thanh phải bồ thường chiến
phí, mất rất nhiều chủ quyền, phải
cắt đất cho các nước Âu Tây và Nhật lập
tô giới. Bát Quốc Liên Quân (nhất là quân Đức, Nga
và Pháp) đă cướp bóc Tử Cấm Thành, giết
người, hoặc hăm hiếp rồi dùng lưỡi lê
đâm chết nạn nhân, đốt phá rất nhiều
nhà thường dân, hủy hoại rất nhiều
phẩm vật văn hóa quư báu như tranh vẽ, bút
thiếp, sách vở, đồ cổ ngoạn.
[17] Đồng Thành phái: Chỉ trường phái của văn gia Phương Bao (11668-1749), tự Phong Cửu, hiệu Vọng Khê, là một nhà tản văn nổi tiếng đời Thanh, người huyện Đồng Thành, tỉnh An Huy. Tác phẩm của ông được in thành Phương Vọng Khê Toàn Tập.
[18] Phổ Hiền (đây là danh xưng
của những vị Bồ Tát tu theo hạnh Phổ
Hiền) có ba địa vị: Vị tiền (chưa
chứng Đẳng Giác), đương vị (đă
chứng Đẳng Giác) và vị hậu (tức đă
chứng Diệu Giác). Vị Phổ Hiền Bồ Tát
dạy thánh chúng trong hội Hoa Nghiêm chính là cổ Phật
tái lai, thị hiện thân Đẳng Giác Bồ Tát
để phụ trợ Tỳ Lô Giá Na giáo hóa bốn
mươi mốt phẩm Pháp Thân Bồ Tát.
[19] Đây là một thí dụ trong kinh Pháp
Hoa. Trong phẩm 7, tức phẩm Hóa Thành Dụ,
đức Phật có nêu một thí dụ: Ví như một
vị đạo sư (người dẫn
đường) biết nơi kia có một chỗ có
nhiều món báu (bảo sở) hướng dẫn mọi người
đi đến chỗ đó. Đại chúng đi
đường xa mỏi mệt, ngă ḷng, muốn quay
về. Vị đạo sư có phương tiện
thiện xảo, bèn dùng thần thông hóa ra một cái thành
lớn, đông đảo, sản vật phong phú, cho
đại chúng vào đó ăn uống, nghỉ ngơi. Khi
họ đă hết mệt, vị đạo sư bèn
bảo họ: Đây chỉ là hóa thành, bảo sở đă
rất gần, hăy dũng mănh tiến lên. Cũng như
vậy, đức Phật phương tiện nói ra ba
thừa giống như hóa thành để đại chúng có
thể tu tập dần dần. Khi họ đă chứng
được ba thừa, Ngài bèn tuyên nói Nhất Phật
Thừa, để họ có thể dũng mănh tiến
hướng Phật quả. Đó gọi là “khai Quyền hiển Thật,
hội tam quy nhất”.
[20] Thế Chủ Diệu Nghiêm là phẩm
thứ nhất trong kinh Hoa Nghiêm bản 80 cuốn. Gọi
là Thế Chủ Diệu Nghiêm v́ ngoài những vị
đại Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, c̣n giới
thiệu rất nhiều vị thượng thủ
thuộc chư thiên, bát bộ quỷ thần, cũng
như các vị thần chủ quản mọi sự trong
thế giới như Hải Thần, Chủ Dạ
Thần v.v..
[21] Đồng nhân là những người
có cùng hạnh nguyện, cùng chí hướng với ta.
[22] Pháp Uyển Châu Lâm (c̣n gọi là Pháp Uyển
Châu Lâm Tập) có thể coi như một bộ bách khoa toàn
thư trong nhà Phật, gồm 100 quyển, do ngài
Đạo Thế (?-683) biên soạn vào đời
Đường, trích dẫn những hơn 400 bản kinh
luận, kể cả kinh sách Nho Giáo, Đạo Giáo và
Sấm Vĩ. Trong ấy có cả những trích dẫn từ
những bản kinh hiện nay đă thất truyền
như Bồ Tát Bổn Hạnh Kinh, Quán Phật Tam Muội
Kinh hoặc các sách cổ như Tây Vực Chí, Trung Thiên Trúc
Hành Kư v.v... Nội dung tŕnh bày tư tưởng, thuật
ngữ, pháp số, luật, luận, truyện...
Kinh Luật Dị Tướng gồm 50 quyển, do
ngài Bảo Xướng đời Lương làm chủ
biên, nội dung thâu thập những chuyện lạ lùng
được nói trong kinh luận Phật giáo. Ḥa
Thượng Tịnh Không nói “lấy Sự làm cương
mục”, nghĩa là phân chia nội dung thành những loại
chính, mỗi loại ấy gọi là cương mục, chẳng
hạn như Thiên Bộ, Địa Bộ, Phật
Bộ, Bồ Tát Bộ... Trong mỗi bộ lại chia
thành nhiều tiểu loại, chẳng hạn như
Phật Bộ gồm có Phật Đà xuất gia, thành
đạo, Niết Bàn, phân chia xá-lợi v.v...